dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

Kiến thức thực tiễn trong bài giảng hoá học

Kiến thức thực tiễn trong bài giảng hoá học

Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
– Nêu lên tầm quan trọng của giáo dục cho thế hệ trẻ nhân ngày khai trường đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ
một phần công lớn công học tập của các em”.
Trước khi người ra đi, trong di chúc Hồ Chí Minh có dặn: “Phải giáo dục thế hệ
trẻ để họ trở thành người vừa hồng vừa chuyên”.
– Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học của nhân loại phát triển như vũ bão,
nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to lớn:
Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận
dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính giáo
dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng thiện khoa học.
Phân môn hoá học trong trường phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc
hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học
sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về
thế giới , con người thông qua các bài học, giờ thực hành…của hoá học. Học hoá để
hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử,
sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học… đồng thời khởi
nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong đời sống
của con người. Hóa học góp phần giải toả , xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm hại đến đời
sống, tinh thần con người… Để đạt được mục đích của hoá học trong trường phổ thông
thì giáo viên dạy hoá học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. do vậy, ngoài
những hiểu biết về hoá học, người giáo viên dạy hoá học còn phải có phương pháp
truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Đó là vấn
đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm (SKKN)
này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hóa học “
với mục đích góp phần cho học sinh học hóa dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống
2
và lôi cuốn học sinh khi học… Để hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như
một “thuật ngữ khoa học”.
II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Trước tình hình học hoá học phải đổi mới phương pháp dạy đã và đang thực sự là yếu
tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và
tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về tư tưởng vừa mang
bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng trên toàn thế giới, những vấn đề cũ
nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẻ, đảm bảo: Tính khoa học –
hiện đại, cơ bản, tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp, tính hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học không nhất thiết phải hội tụ nhất thiết những quan điểm
nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng , đừng quá lạm dụng khi lượng kiến thức
không thống nhất.Mặt khác tuỳ vào nội dung và đơn vị kiến thức trong tiết dạy mà ta
lồng vào các vấn đề nêu trên sao cho hợp lí.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Môn hoá học trong trường phổ thông là một môn học khó, nếu không có những bài
giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động
trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn
học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức với đối tượng giáo dục: Chưa đặt ra
cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng một
cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do phương
pháp có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền thụ tri thức
một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong quá trình lĩnh
hội tri thức hoá học. Hãy “thắp sáng ngọn lửa ” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng
học sinh, đừng biến học sinh thành “cái bình đựng kiến thức” vô thức, xa rời thực tiễn.
Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên để việc giảng dạy môn hóa học đạt hiệu quả cao
hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong các bài giảng hóa học
THPT.
Một trong những điểm tôi đã làm là “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” .
Có những vấn đề hóa học có thể giúp học sinh giải thích các hiện tượng trong tự nhiên,
tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong
3
những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ đi trước để lại và có thể ứng dụng trong thực
tiễn đời sống thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây
nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong
môn học bên cạnh đó có một số kiến thức mà học sinh học không thể thuộc , dễ nhầm
lẫn thì tôi bày cho học sinh cách nhớ bằng những câu đọc vui làm cho hóa học không
khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp.
– Trong phạm vi đề tài tôi không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề trong thực tiễn
để có thể để nâng cao hiệu quả dạy – học môn hóa học ở trường THPT bằng việc giải
thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học mà chỉ nêu lên một vài suy
nghĩ, đề suất của cá nhân coi đó là kinh nghiệm qua một số ví dụ minh họa, với mong
muốn góp phần tạo ra và phát triển phương pháp dạy hóa học hiệu quả qua các bài
giảng hóa học.
2.1 Các giải pháp
Cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học tôi đã thấy rằng : “Kiến thức thực tiễn trong bài
giảng Hoá học ” nhằm nâng cao hiệu quả dạy – học môn hóa học ở trường THPT bằng
việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học, sẽ tạo hứng thú, khơi
dậy niềm đam mê, học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong hóa học. Để
thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức
trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng đối
tượng học sinh: ở thành thị, nông thôn, kinh ,dân tộc thiểu số… Đôi lúc quan tâm đến
tính cách, sở thích của đối tượng tiếp thu.
Hình thành giáo án theo hướng phát huy tích cực chủ động của học sinh, phải mang
tính hợp lý và hài hòa, nhẹ nhàng, đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm
được mục đích học môn hóa học. Tuy nhiên, thời gian dành cho vấn đề này là không
nhiều, “nó như ngủ gia vị trong đời sống không thể thay thức ăn nhưng thiếu nó thì
kém đi hiệu quả ăn uống”.
2.2. Các giải pháp thực hiện:
1.”Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” nhằm nâng cao hiệu quả dạy – học
môn hóa học ở trường THPT bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan
đến bài học, bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường sau
khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những
kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện
4
tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? hay những lúc
đọc một số câu thơ vui trong hoá, học sinh sẽ suy nghỉ vì sao lại như vậy , điều đó có ý
nghĩa như thế nào … Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
2. “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” . Bằng cách nêu hiện tượng thực
tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phương trình phản ứng hóa học cụ thể
trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhập, làm cho học sinh
hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính
tò mò của học sinh. Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
3. “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” bằng cách nêu hiện tượng thực
tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu
vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một
vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan
tâm của học sinh trong quá trình học tập.
4.”Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” bằng cách nêu hiện tượng thực
tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn
đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần
truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội
dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế
nào?
5.”Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” bằng cách nêu hiện tượng thực
tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất
khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ lúc nào trong suốt tiết học, hướng này có thể
góp phần tạo không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê
học hóa.
6. “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” bằng cách tiến hành tự làm thí
nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày ở địa phương,
gia đình,… sau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn
cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tạo lại kiến thức qua các thí
nghiệm ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng , tình huống đó. Giúp học sinh phát
huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn.
7. “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học ” bằng cách nêu hiện tượng thực
tiễn xung quanh đời thường từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết
5
luận mang tính quy luật. Làm cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều
vấn đề lý thuyết nếu đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh
so với gắn nó với thực tiễn hằng ngày.
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như:
Bằng lời giải thích, bằng hình ảnh, đoạn phim, bài hát,… có thể tiến hành dạy trong
hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu… điều này cần phụ thuộc vào
giáo viên ở mỗi trường THPT, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy khác
nhau để huy động tối đa vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh
nghiệm có thể áp dụng cho nhiều người, nhưng có những phong cách không thể áp
dụng cho giáo viên khác. Vì phong cách dạy “nó như tính cách của mỗi con người
không thể ai cũng giống ai” nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của
chương trình. Tôi nói như vậy không có nghĩa người giáo viên không đổi mới phương
pháp giảng dạy mà mỗi giáo viên luôn phải tìm cách đổi mới trong phong cách dạy của
mình theo yêu cầu của thực tiễn hiện hành. Có thể nói “người giáo viên như một đạo
diễn cho tiết dạy của mình”.
2.4. PHẦN VÍ DỤ MINH HOẠ
Phần ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng, … thực tiễn trong số hàng nghìn,
hàng vạn hiện tượng, tình huống thực tiễn có thể áp dụng và quan điểm của tôi trong
từng vấn đề cụ thể với đề tài “Kiến thức thực tiễn trong bài giảng Hoá học “
Vấn đề số 01: Ca dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng
sấm phất cờ mà lên” mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào?
– Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng mà có
những trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. Do
trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2 khi chớp ( tia lửa điện ) tạo điều
kiện cho N2 hoạt động:

N2 + O2 NOsau đó 2NO + O22NO2
Khí NO2 tan vào trong nước mưa theo phương trình phản ứng:
4NO2 + O2 + H2O 4HNO3 sau đóHNO3H+ + NO3- (đạm)

    Nhờ hiện tượng này hàng năm làm tăng 6-7 kg nitơ cho mỗi mẫu đất. Ngày nay
người ta đã điều chế Urê (NH2)2CO từ không khí để chủ động bón cho cây trồng và
6
trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành
công nghiệp hóa chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng lớn.
* Lĩnh vực áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ
trong đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân bón hoá học lớp 11. Tạo
cho học sinh khu vực làm nông nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời sống, tự
quan sát.
Vấn đề số 02: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn” mang hàm ý
của khoa học hóa học như thế nào?
– Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3 trong nước tồn tại phương trình điện ly:
CaCO3  Ca2+ + CO32- (*)
Khi nước chảy cuốn theo các ion Ca2+ ; CO32- theo nguyên lý chuyển dịch cân bằng
hóa học thì cân bằng (*) chuyển dịch theo phía chống lại sự giảm nồng độ Ca2+ ; CO32-
, nên theo thời gian nước chảy qua thì đá sẽ mòn dần.
*Lĩnh vực áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá chỗ có những
dòng chảy đi qua nếu không để ý trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít, góp phần
hiểu được dụng ý của khoa học qua những câu tục ngữ, làm cho hóa học trở nên gần
gũi, văn minh hơn. Giáo viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy bài một số hợp chất
quan trọng của kim loại kiềm thổ đến phần về muối CaCO3( lớp 12 ).
Vấn đề số 03:Hiện tượng tạo hang động ( cactơ ) và thạch nhũ với nhũng hình
dạnh phong phú, đa dạng như thế nào?
Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3, khi trời mưa trong không khí có CO2 tạo
môi trường axit làm tan được đá vôi, những giọt nước mưa rơi xuống như vô vàn mũi
dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau:
CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 (*)
Và xuất hiện quá trình điện ly: Ca(HCO3)2  Ca2+ + 2HCO3-

CaCO3Ca2+ +CO32-
– Theo thời gian dần tạo ra các hang động (cactơ) khi nước có Ca(HCO3)2 do áp suất
nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương trình:
Ca(HCO3)2CaCO3+CO2+ H2O

   Như vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình thù đa
dạng.Hiện tượng này để học sinh dễ nhận thấy hơn giáo viên có thể giới thiệu cho học
sinh các công trình xây dựng nơi thường xuyên tiếp xúc với nước.
7
*Lĩnh vực áp dụng: Hiện tượng này thường thấy trong các hang động, núi đá. Giáo
viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về các muối cacbonat ở lớp 12.
Vấn đề số 04: Tại sao khi nấu nước giếng tại một số vùng sau một thời gian
ở dưới đáy nồi lại tạo một lớp cặn ? và cách tẩy lớp cặn này như thế nào?
Trong tự nhiên nước tại một số vùng là nước cứng tạm thời nên khi nấu nước xảy ra
phương trình:

Ca(HCO3)2CaCO3 + CO2 + H2O.
MgCO3 + CO2 + H2O.
Mg(HCO3)2

 to   to  MgCO3 và CaCO3 tạo nên lớp cặn
Cách tẩy cặn ấm: Dùng một ít giấm và rượu cho vào ấm và để qua đêm thì sẽ tạo
thành một lớp cháo đặc hớt ra lau mạnh là sạch.
*Lĩnh vực áp dụng: Bài nước cứng và bài axitaxetic.
Mục đích cung cấp mẹo vặt trong cuộc sống giúp học sinh hiểu rỏ về vấn đề có
trong đời sống hàng ngày học sinh có thể làm những việc này giúp gia đình và từ đó
học sinh đam mê môn hóa học hơn.
Vấn đề số 05: Giấm ăn là gì ? Giấm ăn có tác dụng gì?
Trong giấm ăn có vị chua vì trong giấm có 3-5% axitaxetic CH3COOH. Giấm ăn
có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và tiêu
hóa tốt ,có khả năng tiêu độc , sát khuẩn…
*Lĩnh vực áp dụng: Giấm là một gia vị rất gần gũi trong đời sống,giáo viên có thể
xen vào bài giảng axitaxetic để học sinh liên hệ thực tế , hiểu biết về vai trò của giấm
ăn đối với đời sống con người.(Áp dụng trong bài axitaxetic)
Vấn đề số 06. Tại sao khi ăn cơm nhai kĩ sẽ có vị ngọt ?
Trong gạo có khoãng 65% tinh bột khi ăn cơm thì trong tuyến nước bọt có men
enzim,khi nhai kĩ trộn đều tuyền nước bọt làm tăng sự chuyển hóa tinh bột thành
Glucôzơ,mantôzơ gây nên vị ngọt theo sơ đồ sau:
Tinh bột  amilaza H O , 2 dextrin  amilaza H O , 2 mantôzơ  mantaza glucôzơ.
*Lĩnh vực áp dụng: Giảng dạy bài tinh bột và glucôzơ.cung cấp cho học sinh về sự
chuyển hóa tinh bột trong khi ăn , đó cũng là một hiện tượng tự nhiên mà ta gặp trong
từng bữa ăn.
(Áp dụng trong bài tinh bột và xenlulôzơ)
8
Vấn đề số 07: Ma chơi là gì? Ma chơi thường gặp ở đâu?
“Ma chơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất chỉ trong cơ thể ( xương động
vật có chứa một lượng P khi chết phân hủy tạo một phần thành PH3 ( phốt phin ) khi
có một phần điphốtphin P2H4 khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo
thành khối cầu khí bay trong không khí .
PH3 + O2 → P2O5 + O2 (cháy sáng)
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là người ta thường gặp “ma chơi” ở trong nghĩa địa tăng
thêm tính chất kịch tính.
* Lĩnh vực áp dụng: Vấn đề này phải áp dụng trong bài giảng về P để giải thích các
hiện tượng ma chơi tránh tình trạng mê tín dị đoan , làm cho cuộc sông lành mạnh. (
trong tiết dạy bài Phốt pho)
Vấn đề số 08:Tại sao phải ăn muối iốt.
Ăn muối iốt để tăng lượng iốt cho cơ thể,trong cơ thể một người trưởng thành
ó 20-50 mg iốt chủ yếu tập trung ở tuyến giáp trạng.Thiếu iốt trong tuyến này sẻ gây
nên một số bệnh : bướu cổ đần độn phụ nữ thiếu iốt có thể gây vô sinh và các biến
chứng sau khi sinh, mỗi ngày phải cần một lượng < 150microg iốt.
* Lĩnh vực áp dụng: Đề cập trong bài giảng về iốt giúp học sinh hiểu hơn về vai trò
của iốt trong đời sống và vì sao toàn dân phải dùng muối iốt.
Vấn đề số 09:Tại sao khi nấu , xào thịt , đậu phụ không nên cho muối ăn vào
trước.
Vì trong thịt có protein ( prôtit ) vốn có tính keo khi gặp chất điện li mạnh thành
những ốc đậu khi nấu , xào cho muối ăn vào sớm gây khó khăn cho việc thẩm thấu
vào đậu , thịt và và bị đong tụ cứng lại gây khó khăn cho tiêu hóa.
* Lĩnh vực áp dụng: Giáo viên áp dụng cho bài Protein lớp 12.
Đây cũng là vấn đề thiết thực trong cộc sống hàng ngày và phục vụ thiết yếu cho việt
chế biến thực phẩm.
Vấn đề số 10: Vì sao nước biển lại mặn ?
Các co sông , suối , …. các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại dương và
hòa tan mọi vật thể có thể hòa tan. Do quá trình bay hơi các nguyên tố, hợp chất tụ tập
trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian..Vị mặn của nước biển chủ yếu là
NaCl gây nên .Trong nước biển có hơn 80 nguyên tố trong tổng số 109 nguyên tố.Các
9
nguyên tố Halogen có nhiều trong nước biển, Brom có trong nước biển chiếm 99%
lượng tồn tại và 0.0065% trong nước biển.
* Lĩnh vục áp dụng: Điều này là hiển nhiên trong cuộc sống và bất cứ ngưòi nao cũng
biết điều này và vấn đề này được đưa vào bài giảng Halogen (lớp 10) để giải thích vì
sao nước biển lại mặn.
Vấn đề số 11:Vì sao khi luộc rau muống nên tra vào trước một ít muối NaCl
(muối ăn)?
Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1atm là 100oC, nếu tra thêm NaCl thì lúc đó làm
cho nhiệt độ nước khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC, vì vậy khi đó rau muống
sẽ mềm và xanh hơn là do nhiệt đội sôi cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời
gian luộc rau không lâu làm rau ít mất vitamin nên xanh.
*Lĩnh vực áp dụng: Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để ý
nhưng nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong mỗi buổi
nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có thể chèn vào
trong bài giảng: (tiết 3,4,5; 10 lớp 11 và tiết 46 lớp 12), thời gian đề cập vấn đề này
khoảng 02 phút.
Vấn đề 12: Vì sao cồn có thể sát khuẩn?
Cồn là dung dịch rượu etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu rất cao, có thể xuyên
qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế bào bị chết (Do
protein là cơ sở sự sống của tế bào). Thực tế thấy rằng chỉ có cồn 75% là có khả năng
sát trùng tốt nhất vì nếu > 75% thì nồng độ cồn quá cao làm cho protein đông tụ cao,
làm cho protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn
không cho cồn thấm vào nên vi khuẩn không bị chết. Nếu quá loãng < 75% thì hiệu
quả sát trùng kém

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay