dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Đọc hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích kịch Vũ Như Tô Nguyễn Huy Tưởng theo hướng phát triển tư duy phản biện

SKKN Đọc hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích kịch Vũ Như Tô Nguyễn Huy Tưởng theo hướng phát triển tư duy phản biện

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
I.1. Rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh là sứ mệnh của các nước có
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Bước sang thế kỉ 21, với sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, sự bùng
nổ của cách mạng công nghệ thông tin, sự phát triển của nền kinh tế tri thức, cả
những thay đổi và bất ổn đang diễn ra trên toàn cầu lại đặt ra những yêu cầu mới
đối với giáo dục. Hướng đến tạo ra con người có đủ năng lực để làm chủ, thích
ứng và giải quyết những vấn đề của thời đại mới là mục đích của mọi nền giáo
dục. Khả năng làm chủ ấy đòi hỏi có những năng lực tư duy cần thiết, trong đó
tư duy phản biện- là một trong hai năng lực tư duy quan trọng nhất của người
lao động trong thế kỉ 21. Đó là lí do vì sao các nước có nền giáo dục tiên tiến
nhất trên thế giới rất chú trọng rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh, coi đó
là nội dung cốt lõi, là trọng tâm trong sứ mệnh của hệ thống giáo dục , nó được
thể hiện xuyên suốt chương trình giáo dục, có mặt trong từng môn học và từng
hoạt động giáo dục. Hệ thống giáo dục Anh coi tư duy phản biện như một môn
học chính quy. Trình độ A dành cho học viên 16-18 tuổi. Họ phải làm 2 bài
kiểm tra chính: “Sự đáng tin của dẫn chứng” (Credibility of Evidence) và “Phát
triển tranh luận” (Assessing/Developing Argument). Đối với học sinh dưới 16-
18 tuổi, tư duy phản biện được đưa xen kẽ vào trong bài giảng của giáo viên.
I.2. Giáo dục Việt Nam quan tâm phát triển tư duy phản biện cho học sinh.
– Thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày 06/4/2012 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo tại chương II, điều 7, mục 2c có viết: “ Hướng dẫn học sinh học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện”
– Thông tư 32/2018/BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới, một trong những
những yêu cầu cần đạt về năng lực chung của học sinh cấp THPT là: biết đặt
nhiều câu hỏi có giá trị, không dễ dàng chấp nhận thông tin một chiều; không
thành kiến khi xem xét, đánh giá vấn đề; biết quan tâm tới các lập luận và
chứng minh thuyết phục; sẵn sàng xem xét đánh gía lại vấn đề. Rõ ràng trong
Chương trình giáo dục tổng thể 2018 đã rất coi trọng việc phát triển tư duy độc
lập, tư duy phản biện của học sinh THPT.
– Theo TS Hồ Thiệu Hùng trong một bài trả lời phỏng vấn đã cho rằng:
“Đổi mới giáo dục thì phải đổi mới hoạt động dạy và học, muốn đổi mới hoạt
động dạy và học mà không khuyến khích tư duy phản biện, không rèn luyện
năng lực phản biện khoa học cho học sinh thì mất hẳn một nội dung cơ bản của
đổi mới”
– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng – Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen, nói :
“Giáo dục, nhất là giáo dục Đại học, không chỉ cung cấp kiến thức mà quan
2
trọng hơn là rèn luyện phương pháp tư duy. Người học phải biết đánh giá thông
tin, có quan điểmphản biện để làm rõ vấn đề”.
Như vậy phát triển tư duy phản biện cho học sinh là trách nhiệm chung của
mọi nhà giáo dục. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào
tạo con người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc phát huy
khả năng phản biện của học sinh lại cần hơn bao giờ hết. Khi nhà trường phổ
thông trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là đã trang bị cho
các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành công trong cuộc sống.
I.3. Rèn luyện tư duy phản biện cho học sinh là khâu đột phá trong đổi mới
dạy học môn Ngữ Văn.
Môn Văn là môn học đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật (nghệ
thuật ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo
thời gian và theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Vì vậy trong
học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học
sinh như những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn
cho vấn đề. Cho nên, giáo viên không thể giữ mãi phương pháp dạy học truyền
thống: giáo viên đọc – học sinh chép, giáo viên hỏi – học sinh trả lời trong giới
hạn cho phép về nội dung và thời gian. Dạy như thế sẽ khiến giờ học Văn sẽ tẻ
nhạt, đơn điệu, áp đặt, thiếu dân chủ khiến học sinh tiếp thu kiến thức thụ động,
một chiều, không thể hiện được năng lực, chính kiến của bản thân cũng như
khám phá những ra những giá trị mới của các tác phẩm văn học. Nhà lãnh đạo
tinh thần của Tây Tạng Dalai Lama cho rằng :“Nhà giáo thì hãy cố gắng không
nên chỉ biết truyền lại sự hiểu biết cho học sinh mà còn phải đánh thức sự suy
nghĩ của chúng trước các phẩm tính căn bản của con người, chẳng hạn như sự
tốt bụng, lòng từ bi, khả năng tha thứ và tinh thần hợp tác”. Nên chăng giáo
viên “đánh thức” học trò bằng cách rèn cho các em một tư duy phản biện tốt,
hãy để các em độc lập suy nghĩ, bày tỏ quan điểm từ nhiều góc nhìn khác nhau,
tự khám phá và lĩnh hội kiến thức. Nên chăng, giáo viên vận dụng đa dạng và
linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh là trung tâm; cởi mở
khơi gợi nhiều vấn đề xung quanh bài học, khích lệ học sinh bộc lộ chính kiến
của bản thân đồng thời lắng nghe, đón nhận những ý tưởng mới mẻ, sáng tạo,
thậm chí chấp nhận cả những ý kiến trái chiều của học sinh…
I.4. Đọc – hiểu văn bản theo hướng phát triển tư duy phản biện tạo hứng thú
và sự sáng tạo cho học sinh.
Hành trình 18 năm giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT Lê Quý Đôn,
bản thân tôi luôn có ý thức làm mới mình trong mỗi giờ dạy, tiếp cận và đổi mới
phương pháp từng ngày. Nhận thức rõ ý nghĩa của việc phát triển tư duy phản
