SKKN Kết hợp mô hình lớp học đảo ngược với tự học trực tuyến Elearning trong dạy học chương: Nhóm Halogen Hóa học 10 nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, đứng trước
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc học ở trường không thể đáp ứng hết nhu cầu của người
học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy bồi dưỡng NLTH cho HS
khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ là nền tảng cơ bản đóng vai trò quyết định đến
sự thành công của các em trên con đường phía trước và đó cũng chính là nền tảng để các
em tự học suốt đời. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đang tiến hành đổi mới nền
giáo dục trên tất cả các lĩnh vực, trong đó đổi mới phương pháp đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người
học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực; Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập
đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Cùng với đó, trong năm học
2020-2021, Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo đã ra chỉ thị Số: 666/CT-BGDĐT về nhiệm vụ và
giải pháp năm học 2020 – 2021 của ngành Giáo dục. Một trong các nhiệm vụ trọng tâm là
“Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý giáo dục, thực hiện
chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”.
Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, năng lực tự chủ và tự học là một trong
những năng lực chung cần phát triển cho học sinh (HS) ở các cấp học. Dạy học theo mô
hình lớp học đảo ngược là một trong những mô hình dạy học hiện đại và đáp ứng được những
yêu cầu nêu trên. Thay vì dạy kiến thức mới như lớp học truyền thống, giáo viên (GV) hướng
dẫn HS tự học kiến thức mới ở nhà, trên lớp GV tập trung vào việc giải đáp thắc mắc của HS, làm
bài tập vận dụng kiến thức hay thảo luận sâu hơn về kiến thức, ngược lại người học thay vì tiếp
thu kiến thức một cách thụ động từ GV, các em sẽ phải tự tiếp cận kiến thức ở nhà, tự mình
trải nghiệm, khám phá, tìm tòi các thông tin liên quan về bài học. Mô hình này giúp HS phát
huy và rèn luyện tính tự học, tính chủ động làm chủ quá trình học tập của chính bản thân
mà không còn bị động, phụ thuộc trong quá trình khám phá tri thức.
Thực trạng dạy học hóa học ở một số trường phổ thông hiện nay cho thấy việc áp
dụng mô hình lớp học đảo ngược ở các trường phổ thông còn chưa phổ biến. Những hướng
dẫn tự học của GV cho HS chủ yếu ở hoạt động ra bài tập về nhà để vận dụng, ôn luyện
kiến thức kĩ năng mà chưa chú trọng phát triển khả năng tự học, tự nghiên cứu của HS.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã tìm hiểu và viết sáng kiến: “Kết hợp mô hình
lớp học đảo ngược với tự học trực tuyến – Elearning trong dạy học chương: nhóm
Halogen – Hóa học 10 nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh đáp ứng chương
trình giáo dục phổ thông mới.”
Với mục đích nghiên cứu vận dụng mô hình dạy học lớp học đảo ngược trong dạy
học chương nhóm Halogen Hóa học 10 nhằm phát triển năng lực tự học của HS ở trường
THPT.
6
- Thiết kế được kế hoạch bài dạy và đưa ra quy trình tổ chức dạy học theo mô hình
lớp học đảo ngược cho học sinh nhằm phát triển NL tự học. - Đánh giá được NLTH của HS thông qua các tiêu chí và bộ công cụ đã xác định ở
trên.
Để sáng kiến đạt hiệu quả tốt nhất, tôi đã áp dụng tại một số đơn vị sau: - Tại trường sở tại: THPT Nam Trực – Tỉnh Nam Định;
- Trường THPT Sông Mã – Tỉnh Sơn La, tôi áp dụng với sự giúp đỡ của cô: Nguyễn Thị
Bích Diệp; - Trường THPT Mỹ Lộc – Tỉnh Nam Định, tôi áp dụng với sự giúp đỡ của cô: Trần Thị
Hương; - Trường THPT Nguyễn Văn Cừ – Tp Hải Dương, tôi áp dụng với sự giúp đỡ của thầy: Lê
Quốc
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
- Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Năng lực và sự phát triển năng lực cho HS phổ thông
1.1.1. Khái niệm năng lực
Năng lực là những kỹ năng kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết
các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ xã hội…và khả năng vận dụng
các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong các tình huống linh
hoạt.
Năng lực là một thuộc tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức
Như vậy có thể coi năng lực là sự kết hợp của các khả năng, phẩm chất của một cá
nhân hoặc tổ chức nhằm thực hiện một nhiệm vụ có kết quả tốt.
Năng lực được xác định trong chương trình GDPT tổng thể: “Năng lực là thuộc tính
cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho
phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác
như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết
quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”.
1.1.2. Cấu trúc năng lực
Có hai hướng tiếp cận để xác định cấu trúc của NL là theo nguồn lực hợp thành và
theo năng lực bộ phận.
- Tiếp cận theo nguồn lực hợp thành: chỉ ra nguồn lực hợp thành cơ bản của NL là
khả năng, kĩ năng và thái độ sẵn sàng tham gia hoạt động của cá nhân. NL được hợp thành
từ: (1) tri thức về lĩnh vực hoạt động hay quan hệ nào đó; (2) kỹ năng tiến hành hoạt động
hay xúc tiến, ứng xử với quan hệ nào đó. (3) những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện
tri thức, kỹ năng đó trong một cơ cấu thống nhất vè theo một định hướng rõ ràng. Năng lực
7
mỗi cá thể được hợp thành từ 7 thành tố trong hình 1.1; các thành tố này đặt trong bối cảnh
cụ thể hoặc tình huống thực tiễn.
Hình 1.1. Cấu trúc đa thành tố của năng lực - Tiếp cận theo năng lực bộ phận: cấu trúc chung của NL hành động được mô tả là
sự kết hợp của bốn NL thành phần như mô tả hình 1.2.
Hình 1.2. Sơ đồ cấu trúc chung của năng lực hành động
Như vậy, cấu trúc của NL là một cấu trúc động, có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc,
hàm chứa không chỉ là kiến thức, kĩ năng và thái độ mà là cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm
xã hội, thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong điều kiện thực tiễn.
