SKKN Xây dựng các công cụ kiểm tra đánh giá phẩm chất và năng lực học sinh cho một số chủ đề Lịch sử thuộc chương trình giáo dục THPT 2006 và 2018
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam hiện nay phát triển trong bối
cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đạt được những tiến bộ phi thường
và thành tựu kì diệu chưa từng thấy trên tất cả các lĩnh vực. Cách mạng khoa
học – công nghệ đã đưa các dân tộc ngày càng tiến lại gần nhau trong xu thế toàn
cầu hóa. Toàn cầu hóa đặt ra cho các quốc gia những đòi hỏi phải tiến hành cải
cách kinh tế, xã hội, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để thích nghi và
phát triển. Vì vậy ở nhiều quốc gia, Giáo dục được đặc biệt coi trọng vì sản
phẩm của Giáo dục là con người mà con người là chìa khóa, là nhân tố quyết
định hàng đầu sự phát triển đất nước.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần tập trung đào tạo thế hệ công dân toàn
cầu vừa giỏi về chuyên môn, có khả năng thích ứng cao vừa tràn đầy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đó chính là nguồn lực nội sinh, là
năng lượng tiềm tàng tạo thành sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong thời kỳ mới.
Đó cũng là thiên chức, là sứ mệnh to lớn, vinh quang của ngành Giáo dục và
Đào tạo. Tuy vậy, trong thời gian qua, bên cạnh những cống hiến to lớn, ngành
Giáo dục nước nhà cũng tồn tại nhiều hạn chế khi việc dạy học, kiểm tra và đánh
giá còn nặng về truyền tải nội dung, đánh giá kiến thức mà chưa tập trung nhiều
đến việc phát triển phẩm chất và năng lực của người học.
Đây thực sự là một thách thức lớn, một rào cản đối với việc hội nhập quốc
tế của Việt Nam trong hiện tại và tương lai bởi một trong những yêu cầu để có
thể thích nghi với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là việc nâng cao nguồn lực
con người nhằm đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng liên tục thay
đổi trong môi trường lao động mới. Vì vậy sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của
nước ta cũng đứng trước sứ mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Điều đó đồng nghĩa với việc nước ta phải
chuyển từ một nền Giáo dục nặng về trang bị kiến thức, kỹ năng cho người học
sang một nền giáo dục giúp phát triển phẩm chất, năng lực, thúc đẩy đổi mới và
sáng tạo cho người học để thích nghi với dòng chảy của các mô hình học tập
mới cùng sự phát triển của khoa học công nghệ.
Mặt khác, do đặc điểm tâm sinh lý cùng thể chất, khả năng, sở trường và
nhu cầu học tập, định hướng nghề nghiệp khác nhau giữa các học sinh nên việc
dạy học, kiểm tra, đánh giá cần đảm bảo sự phân hóa và có lộ trình phù hợp đối
với từng đối tượng người học. Trong khi đó, việc dạy học và cách thức kiểm tra
đánh giá trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu này. Đây cũng là một thực tế đặt ra cấp thiết cần có thay đổi một
cách phù hợp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá, Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức huy động mọi nguồn
lực để thực hiện. Tuy nhiên để sự nghiệp đổi mới Giáo dục thắng lợi thì yếu tố
then chốt là đội ngũ nhà giáo bởi họ là kiến trúc sư của công trình Giáo dục, nếu
chương trình thay đổi mà người dạy không thay đổi thì cũng không thể thành
2
công.
Một trong những môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông hiện
hành và chương trình giáo dục phổ thông 2018 là Lịch sử. Chương trình môn
Lịch sử góp phần giáo dục tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, các phẩm chất, năng lực
của người công dân Việt Nam, công dân toàn cầu phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại; giúp học sinh tiếp cận và nhận thức rõ vai trò, đặc điểm của khoa
học lịch sử cũng như sự kết nối giữa sử học với các lĩnh vực khoa học và ngành
nghề khác, tạo cơ sở để học sinh định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
Trường THPT Giao Thủy được thành lập từ năm 1965. Qua hơn nửa thế kỉ
xây dựng và trưởng thành, THPT Giao Thủy đã trở thành một trong những đơn
vị dẫn đầu ngành Giáo dục và Đào tạo của tỉnh nhà. Cùng với sự phát triển của
đất nước, nhà trường cũng được đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất, chất lượng
đội ngũ được nâng cao. Tuy nhiên, đứng trước sự thay đổi nhanh chóng của tình
hình kinh tế, xã hội và những thách thức mới đặt ra cho ngành Giáo dục, tập thể
cán bộ, giáo viên của nhà trường cần không ngừng tìm tòi, sáng tạo để phát huy
truyền thống dạy tốt – học tốt của nhà trường.
Nhóm giáo viên Lịch sử của trường THPT Giao Thủy với ba thành viên có
thời gian công tác trong ngành Giáo dục từ 10 năm trở nên, tâm huyết, yêu nghề,
có năng lực chuyên môn và đã khẳng định được vị trí trong giới chuyên môn của
tỉnh nhà. Trong thời gian công tác tại trường, nhóm đã đoàn kết, hợp tác chặt
chẽ để phát triển chuyên môn. Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới Giáo
dục, các thành viên trong nhóm đã tích cực, chủ động tự học để nâng cao trình
độ chuyên môn, tích cực nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nhóm Lịch sử trường THPT Giao Thủy đã chủ
động tìm tòi, sáng tạo để xây dựng nên bộ công cụ kiểm tra đánh giá theo định
hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Bộ công cụ được xây dựng
cho các chủ đề có nội dung tương đồng giữa chương trình giáo dục môn Lịch sử
lớp 12 hiện hành và chương trình giáo dục môn Lịch sử bậc THPT 2018 nên vừa
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vừa là bước chuẩn bị có hiệu quả cho tương lai.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
a. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
Việc kiểm tra đánh giá học sinh thiên về kiến thức và kĩ năng nên các công
cụ kiểm tra đánh giá chủ yếu là câu hỏi trắc nghiệm và tự luận. Nội dung kiểm
tra là tái hiện kiến thức đã học. Việc đánh giá học sinh chỉ do giáo viên thực
hiện, chưa có sự tham gia của các lực lượng khác. Học sinh được đánh giá thông
qua điểm số. Trong quá trình đánh giá giáo viên luôn so sánh các học sinh với
nhau.
b. Phân tích ưu điểm, nhược điểm:
Ưu điểm:
3
Việc dạy học Lịch sử của nhà trường trong nhiều năm qua đạt chất lượng
khá cao so với mặt bằng chung của tỉnh. Nhiều học sinh của nhà trường đạt
thành tích xuất sắc trong các kì thi chọn HSG của tỉnh và thi đỗ vào các trường
Đại học danh tiếng trong cả nước.
Nhược điểm:
– Việc kiểm tra đánh giá học sinh chủ yếu là về nội dung kiến thức và một
số kĩ năng cơ bản vì vậy học sinh chủ yếu học thuộc kiến thức.
– Chưa đánh giá được sự sáng tạo của học sinh, chưa khuyến khích học sinh
phát triển tư duy độc lập theo cách nghĩ riêng.
– Chưa kết nối có hiệu quả giữa học và hành, nhất là việc vận dụng kiến
thức lịch sử để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, vì vậy học sinh
chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc học Lịch sử thậm chí chán học
do phải học thuộc nhiều mà không có kết quả cao.
– Việc đánh giá học sinh chưa được thực hiện theo một quá trình thường
xuyên trên lớp, chưa đa dạng về công cụ mà chủ yếu dựa vào các bài kiểm tra
với những câu hỏi thuộc hai hình thức trắc nghiệm và tự luận. Điểm số là thước
đo và cơ sở duy nhất để đánh giá và so sánh người học với nhau. Việc đánh giá
đều do giáo viên thực hiện theo quy định chung, học sinh nếu có tham gia đánh
giá lẫn nhau và tự đánh giá thì đa số mang tính hình thức và chỉ để tham khảo.
– Hoạt động kiểm tra đánh giá diễn ra tại lớp học hoặc ở nhà song đều
mang tính cá nhân là chính, hầu như không có sự tương tác đa chiều giữa các
học sinh, giữa học sinh với giáo viên và giữa học sinh với cộng đồng xã hội.
– Sản phẩm để đánh giá là các câu trả lời đóng hoặc mở nhưng đều theo đáp
án của người dạy.
– Việc kiểm tra, đánh giá còn gây nhiều áp lực cho người học.
– Công cụ kiểm tra chưa đa dạng, chưa tạo động lực thúc đẩy học sinh học
tập.
– Học sinh chỉ được đánh giá qua điểm số của các bài kiểm tra, chưa đánh
giá học sinh theo một quá trình, toàn diện và từng nấc thang tiến bộ.
Kết luận: Việc kiểm tra đánh giá như trên đã diễn ra nhiều năm, nó có tác
dụng nhất định trong việc thực hiện mục tiêu của quá trình dạy học. Tuy nhiên,
những hạn chế trên cho thấy việc kiểm tra đánh giá như vậy chưa phù hợp với
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới Giáo dục, chưa tiếp cận được với xu hướng phát
triển của nền Giáo dục ở các nước tiên tiến, tức là chưa bắt kịp với xu thế của
thời đại. Trong khi đó, theo lộ trình, từ năm học 2022 – 2023, chương trình Giáo
dục 2018 đã bắt đầu triển khai thực hiện ở bậc THPT. Thực tế trên cho thấy việc
thay đổi từ tư duy đến hành động thực tiễn của giáo viên trong quá trình kiểm tra
đánh giá học sinh không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là một tất yếu. Điều đó
đồng nghĩa với việc tìm ra giải pháp mới để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn
chế của kiểm tra đánh giá hiện tại là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cao. Đây
4
cũng là sự chuẩn bị quan trọng, đảm bảo cho sự thành công của chương trình
Giáo dục 2018.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Vấn đề cần giải quyết
– Xây dựng được hệ thống đa dạng các công cụ kiểm tra đánh giá theo
hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, chú trọng việc vận dụng kiến
thức Lịch sử để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn và vì sự tiến bộ của
người học, vì một ngôi trường hạnh phúc.
– Lựa chọn được những chủ đề vừa là nội dung cơ bản trong chương trình
lớp 12 hiện hành nhằm giải quyết yêu cầu thực tiễn vừa là nội dung cơ bản của
chương trình giáo dục phổ thông 2018 để chuẩn bị cho việc dạy học chương
trình mới.
2.2. Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ
– Các công cụ kiểm tra đánh giá đa dạng về hình thức, phong phú về nội
dung.
– Kết hợp việc kiểm tra đánh giá kiến thức với việc vận dụng kiến thức để
giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, các nhiệm vụ học tập.
– Việc kiểm tra đánh giá diễn ra trong suốt quá trình học, vì sự tiến bộ của
người học.
– Sản phẩm để đánh giá đa dạng.
– Khuyến khích sự độc lập, sáng tạo trong tư duy.
– Phân hóa, phù hợp với đối tượng.
– Không chú trọng quá vào điểm số, không so sánh học sinh này với học
sinh khác.
– Sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong kiểm tra đánh giá.
– Không gây áp lực cho học sinh.
– Là thước đo chính xác để điều chỉnh quá trình dạy học.
– Tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình kiểm tra, đánh giá.
– Các chủ đề được lựa chọn có độ tương đồng về nội dung trong cả chương
trình giáo dục môn Lịch sử hiện hành và chương trình giáo dục môn Lịch sử
2018 nên vừa mang tính thời sự vừa mang tính ứng dụng cao trong tương lai.
– Việc đánh giá được tích hợp vào trong quá trình dạy học, giáo dục, tức là
chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học, giáo
dục sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, giáo dục, xem đánh giá
như là một phương pháp dạy học hiệu quả.
– Thực hiện đánh giá đa chiều (GV đánh giá kết hợp với HS tự đánh giá,
HS đánh giá chéo).
– Kết hợp đánh giá bằng nhận xét và điểm số, chú trọng nhận xét sự tiến bộ
về thái độ, hành vi, kết quả thực hiện các nhiệm vụ học tập.
2.3. Cách thức thực hiện, các bước và điều kiện triển khai của giải pháp
mới
2.3.1. Cách thức thực hiện
5
– Xác định mục tiêu, nội dung, xây dựng kế hoạch thực hiện giải pháp.
– Phân tích bối cảnh, căn cứ vào thực tiễn dạy học của bản thân và đồng
nghiệp ở nơi công tác, các cơ sở giáo dục khác để rút ra hiện trạng chung và tìm
giải pháp khắc phục hạn chế.
– Căn cứ vào định hướng phát triển Giáo dục của Đảng và nhà nước, chỉ
đạo của các cấp, các ngành về Giáo dục.
– Thu thập, phân tích, xử lý tài liệu, nhất là tài liệu của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, tài liệu của các trường Đại học Sư phạm ban hành.
– Tham vấn các chuyên gia giáo dục, đồng nghiệp ở nhiều cơ sở Giáo dục
để hoàn thiện sản phẩm.
– Đề xuất giải pháp thực hiện.
– Thực nghiệm sư phạm ở nhiều cơ sở giáo dục khác nhau nhằm khẳng
định hiệu quả và khả năng triển khai của giải pháp.
– Đánh giá và rút kinh nghiệm bước đầu quá trình thực hiện giải pháp.
2.3.2. Các bước triển khai
2.3.2.1. Nhận thức đúng về kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học
Theo từ điển Tiếng Việt:
Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá nhận xét”.
Trong giáo dục, “kiểm tra là hoạt động đo lường kết quả học tập/giáo dục
theo bộ công cụ đã chuẩn bị trước với mục đích đưa ra các kết luận, khuyến nghị
về một mặt nào đó của quá trình dạy học/giáo dục tại một thời điểm cụ thể để
điều chỉnh nhằm đạt mục tiêu giáo dục”. (Tài liệu bồi dưỡng GVTHPT cốt cán
của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Đánh giá “là nhận định giá trị”.
Trong giáo dục, “đánh giá được hiểu là cách thức giáo viên thu thập và sử
dụng thông tin trong lớp học của mình nhằm đưa ra phán xét, nhận định, quyết
định để điều chỉnh hoạt động dạy và giúp HS học tập tiến bộ”. (Tài liệu bồi
dưỡng GVTHPT cốt cán của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Như vậy kiểm tra đánh giá là một hoạt động của quá trình dạy học, trong
đó giáo viên hoặc chủ thể quản lí giáo dục sử dụng các công cụ nhằm xem xét
tình hình thực tế, để đo, xác định mức độ đạt được về phẩm chất, năng lực của
người học trong quá trình dạy và học. Kiểm tra và đánh giá có mối liên hệ mật
thiết với nhau. Trong mối liên hệ đó kiểm tra là cơ sở, căn cứ để đánh giá. Muốn
đánh giá chính xác thì khâu kiểm tra giữ vai trò quyết định.
2.3.2.2. Vai trò của kiểm tra đánh giá trong giáo dục
Mặc dù với những mục đích khác nhau, nhưng các hoạt động kiểm tra đánh
giá trong giáo dục đều thực hiện bốn chức năng cơ bản là: định hướng, tạo động
lực, phân loại và cải tiến dự báo.
2.3.2.3. Nguyên tắc khi thực hiện kiểm tra đánh giá trong giáo dục
6
– Đảm bảo tính giá trị: phải đo lường chính xác mức độ phát triển năng lực
người học (đo lường các kĩ năng thành phần, chỉ số hành vi theo chuẩn đầu ra).
– Đảm bảo độ tin cậy: kết quả đánh giá người học ổn định, chính xác,
không bị phụ thuộc vào người đánh giá, những nhiệm vụ ở các lĩnh vực học tập
khác nhau. Kết quả đánh giá phải thống nhất khi được lặp đi lặp lại nhiều lần.
– Đảm bảo tính linh hoạt: thực hiện đa dạng các hình thức, phương pháp
đánh giá để người học có cơ hội thể hiện tốt nhất năng lực của họ (phụ thuộc
vào nhịp độ, thời điểm họ đáp ứng các yêu cầu chuẩn đầu ra của năng lực).
– Đảm bảo tính công bằng: người đánh giá và người được đánh giá đều hiểu
chuẩn, tiêu chí, hành vi đánh giá như nhau; công cụ đánh giá không có sự thiên
vị cho giới tính, dân tộc, vùng miền, đối tượng,… cách phân tích, xử lí kết quả
chuẩn hóa để không bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ cá nhân.
– Đảm bảo tính hệ thống: kết quả đánh giá dự đoán được sử dụng để xác
nhận vùng phát triển hiện có của HS, từ đó lập kế hoạch cho những can thiệp sư
phạm thích hợp; kết quả đánh giá quá trình được sử dụng để điều chỉnh hoạt
động dạy và học theo hướng chuyển sang vùng phát triển gần của mỗi HS; kết
quả đánh giá tổng kết được sử dụng để xác nhận mức độ phát triển năng lực của
HS và lập kế hoạch can thiệp sư phạm cho giai đoạn giáo dục tiếp theo.
– Đảm bảo tính toàn diện: kết quả đánh giá phải phản ánh đầy đủ sự phát
triển của các thành tố và chỉ số hành vi của năng lực được đo lường.
– Đảm bảo tính phát triển: đảm bảo đánh giá được sự tiến bộ so với chính
bản thân HS về năng lực. Qua đó phát triển khả năng chịu trách nhiệm với việc
học tập và giám sát sự tiến bộ của bản thân.
– Đảm bảo đánh giá trong bối cảnh thực tiễn: công cụ đánh giá cần được
thực hiện trong bối cảnh thực (cá nhân, trường lớp, dân cư, khoa học) nhằm
phản ảnh đúng năng lực của người học khi thực hành trong môi trường thực tế.
Để chứng minh người học có phẩm chất và năng lực ở mức độ nào đó, phải tạo
cơ hội để họ được giải quyết vấn đề trong tình huống, bối cảnh mang tính thực
tiễn.
– Đảm bảo phù hợp với đặc thù môn học: mỗi môn học có những yêu cầu
riêng về năng lực đặc thù cần hình thành cho HS, vì vậy, việc KTĐG phải đảm
bảo tính đặc thù môn học nhằm định hướng cho GV lựa chọn, sử dụng phương
pháp, công cụ đánh giá phù hợp với mục tiêu và yêu cầu cần đạt của môn học.
2.3.2.4. Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh trong quá
trình dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.
Phẩm chất: là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con
người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người.
Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn
có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các
kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý
7
chí,… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong
muốn trong những điều kiện cụ thể.
Đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS là
đánh giá theo sản phẩm đầu ra, sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà
chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện
nhiệm vụ học tập nhằm đạt tới mục tiêu/yêu cầu cần đạt nào đó.
Trong chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Việt Nam xác định học
sinh cần đạt các phẩm chất và năng lực sau:
Về phẩm chất:
– Yêu nước.
– Trung thực.
– Chăm chỉ.
– Trách nhiệm.
– Nhân ái.
Về năng lực:
– Tự chủ và tự học.
– Giao tiếp và hợp tác.
– Giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Thành phần năng lực hình thành trong quá trình dạy học môn Lịch sử:
– Tìm hiểu Lịch sử:
+ Nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử; hiểu được nội dung, khai
thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập.
+ Tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các
sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các
sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể.
– Nhận thức và tư duy lịch sử:
+ Giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn
giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và
đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lí giải
được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử.
+ Đưa ra được những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện,
nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự
tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau
khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình
lịch sử.
– Vận dụng: Rút ra được bài học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử
8
để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống; trên nền tảng đó, có khả năng tự
tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận
và xử lí thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch
sử suốt đời.
2.3.2.5. Những yêu cầu đối với quá trình kiểm tra đánh giá môn Lịch sử ở
trường THPT
Đối với giáo viên:
– Nhận thức đúng đắn đặc điểm của kiến thức LS và vận dụng chính xác
các đặc điểm đó trong các hoạt động dạy và học.
– Xác định đúng đắn mục tiêu của quá trình dạy và học, xác định được
chuẩn đầu ra trong quá trình dạy học đồng thời tìm ra con đường chung để đạt
được mục tiêu đó.
– Chỉ kiểm tra đánh giá những đơn vị kiến thức cơ bản.
– Việc kiểm tra đánh giá phải nhằm phát triển các phẩm chất, năng lực
chung và năng lực chuyên biệt cho HS.
– Việc kiểm tra đánh giá phải đảm bảo tính vừa sức đối với HS.
– Việc kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính liên tục, hệ thống và kế thừa.
– Gắn kiểm tra đánh giá với đời sống của xã hội, xu thế của thời đại.
– Chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra đánh giá. Kế hoạch được xây dựng
khoa học trên cơ sở nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung chương trình của môn học
Lịch sử và chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
– Chuẩn bị mọi điều kiện cho việc kiểm tra, đánh giá.
– Luôn đánh giá, rút kinh nghiệm, sẵn sàng lắng nghe và kịp thời điều chỉnh
việc kiểm tra đánh giá cho phù hợp với đối tượng, tính chất, yêu cầu về mức độ.
– Kết nối kiểm tra, đánh giá với quá trình dạy học.
– Tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong quá trình kiểm tra, đánh giá.
– Xây dựng được bộ công cụ kiểm tra đánh giá phù hợp.
Đối với HS: Chủ động, tự giác, tích cực, trung thực, trách nhiệm trong quá
trình kiểm tra đánh giá.
2.3.2.6. Phân loại kiểm tra đánh giá nhằm phát triển phẩm chất và năng lực
học sinh.
– Xét theo quy mô đánh giá sẽ phân ra hai loại: Đánh giá trên diện rộng và
Đánh giá trong phạm vi hẹp, chủ yếu là dạng Đánh giá trong lớp học. Đánh giá
trên diện rộng là loại hình đánh giá thường triển khai trên một số lượng lớn HS
(mẫu đủ lớn) nhằm cung cấp các thông tin về kết quả học tập ở một số lĩnh vực
để các nhà quản lí có cơ sở ra những quyết định về chính sách giáo dục. Thiết kế
và phân tích kết quả của kỳ đánh giá này thường do các chuyên gia giáo dục
9
đảm nhận. Đánh giá trong phạm vi hẹp (đánh giá trên lớp học) là loại hình đánh
giá thường xuyên, diễn ra trong quá trình học tập, với phạm vi của một lớp học
do GV tiến hành bằng nhiều cách thức khác nhau; thường là việc ra những quyết
định về dạy học, bất chợt xuất hiện trong giờ học, nhằm trợ giúp việc học tập
của HS. Đánh giá ở đây là chủ quan, không cần nghi thức, đánh giá trực tiếp dựa
trên cơ sở thực hiện của HS trong những tình huống thực tiễn, ở đó HS chứng
minh được sự thành thạo của mình. Loại đánh giá này nhằm cung cấp thông tin
và giúp nâng cao chất lượng dạy học, thúc đẩy sự tiến bộ của mỗi HS.
– Xét theo quá trình học tập sẽ có 3 loại đánh giá tương ứng với đầu vào,
quá trình học tập và đầu ra (kết thúc quá trình dạy học). Đánh giá đầu vào, còn
gọi là Đánh giá chẩn đoán/Đánh giá thăm dò): thường được thực hiện khi bắt
đầu một giai đoạn giáo dục/học tập, nhằm cung cấp hiện trạng ban đầu về chất
lượng HS, giúp GV nắm được tình hình để có phương hướng, kế hoạch giáo dục
phù hợp. Đánh giá quá trình (còn gọi là Đánh giá hình thành, Đánh giá định
hình): được thực hiện thường xuyên trong suốt quá trình học tập/giáo dục. Mục
tiêu, nội dung, cách thức… đều giống với dạng đánh giá trong lớp học nêu ở
trên. Đánh giá kết thúc (còn gọi là Đánh giá tổng kết): thường được tiến hành
sau một giai đoạn giáo dục/học tập nhằm xác nhận kết quả ở thời điểm cuối của
giai đoạn đó.
– Xét theo mục tiêu dạy học sẽ có hai loại: Đánh giá để cải tiến việc học tập
và Đánh giá kết quả học tập. Loại thứ nhất diễn ra trong suốt quá trình học tập,
kết quả đánh giá không nhằm mục đích công nhận chứng chỉ, bằng cấp mà nhằm
thu thập thông tin phản hồi về chất lượng học tập của HS, từ đó cải thiện cách
dạy và học, giúp HS tiến bộ. Loại thứ hai thường thực hiện vào cuối mỗi giai
đoạn học tập, nhằm mục đích xếp loại và công nhận chứng chỉ, bằng cấp, tuyển
dụng.
Như vậy, dù xuất phát từ tiêu chí phân loại và tên gọi khác nhau, nhưng các
loại hình đánh giá có quan hệ mật thiết. Đánh giá lớp học, đánh giá trong quá
trình và đánh giá để cải tiến việc học tập là khá giống nhau. Tương tự, đánh giá
ban đầu, đánh giá kết thúc, đánh giá ở các kì thi và đánh giá kết quả học tập là
cùng loại.
2.3.2.7. Quy trình kiểm tra đánh giá sản phẩm giáo dục theo hướng phát
triển phẩm chất, năng lực
Theo tài liệu tập huấn giáo viên THPT cốt cán của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
quy trình kiểm tra đánh giá sản phẩm giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất,
năng lực gồm:
Bước 1: Phân tích mục đích đánh giá, mục tiêu học tập sẽ đánh giá: các
mục tiêu về phẩm chất; năng lực chung; năng lực đặc thù.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá:
– Xác định thông tin, bằng chứng về phẩm chất, năng lực.
10
– Phương pháp, công cụ để thu thập thông tin, bằng chứng về phẩm chất,
năng lực…
– Xác định cách xử lí thông tin, bằng chứng thu thập.
Bước 3. Lựa chọn, thiết kế công cụ kiểm tra, đánh giá:
– Câu hỏi, bài tập, bảng kiểm, hồ sơ, phiếu đánh giá theo tiêu chí…
Bước 4: Thực hiện kiểm tra, đánh giá:
– Thực hiện theo các yêu cầu, kĩ thuật đối với các phương pháp, công cụ đã
lựa chọn, thiết kế nhằm đạt mục tiêu kiểm tra, đánh giá, phù hợp với từng loại
hình đánh giá: GV đánh giá, HS tự đánh giá, các lực lượng khác tham gia đánh
giá.
Bước 5. Xử lí, phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá:
– Phương pháp định tính/ định lượng.
– Sử dụng các phần mềm xử lí thống kê…
Bước 6. Giải thích và phản hồi kết quả đánh giá:
– Giải thích kết quả, đưa ra những nhận định về sự phát triển của người học
về phẩm chất, năng lực so với mục tiêu và yêu cầu cần đạt.
– Lựa chọn cách phản hồi kết quả đánh giá: sử dụng điểm số, nhận
định/nhận xét, mô tả phẩm chất, năng lực đạt được…
Bước 7. Sử dụng kết quả đánh giá trong phát triển phẩm chất, năng lực HS:
– Trên cơ sở kết quả thu được, sử dụng để điều chỉnh hoạt động dạy học,
giáo dục nhằm phát triển phẩm chất, năng lực HS; thúc đẩy HS tiến bộ.
2.3.2.8. Các hình thức kiểm tra đánh giá
– Các hình thức kiểm tra: trắc nghiệm, tự luận, thực hành, sản phẩm…
– Các hình thức đánh giá: đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì.
2.3.2.9. Các phương pháp kiểm tra đánh giá
– Nhóm các phương pháp kiểm tra viết: là bài làm trên giấy hoặc trên máy
tính.
– Nhóm các phương pháp quan sát: quan sát quá trình diễn biến của hành vi
để đánh giá sản phẩm. Trong quan sát có thể sử dụng quan sát chính thức và
định trước hoặc không chính thức, không định sẵn.
– Nhóm phương pháp hỏi đáp: hỏi đáp gợi mở, hỏi đáp củng cố; hỏi đáp
tổng kết: hỏi đáp kiểm tra.
– Nhóm phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập: hồ sơ quá trình, hồ sơ sản
phẩm.
– Nhóm phương pháp đánh giá sản phẩm học tập: Dự án, sản phẩm nghiên
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education