Người Do Thái chỉ chiếm 0,3% dân số toàn cầu nhưng lại có tới 11,6% các tỷ phú thế giới. Họ có 5 tư duy đơn giản mà hiệu quả giúp kiếm bộn tiền trong đó tư duy số 1: Thông tin là nhân tố quan trọng nhất trong kinh doanh.
Trước thời đại bùng nổ công nghệ như hiện nay, thông tin trở thành yếu tố quan trọng của các doanh nghiệp, quyết định nhiều mặt. Nắm được những thông tin mới nhất, chính xác nhất trong thời gian ngắn nhất sẽ giúp doanh nghiệp đạt được thành công ngoài mong đợi.
Tuy nhiên, ngay từ hơn 100 năm trước, người Do Thái đã hiểu ra được tầm quan trọng của thông tin. Họ luôn tin rằng trong kinh doanh, thông tin còn quan trọng hơn cả tài chính dồi dào. Bởi nếu công ty có nguồn tài chính dư dả, dễ dàng quay vòng vốn nhưng trong khâu nắm bắt thông tin chậm chạp thì cũng không thể phát triển, sớm muộn cũng phá sản.
Có một câu nói nổi tiếng được ghi lại trong cuốn sách “Talmud” của người Do Thái là: “Cho dù là gió thì cũng cần dùng mũi ngửi hay thực hiện nhiều biện pháp khác để tìm nguồn gốc của nó sớm nhất”.
Các tỷ phú, doanh nhân người Do Thái cực kỳ quan tâm đến các thông tin thương mại. Đây là cơ hội giúp họ nắm bắt xu hướng thị trường và đưa ra những phương án chính xác nhất cho doanh nghiệp. Và chính bởi luôn cập nhật thông tin sớm mà họ đã thành công sau khi vượt qua bao khó khăn, trở thành những người có sức ảnh hưởng toàn cầu.
Philippe Yamer là giám đốc của Công ty Chế biến thịt Yamer, ông thường có thói quen đọc báo, theo dõi tin tức mỗi ngày. Điều này đã giúp ông biết được tin tức về bệnh dịch hạch ở Mexico.
Và để xác nhận đây có phải thông tin chính xác hay không, ông đã cử người đến Mexico tìm hiểu thực tế, biết được bệnh dịch hạch quy mô lớn đang diễn ra. Philippe Yamer cho rằng dịch bệnh sẽ gây ảnh hưởng thị trường kinh doanh, làm ảnh hưởng cả 2 vùng California và Texas.
Mà 2 địa điểm này chính là những địa phương cung cấp thịt quan trọng của Bắc Mỹ. Vậy nên một khi dịch bệnh bùng phát, nguồn cung cấp thịt bị đứt đoạn, ảnh hưởng tới thị trường và đẩy giá thịt lên cao.
Chính vì thế, ông quyết định sẽ tích trữ dần thực phẩm và bán số thịt ra ngoài với giá cao, thu về khoản lãi hơn 9 triệu USD (khoảng 212 tỷ đồng) trong 3 tháng.
Mặc dù việc kinh doanh này sau đó cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều về đạo đức con người khi tích trữ lương thực. Tuy nhiên, nó cũng trở thành một bài học lớn trong kinh doanh của người Do Thái, thể hiện tầm quan trọng của thông tin trong kinh doanh.
Trong hơn 2000 năm, người Do Thái ly biệt quê hương và tản mạn đi khắp mọi khu vực của trái đất. Mãi đến năm 1947, khi chiến tranh thế giới thứ 2 chấm dứt, người Do Thái mới trở về đất nước của mình.
Nhưng mà, là một dân tộc dù phải lang bạt hơn 2000 năm, nhưng Do Thái lại là dân tộc duy nhất không có ăn mày.
Người Israel trồng lúa trên sa mạc
Giáo viên vĩ đại hơn cả Quốc vương
Người Do Thái cho rằng: Giáo viên vĩ đại hơn cả Quốc vương. Họ vô cùng kính trọng giáo viên.
Dựa vào học tập, tri thức và sách, người Do Thái dù lang thang ở bất kể nơi đâu họ cũng đều có thể sinh tồn, hơn nữa còn phát triển mạnh mẽ.
Người Do Thái là một dân tộc có tín ngưỡng tôn giáo mạnh mẽ. Họ coi học tập là một phần của tín ngưỡng, học tập là một hình thức thể hiện sự tôn kính của mình đối với Thượng đế.
Mỗi người Do Thái đều cần phải đọc sách. Do Thái là một trong 6 quốc gia đọc sách nhiều nhất trên thế giới. Bộ sách làm nền tảng cho tất cả các cộng đồng Do Thái, đó là Talmud.
Một trang trong kinh Talmud của người Do Thái
Talmud chính là nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái. Talmud có nghĩa là “nghiên cứu” hoặc “nghiên cứu và học tập”.
Talmud cho rằng: “Học tập là thứ giúp hành vi hướng thiện, là nguồn gốc của đức hạnh. Sự thành kính, lương thiện, ôn hòa, ưu nhã của một người đều là dựa vào kết quả của giáo dục.”
Người Do Thái coi sách là bảo bối của cả đời. Giá sách không được đặt ở đầu giường hay cuối giường nếu không sẽ bị coi là bất kính với sách.
“Trí tuệ quan trọng hơn tri thức”
Như thế nào là tri thức?
Tri thức chính là thực tế khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật.
Còn trí tuệ là đem thực tế khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật tiến hành tổng hợp ra một phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề.
Đối với con người, quan trọng nhất là cái gì?
Là đến từ trí tuệ, mà trí tuệ lại đến từ tri thức. Mục đích của đọc sách là để mở rộng tri thức, sau khi đã chuẩn bị được nguồn tri thức phong phú, bạn sẽ học được cách suy xét.
Bạn sẽ minh bạch được đạo lý làm người hoặc là sẽ tìm được cách thức giải quyết vấn đề. Đây chính là trí tuệ!
Vì vậy, trí tuệ đến từ tri thức và quan trọng hơn tri thức!
Người Do Thái ủng hộ sáng tạo cái mới
Họ cho rằng, việc sáng tạo ra cái mới chính là trí tuệ, phải dám hoài nghi, dám đặt câu hỏi bất cứ lúc nào, bởi vì tri thức càng nhiều sẽ càng sản sinh ra sự hoài nghi.
Người Trung Quốc thường hỏi con cái khi chúng tan trường là: “Hôm nay con làm bài thế nào?”
Còn người Do Thái sẽ hỏi con: “Hôm nay con có đưa ra câu hỏi nào không?” hoặc “Hôm nay con có gì khác hôm qua không?”
Người Do Thái cho rằng, thông qua học tập mọi người có thể nhận thức chính mình và siêu việt chính mình.
Cách giáo dục của người Do Thái bao gồm cả đóng và mở.
Đối với nội bộ người Do Thái là cởi mở, còn đối với bên ngoài là đóng kín, để duy trì sự cạnh tranh sinh tồn của người Do Thái. Talmud là kinh thánh chuẩn.
Trên thế giới, dân tộc Do Thái là dân tộc hiểu nhất về nghệ thuật của giáo dục. Có thể nói, người Do Thái là dân tộc thành công nhất về giáo dục.
Người Do Thái cho rằng giáo dục có thể cải biến đời người, số mệnh, cải biến hết thảy.
Vì vậy, trong hơn 2000 năm lang bạt trong lịch sử, hết thảy mọi thứ của họ đều bị cướp đoạt hết chỉ có sách và tri thức là không thể bị cướp mất.
Người Do Thái vô cùng coi trọng giáo dục, tri thức và sách. Chỉ có tri thức là tài phú quan trọng nhất, là tài sản có thể mang theo bên mình và còn cả đời có thể hưởng dụng.
Vì thế, người Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới xóa mù chữ.
Từ trước năm 1947, ngay cả một mảnh đất lãnh thổ cũng không có. Thế nhưng, trong thời kỳ trung cổ, người Do Thái đã xóa mù chữ, vì vậy tố chất chỉnh thể của dân tộc này cao hơn của các dân tộc khác một bậc.
Dù với dân số ít ỏi, nhưng Do Thái là dân tộc đã giành được rất nhiều giải thưởng Nobel, với 169 người, chiếm 17.7% tổng số người giành được giải thưởng này của cả thế giới.
Chính những yếu tố này đã khiến cho người dân Do Thái dù phải phiêu bạt khắp thế giới hơn 2000 năm, nhưng lại là một nước duy nhất trên thế giới không có ăn mày.
Bạn có biết rằng trung bình một người Ấn Độ dành 10 tiếng 42 phút một tuần cho việc đọc sách. Hay người Israel đặt cả những cuốn sách ở nghĩa trang để các linh hồn tiếp tục đọc? Dưới đây là danh sách 6 quốc gia đọc sách nhiều nhất trên thế giới. Bài viết dưới đây sử dụng số hiệu năm 2014 nhưng hiện tại vẫn rất ý nghĩa và rất đáng để suy ngẫm.
Bản đồ các quốc gia đọc sách nhiều nhất năm 2014, màu xanh càng đậm là đọc nhiều hơn, màu vàng là không có thông tin.
1. Ấn Độ – quốc gia đọc sách nhiều nhất
Năm ngoái (2014), đất nước Nam Á này đã được NOP World Culture Score Index xếp hạng nhất trong khảo sát về thời gian đọc sách trung bình của người dân. Theo đó, thời gian đọc sách trung bình một tuần của một người Ấn Độ lên đến gần 11 giờ (10 giờ 42 phút).
Mặc dù là quốc gia có trình độ dân trí giữa các tầng lớp rất cách biệt với số người biết chữ chỉ chiếm 27,4% dân số nhưng có đến 25% số người trẻ đọc sách thường xuyên và 49% số người được đi học đọc sách như một cách giải trí. Những tác giả có sách được đọc nhiều nhất là Rabindranath Tagore, Chetan Bhagat, Ravinder Singh…
Quê hương của người Do Thái – dân tộc nổi tiếng với chỉ số IQ trung bình 110, nơi đã sản sinh cho thế giới những thiên tài như Albert Einstein, Karl Marx, Johann Strauss,… cũng là đất nước nổi tiếng bởi niềm đam mê đọc sách.
Các bà mẹ Do Thái đã gieo cho con tiềm thức về sự “ngọt ngào” của sách bằng cách nhỏ vài giọt mật lên những trang sách và cho trẻ liếm. Đất nước Trung Đông này có hai chỉ số về sách cao nhất thế giới là số lượng sách xuất bản theo đầu người cao nhất thế giới và số người trẻ đọc sách cao nhất thế giới. Thậm chí, họ còn đặt các cuốn sách ở nghĩa trang vì họ tin rằng các linh hồn sẽ tiếp tục đọc chúng.
3. Nhật Bản
Đất nước mặt trời mọc được cả thế giới nể phục bởi tinh thần tự lực tự cường, từ một quốc gia phong kiến lạc hậu trở thành cường quốc Châu Á và thế giới.
Văn hóa đọc ở Nhật đã được hình thành cách đây hơn 300 năm. Từ thời Genroku (1688-1704), nước Nhật đã có hệ thống xuất bản với lượng sách lên đến 10.000 cuốn/năm. Thời Minh Trị, những cuốn sách từ phương Tây được dịch lại và in ra hàng triệu bản để phổ biến đến người dân.
Ngày nay, mỗi năm Nhật Bản xuất bản 43.000 đầu sách. Bình quân mỗi năm một người dân đọc hơn 10 cuốn sách. Đặc biệt, người Nhật có thói quen tranh thủ đọc sách ở mọi không gian chờ: đường phố, bến xe bus, trên tàu điện ngầm,… thói quen này đã hình thành văn hóa đọc đứng – Tachiyomi.
Trên những chuyến tàu điện ngầm ở Nhật, bạn sẽ thấy hình ảnh này thay vì cảnh tượng người dân chúi mặt vào màn hình điện thoại.
4. Đức
Một trong những cái nôi của báo chí và văn học thế giới – nước Đức, có một nền văn hóa đọc vẫn giữ được mức ổn định trong thời đại công nghệ thông tin áp đảo hiện nay.
Trong một khảo sát tháng 7/2015 với 25.000 người từ 14 tuổi trở lên, có đến 7/10 người (68.7%) thích đọc sách và thường xuyên đọc sách, 3/10 (29.6%) đặc biệt đam mê sách. Năm 2015, 44,6% người Đức đọc ít nhất một cuốn sách mỗi tuần.
5. Thái Lan
Người láng giềng với chúng ta là á quân sau Ấn Độ trong xếp hạng thời gian đọc sách của World Culture Score Index.
Các số liệu của cơ quan thống kê quốc gia nước này cho thấy, người dân xứ sở chùa vàng dành trung bình 37 phút đọc sách mỗi ngày. 81,8% dân số từ 6 tuổi trở lên thường xuyên đọc sách và nhóm đọc sách nhiều nhất là trẻ em từ 6 – 12 tuổi.
6. Malaysia
Theo thống kê của Thư viện Quốc gia, đã có 72.271 cuốn sách được mượn trong riêng tháng 8/2014. Trung bình một người Malaysia đọc 14 cuốn sách một năm.
(Trích Bức thư của một kỹ sư người Ấn Độ. Ấn Độ là quốc gia đọc sách nhiều nhất trên thế giới theo thống kê năm 2014)
Trên chuyến bay đến Thượng Hải, vào giờ ngủ, khoang máy bay đã tắt đèn, tôi phát hiện những người còn thức chơi IPad hầu hết là người châu Á, hơn nữa họ đều đang chơi game hoặc xem phim. Thật ra ngay từ khi ở sân bay quốc tế Frankfurt, tôi thấy phần lớn hành khách người Đức đang yên tĩnh đọc sách hay làm việc, còn đa số khách châu Á đi lại mua sắm hoặc cười nói so sánh giá cả.
Nhiều người châu Á hiện nay dường như không thể kiên nhẫn ngồi yên đọc sách. Có lần tôi và một người bạn Pháp cùng đợi xe ở trạm tàu hỏa, người bạn này hỏi tôi: “Tại sao người châu Á đều gọi điện thoại hoặc lướt internet chứ không ai đọc sách thế nhỉ?”. Tôi nhìn quanh, quả thật là như vậy. Mọi người đang nói chuyện điện thoại, cúi đầu đọc tin nhắn, lướt mạng xã hội hoặc chơi game. Họ bận nói chuyện ồn ào hoặc tự tỏ ra bận rộn, điều duy nhất không có là cảm giác thư thái tĩnh lặng. Họ luôn nôn nóng và dễ cáu bẳn, dễ phàn nàn, khó chịu….
Theo truyền thông, trung bình mỗi người Trung Quốc chỉ đọc 0,7 quyển sách/năm, Việt Nam 0.8 quyển, Ấn Độ 1.2 quyển, Hàn Quốc là 7 quyển. Chỉ có Nhật Bản là có thể sánh với các nước phương Tây với 40 quyển/năm, riêng người Nga là 55 quyển. Năm 2015, 44,6% người Đức đọc ít nhất một cuốn sách mỗi tuần. Con số tương tự ở các nước Bắc Âu.
Ở các thành phố và thị trấn lớn nhỏ tại Trung Quốc, loại hình giải trí phổ biến nhất phải kể đến là quán mạt chược, quán ăn uống và tiệm internet. Bất kể trong tiệm net hay phòng vi tính của nhà trường, phần lớn sinh viên lướt mạng xã hội, chat hoặc chơi game. Số học sinh tra cứu tài liệu trên mạng rất ít ỏi. Còn các vị quản lý, ví dụ doanh nghiệp, cả ngày bận rộn ứng phó với các bản kiểm điểm, tiếp khách, ăn uống…nên tôi hỏi thì họ nói chưa đọc sách kể từ lúc rời ghế nhà trường.
Nguyên nhân không thích đọc sách, thống kê cho thấy có 3 phương diện chính:
Một là trình độ văn hoá (không phải học vấn) của người dân thấp. Tò mò chuyện người khác nhiều nên luôn cập nhật mạng xã hội và nhu cầu giao tiếp lớn, họ luôn nói nhiều khi gặp nhau, và chat cả ngày không chán.
Hai là từ nhỏ không được dưỡng thành thói quen tốt trong việc đọc sách. Do gia đình cha mẹ không đọc sách (trừ người không biết chữ và lao động chân tay quá cực khổ). Nên nhớ, tính cách một đứa trẻ hình thành chủ yếu từ gia đình.
Ba là “giáo dục kiểu thi cử”, khiến cho trẻ nhỏ không có thời gian và tinh lực để đọc các loại sách bên ngoài. Hình thành thói quen học xong có bằng cấp thì ngưng đọc. Đọc nếu có, chỉ để đi thi.
Trên thế giới có hai quốc gia thích đọc sách nhất là Israel và Hungary. Ở Israel, trung bình mỗi năm người dân đọc 64 quyển. Ngay từ khi trẻ nhỏ bắt đầu biết nhận thức, hầu như mỗi bà mẹ đều nghiêm túc dạy bảo con: “Sách là nơi cất giữ trí tuệ, còn quý hơn tiền bạc, châu báu, và trí tuệ là thứ mà không ai có thể cướp đi được. Làm gì thì làm, con phải đọc sách mới đi ngủ”.
Người Do Thái là dân tộc duy nhất trên thế giới không có người mù chữ, ngay cả người ăn xin cũng luôn có quyển sách bên cạnh. Trong mắt họ, đọc sách báo là một phẩm chất tốt để đánh giá con người.
Trong ngày Sabbath (ngày lễ nghỉ ngơi), tất cả người Do Thái đều dừng các hoạt động. Các cửa hàng, quán ăn, những khu vui chơi đều phải đóng cửa, các phương tiện giao thông cũng ngừng hoạt động, ngay cả các công ty hàng không đều ngừng bay, người dân chỉ có thể ở nhà nghỉ ngơi hoặc cầu nguyện. Nhưng có một ngoại lệ, tất cả nhà sách trên toàn quốc vẫn được mở cửa. Trong ngày này, mọi người đến đây đều yên lặng đọc sách.
Hungary có gần 20.000 thư viện, bình quân 500 người lại có một thư viện, đi thư viện cũng bằng đi cà phê hay siêu thị. Hungary cũng là quốc gia có số người đọc sách nhiều nhất thế giới, hàng năm có đến hơn 5 triệu người thường xuyên đọc sách, vượt quá 1/4 dân số nước này.
Tri thức là sức mạnh, tri thức chính là tài sản. Một đất nước hay một cá nhân coi trọng việc đọc sách và tích lũy tri thức từ sách đương nhiên sẽ được hậu đãi. Bất luận họ làm ngành nghề gì, người đọc sách nhiều đều có một cách tư duy rất khác và dù không có thành tựu rực rỡ thì họ vẫn một đẳng cấp rất riêng. Có nhiều dân tộc rất giàu nhưng không văn minh. Tương tự nhiều cá nhân rất nhiều tiền nhưng không thể sang được. Chỉ vì họ thiếu chiều sâu của tri thức.
Dân số Isael thưa thớt, nhưng nhân tài vô số. Lịch sử xây dựng đất nước tuy ngắn, nhưng đã có 8 người đoạt giải Nobel. Thiên nhiên Isael khắc nghiệt, phần lớn đất đai là sa mạc, nhưng họ lại có thể biến đất nước mình thành một ốc đảo xanh tươi, lương thực sản xuất không chỉ đủ cung cấp trong nước, mà còn xuất khẩu một lượng lớn. Xã hội Israel trật tự quy củ và người Israel được tôn trọng trên khắp thế giới.
Các giải thưởng Nobel mà Hungary nhận được thuộc về nhiều lĩnh vực như: vật lý, hóa học, y học, kinh tế, văn học, hòa bình, v.v….Nếu so với dân số, Hungary là “quốc gia của giải thưởng Nobel”. Phát minh của họ rất nhiều, có thể nói là không sao đếm xuể, từ những vật phẩm nhỏ bé, cho đến những sản phẩm công nghệ cao. Một quốc gia nhỏ bé vì yêu sách mà có được trí tuệ và sức mạnh, hơn hết là sự văn minh vượt bậc. Hungagry là quốc gia Đông Âu vô cùng sạch sẽ, xinh đẹp và đời sống tinh thần mười mấy triệu dân Hung không khác gì các nước Bắc Âu.
Một vị học giả lớn từng nói: “Lịch sử phát triển tư tưởng của một người chính là lịch sử đọc sách của người đó. Một xã hội sẽ phát triển hay tụt hậu, là dựa vào quốc gia có ai đang đọc sách, đọc những sách gì. Sách không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân, nó còn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Hãy nhớ: Một dân tộc không đọc sách là một dân tộc không có hy vọng.
Do Thái là một trong những dân tộc thành công nhất thế giới. Một phần do gen, nhưng một phần do chính văn hoá của họ quyết định. Và, để thử tìm hiểu cách sinh hoạt, đời sống của dân tộc này, tôi tự mình mày mò học ngôn ngữ của họ. Vì đây là một ngôn ngữ không phổ biến nên có khá ít tài liệu, khoá học tiếng Do Thái. Phần lớn những kiến thức vụn vặt này là do tôi thu lượm trên mạng internet.
Tiếng Hebrew (phiên âm tiếng Việt: Híp-ri, Hê-brơ, Hi-bru, hoặc Hy-bá-lai), cũng được gọi một cách đại khái là “tiếng Do Thái”, là một ngôn ngữ bản địa tại Israel, được sử dụng bởi hơn 9 triệu người trên toàn cầu, trong đó 5 triệu ở Israel. Về mặt lịch sử, đây là ngôn ngữ của người Israel cổ đại và tổ tiên họ, dù nó không được gọi là “Hebrew” trong Tanakh. Những mẫu viết chữ Cổ Hebrew cổ nhất có niên đại từ thế kỷ 10 Trước Công Nguyên. Tiếng Hebrew thuộc về nhánh Semit của ngữ hệ Phi-Á. Tiếng Hebrew được viết và đọc từ phải sang trái, giống tiếng Ả Rập và tiếng Ba Tư.
2. Một số đặc điểm của tiếng Do Thái
Tiếng Do Thái viết từ phải sang trái, không có sự phân biệt chữ viết hoa và chữ viết thường.
Nguyên gốc, bảng chữ Hebrew cái gồm có 22 phụ âm, không có nguyên âm (xem hình sau), về sau các nhà ngôn ngữ học đưa thêm các nguyên âm (gọi là niqqud) để giúp việc đọc/phát âm trở nên dễ dàng hơn. Việc phát âm một từ Do Thái khá giống với ghép vần của tiếng Việt, tuy nhiên không có nguyên âm nên việc đọc có khó khăn hơn.
Đầu tiên và quan trọng nhất, chúng tôi khuyên bạn là nên học thuộc bảng chữ cái này cũng như cách phát âm từng chữ cái, đặc biệt là thuộc (nhận được mặt chữ và cách phát âm) kiểu viết dạng chữ in [đánh máy]. Sau khi thành thạo có thể học thêm kiểu chữ viết tay [script].
3. Cách phát âm bảng chữ cái tiếng Do Thái
4. Cách viết chữ Do Thái
Cách viết, các bạn có thể tập theo hai hình vẽ sau:
Tuy nhiên, phần lớn các văn bản bạn sẽ đọc là trên máy tính, điện thoại, do đó chúng tôi khuyên bạn nên học thuộc bảng chữ cái như trong hình sau:
Như bạn đã biết, trong bảng chữ cái tiếng Do Thái chỉ gồm có 22 phụ âm mà không có nguyên âm. Do đó khi phát âm gặp khá nhiều khó khăn và người ta đã bổ sung các nguyên âm niqqud. Tuy nhiên, trong bảng chữ cái tiếng Do Thái thì có một số phụ âm cũng được sử dụng gần như là các nguyên âm để giúp cho việc phát âm được dễ dàng. Bài viết này xin giới thiệu các nguyên âm tiếng Do Thái để bạn đọc dễ dàng phát âm hơn.
Tiếng Do Thái trong Kinh thánh được viết như thế nào
Người ta biết rằng chỉ có phụ âm được viết bằng chữ Hê-bơ-rơ. Tuyên bố này, tuy nhiên, chỉ đúng một phần. Mặc dù đúng là tất cả các ký tự của chữ Hê-bơ-rơ là phụ âm, nhưng không phải vì thế mà một văn bản trong tiếng Do Thái chứa ít thông tin về nguyên âm như một văn bản tiếng Anh mà từ đó tất cả các nguyên âm đã bị xóa. Về cơ bản, có hai tính năng trong hệ thống chữ viết cung cấp thêm thông tin:
Có một phụ âm không được viết bằng chữ Latinh mà bằng tiếng Do Thái. Vì không có chữ cái nào trong tiếng Latin, nên nó không có tên; Các nhà ngôn ngữ học gọi đó là điểm dừng glottal (glottal stop). Trong tiếng Anh, rất hiếm (ví dụ: khoảng nghỉ ngắn giữa hai nguyên âm “he eats” hay được phát âm nối liền mạch, hoặc trong “wa’er” được phát âm thành “water” bởi một người nói tiếng Cockney), trong các ngôn ngữ khác, nó khá phổ biến (ví dụ tiếng Đức : so sánh giữa “bereisen” (từ “Reise”) không có glottal stop và “vereisen” (từ “Eis”) với một glottal stop trước “ei”). Bây giờ, một từ tiếng Do Thái – giống như tiếng Đức – sẽ không bắt đầu bằng nguyên âm; nó có thể bắt đầu bằng một điểm dừng glottal – trái ngược với tiếng Đức – được viết bằng một chữ cái, Alef ( ). Do đó, bạn có thể nói ( adam = người, người) từ ( dam= máu) bởi Alef ở đầu (tức là cạnh phải) của từ.
Phụ âm rất thường xuyên sử dụng để nguyên âm biểu thị: Yod ( , một phụ âm “y”) có thể biểu thị cho nguyên âm “i” hay “e”, Waw ( , phụ âm “v”) có thể biểu thị cho nguyên âm “u” hoặc “o”. Và, nếu từ này kết thúc bằng một nguyên âm chưa được biểu thị bằng Yod, Waw hoặc Alef cuối cùng, He ( , phụ âm của chú họ) được thêm vào để biểu thị nguyên âm. Do đó, bạn có thể nói ( dvora= bee, Deborah ) từ ( davar= word, mối quan tâm ) bằng Waw bổ sung cho các oái oái và He bổ sung cho các trò chơi một tên lửa.
Thí dụ:
Bây giờ cả thế giới đã có một ngôn ngữ và một bài phát biểu chung. (Gen.11: 1, NIV)
Trong ngôn ngữ Hebrew gốc, nhưng trong phiên mã Latin (với “ c” cho “tz” như trong “ tz ar” và “ x” cho “ch” như trong “Lo ch Ness”, cả hai để không làm cho một chữ cái Hebrew thêm hơn một chữ cái Latinh), ví dụ câu này có thể trông như thế này:
wayehi kol haárec safa exat udvarim axadim
Nếu chúng ta xóa bỏ các nguyên âm đi, nó sẽ trông như thế này:
wyh kl hrc sf xt wdvrm xdm
Trên thực tế, các chữ cái tiếng Hê-bơ-rơ được phiên âm (với dấu nháy đơn cho Alef) là:
wyhy kl h'rc sfh 'xt wdvrym 'xdym
đó là thông tin nhiều hơn đáng kể về nguyên âm ở đâu. Trong kịch bản tiếng Do Thái (được viết từ phải sang trái), nó trông như thế này:
Khi người ta xem xét một kịch bản trong đó các nguyên âm bị bỏ đi, ít nhất đôi khi, người ta sẽ mong đợi hiệu ứng khó hiểu nhất khi các từ không liên quan được viết giống nhau, ví dụ bằng tiếng Anh: tan, ten, teen, tin, ton, giai điệu, điều chỉnh, điều chỉnh. Có bằng tiếng Anh, các từ nhận thức thường chia sẻ phụ âm của họ nhiều hơn nguyên âm của họ: trong ví dụ này, điều này có nghĩa là một phần mười ban phạm, có thể, và người hâm mộ, người hâm mộ, người hâm mộ, người hâm mộ, người hâm mộ, người hâm mộ. Trong tiếng Do Thái, điều tương tự cũng đúng với một mức độ lớn hơn: các nhận thức chỉ được nhận ra bởi gốc của chúng, nghĩa là, bởi mẫu phụ âm còn tồn tại khi tất cả các tiền tố và hậu tố bị loại bỏ. Nguyên âm đi vào để phân biệt các từ khác nhau chia sẻ cùng một gốc hoặc các hình thức ngữ pháp khác nhau của một từ; có một ví dụ gần cuối bài viết.
Mọi người nên nhớ rằng một điều khá bình thường là không phải tất cả các tính năng của ngôn ngữ đều được phản ánh trong một hệ thống chữ viết: trong nhiều ngôn ngữ, ví dụ như tiếng Anh, trọng âm của từ và trọng âm câu không được đánh dấu và hầu hết các ngôn ngữ có nhiều âm vị hơn chữ cái trong bảng chữ cái của họ. Nó là đủ khi tập lệnh chứa đủ thông tin để cho phép đọc nó mà không cần đoán. Kinh nghiệm trong suốt lịch sử đã chỉ ra rằng thông tin có trong chữ viết tiếng Do Thái là đủ cho độc giả biết ngôn ngữ này.
Hỗ trợ thêm để đọc
Vâng, câu cuối cùng phải được thực hiện với một hạt muối. Nếu nó đã được như vậy, kịch bản sẽ không được phát triển để bao gồm thêm thông tin về nguyên âm. Vào thời hậu Kinh Thánh, người ta thường viết các Yod và Waws cho các nguyên âm ở nhiều nơi hơn là nơi chúng xuất hiện trong Kinh thánh, và Yod và Waw phụ âm thường được nhân đôi để phân biệt chúng với các nguyên âm. Mặc dù những thay đổi này là nhỏ, nhưng chúng đóng góp phần lớn vào khả năng đọc. Đây là cách tiếng Do Thái hiện đại thường được viết và tất cả các độc giả báo chí Israel chứng minh mỗi sáng rằng thông tin trong kịch bản nâng cao một chút này hoàn toàn đủ để đọc – một lần nữa cung cấp một người biết ngôn ngữ.
Công việc của Masoretes
Vào cuối thiên niên kỷ đầu tiên của kỷ nguyên chung, sau hàng ngàn năm di cư của người Do Thái, việc làm chủ hoàn hảo ngôn ngữ tiếng Do Thái và kiến thức sâu sắc về Kinh thánh không còn có thể được mong đợi từ tất cả các thành viên của cộng đồng Do Thái, những người cần đọc Kinh thánh . Để hỗ trợ họ và giảm sự ra đời của nhiều bài đọc biến thể, một vài học giả Do Thái đã bắt đầu chuẩn hóa các văn bản và cách đọc của họ. Một phần của tác phẩm này là chú thích của văn bản phụ âm có dấu cho nguyên âm. Lược đồ được mô tả ngắn gọn trong phần trước, mặc dù được giới thiệu tốt vào thời điểm đó, không phù hợp cho mục đích này:
Nó không đủ chính xác – văn bản xuất hiện vẫn còn mơ hồ đối với độc giả có ít kiến thức về ngôn ngữ và truyền thống học thuật của người Do Thái.
Nó sửa đổi Kinh thánh bằng cách giới thiệu thêm các chữ cái.
Dự án được gọi là ( masora= truyền thống ). Tên này nhấn mạnh rằng nó hiểu chính nó như là một bản ghi chép về cách Kinh Thánh luôn được đọc theo truyền thống trong cộng đồng Do Thái và không phải là một giới thiệu về những diễn giải mới cho một văn bản tối nghĩa trước đây. Cũng có thể là họ gặp phải truyền thống hoặc ý kiến khác nhau về cách đọc một đoạn văn nhất định – đây là một quá trình bình thường trong các nhà phê bình văn bản. Nhưng mục tiêu là sửa chữa những gì là truyền thống sống và không bị gián đoạn.
Về cơ bản, công việc của họ bao gồm các nhiệm vụ sau:
So sánh tất cả các bản thảo có sẵn và quyết định nên theo dõi cái nào nếu chúng phân kỳ (cực kỳ hiếm so với các tài liệu khác cùng tuổi, do sự thận trọng cao độ mà các nhà sao chép đã áp dụng).
Tạo các chú thích về các nguyên âm trong văn bản bằng cách giới thiệu các dấu phụ, ( nequdot= dấu phát âm ). Các dấu tương tự được sử dụng ngày nay khi cách phát âm là quan trọng, ví dụ như trong từ điển, cũng trong các bài thơ.
Tạo các chú thích về cấu trúc câu bằng các dấu phụ khác nhau, ( teamim= dấu cộng hưởng ), để cho phép đọc tụng và tụng kinh. Chúng được sử dụng độc quyền trong các văn bản Kinh Thánh.
Cung cấp thông tin bổ sung khi văn bản, để dễ hiểu, phải được đọc hơi khác so với những gì được viết. Điều này sẽ được chi tiết một chút trong phần tiếp theo.
Tạo một thống kê về số lượng từ và chữ cái trong mỗi cuốn Kinh thánh, dự định là một tổng kiểm tra cho các nhà sao chép.
Văn bản của ví dụ trên trông như thế này với các dấu hiệu phát âm:
và với các dấu cộng hưởng bổ sung:
Văn bản dưới dạng văn bản (Ketiv) và văn bản khi đọc (Qere)
Trong một số trường hợp, vấn đề nảy sinh là văn bản Kinh thánh bằng văn bản sẽ có ý nghĩa hơn nếu được sửa đổi một chút. Truyền thống sau đó không phải là để sửa lỗi văn bản mà chỉ đọc nó như thể nó là bản sửa lỗi. Nói cách khác, người đọc dự kiến sẽ đọc không chính xác những gì được viết. Đây là quá trình tương tự diễn ra khi ai đó đọc to từ một cuốn sách có lỗi chính tả. Trong các trường hợp như vậy, bạn có hai hình thức cho từ đang đề cập, thường chỉ khác nhau bởi một chữ cái: một là dạng viết, Ketiv ( ) chỉ có phụ âm và dạng còn lại là dạng được sử dụng khi đọc, Qere ( ), với phụ âm và nguyên âm. Một giải pháp rõ ràng sẽ là đưa một trong những hình thức này vào văn bản đang chạy và một hình thức khác trong phần chú thích. Tuy nhiên, nó được thực hiện theo cách khác: văn bản đang chạy lấy Ketiv với nguyên âm của Qere và chú thích có các phụ âm của Qere. Thoạt nhìn điều này có vẻ kỳ lạ, nhưng nó rất hữu ích:
Các văn bản đang chạy không chứa sửa đổi của bản gốc.
Phần chú thích không chứa dấu phụ, chiếm không gian bổ sung và khó nhận biết khi sử dụng kích thước tập lệnh nhỏ.
Nếu chú thích bị bỏ qua, có tối đa thông tin trong văn bản đang chạy.
Để làm ví dụ, chúng ta hãy xem Jer.8: 7. Chúng tôi đọc ở đó trong Kinh thánh của chúng tôi:
Ngay cả những con cò trên bầu trời cũng biết các mùa được chỉ định của cô ấy, và chim bồ câu, chim én và tưa lưỡi quan sát thời gian di cư của chúng. (Giê-rê-mi 8: 7, NIV)
mặc dù văn bản viết có ( sus= ngựa ) và không ( sis= swift ) trong số các động vật biết thời gian quay trở lại. Masoretes đã quyết định rằng đây có lẽ là một sai lầm của người sao chép vì vậy câu này sẽ được đọc với dòng chữ Swift nhanh trong đó. Phản ánh sự điều chỉnh này, bây giờ Kinh thánh tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là các phụ âm Ketiv truyền thống có dấu phát âm không phù hợp, được trang bị một chú thích cho các phụ âm Qere .
Những trường hợp như vậy mà một từ hiện có được thay thế bằng một từ hiện có với một nghĩa khác thì không thường xuyên. Phần lớn các sửa chữa là cho các lỗi rõ ràng, chẳng hạn như các chữ cái bị mất hoàn toàn, hoặc cho các hình thức phi logic (ví dụ Ex.22: 4 (5?): Kiếm Nếu một người đàn ông chăn thả gia súc của cô ấy Thay (thay vì của anh ta ). thay thế một Waw hoặc ngược lại, vì hai ký tự thường gặp này chỉ khác nhau về độ dài của nét dọc. Trong một số trường hợp, hai phiên bản là các biến thể của cùng một từ và việc hiệu chỉnh được thực hiện ngay cả khi cả hai phiên bản đều có ý nghĩa, ví dụ như phiên bản đầu tiên từ Ps.77: 12 (11?) ( azkir = Tôi sẽ nhắc ) đã được sửa thành ( ezkor= Tôi sẽ nhớ) mà hình vuông tốt hơn với bối cảnh. (Đây đồng thời là một ví dụ về cách nhận thức chia sẻ gốc phụ âm của chúng, trong trường hợp này .)
Tần suất sửa chữa như vậy thay đổi rất nhiều trong các sách của Kinh thánh; trung bình là khoảng một hoặc hai điều chỉnh mỗi chương. Con số này nói nhiều hơn về sự miễn cưỡng của Masoretes khi sửa đổi văn bản phụ âm truyền thống (đã được chuẩn hóa trong khoảng 850 năm) so với chất lượng của truyền thống văn bản: có nhiều biến thể hơn cho văn bản trên tất cả các bản thảo, nhưng trên mặt khác, nhiều lỗi rõ ràng có thể được sửa chữa một cách an toàn mà không để lại chú thích. Quá trình thực tế của truyền thống văn bản phức tạp hơn nhiều, và không phải là chủ đề của bài viết này chỉ liên quan đến hệ thống chữ viết.
Một trường hợp hơi đặc biệt: theo truyền thống là không phát âm Tên thiêng liêng để giữ cho nó là thánh. Thay vào đó, một trong những từ ( adonai= Chúa của tôi ) hoặc ( elohim= Chúa ) sẽ được đọc thay vào đó, sau này ở một vài nơi tương đối có hình thức ( adon= chúa, chủ) liền kề với Tên: Chúa tể, chúa tể của chúng tôi nghe có vẻ kỳ lạ trong tiếng Do Thái giống như tiếng Anh. Bây giờ, cách viết này trong văn bản Masoretic hoàn toàn giống với các dạng Ketiv / Qere khác: văn bản chứa Ketiv, trong trường hợp này là Tetragrammaton, với các nguyên âm của Qere. Vì việc này xảy ra thường xuyên đến mức bao gồm cả chú thích mỗi lần sẽ rất lãng phí, thực tế này đã dẫn đến sự nhầm lẫn với những độc giả không phải là người Do Thái, đã lấy nhầm nguyên âm của Qere là thuộc về Ketiv, do đó, Tetragrammaton phát âm sai yehovaMùi (hay tôn yehovi, tôn trọng.). Đầu tiên trong số này đã đi vào văn học Cơ đốc, chủ yếu là với một J J ban đầu (được phát âm giống như một tiếng Anh hiện đại dù sao đi nữa).
Lưu ý về phiên âm tiếng Latin
Việc phiên âm các từ tiếng Hê-bơ-rơ trong bài viết này dựa trên cách phát âm tiếng Do Thái hiện đại của người Do Thái không tốt hơn hoặc tệ hơn bất kỳ truyền thống nào khác. Ký hiệu theo sau ít nhiều cách phát âm tiếng Anh cho các phụ âm; các ngoại lệ được ghi chú rõ ràng. Cả hai đều được phát âm giống như tiếng Anh và kv. Các nguyên âm, tuy nhiên, không được phát âm như tiếng Anh, nhưng đại khái theo Bảng chữ cái ngữ âm quốc tế, hoặc tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Đức. Điều này có nghĩa: Tùy thuộc vào chiều dài, “a” là khả năng phát âm như trong “b u t” hoặc “f một ther”, “e” như trong “b đ t” hoặc “b e d”, “i” như trong “f i sh” hay “b ee ”, “o” là “d o ll” hoặc tiếng Pháp “bistro ”và‘u’như trong‘b u tcher’hoặc‘c oo l’. Hầu hết các nguyên âm đều ngắn, trừ trừ i iv ở âm tiết cuối và tất cả các nguyên âm ở vị trí từ cuối cùng. Trọng âm nằm ở âm tiết cuối trừ khi có dấu hiệu cấp tính khác.