Category: DẠY VÀ HỌC

  • Đừng để lời khen ngợi của những người khác làm mình mất đi tự do…

    Chúng tôi giới thiệu một post của Giáo sư Đào Hải Long, một trong số rất ít người Việt đã từng 2 lần giành huy chương vàng tại cuộc thi giỏi Toán quốc tế IMO và hiện đang giảng dạy tại Đại học Kansas (Mỹ).

    TỰ DO

    (viết để giảm tải áp lực cho các em đi thi Quốc tế!)

    Chúc mừng các em về thành tích xuất sắc của mình. Điều đó cũng có nghĩa từ nay, các em sẽ phải đối đầu với nhiều áp lực. Mình muốn nói với các em điều này:

    – Hãy để tài năng, thành tích là công cụ để chúng ta có thêm sự tự do, chứ đừng để người khác biến nó thành xiềng xích trên người mình.

    Hồi mình đi thi, có nhiều nhà báo đến nhà muốn khai thác khía cạnh mẹ đơn thân, biến mình thành tấm gương nghèo vượt khó. Mình bảo ngay:

    – Nghèo bây giờ không có tiền đi học thêm thì khó mà vào đội tuyển đấy!

    Thế là các anh chị nhà báo nản, bỏ đi hết. Một lần khác, trả lời phỏng vấn về mơ ước tương lai, mình nói:

    – Em muốn làm một con người hạnh phúc trong một đất nước thịnh vượng!

    Sau đó có một anh chàng nhà báo viết bài “chê” mình, vì không chịu “truyền cảm hứng” lớn lao hơn cho các bạn trẻ. Mình kệ.

    Đa phần những tung hô của người đời giành cho các tấm gương xuất sắc trong mọi lãnh vực xuất phát từ sự tị nạnh của những cá nhân tầm thường, họ muốn dùng những thành tích đó để buộc những kẻ may mắn kia vào những kỳ vọng, những “cái hộp” mà họ tự đặt ra (kiểu như hoa hậu ngủ không được dạng chân), để kìm hãm sự tự do của những kẻ đó. Cần cẩn thận với những sự kìm hãm đó, nhiều khi chính từ gia đình mình.

    Khi cho con mình chơi tennis, chúng nó sau hai năm có thành tích khá tốt, vượt qua nhiều bạn có điều kiện, tập thầy chuyên nghiệp đã 4,5 năm. Nhưng mình không bao giờ hỏi chúng nó “hôm nay con đánh thắng hay thua?”. Mình bảo:

    – Các con có thể tự thấy đấy, rất nhiều bạn xung quanh, Tây hay Tàu, bị ràng buộc vào những mục tiêu, giấc mơ vào trường tốt, hay theo quần vợt chuyên nghiệp, hoặc thắng nhiều giải, được xếp hạng cao, v.v. Vì thế các bạn ý luôn rất căng thẳng. Đối với bố mẹ, tài năng đơn giản là cho các con thêm sự lựa chọn. Khi có tiền, các con có thể chọn chơi với người giàu hay người nghèo. Khi có trí tuệ, các con có thể đàm đạo với giáo sư hay nông dân đều ung dung cả. Khi chơi giỏi, đi với nhóm nào các con cũng được nể trọng và chào đón. Vậy thôi.

    Nếu các em muốn trở thành nhà Toán học trong tương lai, quá tốt. Chỉ cần nhớ rằng đó không phải là ràng buộc. Năm nay Mỹ có một cậu đạt huy chương vàng quốc tế lần thứ 4! Trước đó cũng có một cậu như vậy, Reid Barton, nhưng giờ đã bỏ Toán sau khi làm tiến sĩ. Kỷ lục là Canada cũng có một cậu, thi từ năm lớp 7, được 5 vàng và 1 bạc (!), nhưng cũng không đi làm Toán. Nghe nói sau khi vào học Princeton cậu đã thất vọng vì mình cũng chỉ bình thường. Dễ hiểu thôi vì những sinh viên khác không đi thi quốc tế nhưng họ đã viết bài báo nghiên cứu từ năm 13, 14 tuổi. 🙂

    Đấy là Mỹ, Canada. Còn bên Anh thì có cậu John Rickard, 3 lần huy chương vàng (2 lần tuyệt đối) và 3 lần được giải thưởng đặc biệt cho lời giải xuất sắc! Một kỷ lục cho đến nay vẫn chưa ai vượt qua. Nhưng khi vào học Toán thì cậu cũng thất vọng, vì sự xuất sắc và lối suy nghĩ đặc biệt của cậu không được mấy ai để ý và chăm chút. Cậu bỏ học và mất sớm vì bệnh ở tuổi 40.

    Để trở thành nhà Toán học chuyên nghiệp, và có thể sống tốt, sống tự do bằng nghề, đòi hỏi tài năng, sự đam mê dài hạn, và khá nhiều may mắn nữa. Cũng như nhiều ngành nghề khác. Đó là một đặc ân hiếm hoi của cuộc đời.

    Vì thế, các em hãy cứ thoải mái tìm hướng đi cho mình. Biến thành công hiện nay thành công cụ để mở thật nhiều cánh cửa càng tốt, trải nghiệm thật nhiều thứ. Nhớ là nhiều khi phải “huấn luyện” cả gia đình mình cách sống với áp lực của người đời nữa.

    Không có gì quý hơn độc lập tự do! Các em cần học cách bảo vệ sự tự do của mình, bắt đầu từ giây phút này.

  • VIẾT CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ BỎ QUÊN

    Cứ mỗi mùa thi qua, tôi thấy thương thật sự cho các em học sinh ở nước mình.

    Báo chí truyền thông rồi mạng xã hội rộn ràng đưa tin em này đậu thủ khoa, cả lớp em kia đậu trường xịn, kiếm bao nhiêu học bổng nước ngoài; con tôi đậu bao nhiêu điểm cũng thành chủ đề hot trên bàn nhậu của các ông bố và hội thể dục buổi sáng của các bà mẹ.

    Và ở một mặt khác, vài em bỏ đi – gia đình nháo nhác đi tìm, và có rất nhiều trường hợp dù có hối hận đến mấy, bố mẹ cũng không bao giờ “tìm lại” được lại những đứa con “dại dột” của mình.

    Chúng ta hay vội vã trách tụi nhỏ “dại dột”, nhưng đã bao giờ chúng ta bình tĩnh mà nhìn nhận một cách công bằng để thấy rằng sự dại dột lớn nhất thực ra lại đến từ thế giới người lớn?

    Nếu cháu A đạt dăm ba học bổng, thi đỗ 4-5 trường top… thật tốt quá, mừng cho những nỗ lực của cháu và gia đình; nhưng cái đó thì liên quan gì tới cả xã hội? Nó đâu phải thành tựu quốc gia to lớn gì mà cả nước cần chung vui?

    Thật chỉ nên giới hạn ở niềm vui của một gia đình, và mọi thứ đều nên vừa đủ. Với sự phóng đại không cần thiết những niềm vui nhỏ lên quá mức thì chính niềm vui của gia đình này lại gieo đi mầm mống khổ đau cho nhiều gia đình khác, cái vòng luẩn quẩn ấy mãi không dứt, mùa thi này nối mùa thi kia.

    Ở các quốc gia khác, bạn thử Google đi, xem có bao nhiêu bài báo nói về việc một thí sinh nào đó đậu điểm bao nhiêu điểm, thủ khoa trường nào? Cứ thử search đi rồi bạn sẽ thấy xã hội chúng ta đang hành xử ác với tụi nhỏ biết nhường nào? Và một bộ phận rất đông phụ huynh tiếp tay rất tích cực cho cái ác nhân danh “khuyến học” “nêu gương vượt khó” ấy.

    Cái công thức “học sinh nghèo vượt khó” – “con nhà người ta” nó đã làm tổn thương biết bao nhiêu thế hệ học sinh, và làm cho xã hội này mệt mỏi lắm rồi. Phụ huynh luôn ồn ào vì bức xúc với những cải cách quanh năm của ngành giáo dục, nhưng tôi nghĩ, ở Việt Nam, thứ cần cải cách nhất lại chính là tư duy của số đông phụ huynh.

    Uh, thất bại thì đã làm sao?

    Một kỳ thi nói lên được gì cho cuộc đời lớn rộng của một con người?

    Con người ta học để sống một đời hạnh phúc, hay phải từ bỏ một đời sống bình thường, hạnh phúc chỉ để học và làm con nợ của những kỳ thi?

    Tôi thật biết ơn cha mình khi ông đã cho tôi một câu trả lời rất nhân từ và rộng lượng với thắc mắc của tôi ở buổi đầu đời:

    “Bố, nếu sau này lỡ con không thành đạt thì sao?

    “Thì không sao cả, miễn là sống một cuộc đời tử tế và hạnh phúc là được con ạ. Thế giới này chỉ có một số ít người xuất chúng, còn phần đông là những người bình thường, họ vẫn đang sống tốt đấy thôi”. Và từ đó, tôi cởi bỏ được mọi sức ép, tôi học cho chính mình, và…..vừa sức mình, theo đuổi ước mơ và con đường của riêng mình. Trên con đường ấy, bố và người mẹ quá cố của tôi chỉ là những khán giả khiêm nhường đứng từ xa, vẫy tay động viên, và chỉ thế thôi.

    Lỗi không phải từ những kỳ thi, mà là cách chúng ta nhìn nhận và cách nghĩ có phần sai lệch về những kỳ thi là nguồn cơn cho đau khổ của tụi nhỏ và cho bao gia đình.

    Hãy ứng xử những kỳ thi theo một cách tự nhiên và… bình thường nhất; nó đơn giản như chuyện cái trồng cái cây trong vườn, nó sẽ ra hoa và ra trái; không mùa này thì mùa sau. Đừng vì giận dữ vì cái cây nhà mình nó chưa ra bông giữa một rừng bông mà hắt hủi, buông lời trách móc. Một chiếc cây non, còn chưa qua giông bão cuộc đời, giây phút ấy, hơn bao giờ hết cần được cảm thông và lắng nghe, từ chính gia đình mình và không bao giờ nên bị đem ra làm đối tượng so sánh.

    Ở trường Đại học nơi tôi đang giảng dạy, có một chương trình rất nhân văn mà tôi thực sự rất thích, có tên là “Hồ Sen chờ ai” do một nhóm các thầy cô giáo trẻ thực hiện, phi lợi nhuận. Bất kể là các bạn sinh viên đang có vấn đề gì, khó nói… sẽ vẫn luôn có “Hồ sen” là các thầy cô ở đó LẮNG NGHE và đưa ra những lời khuyên (nếu có thể). Chỉ riêng cái sự lắng nghe đó thôi đã là quá đủ, bởi các em sẽ biết rằng ngay cả những lúc bế tắc nhất sẽ vẫn luôn tìm thấy một “Pinkie” cho riêng mình (Pinkie là tên của một cây cam ngọt trong truyện “Cây cam ngọt của tôi” – người bạn thân chứa đựng mọi tâm sự của chú bé Zeze, Pinkie không làm gì hết, nó chỉ lắng nghe). Khổ đau, muội phiền khi được nhận diện và lắng nghe thì tức là đã được giải quyết phần lớn.

    VIẾT CHO NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ BỎ QUÊN

    Liệu chúng ta có đang dạy sai cho các con về “Hạnh Phúc”? Phần lớn mọi người đều nghĩ Hạnh phúc là Có, Có nhà, Có xe, Có vợ đẹp con khôn, Có một chỗ làm ngon, Có một slot trong trường xịn… mà ít người nghĩ rằng Hạnh Phúc có khi lại là Không, Không bệnh tật, Không phiền não, Không áp lực, Không mất tự do, Không phải dốc sức chạy đua trong những cuộc đua vô bổ đeo đuổi những kỳ vọng… Bài viết này cho ai, cho những đứa trẻ bị bỏ quên mỗi mùa thi, hay cho những người lớn vì lạc giữa rừng kỳ vọng mà quên mất nẻo về của ý?

    Hãy để dành cho thế hệ tương lai của chúng ta sự cảm thông ấm áp của những người lớn hạnh phúc và bao dung.

    Hoàng Huy.

    Xem thêm Ikigai là gì? Cách xác định Ikigai của bản thân như thế nào?

  • Bức tranh LẠI ĐIỂM 2 và triết lý giáo dục ẩn đằng sau

    Bức tranh LẠI ĐIỂM 2 và triết lý giáo dục ẩn đằng sau

    LẠI ĐIỂM 2 (Опять двойка) là một bức tranh nổi tiếng của họa sĩ kiêm nhà sư phạm người Nga Soviet Fyodor Reshetnikov (Фёдор Павлович Решетников), vẽ năm 1952. Bức tranh hiện được trưng bày tại Bảo tàng mỹ thuật quốc gia Nga, bức tranh còn được đưa vào sách giáo khoa hiện nay của nước này.

    Ý nghĩa Bức tranh LẠI ĐIỂM 2

    Bức tranh LẠI ĐIỂM 2

    Bức tranh mô tả tâm trạng rầu rĩ của một cậu bé từ trường về, lại bị thêm một điểm 2. Tâm trạng của mẹ, chị, rồi cậu em, và đặc biệt là chú chó được diễn tả rất tài tình.

    Chị của nó, một Đội viên thiếu niên tiền phong quàng khăn đỏ nhìn nó như rủa sả. Mẹ nó ngồi buồn rầu thất vọng về con. Em nó nép vào mẹ vô tư cười nhìn nó như một kẻ xa lạ. Nó thì đau buồn tuyệt vọng. Chỉ có con chó là chồm lên ngực nó vui mừng.

    Về bức tranh này, nhà giáo dục – tâm lý, viện sĩ Viện Hàn lâm Giáo dục Liên Xô Shalva Amonashvili (sinh năm 1931) bình luận:

    Bức tranh này không phải được vẽ cho đối tượng trẻ con. Nó dành cho người lớn. Để những người lớn thấy rằng, không được đối xử với trẻ con như vậy. Mà cần phải ứng xử, đón nhận như cách con chó với cậu bé.

    Đối với chú chó, thì thế nào cũng được, cậu bé về nhà với cái gì. Với điểm 2 ư, cậu ấy vẫn là người bạn. Với điểm 5 ư, vẫn là người bạn.

    Không nên nhìn nhận đứa trẻ qua điểm số. Điểm số cũng chỉ là điểm số mà thôi. Có thể đứa con điểm 2 của bạn ngày mai sau sẽ làm thay đổi cả thế giới. Đứa con điểm 2 của bạn sẽ thành nghị sĩ, hay là bộ trưởng, hoặc là một bác sĩ giỏi. Không phải điểm số quyết định, mà là cách cư xử của chúng ta với con mình ra sao.

    Một chú chó sẽ CHẤP NHẬN bạn vì chính con người bạn, chứ không phải vì địa vị hay tài sản của bạn.

    Nguồn gốc Bức tranh LẠI ĐIỂM 2

    Ở Nga, bức tranh “Lại điểm 2” nổi tiếng đến mức nó được in vào bìa sách giáo khoa tiểu học của nước này, được sử dụng trong chương trình giảng dạy của trường học như chủ đề để viết một bài luận. Nó cũng trở thành kịch bản của các tiểu phẩm hài, phim hoạt hình và các tranh, ảnh, truyện tranh…  

    Ban đầu họa sĩ Reshetnikov định vẽ bức tranh với tên “Lại điểm 5” (thang điểm cao nhất của Nga) với cốt truyện vui vẻ. Nhưng khi tới trường học tìm mẫu vẽ, họa sĩ đột ngột thay đổi ý định bởi cậu bé học sinh giỏi mà ông định chọn làm mẫu khi lên bảng lại không thuộc bài và bị điểm 2. Bản phác thảo đầu của bức tranh vẽ cậu bé bị điểm 2 ở trên lớp. 

  • Chương trình lớp 10 năm 2022 có gì khác?

    Chương trình lớp 10 năm 2022 có gì khác?

    Học sinh lớp 10 học ít môn hơn, được chọn môn theo năng khiếu, sở thích. Năm học 2022-2023, học sinh lớp 10 sẽ học ít môn hơn so với chương trình hiện hành và được lựa chọn môn học theo năng khiếu, sở thích. Năm học 2022-2023 là năm đầu tiên học sinh lớp 10 học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

    1. Có nhiều bộ sách giáo khoa

    Để thực hiện cũng như cụ thể hóa mục tiêu cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới, Bộ GD&ĐT đã đề ra chủ trương “Một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa”. Vì vậy phụ huynh và học sinh cần hiểu đúng về vai trò của SGK trong chương trình mới, cần hiểu rằng SGK chỉ là tài liệu tham khảo trong quá trình dạy và học, trong khi đó chương trình mới là pháp lệnh.

    Sách giáo khoa lớp 10 và lớp 7 năm học 2022-2023 sẽ thay đổi so với hiện hành. Các em sẽ sử dụng một trong 3 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo và Cánh diều tuỳ thuộc vào lựa chọn của các trường, địa phương.

    Những điểm mới của chương trình Giáo dục Phổ thông 2018

    2. Số môn học ít hơn

    Học sinh sẽ học ít môn hơn và được lựa chọn theo năng khiếu, sở thích của mình.

    Ở chương trình hiện hành, học sinh phải học 17 môn và hoạt động giáo dục. Với chương trình mới, học sinh sẽ được chọn một số môn, một số nội dung sao cho phù hợp với sở trường và mong muốn. Đồng nghĩa với việc học sinh sẽ học ít môn hơn.

    Chương trình lớp 10 năm 2022 có gì khác? 1

    Các em phải học 7 môn và hoạt động giáo dục bắt buộc gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng an ninh, Hoạt động trải nghiệm – hướng nghiệp, Nội dung giáo dục của địa phương.

    Bên cạnh đó, các em chọn năm môn lựa chọn khác từ ba nhóm môn (mỗi nhóm chọn ít nhất một môn):

    • Nhóm Khoa học xã hội gồm Lịch sử (có thể là môn học bắt buộc), Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật.
    • Nhóm Khoa học tự nhiên gồm Vật lý, Hóa học, Sinh học.
    • Nhóm Công nghệ và Nghệ thuật gồm: Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật – Âm nhạc và Mỹ thuật.

    Đây là điểm mới hoàn toàn so với hiện tại, với định hướng nghề nghiệp rất cao.

    Có thể nói, gần như học sinh sẽ phải chọn trường đại học (thực ra là khối thi) ngay từ lớp 9 thay vì lớp 12, và cơ hội chỉ có 1 lần duy nhất.

    Bên cạnh đó, học sinh phải lựa chọn ba nhóm chuyên đề sao cho phù hợp với nguyện vọng bản thân và khả năng tổ chức dạy học của nhà trường. Đây cũng là điểm khác biệt. Cụ thể, mỗi môn học Ngữ văn, Toán, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật có một số chuyên đề tạo thành cụm chuyên đề của môn học, nhằm thực hiện yêu cầu phân hóa sâu, giúp học sinh tăng kiến thức và kỹ năng thực hành để giải quyết các vấn đề thực tiễn, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp.

    3. Thay đổi về cách dạy, cách học

    Chương trình mới yêu cầu giáo viên và học sinh chuyển từ dạy học “nhồi nhét” sang dạy tổ chức các hoạt động cho học sinh tự tìm tòi nghiên cứu. Thay vì cảnh tượng quen thuộc, thầy đọc – trò chép khiến học sinh tiếp thu kiến thức một chiều, thầy cô sẽ thường xuyên tổ chức các hoạt động thực hành trên lớp để học sinh tự tìm hiểu, trao đổi và khám phá kiến thức.

    Chương trình lớp 10 năm 2022 có gì khác? 2

    Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp học sinh biết dùng năng lực để giải quyết bài học, tự đánh giá được năng lực bản thân, biết mình trau dồi kiến thức nào. Thậm chí học sinh có thể tự khám phá ra điều mới mẻ vượt ngoài điều thầy cô dạy. Đây là điểm mới được đánh giá cao, tuy nhiên, điều này cũng đặt ra yêu cầu các em cũng cần thay đổi cách học, cần chủ động hơn trong quá trình học và lĩnh hội kiến thức.

    4. Thay đổi về cách kiểm tra thi cử

    Nếu Chương trình GDPT hiện hành đánh giá kết quả của học sinh ở những thời điểm nhất định trong quá trình dạy học, đặc biệt là trước và sau khi dạy, thì Chương trình GDPT mới 2018 đánh giá trong mọi thời điểm của quá trình dạy học, chú trọng đến đánh giá trong khi học.

    Kết quả giáo dục được tính theo các kỳ kiểm tra đánh giá thường xuyên và kiểm tra đánh giá định kỳ.

    Chương trình lớp 10 năm 2022 có gì khác? 3

    Việc kiểm tra đánh giá thường xuyên do giáo viên bộ môn lựa chọn thời gian phù hợp, về hình thức được thực hiện thông qua: hỏi – đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập.

    Việc kiểm tra đánh giá định kỳ cũng sẽ có thay đổi lớn. Trước đây, ở tất cả các môn học có quy định số tiết học trên mỗi tuần, quy định có tuần kiểm tra định kỳ, có tuần kiểm tra học kỳ, kiểm tra học kỳ I thường vào tuần 18, kiểm tra học kỳ II ở tuần 35 của năm học. Nhưng trong chương trình mới, nhà trường có thể linh động sắp xếp thời khóa biểu, thời điểm kiểm tra giữa kỳ, cuối kỳ, miễn sao đảm bảo số tiết trong năm học.

    Đối với chương trình GDPT mới, phương pháp kiểm tra, đánh giá sẽ đi theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Theo đó học sinh sẽ được đánh giá phẩm chất, năng lực dựa trên ngữ cảnh học tập, thực tiễn cuộc sống, hoạt động giáo dục, trải nghiệm, sự tiến bộ của bản thân; thông qua công cụ đánh giá về nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh thật.

  • Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 6 đến 10 tuổi

    Chúng tôi xin giới thiệu phần tiếp theo của Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (APA) trong Sổ tay hướng dẫn cho Giáo viên và Cha mẹ những kiến thức về các đặc điểm phát triển của trẻ em.

    1. Kỹ năng nhận thức

    • Có thể hiểu được quan điểm của người khác: nhận thức được rằng người khác có thể có những suy nghĩ khác với bản thân.
    • Có thể tập trung vào một số khía cạnh của một vấn đề tại một thời điểm.
    • Có thể tập trung vào những gì trẻ làm trong khoảng thời gian dài hơn trước.
    • Tăng khả năng giải quyết vấn đề, nhưng chưa được như người lớn.
    • Có thể nghĩ ra những kế hoạch đơn giản trước khi hành động. Ví dụ, khi mời bạn bè đến chơi, trẻ có thể lên kế hoạch trước về trò chơi mà trẻ sẽ chơi.
    • Có thể bắt đầu hiểu thời gian và các ngày trong tuần; đến 10 tuổi, trẻ có thể sắp xếp các sự kiện theo trình tự thời gian.
    • Cải thiện trí nhớ ngắn hạn và dài hạn.
    • Có thể nói và cũng có thể viết; đến 10 tuổi, trẻ có vốn từ vựng 20.000 từ (cha mẹ lưu ý đây là đối với trẻ em Mỹ và sử dụng tiếng Anh) và học trung bình 20 từ mới mỗi ngày; cũng có thể hiểu rằng một từ có thể có các nghĩa khác nhau.
    • Có thể giao tiếp tốt hơn và lâu hơn với người khác, thể hiện bản thân và hiểu mọi thứ.Có thể hiểu rõ hơn và nội bộ hóa các quy tắc đạo đức về hành vi (đúng/sai; tốt/xấu; tuyệt vời/khủng khiếp).
    • Bắt đầu hiểu rằng công bằng liên quan đến thành tích: ai làm việc chăm chỉ hơn xứng đáng được đối xử tốt hơn.
    • Có khả năng đồng cảm với người khác tốt hơn và chấp nhận ý tưởng dành sự quan tâm đặc biệt cho những người có nhu cầu cao hơn.

    2. Kỹ năng xã hội

    • Có thể tự đánh giá bản thân dựa trên: cách họ thể hiện ở trường; năng lực kết bạn; và ngoại hình của họ.
    • Hiểu rằng họ có thể cảm nhận được hai cảm xúc cùng một lúc (Tôi thích Jenny nhưng tôi ghét cách cô ấy nói chuyện với tôi).
    • Có hứng thú mãnh liệt với bạn bè đồng giới, thích bạn bè đồng giới hơn; phát triển tình bạn được đánh dấu bằng cách cho và nhận, sự tin tưởng lẫn nhau và chia sẻ kinh nghiệm.
    • Cảm thấy rằng sự thuộc về và chấp nhận của bạn bè là rất quan trọng. (Trẻ em có thể tìm kiếm bạn bè đồng trang lứa nhiều hơn là tìm kiếm sự hài lòng của người lớn).
    • Chơi không còn chỉ là trò chơi tưởng tượng mà trí tưởng tượng là yếu tố then chốt; trẻ em thường chọn các trò chơi dựa trên quy tắc trong đó các quy tắc là yếu tố chính và chiến thắng trong trò chơi thường là mục tiêu.
    • Có mối quan tâm lớn đến công lý và công bằng; công bằng hay bình đẳng là quan trọng và một số trẻ có thể cố gắng đạt được sự đồng đều và trở nên hung hăng bằng lời nói hoặc thể chất.
    • Tiếp tục phát triển các kỹ năng xã hội như sự đồng cảm và lòng trắc ẩn.Có thể tự làm nhiều việc hơn và kết quả là mối quan hệ của chúng với cha mẹ cũng thay đổi.

    3. Lời khuyên cho ba mẹ

    • Giúp trẻ phát triển năng lực: cho trẻ cơ hội thành thạo một số kỹ năng như nấu ăn, xây dựng mô hình, làm đồ thủ công, chơi nhạc cụ.
    • Học cách dần dần chia sẻ quyền kiểm soát cuộc sống của con bạn với con gái hoặc con trai của bạn.
    • Củng cố sự hiểu biết về đúng sai và hậu quả.
    • Dạy cách giải quyết vấn đề cho con bạn. Sử dụng mô hình IDEAL (Identify – Determine – Evaluate – Act – Learn) để:
      • Xác định vấn đề và cảm xúc liên quan (Con bạn đang bị bắt nạt và sợ đi học).
      • Cùng trẻ xác định các giải pháp khả thi mà không sử dụng bạo lực.
      • Đánh giá với trẻ về giá trị của từng giải pháp khả thi.
      • Hành động, lựa chọn giải pháp tốt nhất.
      • Học hỏi từ những gì bạn và con bạn đã làm để giải quyết vấn đề.
    • Sử dụng các tình huống thực tế (trong gia đình bạn hoặc một tình huống giả định) và khi bạn đang ở trên xe buýt, trong xe hơi hoặc trong nhà bếp, hãy chơi trò chơi IDEAL (LÝ TƯỞNG) với con bạn. Một kịch bản giả có thể là: Một đứa trẻ không thể xem TV vì nó chưa làm bài tập về nhà và nó nổi điên và làm hỏng điều khiển từ xa.
    • Củng cố các kỹ năng xã hội như chia sẻ, cảm thông, hợp tác bằng cách yêu cầu trẻ làm những việc như giúp chăm sóc em bé, thu thập thức ăn cho nơi trú ẩn.
    • Tạo cơ hội cho con bạn phát triển sự hiểu biết về các quy tắc bằng cách chơi các trò chơi trên bàn đơn giản dựa trên cơ hội thay vì dựa vào các kỹ năng như thẻ bài, domino, tic-tac-toe.
    • Dạy bằng cách nói to với chính mình (để con bạn nghe thấy) về một vấn đề và cách giải quyết vấn đề đó. Một ví dụ: Chúng tôi hết sữa, bánh mì và trái cây. Tôi không được khỏe. Tôi sẽ gọi cho bố và yêu cầu ông ấy ghé qua cửa hàng tạp hóa trên đường về nhà để lấy chúng.
    • Chứng minh rằng các hành vi và hành động có hậu quả đối với tất cả mọi người liên quan đến một tình huống: Nếu bạn làm điều đó, điều này sẽ xảy ra hoặc khi bạn làm điều này, thì bạn sẽ nhận được điều này.
  • Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 3 đến 5 tuổi

    Tiếp theo bài CÁC ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ TỪ 0 ĐẾN 18 THÁNG TUỔICác đặc điểm phát triển của trẻ từ 18 đến 36 tháng tuổi, chúng tôi xin giới thiệu tiếp Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 3 đến 5 tuổi.

    1. Kỹ năng Nhận thức

    • Có thể nghĩ về đồ vật, con người và sự kiện mà không cần nhìn thấy chúng.
    • Mặc dù ít hơn trước, vẫn nghĩ rằng chúng là trung tâm của thế giới và gặp khó khăn khi nhìn mọi thứ từ góc độ của người khác.
    • Có khả năng sử dụng các từ để bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc và chia sẻ kinh nghiệm nhiều hơn.
    • Nói to với bản thân như một cách để kiểm soát hành vi của trẻ.
    • Có thể nghĩ về những sự kiện trong quá khứ hoặc những sự kiện chưa xảy ra.
    • Bắt đầu suy nghĩ trước và lập kế hoạch hành động của chúng; thường có thể lường trước những hậu quả vật chất của những hành động không quá phức tạp.
    • Bắt đầu thấy sự khác biệt giữa những thứ trẻ nhìn thấy và những thứ thực sự là (một con chó nhồi bông không phải là một con chó).
    • Bắt đầu thấy mối quan hệ của nhân quả (Nếu tôi làm điều này, thì điều đó sẽ xảy ra).
    • Hỏi nhiều câu hỏi tại sao, như thế nào, khi nào.
    • Học bằng cách bắt chước, quan sát và bằng cách khám phá, sáng tạo và làm mọi thứ.
    • Hiểu rằng bữa sáng là trước bữa trưa; bữa trưa là trước bữa tối, v.v.
    • Bắt đầu hiểu trước/sau; lên/xuống; trên/dưới; hôm nay/hôm qua/ngày mai.
    • Không thể chơi hoặc làm điều gì đó quá lâu hoặc trở nên buồn chán và mệt mỏi trừ khi có sự hướng dẫn của người lớn.

    2. Kỹ năng Xã hội

    • Có thể đọc và giải thích cảm xúc của người khác; có thể biết khi ai đó tức giận hoặc khó chịu.
    • Không thể hiểu những cảm xúc trừu tượng như thương hại, tham lam, biết ơn.
    • Sử dụng nhiều cách khác nhau để kiểm soát cảm xúc của chính mình: nhắm mắt bịt tai; loại bỏ bản thân khỏi hoàn cảnh; đôi khi có thể chống lại sự cám dỗ để đáp lại bất cứ điều gì đang làm phiền chúng.
    • Có thể phát triển mối quan hệ bạn bè thực sự đầu tiên vì bạn bè trở nên rất quan trọng.
    • Cách trẻ em giai đoạn này chơi: Khi 3 tuổi, chúng thường chơi gần một người bạn, cảm thấy khó khăn khi thay phiên nhau và chia sẻ mọi thứ; 4 tuổi, các em có thể bắt đầu chơi hợp tác, vẫn còn khó khăn khi chia sẻ nhưng bắt đầu hiểu việc đi theo lượt, bắt đầu đưa đồ cho người khác; 5 tuổi, thích chơi với các trẻ khác, thường hợp tác tốt, có những người bạn đặc biệt.
    • Ít gây hấn về thể chất hơn so với trước.
    • Sử dụng lời nói gây hấn thường xuyên hơn như lăng mạ, đe dọa, trêu chọc để làm tổn thương trẻ khác; sự bắt nạt xuất hiện: chúng hiểu được sức mạnh của sự từ chối.
    • Hiểu các quy tắc xã hội và có thể hành động phù hợp với các quy tắc đó.
    • Có mong muốn thực hiện một số trách nhiệm; đề nghị giúp đỡ.
    • Hiểu rằng việc khen ngợi hoặc đổ lỗi xảy ra do những gì họ làm.
    • Bắt đầu hiểu sự khác biệt của việc làm những việc “có chủ đích” và “tình cờ”; tập trung nhiều hơn vào thiệt hại hơn là ý định của thủ phạm.
    • Đến 4 tuổi, bắt đầu có ý thức về bản sắc dân tộc của họ và về cách nhóm xã hội của họ được nhìn nhận trong xã hội.
    • Tăng khả năng sử dụng trí tưởng tượng; có thể tưởng tượng những điều khủng khiếp có thể xảy ra với họ và có thể dẫn đến sợ hãi; ác mộng có thể xảy ra.

    3. Lời khuyên cho cha mẹ

    • Dạy con sử dụng lời nói khi tức giận, buồn bã. (“Bạn đang buồn vì ông nội đã mất.”)
    • Yêu cầu con bạn thể hiện cảm xúc tức giận, điên cuồng, buồn, vui và ngạc nhiên bằng khuôn mặt của chúng và cho bạn biết điều gì khiến mọi người cảm thấy như vậy.
    • Yêu cầu con bạn vẽ một bức tranh về cảm xúc điên cuồng của chúng và nói về chúng.
    • Cho con bạn cơ hội để hoàn thành một việc gì đó như sắp xếp đồ chơi và sách, giúp lập danh sách hàng tạp hóa; truyền tải thông điệp ngắn cho người khác, đưa ra kết thúc của chính chúng cho một câu chuyện trong sách.
    • Giúp con bạn đối phó với nỗi sợ hãi tưởng tượng bằng cách chỉ ra sự khác biệt giữa thực tế và tưởng tượng.
    • Giữ con bạn tránh xa các tình huống gây ra nỗi sợ hãi thực sự như nhìn thấy bạo lực trong nhà hoặc hàng xóm, xem bạo lực trên TV và bị trừng phạt thể xác.
    • Khi có một cuộc chiến:
      • (a) Dừng đánh nhau, trước tiên hãy đến chỗ đứa trẻ bị thương để làm nó bình tĩnh.
      • (b) Dành thời gian để xoa dịu đứa trẻ là kẻ gây hấn (Không quá một phút cho mỗi năm tuổi của đứa trẻ).
      • (c) Khi cả hai đứa trẻ đều bình tĩnh, hãy nói chuyện với chúng và hỏi: Chuyện gì đã xảy ra? Mỗi đứa cảm thấy như thế nào? Yêu cầu chúng nghĩ ra giải pháp; nói rằng bạn có thể tức giận hoặc nổi điên nhưng không được làm tổn thương.
      • (d) Khen ngợi cả hai trẻ vì đã nghĩ ra cách giải quyết. Hãy nhớ thể hiện tình yêu và sự quan tâm của bạn ngay cả khi bạn không đồng ý với cách cư xử của chúng.
  • Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 18 đến 36 tháng tuổi

    Chúng tôi xin giới thiệu phần tiếp theo của Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (APA) trong Sổ tay hướng dẫn cho Giáo viên và Cha mẹ những kiến thức về các đặc điểm phát triển của trẻ em.

    1. Kỹ năng nhận thức (Mental Skills)

    • Nhớ (hình dung) được hình ảnh của người và đồ vật không ở trước mặt.
    • Có thể sử dụng trí tưởng tượng và bắt đầu chơi trò chơi giả vờ (pretend games).
    • Sử dụng một đồ vật để đại diện cho một người, như một con búp bê để đại diện cho một người mẹ hoặc một đứa trẻ.
    • Kể lại các sự kiện trong ngày và bắt chước các hành động và sự kiện đã xảy ra trong quá khứ.
    • Có vốn từ vựng vài trăm từ; có thể sử dụng câu từ hai đến ba từ; nhắc lại được các từ.
    • Nghe những câu chuyện trong một khoảng thời gian ngắn.
    • Hiểu được hình ảnh và tranh ảnh đại diện cho vật thể/con người thực.
    • Có một khái niệm mơ hồ về thời gian; vẫn nhầm lẫn ý nghĩa của ngày hôm nay, ngày mai và ngày hôm qua.
    • Nói chung trẻ có khoảng thời gian chú ý ngắn và có thể dễ bị phân tâm.
    • Mới bắt đầu ghi nhớ các quy tắc và không thực sự hiểu đúng sai.

    2. Kỹ năng Xã hội (Social Skills)

    • Đang phát triển một cảm giác mạnh mẽ về bản thân như những cá nhân riêng biệt.
    • Nghĩ rằng chúng là trung tâm của thế giới.
    • Bắt đầu có dấu hiệu tự lập; có thể bướng bỉnh và ngang ngược: nói Không với người lớn.
    • Có tính sở hữu, với quan niệm mạnh mẽ về lãnh thổ: Đây là của tôi! Gặp khó khăn trong việc chia sẻ mọi thứ với người khác.
    • Có thể gặp khó khăn khi phải chờ đợi và luôn muốn mọi thứ ngay lập tức.
    • Gặp khó khăn khi thể hiện cảm xúc bằng lời nói; khi thất vọng hoặc tức giận có thể nổi cơn thịnh nộ hoặc đánh và đá để đạt được điều chúng muốn.
    • Chơi một mình bên cạnh những đứa trẻ khác nhiều hơn là chơi cùng với chúng.
    • Bắt đầu hiểu rằng người khác có kỳ vọng ở họ.
    • Nhận thức rõ hơn về cảm xúc của người khác; thích sự chú ý của người lớn.
    • Thể hiện cảm xúc của chúng thông qua trò chơi giả vờ, trò chơi làm cho tin tưởng.

    3. Lời khuyên cho cha mẹ

    • Thật khó cho những đứa trẻ ở độ tuổi này để chia sẻ mọi thứ và thay phiên nhau.
    • Cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp về đồ chơi là có nhiều hơn một món đồ chơi cho chúng.
    • Trẻ em ở độ tuổi này luôn bận rộn và thường không thể làm cùng một việc trong thời gian dài. Đừng mong đợi chúng hạnh phúc ở một nơi hoặc cùng một hoàn cảnh (bữa tối gia đình chẳng hạn) hoặc chơi với cùng một món đồ chơi hoặc cùng một đứa trẻ trong hơn nửa giờ hoặc lâu hơn mà không có sự hỗ trợ và chú ý của bạn.
    • Khi trẻ em tranh giành đồ chơi giống nhau, hãy dạy các giải pháp tích cực và bất bạo động: (1) cung cấp đồ chơi khác hoặc loại bỏ đồ chơi đó; (2) nếu điều đó không hiệu quả, hãy chuyển hướng sự chú ý của trẻ em sang một thứ khác hoặc đưa chúng đến một nơi khác. Luôn nói rõ rằng việc làm tổn thương đứa trẻ khác là không thể chấp nhận được.
    • Luôn giúp con bạn giải quyết xung đột bằng cách sử dụng lời nói để diễn đạt những gì đang xảy ra (Chẳng hạn nếu con bạn muốn chơi với ô tô và Joanna đang chơi với ô tô? Hãy bảo con nói Joanna với rằng: “Tớ muốn chơi với ô tô”).
    • Cơn thịnh nộ là điển hình của thời đại này, nhưng khi chúng xảy ra:
      • (a) Giữ bình tĩnh; sử dụng một vài lời nói nhẹ nhàng để xoa dịu hoặc làm con bạn mất tập trung.
      • (b) Đừng la hét hoặc đánh con của bạn.
      • (c) Đừng cố gắng nói chuyện hoặc dạy dỗ con khi trẻ đang nổi cơn thịnh nộ.
      • (d) Ít chú ý hoặc phớt lờ.
      • (e) Chuyển sự chú ý của con bạn sang thứ khác.
      • (f) Giữ vững lập trường, không nhượng bộ trước những cơn giận dữ; cố gắng không bao giờ thưởng cho một cơn giận dữ.
      • (g) Cố gắng tìm hiểu nguyên nhân.
    • Người lớn nên cố gắng tiết chế việc nói “Không” với các tình huống liên quan đến an toàn và tình cảm. Trong các tình huống khác, hãy đưa ra sự lựa chọn.
  • Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi

    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi

    O2 Education xin Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ (APA) trong Sổ tay hướng dẫn cho Giáo viên và Cha mẹ những kiến thức về các đặc điểm phát triển của trẻ em.

    Link bài gốc https://www.apa.org/act/resources/fact-sheets/development-18-months

    Bạn có thể xem thêm Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 18 đến 36 tháng tuổi.

    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi
    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi 4
    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi 5
    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi 6
    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi 7
    Các đặc điểm phát triển của trẻ từ 0 đến 18 tháng tuổi

    1. Kỹ năng Nhận thức

    • Nhớ người và đồ vật dù họ/chúng không ở trước mặt trẻ.
    • Bắt chước nét mặt, âm thanh và hành động của người khác.
    • Bắt chước những gì trẻ nhìn thấy trên TV, ngay cả khi chúng không hiểu mình đang làm gì.
    • Hiểu những gì trẻ nghe thấy trước khi chúng có thể nói.
    • Gây ồn ào để giao tiếp với người khác và thể hiện sự hài lòng hoặc không hài lòng.
    • Nhận ra tên riêng của mình.
    • Bắt đầu khám phá môi trường, chạm và thao tác các đồ vật.
    • Học bằng cách bắt chước và quan sát người khác.
    • Thể hiện sự hiểu biết về từ ngữ đối với những đồ vật rất quen thuộc.
    • Hiểu về khoảng 12 cụm từ thông dụng.
    • Bắt đầu sử dụng đại từ tôi, bạn.
    • Hiểu và có thể làm theo những hướng dẫn rất đơn giản.
    • Có khoảng thời gian chú ý rất ngắn.

    2. Kỹ năng Xã hội

    • Khóc, khua chân múa tay khi đau, mệt, đói, lạnh, khát, ướt, cô đơn hoặc trong hoàn cảnh lạ hoặc với người lạ.
    • Mỉm cười, nói bi bô và thủ thỉ để thể hiện sự thích thú, vui vẻ và hào hứng.
    • Nhận ra sự khác biệt giữa người quen và người lạ.
    • Phát triển mối quan hệ mạnh mẽ với những người thường xuyên chăm sóc trẻ, cha mẹ hoặc người lớn khác và tỏ ra lo lắng khi bị chia cách.
    • Thân thiện với những người quen thuộc và sợ người lạ.
    • Nhận ra sự đau khổ của người khác bằng cách tỏ ra đau khổ và khóc.
    • Bắt đầu biết làm khán giả và vỗ tay.
    • Có thể chơi một mình trong khoảng thời gian ngắn.
    • Trở nên tức giận khi thất vọng.
    • Sợ người lạ và đề phòng những tình huống bất ngờ.

    3. Lời khuyên cho Cha mẹ

    • Nếu trẻ đau khổ và khóc, hãy an ủi trẻ. Điều này sẽ không làm hư con bạn. Khi trẻ khóc, chúng cần những phản ứng nhẹ nhàng và ấm áp để cảm thấy yên tâm và an toàn. Sự tin tưởng này tạo nền tảng cho mối quan hệ sau này của bạn với con bạn.
    • Đừng trừng phạt một đứa trẻ đang khóc. Hãy kiên nhẫn, bé chỉ đang cố nói với bạn rằng có điều gì đó không ổn. Những phản ứng gay gắt sẽ khiến trẻ sợ hãi và khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn.
    • Chơi với con bạn mỗi ngày. Hãy biến thời gian vui chơi với trẻ trở thành một phần thời gian của bạn với trẻ.
    • Cung cấp đồ chơi được thiết kế phù hợp với lứa tuổi của con bạn và an toàn.
    • Thường xuyên nói chuyện với con bạn, sử dụng những từ ngữ trực tiếp đơn giản và đưa ra những hướng dẫn tích cực. (Nói “Hãy chơi với cái lục lạc”, thay vì “Đừng chơi với cái nĩa!”)
    • Đọc những cuốn sách đơn giản cho con của bạn mỗi ngày; những đồ vật quen thuộc để kích thích ngôn ngữ và giao tiếp.
    • Nếu có thể, hãy giảm bớt sự xa cách của trẻ với bạn hoặc luôn có một người thân quen chăm sóc con bạn.
    • Tạo và duy trì các thói quen hàng ngày để giúp bé yên tâm và xây dựng lòng tin.