Charlie Chaplin thuộc lớp nghệ sĩ điện ảnh đầu tiên của thế giới khi ngành nghệ thuật (vẫn thường gọi là “Nghệ thuật thứ 7”) này còn trong giai đoạn phôi thai ở đầu thế kỷ XX.
Một lần ở New York, sau khi đi phố, Chaplin trở về nhà và thấy trong túi có một chiếc đồng hồ vàng với mảnh giấy nhỏ ghi mấy chữ nguệch ngoạc: “Tôi là một thằng móc túi trên tàu điện ngầm. Vừa trộm được chiếc đồng hồ này thì chợt trông thấy ông. Tôi vội đem biếu ông để bày tỏ lòng ngưỡng mộ rất sâu sắc”.
Chaplin liền đăng báo, ghi rõ địa chỉ của mình và nhắn ai là chủ nhân thì đến nhận lại chiếc đồng hồ. Hôm sau, ông nhận được một gói bưu phẩm nhỏ. Mở ra thì có chiếc dây đồng hồ vàng với bức thư của người chủ chiếc đồng hồ: ”Tôi chính là chủ nhân của chiếc đồng hồ. Sau khi đọc tin nhắn của ông trên báo, tôi đã quyết định tặng ông chiếc đồng hồ ấy cùng với cả chiếc dây vàng này vì chẳng lẽ tôi lại không ngưỡng mộ ông bằng một thằng móc túi?”
Vua hề Charlie Chaplin và Albert Einstein
Năm 1933, Hitler lên cầm quyền ở Đức, thiết lập chế độ phát xít, khủng bố và giết hại người Do Thái. Nhà bác học thiên tài Albert Einstein là người Đức gốc Do Thái phải lánh nạn sang Mỹ.
Năm 1940, Chaplin cho ra đời bộ phim “Nhà độc tài vĩ đại (The Great Dictator)” giễu cợt và đả kích Hitler rất sâu cay. Bộ phim sử dụng hình ảnh là chủ yếu, hầu như không lời thoại và bình luận nhưng có tiếng vang rất lớn trên thế giới.
Sau khi xem phim, Einstein rất thích thú và viết thư cho Chaplin: “Tôi rất ngưỡng mộ nghệ thuật của ông, nhất là sự phổ quát trong ấy. Ông chẳng cần nói gì… Vậy mà cả thế giới vẫn hiểu được.”
Chaplin đã trả lời: “Cám ơn ông đã khen. Cả thế giới ngưỡng mộ ông, dù chẳng ai hiểu được ông nói gì.”
Thi xem ai bắt chước Sác-lô giống nhất.
Đương nhiên ở ngoài đời, Chaplin có tác phong bình thường, lịch thiệp. Nhưng ai đã xem phim hề Sáclô thì lại không thể nào quên được những động tác của vai hề thật lạ mắt và rất tức cười, ngẫm lại thấy không gặp ở đâu như thế.
Người ta tổ chức cuộc thi xem ai bắt chước điệu bộ, nhất là cách đi đứng giống Sác-lô nhất. Chaplin cũng cải trang đi dự thi cùng với gần 40 thí sinh khác. Khi công bố kết quả, ông được xếp thứ 7.
Trước lúc mất ở tuổi 88, vua hề Charlie Chaplin đã để lại 4 điều như sau:
Không có gì vĩnh cửu trong thế giới này, kể cả những phiền muộn của chúng ta.
Tôi thích đi dạo dưới trời mưa, vì không ai có thể nhìn thấy nước mắt của tôi.
Ngày mất mát lớn nhất trong cuộc đời là ngày chúng ta không cười.
Sáu bác sĩ giỏi nhất trên thế giới là mặt trời, sự nghỉ ngơi, luyện tập, ăn kiêng, lòng tự trọng và bạn bè.
Hãy thực hiện 4 điều đó trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời mình và hãy tận hưởng cuộc sống khỏe mạnh…
Charlie Chaplin là ai?
Sir Charles Spencer Chaplin Jr. KBE, ở Việt Nam gọi là vua hề Sác-lô, là một nam diễn viên, nhà làm phim và nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Ông đã trở thành một biểu tượng toàn cầu thông qua nhân vật màn ảnh của mình, Sác-lô, và được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành công nghiệp điện ảnh.
Bìa tựa phim A Dog’s Life (1918). Chính vào thời gian này mà Chaplin bắt đầu nhận diện The Tramp là “một loại Pierrot”, hay một anh hề buồn.
Ngoài 4 câu nói mà chúng tôi giới thiệu ở đầu bài viết, vua hề Sác lô còn có rất nhiều câu nói rất ý nghĩa và vô cùng nổi tiếng khác, mời bạn đọc tham khảo sau đây:
Tại sao? Sau tất cả linh hồn của tôi vẫn là Chúa?
Tại sao thi ca lại khiến người ta hiểu được?
Chúng ta suy nghĩ quá nhiều và cảm nhận quá ít.
Ngôn từ rất rẻ. Thứ to nhất bạn có thể nói là ‘con voi’.
Tôi thích đi dưới mưa để không ai thấy tôi đang khóc.
Tiếng cười là thuốc bổ, nhẹ nhõm, hơi thở để giảm đau.
Tuyệt vọng là ma túy, nó ru ngủ trí óc và sự dửng dưng.
Sự sống là một điều tuyệt vời, kể cả với một con sứa.
Bạn sẽ phát hiện ra cuộc đời vẫn đáng sống nếu bạn cười.
Chúng ta cần sự dịu dàng, ân cần tử tế hơn là trí thông minh.
Cuộc đời là bi kịch khi quay gần, nhưng lại là hài kịch khi quay xa.
Kẻ độc tài giải phóng chính mình, nhưng lại nô dịch hóa nhân dân.
Điều đáng buồn nhất mà tôi tưởng tượng ra được là quen với sự xa hoa.
Cơ thể của bạn chỉ nên thuộc về người nào biết yêu thương tâm hồn bạn.
Để thực sự cười, anh phải lấy nỗi đau của mình ra và chơi đùa với nó.
Đây là một thế giới tàn nhẫn, và người ta phải tàn nhẫn để đối phó với nó.
Anh muốn ý nghĩa làm gì chứ? Cuộc đời là khát khao, không phải một ý nghĩa.
Sống như thể bạn sẽ chết vào ngày mai. Tìm hiểu như thể bạn nên sống mãi mãi.
Tôi nghĩ một trong những điều trớ trêu của cuộc đời là gây ra sai lầm vào đúng lúc.
Chiếc gương là người bạn thân thiết nhất của tôi bởi vì nó không bao giờ cười khi tôi khóc.
Phim ảnh là một mốt nhất thời. Khán giả thực sự muốn thấy các diễn viên trực tiếp trên một sân khấu.
Chỉ khi muốn làm điều gì đó ác hại, bạn mới cần đến quyền lực, còn không, tình yêu là đủ giải quyết mọi vấn đề.
Giúp bạn bè khi họ cần thật dễ dàng, nhưng dành cho họ thời gian không phải lúc nào cũng thuận lợi.
Tôi không tin công chúng biết mình muốn gì; đó là kết luận tôi thu được từ sự nghiệp của mình.
Cơn đau của tôi có thể là lý do cho tiếng cười của ai đó. Nhưng tiếng cười của tôi không bao giờ là lý do cho nỗi đau của ai đó.
Tôi tin vào sức mạnh của tiếng cười và nước mắt như một liều thuốc giải độc cho sự thù hận và khủng bố.
Tôi đã đi vào kinh doanh vì tiền, và nghệ thuật phát triển từ đó. Nếu mọi người vỡ mộng bởi nhận xét đó, tôi không thể giúp được. Đó là sự thật.
Con người là thiên tài khi đứng một mình. Nhưng đám đông con người thì tạo ra con quái vật không đầu, một thằng ngu lớn lao, tàn bạo đi bất cứ nơi nào bị thúc.
Chúng ta ai cũng muốn giúp người khác. Con người là thế. Chúng ta muốn sống bên hạnh phúc của nhau chứ không phải sự khổ sở của nhau.
Tôi không cần thuốc để trở thành thiên tài, không lấy thiên tài làm người, nhưng tôi cần nụ cười của bạn để được hạnh phúc.
Tôi không có nhiều kiên nhẫn với vật đẹp đẽ cần phải giải thích mới hiểu được. Nếu nó cần thêm diễn giải từ ai khác ngoài người tạo ra nó, thì tôi tự hỏi liệu nó đã làm trọn mục đích của nó chưa?
Tôi không có ý tưởng về nhân vật. Nhưng khoảnh khắc tôi mặc quần áo, quần áo và trang điểm khiến tôi cảm nhận được con người anh ấy. Tôi bắt đầu biết anh ta, và khi tôi bước lên sân khấu, anh ta được sinh ra đầy đủ.
Sự căm thù của con người sẽ trôi qua, và những kẻ độc tài rồi sẽ chết, và sức mạnh chúng cướp của nhân dân sẽ trở về với nhân dân. Và chừng nào con người còn chết đi, tự do sẽ không bao giờ tàn lụi.
Khi bắt đầu biết yêu bản thân mình, tôi hiểu rằng trong mọi tình huống tôi đều ở đúng nơi và đúng lúc tôi cần có mặt ở đó, và tất cả đều xảy ra đúng như những gì nó phải thế. Do đó tôi biết kiềm chế. Ngày hôm nay tôi gọi đó là sự tự tin.
Charlie Chaplin (tiếng Việt gọi là Sác-lô hay vua hề Sác-lô) là tên gọi đặt một nhân vật hư cấu được sáng tạo bởi diễn viên nổi tiếng người Anh Charlie Chaplin. Ở Việt Nam, Charlie Chaplin được gọi là Vua hề Sác lô còn với khán giả thế giới, ông là huyền thoại điện ảnh. Trái với hình ảnh gây cười trên màn ảnh, cuộc đời của “vua hề” đầy thăng trầm dữ dội.
Charlie Chaplin (Vua hề Sác lô) là một huyền thoại của điện ảnh Hollywood thế kỷ 20. Ông được xem là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử ngành công nghiệp điện ảnh có đóng góp to lớn phát triển kỷ nguyên phim câm.
Sir Charles Spencer Chaplin KBE là một nam diễn viên, nhà làm phim và nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Ông đã trở thành một biểu tượng trên toàn thế giới thông qua nhân vật màn ảnh của mình, Sác-lô, và được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử điện ảnh.
Chaplin vào đầu những năm 1920
Cuộc đời của Charlie Chaplin
Charlie Chaplin sinh năm 1889 tại Nam London (Anh). Tuổi thơ, ông lớn lên trong các nhà kho ở London và biểu diễn trên các sân khấu tạp kỹ khi còn nhỏ.
Cuộc sống đói nghèo, khốn khổ và thiếu thốn gắn liền với tuổi thơ của Charlie Chaplin. Cha mẹ ông sớm chia tay khi Charlie còn nhỏ. Cha ông chết vì nghiện rượu ở tuổi 38 còn mẹ ông bị tống vào trại thương điên trong 18 năm.
Charlie Chaplin lớn lên không có sự dạy bảo, nương tựa, chăm sóc của bố mẹ. Mới 7 tuổi, cậu bé Charlie Chaplin đã phải ở trong trại cứu tế và một năm sau đó, cậu bị chuyển tới trường dành cho trẻ vô gia cư. Năm 9 tuổi, Charlie Chaplin ngủ vạ vật trên các con phố ở Nam London.
Cuộc đời của Charlie đã rẽ sang một hướng khác khi ông nhận được vai diễn một người hầu nhỏ tuổi trong gánh hát chuyên diễn vở Sherlock Holmes. Dù vai diễn rất nhỏ nhưng Charlie đã tìm cách thu hút sự chú ý của khán giả. Một nhà phê bình đã nhận xét: “Cậu ấy thành công trong việc biến vai một người hầu nhỏ tuổi thành nhân vật được khán giả ưa thích”.
Năm 14 tuổi, ông đã bộc lộ những tố chất của người nghệ sĩ và tham vọng trở thành một nghệ sĩ vĩ đại. Ông chỉ trích những thành viên trong gánh hát nhỏ, khiến họ nổi giận nhưng Charlie không từ bỏ bởi ông khát khao đạt tới sự hoàn mỹ. Những điệu bộ gây hài trên sân khấu của Charlie khiến khán giả bật cười một cách dễ dàng như vô tình trượt ngã, hay tụt quần một cách tự nhiên.
Năm 1910, ông bày tỏ tham vọng phát triển sự nghiệp của mình bằng cách đặt chân tới nước Mỹ khi là thành viên của một gánh hát mang tên The Karno Co.
Ông lọt vào mắt xanh của những người đang tìm kiếm tài năng của tập đoàn New York Motion Picture Co. Năm 1913, ông ký hợp đồng với công ty điện ảnh Keystone Film Co. và nhận mức lương 150 USD một tuần.
Khi tới Mỹ, ông đã hét lớn với công chúng: “Nước Mỹ, ta đang tới để chinh phục ngươi. Mọi người đàn ông, đàn bà và trẻ em sẽ nhắc tới tên ta – Charles Spencer Chaplin!”.
Charlie đã không sai, tới năm 1914, ông thực hiện bộ phim điện ảnh đầu tiên mang tên Making a Living và thành công rực rỡ, khiến cả nước Mỹ phải biết tới tên mình. Với bộ râu đặc trưng, Charlie vào vai một tên lừa đảo quyến rũ có tên là Edgar English.
Năm 1914, nhân vật “Little Tramp” (Kẻ lang thang nhỏ bé) của Charlie Chaplin lần đầu tiên xuất hiện trong bộ phim Kid Auto Races At Venice. Trong phim, nhân vật của Charlie Chaplin là một khán giả vô tình làm gián đoạn cuộc đua xe và bộ phim được quay tại một cuộc đua thực sự, với các diễn viên ứng biến dựa trên hoàn cảnh quay thực tế.
Chỉ trong một năm ngắn ngủi khi còn làm việc tại công ty điện ảnh Keystone Film Co., Charlie Chaplin đã phát triển nhân vật “Kẻ lang thang bé nhỏ” của mình thành một nhân vật đặc trưng trong 35 bộ phim hài ngắn.
Charlie từng giải thích lý do ông lựa chọn bộ trang phục trên phim: “Tôi muốn mọi thứ có tính đối lập: Chiếc quần rộng thùng thình, chiếc áo khoác ngắn cũn và ôm sát, một chiếc mũ bé nhỏ và một đôi giày to bản”.
Sau khi các vai diễn của ông trở nên ăn khách tại nước Mỹ, ông mong muốn trở thành đạo diễn. Trong các phim ngắn mà Charlie Chaplin thực hiện vào năm 1914, bộ phim Twenty Minutes of Love là tác phẩm đầu tiên mà ông thử sức với vai trò đạo diễn.
Vào năm 1915, Charlie Chaplin đã trở nên vô cùng nổi tiếng khi những con búp bê, mũ, tất, bộ bài và kẹo cao su mang hình ông và chúng được bán khắp thế giới. Các cuốn truyện tranh thi nhau viết về ông. Thậm chí, người ta còn nói rằng, từ tiếng Anh duy nhất mà nhiều người sống ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ biết là “Charlee!” để mô tả mức độ nổi tiếng của vua hề.
Tới năm 26 tuổi, Charlie Chaplin trở thành nghệ sĩ có thu nhập cao nhất thế giới khi được trả mức lương 670.000 USD một năm cùng công ty điện ảnh Mutual Film.
Bộ phim cuối cùng làm về nhân vật “Người lang thang bé nhỏ” của Charlie Chaplin là Modern Times vào năm 1936. Bộ phim thuộc thể loại hài nói về cuộc đời của hàng triệu người thất nghiệp đối mặt với tình trạng không việc làm, không tài sản suốt cuộc Đại khủng hoảng.
Charlie Chaplin từng đóng vai một trùm phát xít và một thợ cắt tóc người Do Thái trong phim hài The Great Dictator. Diễn xuất của Charlie xuất sắc tới mức ông được đề cử Oscar dành cho Diễn viên chính hay nhất và Phim hay nhất.
Kết thúc bộ phim, Charlie Chaplin phát biểu: “Chúng ta muốn sống vì hạnh phúc của người khác, chứ không phải vì sự khổ đau. Chúng ta không muốn đón nhận sự thù ghét và khinh miệt người khác. Sự hiểu biết khiến chúng ta trở nên cay độc. Sự khôn ngoan làm chúng ta cứng rắn và tàn nhẫn. Chúng ta suy tính quá nhiều và cảm nhận quá ít”.
Năm 1952, ông về London, Anh và không thể quay lại Mỹ. Vua hề chuyển tới sống tại Thụy Sỹ. 10 năm sau, ông trở lại Mỹ để nhận giải thưởng Thành tựu tại lễ trao giải Oscar và khán giả đã dành cho ông một tràng pháo tay kéo dài gần 12 phút đồng hồ.
Charlie Chaplin mất tại Thụy Sỹ vào năm 1977 sau vài năm đổ bệnh. Ông được chôn cất tại Thụy Sỹ.