Hai cách tiếp cận cấu trúc NL nói trên đã có sự bổ sung cho nhau, hình dung được đầy
đủ các NL bộ phận và hành vi biểu hiện của chúng thì mới xác định được các yếu tố nguồn
lực hợp thành và phân bổ chúng theo các trình độ phù hợp với yêu cầu phát triển NL ở mỗi
lớp, cấp học. Việc dạy học phát triển NL của HS do đó không chỉ dừng ở trang bị kiến thức,
rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng thái độ sống đúng đắn mà còn phải làm cho những kiến thức
sách vở trở thành hiểu biết thực sự của mỗi HS; làm cho những kĩ năng được rèn luyện trên
lớp được thực hành, ứng dụng trong đời sống; làm cho thái độ sống được giáo dục qua mỗi
8
bài học có điều kiện, môi trường để bộc lộ, hình thành, phát triển qua các hành vi ứng xử,
trở thành phẩm chất bền vững của mỗi HS.
1.1.3. Một số năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh trung học phổ thông
Xu thế của giáo dục hiện nay là dạy học theo hướng phát triển NL của người HS.
Xu hướng chung của giáo dục hiện đại là chuyển từ dạy học tập trung vào kiến thức
sang tập trung vào dạy học phát triển năng lực. Đối với HS THPT cần có các NL chủ
yếu sau: - Năng lực cốt lõi
- Nhóm NL làm chủ và phát triển bản thân: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
tự học, năng lực tự quản lí. - Nhóm NL về quan hệ xã hội: năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp,.
- Nhóm NL công cụ: NL sử dụng ngôn ngữ, NL sử dụng công nghệ thông tin,
NL tính toán. - Các năng lực đặc thù môn Hóa học:
“+ NL nhận thức hóa học: Nhận thức được các kiến thức cơ sở về cấu tạo chất; các
quá trình hoá học; các dạng năng lượng và bảo toàn năng lượng; một số chất hoá học cơ
bản và chuyển hoá hoá học; một số ứng dụng của hoá học trong đời sống và sản xuất. - NL tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ hóa học: Quan sát, thu thập thông tin;
phân tích, xử lí số liệu; giải thích; dự đoán được kết quả nghiên cứu một số sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên và đời sống. - NL vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học: Vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học
để giải quyết một số vấn đề trong học tập, nghiên cứu khoa học và một số tình huống cụ
thể trong thực tiễn”.
1.2. Năng lực tự học
1.2.1. Khái niệm năng lực tự học
Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là TH, nghĩa là chủ thể tác động
vào nội dung học một cách tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo để đạt được mục tiêu học
tập. Quá trình hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, chủ yếu là do HS tự thực hiện, còn
môi trường học chỉ đóng vai trò trợ giúp. Học tập chỉ có hiệu quả khi người học ý thức
được việc học (có nhu cầu học tập) từ đó có động cơ, ý chí và quyết tâm để vượt qua những
khó khăn, trở ngại trong quá trình học tập.
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm về TH đã được các tác giả trong và ngoài nước
đề cập dưới nhiều góc độ và hình thức khác nhau: Theo chương trình giáo dục phổ thông
tổng thể 2018, NLTH được xác định là một trong 3 năng lực chung cốt lõi cần được hình
thành và phát triển cho HS trong mọi môn học và ở các cấp học. Khái niệm về NLTH được
các tác giả đưa ra như sau:
NLTH là một năng lực thể hiện ở tính tự lực, sự tự làm lấy, tự giải quyết lấy vấn đề
của một chủ thể hoạt động.
Về bản chất, các quan điểm TH ở trên đều có các điểm chung: TH là hoạt động độc
lập của người học nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những kinh nghiệm lịch sử
9
xã hội để hoàn thiện nhân cách của bản thân; TH do bản thân ý thức được nhiệm vụ học
tập, tự đưa ra kế hoạch học tập và làm chủ trong việc xác định mục đích, nội dung, cách
thức học; TH có thể diễn ra cả ở trên lớp và ngoài lớp. Tùy thuộc vào đối tượng người học
mà TH có các cấp độ khác nhau từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Từ các nhận định trên, theo chúng tôi: TH là hình thức học tập mang đậm màu sắc
cá nhân, là quá trình mà người học tự ý thức nhiệm vụ học tập, tự đưa ra kế hoạch và làm
chủ trong việc xác định mục đích, nội dung, cách thức học, tác động một cách tích cực, chủ
động vào đối tượng học nhằm chuyển hóa chúng thành tri thức riêng của mình, vận dụng
tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập; rèn luyện và phát triển KN, làm cho người
học thay đổi và ngày càng phát triển.
Với cách hiểu như trên về quá trình TH, trong luận văn này chúng tôi sử dụng khái
niệm năng lực tự học với nội hàm như sau: NLTH là khả năng huy động tri thức, kĩ năng
sẵn có, kinh nghiệm bản thân, động cơ, hứng thú để tự lực chiếm lĩnh tri thức mới, rèn
luyện kĩ năng mới và hoàn thiện phẩm chất của mỗi cá nhân.
1.2.2. Biểu hiện của năng lực tự học
Theo chương trình GDPT tổng thể 2018, NLTH của HS THPT có các biểu hiện sau:
xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được; biết đặt mục tiêu học tập chi
tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế; đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình
thành cách học riêng của bản thân; tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù
hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù
hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết; tự nhận ra và điều chỉnh
được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập; suy ngẫm cách học của
mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác; biết tự điều chỉnh cách
học; biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân.
Những biểu hiện của NLTH của HS THPT là cơ sở để tôi xây dựng những tiêu chí
đánh giá NLTH của HS THPT.
1.3. Phát triển năng lực tự học thông qua E-learning
1.3.1. Khái niệm E-learning
Trong hai thập kỉ qua, với sự phát triển không ngừng của ICT, việc dạy – học với sự
hỗ trợ của máy tính đã và đang trở nên quen thuộc, đặc biệt là E-Learning. Thuật ngữ ELearning được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như: - E-learning (học tập trực tuyến) là phương thức học tập có sử dụng kết nối mạng
Internet để phục vụ học tập, lấy tài liệu học tập, trao đổi giao tiếp giữa người học với nhau
và với giảng viên. - E-learning là việc truyền tải các hoạt động, quá trình và sự kiện đào tạo và học tập
thông qua các phương tiện điện tử như Internet, Intranet, Extranet, CD-ROM, băng video,
DVD, TV, các thiết bị cá nhân,…. - E-learning là việc học tập được truyền tải hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử, qua
nhiều kỹ thuật khác nhau như Internet, TV, băng video, các hệ thống giảng dạy thông minh,
và việc đào tạo dựa trên máy tính.
10
Hiện nay, E-learning được nhìn dưới góc độ tổng quát hơn, theo nghĩa là việc sử
dụng ICT có chủ đích để nâng cao hoặc hỗ trợ việc dạy học. Trong sáng kiến này tôi hiểu
E-learning là việc người học sử dụng CNTT tự lực chiếm lĩnh kiến thức và phát triển NLTH
bản thân.
1.3.2. Vai trò E-learning trong việc phát triển năng lực tự học
a. Chức năng của E-learning trong việc thực hiện các biện pháp dạy – tự học
Để thực hiện các biện pháp bồi dưỡng NLTH, tôi đã phân tích, chọn lọc các phương
tiện dạy học hiện có và xác định E-learning có các tính năng hỗ trợ dạy – tự học hiệu quả
như: - Dễ sử dụng qua giao diện màn hình, kích chuột và gõ trên bàn phím;
- Các nội dung học tập bằng nhiều định dạng của E-learning hấp dẫn, trực quan, dễ
truy cập trên Internet tạo điều kiện cho HS có thể học tập mọi lúc, mọi nơi phù hợp với
điều kiện và sở thích cá nhân, góp phần duy trì động cơ học tập. - HS tự học có sự hỗ trợ của GV theo cách thoải mái nhất (cá nhân hóa việc học của
mình), đảm bảo cho HS dù là tự chủ, tự định hướng nhưng luôn học KT và KN tự học theo
cách đúng nhất, đã được GV thiết kế và dự trù trước.
Các tính năng của E-learning đã làm tăng cường độ hoạt động học tập của HS, hình
thành cho HS thói quen phân tích, tổng hợp, đánh giá, tư duy khoa học,… có như vậy mới
tạo cho HS động cơ hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng, thói quen ý chí tự học, rèn luyện
và bồi dưỡng NLTH.
b. Các tiêu chuẩn của E-learning hỗ trợ dạy – tự học hóa học - Tiêu chuẩn về học liệu: Giáo dục (giáo dục ý thức tự học, động cơ tự học, duy trì
hứng thú tự học); phát triển năng lực (hướng dẫn HS rèn luyện các kĩ năng: tìm và xử lý
thông tin, vận dụng giải quyết vấn đề đặt ra); giáo dục kỹ thuật tổng hợp (rèn luyện cho HS
các kĩ năng sử dụng máy vi tính và CNTT) - Tiêu chuẩn về PPDH: Dạy học GQVĐ là chiến lược dạy học; học đến đâu kiểm
tra đến đó; học đến đâu hệ thống hóa đến đó; học tập tương tác và phân hóa theo từng
cá nhân HS. - Tiêu chuẩn về phương tiện DH: Video thí nghiệm (ưu tiên 1); video mô phỏng thí
nghiệm (ưu tiên 2); cập nhật các hình ảnh, sự kiện, tư liệu thời sự nóng bỏng, đang được quan
tâm; video phải có chất lượng tốt, âm thanh và hình ảnh hợp lý… - Tiêu chuẩn về kĩ thuật: Dễ sử dụng, thân thiện với người dùng; truy cập và hiển
thị nhanh, dễ dàng lưu trữ và truy xuất khi cần.
1.4. Mô hình lớp học đảo ngược
1.4.1. Khái niệm mô hình lớp học đảo ngược
Lớp học đảo ngược là một mô hình dạy học được áp dụng rộng rãi trong nhiều
trường học, từ các lớp tiểu học, trung học đến đại học, đã làm đảo ngược cách tổ chức dạy
học theo truyền thống.
Lớp học đảo ngược là tất cả các hoạt động dạy – học được thực hiện “đảo ngược”
so với thông thường. Sự “đảo ngược” ở đây được hiểu là sự thay đổi với các dụng ý và
11
chiến lược sư phạm ở cách triển khai các nội dung, mục tiêu DH và các hoạt động DH khác
với cách truyền thống trước đây của người dạy và người học.
Ở lớp học đảo ngược sẽ ngược lại với mô hình lớp học truyền thống, HS được xem
trước tại nhà những bài giảng, những video, học liệu về lý thuyết, bài tập cơ bản GV thực
hiện và được chia sẻ qua Internet, trong khi thời gian ở lớp lại dành cho việc giải đáp thắc
mắc của HS, làm bài tập khó hay thảo luận sâu hơn về kiến thức.
Một số kiểu mô hình lớp học đảo ngược tiêu biểu:
LHĐN căn bản: HS được yêu cầu xem video bài giảng và tài liệu học tập ở nhà như
là điều kiện bắt buộc chuẩn bị cho giờ học lên lớp. Trong giờ học trên lớp, HS vận dụng
kiến thức đã học ở nhà nhằm mở rộng kiến thức.
LHĐN micro: Các video bài giảng ngắn cùng với các bài tập ngắn được giao choHS.
Phần còn lại của bài giảng và bài tập được tiến hành trong giờ học.
LHĐN hướng dẫn – thảo luận: Bài tập về nhà được giao ở dạng bài giảng video và
nguồn video khác. Các cuộc thảo luận diễn ra trong lớp học để HS khám phá thêm các chủ
đề, bổ sung thêm các hiểu biết sau khi nghiên cứu những điều cơ bản.
LHĐN chú trọng làm mẫu: Dành cho môn học yêu cầu HS ghi nhớ và lặp lại hành
động một cách chính xác. Các công cụ ghi hình được sử dụng để tạo các video hướng dẫn
được sử dụng như bài tập về nhà để HS học tập theo nhịp độ và khả năng.
LHĐN của Faux: Đây là một mô hình cho những HS nhỏ tuổi. Bài tập về nhà được
thay thế bằng các bài giảng video có hướng dẫn và các học liệu khác. Trên lớp, lần lượt HS
được GV hướng dẫn và hỗ trợ để hiểu nội dung học tập.
LHĐN theo nhóm: Sau khi HS nghiên cứu các tài liệu được cung cấp, nhóm HS làm
bài tập trong lớp học. HS giải thích kết quả bài tập với nhau, qua đó tăng khả năng hiểu và
ghi nhớ kiến thức.
LHĐN ảo: HS được tiếp cận bài giảng, nguồn học liệu trên mạng và làm bài tập nộp
cho GV. HS gặp GV trên lớp học theo nhu cầu của từng cá nhân.
LHĐN vai trò GV: HS tự quay video để thể hiện sự hiểu biết kiến thức, kĩ năng NL
của mình, về vai trò của mình trong nhóm. GV đánh giá sự tiến bộ học tập thông qua các
video của HS.
1.4.2. Ưu điểm của mô hình lớp học đảo ngược
Mô hình lớp học đảo ngược có những ưu điểm sau: - GV đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của HS nên có nhiều thời
gian để theo dõi quan sát hoạt động của HS, có điều kiện tập trung cho nhiều đối tượng HS
khác nhau, nhất là các đối tượng cần nhiều sự hỗ trợ hơn so với các bạn. - HS có trách nhiệm hơn đối với việc học của mình, chủ động, tự chủ học tập.
- Tăng cường khả năng tương tác, tương tác ngang hàng giữa các HS với nhau.
- HS có nhiều cơ hội học hỏi với bạn, với thầy
- HS tự quyết định tốc độ học phù hợp, có thể tua nhanh hoặc xem lại nhiều lần khi
chưa hiểu, qua đó làm chủ việc học của mình. - Hỗ trợ các HS vắng mặt nhờ các bài học luôn trực tuyến và được lưu trữ lại.
12 - HS tiếp thu tốt hơn có thể được chuyển tiếp đến các chương trình học cao hơn mà
không ảnh hưởng gì đến các bạn còn lại. - Phụ huynh có nhiều cơ hội hỗ trợ cho HS chuẩn bị bài tốt hơn trong thời gian tự
học ở nhà.
Hình 1.3. So sánh lớp học truyền thống và mô hình LHĐN
Học tập theo mô hình LHĐN sẽ góp phần rèn luyện và phát triểncác cấp độ tư duy
bậc cao theo thang đo nhận thức của Bloom cho HS. Điều này được mô tả trong hình 1.4.
Hình 1.4. So sánh cấp độ tư duy của HS theo thang đo của Bloom
13
Hình 1. 5. Thời gian ở lớp học truyền thống và lớp học đảo ngược
Tăng thời gian đào sâu suy nghĩ và giảm thời gian tiếp thu bị động
Từ minh họa trên cho thấy: với cách dạy học truyền thống thì 90% thời gian
nghe giảng và 10% thời gian làm bài trên lớp. Một buổi lên lớp sẽ bắt đầu với việc
GV chuẩn bị bài giảng và HS chuẩn bị bài học. Bài mới sẽ được giảng trong giờ trên
lớp và thừa một chút thời gian GV sẽ liên hệ thực tế, hỏi và giải đáp câu hỏi SGK.
Như vậy, hầu hết việc giảng và nghe giảng ước chừng đã chiếm 90% thời gian, 10%
còn lại là luyện tập.
Hướng vào dạy học cá thể
Trong mô hình dạy học này, GV có nhiều cơ hội hơn trong quan sát, tiếp xúc
để hướng dẫn, đánh giá từng HS, đặc biệt GV có thể dành thời gian nhiều hơn những
học sinh chưa hiểu kỹ bài giảng. Tại lớp học, HS có thể chủ động làm chủ các cuộc
thảo luận. Thông thường, đối với mô hình truyền thống HS đặt câu hỏi sẽ thu hút sự
chú ý của GV và ngược lại GV sẽ ít chú ý tới HS không có câu hỏi. Ngược lại, đối
với mô hình lớp học đảo ngược, một GV đã chia sẻ “chúng tôi chú ý tới những HS
giữ im lặng” và khẳng định rằng lớp học đảo ngược cho phép cô ấy chú ý vào những
HS cần sự giúp đỡ.
Mô hình có sử dụng CNTT trong dạy học và lấy người học làm trung tâm
Phương tiện dạy học có sử dụng CNTT là một bước thay đổi về chất, làm thay
đổi cách thức dạy học theo hướng “nhảy vọt”. Phương tiện dạy học có thể phân thành
hai tầng cơ bản: tầng 1 là các đa phương tiện mang thông tin về nội dung học tập.
Tầng 2 là các dịch vụ internet để truyền tải thông tin tới người học như: thư điện tử,
trang web, diễn đàn, xem phim trực tuyến, mạng xã hội… Nếu như trong dạy học
truyền thống, GV sẽ truyền tải nội dung học tập trực tiếp thì theo phương pháp dạy
học mới, phương tiện dạy học sẽ vừa chứa đựng nội dung học tập, vừa thay thế chức
năng truyền tải nội dung của GV tới HS.
14
Hình 1.6. Sơ đồ thể hiện người học ở vị trí trung tâm
Có thể thấy người học ở vị trí trung tâm, là chỗ giao nhau của mọi con đường
kiến thức. Các kiến thức đến người học không chỉ trực tiếp từ các GV mà có thể từ
hệ thống mạng máy tính, qua e-learning, sách vở (sách điện tử), hoạt động nghệ thuật,
môi trường tự nhiên, xã hội, gia đình…Đặc biệt bài giảng của GV có thể tạo thành
video và thông qua mạng interrnet để đến người học. Như vậy, để có kiến thức, người
học không nhất thiết phải đến lớp nghe GV giảng mà có thể thông qua các phương
tiện khác nhau để thu nhận kiến thức.
Nhờ sự hỗ trợ của CNTT, HS có thể thu lại hoặc xem đi xem lại đoạn video
bài giảng nhiều lần nếu chưa hiểu bài, HS vắng mặt sẽ không bỏ lỡ bài giảng, có được
nhiều thời gian hơn cho các hoạt động học trên lớp, HS có thể học mọi lúc, mọi nơi
và với mọi thiết bị chỉ cần thiết bị đó có thể kết nối internet được như smartphone,
máy tính bảng, máy tính bàn, laptop…
1.4.3. Hạn chế của mô hình lớp học đảo ngược
Mô hình lớp học đảo ngược cũng tồn tại những hạn chế sau: - Không phải mọi HS đều có đủ điều kiện về máy vi tính và kết nối Internet để tự
học trực tuyến.
– Việc tiếp cận với nguồn học liệu có thể khó khăn với một số em chưa có kĩ
năng về CNTT và mạng Internet. Tốc độ mạng không phải lúc nào cũng ổn
định để thuận lợi khi học tập.
– Rất khó để thiết kế Video bài học đúng với ý tưởng sư phạm, thực hiện
được đúng PPDH, có tính toán hỗ trợ người học phù hợp để HS tự học và
học cách tự học. Thông thường GV sẽ sử dụng các video được thiết kế sẵn,
được chia sẻ nhưng sẽ không hoàn toàn phù hợp với GV đó, hoặc nếu tự làm
thì rất nhiều thời gian hoặc chất lượng video không đạt đủ yêu cầu hỗ trợ tự
học. - HS không thể nêu các thắc mắc, đặt câu hỏi những vấn đề chưa hiểu.
15 - Động lực của HS là yếu tố then chốt khi tự học
- Để kích thích và tạo động lực cho HS thì GV phải có kiến thức về CNTT ở một
mức độ nhất định, phải đầu tư thời gian và công nghệ lớn.
Những phân tích trên cho thấy vai trò của GV trong việc thiết kế, điều hướng, hỗ trợ
HS trong các hoạt động nhóm trên lớp cũng rất quan trọng, quyết định sự thành công của
mô hình.
1.4.4. Phương tiện học tập trong mô hình lớp học đảo ngược
Trong lớp học đảo ngược, HS là chủ thể, là trung tâm của quá trình dạy học; HS
được tạo cơ hội để trình bày ý tưởng, đặt câu hỏi, và làm rõ những thắc mắc, quan niệm sai
lầm. Năm 1984, Benjamin Bloom đã công bố rằng trong môi trường lớp học đảo ngược,
các hướng dẫn cá nhân có hiệu quả hơn so với môi trường lớp học thông thường.
Sáng kiến nghiên cứu sử dụng E-learning hỗ trợ dạy – tự học trong mô hình lớp học
đảo ngược nên E-learning (cụ thể là các học liệu số hóa, các video bài giảng…) chính là
phương tiện học tập của mô hình lớp học đảo ngược. Các học liệu, bài giảng có thể dưới
nhiều định dạng khác nhau như slide, file âm thanh, podcast (video ngắn- sử dụng trên hệ
điều hành IOS), bài thuyết trình PowerPoint, video (có thể nhúng các hình ảnh động), hình
chụp màn hình hay các tài liệu đa phương tiện khác… phù hợp với sự đa dạng về trình độ
học tập và khả năng tiếp thu của HS. Những điều kiện cần thiết để sử dụng lớp học đảo
ngược hiệu quả gồm mọi HS đều có thể truy cập Internet để xem bài giảng; video phải bắt
đầu với âm lượng nhỏ và tăng dần lên; mỗi video được bắt đầu bằng 1 tình huống, 1 câu
hỏi gây chú ý; nội dung video phải chuẩn xác, chất lượng tốt, âm thanh và hình ảnh hợp lý
sẽ giúp HS học tập tốt hơn.
Nhưng nếu không tự làm được các bài giảng video thiết kế công phu thì có tổ chức
lớp học đảo ngược được không? Các nhà nghiên cứu cũng đã giả thuyết tình huống này và
câu trả lời là “có thể được”. Học liệu cung cấp cho HS sử dụng ở nhà không luôn bắt buộc
phải là video (mặc dù các hiệu ứng hình ảnh đa phương tiện gây hứng thú và tạo động lực
hơn). Tài liệu học tập có thể là một tập tin âm thanh hoặc một video. Các tập tin âm thanh
và video cho HS xem ở nhà không được dài hơn 15 phút và có thể kèm theo một số câu hỏi
HS phải chuẩn bị để thảo luận trên lớp.
Hiện nay, trên Youtube đã có rất nhiều video dạy học hấp dẫn với nội dung bài học
được trình bày thành các đoạn video ngắn giúp HS dễ tiếp thu hơn. HS yếu hơn có thể thoải
mái xem lại video nhiều lần cho đến lúc thực sự hiểu bài mà không phải ngại ngùng với
các bạn cùng lớp hay GV của mình. Ngược lại, HS giỏi hơn có thể tiếp tục học với các nội
dung cao hơn, tránh sự chán nản.
Khi có được các phương tiện thích hợp, GV sẽ phát huy hết sự sáng tạo của mình
trong công tác giảng dạy, làm cho bài giảng hấp dẫn hơn, để HS có những tình cảm tốt đẹp
với môn học và làm cho hoạt động nhận thức của HS trở nên nhẹ nhàng.
Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của HS tăng
dần theo các cấp độ của tri giác: nghe – thấy – làm được, nên khi đưa những phương tiện
vào quá trình dạy học, GV có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập của HS và từ đó
16
nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kĩ năng, kỹ xảo
của HS.
1.4.5. Quy trình học tập trong mô hình lớp học đảo ngược
Nhờ sự hỗ trợ của E-learning, HS tự học cá nhân ở nhà với tài liệu điện tử (tự giác,
tích cực, đúng kế hoạch, tự đặt câu hỏi…). HS ngoài hoàn thành các câu hỏi kiểm tra cuối
mỗi đơn vị kiến thức còn phải hoàn thành phiếu hướng dẫn tự học. HS đến lớp với phiếu
tự học đã hoàn thành và những câu hỏi thắc mắc về bài học; Bài học trên lớp sẽ tăng cường
hoạt động vận dụng kiến thức lý thuyết bằng hợp tác giữa HS – HS (hoạt động nhóm), giữa
HS – GV (nêu câu hỏi, giải đáp thắc mắc), nâng mức lĩnh hội kiến thức mới lên bậc hiểu,
vận dụng; qua đó vừa bồi dưỡng các NLTH vừa đào sâu mở rộng kiến thức.