biện cho học sinh nên trong những giờ Đọc – hiểu văn bản, tôi luôn ý thức rèn tư
duy phản biện cho các em. Cách Đọc – hiểu đó khiến học sinh như những cây
3
mầm trỗi dậy, thức tỉnh tư duy, các em tích cực bày tỏ quan điểm của mình, giải
quyết nhanh chóng những vấn đề trong bài học, áp dụng bài học vào trong cuộc
sống…Từ hiệu quả của việc rèn tư duy phản biện trong một số giờ văn: Rèn tư
duy phản biện khi Đọc – hiểu Người trong bao (Sê – Khốp), nâng cao kĩ năng
phản biện trong bài nghị luận xã hội, tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh Đọc – hiểu
đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Trích Vũ Như Tô – Nguyễn Huy
Tưởng) theo hướng phát triển tư duy phản biện với hi vọng mang lại một giờ
Đọc – kịch hấp dẫn, hiệu quả, học sinh phát triển năng lực phản biện đồng thời
chia sẻ với đồng nghiệp kinh nghiệm của mình góp phần năng cao chất lượng
giáo dục của trường THPT Lê Quý Đôn.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
Trước khi hướng dẫn học sinh Đọc – hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
(Trích Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) theo hướng phát triển tư duy phản
biện thì việc dạy Đọc – hiểu đoạn trích diễn ra như sau:
– Trước đây giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu một văn bản kịch như
đọc hiểu một văn bản tự sự, chỉ chú ý đến cốt truyện, nhân vật, một vài chi tiết
tiêu biểu. Có lẽ những đoạn trích kịch Tình yêu và thù hận ( Trích Rô-mê-ô và
Giu- li-ét – U. Sếch xpia); Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Trích Vũ Như Tô – Nguyễn
Huy Tưởng) ở cuối chương trình học kì I Ngữ văn 11, đoạn trích Hồn Trương
Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ thuộc cuối học kì II Ngữ văn 12, ít liên quan
đến thi cử nên nhiều giáo viên dạy với tinh thần “cưỡi ngựa xem hoa” khiến học
sinh không nhận biết được đặc trưng của kịch càng không thấy được sự khác
biệt Đọc – hiểu văn bản kịch với Đọc – hiểu một văn bản tự sự khác.
– Thực tế, ngoài những lúc học sinh được hứng khởi khi phân vai đọc kịch,
diễn kịch thì giờ Đọc – hiểu văn bản kịch vẫn còn nặng nề bởi giáo viên vẫn còn
coi học sinh như “cái bình” cần đổ đầy kiến thức khiến học sinh thụ động, đơn
chiều trong việc lĩnh hội tri thức, thiếu tương tác giữa học sinh – giáo viên, học
sinh – học sinh, đặc biệt chưa bày tỏ được những quan điểm của bản thân cũng
như thấu cảm được những thông điệp của từng văn bản kịch đưa ra như: tình yêu
vượt trên thù hận (trong đoạn kịch Tình yêu và thù hận), nghệ thuật chân chính
phải là nghệ thuật nhân sinh, cái đẹp gắn liền với cái thiện (trong đoạn trích Vĩnh
biệt Cửu Trùng Đài), cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi “được là tôi toàn
vẹn”, con người cần biết đấu tranh để vượt lên nghịch cảnh (trong Hồn Trương
Ba, da hàng thịt)… Kết quả là học sinh học kịch mà chưa hiểu hết được nghệ
thuật xây dựng xung đột kịch, cách dẫn dắt mâu thuẫn kịch, cách khắc họa nhân
vật, đặc sắc trong ngôn ngữ kịch cũng như hương vị riêng của một loại hình
nghệ thuật tổng hợp.
4
– Trong những năm gần đây việc hướng dẫn Đọc – hiểu văn bản kịch ở
trường THPT Lê Quý Đôn đã có nhiều đổi mới, giáo viên đã sử dụng một số
hình thức, phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Học sinh được hướng dẫn
Đọc – hiểu văn bản kịch theo đặc trưng thể loại: khám phá xung đột kịch, nhân
vật kịch, hành động kịch, ngôn ngữ kịch… Không khí giờ đọc – hiểu văn bản
kịch trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bởi hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn
học và những trải nghiệm sáng tạo thú vị khác. Bản thân tôi đã tìm thêm cho
mình “một hướng đi riêng”: hướng dẫn học sinh Đọc – hiểu văn bản kịch theo
hướng phát triển tư duy phản biện khiến giờ đọc kịch trở nên tươi mới, mang
lại sự háo hức, chờ đợi và cơ hội để thể hiện chính mình của các em.
II.2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến:
Để có một giờ Đọc – hiểu trích đoạn kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài hiệu
quả, phát huy năng lực và phẩm chất người học, đặc biệt giúp học sinh phát
triển tốt tư duy phản biện, tôi đã đưa ra sáng kiến: Đọc – hiểu đoạn trích Vĩnh
biệt Cửu Trùng Đài (Trích Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) theo hướng
phát triển tư duy phản biện. Dưới đây là một số giải pháp thực hiện sáng kiến.
II.2.1. Hiểu đúng bản chất tư duy phản biện.
– Khái niệm tư duy phản biện:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về tư duy phản biện. Dưới đây là một số định
nghĩa tiêu biểu:
+ Tư duy phản biện hay còn gọi là Critical Thinking, đề cập đến khả năng
suy nghĩ rõ ràng và có lập luận đúng đắn về niềm tin mà bạn tin hay những gì
mà bạn đang làm. Nó bao gồm khả năng vận dụng suy nghĩ độc
lập (independent thinking) và suy nghĩ phản chiếu (reflective thinking).
Tư duy phản biện bao gồm khả năng suy nghĩ độc lập và suy nghĩ phản
chiếu.
+ Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. (theo Wikipedia).
+ Tư duy phán biện là một quá trình tư duy biện chứmg gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
5
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải
rõ ràng, lôgícc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm ” (Tài liệu tập huấn về Kỹ
Năng sống của tổ chức World Vision Việt Nam).
Như vậy, tư duy phản biện không đơn thuần chỉ là những ý kiến “phản
biện” như tên gọi. Quá trình tư duy phản biện gồm các giai đoạn: nhìn nhận lại
(nhìn nhận vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau); đánh giá (khảo sát những
mâu thuẫn giữa các ý kiến, đo lường sức thuyết phục của những ý kiến); nêu
những điểm chưa/không chuẩn xác trong lập luận đã có; nêu kết quả của quá
trình tư duy lôgích và đưa ra ý kiến mới; v.v..
– Cần phân biệt tư duy phản biện với tranh cãi, chỉ trích hay chê bai người khác.

Tiêu chí so
sánh
Tư duy phản biệnChỉ trích, chê bai
Chú ýCái hay, cái mới, cái đóng
góp để học hỏi
Yếu điểm, những lỗi sai lầm để phê
bình
Phản biện aiChính bản thânNgười khác, không phải bản thân
Cơ sởÝ tưởng, lập luận, minh
chứng. Đánh giá bằng các
tiêu chuẩn khách quan
Tấn công cá nhân. Cảm xúc cá
nhân. Quy chụp động cơ. Nhiều
ngụy biện
Thái độTôn trọng, học hỏi. Biết
mình có thể sai
Chỉ trích, chê bai, dèm pha, coi
thường. Chỉ cho ý kiến của mình là
đúng
Góc nhìnĐa chiều khách quanChủ quan, định kiến
Mục tiêuHợp tác, cùng phát triểnXóa bỏ, không công nhận, không
hợp tác, không phát triển
Kết quảCải thiện chất lượng tư duy;
cải thiện góc nhìn, công
bằng hơn
Thắng thua trong tranh cãi, có thể
xúc phạm người khác, tư duy
không cải thiện

II.2.2. Nắm vững đặc trưng kịch và kĩ năng Đọc – hiểu văn bản kịch theo
đặc trưng thể loại.
 Khái niệm và đặc trưng của kịch.

Khái lược về kịch
Khái niệm
kịch:
Kịch là loại hình nghệ thuật tổng hợp với sự tham gia của diễn viên,
đạo diễn, có sự phối hợp của âm nhạc, hội họa, vũ đạo.
Kịch bản văn học: là phần văn bản của tác phẩm kịch
Đặc trưng
kịch
Xung đột kịch:
– Là những mâu thuẫn vận động, phát triển ngày càng gay gắt,

6

căng thẳng cho tới tình thế đòi hỏi phải giải quyết bằng một kết cục
nào đó
– Xung đột tạo nên kịch tính (Biêlinxki),
– Thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch và góp phần bộc lộ
tính cách nhân vật
– Có 2 loại xung đột: Xung đột bên ngoài (nhân vật này với
nhân vật khác, nhân vật với gia đình, dòng họ..), xung đột bên trong
(xung đột trong nội tâm nhân vật)
Hành động kịch:
– Là sự tổ chức cốt truyện với các tình tiết, sự kiện, biến cố theo
một diễn biến logic, chặt chẽ, nhất quán về:
+ Thời gian
+ Không gian
+ Sự kiện
– Hành động kịch được thực hiện bởi các nhân vật kịch.
Nhân vật kịch:
– Thực hiện hành động kịch.
– Được xây dựng bằng ngôn ngữ (lời thoại) của họ.
– Qua lời thoại và hành động kịch nhân vật bộc lộ đặc điểm,
tính cách của mình.
Ngôn ngữ kịch:
– Lời thoại của nhân vật (độc thoại, đối thoại, bàng thoại)
+ Khắc họa tính cách nhân vật
+ Mang tính hành động và tính khẩu ngữ cao
+ Bộc lộ chủ đề tác phẩm
– Lời chú thích của tác giả
+ Thể hiện bằng chữ in nghiêng ở trong dấu ngoặc đơn ()
+ Tạo tình huống và bối cảnh cho diễn xuất
+ Bộc lộ tâm trạng, tính cách của nhân vật
Phân loại
kịch
– Căn cứ vào tính truyền thống hay hiện đại: Kịch dân gian
(chèo, tuồng, cải lương…), kịch cổ điển, kịch hiện đại.
– Căn cứ vào tính chất: Bi kịch, hài kịch, chính kịch (xung đột
trong cuộc sống), kịch lịch sử.
– Căn cứ vào ngôn ngữ diễn đạt: Kịch nói, kịch hát múa, kịch
thơ, kịch rối, kịch câm…

 Đọc – hiểu văn bản kịch theo đặc trưng thể loại.
7
Theo GS Phùng Văn Tửu trong công trình Cảm thụ và giảng dạy văn học
nước ngoài đã có những ý kiến đóng góp về việc dạy đọc kịch như sau: “Khi
giảng kịch, chúng ta chú ý đến đặc trưng của loại hình nghệ thuật này để học
sinh khỏi rơi vào tình trạng thấy học kịch chẳng khác gì truyện ngắn hay tiểu
thuyết …Bài giảng chủ yếu dựa trên văn bản kịch nhưng đồng thời phải giúp
học sinh hình dung được phần nào ánh đèn sân khấu”. Như vậy khi đọc hiểu
một văn bản kịch cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu đặc trưng của kịch: xung đột
kịch, hành động và ngôn ngữ kịch, gắn liền với những đặc trưng trên là kết cấu,
bối cảnh, không gian, thời gian…từ đó làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật,
chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Yêu cầu đọc văn bản kịch theo đặc trưng thể loại
Tìm hiểu
phần Tiểu
dẫn
– Tác giả: cuộc đời, phong cách tác giả
– Tác phẩm: xuất xứ, thời đại mà tác phẩm ra đời, tóm tắt
tác phẩm, vị trí đoạn trích…
Tìm hiểu đặc
trưng của
kịch
Tìm hiểu xung đột kịch
– Phát hiện các biểu hiện của xung đột, tính trình phát triển của
xung đột.
– Phân tích xung đột làm nổi bật chủ đề tư tưởng, ý nghĩa xã
hội của tác phẩm
Tìm hiểu hành động kịch
– Tìm hiểu các chi tiết, sự kiên, biến cố tạo nên diễn biến cốt
truyện.
– Phân tích để làm nổi bật tính cách, số phận của nhân vật.
Tìm hiểu ngôn ngữ kịch
– Phát hiện kiểu lời thoại của nhân vật
– Phân tích lời thoại để xác định quan hệ giữa các nhân vật
– Phân tích lời thoại để tìm hiểu đặc điểm tính cách của từng
nhân vật
Tìm hiểu các đặc trưng khác: kết cấu, bối cảnh, không gian
thời gian….
Tổng kếtKhái quát chủ đề tư tưởng, đánh giá giá trị nội dung và nghệ
thuật của văn bản kịch.

Lưu ý: Tùy từng văn bản kịch, giáo viên nên lựa chọn đặc trưng nổi trội nhất,
thành công nghệ thuật đặc sắc nhất, có ảnh hưởng lớn đến việc thể hiện tư
tưởng của vở kịch để hướng dẫn học sinh khai thác. Các yếu tố trên không tách
biệt mà đan cài, thể hiện lẫn nhau.
8
Ví dụ: Với đoạn trích kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, giáo viên có thể tổ chức
hướng dẫn học sinh khai thác : Xung đột kịch, nhân vật kịch (thông qua hành
động và lời thoại của nhân vật) từ đó nhấn mạnh chủ đề, tư tưởng của vở kịch.
II.2.3. Tạo giờ Đọc – hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài mang tính
đối thoại – một môi trường lí tưởng phát triển tư duy phản biện cho học
sinh.
“Để một giờ một giờ học Văn trở thành một giờ hấp dẫn, sôi nổi, một giờ
hứng thú với học sinh, để sau đó học sinh say mê, nghĩ thêm, tìm tòi và các em
suy nghĩ bằng trí óc của mình” (dẫn lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) các nhà
phương pháp đã đưa ra kiểu giờ học đối thoại. Một giờ học hiện đại phải có
những đối thoại sôi nổi trong một không khí thực sự dân chủ. Giờ học đó sẽ giúp
học sinh có sự tương tác hai chiều giữa học sinh – giáo viên, học sinh – học
sinh, học sinh không ngần ngại tỏ quan điểm của mình, tự tin đưa ra những phản
biện để tranh luận với bạn bè, thầy cô về một vấn đề nào đó trong bài học. Đối
thoại trong giờ học không chỉ để chân lý xuất hiện “Làm cho người ta muốn
biết, tranh luận, đối thoại, chân lý sẽ xuất hiện” mà còn là môi trường lý tưởng
để phát triển tư duy phản biện cho học sinh..
Vậy để có một giờ Đọc – hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài dân chủ,
mang tính đối thoại, tạo cho học sinh một môi trường tốt phát triển tư duy phản
biện, giáo viên làm gì?
– Niềm cảm hứng của giáo viên với môn học sẽ thúc đẩy cảm xúc, khát
khao bộc lộ tiếng nói bên trong của học sinh. “Tổ chức một cuộc đối thoại làm
cho cả thầy và trò rực cháy lửa trong tâm hồn” (Bùi Văn Nguyên) thì “người
thầy là ngọn nến, đốt cháy mình”. Rõ ràng thầy muốn “truyền lửa” cho học trò
thì trong tim thầy cần có “lửa” và “chỉ những điều xuất phát từ trái tim mới đến
được trái tim” và khi trái tim các em có cảm xúc thì sự sáng tạo sẽ thăng hoa.
– Giáo viên chủ động trao đổi, lắng nghe chia sẻ của học sinh về nội dung
bài học, về những vấn đề liên quan đến văn bản. Thường xuyên khích lệ, động
viên các em mạnh dạn thể hiện quan điểm của mình. Thực tế, có nhiều học sinh
trong lớp có tư duy phản biện, có kĩ năng phản biện tốt cùng có kiến thức
chuyên sâu nhưng bản tính nhút nhát, không thích thể hiện nên e ngại phản biện.
Khi đó, người giáo viên tinh tế biết động viên, khích lệ kịp thời sẽ thúc đẩy tinh
thần hăng hái, sự mạnh dạn trong các em ( VD: Trong bài viết em luôn có những
lập luận sắc sảo, cô muốn được nghe quan điểm của em về vấn đề này? Em cứ
mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình…). Nếu ý kiến của học sinh tốt, giáo viên cần
khen ngợi, nếu ý kiến chưa hợp lí, giáo viên không nên dùng những “đòn phủ
đầu” mà trân trọng lắng nghe học sinh trình bày trọn vẹn ý kiến, động viên học
sinh cố gắng trong nhưng câu trả lời sau, đôi khi dùng những lời nhận xét pha
9
chút dí dỏm, hài hước để học sinh vui vẻ, không rơi vào trạng thái tự ti (Một học
sinh vì quá yêu mến, ngưỡng mộ tài năng của Vũ Như Tô nên đã ra sức bảo vệ
cho nhân vật, dứt khoát khẳng định việc xây Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô là
đúng, hành động dân chúng nổi loạn giết Vũ Như Tô và đốt Cửu Trùng Đài là
hành động chà đạp lên cái Tài, cái Đẹp không thể chấp nhận được. Trong tình
huống đó, giáo viên ứng xử như thế nào? Trước hết, giáo viên đứng từ góc nhìn
của học sinh để đồng cảm đồng thời mong muốn học sinh hãy đặt mình trong
vai trò của thợ thuyền bị tróc sức, của nhân dân bị tróc thuế xây Cửu Trùng Đài
để nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn…). Thiết nghĩ, một giờ học thoải mái,
thân thiện, dân chủ, nhân văn như thế sẽ khuyến khích học sinh dám nghĩ và
dám phản biện và dám bày tỏ những suy nghĩ mới mẻ, riêng biệt.
– Phương pháp đàm thoại – vấn đáp cùng với kĩ thuật đặt câu hỏi, đặc biệt là
những câu hỏi mở và những câu hỏi có vấn đề để kích thích sự tương tác và
phản biện từ học sinh góp phần tạo nên một giờ học văn mở mang tính đối thoại
cao.
– Riêng tôi, kết thúc bài học bao giờ tôi cũng dành ít phút chia sẻ với học
sinh về những bài học, thông điệp rút ra trong tác phẩm, liên hệ với những tác
phẩm khác, liên hệ trong cuộc sống hàng ngày (VD: Tôi chia sẻ với học sinh:
“Chiếc lá cuối cùng” của người họa sĩ già trong tác phẩm cùng tên đã mang lại
niềm hi vọng sống cuối cùng cho Giôn – xi, dòng chữ cuối cùng của Huấn Cao
trong tác phẩm Chữ người tử tù đã làm nghẹn ngào viên quản ngục “Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh!” để từ đó học sinh sẽ thấm thía hơn sức mạnh của nghệ
thuật và khẳng định một lần nữa, nghệ thuật “xanh biếc với thời gian” khi nghệ
thuật vì cuộc sống con người. Đây chính là thông điệp của đoạn trích. Sau đó,
tôi tiếp tục phát vấn học sinh: Thông điệp đó có phù hợp với hiện tại không?
Hãy bày tỏ quan điểm của em bằng những minh chứng cụ thể trong thực tế.). Sự
chia sẻ đó không chỉ tạo mối quan hệ thầy trò thân thiện mà còn giúp văn học
gắn với cuộc đời.
II.2.4. Vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khi Đọc – hiểu
đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài để phát triển tư duy phản biện.
Môn Ngữ văn là môn học đặc thù, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó đòi hỏi người sáng tác phải có nét gì đó rất
riêng, biết “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có”. Cho
nên khi Đọc – văn, học sinh luôn khao khát tìm những giá trị mới mẻ của tác
phẩm. Trước mỗi văn bản, các em luôn có cách nhìn, cách cảm riêng, một
hướng khám phá tác phẩm riêng mà giáo viên luôn trân trọng. Các em chính là
những bạn đọc sáng tạo, bằng tư duy và khả năng lập luận của mình sẽ phát hiện
ra những chân lí mới mẻ, sâu sắc hơn của văn bản. Muốn phát huy được điều đó,
10
thiết nghĩ người giáo viên phải luôn đổi mới trong phương pháp dạy học, biết
vận dụng đa dạng và linh hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
Trong giờ Đọc – hiểu văn bản nói chung, giờ Đọc – hiểu đoạn trích Vĩnh
biệt Cửu Trùng Đài (Trích kịch Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) nói riêng, tôi
đã vận dụng đa dang và linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực để phát
triển tư duy phản biện của các em. Sự đổi mới trong phương pháp dạy học đó
không chỉ giúp học sinh có cái nhìn đa diện nhiều chiều về văn bản, cảm nhận
được “bề sâu, bề sau, bề xa” của một tác phẩm nghệ thuật mà còn hình thành
trong các em năng lực phản biện.
a. Dưới đây là một số phương pháp dạy học tích cực được sử dụng trong
Đọc – hiểu đoạn trích.

Phương
pháp
Khái niệm và cách tiến
hành
Vận dụng phương pháp trong Đọc
hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng
Đài.
Đàm
thoại gợi
mở
– Phương pháp đàm
thoại gợi mở là cách
thức giáo viên đặt ra
một hệ thống câu hỏi, tổ
chức cho học sinh trả
lời, có thể trao đổi qua
lại, tranh luận với nhau
và với giáo viên, qua đó
học sinh lĩnh hội được
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
– Theo quan điểm phát
triển năng lực, phương
pháp này không chỉ
hướng tới học sinh tiếp
nhận tri thức mà chủ
yếu hướng tới rèn luyện
kĩ năng, thái độ, sự vận
dụng tổng hợp các tri
thức, kĩ năng, thái độ để
giải quyết nhiệm vụ
trong thực tiễn cuộc
sống và học tập của học
sinh.
*Theo tôi, đây là phương pháp giáo viên
nên dùng suốt trong quá trình Đọc –
hiểu đoạn trích. Đàm thoại tạo sự thân
thiện, gắn kết giữa giáo viên và học sinh,
gợi mở để phát triển tư duy sáng tạo
cũng như thúc đẩy tư duy phản biện ở
các em.
Khi Đọc – hiểu đoạn trích, tôi đã sử
dụng phương pháp này để giúp học sinh
khám phá tri thức về tác giả, tác phẩm
trong phần Tiểu dẫn. Các bước thực hiện
như sau:
– Bước 1: Giáo viên đặt câu hỏi chính
Câu hỏi chính: Trình bày những hiểu
biết của em về nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô.
– Bước 2: Giáo viên đặt những câu hỏi
gợi ý liên quan đến câu hỏi chính.
Câu hỏi 1: Kể tên tác phẩm đã học
trong chương trình THCS của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng. Hình ảnh nào trong
tác phẩm để lại cho em ấn tượng sâu

11

– Cách tiến hành:
+ Giáo viên có thể dựa
vào tính chất nhận thức,
khả năng thực hành, vận
dụng của học sinh mà
chia câu hỏi thành các
loại sau: câu hỏi tái hiện
kiến thức, kinh nghiệm;
câu hỏi yêu cầu giải
thích, minh họa; câu hỏi
yêu cầu tìm tòi, phát
hiện; câu hỏi yêu cầu
thực hành, vận dụng. Hệ
thống câu hỏi của giáo
viên giữ vai trò định
hướng hoạt động nhận
thức và khả năng thực
hành, vận dụng của học
sinh.
+ Quy trình tổ chức hoạt
động đàm thoại
Bước 1: Giáo viên đặt
câu hỏi chính.
Bước 2: Giáo viên tổ
chức cho học sinh suy
nghĩ và trả lời câu hỏi.
Tùy tình hình học sinh
trả lời, giáo viên có thể
thêm những câu hỏi gợi
ý liên quan đến câu hỏi
chính rồi hướng dẫn học
sinh trả lời lần lượt từng
câu hỏi gợi ý. Học sinh
sau bổ sung và hoàn
chỉnh thêm câu trả lời
của học sinh trước. Ở
bước này, việc thu thập
đậm nhất? Vì sao?
Câu hỏi 2: Từ tiểu thuyết Lá cờ thêu
sáu chữ vàng đến vở kịch Vũ Như Tô,
em thấy có những điểm thống nhất và
chuyển biến nào trong sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng?
Câu hỏi 3: Em hiểu như thế nào về
quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng:
Người không biết lịch sử nước nhà là
một con trâu đi cày ruộng. Cày với ai
cũng được mà cày ruộng nào cũng
được.?
Câu hỏi 4: Nhà văn Tô Hoài cho rằng
“Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại
mà nó ra đời”. Vậy thời đại nào được
soi bóng trong tác phẩm Vũ Như Tô?
Câu hỏi 5: Có ý kiến cho rằng: văn bản
thuộc thể bi kịch. Ý kiến khác lại khẳng
định: văn bản là kịch lịch sử. Ý kiến của
em thế nào?
Với hệ thống câu hỏi tái hiện kiến thức,
câu hỏi giải thích minh họa, câu hỏi tìm
tòi, câu hỏi tổng hợp khái quát trên, học
sinh chủ động từng bước mở ra những ô
kiến thức về tác giả, tác phẩm một cách
hứng thú nhất.
– Bước 3: Giáo viên đánh giá kết quả
hoạt động của học sinh và kết luận.
( Đã được thể hiện trong thiết kế bài
dạy)

12

thông tin để trả lời cho
mỗi câu hỏi có thể được
cân nhắc bằng hình thức
đàm thoại giữa giáo
viên – học sinh hay đàm
thoại giữa học sinh –
học sinh.
Bước 3: Sau khi trả lời
đúng và đủ thông tin
cho câu hỏi chính thì
giáo viên nhận xét, đánh
giá về kết quả hoạt động
của học sinh và kết
luận.
Phương
pháp
đóng vai
– Đây là phương pháp
mà ở đó người học sẽ
hóa thân vào một vai
“giả định” trong một
tình huống hành động
cụ thể để hành động,
trình bày suy nghĩ, cảm
nhận từ chỗ đứng, góc
nhìn của vai mà họ đảm
nhận.
– Trong môn Ngữ văn,
phương pháp đóng vai
được thực hiện trong
một số nội dung học tập
sau: vào vai một nhân
vật kể lại câu chuyện đã
học, chuyển thể một văn
bản văn học thành một
kịch bản sân khấu, xử lý
một tình huống giao tiếp
giả định, trình bày một
vấn đề, một ý kiến từ
các góc nhìn khác
nhau…
* Để giờ học sinh động, hấp dẫn có sức
lôi cuốn học sinh vào hoạt động học,
giáo viên chủ động tổ chức cho học sinh
trải nghiệm, nhập thân vào các nhân vật
kịch, trong vai trò tác giả để cảm nhận
được hành động, tính cách, nội tâm nhân
vật, lí giải được những mâu thuẫn xung
đột kịch, thấm thía những thông điệp mà
đoạn trích kịch mang lại. Mặt khác, khi
để học sinh “đóng vai” cũng là cách để
các em tiếp cận bài học từ các góc nhìn
khác nhau, từ đó lĩnh hội kiến thức một
cách toàn diện, sâu sắc hơn.
* Phương pháp đóng vai được thực hiện
trong giờ học như sau:
– Tổ chức học sinh đọc phân vai: GV
hướng dẫn cách đọc của từng vai đọc.
Đọc chính là bước khởi đầu học sinh
thâm nhập vào tác phẩm. Chú ý dựa vào
các chỉ dẫn sân khấu để thể hiện giọng
đọc cho phù hợp với tình huống kịch:
+ Giọng Đan Thiềm lo lắng, hốt hoảng
cứng cỏi, đau đớn.

13

– Quy trình thực hiện:
Bước 1: Giáo viên đưa
chủ đề, chia thành từng
nhóm và giao tình
huống cho các nhóm
đồng thời quy định rõ
thời gian mỗi vai thực
hiện, xác định mục đích
thực hiện.
Bước 2: Các nhóm phân
chia vai diễn, thảo luận
đóng vai.
Bước 3: Các nhóm lần
lượt thực hành đóng vai
Bước 4: Các thành viện
còn lại trong lớp nhận
xét , đánh giá về cảm
xúc , cách ứng xử của
nhân vật đóng vai
Bước 5: Các giáo viên
kết luận và định hướng
về cách ứng xử phù hộ
nhất
+ Giọng Vũ Như Tô thì băn khoăn, chất
chứa những câu hỏi lớn vừa nhức nhối,
vừa da diết; vừa khắc khoải và cuối
cùng là đau đớn tột độ.
+ Giọng quân lính hỗn hào.
+ Giọng cung nữ bợ đỡ, lẳng lơ…
– Giáo viên tổ chức cho HS diễn kịch
(đã chuẩn bị trước):
+ Một HS đóng vai trò MC đồng thời là
người dẫn chuyện, dẫn dắt để vào vở
diễn.
+ HS các tổ lần lượt diễn theo lớp kịch
đã được phân công. Khi diễn chú ý thể
hiện tính cách, xung đột , hành động
kịch và bài học được rút ra.
+ HS còn lại thưởng thức và nhận xét về
diễn xuất của các tổ.
+ GV đánh giá, biểu dương, dẫn dắt vấn
đề.
– GV chia lớp thành 4 nhóm (nhóm 1:
vua chúa, nhóm 2: Vũ Như Tô, nhóm 3:
dân chúng, nhóm 4: tác giả) yêu cầu
thay lời nhân vật để trình bày quan điểm
về vấn đề: nên hay không nên xây dựng
Cửu Trùng Đài? Là tác giả vở kịch, em
hãy chia sẻ với bạn đọc vì sao mâu
thuẫn thứ 2 chưa thể giải quyết triệt để
được?
Trong những tình huống giả định này,
học sinh sẽ bày tỏ quan điểm của mình
từ những góc nhìn khác nhau, có khi đối
nghịch. Từ cuộc tranh luận kịch liệt của
các vai, học sinh sẽ thấy sự phát triển
cao trào của xung đột, mối quan hệ của
các mâu thuẫn và phần nào hiểu được vì
sao xung đột thứ 2 không thể giải quyết
triệt để.

14

– Kết thúc bài học, trong phần tìm tòi mở
rộng, giáo viên cho học sinh tưởng
tượng về những cuộc gặp gỡ thú vị của 2
nhà văn: Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao
bàn về của nghệ thuật, dụng ý xây dựng
bi kịch các nhân vật của nhà văn; cuộc
gặp gỡ của các nhân vật Vũ Như Tô,
Đan Thiềm và Huấn Cao cùng quản
ngục bày tỏ khát vọng nghệ thuật và làm
thế nào để cái đẹp và người tài được tôn
vinh. Như thế, trong các vai của mình,
học sinh sẽ thoải mái tự nhiên đưa ra
quan điểm.
Dạy học
phát hiện
và giải
quyết
vấn đề
Đây là phương pháp dạy
học trong đó giáo viên
tạo ra những tình huống
có vấn đề, điều khiển
học sinh phát hiện vấn
đề, hoạt động tự giác,
tích cực, chủ động, sáng
tạo để giải quyết vấn đề
và thông qua đó chiếm
lĩnh tri thức, rèn luyện
kĩ năng và đạt được
những mục đích học tập
khác. Đặc trưng cơ bản
của dạy học phát hiện
và giải quyết vấn đề là
“tình huống gợi vấn đề”
vì “Tư duy chỉ bắt đầu
khi xuất hiện tình huống
có vấn đề” (Rubinstein).
– Phương pháp này góp
phần tích cực vào việc
rèn luyện tư duy phê
phán, tư duy sáng tạo
cho HS, tạo sẵn một
năng lực thích ứng với
* Khi Đọc- hiểu đoạn trích, giáo viên
cần khai thác triệt để phương pháp phát
hiện và giải quyết vấn đề. Bởi lẽ, đoạn
trích có rất nhiều vấn đề đặt ra và cần
được giải quyết như cách giải quyết mâu
thuẫn trong vở kịch, bi kịch của Vũ Như
Tô, bệnh Đan Thiềm, kết thúc bi thảm.
– Ngay phần khởi động giáo viên dẫn dắt
học sinh phát hiện vấn đề:
Sau khi khám phá những hình ảnh về:
1. Tháp Eifel
2. Kim tự tháp Ai Cập
3. Tháp Babel (Kinh thánh)
4. Cửu Trùng Đài
GV và HS đều phát hiện ra vấn đề:
Cùng là những công trình kiến trúc độc
đáo thể hiện những ý tưởng siêu việt của
con người, nhưng tại sao có công trình
như tháp Tháp Eifel, Kim tự tháp Ai Cập
được hoàn thiện và trường tồn với thời
gian, lại có những thiết kế mãi mãi
không thể thành hiện thực, và loài người
vẫn mãi nhắc đến nó với những cảm xúc
khác nhau. Một trong những công trình

