SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hóa, cách mạng khoa học – công nghệ
đạt những bƣớc tiến thần kỳ, khối lƣợng thông tin, tri thức nhân loại tăng lên
hàng ngày, hàng giờ, hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều nhận
thức giáo dục và đào tạo trở thành nhân tố vừa là nền tảng, vừa là động lực góp
phần quyết định tƣơng lai của mỗi dân tộc. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nƣớc ta
khẳng định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho
phát triển.
Thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 2 khóa VIII và các chủ trƣơng của Đảng,
Nhà nƣớc về định hƣớng chiến lƣợc phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực GD&ĐT nƣớc ta đạt đƣợc những thành tựu
quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên
cạnh đó, chất lƣợng, hiệu quả GD&ĐT vẫn còn thấp so với yêu cầu xã hội. Đặc
biệt, chƣơng trình giáo dục phổ thông hiện hành đã bộc lộc những hạn chế, bất
cập nhƣ: chƣơng trình còn nghiêng về trang bị kiến thức lý thuyết, chƣa coi trọng
kỹ năng thực hành; chƣa đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đạo đức, lối
sống; chƣa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực
của học sinh; nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy ngƣời, chƣa coi trọng giáo dục hƣớng
nghiệp. Hình thức tổ chức giáo dục chủ yếu là dạy học trên lớp, chƣa tăng cƣờng
tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động trải nghiệm. Phƣơng pháp giáo dục và
đánh giá chất lƣợng giáo dục nhìn chung còn lạc hậu, chƣa chú trọng dạy cách
học và phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Trƣớc thực trạng đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
ƣơng khóa XI ngày 04/11/2013 định hƣớng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, trong đó quan điểm chỉ đạo là: “Phát triển giáo dục và đào tạo là
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình
giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và
2
phẩm chất người học.” Đặc biệt, với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí
tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dƣỡng
năng khiếu, định hƣớng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lƣợng giáo dục
toàn diện, chú trọng giáo dục lý tƣởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại
ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phƣơng pháp dạy và học theo hƣớng hiện đại; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của ngƣời học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để ngƣời học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu
khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và
học. Nhƣ vậy đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục giúp cho học sinh phát triển
đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng đƣợc bốn mục tiêu trụ cột của Unesco “học
để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định”.
2. Cuộc cách mạng 4.0 đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho
GD – ĐT.
Trên thế giới cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, nƣớc
ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vì vậy
có sự biến đổi nhảy vọt về trình độ khoa học, công nghệ và cơ sở vật chất kĩ
thuật. Giáo dục và đào tạo đang có nhiều cơ hội đồng thời cũng phải đối mặt với
những thách thức mới. Vai trò của GV trong thế kỉ XXI trở nên phức tạp ở một
thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu nhƣ vô tận. Nhiệm vụ chính
của GV là tạo môi trƣờng học tập, tạo điều kiện để ngƣời học có cơ hội học tập
theo phƣơng pháp tích cực và sáng tạo.Sự biến đổi lớn về vai trò ngƣời dạy –
truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối,
GV phải chuyển sang chức năng hƣớng dẫn ngƣời học.Quan niệm “đến trƣờng”
là “đi học”, không đến trƣờng là “không đi học” dƣờng nhƣ đã tỏ ra lạc hậu
3
trong kỉ nguyên mới. Vai trò ngƣời thầy trong thời kì mới đã thay đổi. Theo
UNESCO, ngày nay chức năng của GV tập trung vào 8 điểm sau:
(1) Đảm nhận nhiều chức năng, có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa
chọn nội dung dạy học và giáo dục;
(2) Tổ chức việc học của học sinh, sử dụng tối đa những nguồn tri thức
trong xã hội;
(3) Cá biệt hóa học tập, thay đổi tính chất trong quan hệ thầy trò;
(4) Sử dụng rộng rãi hơn những phƣơng tiện dạy học hiện đại;
(5) Hợp tác rộng rãi và chặt chẽ hơn với các GV cùng trƣờng, thay đổi quan
hệ giữa các GV với nhau;
(6) Thắt chặt hơn mối quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng góp phần
nâng cao chất lƣợng cuộc sống;
(7) Yêu cầu GV tham gia hoạt động rộng rãi trong và ngoài nhà trƣờng;
(8) Giảm bớt và thay đổi kiểu uy tín truyền thống trong quan hệ với học
sinh nhất là đối với học sinh lớn và với cha mẹ học sinh.
Đồng thời, GV phải thể hiện rõ phẩm chất ở 5 lĩnh vực trách nhiệm:
– Với học sinh;
– Với xã hội;
– Với nghề nghiệp;
– Với việc hoàn thành tốt công việc;
– Với các giá trị cơ bản của con ngƣời.
Tóm lại, “cách mạng công nghiệp 4.0” hàm chứa sự thay đổi lớn lao, không
chỉ biến đổi kinh tế mà cả văn hóa, xã hội một cách toàn diện. Giáo dục đƣợc coi
4
là lĩnh vực then chốt đào tạo ra hệ thống nhân lực trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0.
3. Vai trò, vị trí của môn Ngữ Văn trong nhà trƣờng phổ thông
Chúng ta đều biết rằng môn Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong
việc đào tạo con ngƣời, bồi dƣỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh.
Nhà văn Nga lỗi lạc M.Go – ro – ki đã từng viết : “Văn học là nhân học”. Còn
giáo sƣ Hà Minh Đức từng khẳng định “Văn học không chỉ là một nguồn tri thức
mà còn là nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con
người trong cuộc sống”.
Từ tầm quan trọng của văn học đối với việc hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh, mỗi GV dạy văn không chỉ xác định cho mình một nhiệm vụ
đơn giản là cung cấp cho học sinh một lƣợng tri thức nhất định, mà quan trọng
hơn là ngƣời GV thông qua các bài giảng của mình làm cho học trò “tự cảm thấy
môn văn thật sự cần thiết cho sự khôn lớn tinh thần”(Đỗ Kim Hồi), làm cho các
em thấy đƣợc thấm vào từng trang văn là tâm hồn, là trí tuệ, là những nghĩ suy,
trăn trở, là tâm sự của nhà văn trƣớc cuộc đời, là tấc lòng mà nhà văn muốn gửi
gắm đến các thế hệ độc giả của mình.
Bộ môn Ngữ văn trong chƣơng trình giáo dục THCS hiện hành là sự tích
hợp của ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong đó phân môn
Tập làm văn vừa “khó”, “khô” “khổ” nhƣng lại là phân môn đánh giá đƣợc đầy
đủ nhất các năng lực của học sinh. Vì vậy, đây cũng chính là phân môn đòi hỏi
ngƣời GV phải dành nhiều tâm sức nhất. Hơn nữa, xã hội ngày càng phát triển
càng đòi hỏi con ngƣời phải năng động sáng tạo, biết chủ động ứng dụng lí
thuyết vào cuộc sống, biết bày tỏ, bảo vệ ý kiến của riêng mình. Bất kì lĩnh vực
nào ta cũng phải đƣa ra ý kiến, quan điểm của cá nhân mình và làm thế nào để ý
kiến mình đƣa ra thuyết phục đƣợc ngƣời nghe. Từ đó ta thấy môn Ngữ văn nói
chung và văn nghị luận nói riêng càng khẳng định đƣợc vai trò, ý nghĩa trong
thời kì mới.
5
Trong chƣơng trình Ngữ văn trung học cơ sở, văn bản nghị luận đƣợc học ở
ba khối lớp: 7; 8; 9. Ở lớp 7, các em đƣợc làm quen và thực hành viết các bài
văn nghị luận chứng minh, nghị luận giải thích; chủ yếu trình bày quan điểm về
các vấn đề nhƣ tƣ tƣởng đạo lý, các vấn đề của đời sống xã hội. Lên lớp 8 và lớp
9 học sinh đƣợc tìm hiểu sâu hơn và kỹ hơn, mở rộng nghị luận về các tác phẩm
văn học… Văn nghị luận viết ra giúp các em có thể trình bày đƣợc quan điểm, tƣ
tƣởng của mình hƣớng đến những quan điểm đúng đắn; rèn luyện đƣợc kỹ năng
sống giúp các em trƣởng thành hơn trở thành những ngƣời có ích cho xã hội.
Muốn viết văn nghị luận tốt cần có quan điểm rõ ràng, tiến bộ, lập luận phải sắc
bén, dẫn chứng phải xác thực. Điều đó đòi hỏi vốn sống, vốn kiến thức phong
phú ở ngƣời viết. Tuy nhiên, với học sinh lớp 7: đây là lần đầu tiên các em đƣợc
làm quen và thực hành ở kiểu bài văn nghị luận. Tất cả hoàn toàn mới mẻ với các
em. Đôi khi những tƣ tƣởng, đạo lí quá tầm hiểu biết của học sinh. Tƣ duy lối
mòn và cũng là một nhƣợc điểm của ngƣời Việt là ngại bày tỏ quan điểm riêng.
Mặt khác, vốn sống, vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của các em còn ít ỏi, các em
chƣa biết cách để huy động dẫn chứng lý lẽ, thuyết phục ngƣời đọc, ngƣời nghe .
Đây cũng là một trở ngại lớn đối với học sinh khi làm văn nghị luận.
Trƣớc yêu cầu đòi hỏi của thời kì mới, trƣớc đặc thù của môn Ngữ Văn,
trƣớc đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 7, tôi mạnh dạn đề xuất sáng
kiến “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận” với
mong mỏi tháo gỡ khó khăn cho các em học sinh, đồng thời thực hiện tốt vai
trò, nhiệm vụ của GV trong việc đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
6
Phần 2
MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Thực trạng trƣớc khi áp dụng sáng kiến
– Về phía chƣơng trình: Chƣơng trình Ngữ văn 7 đặc biệt mảng văn nghị
luận hiện hành còn quá nặng so với trình độ của học sinh. Nội dung văn nghị
luận lớp 7 tƣơng đối rộng(môi trƣờng thiên nhiên, vai trò của sách, các tƣ
tƣởng đạo lý, phẩm chất của con ngƣời…). Nếu HS không có vốn hiểu biết sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm văn nghị luận lớp 7. Mặt khác trong thi
cử, kiểm tra đánh giá còn nặng về kiến thức nên gây áp lực cho cả GV và HS.
– Về phía GV: Nhiều GV còn có tƣ duy áp đặt HS. Do áp lực về thành
tích, về chƣơng trình nên nhiều GV còn đọc chép, yêu cầu HS học thuộc văn
mẫu nên ít nhiều HS ngại và sợ học văn nhất là văn nghị luận.
– Về phía học sinh:
Ở bậc tiểu học và ở lớp 6, học sinh đƣợc thực hành nhuần nhuyễn làm văn
tự sự và văn miêu tả. Lên lớp 7 các em mới bắt đầu làm quen với văn bản nghị
luận nên còn nhiều bỡ ngỡ. Mặt khác vốn sống, vốn kiến thức của học sinh
chƣa thật phong phú nên các lý lẽ, dẫn chứng đƣa ra chƣa thật sự thuyết phục.
Bài viết còn dàn trải, hời hợt, luận điểm chƣa rõ ràng nên hiệu quả bài viết
chƣa cao.
Đặc biệt khi khảo sát ý kiến học sinh trƣớc khi áp dụng sáng kiến tôi thấy:
STT | Số lƣợng học sinh đƣợc khảo sát ý kiến | Lớp/trƣờng | Năm học | Kết quả khảo sát |
1 | 48 HS/LỚP | 7A6 TRƢỜNG THCS PHÙNG CHÍ KIÊN | 2017-2018 | -62,5% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa thực tế nhƣng đa phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng |
7
văn bản biểu cảm hay tự sự. -20,8% học sinh trả lời: Có thích học nhƣng chƣa thật sự hiểu. -16,7 % học sinh trả lời: Không hiểu gì, không thích học. | ||||
2 | 55 HS | 7A7 TRƢỜNG THCS PHÙNG CHÍ KIÊN | 2018-2019 | -76,9% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa thực tế nhƣng đa phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng văn bản biểu cảm hay tự sự. -19,2% học sinh trả lời: Có thích học nhƣng chƣa thật sự hiểu. -3,9% học sinh trả lời: Không hiểu gì, không thích học. |
3 | 50HS | 7A6 TRƢỜNG THCS HOÀNG VĂN THỤ | 2019-2020 | -80% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa thực tế nhƣng đa phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng văn bản biểu cảm hay tự sự. -10% học sinh trả lời: Có thích học nhƣng chƣa thật |
8
sự hiểu. -10% học sinh trả lời: Không hiểu gì, không thích học. |
Từ thực tế đó, trong quá trình giảng dạy tôi vận dụng một số phƣơng pháp
nhằm rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Qua quá trình rèn luyện,
trình độ của học sinh có sự cải thiện rõ rệt. Hầu hết các em đều biết cách làm
bài, một số bài viết trên lớp đạt kết quả tƣơng đối khả quan(95%-100%) trong
đó có 60- 75% bài làm đạt điểm khá giỏi.
Tôi xin mạnh dạn trình bày một số việc đã tiến hành nhằm mục đích rèn kỹ
năng làm văn nghị luận cho học sinh khối 7.
2. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng sáng kiến
2.1. Thuận lợi:
– Về phía nhà trường: Trƣờng THCS Phùng Chí Kiên (nơi bản thân tôi
công tác từ năm 2006-2019) và Trƣờng THCS Hoàng Văn Thụ(công tác từ năm
2019 đến nay) đều là những trƣờng THCS loại I của Thành phố. Chất lƣợng
giáo dục luôn đứng trong tốp đầu của Thành phố Nam Định. Nhà trƣờng chỉ
đạo sát sao, tạo điều kiện, giúp đỡ GV đổi mới phƣơng pháp học tập đáp ứng
với yêu cầu mới.
Tổ Văn Sử của trƣờng THCS Phùng Chí Kiên và tổ Khoa học Xã hội
trƣờng THCS Hoàng Văn Thụ : GV có trình độ chuyên môn vững vàng, luôn
đổi mới phƣơng pháp và hình thức dạy học, thƣờng xuyên bồi dƣỡng, trao đổi,
sinh hoạt chuyên môn. Đây cũng là cơ hội cho bản thân tôi luôn học hỏi, đổi
mới phƣơng pháp dạy học.
Về cơ sở vật chất của nhà trƣờng: khang trang, đầy đủ phòng học, trang
thiết bị phục vụ công tác dạy-học.
9
– Về phía GV: Từ khi ra trƣờng đến nay, trong nhiều năm bản thân tôi trực
tiếp giảng dạy, bồi dƣỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 7 nên tôi tích lũy một
số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận.
– Về phía học sinh: HS các lớp tôi giảng dạy tƣơng đối chăm ngoan, có ý
thức học tập, nhiều em thích thú, say mê đối với môn học nên việc triển khai áp
dụng sáng kiến gặp nhiều thuận lợi. Đặc biệt có em Nguyễn Khánh Ly(Trƣờng
THCS Phùng Chí Kiên) đạt giải trong kì thi Olimpic do Sở Giáo dục đào tạo
tỉnh Nam Định tổ chức(năm học 2017-2018). Đó cũng là động lực giúp tôi hoàn
thành nhiệm vụ đƣợc giao.
2.2. Khó khăn:
– Chƣơng trình còn nặng về kiến thức.
– Áp lực về thi cử và bệnh thành tích gây cản trở cho việc dạy học phát
huy năng lực và phẩm chất của HS.
– Vốn sống của HS lớp 7 còn ít ỏi, chƣa sâu sắc, có nhiều tƣ tƣởng đạo lí
các emchƣa hiểu rõ. Hơn nữa, nhiều em chƣa chịu khó đọc sách, chƣa có thói
quen ghi chép nên việc huy động lí lẽ, dẫn chứng gặp nhiều khó khăn. Bài viết
hời hợt, dàn trải, thiếu thuyết phục.
– Do quan niệm xã hội, chạy theo bằng cấp, chọn trƣờng nên các bộ môn
KHXH trong đó có môn Ngữ Văn đang bị xem nhẹ. Đây cũng là một khó khăn
không nhỏ đối với GV-HS.
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Giải pháp 1: Cung cấp đầy đủ hệ thống tri thức cần thiết về kiểu bài
nghị luận thông qua các tiết dạy:
Theo khung kế hoạch dạy học, thời lƣợng cho phần văn nghị luận là 20 tiết bao
gồm 11 tiết lý thuyết và 9 tiết thực hành.
Tôi xin đƣợc trình bày các giải pháp đã thực hiện với các tiết lý thuyết và thực
hành nhƣ sau:
1.1. Với các bài lý thuyết: bao gồm các bài sau đây:
+ Tìm hiểu chung về văn nghị luận.
10
+ Đặc điểm của văn bản nghị luận
+ Đề văn nghị luận và cách lập ý cho bài văn nghị luận
+ Bố cục và phƣơng pháp lập luận trong bài văn nghị luận
+ Tìm hiểu chung về phép lập luận chứng minh
+ Cách làm bài văn lập luận chứng minh
+ Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích
+ Cách làm bài văn lập luận giải thích
1.1.1 Bài đầu tiên “Tìm hiểu chung về văn nghị luận”: mục tiêu của bài
học giúp học sinh nhận ra nhu cầu nghị luận trong đời sống, khái niệm văn nghị
luận, phân biệt văn nghị luận với các kiểu bài đã học(miêu tả, tự sự, biểu cảm). Ở
bài này, GV có thể bắt đầu bài học bằng hoạt động khởi động: yêu cầu HS liệt kê
các kiểu văn bản và phƣơng thức biểu đạt thƣờng gặp. Sau đó cho học sinh xem
một đoạn clip của VTC14 “Người Hà Nội sống bên những dòng sông ô nhiễm”.
Yêu cầu HS xác định phƣơng thức biểu đạt trong đoạn phóng sự vừa xem? HS
dễ dàng nhận ra đây không phải là văn miêu tả, tự sự, biểu cảm mà sử dụng
phƣơng thức biểu đạt nghị luận. Tuy nhiên, HS chƣa hiểu rõ thế nào là văn nghị
luận. Ở phần khởi động này, GV đặt vấn đề, từ đó mà dẫn dắt vào bài.
Trong phần hình thành kiến thức mới, GV giúp HS tìm hiểu nhu cầu
nghị luận trong đời sống qua việc trả lời các câu hỏi: Trong đời sống, em hay bắt
gặp các câu hỏi nhƣ: Vì sao con ngƣời phải đi học? Việc học tập có vai trò, ý
nghĩa gì đối với đời sống con ngƣời? Thế nào là sống đẹp? Thực trạng môi
trƣờng thiên nhiên đang bị ô nhiễm, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp? Với các
câu hỏi trên, ta không thể dùng các kiểu văn bản nhƣ tự sự, miêu tả, biểu cảm để
giải đáp mà nên dùng văn nghị luận. Từ đó ta thấy nhu cầu nghị luận trong đời
sống rất lớn. Ta dễ dàng nhận ra văn nghị luận trong đời sống qua các bài xã
luận, phóng sự, ý kiến trong các cuộc họp…
Để rút ra khái niệm văn nghị luận, GV cho HS tìm hiểu ví dụ văn bản “
Chống nạn thất học”- Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng các kĩ thuật và phƣơng pháp
dạy học, GV giúp HS trả lời các câu hỏi: Bác viết bài này nhằm mục đích gì?
11
Đối tƣợng hƣớng tới là ai? Đặc biệt phải chú ý đến hoàn cảnh lịch sử khi bài viết
ra đời chúng ta phải đƣơng đầu với giặc dốt (một trong ba thứ giặc nguy hại sau
CM Tháng 8/1945), ta phải chống nạn thất học do chính sách ngu dân của thực
dân Pháp để lại. Và đối tƣợng Bác hƣớng tới là quốc dân đồng bào- hơn 90%
trong số đó mù chữ nên phải chọn cách nói ngắn gọn, giản dị, trong sáng, dễ
hiểu, thuyết phục. Sau đó GV khơi gợi để HS trả lời các câu hỏi: Để thực hiện
mục đích trên, bài viết nêu ra những ý kiến nào? Bác đã dùng những lí lẽ, dẫn
chứng nào để thuyết phục mọi ngƣời? Nếu tác giả thực hiện mục đích của mình
bằng văn kể chuyện, miêu tả, biểu cảm có đƣợc không? Vì sao? Tƣ tƣởng, quan
điểm của tác giả có hƣớng đến các vấn đề trong cuộc sống hay không? Sau khi
giúp HS trả lời các câu hỏi đó, HS rút ra khái niệm thế nào là văn nghị luận. Và
thấy đƣợc những quan điểm trong bài văn nghị luận phải giải quyết vấn đề trong
cuộc sống thì bài viết mới có sức thuyết phục.
Sau khi giải quyết xong phần hình thành kiến thức mới, GV nên quay lại
hỏi HS vì sao phóng sự “Người Hà Nội sống bên những dòng sông ô nhiễm” lại
đƣợc xếp vào phƣơng thức nghị luận. Có lẽ đến đây HS đã có thể trả lời đƣợc
câu hỏi này.
Ở hoạt động thực hành: GV giúp HS làm các bài tập trong SGK đặc biệt
chú ý bám vào lý thuyết để nhận diện ra văn bản nghị luận, văn bản có thuyết
phục không? Vì sao? Đâu là luận điểm, đâu là lí lẽ và dẫn chứng trong bài. Đặc
biệt văn bản “Hai biển hồ” (Quà tặng cuộc sống) nếu HS không hiểu bản chất
của văn nghị luận, rất dễ nhầm lẫn sang văn bản tự sự nhƣng thực ra tác giả kể
chuyện hai biển hồ (Biển Chết và biển Ga-li-lê) mục đích để bày tỏ quan điểm:
sống phải biết sẻ chia, không nên ích kỉ, giữ lại cho riêng mình. Bài tập này giúp
khắc sâu kiến thức, phân biệt văn bản nghị luận với các kiểu văn bản khác (nhất
là tự sự).
Ở hoạt động ứng dụng, bổ sung: GV nên cho HS về nhà sƣu tầm hai văn
bản nghị luận? Vì sao em lại chọn hai văn bản đó?
12
1.1.2. Bài “Đặc điểm của văn bản nghị luận”: mục tiêu của bài học là
giúp HS nhận biếtđặc điểm của văn bản nghị luận với các yếu tố luận điểm, luận
cứ, lập luận gắn bó mật thiết với nhau. Biết xác định luận điểm, luận cứ và lập
luận trong một văn bản nghị luận. Bƣớc đầu biết xác định luận điểm, xây dựng
hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận cho một đề bài cụ thể.
– Trong phần hình thành kiến thức mới: GV cho HS tìm hiểu văn bản”
Chống nạn thất học”. Bằng cách trả lời các câu hỏi, HS rút ra đặc điểm của văn
nghị luận.Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận.
Luận điểm: Luận điểm là ý kiến thể hiện tƣ tƣởng, quan điểm của bài văn
đƣợc nêu ra dƣới hình thức câu khẳng định (hay phủ định), đƣợc diễn đạt sáng
tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn
văn thành một khối. Luận điểm phải đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực
tế thì mới có sức thuyết phục.
Nhƣ vậy:
+ Về hình thức: luận điểm cần đƣợc nêu khái quát, trình bày nổi bật, có thể
bằng câu khẳng định hoặc phủ định tính chất, thuộc tính của đối tƣợng bàn luận.
Câu văn nêu luận điểm thƣờng đứng đầu hoặc đứng cuối mỗi đoạn văn. Ví dụ:
– Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là
thương cả muôn vật, muôn loài.
( Ý nghĩa văn chương, Hoài Thanh)
– Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay.
( Sự giàu đẹp của Tiếng Việt, Đặng Thai Mai)
+ Về ý nghĩa: luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn
thành một khối. Có luận điểm chính bao trùm toàn bài và có những luận điểm
phụ làm bộ phận của luận điểm chính. Tất cả họp lại thành hệ thống luận điểm.
13
+ Về tính chất: luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng đƣợc nhu cầu
của thực tế mới có sức thuyết phục.
Luận cứ:Luận cứ là những lý lẽ, dẫn chứng đƣa ra làm cơ sở cho luận
điểm. Luận cứ có giá trị dẫn đến luận điểm hoặc chứng minh, soi sáng luận
điểm.
+ Lý lẽ là ý kiến riêng của ngƣời viết. Muốn lí lẽ thuyết phục thì lí lẽ đó
phải phù hợp với các nguyên lý, chân lý, đạo lý, những ý kiến đã đƣợc thừa
nhận, khi nêu ra sẽ đƣợc sự tán thành của nhiều ngƣời.
Ví dụ: Để giúp mọi ngƣời tin rằng trong cuộc sống, đừng sợ những sai lầm,
thất bại, cứ kiên trì nỗ lực vƣơn lên, ngƣời viết có thể thuyết phục bằng các lí lẽ
sau:
* “Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một
người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập
được.”
* “Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem
đến một bài học cho đời”.
* “Khi bạn tiến bước vào tương lai, bạn làm sao tránh được những sai lầm?
Nếu bạn sợ sai thì bạn chẳng dám làm gì. Người khác bảo bạn sai chưa chắc
bạn đã sai, vì tiêu chuẩn đúng sai khác nhau. Lúc đó bạn chớ ngừng tay, mà cứ
tiếp tục làm, dù cho có gặp trắc trở. Thất bại là mẹ thành công.”
* “Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người phạm sai lầm thì chán nản. Có kẻ
sai lầm rồi thì tiếp tục sai lầm thêm. Nhưng có người biết suy nghĩ, rút kinh
nghiệm, tìm con đường khác để tiến lên.”
* “Những người sáng suốt dám làm, không sợ sai lầm, mới là người làm
chủ số phận của mình.”
14
+ Dẫn chứng là những bằng cớ để xác nhận sự đúng đắn của luận điểm. dẫn
chứng có thể là số liệu, là những con ngƣời cụ thể…(Dẫn chứng bao gồm dẫn
chứng thực tế và dẫn chứng trong văn học, trong lịch sử…)
Ví dụ: Vẫn là nội dung trên (thuyết phục mọi ngƣời không sợ thất bại, khó
khăn) ngƣời viết có thể thuyết phục bằng các dẫn chứng sau:
“Oan Đi-xnây từng bị tòa báo sa thải vì thiếu ý tưởng. Ông cũng nếm mùi
phá sản nhiều lần trước khi tạo nên Đi-xnây-len.
Lúc còn học phổ thông, Lu-i Pa-xtơ chỉ là một HS trung bình. Về môn Hóa,
ông đứng hạng 15 trong tổng số 22 HS của lớp.
Lép Tôn-xtôi, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng “chiến tranh và hòa bình”
bị đình chỉ học đại học vì “vừa không có năng lực, vừa thiếu ý chí học tập”
Hen-ri Pho thất bại và cháy túi tới năm lần trước khi thành công.
Ca sĩ ô-pê-ra nổi tiếng En-ri-cô Ca-ru-xô bị thầy giáo cho là thiếu chất
giọng và không thể nào hát được”.
->Với bài viết này, để thuyết phục ngƣời đọc, ngƣời nghe, tác giả đã đƣa ra
các dẫn chứng là những nhân vật nổi tiếng trên thế giới thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau: Oan Đi-xnây, Lu-i Pa-xtơ, Lép Tôn-xtôi, Hen-ri Pho, En-ri-cô Ca-ruxô. Đó là những tấm gƣơng trƣớc khi thành công đã phải nếm mùi thất bại.
Nhƣ vậy, trong luận cứ, lý lẽ và dẫn chứng hỗ trợ cho nhau, lý lẽ làm sáng
tỏ ý nghĩa của dẫn chứng và dẫn chứng làm cho lý lẽ giàu sức thuyết phục. Lí lẽ
giúp ngƣời ta hiểu còn dẫn chứng giúp ngƣời ta tin.
Luận cứ phải đúng đắn, chân thật, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có
sức thuyết phục. Muốn có những luận cứ nhƣ vậy thì ngƣời viết phải có vốn thực
tế dồi dào, vốn văn hóa phong phú và quan điểm sống đúng đắn. Ví dụ luận cứ
trong văn bản “ Đức tính giản dị của Bác Hồ” của Phạm Văn Đồng đúng đắn,
15
chân thực, tiêu biểu bởi tác giả là một trong những học trò xuất sắc và là ngƣời
cộng sự gần gũi với Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt hơn 30 năm giữ cƣơng vị
Thủ tƣớng chính phủ, Phạm Văn Đồng có điều kiện sống và làm việc bên cạnh
Bác Hồ nên các dẫn chứng ông đƣa ra hoàn toàn xác thực, đầy sức thuyết phục.
Lập luận:Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải
chặt chẽ, hợp lý thì bài văn mới có sức thuyết phục.
Lập luận thƣờng dùng các thao tác tổ chức, phối hợp dẫn chứng và lý lẽ sau:
quy nạp, diễn dịch, suy lý, so sánh, phân tích, tổng hợp…
Lập luận giữ vai trò quan trọng, có mặt ở các phần trong bài nghị luận: lập
luận thể hiện trong đoạn văn, trong bài văn, trong việc viết mở bài, kết bài.
-> Có thể tạm so sánh luận điểm nhƣ xƣơng sống; luận cứ nhƣ xƣơng
sƣờn, xƣơng các chi; còn lập luận nhƣ da thịt, mạch máu của bài văn nghị
luận.
Sau khi cho học sinh tìm hiểu lý thuyết, GV củng cố kiến thức bằng bài tập
ngoài sách giáo khoa.
Đọc văn bản “ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”- Hồ Chí Minh, hãy cho
biết luận điểm, luận cứ và cách lập luận trong bài?
Để chứng minh tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta, Bác đã đƣa ra hệ thống
luận điểm, luận cứ sau:
– Luận điểm:
+ Luận điểm chính: – Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền
thống quý báu của ta.
+ Luận điểm phụ: – Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại, chứng
tỏ tinh thần yêu nước của dân ta.
– Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước.
16
– Luận cứ: Để chứng minh cho luận điểm “ Lịch sử ta đã có nhiều cuộc
kháng chiến vĩ đại, chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta”, Bác đã đƣa ra các
dẫn chứng về những trang sử vẻ vang của dân tộc thời đại Bà Trƣng, Bà Triệu,
Trần Hƣng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Các dẫn chứng Ngƣời lựa chọn tiêu
biểu, xác thực, không ai có thể phủ nhận đƣợc.
Để chứng minh cho luận điểm “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng
với tổ tiên ta ngày trước”, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đƣa ra luận cứ: Trong kháng
chiến chống Pháp, các tầng lớp nhân dân không phân biệt già – trẻ, gái – trai, giàu
– nghèo, không phân biệt giai cấp, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống, tất cả đều
giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nƣớc.
– Lập luận: Bài văn mở đầu bằng câu văn nêu luận điểm khẳng định chắc
nhƣ đinh đóng cột về tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta. Sau đó Bác đã dùng
những lý lẽ và dẫn chứng chứng minh tinh thần yêu nƣớc thể hiện trong những
trang sử hào hùng của dân tộc và trong thời đại ngày nay (trong kháng chiến
chống Pháp). Cuối cùng nêu nhiệm vụ của Đảng, của Chính phủ là phải ra sức
tuyên truyền, giải thích, phát huy tinh thần yêu nƣớc của quần chúng nhân dân.
-> Văn bản “ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”- Hồ Chí Minh đƣa ra
những luận điểm rõ ràng, nhất quán, đúng đắn; luận cứ chân thật, toàn diện, tiêu
biểu; lập luận chặt chẽ, sắc bén (bài văn suy luận tƣơng đồng theo dòng thời
gian: xƣa- nay) thật xứng đáng là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn
chứng của thể văn nghị luận.
Ở hoạt động thực hành: GV giúp HS tìm luận điểm, luận cứ và cách lập
luận trong bài “ Cần tạo thói quen tốt trong đời sống xã hội”.
– Luận điểm: chính là nhan đề.
– Luận cứ:
+ Luận cứ 1: Có thói quen tốt và có thói quen xấu.
17
+ Luận cứ 2: Có ngƣời biết phân biệt tốt và xấu, nhƣng vì đã thành thói
quen nên rất khó bỏ, khó sửa.
+ Luận cứ 3: Hậu quả của thói quen xấu (mất vệ sinh, nguy hiểm)
+ Luận cứ 4: Tạo đƣợc thói quen tốt là rất khó. Nhƣng nhiễm thói quen
xấu thì dễ. Mỗi ngƣời cần tạo thói quen tốt trong đời sống xã hội.
– Lập luận: Bài viết nêu những biểu hiện của thói quen tốt và thói quen
xấu trong đời sống xã hội. Sau đó, phân tích tác hại của những thói quen xấu để
rồi cuối cùng chốt lại “Tạo được thói quen tốt là rất khó. Nhiễm thói quen xấu thì
rất dễ. Cho nên, mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống
đẹp, văn minh cho xã hội”
=> Bài văn có sức thuyết phục mạnh mẽ vì luận điểm mà tác giả nêu ra rất
phù hợp với cuộc sống hiện tại.
1.1.3.Bài “Đề văn nghị luận và việc lập ý cho bài văn nghị luận”: Mục
tiêu của bài học giúp HS nhận ra đặc điểm và cấu tạo của đề bài văn nghị luận,
các bƣớc tìm hiểu đề và lập ý cho một đề văn nghị luận. So sánh để tìm ra sự
khác biệt của đề văn nghị luận với các đề tự sự, miêu tả, biểu cảm.
– Hoạt động hình thành kiến thức mới: Từ việc phân tích các ví dụ SGK
về các đề văn nghị luận, GV giúp HS nắm đƣợc: Đề văn nghị luận bao giờ cũng
nêu ra một vấn đề để bàn bạc và đòi hỏi ngƣời viết bày tỏ ý kiến của mình với
vấn đề đó. Đề văn nghị luận thƣờng có tính chất ngợi ca, phân tích, khuyên nhủ,
phản bác…Tùy tính chất của đề mà khi làm bài ta vận dụng các phƣơng pháp
phù hợp.
Ví dụ:
(1) Tiếng Việt giàu đẹp. (Đề có tính chất giải thích, ca ngợi)
(2) Thất bại là mẹ thành công. (Đề có tính chất khuyên nhủ, phân tích)
18
(3) Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. (Đề có tính chất suy nghĩ, bàn luận)
(4) Ăncỗ đi trước, lội nước theo sau nên chăng? (Đề có tính chất tranh luận,
phản bác, lật ngƣợc vấn đề)
Dạng thức đề:
+ Về hình thức: có đề nêu rõ yêu cầu về thao tác nghị luận nhƣ: Hãy chứng
minh…Hãy giải thích…Hãy phân tích…
Ví dụ: Hãy giải thích câu tục ngữ “ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.
Nhƣng có đề chỉ đƣa ra vấn đề nghị luận mà không có yêu cầu về thao tác
nghị luận (đề mở). Với đề mở, ngƣời làm bài cần dựa vào nội dung, đề tài nghị
luận mà lựa chọn thao tác nghị luận phù hợp.
Ví dụ: Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
+ Về nội dung: có đề nêu trực tiếp vấn đề cần nghị luận. Có đề nêu vấn đề
nghị luận gián tiếp qua câu danh ngôn, tục ngữ, câu chuyện… Với dạng đề này
cần phải hiểu rõ nghĩa câu danh ngôn, tục ngữ… và phải giải thích trƣớc khi bàn
luận.
Sau khi tìm hiểu chung về nội dung, tính chất của đề văn nghị luận, GV cho
HS tìm hiểu đề văn “Chớ nên tự phụ”. Việc tìm hiểu đề rất quan trọng, giúp cho
việc triển khai văn bản không khị lạc đề, lệch đề. Đây là một trong 4 bƣớc quan
trọng khi làm bài (HS thƣờng bỏ qua). Trong phần tìm hiểu đề, GV yêu cầu HS
đọc kĩ đề bài, gạch chân vào các từ ngữ quan trọng, xác định đúng vấn đề, phạm
vi, tính chất của bài.
Sau khi tìm hiểu đề, HS cần tiến hành lập ý cho bài văn nghị luận. Lập ý
giúp tìm ra những ý chính của bài viết, giúp bài viết trở nên mạch lạc, chặt chẽ.
Ở phần này, GV gợi mởcho HS trả lời các câu hỏi gợi ý SGK. Từ việc lập ý cho
bài văn nghị luận “Chớ nên tự phụ”, HS rút ra kết luận:Lập ý cho bài văn nghị
19
luận là làm 3 việc: xác lập luận điểm (cụ thể hóa luận điểm chính thành các luận
điểm phụ), tìm luận cứ, xây dựng lập luận.
– Ở hoạt động thực hành: GV Cho HS tìm hiểu đề và lập ý cho bài “Sách
là người bạn lớn của con người”.
Tìm hiểu đề:
* Vấn đề NL: Lợi ích của việc đọc sách.
* Đối tượng và phạm vi nghị luận: Bàn về lợi ích của sách, thuyết phục mọi
ngƣời tạo cho mình thói quen đọc sách.
* Khuynh hướng tư tưởng: Khẳng định ích lợi của việc đọc sách. Cần trân
trọng, nâng niu những cuốn sách, rèn thói quen đọc sách hàng ngày.
* Đề đòi hỏi người viết phải:
+ Giải thích đƣợc “sách” là gì? Thế nào là “ngƣời bạn lớn”? Từ đó suy ra
nghĩa chung của câu nói.
+ Phân tích và chứng minh ích lợi của việc đọc sách.
+ Nhắc nhở mọi ngƣời phải có thái độ đúng với sách. Cần phải trân trọng,
nâng niu những cuốn sách quý sách hay nhƣ giữ gìn tình bạn. Chọn sách hay mà
đọc. Dành thời gian đọc sách và vận dụng những điều học trong sách vào cuộc
sống. Phê phán những ngƣời chƣa có thói quen đọc sách, xem nhẹ ngƣời bạn lớn
ấy…..
Lập ý cho đề bài:
* Xác định luận điểm: Sách là ngƣời bạn lớn của con ngƣời.
* Tìm luận cứ:
Luận cứ 1:Trƣớc hết sách mở rộng tầm hiểu biết cho ta. Nó giống nhƣ một
cánh cửa để ta bƣớc vào toà lâu đài tri thức tráng lệ của nhân loại. Những tinh
20
hoa đƣợc lƣu giữ trong sách phong phú đa dạng vô cùng từ tri thức về khoa học
tự nhiên đến tri thức về khoa học xã hội. Sách đƣa ta vƣợt thời gian, có thể trở về
quá khứ, có thể bay đến tƣơng lai để ta hiểu sâu hơn về thực tại. Sách cũng giúp
ta chiếm lĩnh đƣợc nhiều khoảng không gian khác nhau từ không gian cực lớn
của thiên hà vũ trụ đến không gian cực nhỏ của những hạt vất chất nguyên tử,
phân tử. Sách cũng giúp ta trả lời bao câu hỏi vẫn đặt ra từ thời thơ ấu nhƣ: tại
sao sau cơn mƣa cầu vồng xuất hiện, tại sao lá cây có màu xanh, con ngƣời có
nguồn gốc từ đâu?
Luận cứ 2: Không chỉ mở rộng tầm hiểu biết, ngƣời bạn lớn ấy còn bồi
đắp tâm hồn cho ta khiến tâm hồn ta thêm phong phú và giàu có hơn. Giống nhƣ
dòng sống đã đi qua còn để lại những ấn tƣợng phù sa trong tâm khảm. sách gieo
những hạt giống tốt lành trong tâm hồn ngƣời để những hạt giống ấy nảy nở
trong gió lộng và nắng mai. Sách đem đến cho chúng ta bao cảm xúc, khơi dậy
trong ta bao điều tốt đẹp để ta sống đẹp hơn. Đọc sách nhất là sách văn học
khiến tâm hồn ta biết yêu thƣơng và rung động nhiều hơn. Ta biết nhận vẻ đẹp
của một nhành mai khi xuân về, biết rung động trƣớc một giọt sƣơng buổi sớm,
một tia nắng mai len lỏi qua kẽ lá, một tiếng chim lảnh lót đầu hồi cũng khiến
lòng ta xao động. Ta cũng biết đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh, biết căm
ghét cái xấu xa ích kỉ, tầm thƣờng.