SKKN Dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà trường THPT theo hướng tiếp cận văn bản
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong những năm gần đây, thực tế dạy học Văn nhất là ở các trường trung
học phổ thông, vai trò hành dụng của môn Ngữ văn với tư cách là môn học công
cụ chưa phát huy đúng mức, khả năng vận dụng tri thức của học sinh còn nhiều
hạn chế, chưa khơi dậy khả năng sáng tạo của học sinh.
Điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn, học sinh tỏ ra thờ ơ với việc học
văn, không nhận thấy tầm quan trọng của môn học này trong cuộc sống, đây là
điều mà những nhà giáo dục không khỏi băn khoăn, trăn trở. Môn Ngữ văn vừa
là một môn khoa học vừa là một môn nghệ thuật. Để cảm thụ và hiểu tác phẩm
văn chương thì người đọc cần có những hiểu biết nhất định về văn hóa, văn học,
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đặc biệt tri thức văn hóa – tri thức nền tảng
sẽ là cơ sở để người đọc tự mình khám phá tác phẩm, đến với hình tượng văn
học, với thế giới nghệ thuật của nhà văn. Do vậy, việc cần thiết với mỗi nhà giáo
dục hiện nay là cần cung cấp tri thức nền tảng, tri thức công cụ, tri thức phương
pháp để các em có khả năng tự học, tự đọc, tự sáng tạo.
Bước sang thế kỉ XX, đời sống văn học phương Tây trở nên phong phú đa
dạng với nhiều trường phái lý thuyết. Sự ra đời của khái niệm về văn bản được
đã làm thay đổi quan niệm của các nhà nghiên cứu về tác phẩm văn học, cấu
trúc tác phẩm, về vị trí của tác giả văn học. Nửa cuối thế kỉ XX, khái niệm tính
liên văn bản gắn với tên tuổi các nhà nghiên cứu F.Saussure, Bakhtin, đặc biệt là
Julia Kristeva đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà lí luận trên thế giới.
Việc nghiên cứu lý thuyết văn học phương Tây ở Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể trong đó có lí thuyết liên văn bản. Các vấn đề lý luận mà
trước thời kì đổi mới bị lãng quên nay được các nhà nghiên cứu xem xét lại một
cách khách quan và khoa học. Tuy nhiên, những thành tựu đó lại chưa thật sự
được vận dụng phổ biến vào dạy học Ngữ văn trong chương trình phổ thông.
Nhiều giáo viên vận dụng lý thuyết liên văn bản một cách tự phát mà không biết
mình đang vận dụng nên chưa phát huy hết hiệu quả của việc dạy học Ngữ văn
4
theo hướng tiếp cận liên văn bản. Trong khi đó, thực tế cho thấy người giáo viên
Ngữ văn muốn học sinh yêu mến môn học của mình trước hết cần khơi gợi ở các
em khát khao khám phá, sáng tạo, mở rộng tầm hiểu biết ở nhiều lĩnh vực, dạy
học theo hướng tiếp cận liên văn bản sẽ là một trong những hướng khả thi nhất.
Nguyễn Tuân là một tác giả văn học lớn được học trong chương trình phổ
thông, tác phẩm của ông được học xuyên suốt từ lớp 11 đến lớp 12. Ông bước
vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ và cũng là một nhà văn nổi tiếng
bởi phong cách tài hoa uyên bác, đề cao tuyệt đối cái thật, cái đẹp trong cuộc
sống. Tác phẩm của ông luôn hấp dẫn bạn đọc bởi cách kể chuyện, cách xây
dựng hình tượng nghệ thuật, cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo. Đặc biệt, Nguyễn
Tuân luôn có ý thức liên văn bản trong các sáng tác của mình, các tác phẩm của
ông luôn thấm đẫm chất văn hóa, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm
mỹ, những tri thức uyên bác. Truyện ngắn Chữ người tử tù, tùy bút Người lái đò
Sông Đà là hai trong những tác phẩm xuất sắc chứa nhiều tri thức văn hóa, liên
văn bản tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Từ những lí do trên cùng với việc việc khảo sát sơ bộ các công trình
nghiên cứu, bài viết của các tác giả về các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà
trường, chúng tôi chúng tôi mạnh dạn khai thác đề tài: Dạy học các tác phẩm
của Nguyễn Tuân trong chương trình Trung học phổ thông theo hướng tiếp
cận liên văn bản, hi vọng đề tài góp phần phát huy tính tích cực và tạo hứng thú
yêu thích môn Văn ở học sinh.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Yêu cầu cần dạy học văn theo hướng tiếp cận liên văn bản
Thông thường khi tiếp nhận một tác phẩm văn học, chúng ta luôn cố gắng
tìm hiểu cắt nghĩa tác phẩm và xem xét tác phẩm đó có hay, hấp dẫn hay không.
Và một tâm lý mà đã trở thành thói quen là chỉ quan tâm đến ấn tượng về tác
phẩm làm điểm xuất phát để lý giải vì sao tác phẩm hay, có ý nghĩa. Điều đó dẫn
5
tới việc người đọc khi đọc hiểu, phân tích tác phẩm thoát li văn bản và chỉ dựa
vào ấn tượng ban đầu. Theo tác giả Trần Đình Sử ngôn ngữ của tác phẩm chi
phối sự cảm thụ ý nghĩa tác phẩm tức là ý nghĩa tác phẩm do ngữ cảnh hạn định.
Ngữ cảnh bao gồm các quy tắc ngôn ngữ của tác phẩm, bối cảnh văn hóa, xã hội
của người đọc và tác giả, cùng mọi thứ liên quan tới tác phẩm, tác giả, người
đọc. Cái khó chính là ở đây. Chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt được hết
mọi ngữ cảnh và do đó không bao giờ có thể hiểu hết mọi cung bậc ý nghĩa tác
phẩm. Do đó để hiểu tác phẩm chúng ta phải nắm được toàn bộ ngữ cảnh, nhưng
ngữ cảnh trực tiếp đầu tiên là các quy tắc ngôn ngữ của văn bản mà tối thiểu
phải hiểu ý nghĩa của các từ, các câu, đoạn và nghĩa của toàn bài. Mặt khác một
tác phẩm hay cũng sẽ do ngôn từ gợi ra. Tuy nhiên khi đọc một tác phẩm người
đọc bằng vốn văn hóa, hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống… của mình để cảm thụ
tác phẩm, thậm chí “bởi vì người đọc tham gia vào việc hoàn thành tác phẩm,
cho nên khi đọc văn bản tác phẩm họ không giản đơn là chỉ đọc văn bản, mà
đọc cả sự cảm thụ của chính mình, họ thường phân tích cả sự cảm thụ của mình
mà không biết” [22].
Theo lí thuyết tiếp nhận, tác phẩm văn học luôn là một hệ thống mở. Điều
đó có nghĩa là cùng một tác phẩm văn học nhưng mỗi người đọc khi tiếp nhận sẽ
có những cảm nhận khác nhau tuỳ theo tâm trạng và nhận thức của họ. Học sinh
cũng là một bạn đọc và do vậy các em cũng sẽ có những cảm nhận của riêng
mình đối với tác phẩm được học. Nếu giáo viên cảm nhận thay hay gò ép các em
theo cảm nhận chủ quan của mình thì vô tình đã triệt tiêu mất khả năng tư duy
sáng tạo, khả năng tưởng tượng vô cùng phong phú ở các em.
Kristeva cho rằng: “bất kì văn bản nào cũng được cấu trúc như là sự ghép
mảnh của các trích dẫn; bất kì văn bản nào cũng là sự hấp thụ và chuyển đổi
của các văn bản khác” [4, tr.19]. Theo R.Barthes “Mỗi văn bản là một liên văn
bản; những văn bản khác có mặt trong nó ở những cấp độ khác nhau, giữa
những hình thái ít nhiều nhận thấy được: những văn bản của văn hóa trước đó
và những văn bản của văn hóa thực tại chung quanh. Mỗi văn bản đều như là
6
một tấm vải mới được dệt bằng những trích dẫn cũ. Những đoạn của các mã văn
hóa, các định thức, các cấu trúc nhịp điệu, những mảnh vụn biệt ngữ xã hội …
– tất cả đều bị văn bản ngốn nuốt và đều bị hòa trộn trong văn bản, bởi vì trước
văn bản và xung quanh nó bao giờ cũng tồn tại ngôn ngữ” [12, tr.444 – 445].
Dựa vào những khái niệm trên, có thể hiểu: Liên văn bản là sự đồng hiện của
hai hay nhiều văn bản trong một văn bản ra đời trước đó hoặc cùng thời, được
tác giả tạo lập bằng ý thức hoặc vô thức. Người đọc tiếp nhận trong thực tiễn
giao tiếp nghệ thuật bằng vốn sống trải nghiệm và tri thức của bản thân họ, từ
đó các giá trị văn hóa sẽ không ngừng nảy sinh từ văn bản.
Liên văn bản là một lí thuyết có ý nghĩa như một phương pháp đọc văn
bản, trọng tâm của nó chuyển tới chủ thể tiếp nhận. Thuật ngữ “liên văn bản”
ngụ ý cả phương pháp đọc song hành văn bản để khám phá những điểm tương
đồng và khác biệt cũng như tin rằng mọi văn bản và tư tưởng đều là một bộ phận
và một phần trong tấm dệt các mối quan hệ văn bản, tư tưởng xã hội và lịch sử.
Nhìn chung, liên văn bản đưa ra cú đột phá quan trọng vào những quan điểm
trước đó về văn bản như một khối tự trị tách biệt về tư tưởng và lịch sử. Đọc liên
văn bản vì vậy phải vượt qua rào cản cực đoan và thách thức sự bất khả xâm
phạm từng được thừa nhận về thể loại bằng cách chứng minh rằng mọi văn bản
và tư tưởng đều hấp thu từ những ngọn nguồn tư tưởng tương tự” [2, tr.23]. Việc
tiếp cận văn bản theo hướng LVB tức là dạy các em biết cách đọc LVB là hướng
đổi mới đã, đang và được áp dụng ở nhiều trường phổ thông.
Trong bài viết Về việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học Ngữ
văn ở trường phổ thông, tác giả Phan Huy Dũng đã chỉ rõ những ý nghĩa của
việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy ngữ văn ở trường phổ thông: Đưa
hoạt động dạy văn thoát khỏi tình trạng sơ cứng về phương pháp; Góp thêm cứ
liệu cho việc xác định tính đặc thù của dạy học tích hợp ở môn Văn; Làm giàu
kiến thức văn, văn hóa, và bồi đắp khả năng sáng tạo cho HS [28, tr.397-400-
402]. Dạy học văn theo hướng tiếp cận LVB sẽ là một hướng đi đúng khi đọc
hiểu văn bản GV xuất phát từ văn bản và khai thác triệt để vốn kinh nghiệm, vốn
7
sống, hiểu biết của HS. Và việc đầu tiên để học viên tiếp cận tác phẩm theo
hướng liên văn bản không gì khác chính là phải hiểu bối cảnh, ngữ cảnh của tác
phẩm, đặt tác phẩm trong mối quan hệ với các văn bản khác, các yếu tố khác
theo chiều lịch đại hay đồng đại. Hay nói dễ hiểu hơn việc soạn văn ở nhà các
em sẽ cần đọc nhiều tài liệu hơn, biết tự đánh giá, khái quát, có lẽ đó cũng là
một con đường đổi mới học văn hiện nay. Học sinh được tự mình đối thoại với
tác phẩm, với nhà văn theo cách riêng của mình. Như thế, cá tính sáng tạo của
HS sẽ được khẳng định, được chắp cánh. Mối quan hệ giữa tác giả – văn bản –
độc giả là một yêu cầu không thể thiếu trong dạy học văn, học sinh sẽ từng bước
trở thành đồng sáng tạo của tác giả, nghĩa là phát huy tối đa khả năng sáng tạo,
làm chủ của HS trong mỗi giờ học. Nghĩa là chúng ta đang đưa HS về vai trò
người học là trung tâm của quá trình dạy học (một yêu cầu đổi mới trọng tâm
hiện nay). Lý thuyết liên văn bản cho thấy việc “khai sinh ra người đọc” tạo nên
tính đối thoại giữa tác giả – người đọc. Mỗi người đọc sẽ tạo ra cho mình một
văn bản phái sinh. Văn bản giờ đây không chỉ đơn giản là một cuốn sách, một
bài viết trên giấy mà có thể là một bức tranh, một bản nhạc, một tác phẩm điện
ảnh, hay một đường link internet… Xem tác phẩm đang giảng dạy trong chuỗi
liên văn bản mới sẽ góp phần mở rộng ý nghĩa văn bản cũng như trường liên
tưởng cho người học, từ đó tạo hứng thú, yêu thích văn chương, phát triển năng
lực cảm thụ, năng lực sáng tạo của HS.
Dạy học văn theo hướng liên văn bản, giáo viên cần phải có một phông
văn hóa, vốn kiến thức văn học sâu rộng, năng lực nắm bắt và giải mã các ký
hiệu, những kiến thức thu nhận trong quá trình sống, trong môi trường văn hóa
và khả năng liên tưởng mạnh mẽ để định hướng HS kiến giải tác phẩm theo
quan điểm riêng của các em. Giáo viên còn cần có tầm bao quát rộng rãi đối với
những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực, các loại hình sáng tác không thuộc phạm trù
văn học như: điện ảnh, âm nhạc, hội họa,…Theo tác giả Phan Huy Dũng người
giáo viên còn cần hiểu được những quyền lực văn hóa chi phối hoạt động sáng
tạo của nhà văn, để từ đó có những vận dụng linh hoạt trong bài học [16, tr.408].
8
1.2. Khảo sát thực trạng dạy học văn nói chung và dạy tác phẩm Chữ người
tử tù, Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân nói riêng
1.2.1. Thực trạng dạy văn nói chung
Ngữ văn vừa là môn học công cụ vừa là môn học nghệ thuật có đặc thù
riêng, là lĩnh vực thẩm mĩ của sáng tạo cá nhân, mỗi tác phẩm văn chương không
chỉ đem lại thông tin mà còn là một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ đòi hỏi sự khám phá,
liên tưởng của người đọc. Trong những năm gần đây, mặc dù được sự quan tâm
của xã hội, môn Ngữ văn luôn là một trong những môn học quan trọng ở nhà
trường phổ thông, song học sinh lại không yêu mến môn môn Ngữ văn, ít lựa
chọn khối thi có môn Văn, thậm chí là không muốn học môn Văn (nếu không
phải do Bộ giáo dục quy định môn thi bắt buộc trong kì thi THPT Quốc gia thì
có lẽ số lượng HS đăng kí môn học này sẽ rất ít). Học sinh không tự nghiên
cứu, thậm chí không đọc tác phẩm để tìm hiểu, khám phá mà chủ yếu chép lại và
dựa vào gợi ý hướng dẫn của các sách tham khảo, văn mẫu…Vậy đâu là nguyên
nhân của tình trạng trên? Câu trả lời có lẽ mỗi chúng ta đều thấy rất rõ từ nhiều
năm nay.
– Có lẽ điều đầu tiên mà ai cũng nhận thấy đó chính là phương pháp dạy
học còn nhiều hạn chế. Không phải ngẫu nhiên mà Bộ GD& ĐT luôn tập huấn
công tác chuyên môn, yêu cầu mỗi GV phải tự học tập, tự bồi dưỡng, luôn luôn
đổi mới phương pháp giảng dạy. Lâu nay, nhiều giáo viên đang còn dạy học
theo cách cũ, vẫn là dạy TPVH chỉ bó hẹp trong phạm vi văn bản văn học, ít
hướng dẫn cho HS thói quen, kĩ năng liên hệ, mở rộng sang những vấn đề khác
có liên quan. Dường như người giáo viên chú trọng quá nhiều đến văn bản, mà
quên mất nhu cầu tự khám phá, tự cảm thụ của HS. Vì thế, học sinh luôn là
người “lắng nghe” chứ không phải là người “nhập cuộc”, dẫn tới HS gần như bị
tê liệt về cảm xúc, về hứng thú học tập và trở nên thụ động, lười suy nghĩ. Giáo
viên vẫn còn thuyết giảng nhiều dẫn đến tình trạng HS ít được làm việc, ít có cơ
hội bày tỏ chính kiến của bản thân; những kiến thức ngoài văn bản, những cách
hiểu riêng của cá nhân HS ít được GV quan tâm tới. Một số giáo viên lại lại dạy
9
văn như nhà nghiên cứu văn học: tập trung phân tích quá sâu về tâm lí, về kĩ
thuật ngôn từ, về phương pháp sáng tác…như những sinh viên khoa Văn, nhiều
HS chán nản nhất là những HS thi khối A, B, các em sợ phải học Văn.
– Một hạn chế nữa của quá trình dạy học môn Ngữ Văn là cả giáo viên và
học sinh đều tồn tại tâm lý học để thi, dẫn đến tình trạng học nhồi nhét, thậm chí
HS chỉ học thuộc lòng các bài cô phân tích để an toàn khi đi thi. Quy trình kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh chưa được hợp lí, chưa vừa sức, chưa
có tác dụng tạo động lực cho học sinh học tập. Thầy cô giáo chủ yếu kiểm tra trí
nhớ của HS chưa chú trọng vào việc phát huy năng lực cho HS. Bên cạnh đó,
việc chấm, sửa bài cho học sinh cũng còn nhiều thiếu sót. Giáo viên trả bài cho
học sinh không đúng thời gian quy định, thường là lâu hơn quy định, sửa bài
không cụ thể, chi tiết. Phần lớn điểm số cho bài làm của học sinh thường ở mức
trung bình, khá, rất ít điểm giỏi. Mặc dù có nhiều đổi mới song việc kiểm tra
đánh giá vẫn chưa đem lại hứng thú và động cơ học tập cho HS.
– Theo lí thuyết kiến tạo, chúng ta hiểu rõ học sinh phải là chủ thể tích cực
xây dựng nên kiến thức cho bản thân mình dựa trên những kiến thức hoặc kinh
nghiệm đã có từ trước. Giáo viên chỉ là người tổ chức, điều khiển, HS tự biến
kiến thức của thầy cung cấp, tài liệu đọc được để biến thành kiến thức của bản
thân, có như thế HS mới nhớ lâu được bài học. Nếu chỉ học vẹt thì sẽ mau chóng
quên luôn. Nhưng chính cách dạy như trên cũng dẫn đến hệ quả kéo theo là cách
học của HS học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng đọc hiểu văn bản,
không thể đọc hiểu những văn bản tương tự. Học sinh chưa biết vận dụng những
kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, thiếu sáng tạo và không biết cách tự
học, thiếu động cơ học tập.
– Một nguyên nhân khách quan không thể không nhắc tới đó chính là
chúng ta đang ở thế kỉ XXI, kỉ nguyên của công nghệ thông tin, kĩ thuật số…
Học sinh thay vì đến thư viện đọc sách, các em có thể tự tìm tài liệu trên máy
tính, điện thoại smarphone của mình. Nhưng có một hiện trạng các em lại online
để lướt facebook, buôn chuyện trên zalo, hay các trang mạng xã hội khác… Học
10
sinh hình thành thói quen ỉ lại, lười đọc sách, chỉ chờ đợi thụ động bài giảng của
GV, không có động cơ học tập. Hơn nữa, do sự hội nhập toàn cầu đại đa số HS
chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, điều này đã ảnh
hưởng đến nhận thức của phụ huynh, của HS về những môn học thời thượng
như: Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ, các môn học các em có thể đi du học thuận lợi,
hoặc ra trường dễ xin việc.
Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT liên tục đổi mới với mong muốn
đào tạo những công dân toàn cầu, có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng những
đòi hỏi của thời đại mới. Bộ và Sở giáo dục đã triển khai nhiều chương trình tập
huấn cho GV, cán bộ cốt cán về đổi mới phương pháp dạy học nhưng chưa có
nhiều GV đổi mới, chịu khó đầu tư mà phần lớn chỉ được thể hiện ở các tiết hội
giảng, còn bình thường vẫn chưa đổi mới.
1.2.2. Thực trạng dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân
Ở chương trình Ngữ văn THPT chương trình chuẩn, HS được tiếp cận hai
tác phẩm của Nguyễn Tuân: Truyện ngắn Chữ người tử tù (Trích Vang bóng
một thời) ở lớp 11 và tùy bút Người lái đò sông Đà (trích Tùy bút Sông Đà) ở
lớp 12. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế giảng dạy ở trường THPT Nguyễn Huệ
(TP Nam Định), chúng tôi nhận thấy thực trạng sau:
* Thực trạng hoạt động dạy- học truyện ngắn Chữ người tử tù
Tác phẩm Chữ người tử tù là một tác phẩm hay nhưng khó cảm thụ.
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách tài hoa, uyên bác, để hiểu tác phẩm của
ông không hề dễ, kiến thức trong tác phẩm khá rộng bao gồm nhiều lĩnh vực
như: lịch sử, văn hóa, văn học, xã hội. Đặc biệt cách xây dựng nhân vật mang
tính lí tưởng hóa, các từ Hán Việt xuất hiện với tần số lớn, không gian nghệ
thuật của tác phẩm gợi về một thời xa xưa xa lạ với HS hiện nay. Tuỳ vào quan
điểm, năng lực của giáo viên và của học sinh, giáo viên khai thác tác phẩm theo
nhiều cách khác nhau, dưới đây là hai hướng khai thác tiêu biểu: Hướng thứ
nhất: Giáo viên đã khai thác “bổ dọc”, phân tích theo trình tự: nhân vật Huấn
Cao, nhân vật viên quản ngục, nghệ thuật đặc sắc của truyện. Hướng thứ hai:
11
khai thác theo hướng “bổ ngang”, tiến hành phân tích truyện theo trình tự ba
đoạn truyện: Trước khi Huấn Cao đến nhà lao; Khi Huấn Cao bị giải đến nhà
lao; Cảnh cho chữ – cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nhìn chung các em hiểu
được những kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân, kiến thức tối thiểu về văn
bản Chữ người tử tù: Ba vẻ đẹp của Huấn Cao, nghệ thuật đặc sắc của văn bản:
Tình huống độc đáo, thủ pháp tương phản, đối lập, xây dựng nhân vật, ngôn
ngữ…Đây mới chỉ là kiến thức ở dạng tái hiện, chưa thể hiện được nhiều những
khám phá mang tính sáng tạo của bản thân, chưa cảm nhận tác phẩm một cách
sâu sắc đúng bản chất.
Một hiện trạng dễ nhận thấy trong nhiều giờ dạy giáo viên chỉ tập trung ở
các nội dung chính như: Hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhân vật quản ngục
hay cảnh cho chữ, (tầng hình tượng) tuy nhiên cũng tiếp cận một cách sơ sài
mang tính chiếu lệ. Các kiến thức học sinh được trang bị chỉ mang tính đối phó
với thi cử. Thậm chí chỉ đưa ra một vài ý cơ bản rồi thuyết trình nhưng không hề
bám sát vào ngôn từ của văn bản. Có giáo viên cứ bay bổng với những lời bình
sáo rỗng mà xa rời hoàn toàn hệ thống ngôn từ của văn bản. Bởi vậy rất nhiều
các từ ngữ cổ giàu giá trị của tác phẩm mà HS không hề biết đến, thậm chí có
nhiều em còn hiểu sai về mặt nghĩa của nó. Còn ở tầng tư tưởng ý vị nhân sinh
của tác phẩm thì rất nhiều GV bỏ qua, nếu có thì vài câu nói qua loa như đưa
vào phần tổng kết chứ chưa coi đó là một phần quan trọng khi khám phá tác
phẩm.
Còn khi tiếp nhận tác phẩm nhiều học sinh chỉ nói một cách sáo rỗng,
không đưa ra được các câu văn để chứng minh cho từng nét đẹp của nhân vật.
Thậm chí có những học sinh còn băn khoăn, nhầm lẫn việc trích dẫn những câu
nói về nhân vật Huấn Cao và quản ngục ở đoạn văn trong phần đầu của tác
phẩm. Nhất là các em thường bỏ luôn “cảnh cho chữ” không đưa vào khi cảm
nhận về vẻ đẹp của hai nhân vật này…Và không ít học sinh còn hiểu sai các từ
Hán Việt trong các câu văn khi nói về nhân vật. Chẳng hạn như: nhất sinh, chu
tất, xin bái lĩnh, xin lĩnh ý… Đối với các em, quan niệm về cái đẹp và quan niệm
12
sống mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm qua hai nhân vật trên dường như quá xa lạ
và không thể chỉ ra được.
* Thực trạng hoạt động dạy- học tùy bút Người lái đò sông Đà
Dạy tùy bút luôn là thách thức đối với giáo viên, nhất là dạy tác phẩm của
bậc thầy ngôn từ Nguyễn Tuân thì càng khó khăn. Thực tế cho thấy cả thầy và
trò đều rất ngại dạy và học tác phẩm Người lái đò Sông Đà – văn bản dài, ngôn
từ rất khó hiểu. Đoạn trích Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân có dung
lượng khá dài nhưng theo phân phối chương trình chỉ có hai tiết dạy học. Học
sinh dường như rất khó hình dung hai bên bờ đá sông Đà, mặt ghềnh Hát lóng,
cảnh thạch trận sông… Giáo viên rất khó khăn để bật lên được đặc trưng thể loại
tùy bút, phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân qua nghệ
thuật ngôn từ, quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp…
Đa phần để phục vụ cho đi thi THPT quốc gia, học sinh đều nắm được hai
nét tính cách nổi bật của dòng sông Đà: hung bạo và trữ tình, cũng như vẻ đẹp
của ông lão lái đò: trí dũng, gan dạ và tài hoa song để thấy được đặc trưng riêng
của thể kí Nguyễn Tuân thì các em chưa hiểu rõ. Trong khi đó đề thi THPT quốc
gia có những đề so sánh hai đoạn văn
Ví dụ : Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn văn sau:
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình … mỗi độ thu
về” (Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB
Giáo dục, 2009, tr.191)
“Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn,…
như người Huế thường miêu tả” (Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 198)
Học sinh vô cùng lúng túng khi làm những đề kiểu này, các em không có
kiến thức nền để so sánh, bởi ở nhà các thầy cô chỉ dạy các em vẻ đẹp hình
tượng sông Đà, sông Hương và chia theo luận điểm.
Một bài kí với dung lượng kiến thức lớn, thời lượng chương trình ít,
không dễ truyền tải đến HS nên nhiều GV dạy tác phẩm này qua cho xong trong
13
khi để giảng một bài kí đòi hỏi ở người giáo viên một sự chuẩn bị rất chu đáo,
cẩn thận. Thể kí, với nghệ thuật chân chất, xác thực của nó, đòi hỏi người viết kí
phải có một vốn sống phong phú và một trình độ kĩ thuật già dặn. Do đó, giảng
một bài kí, giáo viên cần phải am hiểu nhiều mặt đời sống xã hội, có vốn sống,
vốn hiểu biết rộng không thể chỉ nói chung chung. Giáo viên có tâm huyết thì
mới truyền cảm hứng cho HS thực sự yêu thích những bài học này.
1.2.3. Thực trạng dạy học văn theo hướng tiếp cận LVB hiện nay
Trong những năm gần đây những định hướng đổi mới phương pháp, nội
dung dạy học của Bộ GD&ĐT đã phần nào phát huy tác dụng. Đề án chương
trình giáo dục phổ thông năm 2018 sẽ xây dựng nhằm lấy người học là trung
tâm, giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn và tạo những tình huống có vấn
đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Bằng
sự tự nguyện chính học sinh sẽ tự khám phá, phát hiện năng lực của bản thân,
rèn luyện khả năng tự học, phát huy những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được
để phát triển. Do đó, dạy học văn theo hướng tiếp cận mới như hướng tiếp cận
LVB được quan tâm. Những giáo viên Ngữ văn THPT tâm huyết với nghề đã
lặng thầm và đổi mới cách dạy học văn, góp phần đổi thay mối quan hệ giữa
người dạy và người học, góp phần đổi mới tư duy của học sinh về văn học và
cuộc sống. Các thầy cô đã giúp cho HS học được cách tư duy tổng thể về thế
giới, tìm ra mối tương quan đa chiều giữa mọi vấn đề của cuộc sống của văn học
nghệ thuật, đặc biệt là sự góp mặt của nhiều tác phẩm đương đại Việt Nam và
thế giới. Việc vận dụng lý thuyết liên văn bản khi dạy học văn đem lại những
thành công bước đầu. Nhiều giáo viên đã ý thức vận dụng liên văn bản một cách
tự giác, phát huy được tính tích cực, chủ động của HS trong giờ học. Giáo viên
để HS liên hệ những kiến thức ngoài văn bản, thậm chí sân khấu hóa văn học,
HS tỏ ra rất hào hứng với cách dạy mới.
Ví dụ như: Dạy học tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao theo các
thao tác liên tưởng, so sánh từ gần đến xa; Vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong
14
dạy bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Vận dụng kĩ thuật liên
văn bản khi dạy bài Đàn ghi-ta của Lorca…
Tuy nhiên, số giáo viên vận dụng được như trên chưa nhiều, đa phần giáo
viên Ngữ văn THPT hiện đang sử dụng kỹ thuật liên văn bản trong dạy đọc hiểu
văn bản văn học ở một cấp độ thấp
– Do quan niệm cũ vẫn coi văn bản là một thể độc lập nên giáo viên mới
chỉ liên văn bản một cách vô thức qua việc trích dẫn, thực hiện một thao tác so
sánh, liên tưởng hay xếp chồng văn bản một manh mún, thiếu hệ thống. Ví dụ
như khi dạy tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, các thầu cô liên hệ với
bài thơ Ông đồ – Vũ Đình Liên khi nói đến nghệ thuật thi pháp và chỉ ra được
một nét đẹp văn hóa đã bị mai một nhưng lại chưa đặt được thi pháp ấy trong hệ
thống tác phẩm Vang bóng một thời thực trạng xã hội trước 1945…; Dạy đoạn
trích Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), GV cũng ý thức liên hệ với những bài ca
dao liên quan nhưng lại chỉ quan tâm riêng lẻ từng bài mà chưa đặt trong hệ
thống…
– Như đã nói ở phần thực trạng dạy học văn nói chung, quan điểm “lấy
người học là trung tâm” của Bộ GD&ĐT chủ trương đề cao vai trò của người
học, lấy HS làm trung tâm của mọi hoạt động. Tuy nhiên, chủ trương này vẫn
chưa thực sự hiệu quả ở các bậc học. Giáo viên tuy có đổi mới (cho HS thảo
luận, phát vấn…) nhưng vẫn trên tinh thần cô định hướng, cô giảng, trò ghi bài
và học thuộc những điều cô cho ghi để đi thi. Học sinh xa rời văn bản mà chỉ
tiếp xúc văn bản qua lời bình của thầy cô, vô hình chung giáo viên đã lấy mất đi
quyền đồng sáng tạo của HS với tác giả.
– Việc ứng dụng công nghệ thông tin nếu được coi như một trong những
thao tác vận dụng kỹ thuật liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản văn học sẽ
hiệu quả hơn. Qua thực tế chúng tôi nhận thấy trong quá trình giảng bài, đa phần
GV ứng dụng công nghệ thông tin, tranh ảnh, videoclip phóng sự, nhạc… vào
bài dạy nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân là do quan niệm chúng chỉ
đơn thuần là phương tiện.
15
Ví dụ: Dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số Đỏ của Vũ
Trọng Phụng, GV sẽ cho HS xem đoạn phim cảnh chuẩn bị đám tang hoặc cảnh
hạ huyệt. Dạy Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, GV nào cũng trình chiếu clip
bài hát phổ nhạc hoặc ngâm thơ Đây thôn Vĩ Dạ, nhưng GV cũng chỉ đưa ra
nhằm mục đích minh họa sống động không hơn không kém… Nếu GV nắm
chắc được lí thuyết liên văn bản chắc chắn việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ
hiệu quả hơn rất nhiều.
Qua cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài, chúng tôi nhận thấy việc
dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT là hoàn toàn khả
thi. Trong thời đại công nghệ thông tin, những lí thuyết nghiên cứu- phê bình
văn học mới như thuyết kiến tạo, liên văn bản… Người giáo viên cần phải nắm
vững để có những ứng dụng phù hợp hướng dẫn HS. Cách tiếp cận tác phẩm văn
học theo hướng liên văn bản sẽ phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng, năng
lực giải quyết vấn đề của cả GV và HS. Các em học sinh sẽ tự kiến tạo tri thức
trong bộ não của mình. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất dạy các tác phẩm của
Nguyễn Tuân trong chương trình THPT nói riêng và dạy các tác phẩm văn học
nói chung theo hướng tiếp cận liên văn bản với mong muốn đạt hiệu quả tốt
nhất.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Định hướng dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương
trình THPT theo hướng tiếp cận liên văn bản
2.1.1. Dạy học tác phẩm trong thể liên văn bản với thời đại, bối cảnh lịch sử,
hoàn cảnh sáng tác
Thời đại chính là cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên những tâm hồn lớn,
những nhà văn, nhà thơ lớn. Mặt khác, nhà văn, nhà thơ phải biết đời sống xã
hội của thời đại, phải sống, thấu hiểu những thăng trầm lịch sử, những biến cố
để từ đó biến nó thành nguồn cảm hứng cho sáng tác của mình. Lịch sử với
những biến thiên thăng trầm của nó sẽ còn đọng lại trong tâm hồn, lối sống,
ngôn ngữ, cách ứng xử của mỗi cá nhân, chúng ta tiếp nhận nó một cách vô thức
16
và có ý thức. Để tiếp cận một tác phẩm văn học, người học cần nắm rõ những
ảnh hưởng của thời đại, bối cảnh lịch sử và gần hơn là hoàn cảnh sáng tác của
tác phẩm đó.
Xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX, những giá trị truyền
thống được định hình và phát triển trong xã hội phong kiến nay không còn là
rường cột của xã hội, niềm tin của con người bị sụp đổ trước những ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân
đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng. Nếu
như các nhà văn mới đi vào xu hướng trụy lạc, siêu thoát, thần bí, hình thức chủ
nghĩa (Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, nhóm Xuân Thu nhã tập) thì Nguyễn Tuân
tìm hướng đi riêng cho mình: tìm cái đẹp còn sót lại từ quá khứ với tập truyện Vang
bóng một thời. Trước những cong vênh, lệch chuẩn đời sống, Nguyễn Tuân tìm
về một thế giới thanh khiết, quá khứ trở thành cõi đời âm vọng của những giá trị
tốt lành song cũng là một thế giới một đi không trở lại. Dạy tác phẩm Chữ người
tử tù, người dạy nhất định phải gắn với bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác của
văn bản này, mới có thể hiểu không khí cổ kính mà nhà văn cố tạo ra. Giữa cái
xã hội “ối a ba phèng”, nhà văn vin vào hình tượng hào quang của người anh
hùng lẫm liệt cầm đầu quân phiến loạn chống lại triều đình – Huấn Cao – như là
một phương tiện để chống lại xã hội đương thời.
Tùy bút Sông Đà là áng văn giúp ta nhận ra hình ảnh một Nguyễn Tuân
đã trở nên mới hơn hẳn so với chính ông trước đó. Khi đã xấp xỉ ngũ tuần người
nghệ sĩ này vẫn chưa nguội tắt lòng ham mê đi đến những chân trời mới lạ.
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, cùng hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ đã tác động một cách sâu sắc đến tinh thần dân tộc vốn tồn tại
mãnh liệt trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát
động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao, biến những mảnh đất
nơi đây thành miền đất hứa. Các văn nghệ sĩ lên các vùng xa xôi của tổ quốc để
tìm cảm hứng sáng tác theo phong trào “văn nghệ sỹ – đi và viết”. Hàng loạt
17
thanh niên rời bỏ quê hương nô nức, phấn khởi lên Miền Tây nghèo khó với một
tinh thần hăng hái, phấn chấn, tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Ôi miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng
Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
Tuổi hai mươi khi hứng đời đã thấy
Thì xa xôi mấy cũng lên đường”
(Lên Miền Tây- Bùi Minh Quốc)
Theo tác giả Trần Thiện Khanh, trong cuốn Chiều chiều, Tô Hoài kể sau
1945 có một phong trào đi thực tế: “Tô Hoài về nông thôn dạy nông dân đấu địa
chủ. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng… lên Điện Biên. Kim Lân vác xà beng
đi đào sông bên Bắc Hưng Hải” [14]. Mỗi nhà văn tự tìm cho mình một hướng
tiếp cận hiện thực để “phá hồn thơ”, để có cảm hứng sáng tác. Nhà văn Nguyễn
Tuân cũng vác ba lô lên với Tây Bắc – mẹ của hồn thơ, đến với cội nguồn thơ ca
nghệ thuật, tiếp nhận luồng gió mới thời đại để có những kiệt tác để đời. Tuy
nhiên, có thể thấy, để hoàn thành tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã tích lũy vốn
sống dồi dào, vốn kiến thức phong phú về Tây Bắc từ rất lâu. Nguyễn Tuân đặt
chân lần đầu tiên lên Tây Bắc vào năm 1948, năm 1949 ông tiếp tục cùng Trung
đoàn Thủ đô và đại đoàn 308 dự chiến dịch sông Thao mùa hè và chiến dịch
đường 4 mùa đông, sau đó hàng năm Nguyễn Tuân lại đều đặn lên Tây Bắc, đến
năm 1958, 1959 ông mới ở lại dài ngày với các địa danh như Điện Biên, Tuần
Giáo, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu…Đến với Người lái đò Sông Đà, khi gắn bài
học với thời đại, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, người đọc mới có
thể thực sự cảm nhận được sự thay đổi trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Thế
giới tinh thần của nhà văn tràn ngập niềm vui, niềm lạc quan về cuộc kháng
chiến, xây dựng đất nước, về cuộc sống mới đang từng ngày, từng giờ đổi mới.
2.1.2. Dạy học tác phẩm trong thể LVB với mã văn hóa trong tác phẩm
Với kiến thức uyên bác về nhiều ngành nghệ thuật, tài năng đa dạng, tâm
hồn nhạy cảm đặc biệt là tấm lòng tha thiết với đất nước, dân tộc, Nguyễn Tuân
đã tạo nên một thế giới nghệ thuật thật độc đáo. Ở đó, thiên nhiên, con người,
18
tâm hồn dân tộc cùng hòa nhịp trong nhịp trầm sâu văn hóa. Dạy học tác phẩm
của Nguyễn Tuân cần phải liên văn bản với lớp trầm tích văn hóa bao phủ quanh
tác phẩm của ông là một trong những hướng khai thác tác phẩm hiệu quả.
2.1.2.1. Truyền thống, lịch sử từ góc nhìn văn hóa
Trong các trang viết của Nguyễn Tuân, chúng ta dễ dàng nhận thấy lịch
sử được nhìn dưới lăng kính văn hóa, nhà văn dùng lịch sử để tái hiện hiện thực
nhất là các sáng tác trước Cách mạng tháng Tám – 1945. Nhà văn đã làm sống
dậy cả một bảo tàng về cái đẹp, một thế giới của những người tài tử, tài hoa, thế
giới mà họ được quyền bộc lộ hết tài năng, nhân cách cao cả của mình. Tác giả
Hoàng Như Mai đã nhận xét:“Mở cuốn Vang bóng một thời, người ta tưởng như
mở hai cánh cửa bước vào một nhà bảo tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày
những hiện vật của một thời xưa”. Tình yêu quốc hồn quốc túy dân tộc, cảm
quan phương Đông cùng với cái tôi tài hoa nghệ sĩ khiến Nguyễn Tuân tạo dựng
cả một môi trường văn hóa riêng, một thế giới lý tưởng với những giá trị cổ
truyền được lưu giữ.
Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù được lấy từ nguyên
mẫu là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đất Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ
trăm năm trước. Một người anh hùng có bản lĩnh, có khí phách, đã từng đứng về
phía nhân dân, khởi nghĩa chống lại triều đình nhưng thất bại: Gặp lúc vùng Sơn
Tây bị hạn nặng, lại có nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống
người dân hết sức đói khổ. Phần thì phẫn chí, phần thì thương dân, khoảng cuối
năm 1854, Cao Bá Quát tham gia lãnh đạo (tự lãnh chức Quốc sư) cuộc khởi
nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), do Lê Duy Cự làm “Minh chủ”, nhưng do bị bại
lộ, lực lượng mỏng nên thất bại, ông bị hi sinh, vua Tự Đức lệnh cho đem thủ
cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống
sông.
Nhưng có thể thấy nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều
đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt
người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để
19
“dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của tác giả: Tâm sự
bất đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân phong kiến đương thời.
Trong Chữ người tử tù, nhà văn còn thể hiện thái độ luyến tiếc một nhã
thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây: nghệ thuật thư
pháp. Nghệ thuật Thư pháp được thể hiện bằng chữ Hán (chữ Nho), sử dụng bút
lông, mực tàu, giấy và nghiên mài mực hay còn gọi là “văn phong tứ bảo”. Ở
Nhật Bản người ta gọi nghệ thuật viết chữ đẹp là Thư đạo, ở Hàn Quốc người ta
gọi là Nghệ thư, ở Trung Quốc và Việt Nam gọi là Thư pháp. Nghệ thuật Thư
pháp tiếng Việt được đánh dấu từ những năm 50 – 60 của thế kỷ XX. Chúng ta
vẫn không quên hình ảnh ông Đồ trong mỗi độ tết đến xuân về. Hình ảnh ông
Đồ xuất hiện để cho chữ mọi người – nét chữ sang trọng, có hồn và được treo
gian giữa của ngôi nhà. Cái tài, cái tâm của ông Đồ già muốn gửi gắm.“Hoa tay
thảo những nét. Như phượng múa rồng bay”(Vũ Đình Liên). Chỉ có những
người có tâm sáng mới cho ra những nét bút tài hoa. Qua nét chữ, có thể đoán
được tính cách của mỗi con người. Nên khi thể hiện chữ viết cũng cần sự tập
trung để mỗi câu chữ là một lời tâm sự, sự trải lòng mình. Những nét chữ ấy
được vẽ bằng trí tuệ và những rung động của trái tim. Mỗi chữ viết kết tụ tinh
hoa và tâm huyết của người nghệ sĩ, thể hiện nhân cách và bản lĩnh khao khát
của người viết. Viết chữ đẹp là một sáng tạo nghệ thuật, người viết chữ đẹp trở
thành người nghệ sĩ. Một trong các danh sĩ Bắc Hà về thư pháp chính là Cao
Chu Thuần (1808 – 1855) được suy tôn: “Thần Siêu, Thánh Quát” và “Văn như
Siêu, Quát vô tiền Hán”. Một con người có nhân cách “Một đời chỉ cúi trước
hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Người nghệ sĩ – anh hùng trong thực tế
lịch sử và lung linh trong huyền thoại, là cơ sở để Nguyễn Tuân sáng tạo nên
hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù. Tìm được một nguyên
mẫu xứng đáng, ngòi bút lãng mạn của Nguyễn Tuân mặc sức tung hoành. Con
người tài hoa ấy chẳng những có tài bẻ khóa, vượt ngục mà con có tài “viết chữ
rất nhanh và đẹp” nổi tiếng cả tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản
ngục đã từng ao ước “có được chữ của Huấn Cao mà treo là một báu vật trên
20
đời”. Thế nhưng không dễ gì xin được chữ của ông “Ta nhất sinh không vì vàng
ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ…”[7, tr.113]. Xây dựng
hình tượng Huấn Cao, nhà văn đã làm nổi bật lên một nhân cách cao vời vợi.
Với Huấn Cao ông quan niệm hành vi cho chữ là một hoạt động sáng tạo nghệ
thuật. Bởi thế cho nên chỉ khi hiểu được tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên
quản ngục, ông mới quyết định cho chữ. Cảnh cho chữ phi thường diễn ra trong
chốn ngục tù: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ
trên trạm canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một
buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân
gián” [7, tr.113]. Trong cảnh tượng lạ lùng này, viên quản ngục – người nắm
quyền uy, thì “Khúm núm”, tay “run run” bưng chậu mực. Còn Huấn Cao, tên
tử tù sắp bị chém đầu thì “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” “đang đậm tô nét
chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” ung dung, đĩnh đạc biết bao!
Dường như trong giờ phút thiêng liêng ấy không còn là người tử tù lĩnh án chém
mà là một người nghệ sĩ tài ba đang dồn hết tâm huyết vào từng nét chữ, sáng
tạo cái đẹp. Động tác khoan thai, bình tĩnh “thay bút con, đề xong lạc khoản”.
Ông lắng mình trong mùi thơm chậu mực “Thoi mực thầy mua ở đâu tốt và
thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm của chậu mực bốc lên không”. Ông thả hoài
bão trong những dòng chữ, nét chữ tươi tắn thể hiện cái chí của một đời ngang
dọc. Mùi thơm của chậu mực hay chính là sự tinh khiết của thiên lương con
người. Có thể thấy rằng người tù đã sống trọn vẹn với nghệ thuật cái đẹp bỏ qua
cái tăm tối nhơ nhuốc, u ám của nhà tù. Và trong giây phút sinh thành cái đẹp,
hình tượng người tù uy nghi đẹp đẽ chính là người sáng tạo ra cái đẹp.
Tác giả xây dựng một ngục quan biết nung nấu sở nguyện hết sức thánh
thiện, bản thân ông ta lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước
thiên lương và thư pháp kiệt xuất của ông Huấn. Với hình tượng Huấn Cao, viên
quan ngục, Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa
truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá
21
cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa
oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt.
2.1.2.2. Thiên nhiên từ góc nhìn văn hóa
Với Nguyễn Tuân thiên nhiên được coi là thế giới tinh thần, thể hiện cảm
quan của mình. Trước năm 1945, những trang viết về thiên nhiên của Nguyễn
Tuân không đơn thuần chỉ là tả cảnh mà ông viết về nó như một nhu cầu được
khẳng định cái tôi của mình trong xã hội. Nguyễn Tuân coi thiên nhiên như chốn
ẩn dật tinh thần, là sự thể hiện độc đáo lương tâm, trách nhiệm của người nghệ sĩ
đối với các giá trị xã hội. Được sinh ra trong gia đình nhà Nho, những kiến thức
cùng những quan niệm đạo đức của chế độ phong kiến chắc chắn có ảnh hưởng
đến Nguyễn Tuân. Ông am hiểu sâu sắc lối sống an nhiên tự tại, tôn trọng tự
nhiên của cha ông từ đó Nguyễn Tuân đã tạo cho mình một con đường riêng để
ẩn dật tinh thần, một phương thức hữu hiệu để khẳng định nhân cách độc lập của
bản ngã, bảo vệ văn hóa của riêng mình, khẳng định sự tồn tại của mình bằng sự
đối lập với xã hội đương thời. “Nguyễn Tuân trở về với thiên nhiên là để thực
hiện khao khát thoát khỏi những tầm thường, tủn mủn của cuộc đời hiện hữu
trong khi những lệch vênh, biến dạng của các chuẩn mực trong bối cảnh văn
hóa mới vẫn hiện ra trước mắt, cụ thể, nặng nề và nghiệt ngã. Nguyễn Tuân trốn
vào thiên nhiên mà vẫn thấu nỗi đời”[11, tr.23]. Trong Vang bóng một thời,
thiên nhiên còn như một nơi để ông bộc bạch thái độ day dứt, tiếc nuối, buồn
đau của mình trước những giá trị đẹp đẽ của cuộc đời đang mất đi. Thiên nhiên
hiện lên như một bức họa cổ đẹp, tao nhã, lãng mạn, nên thơ nhưng có màu sắc
trầm, u mặc, trong và lạnh và buồn. Đó là vầng trăng trên sông “Vừng trăng
mười bốn lúc chếch về đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông
trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội” (Thả thơ) [23, tr.35]. Hình ảnh vầng
trăng trên sông tỏa lan cùng tiếng ngâm thơ làm thành một sân khấu có sự hòa
phối của âm thanh và ánh sáng đong đầy cảm xúc trong lòng người, dường như
ẩn trong đó một sự tiếc nuối, hoài vọng. Đó còn là ánh nắng “Ánh nắng già dặn
buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí
22
bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng
loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc ấm đất) [24, tr.69],
sư cụ chùa Đồi Mai gửi vào đó nỗi niềm tiếc thương cho một kiếp chúng sinh
vướng phải vòng nghiệp chướng. Hình ảnh mùa mưa dầm tháng chín trong
truyện Báo oán vừa tả thật cảnh vùng quê chiêm trũng, vừa gợi nỗi ai oán, buồn
thương: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên than
vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ”. Hay đó là tâm trạng của của kẻ
cảm thấy bất an trước nguy cơ vườn Túy lan vắng chủ “Sau cái đêm dữ dội ấy,
cây cỏ nơi Túy lan trang đều một loạt ủ rũ như để tang cho người thiên cổ. Tơ
liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió, bóng tre lìa bụi, đều ngậm một cái tình buồn
trước cái hương trời lăn lóc khoảnh vườn hoang” [24, tr.18-19]… Hay cảnh
đêm trong Chữ người tử tù đầy sức ám ảnh “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã
bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái
quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua
cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó
cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền
trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía
chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng
mõ canh nổi lên nhiều nhiều”[7, tr.109]. Cảnh thiên nhiên lạnh đến rùng mình.
Đó chính là khoảng thời gian trong những ngày trước khi ông Huấn Cao – một
con người tài hoa, khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng sắp phải từ biệt
vũ trụ. Viết những dòng văn ấy, dường như nhà văn thấm vào mỗi câu chữ nỗi
xót xa, tiếc nuối một anh hùng cái thế một thời. Nguyễn Tuân không bị tách ra
khỏi không gian văn hóa của mình, song ông không thể hòa hợp cùng với xã hội
đương thời, ông tìm cho mình một cõi sống khác. Sự hiện diện của thiên nhiên
trong tâm thức văn hóa của Nguyễn Tuân giúp ông tìm được cõi để giãi bày, thể
hiện tâm hồn, nhân cách của mình.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân lại là
môi trường sống vĩ đại, rất thực và cụ thể để ông bộc lộ tình yêu nồng nàn với
23
đất nước tráng lệ. Trong tâm thức văn hóa của Nguyễn Tuân, thiên nhiên là một
công trình nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Thiên nhiên được quy chiếu trong cảm
quan thời đại gắn với cái nhìn khám phá, chinh phục. Cuộc sống mới đang nở
hoa nên những trang hoa của Nguyễn Tuân cũng dạt dào cảm xúc. Dù ở giữa
lòng Hà Nội, mỏm Lũng Cú, hay vùng đất mũi Cà Mau, đến Cô Tô hay lên vùng
Tây Bắc, Nguyễn Tuân đều xúc động khi khám phá được sự kì diệu của thiên
nhiên. Đến với Tây Bắc nhà văn đưa đến cho người đọc những cảm nhận thú vị,
độc đáo. Trong Người lái đò Sông Đà, sông Đà hiện lên như một sinh thể có tên
tuổi, lai lịch, đặc điểm tính cách, với những nét hùng vũ, hoang dại, hung bạo,
dữ dằn, là mối đe dọa với con người nhưng đồng thời lại hiện lên mềm mại, dịu
dàng. Hình ảnh thiên nhiên trong cái nhìn khám phá, cách tạo hình đầy ấn
tượng: cảnh đá bờ sông dựng thành vách, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, quãng
Tà Mường Vát, thác nước….Ta còn bắt gặp ở đó dòng chảy văn hóa tính nữ của
người Việt cùng cách cảm nhận tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ của văn hóa phương Tây
kết hợp hài hòa trong ý thức văn hóa, trong tâm hồn nhà văn. “Con Sông Đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình , đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương
xuân”[6, tr.191]. Người đọc được chiêm ngưỡng một dòng sông êm ái, dịu
dàng, hiền hoà, thơ mộng gợi bao cảm hứng trữ tình, cảm hứng thơ với các du
khách. Con sông Đà đối với nhà văn đã trở thành người bạn rất đỗi thân thiết,
trở thành cố nhân, nên khi đi xa lâu ngày gặp lại cảm thấy vui: “Chao ôi, trông
con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng”[6, tr.191]. Người bạn cố nhân ấy tính khí thất thường thoắt dịu dàng
rồi bỗng chốc cáu bẳn tính…Yếu tố nữ tính ấy cũng hiện diện nhiều trong những
trang viết khác của Nguyễn Tuân làm nên nét mềm mại, duyên dáng bên cạnh
những nét vẽ gân guốc, cứng cỏi.
2.1.2.3. Bài học nhân sinh từ văn hóa tiếp nhận tác phẩm
Qua mỗi một tác phẩm nghệ thuật nhà văn luôn muốn gửi gắm đến bạn
đọc một thông điệp cuộc sống. Càng là các nghệ sĩ lớn thì bài học nhân sinh
24
được truyền tải càng có ý nghĩa sâu xa.Với đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng cảm quan sinh động và cụ thể, mang dấu ấn chủ quan của người
nghệ sĩ, văn học là tấm gương phản chiếu xã hội, là sản phẩm của sự nhận thức
thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật chỉ có giá trị khi nghệ sĩ
dùng nó để miêu tả và bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến cảm xúc của
công chúng, định hướng thẩm mỹ và định hướng nhân cách cho công chúng.
Với ý nghĩa đó, văn học là một phương tiện quan trọng dùng ảnh hưởng của nó
hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. Song để ảnh hưởng đến mức cao nhất,
văn học không thể tác động một cách chung chung, trừu tượng mà cần tạo nên
những kinh nghiệm, những tấm gương về tư cách người, những điển hình văn
học bất hủ. Arixtốt đề cao sự thanh lọc hóa tâm hồn của con người, J.Locke nói
đến sự phản tỉnh, Hêghen đề cập quá trình tự nhân đôi của con người qua tác
động của thế giới nghệ thuật. Ở đề tài này tôi muốn đi sâu hơn vào quá trình con
người tự làm mình tốt lên, hoàn thiện hơn dưới sự tác động của văn học. “Cái
đẹp cứu rỗi nhân loại” (Đôxtôiépxki), văn học đã cứu rỗi con người.
Độc giả dễ dàng nhận thấy những bài học nhân sinh mà mà tác giả gửi gắm
ở tác phẩm Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân. Trong những giây phút thiêng liêng
của cảnh cho chữ, ta thấy có một sự thay bậc đổi ngôi, người tù thì đường
hoàng, ung dung, thanh thản trong khi viên quản ngục và thầy thơ lại đại diện
cho công lý thì lại “khúm núm”, “run run bưng chậu mực”. Đó là những cử chỉ
của sự ngưỡng vọng, thán phục , lòng kính mến, tôn thờ cái đẹp, tôn thờ người
nghệ sĩ văn hóa. Không chỉ thế, người đọc còn nhận ra những giá trị văn hóa có
sức cảm hóa khiến con người sống tốt đẹp hơn. Trong tự thuật Nhà Nguyễn,
Nguyễn Tuân khẳng định: “Đứng trước một cái chân tài thì người khinh bạc đến
đâu cũng trở nên trung hậu”. Huống chi người quản ngục, viên thơ lại – là
những người có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí.
Ông Huấn được ngợi ca ở cả cái tài và cái tâm. Cái tâm của ông Huấn rực
rỡ, chiếu sáng lên toàn bộ cuộc đời ông, chi phối hành động lớn nhỏ của ông.
Trong đời thường, trừ chỗ tri kỉ, ít khi ông cho chữ. Ông cho chữ viên quản ngục
25
không phải để trả ơn người đã biệt đãi mình, đã dâng rượu thịt cho mình trong
những này ảm đạm cuối cùng. Ông cho chữ viên quản ngục vì cảm động và trân
trọng một nhân cách cao quý: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các
người…”[7, tr.113]. Với Huấn Cao việc phụ một tấm lòng trong thiên hạ là điều
không thể tha thứ cho mình được. Ông đã đem tấm lòng tri âm để đáp lại một
bậc tri kỉ. Một lẽ sống hiện ra: Sống là phải xứng đáng với những tấm lòng, phụ
một tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ.
Trong giây phút cuối của đời mình ông dành thời gian viết chữ tặng viên
quan ngục. Ta xúc động trước những lời khuyên chân thành của Huấn Cao “ta
khuyên thầy quản nên chuyển chốn ở đi, chỗ này không phải là nơi để treo một
bức lụa trắng… cái đời lương thiện đi”[7, tr.114]. Lời khuyên ấy cùng với tấm
lụa trắng, dòng chữ kia, ánh sáng từ thiên lương Huấn Cao đã có sức soi rọi, tỏa
sáng, viên quản ngục, thấy thơ lại trong phút chốc bừng tỉnh, như được giáo hóa.
Cái phần thiện, phần tốt đẹp, những thanh âm trong trẻo bấy lâu nay bị khuất
lấp, trong giây phút đặc biệt này được khơi gợi, bừng sáng lên. Ta hiểu sau cái
cúi đầu vái tạ và giọt nước mắt kia thì viên quản ngục và thầy thơ lại chắc chắn
sẽ tìm được cái đời lương thiện. Cảnh cho chữ đâu phải là một cảnh cho chữ
bình thường mà là một cuộc thọ giáo thiêng liêng, một cuộc chuyển giao nhân
cách. Ánh sáng văn hóa, ánh sáng cái đẹp đã làm rung động, cải tạo những gì
đang vươn tới nó.
Huấn Cao là một hình tượng đẹp với bóng dáng lồng lộng, đầy khí phách
và tài hoa trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn Cao – một
người vừa có tài, vừa có tâm, hiên ngang bất khuất trước cái ác, cái xấu nhưng
mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp, Nguyễn Tuân thể hiện quan điểm thẩm mĩ
của nhà văn. Với ông, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau, một nhân
cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài. Đây là một quan
điểm thẩm mĩ tiến bộ.
Một nhân vật hướng thiện không thể không nhắc đến chính là viên quản
ngục. Tuy không là nghệ sĩ, không làm nghệ thuật, lại chọn nghề tiểu lại giữ tù
26
nhưng viên quản ngục là người có tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt ham mê thư pháp,
biết quý trọng cái đẹp cái tài. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn
sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có
chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê
cái đẹp. Sống trong cảnh đề lao – nơi ngự trị của bóng tối, cái ác, cái xấu, viên
quản ngục vẫn ôm ấp trong lòng mình một sở nguyện “là có một ngày kia được
treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Một nhân vật
đáng quý được Nguyễn Tuân coi là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một
bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Cùng với thầy thơ lại, viên quản
ngục được xây dựng vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng, lung linh như huyền thoại của
Huấn Cao vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người được cái thiện dẫn đường,
mong muốn một hi vọng không lầm đường lạc lối. Qua nhân vật, nhà văn muốn
gửi gắm quan niệm về con người và cái đẹp. Theo Nguyễn, trong mỗi con người
đều có một người nghệ sĩ, đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài; mỗi con
người đều có thiên lương và phần thiên thần. Nhà văn cũng cho rằng: Có khi, có
lúc, cái đẹp tồn tại trong môi trường của cái ác, cái xấu, nhưng nó không vì thế
mà lụi tàn, trái lại, nó càng mạnh mẽ và bền bỉ.
Tùy bút Người lái đò sông Đà lại mang đến cho ta niềm tin về sức mạnh
của người lao động, những con người bình dị mà Nguyễn Tuân gọi là “chất
vàng mười đã qua thử lửa” của mảnh đất Tây Bắc. Ông đò hiện lên với vẻ đẹp
trí dũng, thông minh, dũng cảm, tài ba, là một tay lái ra hoa trên dòng sông Đà.
Con người có sức mạnh của ý chí, nghị lực phi thường có thể vượt qua những
phong ba bão táp của cuộc đời. Hình ảnh ông đò trong trận chiến trên sông Đà
đem đến cho người đọc cảm hứng yêu đời, tin yêu cuộc sống. Dù cuộc đời
không bằng phẳng nhưng nếu có ý chí, chúng ta sẽ vượt qua một cách êm đẹp,
chinh phục thử thách cũng chính là một cách để khẳng định mình. Sông Đà bài
binh bố trận thử thách lòng người. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc
nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra
giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình
27
tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay
cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh
đòn âm vào chỗ hiểm. Ông lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có
đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ
quái.
Ông lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm
thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao,
kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên
cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh hung bạo của thiên nhiên.
Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc mà nhà văn
Nguyễn Tuân kiếm tìm.
2.1.3. Dạy học tác phẩm trong sự liên văn bản với văn bản văn học, văn bản
thuộc các loại hình sáng tác khác
Việc đọc liên văn bản luôn đòi hỏi, kích thích sự sáng tạo của độc giả,
người GV cần tạo cho HS nhu cầu tìm hiểu tính liên văn bản bằng cách tự làm
giàu vốn sống của mình. M.Foucault- một nhà lý thuyết gia từng nhấn mạnh:
“Những biên giới của một cuốn sách không bao giờ rõ ràng[…] thực chất, cuốn
sách bị trói chặt vào một mạng nhện các trích dẫn từ nhiều cuốn sách khác,
những văn bản khác, hay những dòng văn lắng lại trong ký ức thu nhận được,
trong nhiều quá trình đọc trước đây” (Dẫn theo Nguyễn Minh Quân) [20].Trong
khi đó, theo lý thuyết liên văn bản quan niệm văn bản đã được mở rộng, không
còn giới hạn trong sách vở mà được thể hiện dưới nhiều hình, nhiều loại hình
khác nhau: hội họa, điện ảnh, điêu khắc, âm nhạc…Chúng ta thấy rõ ràng, mỗi
văn bản tồn tại trong sự liên hệ với văn bản khác, có thể xuất hiện trước đó hoặc
cùng thời và thực tế thì văn bản lệ thuộc vào những văn bản khác còn nhiều hơn
vào chính người tạo ra nó.
2.1.3.1. Liên văn bản với sự hiện diện một văn bản hay nhiều văn bản trong văn
bản
28
Trong Người lái đò Sông Đà ở lời đề từ của tùy bút, nhà văn đã mượn câu
thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang trào dâng mãnh liệt
trong lòng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” (Wladyslaw BroniewskiBa Lan). Nguyễn Tuân muốn ca ngợi Sông Đà như một công trình nghệ thuật
tuyệt vời của tạo hóa đã ban tặng cho con người. Và bài tùy bút này của ông
cũng như một công trình nghệ thuật ngôn từ – một sáng tạo độc đáo tài hoa mà
Nguyễn Tuân tặng lại cho đời. Đồng thời, cũng ngay từ đầu tác phẩm tác giả đã
gợi dẫn lại hai câu thơ Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu. Đà
giang độc Bắc lưu”. Khi tất cả dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng con
sông Đà lại chảy về hướng Bắc. Nguyễn Tuân muốn bộc lộ sự uyên bác tài hoa
của mình: dùng văn thơ nhìn con sông như một nhà địa lí để thấy được hướng
chảy của nó. Một con sông đầy cá tính gặp một nhà văn phong cách cũng rất lạ
mà Nguyễn Đăng Mạnh đã đóng đanh trong một chữ “ngông” và trên diễn đàn
văn chương Việt Nam xuất hiện những áng văn tuyệt bút viết về sông nước.
Nguyễn Tuân tìm về với dòng sông của câu đồng dao thần thoại “Núi cao sông
hãy còn dài- Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Trong ánh mắt của mọi
người từ xa xưa dòng sông Đà hung bạo dữ dằn, đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người Tây Bắc, phản ứng giận dữ vô cớ với người lái đò sông Đà.
Nhưng dưới con mắt của người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân thì hung bạo dữ dội
cũng là một nét đẹp riêng biệt của dòng Đà giang, của mảnh đất Tây Bắc bên
cạnh vẻ thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp ấy gợi cho ta nhớ đến con đường hành quân
Tây Tiến “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm- Ngàn thước lên cao, ngàn thước
xuống” dữ dằn, đáng sợ, nguy hiểm nhưng lại cũng rất mềm mại, nên thơ “Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi”(Tây Tiến- Quang Dũng).
Đến với sông Đà trong văn Nguyễn Tuân, người đọc không thể nào
quên được những hình ảnh hung bạo, dữ dội của sông Đà: cảnh đá bờ sông,
dựng vách thành, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, những hút nước tại quãng Tà
Mường Vát…Đặc biệt khi mô tả sông Đà với “diện mạo và tâm địa của kẻ thù số
1” Nguyễn Tuân dành hẳn một đoạn văn dài tả mặt đá “nhăn nhúm ngỗ ngược”
29
cách bố trí trận địa “ba hàng” “tiền vệ” “hậu vệ” (như trong bóng đá) boongke
pháo đài (quân sự). Nhà văn đã vận dụng những kiến thức về quân sự, võ thuật,
địa lí, thậm chí cả điện ảnh… cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều
thanh trắc để cuộc chiến của ông lái đò và thác dữ sông Đà hiện lên sống động
trên trang sách. Liên tưởng về âm thanh cũng là nét độc đáo của Nguyễn Tuân
khi gợi lên không khí của trận thủy chiến: Tác giả dùng tri thức về âm nhạc với
bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Tiếng nước thác nghe như là oán
trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”[6, tr.187]… Ta nghe như có ánh lửa bùng bùng
như trận Xích Bích (trong Tam Quốc) hoặc gợi cách đánh của Khổng Minh –
Mạnh Hoạch dùng hoả công tạo được một không gian nghệ thuật cho tác phẩm.
Khi miêu tả trận chiến Nguyễn Tuân chia ra làm ba keo đấu giữa con người với
dòng sông. Trước khi vào trận là màn xưng tên tuổi như kiểu giao chiến trong
truyện Trung Hoa. Ta như đang xem trận đấu võ tự do xem đấu vật: có đá thúc
gối vào bụng và hông có miếng hiểm độc của võ vật như “bóp hạ bộ” (đòn cấm
trong võ vật) đòn tỉa đòn âm. Hoặc vòng thứ hai hình ảnh cưỡi lên ngọn sóng
hùm beo của ông đò gợi ta liên tưởng đến hình ảnh Triệu Tử Long ở trận Đương
Dương một mình xông trận cứu A Đẩu… Nguyễn Tuân nhìn thấy sự hung bạo
của con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông
còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa
điệp trùng của núi rừng Tây Bắc. Miêu tả sự hung bạo của Sông Đà, cũng chính
là thừa nhận đó là một dòng sông có nhiều tiềm lực mà con người có thể khai
thác. Trong bài Bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu cũng đã viết:
“Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy cho điện xoay chiều”
Hơn hai thập kỉ sau lúc tác giả viết kí Sông Đà thì dòng sông Đà đã dần
bị chinh phục để có được ánh sáng rực rỡ hôm nay trên cả nước. Sông Đà hiện
30
lên là một sinh thể có tính cách và cả ngôn ngữ. Vẻ hung bạo ấy là nét riêng của
sông Đà mà không dòng sông nào trên mảnh đất Việt Nam có được.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái vẻ đẹp lãng
mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Một Đà
giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình, vô
cùng kiều diễm. Nguyễn Tuân cảm nhận con sông Đà như một áng tóc của
người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”[6, tr.191]. Những câu văn khiến ta liên tưởng mái tóc chị Hoài (trước
Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân từng có một tập tùy bút Tóc chị Hoài ông
say sưa miêu tả mái tóc đẹp của người thiếu nữ: “Chị Hoài mỗi lúc vừa nằm
xuống rất nhẹ nhàng thì cả một mớ tóc trần cuốn rất chắc ấy đổ tung xuống như
một trận mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như một sải rưỡi ôm lấy gáy,
ấp lấy bả vai”. [24, tr.93]. Ông ca ngợi mái tóc đẹp của một người phụ nữ đẹp
như là tiêu chuẩn của cái đẹp). Vẻ đẹp mềm mại ấy nay được gắn với dòng sông
Đà nó mới thân thương, gần gũi biết bao. Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến
thức du lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như
nhịp chèo khoan thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà. Có đến mười bốn câu văn
Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm
mại. “Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu”[6, tr.192], gợi ta nhớ đến cuộc chia tay của Lý
Bạch và Mạnh Hạo Nhiên giữa mùa hoa khói “Giữa màu hoa khói Châu Dương
xuôi dòng” (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng) – Lý
Bạch. Những áng thơ Đường thi được nhà văn trích dẫn đem đến cho người đọc
cảm giác chìm đắm vào không khí cổ kính, Đường thi, nhưng không mang nỗi
buồn của cảnh chia tay của những người bạn cố nhân, mà lại mang niềm thú vị
tinh nghịch, câu văn như ngậm thơ, ngậm họa.
31
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ…”[6,
tr.191]. Rõ ràng ta có thể thấy đây chẳng khác nào những câu thơ rất đẹp viết
bằng văn xuôi, cứ nhẹ nhàng, sâu lắng và cả một chút dư ba. Một không gian
nghệ thuật “lặng tờ” như ru “ông khách Sông Đà” vào giấc mộng phiêu du. Cái
ý “lặng tờ” được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn người
mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn. Ngược thời gian một thiên niên
kỉ về trước, hai tiếng “lặng tờ” dẫn người đọc trở về với “mấy trăm năm thấp
thoáng mộng bình yên” ( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm). Đã có cái “phẳng
lặng tờ” của con sông trong cổ thi: “Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” nên
mới có cái “lặng tờ” êm như ru của sông Đà mà Nguyễn Tuân cảm mến. Nó đã
làm tiền đề để từ trong sâu thẳm tâm hồn của mình, người nghệ sĩ tài ba Nguyễn
Tuân xuất thần hai câu văn đẹp như một điệp khúc của thơ ca: “Bờ sông hoang
dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích”.[6,
tr.191]. Đó chính là những vần thơ rất đẹp mà Nguyễn Tuân đã đề lên sóng
nước sông Đà. Ta có cảm giác như đoạn thơ như bài thơ trữ tình viết bằng văn
xuôi. Ta ngỡ ngàng như gặp lại phong cách nghệ thuật này trước cách mạng ta
chỉ có ở nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch
tính, không gay cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương
sông Đà, sống hết lòng với sông Đà: Câu thơ của Tản Đà “Dải sông Đà bọt
nước lênh bênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “Một người tình nhân
không quen biết”. Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất
thơ. Chưa có thi sĩ nào viết nhiều và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyễn
Khắc Hiếu. Nguyễn Tuân coi sông Đà là “cố nhân”, nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà
mà ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng? Tản
Đà có 3 bài thơ trường thiên cùng chung một giọng điệu: Thư đưa người tình
nhân không quen biết (1918), Thư trách người tình nhân không quen biết
(1921), Thư lại trách người tình nhân không quen biết (1926). Nguyễn Tuân chỉ
trích 2 câu trong bài thơ thứ hai, trích 2 câu hay nhất, đích đáng nhất, lại vừa
32
hợp cảnh, hợp tình. Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý nghĩa “tri
âm”. “Rượu ngon không có bạn hiền” để cùng nhau “đối tửu”, mơ màng tâm
tình và thưởng ngoạn “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”. Nhờ vậy, đoạn văn
bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Câu thơ ấy
hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng
nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thể có hồn, coi sông Đà
như một bạn đồng hành? Thế là bao nhiêu những vần thơ của các bậc tao nhân
mặc khách chợt ùa về trong tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân. Tình đã nồng
cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, “lắng nghe
những giọng nói êm êm”. Những câu văn đẹp như những vần thơ ấy cứ sống
mãi trong tâm trí người đọc.
Dạy truyện ngắn Chữ người tử tù, người dạy có thể dễ dàng nhận thấy
một hệ thống từ Hán Việt, văn liệu cổ được sử dụng một cách nhuần nhị, hài
hòa. Có lẽ trong nền văn học hiện đại Việt Nam, chúng ta sẽ còn rất khó khăn để
tìm kiếm một nhà văn đặc biệt như Nguyễn Tuân, người biết sử dụng khéo léo
vốn quí của dân tộc và nhân loại để tạo nên vẻ đẹp trang trọng và sự uyên bác
cho ngôn ngữ nghệ thuật của mình. Khi dạy truyện ngắn này, ta có thể liên văn
bản ngay đến bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên khi nói đến nghệ thuật thi pháp,
nói đến tài viết chữ đẹp của Huấn Cao “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông
lắm”. Người xưa nói trong văn có nhạc có họa, điều đó đúng với truyện ngắn
này. Chính nhà văn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại khẳng định các cảnh
tượng đất trời và đời sống trong Vang bóng một thời là: “Có thể làm đầu đề cho
những họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc Việt Nam” [27, tr.384]. Ví như đoạn
vào truyện: “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không.[…] Trong
khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm
tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không
định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên
nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối,
nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”[7, tr.109]… Một đoạn
33
văn mà như “vẽ trước mắt người đọc một họa phẩm bay bướm tài hoa”, “mỗi
câu văn như nốt nhạc trầm bổng trong một bản đàn, tạo nên âm hưởng u hoài,
ngân vang trong lòng người đọc ” [27, tr.411]. Đặc biệt cảnh cho chữ được tạc
dựng bằng nghệ thuật điện ảnh, hội họa, điêu khắc… Mỗi hình ảnh hiện lên sống
động trong lòng người đọc. Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi
liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Ống kính điện ảnh tài hoa đầu tiên từ
bao quát toàn cảnh trại giam tỉnh Sơn đến cận cảnh là buồng giam ông Huấn, từ
từ lướt qua cảnh chật chội, tối tăm, bẩn thỉu của buồng giam, một bó đuốc tẩm
dầu rồi thu hẹp lại quay ba mái đầu chụm lại trên từng con chữ. Cuối cùng là
quay cận cảnh từng người, từng chi tiết một. Thủ pháp điện ảnh đã góp phần đắc
lực thể hiện “cái đẹp cứu rối thế giới”. Bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân
vật kết hợp ngôn ngữ Hán Việt, hình ảnh cổ kính tạo không khí cổ xưa. Bút
pháp dựng cảnh, dựng người, thủ pháp tương phản đạt đến độ điêu luyện, hình
ảnh Huấn Cao hiện lên như khắc như tạc trước mắt người đọc.
Hai chữ “thiên lương” dùng trong truyện ngắn giúp ta liên văn bản với các
tác phẩm của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Cả Nguyễn Tuân và Tản Đà cùng
quan niệm: cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiên lương. Con người được gọi là
đẹp thì trước hết phải có thiên lương. Cái thiên lương ấy, cái lương thiện thiên
phú ấy, vốn được tạo hóa ban cho cùng với hình hài sơ sinh của con người, và
con người phải gìn giữ nuôi lớn nó. Trong Khối tình Tản Đà cho rằng “loài
người hơn loài khác cái thiên lương”. Ông nhận xét về giá trị của thiên lương
đối với con người một cách hóm hỉnh mà sâu sắc: “Thế giới mỗi ngày được tiến
hoá là nhờ có thiên lương của những người hơn người; những người được hơn
người là nhờ có thiên lương hơn người”. Với Nguyễn Tuân thiên lương là cái
đáng quý trọng nhất của con người “Đối với Nguyễn Tuân, cho dù hình sắc có
hoàn hảo đến đâu mà tâm hồn không sáng, thiên lương không lành vững thì
cũng không thể coi là đẹp được”. Hai chữ thiên lương ấy hiện rõ ở hai nhân vật
Huấn Cao, viên quản ngục (Chữ người tử tù). Hành động “vái tên tù một vái”
của viên quản ngục là cái cúi đầu cao cả, làm nên nhân cách con người. Trân
34
trọng thiên lương, Nguyễn Tuân còn nhắc đến trong nhiều tác phẩm của mình
như: Ông huyện Thạch Thành (Gỡ cái vạ vịt) và cụ Thượng (Đèn đêm thu) cũng
là những con người đáng trọng. Ông viết về vẻ đẹp tâm hồn của họ với niềm vui,
phấn khởi nhận ra con người với vẻ đẹp của thiên lương không thể bị vẩn đục vì
hoàn cảnh tăm tối.
Hình ảnh Huấn Cao trong cảnh cho chữ gợi ta nhớ đến Giăng Van-giăng
trong Người cầm quyền khôi phục uy quyền – đoạn hay nhất của bộ tiểu thuyết
Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. Trong đó kẻ có quyền bắt bớ, đánh
đập, xúc phạm con người một cách không thương tiếc là thanh tra mật thám Giave đã bị khuất phục trước ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo, của ánh hào quang
tỏa ra từ Giăng Van-giăng, người hắn truy tìm bao lâu nay. Một sự thay bậc đổi
ngôi chưa từng thấy đã diễn ra trong nhà ngục tỉnh Sơn. Hai cảnh tượng giống
nhau và khác ở bản chất của Gia-ve và quản ngục. Chúng ta thấy rõ trước ánh
sáng của cái đẹp, cái cao cả, cường quyền cũng bị khuất phục, cái đẹp đăng
quang và “cứu vớt con người” (Đôt-xtôi-ep-xki)
2.1.3.2. Dạy học tác phẩm trong thể liên văn bản mở rộng trường liên tưởng
cùng chủ đề văn bản
Dạy truyện ngắn Chữ người tử tù người dạy có thể liên văn bản với đề tài
người tài hoa nghệ sĩ trước cách mạng trong sáng tác của Nguyễn Tuân và các
tác giả khác. Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu biểu cho tập truyện Vang bóng
một thời – một tác phẩm viết về đề tài: Cái Đẹp đến nay chỉ còn “vang bóng”.
Truyện ngắn có cùng chung mạch cảm hứng viết về những người tài hoa, nghệ
sĩ, cái đẹp quá khứ. Văn Tâm đã rất có lí khi cho rằng: Nguyễn Tuân đã “làm cái
việc của một người khơi lại đống tro tàn của dĩ vãng, tìm lại cái đẹp của ngày
qua đã một thời vang bóng”.[25, tr.382]. Người ta có cảm tưởng Nguyễn Tuân
đang vẽ lên một bức tranh thuỷ mặc về những con người đang đi lượm lặt những
nhành hoa cuối mùa để chống lại xã hội Âu hoá, cái xã hội đang huỷ hoại nền
văn hoá cổ truyền của dân tộc.
35
Nguyễn Tuân là một nhà văn có cái Tôi độc đáo, khác người. Ông chịu
ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Về triết học, ông ảnh hưởng của
triết học Niezsche về quan niệm con người siêu đẳng, về văn học, ông ảnh
hưởng của nhà văn Pháp A.Gide khi đề cao vai trò của cá nhân với cộng đồng xã
hội, trong quan điểm về cuộc đời và con người, Nguyễn Tuân tiếp cận tư tưởng
Lão Trang một cách sâu sắc và ảnh hưởng từ người cha – cụ Tú kép Nguyễn An
Lan xem cuộc đời như một cuộc chơi. Trước cách mạng, trước những biến cố
thời cuộc, sóng gió cuộc đời, nhân vật chính trong các sáng tác của Nguyễn
Tuân chủ yếu là các nhà nho cuối mùa, lớp người tài hoa tài tử nhưng “sinh lầm
thế kỉ” lạc lõng giữa cuộc đời. Bên cạnh lớp nhà Nho sống thanh bạch nhàn nhã
trầm tĩnh, ông quan tâm nhiều hơn đến lớp người tài hoa, nghệ sĩ – kiểu nhân vật
này như tấm gương phản chiếu chính người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Biết
yêu quý cái đẹp, luôn tìm cái đẹp trong mọi ngóc ngách của đời sống đã trở
thành mục đích trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trong truyện Đánh
thơ, ông kể về cuộc sống của Mộng Liên, Mộng Huyền, Mộng Thu: “Bằng cái
sắc, bằng tiếng ca, bằng tài tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba
người đàn bà đẹp đã thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời”[24, tr.47]. Những
kẻ sống bằng tình yêu nghệ thuật đã tiêu tan cả cơ nghiệp, cả đời mình vào
giọng hát, tiếng đàn, vào thanh sắc cuộc đời. Trong Chiếc lư đồng mắt cua,
Nguyễn Tuân đã kể về cuộc sống của những kiếp tài tử, giang hồ như nhân vật
Tôi, ông Thông Phu, cô Đào Tâm… Họ là những con người tài hoa, lỡ bước sa
chân vào cuộc sống trụy lạc nhưng bản chất là những lương thiện và khao khát
có một cuộc sống tốt đẹp. Những con người ấy có tài, trọng tài và trọng tình, yêu
quý cái nếp thanh cao, đẹp đẽ của mình, những con người đã tạo ra “Cái đạo của
người tài tử”, sống hết mình vì nghệ thuật. Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người
tử tù hiện lên với cả ba vẻ đẹp của Tài, Dũng, Tâm.
Cùng viết về đề tài người tài hoa có nhân cách, GV có thể liên văn bản
với các văn bản văn học trong chương trình phổ thông như với hình tượng nhân
vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức Phán Sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) “Kẻ sẽ
36
không lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời”, dù bản thân
có phải chịu thiệt thòi nhưng quyết làm theo lẽ phải, chiến đấu đến cùng bảo vệ
quyền lợi cho người tốt, trừ hại cho dân. Cũng có thể liên văn bản với hình
tượng Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng), cả Vũ
Như Tô và Huấn Cao đều là những người nghệ sĩ tài năng, tâm huyết, tạo ra cái
đẹp, có khát vọng cống hiến cho đời, có khí phách, ngạo nghễ trước cường
quyền. Họ đều có một số phận bi kịch không được trọng dụng tài năng trong
một xã hội phong kiến thối nát. Qua nhân vật, mỗi nhà văn bộc lộ quan điểm của
mình về cái đẹp, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Cùng đặt trong
trường liên tưởng ấy, GV có thể dẫn dắt giới thiệu về nhân vật Lorca trong Đàn
ghita của Lorca (Thanh Thảo) mà các em sẽ được học trong chương trình lớp
12. Một nghệ sĩ tài năng, một chiến sĩ cách mạng vĩ đại của đất nước Tây Ban
Nha đã anh dũng hi sinh trước âm mưu của bọn phản động phát xít Phrăngcô.
Cũng có thể mở rộng liên văn bản cùng văn học giai đoạn này (1930- 1945) có
nhiều nhà văn viết về lớp người cũ này bằng nhiều cách tiếp cận và thế giới
quan đa dạng như: Nhà Nho (Chu Thiên), Thanh đạm (Nguyễn Công Hoan), đặc
biệt là tiểu thuyết Lều chõng (Ngô Tất Tố). “Trong tác phẩm của mình, Ngô Tất
Tố đứng trên lập trường của một nhà văn hiện thực phê phán đã ném ra một bức
tranh màu xám với những đường nét tối sẫm về chế độ khoa cử mục nát dưới
triều Nguyễn, đồng thời miêu tả tấn bi kịch đau xót của những nhà nho có tài
trong xã hội phong kiến” [18, tr.55]. Nhưng rõ ràng nhà văn Nguyễn Tuân đã
tạo dấu ấn độc đáo khi viết Chữ người tử tù, người đọc thực sự cảm thấy sống
lại trong bảo tàng cái đẹp, ngưỡng mộ trước những con người có nhân, trí, dũng,
trước những vẻ đẹp thời “vang bóng”.
Khi dạy Người lái đò Sông Đà giáo viên có thể LVB với các tác phẩm có
cùng chủ đề ngợi ca công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta dễ dàng
nhận thấy một tình yêu quê hương xứ sở nồng nàn tha thiết, dù lúc sông Đà
hung dữ hay lãng mạn. Ông đã kì công để chứng minh Đà giang không phải là
sông đen như cái tên Tây láo lếu thực dân Pháp đặt cho dòng sông Đà “Mùa
37
xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại
“lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Ông nhìn sông Đà
như một cố nhân, một người tình chưa quen biết. Tình yêu nồng nàn ấy ông gửi
gắm vào vào thiên nhiên Tây Bắc giống như nhà thơ Chế Lan Viên
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”. (Tiếng hát con tàu)
Tình yêu ấy ông dành trọn vẹn hơn cho con người Tây Bắc. Ông lái đò
không phải là một tay lái đơn thuần mà còn là một tay lái ra hoa. Để chinh phục
được con sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có
tính cách phi thường như “chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng dữ”. Ông chỉ
thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn thác dữ. Ông cũng đã từng tâm sự: “Lái
thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại chân tay và rất
dễ buồn ngủ”. Mười năm đối với đời của một con người không phải thời gian
dài. Thế nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng phải cưỡi thác sông
Đà như cưỡi hổ, phải đối mặt với những trùng vi thạch trận; ngày nào ở nơi ấy
ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng vô cùng mỏng manh. Như vậy, một
người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với gian khổ hi sinh, ông
đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường, một trí nhớ siêu
phàm, khỏe mạnh, khéo léo. Trong trận chiến trên sông Đà, ông lái đò hiện lên
dũng mãnh như một dũng tướng thuở xưa. Cuộc chiến giữa ông đò và thạch trận
Sông Đà không chỉ về sức mạnh mà quan trọng hơn đó còn là cuộc đấu trí nên
đòi hỏi nắm chắc quy luật phục kích binh pháp để phá trận khiến người đọc có
thể liên tưởng bát quái trận đồ Khổng Minh. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên
sông nước. Lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa
nhưng điều quan trọng mà ta cần phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp
trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung chân thực nhất về
vẻ đẹp của con người mới XHCN, những con người sống rất âm thầm, giản dị,
38
sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện
cho tiền tuyến lớn ở miền Nam thành đồng Tổ quốc. Sau Cách mạng, Nguyễn
Tuân tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ngay trong đời của những người dân bình
thường thời hiện đại, ông viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích…
Đó là những con người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người
rất bình dị. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy – một con người bình
thường như muôn nghìn người dân Tây Bắc khác. Nhân vật ông lái đò gợi cho ta
liên tưởng tới anh thanh niên không tên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành
Long. Nhân vật này chỉ hiện ra trong chốc lát ghi nhận lại một ấn tượng, một ký
họa chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt
ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa. Anh sống một mình trên núi cao hai
nghìn sáu trăm mét, công việc của anh là đo đạc, theo dõi, làm các việc phục vụ
cho dự báo thời tiết hằng ngày. Nhưng ở anh có những phẩm chất, lối sống, suy
nghĩ đẹp đáng quý, đáng trân trọng. Họ rất bình dị nhưng cũng lại thầm lặng
cống hiến cho đất nước mà như Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong Đất nước –
Trích trường ca Mặt đường khát vọng
“Họ đã sống và chết
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education