Như vậy, qua các hoạt động học tập trong mô hình lớp học đảo ngược, HS sẽ được
rèn luyện tính tự giác, tích cực, đúng kế hoạch, tự đặt câu hỏi khi TH ở nhà với Elearning…Khi học với bạn, HS được rèn luyện các KN trao đổi làm việc nhóm; Khi học
thầy, HS hỏi thầy, lắng nghe, ghi chép, học hỏi phong thái giao tiếp của thầy. HS còn được
học và rèn luyện các KN viết, nói, thuyết trình…
Hạn chế khi học tập với E-learning là không có nhiều điều kiện rèn luyện các KN
sáng tạo, giải quyết vấn đề và tư duy phê bình, các kĩ năng giao tiếp…Mô hình lớp học đảo
ngược đã tạo điều kiện khắc phục hạn chế này của E-learning. Trên lớp HS được tham gia
hoạt động nhóm, rèn luyện các KN hợp tác, giao tiếp, trình bày, GQVĐ… Muốn vậy, HS
phải có những kiến thức nền tảng nhất định. Chính TH ở nhà với E-learning là chìa khóa
giúp HS thực hiện tốt hoạt động trên lớp của mình. Nghiên cứu của Cordova và Lepper cho
thấy rằng HS tham gia các hoạt động học tập và thực hành trong các nhóm đồng đẳng có
thể hiểu sâu hơn chủ đề được học so với khi học tập độc lập, đồng thời các kĩ năng hoạt
động nhóm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng TH cũng được nâng cao hơn.
Hình 1.7. Quy trình tổ chức dạy học theo mô hình Lớp học đảo ngược
17
1.4.6. Quy trình sử dụng E-learning hỗ trợ dạy – tự học
Có 6 bước để thực hiện tổ chức môi trường học tự học:
GV gợi mở, tạo hứng thú học tập, khuyến khích HS đặt câu hỏi; (2) HS chuẩn bị phương
tiện thiết bị thực hiện; (3) HS lập kế hoạch thực hiện trả lời các câu hỏi; (4) GV giải thích
những yêu cầu khi thực hiện, thắc mắc (nếu có), phân chia nhóm (nếu có) và giao nhiệm
vụ cụ thể cho cá nhân, nhóm → HS thực hiện nhiệm vụ → yêu cầu các cá nhân, nhóm lớp
trở lại cùng với cả lớp, trình bày phát hiện của họ và nói về cách thực hiện → HS với vai
trò là người điều hành, lắng nghe và khuyến khích các nhóm khác quan sát, không thêm
giá trị cho bài thuyết trình → HS tóm tắt những gì nhóm đã nói và bổ sung, điều chỉnh,
hoàn thiện nội dung → GV yêu cầu HS phát biểu cảm nghĩ về kinh nghiệm khi thực hiện,
những gì đã thực hiện tốt, những gì cần phải khắc phục và lưu ý các cá nhân khác khi thực
hiện nhiệm vụ này, cảm nhận về các góp ý của các GV và HS khác, nhận xét góp ý về các
thành viên khác trong nhóm khi thực hiện nhiệm vụ; (5) HS khắc phục, điều chỉnh những
tồn tại; (6) GV và HS định hướng hoạt động tự học tiếp theo .
Dựa trên các nghiên cứu có thể thấy rằng dạy và tự học có mối quan hệ biến chứng,
tác động lẫn nhau, cùng hướng đến sự phát triển bản thân người học (về năng lực, thái độ,
kĩ năng, nhận thức). Kết quả của quá trình dạy – tự học là người học không những được
nâng cao về kiến thức, kĩ năng bộ môn mà còn có khả năng tự đảm nhiệm, tự tổ chức và
thực hiện quá trình học tập hiệu quả. Với thời gian 45 phút, tiết học trên lớp là cơ hội để
GV và HS được giáp mặt với nhau, trao đổi trực tiếp các thông tin, là đặc thù mà hình thức
học tập trực tuyến không thể thay thế. Do đó các hoạt động chính khi học tập trên lớp có
sự hỗ trợ của E-learning bao gồm: - Kiểm tra đánh giá kết quả tự học ở nhà với E-learning của HS
- Giải đáp các thắc mắc và Hợp thức hóa kiến thức mới
- HS giải bài tập vận dụng, hoạt động nhóm học tập
- Giao phiếu hướng dẫn tự học cho bài hôm sau
Kiểm tra đánh giá kết quả tự học ở nhà với E-learning của HS
Sản phẩm tự học ở nhà là phiếu tự học mà GV giao, HS cần hoàn thành ở nhà. Trong
hoạt động này, HS được rèn luyện kĩ năng tự học không có hướng dẫn trực tiếp của GV vì
thế HS sẽ được rèn luyện tính tự lực, các phẩm chất trí tuệ như tính linh hoạt, độc lập, sáng
tạo…
Phần cuối của phiếu hướng dẫn TH yêu cầu HS nêu câu hỏi của mình về bài học.
Dựa trên các câu hỏi chất vấn, GV sẽ đánh giá mức độ nắm kiến thức của HS.
Khi học tập trực tiếp trên lớp, GV tổ chức cho HS trình bày sản phẩm tự học ở nhà
của mình. Qua hoạt động này HS còn được rèn luyện kĩ năng trình bày bằng ngôn ngữ Hóa
học, đồng thời GV tổ chức cho HS đánh giá đồng đẳng với nhau nhằm kiểm tra đánh giá
kết quả tự học ở nhà của HS.
Giải đáp các thắc mắc và hợp thức hóa kiến thức mới
Trong quá trình học tập trên lớp, HS được nêu câu hỏi, thắc mắc của mình. Lúc đó,
bằng việc chia sẻ và so sánh kết quả tiếp nhận kiến thức của mình với GV và các bạn cùng
lớp, HS được rèn luyện các kĩ năng trình bày, lập luận bằng ngôn ngữ Hóa học.
18
Khi HS trình bày các sản phẩm tự học, GV tiến hành nhận xét, hợp thức hóa kiến
thức/kĩ năng bám sát mục tiêu bài học. GV sử dụng BĐTD hoặc bảng biểu để hệ thống hóa
bài học. Dựa trên kết quả trình bày của HS, GV nắm bắt tư tưởng, cách suy luận của HS để
kịp thời uốn nắn về cách tư duy, trình bày của HS.
HS giải bài tập vận dụng, hoạt động nhóm học tập
Hoạt động này giúp HS nắm vững và vận dụng thành thạo kiến thức được học. Tham
gia hoạt động nhóm, HS sẽ được trải nghiệm và được rèn luyện kĩ năng trao đổi thông tin,
thu nhập dữ kiện để giải đáp các nhiệm vụ của nhóm. Quá trình này rèn luyện cho HS các
kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ năng tập trung được suy nghĩ của người khác, kĩ năng
hòa hợp để tạo quan điểm chung. Ngoài ra HS còn được tạo mội trường để xây dựng và
củng cố các mối quan hệ tốt với bạn bè xung quanh.
Nâng cao kiến thức và hướng dẫn tự học tiếp theo
Thông qua hoạt động hướng dẫn tự học kiến thức tiếp theo, GV cung cấp và hướng
dẫn cho HS cách khai thác nguồn học liệu qua đó HS được học và rèn luyện các kĩ năng
lựa chọn và khai thác tài liệu, kĩ năng về CNTT. Tiến trình sử dụng E-learning theo mô
hình lớp học đảo ngược được làm rõ trong hình 1.6
Hình 1.8. Quy trình sử dụng E-learning theo mô hình lớp học đảo ngược
1.4.7. Các biểu hiện của năng lực tự học thông qua áp dụng mô hình lớp học đảo ngược - Hình thành thói quen tự lực nghiên cứu tài liệu trước khi tới lớp: hoạt động TH ở
nhà trên lớp học đảo ngược sẽ giúp HS hình thành thói quen tự lực nghiên cứu tài liệu trước
khi đến lớp.
19 - Hình thành thói quen đặt câu hỏi: trên lớp học đảo ngược HS có thể xem lại khi
cần hoặc sử dụng tài liệu có sẵn để tìm ra câu trả lời đúng. Với những vấn đề chưa hiểu,
HS có thể chủ động hỏi thầy cô ngay trên lớp học và được GV trả lời online ngay lúc đó.
HS đã biết cách đặt câu hỏi là khi HS biết mình cần hỏi gì, hỏi đúng trọng tâm. - Thể hiện nhu cầu trao đổi, tương tác với bạn, với thầy cô: thông qua thảo luận
nhóm trên lớp học đảo ngược, HS biết cách tự thể hiện ý kiến của mình, bộc lộ suy nghĩ
của bản thân giúp HS tự tin đưa ra kiến. - Hình thành và phát triển ngôn ngữ: trong mô hình lớp học đảo ngược, giờ học ở
lớp sẽ được GV tận dụng tối đa tổ chức cho HS vận dụng, thực hành kiến thức, thảo luận
nhóm hoặc triển khai các dự án, giải quyết các vấn đề mở. Trong các hoạt động này, HS
được rèn luyện các kĩ năng phát biểu ý kiến trước nhiều người (nhóm học tập, lớp, các GV),
thực hành theo nhóm, biết sử dụng các ngôn ngữ và giao tiếp với tư cách cá nhân hay tư
cách là người đại diện cho nhóm. - Hình thành kĩ năng vận dụng kiến thức để tự chủ động giải quyết vấn đề.
- Hình thành các kĩ năng khai thác, sử dụng các phương tiện CNTT và truyền thông
hiện đại hiệu quả
1.5. Thực trạng về việc phát triển năng lực tự học cho học sinh thông qua mô hình
lớp học đảo ngược trong dạy học hóa học ở trường Trung học phổ thông - Về thực trạng TH và phát triển NLTH cho HS trong dạy học Hóa học:
Đa phần HS đã nhận thức đúng đắn được vai trò của TH, tuy nhiên, thời gian đầu tư
cho hoạt động tự học của HS chưa nhiều, HS còn gặp một số khó khăn trong TH, trong đó
rất nhiều em còn chưa biết cách tự học như thế nào. Các hoạt động TH chưa thực sự xuất
phát từ nhu cầu, tự giác và thói quen của HS mà chủ yếu từ yêu cầu của GV.
GV cũng đã nhận thức được sự cần thiết của việc phát triển NLTH cho HS trong
giai đoạn hiện nay. Tất cả GV đều có áp dụng các PP/KTDH phát huy tính tích cực của
HS, tuy nhiên các phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS thì chưa đa dạng,
phần nhiều thông qua các bài tập trắc nghiệm, tự luận, vấn đáp theo yêu cầu thực hiện
chương trình hiện hành nhằm kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng mà chưa chú
trọng đến đánh giá năng lực. Qua đây cho thấy, việc tìm ra các biện pháp hiệu quả phát
triển NLTH cho HS THPT là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt các biện pháp cần
chú trọng tăng cường hướng dẫn về cách học cho HS, quản lí hiệu quả hoạt động TH và
giúp HS chủ động, linh hoạt trong việc sắp xếp kế hoạch và thực hiện kế hoạch TH. - Về thực trạng vận dụng mô hình lớp học đảo ngược ở trường THPT
Đa phần các GV chưa biết hoặc biết nhưng chưa áp dụng về mô hình lớp học đảo
ngược. DH trực tuyến đã thực hiện trong DH hóa học ở trường THPT, tuy nhiên chưa có sự
kết hợp chặt chẽ, hiệu quả với bài học trên lớp mà chỉ mang tính chất bổ trợ, ứng phó tức
thời trước tình hình dịch bệnh, vận dụng mô hình lớp học đảo ngược trong DH còn chưa
được quan tâm, tìm hiểu và thực hiện một cách bài bản, chứng tỏ việc nghiên cứu vận dụng
mô hình lớp học đảo ngược trong DH nói chung và DH hóa học nói riêng vẫn còn là một
hướng mới, cần tiếp tục được nghiên cứu sâu.
20
Bên cạnh đó, phần lớn GV và HS đều có kĩ năng CNTT ở mức cơ bản hoặc thành
thạo và truy cập Internet thường xuyên, hàng ngày. Internet đã được sử dụng mục đích
học tập và giảng dạy. Các công cụ kĩ thuật truy cập Internet đã trở lên phổ biến. Ngoài ra
HS đã có những thái độ tích cực với việc kết hợp học trực tuyến và học trên lớp học. Đây
là những điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng mô hình lớp học đảo ngược trong DH ở
trường THPT. Việc thực hiện chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về dạy học trực tuyến
qua Internet ứng phó với diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 đã giúp kĩ năng công
nghệ thông tin của nhiều GV được cải thiện. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu DH trong giai
đoạn mới, đặc biệt là vận dụng đồng bộ và hiệu quả mô hình lớp học đảo ngược trong DH
thì đòi hỏi các GV cần tiếp tục tăng cường bồi dưỡng, tự bồi dưỡng để nâng cao hơn nữa
các kĩ năng công nghệ thông tin của bản thân.
- Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
2.1. Phân tích mục tiêu, cấu trúc và đặc điểm chương Nhóm Halogen – Hóa học 10
Cấu trúc nội dung trong chương Nhóm Halogen: Các bài, số tiết dạy và nội dung
điều chỉnh theo công văn số 3280/BGDĐT được trình bày trong bảng 2.1 sau:
Bảng 2.1. Phân phối nội dung chương Nhóm Halogen – Hóa học 10
TT Bài
(Chương trình cơ
bản)
Số tiết
dạy
Theo CV số 3280/BGDĐT-GDTrH
ngày 20/08/2020
Nội dung điều
chỉnh
Hướng dẫn thực hiện
1
Bài 21: Khái quát
về nhóm halogen 1
2
Bài 22: Clo
1
Mục IV. Ứng
dụng
Tự học có hướng dẫn
3
Bài 23: Hiđro
clorua – Axit
clohiđric và muối
clorua
2
4
Bài 24: Sơ lược về
hợp chất có oxi
của clo 1 Cả bài 24
Tự học có hướng dẫn;
Không yêu cầu viết các
PTHH: NaClO + CO2 +
H2O; CaOCl2 + CO2 + H2O
5
Bài 25: Flo –
Brom – Iot
1
Mục: Ứng dụng
của Flo, Brom,
Iot
Mục: Sản xuất
Flo, Brom, Iot
trong công
nghiệp
Khuyến khích HS tự đọc.
Tích hợp với phần luyện tập
nhóm halogen.
21
TT Bài
(Chương trình cơ
bản)
Số tiết
dạy
Theo CV số 3280/BGDĐT-GDTrH
ngày 20/08/2020
Nội dung điều
chỉnh
Hướng dẫn thực hiện
6
Bài 26: Luyện tập:
Nhóm halogen 2
7
Bài 27: Bài thực
hành số 2. Tính
chất hóa học của
khí clo và hợp
chất của clo
1
Thí nghiệm 1, 2,
3
Tích hợp khi dạy chủ đề
nhóm halogen
8
Bài 28: Bài thực
hành số 3. Tính
chất hóa học của
brom và iot
1
Thí nghiệm 1, 2,
3
Tích hợp khi dạy chủ đề
nhóm halogen
2.1.1. Mục tiêu của chương Nhóm Halogen
Về kiến thức
- Trình bày được vị trí của các nguyên tố thuộc nhóm halogen trong bảng tuần hoàn
- Mô tả được công thức cấu tạo, tính chất vật lí của các đơn chất halogen và một số
hợp chất của các halogen. - Trình bày được tính chất hóa học, phương pháp điều chế, ứng dụng của các đơn
chất halogen và một vài hợp chất của các halogen. - Giải thích được mối quan hệ giữa cấu tạo nguyên tử với tính chất hóa học của các
nguyên tố halogen. - Giải thích được nguyên nhân quyết định tính oxi hóa mạnh của một số hợp chất có
oxi của clo. - So sánh được tính chất của các đơn chất halogen, các axit halogenhidric.
Về kỹ năng - Dự đoán tính chất hóa học của đơn chất, hợp chất halogen từ vị trí, cấu tạo nguyên
tử, phân tử. - Củng cố kỹ năng cân bằng phương trình hóa học của phản ứng oxi hóa – khử bằng
phương pháp thăng bằng electron. - Vận dụng kiến thức hóa học để giải thích, kết luận các hiện tượng liên quan đến
đời sống (như vai trò quan trọng của axit clohidric, sự cần thiết của muối clorua, iotua…) - Rèn kỹ năng quan sát, giải thích các hiện tượng thí nghiệm, kỹ năng thực hành thí
nghiệm khi tiến hành một số thí nghiệm đơn giản để nghiên cứu tính chất của đơn chất, hợp
chất halogen. (nhận biết ion halogenua…) - Giải bài tập định tính và định lượng.
Về thái độ - Có thái độ tích cực xây dựng bài, có trách nhiệm trong hoạt động tập thể và tự học
trong quá trính học tập
22 - Phòng bệnh do thiếu iot: Vận động gia đình và cộng đồng dùng muối iot.
- Từ kiến thức đã học, có ý thức sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật
hợp lý, có biện pháp bảo vệ môi trường.
Về năng lực
Ngoài các mục tiêu theo chuẩn kiến thức, kỹ năng kể trên, trong đề tài còn đặt ra
mục tiêu bồi dưỡng cho HS các NLTH sau: - NL xây dựng kế hoạch TH
- NL thực hiện kế hoạch TH.
- NL đánh giá kết quả TH và điều chỉnh quá trình TH
2.1.2. Phân tích đặc điểm chung về phương pháp dạy học chương nhóm Halogen – Hóa
học 10
Nhóm nguyên tố Halogen được nghiên cứu sau khi HS đã học xong kiến thức lí
thuyết về cấu tạo nguyên tử, định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học, liên kết hóa học,
phản ứng oxi hóa – khử, nên có vai trò quan trọng trong việc hình thành, hoàn thiện và
phát triển các kiến thức, kĩ năng về hóa học. Cụ thể là:
– Hoàn thiện và phát triển nội dung phần hóa học phi kim ở trường THCS ở mức
độ mở rộng, sâu sắc, hiện đại, đi sâu vào bản chất các quá trình biến đổi của các nguyên tố
và hợp chất của chúng.
– Hoàn thiện và phát triển các kiến thức lí thuyết như khái niệm về các loại phản
ứng oxi hóa – khử, các dạng liên kết hóa học.
– Vận dụng kiến thức lí thuyết chủ đạo để dự đoán, tìm
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: