Tag: phồn thể

  • Điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực tại Trung Quốc

    Điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực tại Trung Quốc

    Có người cho rằng, những chữ Hán giản thể giống như là một điềm báo chẳng lành. Thực ra, điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực, chuẩn xác một cách đáng sợ!

    Văn hóa Á Đông không hề đơn giản như bề mặt mà mọi người nhìn thấy. Từng nét lễ nghi, từng bộ trang phục, từng nét chữ đều ẩn chứa những nội hàm vô cùng sâu sắc và liên hệ mật thiết với từng hơi thở trong cuộc sống của chúng ta.

    Có một nét văn hóa mà không thể không nhắc đến, chính là nội hàm thâm sâu của loại chữ viết tượng hình – Chữ Hán chính thể. Tuy nhiên, sau khi chữ Hán bị giản lược, thì những nội hàm ấy cũng bị mất đi, thay vào đó là sự lệch lạc, thậm chí biến dị. Đồng thời, chữ Hán giản thể còn mang một điềm báo chẳng lành.

    Có một cư dân mạng Trung Quốc đã liệt kê ra hàng loạt các chữ Hán giản thể. Tác giả đối chiếu những chữ Hán giản thể này với các hiện tượng tai nghe mắt thấy trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Và điều nhìn thấy được khiến người ta không khỏi phải giật mình kinh ngạc.

    1. Thân bất kiến

    Chữ “Thân” chính thể 親 (người thân)

    Chữ “Thân” giản thể 亲, mất chữ “Kiến”

    Thân bất kiến: Người thân không gặp được nhau. Một năm chẳng biết cha mẹ, con cái, người thân tại Trung Quốc được đoàn tụ bao nhiêu lần? Nơi nào cũng thấy lưu lại những cuộc tình chớp nhoáng. Các quý ông, quý bà khinh thường đạo lý, lang chạ khắp nơi. Điều này khiến những người cùng huyết thống cũng chẳng được vui vầy bên nhau.

    2. Sản bất sinh

    Chữ “Sản” chính thể 產 (sinh sản)

    Chữ “Sản” giản thể 产, mất chữ “Sinh” 生

    Sản bất Sinh: Đậu thai mà không sinh. Ngày nay các phòng khám tư, phẫu thuật phá thai ở Trung Quốc nơi nào cũng thấy. Ngoài ra, chữ “Sản” chính thể còn có nghĩa là của cải về mặt đất đai. Ruộng màu thì bị bỏ hoang, mọi người đổ dồn về các khu công nghiệp và thành phố lớn, không cần ngũ cốc chỉ lo kiếm tiền.

    3. Hương vô lang

    Chữ “Hương” chính thể 鄉 (Quê hương)

    Chữ “Hương” giản thể 乡, mất chữ “Lang” 郎 – những người trẻ

    Hương vô Lang: Quê nhà không có người trẻ. Ở Trung Quốc, ai nấy đều đổ về thành phố lập nghiệp mưu sinh. Trong thôn làng khó có thể bắt gặp những khuôn mặt trẻ trung. Khắp cả ngôi làng chỉ thấy những người già yếu, trẻ con và người tàn tật. Đây cũng chính là một cảnh tượng thường thấy nhất tại Trung Quốc ngày nay.

    4. Ái vô tâm

    Chữ “Ái” chính thể 愛 (Yêu)

    Chữ “Ái” giản thể 爱, mất chữ “Tâm” 心 – trái tim

    Ái vô tâm: Yêu không xuất phát từ trái tim. Ngày nay thử hỏi có mấy người còn giữ tấm chân tình son sắt, hay là chỉ quen chạy theo thời thế xô bồ. Đại gia cặp với chân dài. Kẻ ham tiền, người háo sắc, hễ có lợi là trao thân. Tình một đêm, tình sét đánh, tình chớp nhoáng khiến nhà nghỉ mọc lên nhan nhản khắp nơi. Quả là tình yêu không còn sự kết nối thiêng liêng và trách nhiệm suốt cuộc đời.

    5. Miến vô mạch

    Chữ “Miến” chính thể 麵 (Mỳ)

    Chữ “Miến” giản thể 面, mất “bộ Mạch”麥 – Lúa mỳ

    Miến không mạch: Bột mỳ không làm từ lúa mạch, thì làm từ thứ gì, bạn thử đoán xem? Bột mỳ không có mùi lúa mạch, kỳ thực đã trộn lẫn phoóc môn. Đây cũng là tình trạng làm giả thực phẩm, gạo giả… phổ biến trong xã hội Trung Quốc ngày nay.

    Điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực tại Trung Quốc

    6. Tiến bất giai

    Chữ “Tiến” chính thể 進 (Tiến tới)

    Chữ “Tiến” giản thể 进, mất chữ “Giai” 佳 – Tốt

    Tiến bất giai: Bước tiếp sẽ không may mắn, mà thành con ếch ngồi trong đáy giếng. Chữ Tiến chính thể là bước tới điều tốt đẹp (Giai) thì nay là tiến xuống giếng (Tỉnh 井: cái giếng). Sự nghiệp cả đời truy cầu chỉ như mò trăng đáy nước, tiền tài cũng như hái hoa trong gương.

    7. Ứng vô tâm

    Chữ “Ứng” chính thể 應 (Đáp ứng)

    Chữ “Ứng” giản thể 应, mất chữ “Tâm” 心

    Ứng vô tâm. Lời nói gió bay, dẫu hứa hẹn cũng khó thành hiện thực, nói lời lật lọng mà không biết ngượng ngùng. Người xưa rất xem trọng chữ Tín, coi lời thề hẹn nặng tựa núi Thái Sơn, lời nói ra là đã được Trời Đất làm chứng, ắt phải thực hiện. Nhưng trong xã hội Trung Quốc ngày nay ‘thành tín’ ngày càng mai một, dường như đã trở thành một thứ gì đó xa xỉ không thể với tới.

    8. Thính bất nhĩ

    Chữ “Thính” chính thể 聽 (Nghe)

    Chữ “Thính” giản thể 听, mất chữ “Nhĩ” 耳 – tai

    Chữ “Thính聽” (lắng nghe) ở dạng chính thể gồm bộ “Nhĩ耳” (tai), bộ “Vương 王” (vua), chữ “Thập 十” (mười), chữ “Mục目” (mắt), chữ “Nhất一” và chữ “Tâm 心”.

    Nếu ghép các bộ này vào nhau chúng ta sẽ hiểu được hàm ý mà cổ nhân muốn gửi gắm. Khi lắng nghe một ai đó, chúng ta phải khiến người ấy cảm thấy họ quan trọng như một vị vua (chữ Vương), và lắng nghe bằng đôi tai của mình (bộ Nhĩ). Đồng thời chúng ta còn phải dồn mọi ánh nhìn và sự chú ý tới họ (chữ Thập, chữ Mục). Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, điều quan trọng nhất là phải dành trọn trái tim để cảm nhận những điều họ nói (chữ Nhất, Tâm). Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể lắng nghe trọn vẹn những thông điệp mà họ muốn truyền tải, mới biết cách thấu hiểu và trân trọng người khác.

    Chữ “Thính” 听 giản thể là Thính thiếu Nhĩ: Nghe mà thiếu mất tai. Nó chỉ gồm bộ “Khẩu口” (cái miệng) và bộ “Cân斤” (cái rìu). Đại ý là không phải dùng tai, dùng mắt, hay dùng tâm để lắng nghe như văn hóa truyền thống, mà là đáp lại bằng miệng, bằng những lời búa rìu sắc nhọn.

    9. Ưu vô lo

    Chữ “Ưu” chính thể 優 (Ưu tú)

    Chữ “Ưu” giản thể 优, mất chữ “Ưu” 憂 – ưu lo

    Ưu cần phải có lo: Muốn thành người ưu tú, xuất chúng cần phải biết lo lắng cho đại cục, cho người khác. Bậc hiền tài như vậy trong thiên hạ là khó cầu nhất. Người tài thời nay nghĩ đến vinh hoa, phú quý cho riêng mình hay lợi ích cho muôn dân? Những người nhiều tài lắm tật, e rằng lợi ít hại nhiều. Kiểu người này chỉ khiến con người càng thêm lo sầu.

    10. Thái vô thủ

    Chữ “Thái” chính thể 採 (Hái)

    Chữ Thái giản thể 采, thiếu bộ Thủ 手 – Cái Tay

    Thái vô Thủ: Muốn hưởng mà không muốn động tay ra hái. Ngồi mát ăn bát vàng người người muốn, đục nước béo cò kẻ kẻ cầu. Đây cũng có thể nói là một thực trạng dễ thấy trong xã hội ngày nay. Những cậu ấm cô chiêu Trung Quốc, những thế hệ trẻ chỉ biết ‘cúi đầu’ chờ đợi từ sự sắp đặt của cha mẹ mình, chỉ mong cầu hưởng thụ cuộc sống giàu sang mà không biết ra tay làm việc.

    11. Bút… cong

    Chữ “Bút” chính thể 筆

    Chữ “Bút” giản thể 笔

    Ngày nay bút không còn thẳng. Con người Trung Quốc thời nay thường dùng bút cong mà viết sử nên gọi là bẻ cong sử sách. Bút ngay sử thẳng xưa đã có, tới nay sóng gió đã cuốn trôi.

    12. Tân hữu binh

    Chữ “Tân” chính thể 賓 (Quan khách)

    Chữ “Tân” giản thể 宾, thiếu chữ Bối 貝 – Bảo bối, thêm chữ “Binh” 兵 – Binh lính

    Xưa kia khách quý đến nhà mang theo quà quý (貝– Bảo bối). Chủ nhà bày biện yến tiệc, khoản đãi với tấm lòng thành. Ngày nay binh lính tới nhà (Bộ “Miên” 宀 chỉ mái nhà), không chỉ thiếu quà quý, mà còn có binh đao. Từ xưa đã gọi chuyện này là loạn cõi thế gian.

    13. Miếu bất triều

    Chữ “Miếu” chính thể 廟 (Chùa chiền)

    Chữ “Miếu” giản thể 庙, thiếu chữ “Triều” 朝 – nghi thức bái lạy

    Miếu bất Triều: Trong miếu mà không thấy thật tâm tiến hành những nghi lễ bái lạy Thần Phật. Ngày xưa chùa chiền là nơi con người ăn năn sám hối, bởi con người kính cẩn bái lạy Thần Phật, mong tìm được sự thanh thản trong tâm. Ngày nay, chùa chiền như chiếc áo khoác của những kẻ vô Thần, trở thành thắng cảnh du lịch, thành nơi kiếm chác, trao đổi của kẻ phàm tục. Người mà quỷ thần cũng không sợ, ắt sẽ to gan dám làm càn.

    14. Võng vô mịch

    Chữ “Võng” chính thể 網 (Lưới)

    Chữ “Võng” giản thể 网, mất bộ Mịch 糸 – sợi cước

    Lưới không có cước, lưới vô dụng, cá lọt lưới trước mắt như thể trêu ngươi. Pháp luật Trung Quốc cũng như một chiếc lưới. Ngày xưa Thiên tử cũng phải chịu tội như thứ dân. Ngày nay quyền thế thay pháp luật một cách vô nguyên tắc, thậm chí có thể lợi dụng quyền thế trong tay mà một tay che cả bầu trời.

    15. Hậu nhất khẩu

    Chữ “Hậu” chính thể 後 (Đời sau)

    Chữ “Hậu” giản thể 后, thêm chữ nhất 一, bộ khẩu 口

    Đời sau chỉ được sinh một con, về già cha mẹ ốm đau bệnh tật khó lòng nhờ vả… “Kế hoạch hóa gia đình là quốc sách, sinh quá một con gia đình nghiêng ngả” – Đây là chính sách một con từng làm điêu đứng xã hội Trung Quốc. Bao nhiêu hệ lụy của xã hội, quả thực cũng khiến lòng người âu lo.

    Ở trên chỉ là một số ít ỏi được đưa ra, nhưng cũng đủ để biết rằng chữ Hán sau khi bị giản lược thì những nội hàm tinh túy của văn hóa truyền thống Trung Hoa cũng bị mất đi, thay vào đó là sự sai lệch, biến dị.

    Mà điều đáng tiếc hơn cả là sự suy đồi và trượt dốc trong xã hội, dường như cũng đã và đang diễn ra đúng theo từng sự lệch lạc trong chữ Hán giản thể đó. Vậy nên, có người Trung Quốc cho rằng, những chữ Hán giản thể này giống như là một điềm báo chẳng lành vậy!

    Quả đúng là:

    Học giả chân chính đứng một bên,

    Cải cách chữ Hán mù văn hóa.

    Thiên thu vạn đại trò hề diễn,

    Duy chỉ điềm báo chẳng hề sai.”

    Hiểu Mai biên dịch

  • NÊN HỌC TIẾNG TRUNG GIẢN THỂ HAY TIẾNG TRUNG PHỒN THỂ?

    NÊN HỌC TIẾNG TRUNG GIẢN THỂ HAY TIẾNG TRUNG PHỒN THỂ?

    NÊN HỌC TIẾNG TRUNG GIẢN THỂ HAY TIẾNG TRUNG PHỒN THỂ?

    Tiếng Trung phổ thông ngày càng phổ biến và được sử dụng rộng rãi bởi gần một tỉ người trên thế giới, nên hiện có rất nhiều bạn muốn học tiếng Trung để mở rộng cơ hội việc làm hay học vấn. Trong tiếng Trung phổ thông có hai bộ chữ là: chữ Hán phồn thể và chữ Hán giản thể. Vì vậy, câu hỏi nên học bộ chữ nào vẫn là một câu hỏi khó trả lời.

    Xem thêm:

    Bộ chữ Hán phồn thể còn được biết tới là chữ Hán truyền thống, xuất hiện lần đầu tiên dưới thời nhà Hán. Loại chữ này được coi là tinh hoa của văn minh Trung Quốc hay còn là đối tượng để thể hiện nghệ thuật trong thư pháp. Chữ Hán phồn thể mang ý nghĩa thâm sâu và chứa đựng những đạo lí mà người xưa truyền lại, tất cả đều nằm ở con chữ.

    Bộ chữ Hán giản thể đã được cải biên và giản lược số lượng nét chữ, xuất hiện trong thế kỉ XX. Chữ Hán giản thể được sáng tạo ra với mục đích giúp người học đặc biệt là người nước ngoài dễ tiếp cận và học tập tiếng Trung hơn.

    NÊN HỌC TIẾNG TRUNG GIẢN THỂ HAY TIẾNG TRUNG PHỒN THỂ? 1

    Trước khi quyết định nên chọn học bộ chữ tiếng Trung phồn thể hay bộ chữ Hán giản thể, các bạn nên lưu ý, chữ giản thể và phồn thể chỉ là các hình thức của văn viết, không phải tiếng địa phương trong văn nói.

    Phạm vi sử dụng của chữ Hán giản thể và phồn thể

    • Chữ Hán phồn thể là bộ chữ chính thức tại Đài Loan, bên cạnh đó, người dân sinh sống tại Hồng Kông và Ma Cao cũng thường sử dụng chữ Hán truyền thống hơn.
    • Chữ Hán giản thể được sử dụng chính thức tại Trung Quốc, ngoài ra Singapore cũng thường sử dụng loại chữ này vì sự đơn giản trong cách học và viết của nó.

    Các loại văn bản chữ Hán

    • Nếu học bộ chữ phồn thể, bạn sẽ dễ dàng đọc và tìm hiểu về các tác phẩm văn học truyền thống của Trung Hoa, những kiệt tác tinh hoa văn học trong suốt chiều dài phát triển lịch sử và văn hóa Trung Quốc. Ngoài ra, nếu bạn là người yêu những nét vẽ thư pháp hoa văn và ý nghĩa mà chữ Hán truyền thống chứa đựng, thì việc học tiếng Trung phồn thể sẽ giúp bạn thực hiện những điều đó một cách dễ dàng.
    • Với những bạn học bắt đầu với bộ chữ giản thể, các bạn sẽ đọc được những văn bản hiện đại và phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại chúng ngày nay và những giáo trình tiếng Trung cho người nước ngoài. Nhưng để tiêu thụ và tham khảo những kiệt tác văn học Trung Hoa thì sẽ mất nhiều thời gian hơn.

    Hình thức viết của hai bộ chữ giản thể và phồn thể

    • Chữ Hán phồn thể là bộ chữ truyền thống và rất phức tạp, các kí tự trong một chữ đều mang ý nghĩa riêng của nó. Các kí tự trong bộ chữ này phát triển rất tinh vi qua lịch sử Trung Hoa, vì vậy số nét của một chữ khá nhiều. Đây cũng chính là thách thức với những người bắt đầu học tiếng Trung.
    • Chữ Hán giản thể đúng như tên gọi của nó, số nét được đơn giản hóa hơn, nhiều nét viết tinh vi được giản lược giúp người học dễ nhớ và dễ viết.

    Một ví dụ nổi bật về hình thức viết của hai bộ chữ đó là chữ Ái「愛」, ý nghĩa là tình yêu, gồm bộ tâm 心 (con tim) và chữ thụ 受 (chịu đựng). Nó mang ý nghĩa: tình yêu thương chính là sự chấp nhận và tình nguyện hi sinh. Những trong chữ giản thể, chữ Ái được đổi thành 爱, mất đi chữ tâm (trái tim), trở thành tình cảm/tình yêu hời hợt bên ngoài mà không có con tim.

    Mục đích của việc học tiếng Trung

    • Ngoài việc dựa vào phạm vi sử dụng của hai loại chữ Hán, mục đích học tiếng Trung cũng rất quan trọng để lựa chọn loại chữ mà bạn sẽ học. Nếu bạn muốn học tiếng Trung trong thời gian ngắn thì chữ Hán giản thể sẽ là sự lựa chọn tốt hơn. Nếu bạn muốn tìm hiểu về văn hóa cùng ý nghĩa của chữ Hán truyền thống thì bộ chữ phồn thể đúng là thứ mà bạn nên lựa chọn hơn cả.
    • Nếu bạn có mục tiêu du học, sinh sống hay làm việc tại Đài Loan cùng người Đài thì chữ phồn thể sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều. Còn tới với Trung Quốc thì hãy học chữ giản thể nhé!

    Sau bài này, mình hi vọng bạn nào đang đứng trước việc lựa chọn giữa tiếng Trung phồn thể và tiếng Trung giản thể thì có thể tham khảo và chọn cho mình lựa chọn tốt nhất nhé.

    Bài viết tham khảo từ taiwandiary.vn