
Một số biện pháp giúp trẻ 4 5 tuổi tiếp cận gần hơn với nhạc dân ca ở trường mầm non
Một số biện pháp giúp trẻ 4 5 tuổi tiếp cận gần hơn với nhạc dân ca ở trường mầm non
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong kho tàng âm nhạc dân gian của nước ta, dân ca được xem là di
sản văn hóa của dân tộc. Là quốc gia của một cộng đồng với 54 dân tộc anh
em chung sống, mỗi dân tộc đều có đặc điểm địa lý, khí hậu, điều kiện, hoàn
cảnh sống khác nhau. Điều đó đã sản sinh ra những bài dân ca mang hương
sắc riêng, tô điểm thêm cho kho tàng dân ca Việt Nam. Cái hay, cái đẹp, cái
tinh túy của dân ca đã được nhân dân ta chắt lọc, mài dũa, lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Dân ca đã gắn bó với cuộc sống con người, đi vào đời
sống tinh thần, tham gia vào các sinh hoạt văn hóa, lao động hàng ngày của
mỗi người dân lao động.
Ngay từ thuở ấu thơ, mỗi trẻ em trong cộng đồng dân tộc Việt đã được
tắm mình trong những âm điệu ngọt ngào, thiết tha của những câu hát ru,
những làn điệu dân ca tiêu biểu, đặc sắc của vùng miền, xứ sở và đã trở thành
suy nghĩ và sự rung động trong mỗi tâm hồn người dân. Cho đến ngày nay,
những di sản nghệ thuật quý báu ấy vẫn là những nguồn sữa dinh dưỡng để bồi
bổ, nuôi dưỡng tâm hồn cốt cách cho mỗi con người, nhất là trong bối cảnh của
thời kì hội nhập và toàn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến các giá trị
văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới
trong xã hộim và cũng ảnh hưởng không ít tới sự hình thành và phát triển
những nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ. Khi trẻ được nghe, được học hát các
bài dân ca, trẻ sẽ hiểu được cái hay, cái đẹp trong dân ca, từ đó, dần hình thành
trong trẻ những tình cảm yêu thích và quý trọng dân ca. Đó cũng là con đường
tự nhiên và ngắn nhất nhằm bồi dưỡng thị hiếu và tình cảm thẩm mĩ đúng đắn
cho trẻ.
Âm nhạc tác động tới con người từ khi mới sinh ra trong tiếng hát ầu ơ
của mẹ cho đến khi giã từ cuộc đời. Tuy không trực tiếp nuôi dưỡng con người
như cơm ăn, nước uống, khí trời, cũng không làm ra của cải vật chất nhưng âm
nhạc có sức mạnh làm cho con người nhận thức cuộc sống và thêm yêu cuộc
2
sống. Âm nhạc có tác động giáo dục toàn diện nhân cách trẻ mẫu giáo. Nó là
một phương tiện giáo dục thẫm mĩ, đạo đức, trí tuệ, thể chất và tinh thần trong
trẻ một cách tự nhiên và hữu hiệu nhất.
Do đó, việc cho trẻ được tiếp xúc, nghe và giáo dục âm nhạc từ rất
sớm, ngay từ trong bụng mẹ và tiếp tục ở bậc học mầm non nói chung và trẻ
mầm non 4 – 5 tuổi nói riêng sẽ có những tác động mạnh mẽ, góp phần quan
trọng trong việc giáo dưỡng, bồi bổ đời sống tâm hồn, đồng thời cũng là tiền
đề cho việc hình thành và phát triển toàn diện các mặt nhân cách cho trẻ.
Ở bậc học mầm non, trong chương trình Giáo dục Mầm non sửa đổi theo
Thông tư số 51/2020/TT-BGDĐT ngày 31/12/2020 do Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành, nội dung giáo dục âm nhạc đã được triển khai ở trong toàn bộ các
chủ đề, chủ điểm giáo dục. Ngoài các bài hát phù hợp với độ tuổi và nội dung
giáo dục của chủ đề, trong chương trình còn có những bài hát dân ca của các
vùng miền nhằm đưa đến cho trẻ những cảm xúc, hiểu biết và rèn luyện khả
năng hát một số làn điệu phổ biến, phù hợp với độ tuổi. Thông qua việc được
nghe, được học, được hát, được trình diễn sẽ mang đến cho các em sự yêu
thích, gắn bó, say mê, tạo nên nhu cầu tự thân và để rồi khi trưởng thành,
không ít các trẻ lại là những người tiếp tục truyền dạy cho các thế hệ tiếp nối
cảm nhận và hiểu được cái hay, cái đẹp, cái cao cả trong các làn điệu dân ca
của đất nước, quê hương mình. Như vậy, muốn bảo tồn và phát huy di sản âm
nhạc dân gian nói chung và dân ca nói riêng thì biện pháp hữu hiệu nhất, bền
vững nhất đó là đem dân ca và tình yêu và sự trải nghiệm dân ca đến cho trẻ.
Về phương diện nghệ thuật, dân ca giúp trẻ hiểu thêm về mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và làn điệu, bắt nguồn từ đặc điểm giọng nói, tâm sinh lý, phù
hợp với lối sống, phong cách của nhân dân ta. Không chỉ vậy, dân ca còn mở
ra cho trẻ một kho tàng văn hóa tiềm ẩn trong đó bởi những nét văn hóa,
phong cách, đặc điểm ngôn ngữ, hoàn cảnh sống, lịch sử địa lý, phong tục tập
quán của mỗi vùng gắn liền với đạo đức tư tưởng tình cảm với cuộc sống
khác nhau của từng địa phương, của từng sắc tộc. Việc giáo dục dân ca cho
trẻ mầm non là thực hiện một sứ mệnh to lớn đối với dân tộc Việt Nam, là
3
truyền lại cho thế hệ tương lai giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa, thực hiện nền
văn chương truyền khẩu, có tính kế thừa và sáng tạo bởi các đặc tính xã hội,
đặc tính dị bản và đặc tính sáng tác tại chỗ của dân ca; kế thừa dân ca có chọn
lọc, phát huy và sáng tạo là điều kiện để giữ gìn được bản sắc dân tộc, những
tinh hoa của dân tộc, vừa đảm bảo cho tính mới mẻ, phù hợp với cuộc sống
hiện thời, vừa tạo điều kiện cho dân ca có sức sống bền vững trong đời sống
nhân dân. Giáo dục âm nhạc nói chung và giáo dục dân ca nói riêng là một
trong những chủ trương đúng đắn khi Nhà nước đang đặt vấn đề này lên một
vị trí quan trọng. Bởi lẽ, Việt Nam đang phấn đấu vì nền giáo dục toàn diện.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào từng ngóc ngách đời
sống, hầu hết trẻ em dường như quên hẳn các làn điệu dân ca vốn rất phong
phú và đa dạng do ông cha ta để lại. Trẻ em được tiếp xúc với nhiều nền văn
hóa phương Tây, ngoại lai nên thích nghe, thích hát những bài hát trẻ trung,
và nghe những bài nhạc chế sôi động hơn là thưởng thức những làn diệu dân
ca.
Trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 4-5 tuổi nói riêng rất thích được múa hát,
được thể hiện năng khiếu của mình qua các bài hát. Tuy nhiên năng lực của
giáo viên trong việc dạy hát dân ca còn hạn chế, phương pháp dạy học rập
khuôn, hát dân ca sai nhạc, sử dụng dụng cụ âm nhạc chưa thành thạo, trong
kế hoạch chủ đề của chương trình giáo dục của giáo viên những bài hát dân ca
dành cho trẻ còn rất ít nếu có cũng chỉ là dàn dựng trong những ngày lễ hội.
Trẻ được tiếp xúc với dân ca chủ yếu là nghe cô hát, những bài nghe cô hát lại
không gần gũi nên trẻ không hứng thú dẫn đến hoạt động dạy hát dân ca đạt
kết quả không cao. Câu hỏi lớn đặt ra là làm thế nào khắc phục những tồn tại
trên để những bài dân ca tiếp tục được nuôi dưỡng, trân trọng, giữ gìn và lưu
truyền lại cho các thế hệ mai sau khiến tôi trăn trở và không ngừng tìm ra câu
trả lời bằng cách nghiên cứu, đầu tư suy nghĩ tìm ra phương pháp giảng dạy
hấp dẫn, sáng tạo khiến dân ca đến gần hơn với trẻ mầm non.
Ý thức rõ vai trò của giáo dục âm nhạc nói chung và hát dân ca nói
riêng với trẻ 4-5 tuổi, trở thành một hoạt động không thể thiếu được trong
4
trường, lớp. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, bản thân tôi luôn nhận thức
sâu sắc được tầm quan trọng của hát dân ca trong cuộc sống hàng ngày của
trẻ, đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi mầm non. Vì thế tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài
“Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tiếp cận gần hơn với nhạc dân
ca ở trường mầm non” với mong muốn đưa dân ca đến gần hơn góp phần gìn
giữ bản sắc văn hóa truyển thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành ở trẻ sự tự
hào và lòng yêu quê hương đất nước.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
“Mục tiêu phát triển thẩm mỹ của trẻ mẫu giáo đó là: Trẻ có khả năng
cảm nhận vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và trong tác phẩm nghệ thuật;
có khả năng thể hiện cảm xúc, sáng tạo trong các hoạt động âm nhạc, tạo
hình; trẻ yêu thích, hào hứng tham gia vào các hoạt động nghệ thuật; có ý giữ
gìn và bảo vệ cái đẹp ” [2]
Đối với trẻ 4-5 tuổi, tôi thấy việc cần thiết và quan trọng là phải có biện
pháp giáo dục âm nhạc dân ca một cách gần gũi thiết thực với trẻ, mang dân
ca đến với trẻ trong tất cả các hoạt động để giúp trẻ có thể phát triển năng
khiếu cá nhân của mình. Giai đoạn này chức năng các cơ vận động phát triển
ổn định, bộ phận thanh quản đã phát triển gần như hoàn thiện giúp trẻ hát
được các bài hát dân ca có âm vực cao, luyến láy được hay hơn, trẻ hứng thú
với âm nhạc qua vận động đơn giản (vỗ tay, dậm chân…) biết theo dõi tỉ mỉ
không gian, biết nhắc lại bài hát ngắn, phân hóa về khả năng âm nhạc.
Dân ca mang tính đặc thù hơn so với việc giáo dục âm nhạc đơn thuần
vì nó mang tính vùng miền, bản sắc của từng làn điệu dân ca nhưng tựu chung
lại dân ca với trẻ mầm non nói chung vẫn là hình thành ở trẻ lòng yêu thiên
nhiên, Tổ quốc, tình yêu thương con người rộng lớn. Hình thành và phát triển
thói quen tốt trong sinh hoạt tập thể: Đó là tính kỉ luật, tự chủ, mạnh dạn trước
mọi người.
Quá trình trẻ tiếp xúc và hoạt động âm nhạc dân ca như nghe cô hát,
trẻ tự ca hát, nhảy múa, chơi trò chơi âm nhạc… sẽ hình thành ở trẻ những
5
yếu tố tốt của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hòa, đó là sự phát triển
về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực, trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hát dân ca rất hay và ý nghĩa song cũng có những khó khăn riêng như
hát phải có nhiều sự luyến láy, độ rung, trầm bổng đặc biệt là thần thái khi thể
hiện chính là sự vui tươi, nhí nhảnh, hóm hỉnh trong những trang phục phù
hợp với từng bài hát dân ca. Đây cũng là điểm khác biệt thú vị giữa dân ca với
những tác phẩm âm nhạc khác viết cho trẻ mầm non.
Trẻ 4-5 tuổi chính là giai đoạn vàng trong cảm thụ âm nhạc đặc biệt là
dân ca vì vậy là giáo viên tôi lựa chọn các bài hát dân ca, nội dung phù hợp và
hình thức truyền tải phong phú để đưa dân ca lại được gần nhất với trẻ.
* Thuận lợi:
– Tôi luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Ban giám hiệu
trường Mầm non Xuân Ninh và phòng GD&ĐT huyện Xuân trường trong
việc thực hiện các nội dung hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ.
– Cơ sở vật chất của nhà trường khang trang, sạch sẽ. Đồ dùng, đồ chơi
đầy đủ, phong phú, đa dạng phù hớp với trẻ.
– Nhà trường luôn tạo điều kiện về tài liệu tham khảo.
– Bản thân tham gia nhiều các buổi thao giảng, dự giờ và cũng được
Ban Giám hiệu nhà đóng góp ý kiến nâng cao chất lượng giờ dạy.
– Nhà trường, các thành viên trong tổ 4-5 tuổi luôn tạo điều kiện hết sức
để giúp đỡ, động viên trong quá trình thực hiện hoạt động giáo dục âm nhạc,
về cơ sở vật chất trang thiết bị cũng như về chuyên môn.
– Đa số phụ huynh trong lớp luôn hiểu và cùng chia sẻ với giáo viên
những khó khăn, có sự quan tâm phối hợp tích cực với nhà trường, với lớp để
cùng chăm sóc giáo dục trẻ. Như hỗ trợ kinh phí mua loa, bổ sung trang thiết
bị phục vụ cho các hoạt động âm nhạc, cùng cô tận dụng nguyên vật liệu sẵn
có, phế thải làm những đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động âm nhạc.
* Khó khăn:
6
– Nhà trường chưa có phòng âm nhạc, các dụng cụ âm nhạc chủ yếu
được các bậc phụ huynh hỗ trợ nên chưa đảm bảo được tính thẩm mỹ ảnh
hưởng đến quá trình dạy trẻ và hứng thú của trẻ với dân ca.
– Các bài hát dân ca thường mang tính chất vùng miền, không phù hợp
với chất giọng ở tất cả tỉnh khác.
– Những bài hát dân ca có trong chương trình chủ yếu là hát cho trẻ
nghe, có rất ít bài dạy cho cháu hát.
– Một số giáo viên khả năng hát dân ca còn yếu, chưa nắm được một số
thể loại nhạc dân ca.
– Việc nhớ tên các bài hát dân ca, xuất xứ của bài hát dân ca còn hạn
chế. Việc hát đúng nhạc và hát hay các bài hát dân ca lại càng khó khăn.
– Trẻ chưa biết hát dân ca, không biết tên bài hát dân ca cho dù là bài
dân ca phổ biến của nơi mình sống. Không thường xuyên được nghe nhiều làn
điệu dân ca của địa phương và dân ca các vùng miền.
– Một số trẻ còn nhút nhát, tự ti, sức khỏe hạn chế, ngại biểu diễn dân
ca trước đám đông. Khả năng hát và biểu diễn dân ca không đồng đều. Đa số
không nhớ tên bài hát dân ca, không biết vùng miền dân ca, không có sự ham
thích và biểu diễn các bài hát dân ca, việc sử dụng các nhạc cụ và trang phục
phù hợp với bài hát dân ca lại càng không biết rõ.
– Một số bậc phụ huynh làm công nhân không có thời gian quan tâm
đến các con, “giao khoán” cho ông bà việc chăm sóc các con nên chưa sâu sát
trong quá trình phối kết hợp với giáo viên nâng cao khả năng tiếp cận dân ca
cho trẻ.
* Tổ chức khảo sát thực trạng:
Từ những thuận lợi và khó khăn còn tồn tại, ngay từ đầu năm học tôi đã
đi sâu vào nghiên cứu đề tài và tìm tòi quan sát khả năng của trẻ để mang dân
ca phù hợp với khả năng tư duy của từng trẻ ở 5 khu đó là: khu Nghĩa Xá, khu
Hòa Bình, khu Lam Sơn, khu Xuân Dục và khu Hưng Nhân.
Tiến hành khảo sát:
7
– Phối hợp với đồng chí tổ trưởng chuyên môn họp tổ chuyên môn, phổ
biến tầm quan trọng của dân ca đối với sự phát triển toàn diện của trẻ và ý
nghĩa của vấn đề khảo sát mức độ nhận thức của trẻ với việc thực hiện đề tài.
– Chọn mẫu khảo sát ở các lớp, mỗi lớp 10 cháu lựa chon bất kì không
chọn lọc, tổng số 70 cháu.
– Tập huấn cho giáo viên nắm được mục đích, nội dung, phương pháp tiến
hành khảo sát trẻ.
– Hướng dẫn giáo viên các lớp nắm được nội dung, phương pháp và quy
trình tổ chức khảo sát nhằm đưa dân ca đến gần hơn với trẻ.
– Thiết kế nội dung phiếu khảo sát mức độ nhận thức của trẻ về nhạc dân ca.
– Các mức độ nhận thức của cá nhân trẻ về nhạc dân ca:
Mức Tốt: 3 điểm. Trẻ có nhận thức tốt về dân ca và cảm nhận được các làn
điệu dân ca. Biết thể hiện tốt một số làn điệu dân ca quen thuộc.
Mức Khá: 2 điểm. Trẻ có nhận thức về dân ca, hiểu được nội dung của một số
bài dân ca, biết hát một số bài dân ca nhưng còn chưa đứng giai điệu và còn sai lời.
Mức Trung bình: 1 điểm. Trẻ biết được một số bài dân ca, nhưng chưa đầy
đủ, cần sự hỗ trợ của giáo viên. Kỹ năng thể hiện bài hát còn mờ nhạt, thụ động
chưa tích cực thực hiện.
Mức Yếu: 0 điểm. Trẻ không biết các bài hát dân ca, thụ động rụt rè trong
hoạt động.
– Phiếu khảo sát trẻ.
Nội dung khảo sát | Bài tập đo | Biểu hiện | Mức độ |
1. Trẻ nhớ tên và xuất xứ các bài hát dân ca, | Cô giáo bật cho trẻ nghe bài hát dân ca “Lí dĩa bánh bò” | – Trẻ nói được tên bài hát, tên vùng miền của bài dân ca. – Trẻ tích cực thể hiện bài hát đúng lời, đúng giai điệu. Trẻ biết lựa chọn trang phục phù hợp với nội dung của bài hát | 3 |
8
nhận biết dân ca của các vùng miền | – Trẻ nói được tên bài hát, tên vùng miền của bài dân ca. – Trẻ thể hiện được bài hát đúng lời, đúng giai điệu. | 2 | |
– Trẻ nói được tên bài hát, tên vùng miền của bài dân ca. – Trẻ chưa biết thể hiện bài hát, hát chưa rõ lời, rõ giai điệu. | 1 | ||
– Trẻ không nói được tên bài hát, tên vùng miền của bài dân ca. – Trẻ không thể hiện được bài hát. | 0 | ||
2. Trẻ thích nghe các bài hát dân ca | Cô giáo mở video nhạc dân ca cho trẻ xem và nghe hát. | – Trẻ thích thú, hào hứng nghe nhạc dân ca. – Trẻ thích thú hát theo ca sĩ, nói được tên bài hát đang được nghe. | 3 |
– Trẻ thích thú hào hứng nghe nhạc dân ca. | 2 | ||
– Trẻ lắng nghe nhạc dân ca nhưng không hào hứng, vui vẻ. | 1 | ||
– Trẻ không thích nghe nhạc và đòi chuyển nội dung được nghe. | 0 | ||
3. Sử dụng các nhạc cụ và trang phục | Cô cho trẻ sử dụng nhạc cụ và lựa chọn trang phục để biểu diễn nhạc dân ca. | – Trẻ biết lựa chọn và sử dụng nhạc cụ phù hợp với bài hát. – Trẻ nói được tên trang phục, biết lựa chọn trang phục phù hợp với bài hát. | 3 |
– Trẻ biết lựa chọn và sử dụng nhạc cụ phù hợp với bài hát. | 2 |
9
phù hợp với bài dân ca | – Trẻ biết lựa chọn trang phục phù hợp với bài hát. | ||
– Trẻ biết sử dụng nhạc cụ. – Trẻ biết tên trang phục nhưng chưa biết lựa chọn trang phục phù hợp với bài hát. | 1 | ||
– Trẻ không biết sử dụng nhạc cụ. – Không biết tên các loại trang phục. | 0 | ||
4. Trẻ hưởng ứng tích cực và vận động theo lời bài hát dân ca | Cô cho trẻ vận động theo nhạc bài hát “Lý ngựa ô” | – Trẻ vui vẻ, tích cực, chủ động tham gia hoạt động cùng cô và các bạn. – Trẻ hào hứng, tích cực tham gia vận động theo lời bài hát. – Trẻ vận động đúng giai điệu, tinh thần của bài hát. | 3 |
– Trẻ vui vẻ, tích cực, chủ động tham gia hoạt động cùng cô và các bạn. – Trẻ hào hứng, tích cực tham gia vận động theo lời bài hát. | 2 | ||
– Trẻ vui vẻ tham gia vận động cùng cô và các bạn nhưng còn phải cần sự trợ giúp, hướng dẫn của cô giáo. | 1 | ||
– Trẻ không tham gia vận động theo nhạc bài hát cùng cô và các bạn. | 0 |
10
Giáo viên các lớp dựa trên phiếu khảo sát đã lập ra để đánh giá, cho điểm
các học sinh đã được lựa chọn để khảo sát là 70 cháu tại 5 khu, cho điểm phù hợp
với mức độ mà trẻ đạt được.
Thời gian tiến hành từ ngày 06/09/2020 – 01/10/2020.
Kết quả khảo sát thực trạng:
Sau khi tiến hành khảo sát trẻ đã được lựa chọn tôi đã tập hợp số liệu và có
kết quả như sau.
Bảng 1: Kết quả khảo sát trẻ
Nội dung | Kết quả khảo sát | ||
Mức độ | Đạt (SL) | Tỷ lệ (%) | |
Trẻ nhớ tên và xuất xứ các bài hát dân ca, nhận biết dân ca của các vùng miền | Tốt | 12 | 17,2 |
Khá | 16 | 22,8 | |
Trung bình | 22 | 31,5 | |
Yếu | 20 | 28,5 | |
Trẻ ham thích nghe các bài hát dân ca | Tốt | 15 | 21,5 |
Khá | 16 | 22,9 | |
Trung bình | 20 | 28,5 | |
Yếu | 19 | 27,1 | |
Sử dụng các nhạc cụ và trang phục phù hợp với bài dân ca | Tốt | 11 | 15,7 |
Khá | 15 | 21,5 | |
Trung bình | 23 | 32,8 | |
Yếu | 21 | 30 | |
Trẻ hưởng ứng tích cực và vận động theo lời bài hát dân ca | Tốt | 13 | 18,5 |
Khá | 20 | 28,5 | |
Trung bình | 27 | 38,5 | |
Yếu | 10 | 14,5 |
Qua kết quả bảng khảo sát cho thấy: Tỷ lệ khá tốt còn thấp, tỷ lệ trẻ đạt
trung bình và yếu còn cao. Vì vậy câu hỏi cần đặt ra ở đây là phải làm gì để
11
nâng cao khả năng nhận biết các loại hình dân ca phổ biến, các nhạc cụ dân
tộc đơn giản phù hợp với các loại hình dân ca ở trẻ và cần đưa ra các giải
pháp nào để nâng cao nhận thức, tình yêu của trẻ với âm nhạc dân ca Việt
Nam?
Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi giáo viên cần phải có những kiến thức, kỹ
năng, hiểu biết sâu sắc về các loại hình dân ca giành cho trẻ mầm non để từ
đó có thể lựa chọn các nội dung giáo dục phù hợp với trẻ để nâng cao nhận
thức về nhạc dân ca cho trẻ.
Do đó ngoài việc khảo sát mức độ nhận thức về nhạc dân ca ở trẻ tôi còn
tiếp tục khảo sát nhận thức của giáo viên trong tổ về nhạc dân ca.
Nội dung | Kết quả khảo sát | |||
Đạt (SL) | Tỷ lệ (%) | Chưa đạt (SL) | Tỷ lệ (%) | |
1. Giáo viên nhớ tên và xuất xứ các bài hát dân ca, nhận biết dân ca của các vùng miền | 7 | 70 | 3 | 30 |
2. Giáo viên thể hiện đúng giai điệu các bài hát dân ca | 5 | 50 | 5 | 50 |
3. Giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục có tích hợp âm nhạc dân ca vào các hoạt động | 5 | 50 | 5 | 50 |
Bảng 2: Kết quả khảo sát mức độ nhận thức của giáo viên khối 4-5
tuổi về tiếp nhận dân ca đầu năm học
Qua bảng khảo sát cho thấy: Tỷ lệ giáo viên nắm rõ về tên, xuất xứ các
bài hát dân ca đã tốt nhưng việc thể hiện được rõ tinh thần của bài hát cũng
như ứng dụng, tích hợp nhạc dân ca và các hoạt động giáo dục chưa cao. Điều
này đã đặt ra cho tôi nhiệm vụ vô cùng quan trọng giúp trẻ và các giáo viên
trong tổ thực hiện tốt các mục tiêu mà tôi đề ra khi đưa dân ca đến với trẻ. Vì
vậy tôi luôn tìm tòi, ứng dụng các phương pháp, tiếp thu sự góp ý của ban
12
giám hiệu nhà trường và chị em trong tổ chuyên môn từ đó lựa chọn các hình
thức phù hợp vào thực tiễn chăm sóc giáo dục đến từng trẻ của lớp mình.
Vậy để nâng cao chất lượng dạy hát dân ca, đưa dân ca đến thật gần với
tâm hồn trẻ thơ đặc biệt là trẻ 4-5 tuổi, tôi đã tìm và vận dụng các giải pháp
sau đây:
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về phương pháp dạy
hát dân ca cho các thành viên trong tổ.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT
Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa
- Phương pháp tư duy dồn chất xếp hình giải bài tập hóa học hữu cơ
- Tổng hợp đề thi môn hóa của bộ giáo dục từ năm 2007 đến nay
- Tổng hợp các phương pháp giải bài tập môn hoá học
- Tổng hợp giáo án chủ đề STEM trong môn hóa học