15

đời sống xã hội, phát
hiện kịp thời và giải
quyết hợp lý các vấn đề
phát sinh.. Trên cơ sở sử
dụng vốn kiến thức và
kinh nghiệm đã có HS
sẽ xem xét, đánh giá,
thấy được vấn đề cần
giải quyết và tìm ra
cách giải quyết vấn đề
tốt nhất.
– Quy trình thực hiện:
Bước 1: Phát hiện
hoặc thâm nhập vấn
đề
Phát hiện vấn đề từ một
tình huống gợi vấn đề
Giải thích và chính xác
hóa tình huống (khi cần
thiết) để hiểu đúng vấn
đề được đặt ra
Phát biểu vấn đề và đặt
mục tiêu giải quyết vấn
đề đó
Bước 2: Tìm giải pháp
Tìm cách giải quyết vấn
đề, thường được thực
hiện theo sơ đồ sau:
tâm huyết của người nghệ sĩ không được
thực hiện ấy, chính là Cửu Trùng Đài?
Như vậy trong cả tiết học, học sinh sẽ
trăn trở, tự khám phá đưa ra các lập luận
riêng để giải quyết vấn đề trên, câu trả
lời sẽ dành ở cuối bài học. Học sinh sẽ
nhận ra:
– Cửu Trùng Đài có thể coi là một
bông hoa ác, nó không mang lại hương
thơm, mật ngọt dâng cho đời, nó chỉ để
thỏa mãn dục vọng của kẻ hôn quân,
khát vọng của người nghệ sĩ, nó làm cho
dân gian khốn khổ điêu linh bởi đài
càng cao, mạng người càng rẻ mạt,
nhân dân càng điêu đứng.
– Như vậy, cái ĐẸP gắn liền với cái
ÁC tất yếu phải diệt vong. Chỉ khi cái
ĐẸP gắn liền với cái THIỆN, cái NHÂN
VĂN, cái CAO CẢ thì mới mãi trường
tồn, mới xứng đáng được tôn vinh. Đó
mới chính là nghệ thuật chân chính.
– Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về
nhân vật Vũ Như Tô, giáo viên cũng đưa
ra những vấn đề để học sinh thảo luận,
buộc các em phải đưa ra những lập luận
của mình để giải quyết vấn đề, biết
phản biện những ý kiến trái chiều, chưa
thuyết phục của người khác bằng lập
luận chặt chẽ thuyết phục của mình.
Học sinh thảo luận: Nhà văn Nga
T.Sêkhốp cho rằng “Một nghệ sĩ chân
chính phải là một nhà nhân đạo từ trong
cốt tủy”. Vậy theo em, Vũ Như Tô có
được coi là người nghệ sĩ chân chính?
Để giải quyết vấn đề trên, học sinh phải
biết cách lập luận: Hiểu quan niệm
Sêkhốp như thế nào? Quan niệm của

16

Bước 3: Trình bày giải
pháp
HS trình bày lại toàn bộ
từ việc phát biểu vấn đề
tới giải pháp. Nếu vấn
đề là một đề bài cho sẵn
thì có thể không cần
phát biểu lại vấn đề.
Bước 4: Nghiên cứu
sâu giải pháp
Tìm hiểu những khả
năng ứng dụng kết quả
Đề xuất những vấn đề
mới có liên quan nhờ
xét tương tự, khái quát
hóa, lật ngược vấn đề,…
và giải quyết nếu có thể.
em về người nghệ sĩ chân chính? Từ các
phương diện của người nghệ sĩ , từ lợi
ích của nhân dân đánh giá về Vũ Như
Tô…Khi trả lời câu hỏi này chắc chắn
sẽ có nhiều quan điểm trái chiều nên đòi
hỏi học sinh phải có tư duy đa chiều, kĩ
năng phản biện mới có thể thuyết phục
người khác.
Học sinh thảo luận: Trong lớp kịch thứ 5
Đan Thiềm giục Vũ Như Tô trốn. Nàng
cảnh báo “ông đừng mơ mộng nữa”. Mơ
mộng và vỡ mộng, phải chăng đó là tâm
trạng đầy bi kịch của người nghệ sĩ tài
hoa?
Để giải quyết câu hỏi này, học sinh cần
có tư duy phản biện, cần có lập luận
logic, thuyết phục. Học sinh xác định
được: mộng lớn của Vũ Như Tô? Ảo
vọng của Vũ Như Tô bắt đầu từ đâu?
Trong thời khắc đầy biến động dữ dội,
sự thật phũ phàng dội xuống, Vũ Như Tô
có thoát khỏi mơ mộng? Đâu là khoảnh
khắc ông nhận ra mộng lớn đã tan tành?
Tâm trạng của ông trong khoảnh khác
đó? Vũ Như Tô đã rơi vào bi kịch nào?
Nỗi đau vỡ mộng của Vũ Như Tô thức
tỉnh ta điều gì?
– Kết thúc vở kịch cũng là điều mà giáo
viên và học sinh trăn trở như:
– Tại sao không để Vũ Như Tô còn
sống và Cửu Trùng Đài “vẫn cao cả,
huy hoàng giữa cõi trần lao lực”?Đề
xuất cách nào đó có thể giữ được cả cái
đẹp, người tài?
– Kết thúc truyện Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân và Vĩnh biệt Cửu
Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng đều
là cái chết của người nghệ sĩ. Theo em,

17

đó có thể coi là những cái kết tương
đồng, là “sự lặp lại người khác” của hai
nhà văn?
Thảo
luận
Socratic
Đối thoại
Socratic
(còn gọi
là phương
pháp truy
vấn biện
chứng)
– Là hình thức hỏi – đáp
trên tinh thần dân chủ
để từ đó những người
tham gia cuộc đối thoại
dần tiệm cận chân lý về
vấn đề mình đang thảo
luận. Thông qua hình
thức thảo luận nhóm,
phương pháp thảo luận
Socratic chủ yếu thúc
đẩy học sinh giúp đỡ lẫn
nhau để hiểu những ý
tưởng, những vấn đề,
những giá trị được phản
ánh trong văn bản văn
học
– Thảo luận Socratic là
một phương pháp giảng
dạy mà trong đó, người
thầy không có câu trả
lời chính xác cho những
câu hỏi. Hầu như tất cả
những câu hỏi đều được
trả lời bằng một câu hỏi
khác. Người thầy đóng
vai trò như người dẫn
đường, giúp học trò
nhận rõ được vấn đề và
tự tìm câu trả lời cho
câu hỏi của mình. Qua
cách hỏi để gợi ý, câu
trả lời thật sự phát xuất
từ người trò.
– Tiến trình thảo luậ

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay