Tag: cách học

  • Làm thế nào để học tốt môn Toán?

    Làm thế nào để học tốt môn Toán?

    Cách học giỏi Toán cho người mất gốc, làm sao để học giỏi Toán, cách học giỏi Toán nhanh nhất… là những câu hỏi mà rất nhiều học sinh và phụ huynh thắc mắc. Chúng tôi xin được giới thiệu bài viết Làm thế nào để học tốt môn Toán? của thầy Trần Nam Dũng – ĐHQG TP HCM.

    ——

    Có rất nhiều bạn đã hỏi tôi câu hỏi đó. Đó có thể là một học sinh, một sinh viên, một phụ huynh và thậm chí một giáo viên. Câu hỏi mà rất nhiều người quan tâm.

    Đây thực sự là một câu hỏi khó. Thực sự thì không có một công thức thành công nào áp dụng được cho mọi đối tượng. Ở đây tôi sẽ cố gắng, bằng các quan sát và trải nghiệm của mình, đưa ra một số chỉ dẫn chung.

    Làm thế nào để học tốt môn Toán?

    Làm thế nào để học tốt môn Toán?

    Hãy hiểu chứ đừng chỉ ghi nhớ và lặp lại

    Muốn học tốt thì phải nhớ công thức, quy tắc. Nhưng đừng có chỉ nhớ cơ học các công thức, quy tắc, quy luật mà không hiểu nó. Mà muốn hiểu, bạn phải luôn đặt câu hỏi: tại sao? Tại sao diện tích hình chữ nhật lại bằng chiều dài x chiều rộng, còn diện tích hình thang là đáy lớn cộng đáy nhỏ nhân chiều cao chia 2? Nếu bạn hiểu, bạn sẽ dễ dàng nhớ, dễ dàng áp dụng và dễ dàng khám phá ra những điều chưa từng được học. Đừng bao giờ chấp nhận một điều gì đó mà chưa hiểu nó.

    Hãy luyện tập vừa đủ

    Bạn phải thường xuyên luyện tập để cũng cố kiến thức, kỹ năng. Nhưng để có đủ thời gian cho bao nhiêu là chuyện, bạn phải biết thế nào là vừa đủ. Chẳng hạn, khi học hằng đẳng thức, thầy giáo cho bạn gần 10 bài tập chỉ để luyện tập cho cái hằng đẳng thức (a+b)^2 = a^2 + 2ab + b^2. Kiểu như là (2x + y)^2, (3a + 5b)^2, (x + ½)^2 … thì bạn sẽ làm các bài tập này cho đến khi bạn thốt lên: thì nó giống nhau hết mà, sao phải làm nhiều thế! Lúc đó, bạn có thể dừng lại rồi đó. Và tôi tin, lúc đó bạn còn có thể khai triển cho cả (a – b)^2, (a + b + c)^2 …

    Hãy dành thời gian cho tự học

    Có bạn đi học thêm rất nhiều. Bài tập thì có gia sư giải giúp. Như thế thực sự sẽ ít hiệu quả. Gia sư, nếu có, chỉ nên là người giảng giải lại những điều mình chưa hiểu và hướng dẫn, gợi ý cho các bài tập khó. Còn lại nhân vật chính phải là mình. Một bài tập do chính bạn làm ra sẽ có ích hơn 10 bài tập do bạn chép từ trên bảng. Chưa có ai giỏi toán chỉ nhờ chép bài giải của người khác.

    Hãy làm việc chậm rãi, cẩn thận

    Đừng bao giờ vội vàng và qua quýt. Vội là sẽ dễ sai, mà sai một chỗ là sẽ kéo theo sai hàng loạt, đến lúc sửa lại còn tốn thời gian hơn. Học toán thì điều đầu tiên cần chú ý là sự chính xác, sau đó mới luyện đến tốc độ. Sự cẩn thận cũng giúp bạn hiểu rõ vấn đề chứ không phải hiểu loáng thoáng. Có nhiều bạn do vội vàng nên nghe thầy giảng hay hướng dẫn vừa chớm hiểu đã xua tay cho qua, không làm bài đến nơi đến chốn, đến lúc lâm trận gặp khó không xử lý được. Trong học tập, bạn hãy bắt chước con rùa chứ đừng bắt chước con thỏ trong câu chuyện ngụ ngôn.

    Đừng tham số lượng bài tập

    Có rất nhiều quan điểm cho rằng muốn giỏi toán phải giải rất nhiều bài tập. Cái này cũng có phần đúng. Nhưng giải nhiều mà không biết cách thì cũng chẳng có ích lợi gì. Bạn không nên học cách giải của từng bài toán một mà bạn phải học cách tiếp cận cho một lớp bài toán. Muốn vậy bạn phải biết so sánh, phân loại. Cách đây nhiều năm, có lần một bạn học sinh trong giờ học của tôi lúi húi làm việc riêng. Tôi đến hỏi thì bạn ấy nói đang làm bài tập trên lớp cho ngày mai. Tôi lấy tờ đề thì thấy gần 50 cái phương trình vô tỷ. Tôi hỏi “Thầy bắt các em làm hết 50 bài này?”. “Dạ vâng”. Tôi nói “Không cần thiết, theo tôi, em chỉ cần biết cách làm 5 bài này là đủ”. “Nhưng thầy em nói phải giải hết”. Tôi bày cho em là hôm sau gặp thầy em cứ tự tin nói “Em mới chỉ giải 5 bài này, nhưng em tự tin em có thể giải bất kỳ bài nào trong 45 bài còn lại. Thầy cứ giao cho em, em làm được ngay”. Sau này bạn nhỏ này học rất tốt trong giờ của tôi, vì bạn không bị áp lực làm bài tập nữa.

    Học tập khám phá

    Học toán là học tư duy, học quá trình đi đến lời giải, đi đến công thức. Đừng tự đánh mất đi niềm vui khám phá của mình bằng cách học trước các công thức, các mẹo giải. Hãy mạnh dạn giải những bài toán mà thầy cô chưa từng dạy cho mình. Hãy để thời gian suy nghĩ trước một bài toán thay vì nóng vội đọc lời giải. Xin nhắc lại, đọc 10 lời giải không có ích bằng tự mình tìm ra một lời giải.

    Khám phá trong toán học cũng bắt đầu từ thí nghiệm, tính toán, quan sát, nhận xét, phát hiện ra quy luật, phát biểu thành giả thuyết, giải thích hoặc chứng minh giả thuyết đó. Bạn hãy thử làm bài toán tính tổng 1^3 + 2^3 + 3^3 + … + 100^3 bằng quá trình như trên xem. Tôi tin là bạn sẽ thành công và bạn sẽ rất vui với khám phá của mình (mặc dù có thể bạn sẽ không đủ sức chứng minh kết quả bạn tìm ra. Nhưng không sao, một sự “không thể” cũng là một động lực để bạn tìm hiểu thêm). Trong toán học, luôn có rất nhiều những điều thú vị như thế chờ bạn khám phá.

    Học nhóm

    Học nhóm là một cách học hiệu quả. Có rất nhiều những bài tập, vấn đề mà trong lời giải cần có những ý kiến, giải pháp, cần có sự kiểm tra, phản biện để dần dần tìm ra hướng đi đúng. Những lúc như thế, hoạt động nhóm sẽ rất phù hợp. Trong học nhóm, một bạn khi tìm được lời giải có thể giảng lại cho các bạn khác hiểu. Mà trong việc học thì dạy là một trong những cách học tốt nhất. Để có được một lời giải hài lòng ban giám khảo thì trước hết bạn phải giải thích được cho bạn mình. Và những người bạn, bằng các câu hỏi hay phản biện sẽ giúp bạn hoàn thiện khả năng trình bày của mình, sửa những lỗi sai, bổ sung những chỗ còn làm tắt.

    Cuối cùng, học nhóm cũng tạo ra những kỷ luật cần thiết trong học tập cho các thành viên, đặc biệt nếu có một nhóm trưởng trách nhiệm và biết cách động viên các bạn cùng nhóm.

    Hãy chăm chỉ và hãy… lười biếng

    Bạn sẽ bật cười. Tại sao lại khuyên tôi hai thái độ trái ngược nhau. Chăm chỉ thì đúng rồi, muốn học tốt phải chăm chỉ luyện tập, chăm chỉ suy nghĩ, chăm chỉ khám phá, áp dụng. Nhưng tại sao lại khuyên lười biếng? Chẳng phải nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói “Trên đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”?

    Bạn hãy bình tĩnh. Không có gì mâu thuẫn ở đây cả. Chăm chỉ thì rõ rồi, còn lười biếng ở đây nghĩa là lười làm những việc mang tính lặp đi lặp lại, dễ nhưng lại mất nhiều thời gian. Ví dụ gặp câu đố viết các chữ V I E T N A M V I E T N A M V I E T N A M … liên tiếp nhau, hỏi chữ cái thứ 1000 sẽ là chữ cái nào thì người “chăm chỉ” sẽ viết ra đủ 1000 chữ cái rồi kiểm tra xem chữ cái thứ 1000 là chữ cái nào, còn người “lười biếng” sau khi viết được vài chục chữ cái sẽ nói “chắc là mình phải tìm cách khác chứ không lẽ viết cả nghìn chữ cái sao?”. Và bạn “lười biếng” này sẽ tìm ra một lời giải ngắn gọn và sáng tạo. Đương nhiên, chúng ta không nói đến những bạn lười biếng thật, tức là những bạn bỏ luôn không làm . Bạn bắt buộc phải giải bài tính tổng 1 + 2 + 3 + … + 100. Nếu bạn lười biếng, bạn sẽ bỏ không làm. Nếu bạn chăm chỉ, bạn sẽ cộng từ từ 1 + 2 = 3, 3 + 3 = 6, 6 + 4 = 10 … thì cũng ra, nhưng nếu bạn “lười biếng” thì có thể bạn sẽ nghĩ ra cái cách xuất thần như cậu bé Carl (Gauss) đã làm năm xưa: 1+100 = 2 + 99 = … = 50 + 51 = 101, 50 X 101 = 5050.

    Như vậy, cái lười biếng mà tôi muốn nói ở đây là như vậy, lười làm việc mà người ta gọi là routine, không khó mà lặp đi lặp lại rất tốn thời gian. Chứ còn việc thì vẫn phải làm. Những lúc như thế chắc chắn sẽ nảy ra sáng tạo. Mà sáng tạo là mức cao nhất của quá trình học.

    Cho nên hãy biết chăm chỉ nhưng cũng cần biết lười biếng.

  • Làm sao để con học giỏi Văn?

    Làm sao để con học giỏi Văn?

    Hướng dẫn con cách quan sát

    Cuộc sống hàng ngày có muôn màu sắc để con khám phá, nhưng không phải đứa trẻ nào cũng biết cách cảm nhận. Đôi khi vì quá bận rộn, mệt mỏi với công việc, cha mẹ cũng bỏ quên những khoảnh khắc để trải nghiệm cùng con.

    Làm sao để con học giỏi Văn?

    Do đó, việc đầu tiên cần làm chính là hướng dẫn con cách quan sát những điều diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Cảnh vật, âm thanh, những rung động tuổi mới lớn, tình bạn, áp lực học tập, các mối quan hệ trong gia đình… đều là những tư liệu đáng giá vun đắp tâm hồn cho con.

    Cho con đọc sách ngay từ nhỏ

    Đọc truyện là một trong những cách tốt nhất giúp bé học tốt môn tập làm văn. Bởi trong truyện thường có ngôn ngữ đa dạng. Thông qua đó, các bé có thể tiếp cận và học thêm được nhiều từ mới và áp dụng trong từng hoàn cảnh và bài viết khác nhau.

    Làm sao để con học giỏi Văn?

    Do đó, để con học tốt văn, diễn đạt giàu hình cảnh, cảm xúc, cha mẹ cần giúp con mở rộng vốn từ. Ngay từ nhỏ, cha mẹ hãy rèn luyện cho con thói quen đọc sách. Bắt đầu từ việc đọc sách cho con nghe khi con còn nhỏ, đến việc yêu cầu con dành ra 30 phút mỗi ngày khi con bắt đầu biết đọc.

    Ba mẹ có thể tham khảo 20 câu chuyện kể hằng đêm cho bé hoặc 15 truyện cổ tích tiếng Anh cho bé.

    câu chuyện kể hằng đêm cho bé rùa và thỏ

    Cha mẹ hãy cho con đọc nhiều loại sách khác nhau, từ Văn học, Nghệ thuật, Lịch sử đến sách Khoa học, Phát triển kỹ năng,… Ngoài ra, cần hạn chế cho con đọc truyện tranh. Cô Thu cũng nói thêm: “Truyện tranh thường sử dụng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ tối giản, nên không thể giúp trẻ mở rộng vốn từ”. Do đó, cha mẹ hãy trang bị cho con những cuốn truyện chữ, phù hợp với lứa tuổi và thị hiếu của những đứa trẻ.

    Thường xuyên trò chuyện với con

    Trò chuyện với con để thúc đẩy khả năng ngôn ngữ. Đối với những sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày, chắc chắn bố mẹ và con sẽ cùng đi đến đâu đó, sau những khoảng thời gian như thế, bố mẹ hãy cùng con kể về những thứ mình đã thấy.

    Làm sao để con học giỏi Văn? 1

    Lúc đi chợ con người có gì khác, các bạn ở trên lớp lại như thế nào, các ông/bà ở công viên thì ra sao? Những người cùng đi du lịch thì cảm nhận được tâm trạng thế nào? Hãy cùng con thi kể về những thứ mình đã nhìn thấy xem ai quan sát nhiều hơn. Các chủ đề về thiên nhiên, cây cối, con người,… là những chủ đề muôn thủa bố mẹ không khai thác hết. Sau cùng, hỏi con về điều gì gây ấn tượng nhất với con theo chủ đề đó (cảm xúc yêu thích hoặc ngược lại), vì sao con lại cảm thấy thế?

    Việc trò chuyện với con thường xuyên không chỉ làm khăng khít hơn tình cảm của con cái với bố mẹ, mà còn từ đó giúp con có cái nhìn rộng mở về thế giới xung quanh. Nhận ra được sự khác biệt phong phú của môi trường sống là tiền đề giúp con hoc tốt môn văn.

    Thay đổi nhiều cách thức nói chuyện với con, mẹ – con, bạn – con ( cách nói như một người bạn của con, để con bớt đi khoảng cách, cũng như thoải mái kể cho mẹ nghe).

    Thường xuyên nói chuyện, và cung cấp thêm cho con các vốn từ. Thay vì nói chuyện thường ngày, các bà mẹ cũng nên đọc thêm sách, để dùng các từ trong văn học. Cách nói chuyện gãy gọn, sinh động, để con có thể nhiều vốn từ mới.

    Cho trẻ viết những gì trẻ muốn

    Sau khi hướng dẫn con cách quan sát, bố mẹ hãy yêu cầu con ghi chép lại những thứ con thấy và cảm xúc con đã có, có thể cho con ghi nhật ký. Bố mẹ cũng nên ghi chép vào sổ tay của mình, việc thi đua và có sự so sánh sẽ giúp con hứng khởi hơn rất nhiều so với việc làm mọi thứ một mình. 

    Làm sao để con học giỏi Văn? 2

    Trong quá trình ghi chép, bố mẹ nên khuyến khích con cảm nhận tổng thể, không chỉ hướng đến những thứ con nhìn thấy mà cả những thứ con cảm nhận thấy thông qua khứu giác/thính giác/xúc giác/vị giác.

    Hướng dẫn con cách “ghi chép lại” những điều đã nhìn thấy. Không cần ép con phải viết quá nhiều, cha mẹ chỉ nên yêu cầu con dành khoảng 5 – 10 phút để viết về những điều đơn giản như: những việc con đã làm trong ngày hôm nay, kể về một chuyện đã diễn ra ở trường, viết về điều mà con thấy vui nhất trong ngày,…

    Làm sao để con học giỏi Văn? 3

    Bên cạnh đó, bố mẹ cũng có thể cho con viết về điều mà con học được sau khi đọc một cuốn sách. Tuy nhiên, nếu con không có năng khiếu viết văn, thì bố mẹ tuyệt đối không được ép con. Điều này sẽ vô hình trung tạo ra áp lực cho trẻ, không những không giúp con tiến bộ, mà còn càng khiến con xa lánh với việc viết lách và học Văn.

    Cùng con chụp ảnh quay phim

    Các con sẽ rất thích thú nếu được bố mẹ hướng dẫn cách quay phim, chụp ảnh, vì vậy, bố mẹ hãy để con cầm máy, bởi vì đây là một cách con lưu giữ tư liệu đồng thời thể hiện sự quan sát và cái nhìn của con về cuộc sống.

    Làm sao để con học giỏi Văn? 4

    Phụ huynh hẳn sẽ rất ngạc nhiên trước những gì con thấy, cũng là chụp cảnh đoạn đường từ nhà đến trường lúc chiều về, có bạn thích chụp những cửa hàng đèn điện sáng choang, có những bé lại mê mệt với những chiếc ô tô đời mới hay những tòa cao ốc cửa kính lấp lóa.

    Bạn có thể nhìn thấy nhận thức và tâm hồn của con qua những bức ảnh chụp ảnh chụp những người bán hàng rong trên vỉa hè, những ngôi nhà tập thể cũ rêu phong; hay sở thích ồn ã của con khi chụp cảnh động như cảnh cổng trường giờ tan học hay cảnh mua bán ở chợ. Việc chụp ảnh giúp con có cái nhìn phong phú hơn về cuộc sống, từ đó, một cách tự nhiên con có thêm tư liệu cho sự văn học của mình.  

    Đến một thời điểm nào đó, khi con biết phải chụp ở góc độ nào cho cảnh đẹp, đứng ở góc nào để lấy sáng… thì bố mẹ hãy tin rằng chắc chắn con sẽ viết được những câu văn đẹp!

    Gợi ý cho con phương pháp học Văn

    Không gò bó theo khuôn mẫu, tập làm văn với đặc thù là sự sáng tạo. Chính vì vậy các phụ huynh không nên gò bó và bắt con phải trau chuốt ngôn từ ngay từ đầu. Bởi điều này sẽ gây ảnh hưởng và đánh mất đi niềm hứng thú của trẻ khi học. Hãy để trẻ viết thỏa thích, sau đó mới hướng dẫn trẻ sắp xếp lại sao cho logic và hợp lý.

    Làm sao để con học giỏi Văn? 5

    Phụ thuộc nhiều vào sách văn mẫu không phải là một cách học giỏi môn ngữ văn mà bạn nên áp dụng. Đối với sách văn mẫu bạn chỉ nên đọc để tham khảo những nét đặc sắc trong đó chứ không nên sao chép từ đó ra. Điều đó sẽ vô tình khiến bạn bị phụ thuộc và kiềm hãm sự sáng tạo ngôn từ của bản thân. Tốt nhất bạn nên viết văn theo những dòng cảm xúc vốn có của mình để tạo nên điểm nhấn của riêng bạn.

    Tập trung nghe giảng và ghi nhớ nội dung của bài. Ngoài sự sáng tạo và sự vận dụng ngôn từ một cách hài hòa, thì điểm số của con còn phụ thuộc vào việc con có viết đúng theo nội dung bài học đã được giảng trên lớp hay không. Chính vì vậy, bí kíp học giỏi văn tiếp theo đó là khi đến lớp con hãy thật tập trung nghe giảng và ghi chép lại những ý chính.

    Giữ tâm trạng thoải mái khi học bài. Con sẽ không đạt được sự hiệu quả khi học với sự căng thẳng và áp lực. Vì vậy, việc giữ một tinh thần thoải mái khi bắt đầu việc học chính là cách học giỏi văn hiệu quả. Nhắc con cũng đừng nên quá chú trọng nhồi nhét kiến thức mà có thể chia nhỏ các phần ra để học và kết hợp với việc giải trí để tránh stress trong suốt quá trình.

    Làm sao để con học giỏi Văn? 6
    Tâm trạng chán nản khi học tập sẽ không mang lại hiệu quả

    Bắt đầu học từ những điều đơn giản nhất. Văn chương là một phương pháp lột tả hiện thực, chính vì vậy con đừng nên nghĩ về nó quá sâu xa mà và phức tạp hóa chúng lên. Hãy nghĩ đơn giản rằng Văn chương chính là những gì xung quanh cuộc sống của con và con hoàn toàn có thể khai thác được văn học nếu nắm chắc được hướng đi mà tác giả nhắm đến.

    Đối với trẻ nhỏ, việc yêu thích quyết định rất nhiều tới thành công của con. Nếu con ghét một điều gì đó, chất lượng và kết quả sẽ tụt dốc một cách nhanh chóng. Các mẹ có thể áp dụng bí kíp này, tạo cảm hứng cho con bằng cách:

    • Cho con viết thư ông bà, bố mẹ, anh chị, thần tượng của con.
    • Để con viết ước mơ của con mong muốn, mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm.
    • Viết ra những ý tưởng của con, cũng như các mẩu truyện con nhớ hoặc sáng tác.

    Cho con trải nghiệm thực tế

    Phụ huynh không chỉ giới hạn việc học của trẻ trong khuôn khổ và sách giáo khoa. Cha mẹ nên để bé được học ngoài thực tế. Việc nhìn nhận sự vật, sự việc ngoài đời sẽ giúp trẻ dễ dàng phân biệt và có trí tưởng tượng phong phú hơn. Qua đó trẻ sẽ có những bài tập làm văn tốt và hấp dẫn hơn.

    Làm sao để con học giỏi Văn? 7

    Cha mẹ hãy tạo điều kiện để trẻ được tham gia những công việc nhỏ ngoài xã hội, để chúng tự lập hơn. Nếu gia đình bạn có đủ điều kiện thì hãy cho các em tham gia vào các lớp kỹ năng để được học nhiều kỹ năng cuộc sống, vui chơi an toàn.

    Khích lệ con đúng lúc đúng chỗ hài hòa

    Một câu động viên, khích lệ con, sẽ làm thay đổi rất nhiều suy nghĩ trong các bé. Bên cạnh đó, một lời chê ác ý, cũng vô tình làm con tổn thương. Nên nếu chất lượng bài viết con không tốt, bố, mẹ cũng cần có cách nói để con cảm thấy thoải mái. Có thể khích lệ như:

    • Câu chuyện này của con khá hay đấy, nếu con đọc cho bố con nghe chắc chắn bố con sẽ rất thích. (Trước đó, hãy nói điều này với bố của bé).
    • Mẹ thấy đoạn văn này khá hay, nhưng nếu con thay thế câu này, bằng một câu khác, chắc chắn sẽ rất tuyệt vời.
    • Con đã cố gắng rất nhiều, chữ viết của con khá đẹp đấy. Chỉ cần con kiên trì trau dồi thêm, mẹ tin rằng bài viết sau con sẽ tốt hơn rất nhiều…
  • Phương pháp Retrieval Practice là gì?

    Phương pháp Retrieval Practice là gì?

    Retrieval practice là một trong số những cách học siêu tốc phần chiến lược & tiến trình học tập lưu giữ kiến thức được lâu dài hiệu quả. Đây là một trong hai cách được nhắc đến trong bài ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC.

    Phương pháp Retrieval Practice là gì?

    Phương pháp Retrieval Practice chính là phương pháp truy hồi (nhắc lại) kiến thức. Đây là một kỹ thuật nhằm giúp bạn gợi nhớ lại những kiến thức đã học. Nói một cách dễ hiểu, thay vì việc tập trung thu nạp kiến thức mới thì bạn nên dành khoảng thời gian đó để ôn lại kiến thức cũ một cách chủ động.

    Nghe không có gì mới mẻ, nhưng trên thực tế, người học thường dùng phương pháp truy hồi (Retrieval Practice) gián tiếp qua sự yêu cầu của giáo viên như gấp hết sách vở để kiểm tra bài cũ (câu hỏi được nêu trước), làm những bài kiểm tra định kỳ, tạo một tâm thế bị động cho quá trình ôn tập kiến thức và tất nhiên bạn sẽ không thể thấy được những ưu điểm của phương pháp này.

    Việc áp dụng Retrieval Practice trong quá trình học tập sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho bạn, điển hình như:

    • Chuyển đổi những kiến thức mới học đang ở dưới dạng short-term memory (trí nhớ ngắn hạn) thành long-term memory (trí nhớ dài hạn);
    • Tăng tư duy bậc cao và tăng việc chuyển hoá kiến thức;
    • Tăng metacognition (siêu nhận thức) về quá trình học của bản thân;
    • Tăng việc sử dụng các cách học hiệu quả ở ngoài lớp học;
    • Tăng việc chuẩn bị bài học một cách kĩ càng trước khi bắt đầu;
    • Tăng khả năng linh hoạt kiến thức và vận dụng trong nhiều tình huống khác nhau.
    • Tạo dựng sợi dây kết nối giữa các mảng kiến thức đa dạng, thuận lợi cho việc hệ thống hóa kiến thức.
    • Nhanh chóng đánh giá việc học của chính mình và xác định điểm mạnh của bản thân cũng như bất kỳ lỗ hổng nào trong quá trình học;
    • Kết nối các kiến thức đã học với kiến thức sắp được học.

    Retrieval Practice không chỉ đơn thuần là một cách kiểm tra – đánh giá (As an assessment) mà là một phần quan trọng của chiến lược & tiến trình học tập (as part of the learning process) để giúp người học thực sự lưu giữ kiến thức dài hạn.

    Vì thế, bạn cần chủ động áp dụng phương pháp học trên như một hình thức self learning chứ không được nghĩ đó là một cách học để chống đối, có như vậy bạn mới có thể đạt những hiệu quả rõ rệt và nâng cao chất lượng học tập của bản thân.

    Sử dụng phương pháp Retrieval Practice khi nào?

    Khi nào nên dùng Retrieval Practice: Nghiên cứu chỉ ra rằng việc luyện tập RP thường xuyên và gần với thời điểm mới tiếp thu xong kiến thức sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Bạn có thể hình thành thói quen làm RP vào:

    • Cuối ngày học hôm đó;
    • Buổi sáng ngay sau ngày học;
    • Cuối tuần khi có thời gian rảnh;
    • Ngay trước buổi học tiếp theo.

    Một số kỹ thuật Retrieval Practice

    Một số cách để áp dụng Retrieval Practice cho việc học từ vựng tiếng Anh, hoặc bất cứ kiến thức của môn học nào khác.

    1. Sử dụng Flashcards

    Mỗi thẻ flash card bao gồm câu hỏi ở mặt trước và câu trả lời ở mặt sau. Tấm thẻ thường được sử dụng để ghi nhớ từ vựng, ngày tháng lịch sử, công thức hoặc bất kỳ chủ đề nào có thể học được thông qua hình thức câu hỏi kèm theo câu trả lời. Vì vậy, nhiều người đã sử dụng cách này để học từ vựng Tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Hàn…

    Phương pháp Retrieval Practice là gì? 8

    Đối với từ vựng tiếng Anh, người học sẽ sử dụng 2 mặt của mỗi tấm card: một mặt ghi từ tiếng Anh và một mặt ghi nghĩa tiếng Việt. Sau khi viết xong các tấm card, bạn có thể nhìn vào mặt tiếng Anh để nhớ nghĩa tiếng Việt và ngược lại.

    Nếu làm flashcard bằng tay (cắt giấy và viết chữ), bạn có thể vẽ hình minh họa. Nếu làm flashcard bằng máy tính sau đó in ra, bạn có thể chèn hình minh họa mờ làm nền của flashcard. Tất nhiên, nếu bạn sử dụng hình minh họa là chính từ vựng trên flashcard thì việc học sẽ chẳng có ích gì. Vì vậy, hãy sử dụng các hình chỉ-có-môt-chút-liên-quan đến từ cần học. Ví dụ, nếu bạn muốn học từ “Lawyer” (luật sư), bạn có thể để hình là một … bộ tóc giả chẳng hạn.

    Phương pháp Retrieval Practice là gì? 9
    Trên mạng có rất nhiều nguồn flashcard kèm minh họa để học từ vựng tiếng Anh dễ dàng

    Một công cụ minh họa hiệu nghiệm nữa là màu sắc. Bạn có thể tạo cho riêng mình một bảng mã màu, ví dụ như: màu vàng là danh từ, đỏ là động từ, xanh lá là tính từ, trắng là từ đếm được, đen là từ không đếm được…

    Bên cạnh những tấm card ở dạng truyền thống thì giờ đây người học cũng có thể tải một số app học tập miễn phí có thiết kế ở dạng flashcards, điển hình như Quizlet. Khi học tập trên Quizlet, người học có thể:

    • Tự tạo bộ flashcards cho riêng mình tùy theo nhu cầu học;
    • Chia sẻ bộ flashcard của mình cho người khác;
    • Tìm cho mình những flashcard phù hợp trong kho dữ liệu khổng lồ chứa hàng trăm ngôn ngữ của Quizlet do những người dùng khác tự tạo và chia sẻ

    Một số lưu ý khi sử dụng thẻ flash card:

    • Thay vì nhanh chóng lật thẻ lên sau khi nhớ được nghĩa, người học cần tự gợi nhớ lại tất cả nội dung liên quan đến từ vựng, ngữ cảnh được sử dụng, cách phát âm,… thông qua việc hồi tưởng, liên hệ hoặc nhớ ví dụ.
    • Nên sắp xếp các thẻ từ mới và cũ theo các chủ đề liên quan để luyện tập khả năng liên hệ từ vựng, tránh giữ các bộ thẻ ở thứ tự như ban đầu.
    • Việc phân loại sẽ giúp cho phương pháp học tiếng Anh với flashcard của bạn rõ ràng hơn. Đầu tiên, hãy giữ các loại flashcards khác nhau (flashcards dạng từ, flashcards dạng câu hỏi, flashcards dạng bài tập…), rồi sử dụng bảng màu để phân loại chi tiết hơn nếu bạn muốn.
    • Đối với các thẻ bạn nhớ, trả lời được ngay thì có thể để riêng, thẻ nào bạn thấy khó nhớ, chưa hiểu rõ thì để riêng và ưu tiên thời gian để ôn tập lại nó nhiều hơn.
    • Chỉ nên chuyển thẻ nhớ sang bộ tiếp theo sau khi đã truy hồi kiến thức thành công tối thiểu 3 lần. Mục đích của việc này là để chắc chắn rằng người học đã hiểu rõ và có phản xạ tốt với lượng từ vựng mới, nhằm tránh việc chủ quan.
    • Bạn có thể tráo các flashcards với nhau, thậm chí tráo các mặt khác nhau, rồi rút bừa một vài thẻ và thách bản thân nhớ lại/đoán nội dung của mặt sau.

    2. Vẽ sơ đồ tư duy (Mind map)

    Sơ đồ tư duy hay còn được gọi là sơ đồ tư duy, đây là một công cụ trực quan nhằm tận dụng hết các khả năng nhận thức của não bộ, đặc biệt là các khả năng học tập, nhớ, sáng tạo và phân tích. Và đây chính là một quá trình kết hợp giữa các yếu tố hình ảnh, màu sắc cũng như việc sắp xếp không gian – thị giác. Khi sử dụng sơ đồ tư duy, bạn sẽ dùng những từ khoá đơn giản để kích hoạt ra những ý tưởng và nội dung khác.

    Phương pháp Retrieval Practice là gì? 10

    Các loại sơ đồ tư duy thông dụng gồm có sơ đồ hình cây (tree map), hình tròn, bong bóng, luồng (flow map)… Tùy vào mục đích và kiến thức cần ôn tập mà bạn lựa chọn loại sơ đồ phù hợp. Thông thường nhất là loại bản đồ tư duy hình cây.

    Phương pháp Retrieval Practice là gì? 11

    Đây là một phương pháp học tập rất phổ biến trong việc giúp ôn tập lượng lớn tài liệu cũng như trong việc học từ vựng.

    Phương pháp Retrieval Practice là gì? 12

    Ở cách học này, người học sẽ xây dựng một sơ đồ biểu thị quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng hoặc từ vựng.

    Cụ thể, người học có thể xây dựng các sơ đồ từ vựng theo chủ đề, sau đó gợi nhớ tới những từ vựng liên quan tới chủ đề đó rồi từ từ chia ra các nhánh như các từ loại có liên quan, ví dụ hay một vài lưu ý đặc biệt…

    Cách này sẽ giúp cho các từ vựng đã học được hệ thống hóa tốt hơn và cũng dễ dàng cho việc tìm kiếm và ôn luyện theo từng chủ đề sau này.

    Người học có thể sử dụng tài liệu trong quá trình xây dựng sơ đồ tư duy. Điều này có thể tạo cho người học cơ hội xem và nghiên cứu lại những mạng kiến thức đã học đồng thời chắt lọc ra những từ bản thân cần phải nhớ.

    Khi vẽ sơ đồ, người học cũng nên sử dụng những màu sắc khác nhau hoặc các nhãn dán để giúp cho các phần trong sơ đồ trở nên rõ ràng hơn, bắt mắt hơn, tạo cảm hứng học tập hơn. Tuy nhiên, không nên sử dụng quá nhiều màu sắc hay lạm dụng dán quá nhiều thứ linh tinh vì điều này có thể khiến chính bản thân chúng ta bị xao nhãng khỏi việc học từ vựng.

    Cách vẽ bản đồ tư duy mindmap

    Sơ đồ tư duy mindmap có thể vẽ trên giấy hoặc trên bảng vẽ điện tử thông qua các phần mềm chuyên dụng như Microsoft Word, Powerpoint, Coggle, Mindly… Tuy nhiên, dù vẽ bằng cách nào, chúng ta cũng cần biết rõ các bước để có thể lập được bản đồ tư duy đúng chuẩn.

    • Bước 1: Xác định đề tài, chủ đề chính của sơ đồ tư duy;
    • Bước 2: Vẽ các ý lớn từ chủ đề chính;
    • Bước 3: Phát triển sơ đồ tư duy;
    • Bước 4: Hoàn thiện sơ đồ.

    3. Brainstorming

    Brainstorming được hiểu là phương pháp động não, suy nghĩ một vấn đề theo nhiều hướng khác nhau. Bằng cách dựa trên các ý tưởng tập trung xung quanh vấn đề cần giải quyết, những người brainstorming sẽ xem xét các mặt lợi ích – tồn đọng rồi rút ra đáp án tốt nhất, sau đó tiếp tục triển khai.

    Phương pháp Retrieval Practice là gì? 13

    Alex Osborn – ông trùm ngành quảng cáo trên đại lộ Madison, phát triển cách tiếp cận ban đầu và xuất bản nó trong cuốn sách “Applied Imagination” năm 1953. Kể từ đó, các nhà nghiên cứu đã tạo nên nhiều sự cải tiến cho kỹ thuật ban đầu của ông.

    Đối với việc học từ vựng thì đây là phương pháp mà người học tự đưa ra cho mình một chủ đề hay từ khóa và tự ghi ra tất cả những từ hoặc cụm từ có liên quan chứ không dùng bất kỳ một tài liệu nào khác.

    Brainstorming có thể nói là một trong số những cách kiểm tra phản xạ và mức độ ghi nhớ của người học đối với lượng từ vựng tiếng Anh mới siêu hiệu quả và phù hợp với tất cả người học. Tuy nhiên, phương pháp truy hồi kiến thức cần thời gian chứ không phải “Hãy brainstorming đi” là nhớ ra luôn đâu. Cũng chính vì thời gian dành cho phương pháp mà người học mới tăng được khả năng ghi nhớ từ vựng đó.

    Hơn thế, để đạt được thành công khi sử dụng phương pháp Retrieval Practice, tập trung cao độ là yếu tố then chốt.

    Bạn cần đảm bảo rằng bạn đang thực sự nghĩ về chủ đề hoặc từ khóa mình đã để ra thay vì để tư tưởng trôi dạt về phương xa.

    Tuy vậy, việc quá tập trung để nghĩ ra những từ liên quan đôi khi lại khiến người học lãng quên đi cách phát âm cũng như là ngữ cảnh sử dụng của những từ ngữ ấy, làm cho hiệu quả của quá trình ôn luyện từ vựng không đạt được kết quả toàn diện.

    Một số phương pháp khác

    Sau khi hoàn thành câu hỏi bài tập của bài đọc/bài nghe, nhìn câu hỏi và tóm tắt lại bài đọc/nghe:

    • Tự viết/Tự nói bài tóm tắt về bài nghe/đọc;
    • Viết ra 2 điều bạn học được trong buổi học vừa rồi;
    • Tự đặt câu hỏi theo dạng 5W-H questions (Who, What, Where, When, Why, How) về bài đọc/nghe/kiến thức mới học và tự trả lời;
    • Viết lại trình tự buổi học ngày hôm đó;
    • Viết ra tất cả những gì bạn còn nhớ về kiến thức của buổi học hôm đó;
    • Nếu bạn muốn sáng tạo, hãy thử tự vẽ mind map về trình tự/kiến thức của buổi học;
    • Hình dung bản thân là giáo viên và thử giải thích lại kiến thức đó học cho học sinh
  • Siêu nhận thức Metacognition là gì?

    Siêu nhận thức Metacognition là gì? Chúng tôi giới thiệu bài viết từ trang https://www.intel.com có bổ sung thêm. Dạy học Siêu nhận thức là một trong những phương pháp dạy học hiệu quả giúp học sinh có kết quả tốt hơn. Mời bạn xem thêm trong bài ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC.

    Tư duy về tư duy

    Jason được giao một một dự án khoa học, nhưng dường như em không biết phải bắt đầu dự án như thế nào. Em ngồi và nhìn ra cửa sổ một lúc, sau đó giơ tay phát biểu ý kiến với giáo viên.

    “Thưa cô, em không hiểu”, em nói.

    “À”, giáo viên nói, “hãy nghĩ về một vài thứ mà em có thể làm để bắt đầu”

    “Thưa cô, em có thể lập ra một danh sách những việc mà em phải làm”

    “Em có thể làm gì nữa?”

    “Thưa cô, em có thể suy nghĩ về những gì em đã làm trong dự án vừa qua”

    “Ý kiến của em hay đấy”

    “Lần trước em đã đi thư viện và tìm kiếm trên máy tính. Em đã mất rất nhiều thời gian mà không tìm thấy gì”

    “Vậy lần này em có thể làm việc gì khác?”

    “Thưa cô, có lẽ em sẽ nhờ Holly giúp em chọn đúng các từ khoá tìm kiếm. Bạn ấy thật sự giỏi việc đó.“

    “Có vẻ đây là điểm khởi đầu cho một kế hoạch tốt đấy”

    Jason rất thông minh và rất ham mê khoa học, nhưng em thiếu các khả năng giúp em thực hiện những dự án phức tạp. Khi trao đổi với Jason, giáo viên đã giúp em suy nghĩ một cách siêu nhận thức, vì vậy em bắt đầu có ý thức về các quá trình tư duy của mình, vạch ra chiến lược để hoàn thành dự án, và theo dõi tính hiệu quả của những chiến lược này.

    Siêu nhận thức, hoặc “tư duy về tư duy”, là các quá trình trí tuệ có khả năng điều khiển và điều chỉnh cách thức suy nghĩ của con người. Siêu nhận thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện dự án bởi vì học sinh phải quyết định phương pháp nào sẽ sử dụng và sử dụng ra sao.

    Nghiên cứu của Marzano (1998) về 4000 phương thức can thiệp trong giáo dục đã cho thấy phương thức có hiệu quả nhất đối với việc cải thiện quá trình học tập của học sinh là tập trung vào cách thức học sinh suy nghĩ về quá trình tư duy của mình và cách thức học sinh cảm nhận về bản thân với vai trò là người học.

    Siêu nhận thức Metacognition là gì?

    Phần này chúng tôi trích đăng từ Tạp chí Giáo dục, Số 472 (Kì 2 – 2/2020), tr 50-54; 7

    Theo Flavell, J. H., siêu nhận thức là: Sự hiểu biết của cá nhân liên quan đến quá trình nhận thức của bản thân, các sản phẩm và những yếu tố khác có liên quan, trong đó còn đề cập đến việc theo dõi tích cực, điều chỉnh kết quả và sắp xếp các quá trình này luôn hướng tới mục tiêu đặt ra.

    Brown, A. L. tiếp tục phát triển khái niệm của Flavell bằng cách thêm hai khái niệm. Theo Brown: SNT là kiến thức về nhận thức và sự điều chỉnh nhận thức. Kiến thức về nhận thức bao gồm: kiến thức khai báo, kiến thức thủ tục và kiến thức điều kiện; sự điều chỉnh về nhận thức là biểu thị của việc lập kế hoạch, giám sát và đánh giá nhận thức.

    Cũng theo Brown: Kĩ năng SNT đề cập đến khả năng kiểm soát, giám sát và tự điều chỉnh các hoạt động diễn ra khi học tập và giải quyết vấn đề. Từ quan niệm về SNT, Brown cho rằng kĩ năng SNT gồm có: dự đoán, lập kế hoạch, giám sát và đánh giá.

    Những thành phần của siêu nhận thức

    Siêu nhận thức Metacognition là gì? 14

    Thành phần cơ bản nhất của siêu nhận thức là ý thức về quá trình tư duy. Ý thức này bao gồm những cách mà học sinh thường tiếp cận nhiệm vụ và những cách thức khác mà các em có thể dùng đến. Những học sinh giỏi luôn ý thức về cách thức mà các em tư duy và có thể đưa ra những sự lựa chọn sáng suốt về những chiến lược hiệu quả.

    Thành phần lập kế hoạch của siêu nhận thức chịu trách nhiệm về “việc nhận biết hoặc kích hoạt các kỹ năng đặc biệt, các chiến thuật, và các quá trình sẽ được sử dụng để hoàn thành mục tiêu” (Marzano, 1998, trang 60). Một học sinh trong giai đoạn này sẽ tự hỏi là mình có thể làm những gì và cách thức nào là hiệu quả nhất trong tình huống hiện tại. Với công việc đơn giản, người ta thậm chí không hề có ý thức về những gì mình đang lựa chọn. Tuy nhiên, đối với một công việc phức tạp, quá trình siêu nhận thức sẽ rõ ràng hơn khi có nhiều lựa chọn khác nhau hiện lên trong đầu.

    Thành phần cuối cùng của siêu nhận thức là theo dõi. Chức năng này có nhiệm vụ kiểm tra tính hiệu quả của kế hoạch và những chiến lược đã sử dụng. Chẳng hạn, một sinh viên năm thứ 2 ngành sinh học quyết định thiết kế một sơ đồ trên máy tính nhằm ôn lại một chương nào đó để chuẩn bị cho bài kiểm tra. Sau vài phút, anh nhận ra rằng mình đã dành nhiều thời gian cho việc tìm hiểu phần mềm hơn là cho nội dung bài học và quyết định vẽ sơ đồ trên giấy. Một học sinh lớp 5 đang tạo lập dữ liệu về nhiệt độ và độ ẩm bắt đầu thêm vào danh sách dài những con số và sau đó nhận ra rằng công việc sẽ tiến hành nhanh hơn và chính xác hơn nếu em sử dụng chương trình bảng tính. Liên tục theo dõi các quá trình tư duy và đưa ra những thay đổi cần thiết là thành phần then chốt của siêu nhận thức.

    Tài liệu tham khảo
    Marzano, R. J. (1998). A theory-based meta-analysis of research on instruction. Aurora, CO: McREL.
    www.mcrel.org/PDF/Instruction/5982RR_InstructionMeta_Analysis.pdf* (PDF, 172 trang)

  • Dạy Siêu nhận thức Metacognition

    Dạy siêu nhận thức (Metacognition). Hãy tìm hiểu những cách thức giáo viên kết hợp siêu nhận thức trong lớp học theo dự án. Chúng tôi giới thiệu bài viết từ trang https://www.intel.com. Dạy học Siêu nhận thức là một trong những phương pháp dạy học hiệu quả giúp học sinh có kết quả tốt hơn. Mời bạn xem thêm trong bài ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC.

    Dạy Siêu nhận thức Metacognition

    Dạy cho học sinh cách thức suy nghĩ về tư duy của mình

    Khả năng siêu nhận thức của học sinh có thể phát triển mạnh trong một môi trường mà ở đó quá trình tư duy thực sự là một phần quan trọng của việc dạy học và giao tiếp suốt cả ngày. Để tạo ra môi trường như vậy, giáo viên và học sinh phải xây dựng một hệ thống ngôn ngữ về tư duy mà tất cả mọi người đều phải sử dụng một cách nhất quán với nhau. Khi giáo viên sử dụng những thuật ngữ như “kỹ thuật”, “quá trình” và “siêu nhận thức” thường xuyên, họ có thể truyền đạt tầm quan trọng của chúng đến với học sinh, đồng thời nhấn mạnh những quá trình quan trọng đối với việc học hiệu quả.

    Tishman, Jay và Perkins (1992) đề nghị treo những tấm tranh áp phích xung quanh phòng học để nhắc nhở học sinh suy nghĩ về tư duy của mình. Những câu hỏi gợi ý như “Đây có phải là chiến lược tốt nhất cho bài tập này không?” hoặc “Kế hoạch của các em có phải đang được thực hiện theo cách tốt nhất không?” sẽ giúp học sinh nhớ làmình phải tư duy siêu nhận thức.

    Việc cung cấp cho học sinh thời gian và công cụ để giúp các em có thể tư duy siêu nhận thức nhiều hơn trong việc học là một trong những cách hữu hiệu nhất để cải thiện thành tích học tập của các em (1998). Sổ tay ghi chép và nhật ký học tập có thể giúp các em nhận ra những chiến lược mà các em đã sử dụng hoặc có thể sẽ sử dụng và sau đó đánh giá hiệu quả của chúng. Việc đưa ra những lời gợi ý hoặc nhắc nhở như “Các em sẽ làm gì tiếp theo?”; “các chiến lược của các em đang được thực hiện tốt đến mức nào?” có thể cung cấp cho học sinh một cấu trúc đòi hỏi các em phải tư duy siêu nhận thức. Nhiều học sinh, nhất là những em có nhu cầu đặc biệt, có thể thu được nhiều lợi ích nhờ những lời hướng dẫn rõ ràng và được lặp đi lặp lại về các kỹ thuật tư duy siêu nhận thức. Ví dụ, một giáo viên có thể bắt đầu với việc nói lên suy nghĩ về siêu nhận thức như sau:
    Được rồi. Cô sẽ làm gì với bước tiếp theo của dự án này? Cô cần phải đưa tất cả những thông tin mà cô đã thu thập được vào một bài báo cáo. Cô có thể đưa từng đoạn thông tin vào 1 mẫu ghi và sau đó sắp xếp chúng thành một dàn bài, nhưng việc làm các mẫu ghi sẽ tốn rất nhiều thời gian. Cô có thể đọc lướt qua những mẫu ghi của mình và đánh dấu vào mỗi mẫu ghi theo từng loại, sau đó gạch bỏ tất cả những phiếu mà cô sẽ không dùng đến. Sau đó, cô sẽ quan sát xem công
    việc diễn ra như thế nào.

    Mặc dù việc đề cập đến các quá trình nhận thức thực sự là một phần của việc làm mẫu cho quá trình siêu nhận thức, nhưng việc quan trọng là làm mẫu cho quá trình tư duy nhằm tác động đến khả năng tự điều chỉnh của học sinh. Việc làm mẫu các kỹ thuật học tập, như phương pháp hiểu các bài khóa (ví dụ đặt câu hỏ) hoặc giải quyết vấn đề về từ vựng (ví dụ nhận ra những sự biến đổi của từ) là một phương pháp hiệu quả trong việc dạy cho học sinh các chiến lược học tập, nhưng nếu việc nhận thức, lập kế hoạch và theo dõi tư duy không được thực hiện rõ ràng thì việc làm mẫu sẽ không có tác động gì đến tư duy siêu nhận thức của học sinh.

    Những nguồn tài liệu khác có thể hướng dẫn về tư duy siêu nhận thức, nhất là đối với học sinh lớn tuổi hơn, bao gồm tiểu sử, nhật ký, thư và những bài viết mang tính cá nhân khác của những chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực mà các em đang nghiên cứu. Được tiếp cận với những kỹ thuật giải quyết vấn đề của những nhà tư tưởng “huyền thoại” có thể tạo cảm hứng và nâng cao kiến thức cho học sinh.

    Sau khi làm mẫu về siêu nhận thức, bước tiếp theo là tạo cho học sinh cơ hội thực hành những kỹ năng siêu nhận thức với sự trợ giúp của giáo viên. Học sinh có thể vừa suy nghĩ vừa nói theo cặp hoặc theo nhóm. Việc lắng nghe cách thức bạn mình tiếp cận với những vấn đề phức tạp có thể giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết về những kỹ thuật có thể thực hiện.

    Cuối cùng, sử dụng các câu hỏi gợi ý như “Trước tiên các em có thể làm gì?” và “Các em có thể thử làm điều gì nữa?” và “Chiến lược của các em hiệu quả ở mức độ nào?” sẽ gợi cho học sinh suy nghĩ về tư duy của mình trong lúc các em đang làm việc.

    Những câu hỏi thúc đẩy siêu nhận thức

    Ý thức

    • Tôi sẽ tiếp cận bài tập này như thế nào?
    • Tôi sẽ phải làm gì trong dự án này?
    • Tôi sẽ làm gì khi không hiểu những gì tôi đang đọc?
    • Khi tôi gặp khó khăn, tôi sẽ làm gì?
    • Tôi nghĩ tới điều gì trong khi tôi đang đọc sách?

    Lập kế hoạch

    • Bài tập này thuộc loại gì?
    • Mục tiêu của tôi là gì?
    • Tôi cần những thông tin nào?
    • Tôi có thể gặp phải những vấn đề nào trong lúc đang thực hiện và cách thức xử lý chúng ra sao?
    • Tôi có những tài liệu tham khảo nào?
    • Bài tập này sẽ mất thời gian bao lâu?
    • Có những bài tập nhỏ nào trong dự án lớn đó?
    • Những việc nào tôi phải làm theo đúng thứ tự và những việc nào tôi có thể làm bất kỳ lúc nào?
    • Tôi cần phải hợp tác với những ai và với những sự kiện nào?
    • Ai có thể giúp tôi?
    • Tôi muốn học được điều gì từ dự án này?

    Theo dõi

    • Những việc mà tôi đang làm có hiệu quả không?
    • Tôi không hiểu điểm nào trong bài tập này?
    • Liệu tôi có thể làm bài tập này một cách khác không?
    • Tôi có phải bắt đầu lại không?
    • Tôi có cần phải thay đổi cách thức làm việc một chút để đạt hiệu quả hơn không?
    • Tôi có thể kiểm soát điều gì trong môi trường làm việc của mình?
    • Tôi có thể xử lý những khó khăn ngoài mong đợi như thế nào?
    • Tôi đang học được điều gì?
    • Tôi có thể làm gì để học được nhiều hơn và tốt hơn?
    • Đây có phải là cách tốt nhất để làm việc này không?

    Tài liệu tham khảo

    Marzano, R.J. (1998). Siêu phân tích dựa trên lý thuyết các nghiên cứu về dạy học. Auroral, Co: McREL www.mcrel.org/PDF/Instruction/5982RR_InstructionMeta_Analysis.pdf*

    Tishman, J, E. Jay & D.N. Perkins (1992). Dạy cách tổ chức tư duy: Từ chuyển giao đến hội nhập văn hóa. Cambridge, MA: ALPS. http://learnweb.harvard.edu/alps/thinking/docs/article2.html*

  • HỌC VỀ SỰ HỌC: NĂNG LỰC SIÊU NHẬN THỨC (METACOGNITIVE)

    HỌC VỀ SỰ HỌC: NĂNG LỰC SIÊU NHẬN THỨC (METACOGNITIVE)

    Tác giả ANITA E.WOOLFOLK, bản dịch của TLHGD

    Năng lực học và nhớ ở các cá nhân rất khác biệt. Điều này dẫn các nhà tâm lý học (viết tắt: TLH) tới việc nghiên cứu Siêu nhận thức.

    HỌC VỀ SỰ HỌC: NĂNG LỰC SIÊU NHẬN THỨC (METACOGNITIVE)

    Siêu nhận thức là gì?

    Thuật ngữ Metacognition (Siêu nhận thức) là để nói đến việc hiểu biết và kiểm soát sự suy nghĩ và các hoạt động học. Nó dính líu đến ít nhất là hai thành tố riêng rẽ:

    • (1) nhận biết về các kỹ năng, chiến lược, và nguồn cần có để thực hiện một nhiệm vụ một cách hiệu quả – tức là biết phải làm gì;
    • (2) năng lực sử dụng các cơ chế tự điều chỉnh để bảo đảm hoàn thành thành công nhiệm vụ – tức là biết làm thế nào khi nào. 

    Các chiến lược ở thành tố thứ nhất – biết phải làm cái gì – bao gồm nhận dạng ý tưởng chính, thông tin thực hành, tạo ra những liên kết và hình ảnh, sử dụng thuật ghi nhớ, tổ chức vật liệu mới để làm cho dễ nhớ, áp dụng các kỹ thuật đo nghiệm, phác ra các ý chính, và ghi chú.

    Các cơ chế điều chỉnh – thành tố thứ hai, biết làm sao và khi nào – bao gồm kiểm tra xem bạn có hiểu không, lường trước kết quả, đánh giá hiệu quả của một nỗ lực, hoạch định bước tiếp theo, đo nghiệm các chiến lược, quyết định cách thức phân chia thời gian và nỗ lực, và xem lại hay chuyển qua các chiến lược khác để khắc phục những khó khăn gặp phải.

    Việc sử dụng các cơ chế điều chỉnh này gọi là giám sát nhận thức (cognitive monitoring). Ghi chú rằng những tiến trình này giám sát nhận thức này có thể coi như một phần của các tiến trình kiểm soát thực hiện đối với dòng thông tin thông qua các hệ thống ghi nhớ trong hình mẫu xử lý thông tin.

    Nhìn chung, các năng lực siêu nhận thức bắt đầu phát triển ở độ tuổi 5-7 và cải thiện qua trường học. Nhưng có sự đa dạng lớn trong cùng lứa tuổi. Phần lớn HS đi qua một thời kỳ trung chuyển qua đó các em có thể áp dụng một chiến lược đặc biệt nhưng sẽ không tự mình áp dụng. 

    Dạy chiến lược

    Một mục tiêu của giáo dục là giúp HS học cách sử dụng các chiến lược nhận thức. May thay, nghiên cứu cách dạy những kỹ năng kiểm soát thực hiện này đã trở thành một ưu tiên hàng đầu trong giáo dục và nhiều nguyên tắc quan trọng đã được nhận dạng.

    Thoạt tiên, HS phải được giới thiệu những chiến lược khác nhau – không chỉ các chiến lược tư duy nói chung mà những chiến lược rất đặc thù, chẳng hạn các kỹ thuật ghi nhớ đã mô tả bên trên.

    Thứ hai, việc dạy cho HS khi nào, ở đâu, vì sao sử dụng chiến lược dường như rất quan trọng. Mặc dù dường như đó là hiển nhiên, các GV thường bỏ qua thông tin này, bởi vì họ không nhận thức được ý nghĩa của nó, hoặc họ cho rằng HS sẽ tự mình suy ra.

    Thứ ba, ta không thể quên mối quan hệ giữa việc thực hiện và thái độ. HS có thể biết lúc nào sử dụng và sử dụng thế nào một chiến lược, nhưng các em cũng phải phát triển ham muốn sử dụng những kỹ năng ấy.

    Thứ tư, việc trực tiếp giảng dạy kiến thức sơ giản thường là thành tố quan trọng của việc huấn luyện chiến lược. Nhằm nhận dạng những ý tưởng chính – một kỹ năng quyết định cho nhiều chiến lược học – ta phải có một sơ đồ thích đáng để giảng nghĩa vật liệu học.

    Hiệu quả của việc huấn luyện sơ đồ cụ thể đã được chứng minh nhiều lần. Chẳng hạn, nhận thức được hình thức điển hình của các lối kể chuyện sẽ cải thiện việc nhớ lại câu chuyện kể. Những hình thức điển hình này được gọi là các văn phạm của câu chuyện (story grammars). Ví dụ, chàng trai gặp cô gái, chàng và nàng phải lòng nhau, có sự hiểu lầm nhau, chàng đánh mất nàng, rồi tái hợp… Nói cách khác, đó là một cấu trúc chung điển hình – một sơ đồ hay khuôn mẫu – có thể hợp với nhiều câu chuyện cụ thể. Nếu biết câu chuyện sẽ đi đến đâu, ta sẽ có thể thấy dễ hiểu và nhớ câu chuyện.

    Mời bạn tham khảo thêm trong bài ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC

    Siêu nhận thức và việc đọc

    Để minh hoạ ý nghĩa thực hành của siêu nhận thức, ta hãy tập chú vào một nhiệm vụ thông thường của nhà trường – đọc hiểu. Rõ ràng là nhiều kiến thức mà HS có được là từ các vật liệu viết. Đọc hiểu là quan trọng cho mọi HS. Những năm gần đây, nghiên cứu về siêu nhận thức đã đóng góp nhiều vào sự hiểu biết của chúng ta về tiến trình này.

    HỌC VỀ SỰ HỌC: NĂNG LỰC SIÊU NHẬN THỨC (METACOGNITIVE) 15

    Nếu ta được yêu cầu mô tả mình đã làm gì khi đọc đoạn văn trước, có thể ta nói rằng: “Ý anh là sao, tôi đã làm gì hả? Tôi chỉ đọc các chữ thôi”. Nhưng đọc hiểu là một tiến trình phức hợp hơn nhiều so với “đọc các chữ”. Hiểu là kết quả của sự tương tác giữa bản thân văn bản với các cấu trúc nhận thức (các văn phạm của câu chuyện, những sơ đồ khác, các mạng lưới mệnh đề, các chiến lược) mà người đọc dựa vào và áp dụng trong tiến trình đọc. Để có được một cảm nhận về sự tương tác này, ta có thể xem xét những khác biệt về kỹ năng siêu nhận thức giữa người đọc chuyên gia và người đọc tập sự hay không có kỹ năng.

    Người đọc không có kỹ năng coi việc đọc như một tiến trình giải mã (tìm cách hiểu từng từ riêng rẽ) hơn là một tiến trình nắm bắt nghĩa (hiểu nghĩa của cả văn bản). Giải mã là việc dịch từ chữ in ra lời nói. Trẻ được dạy đọc bằng cách giải mã, cho nên với các em thường đó là hoạt động duy nhất trong việc đọc.

    Nói cách khác, bất kể các em đọc để học, để chơi hay đọc lướt qua, các em không điều chỉnh cách đọc. Các em cũng khó chọn lọc những ý quan trọng trong văn bản và phát hiện những vi phạm về cấu trúc logic trong văn bản. Chẳng hạn, nếu 2 câu trong cùng đoạn văn mâu thuẫn với nhau, các em có thể không nhận ra. Hơn thế nữa, các em có khó khăn trong việc nghĩ đến kiến thức có liên quan và sử dụng văn cảnh để giúp mình diễn giải cái mình đang đọc. Cuối cùng, các em có ít chiến lược để đối phó với việc không hiểu văn bản, ngay cả khi thấy ra được vấn đề.

    Huấn luyện các chiến lược đọc hiểu

    Một phương pháp rất thành công là làm mẫu bằng lối dạy tương hỗ (reciprocal teaching). Phương pháp này dạy HS 4 chiến lược: tóm tắt nội dung một đoạn văn; nêu câu hỏi về điểm trung tâm; làm sáng tỏ những phần khó trong văn liệu; và dự đoán cái gì sẽ đến tiếp.

    Thoạt tiên GV và nhóm HS im lặng đọc một đoạn ngắn. Rồi GV cho HS một hình mẫu 4 bước như trên. Tiếp đó, mỗi HS đọc một đoạn khác, và HS bắt đầu đóng vai GV. Thường thì những thực hành đầu tiên của HS là sai sót. Nhưng GV cho gợi ý, chỉ dẫn, khuyến khích (điều mà Vygotsky gọi là bắc giàn – scaffolding) để giúp HS nắm được những chiến lược ấy.     

  • ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC

    ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC

    Bài viết của tác giả Patrice Bain do Đức Hà dịch, đăng trên Nội san Dạy học số 40 năm 2021.

    Đôi khi những điều học sinh nhớ nhất về lớp học của mình lại là những điều rất đỗi bình thường. Mấy năm trước, tôi có dạy Abby, một học sinh có nhu cầu đặc biệt. Abby luôn học trong các lớp học chuyên biệt, vì vậy giáo viên của Abby gửi em tới lớp học của tôi để làm quen với việc hòa nhập và cải thiện kỹ năng xã hội. Và Abby đã hoà nhập rất tốt. Một năm sau, Abby bắt đầu ghé qua lớp tôi vài lần một tuần để đưa ghi chú từ văn phòng trường, và tôi luôn rất vui mỗi khi thấy em.

    ĐIỀU GÌ GIÚP HỌC SINH THÀNH CÔNG? HÃY DẠY CÁC EM HỌC CÁCH HỌC

    Một ngày nọ, tôi tổ chức cho lớp học thảo luận về siêu nhận thức (metacognition) – một chiến lược dạy học cho học sinh cấp 2. Abby bước vào lớp ngay khi tôi vừa đặt câu hỏi: “nêu một từ khó yêu thích của cô mà bắt đầu bằng chữ M.” Abby đáp ngay sau vài giây: “Mesopotamia”. Mặc dù từ tôi muốn nói đến ở đây là “Metacognition”, nhưng câu trả lời của Abby khiến tôi vô cùng tự hào. Dù Abby đã học và tìm hiểu về Mesopotamia hơn 1 năm rưỡi trước, vậy mà em có thể tức khắc nhắc về nó trong vỏn vẹn vài giây.

    Câu chuyện về Abby hầu như không có gì quá đặc biệt. Học sinh của tôi thường cảm thấy ngạc nhiên về chính mình mỗi khi các em học tốt môn Lịch sử. “Em chưa bao giờ học tốt môn Lịch sử cả!”. Đó là những gì học sinh thường nói với tôi. Điều này thường bắt đầu từ suy nghĩ vô cùng đau lòng nhưng lại rất phổ biến: “Em không thông minh.” Mỗi khi nghe các em nói như vậy, tôi nhận ra học sinh của mình đã tự chấp nhận thất bại khi các em mới chỉ 11 tuổi.

    Điều đó khiến tôi đưa ra 2 câu hỏi: Làm cách nào để những học sinh mất niềm tin vào chính bản thân mình như Abby có thể lưu giữ kiến thức trong nhiều năm? Và chúng ta có thể chỉ cho các em thấy rằng điểm kém không phải là thất bại, mà chỉ là do chưa tìm được cách học phù hợp?

    Tham gia nghiên cứu

    Lý do mà tôi đề cập về siêu nhận thức trong lớp của mình là vì một phần của khái niệm đó liên quan đến việc phân biệt những gì đã biết với những gì chưa biết. Những học sinh xuất sắc nhất thường cho rằng các em phải tập trung thời gian để học những gì chưa biết. Tuy nhiên điều đó không phù hợp với phần lớn học sinh. Và đó là lúc cần tới giáo viên. Điều đầu tiên tôi dạy học sinh của mình là học cách học, rồi sau đó mới tới nội dung môn học. Học sinh sẽ thay đổi nhận thức từ “Em không thông minh” thành “Em không biết phần này vì em chưa học”. Chính sự thay đổi trong tư duy mới là yếu tố tạo nên sự khác biệt. Thực sự thì tôi đã từng không tin tưởng nhận định trên cho lắm. Nhưng một cuộc gặp gỡ tình cờ với hai nhà khoa học về nhận thức của đại học Washington, Tiến sĩ Mark McDaniel và Tiến sĩ Henry Roediger III đã thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của tôi. Họ nhận tài trợ của bang và muốn thực hiện nghiên cứu trong lớp học của tôi, và tất nhiên là tôi đồng ý. Nghiên cứu bắt đầu từ lớp học của tôi, rồi ngày càng mở rộng hơn và trở thành một nghiên cứu xác thực và nghiêm ngặt được tiến hành qua nhiều khối lớp, trường học trong nhiều năm.

    Nghiên cứu được thực hiện với hơn 1500 học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Mục đích của nghiên cứu là tìm ra phương pháp học tập hiệu quả nhất đối với học sinh trong lớp học.
    Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện trong các phòng nghiên cứu ở các trường đại học, nhưng đây là nghiên cứu đầu tiên được thực hiện trực tiếp tại các lớp học. Kết quả chỉ ra rằng việc sử dụng các nguyên tắc đã được nghiên cứu của khoa học học tập – cụ thể là siêu nhận thức dựa trên phản hồi và một quy trình khác được gọi là truy xuất (retrieval) – đã làm cải thiện điểm số cá nhân lên từ một đến hai bậc, thường là thay đổi từ điểm C thành điểm A.

    Những nguyên tắc về siêu nhận thức và truy xuất dựa trên phản hồi đã giúp việc dạy của tôi trở nên hiệu quả hơn rất nhiều so với suy nghĩ của chính tôi. Nói tóm lại, tôi bắt đầu hiểu tại sao học sinh của mình lại học (và nếu không học thì tại sao không).

    Học cách học

    Nhiều học sinh nói với tôi rằng các em dành nhiều giờ để học mà vẫn bị điểm kém. Lí do là gì? Học sinh thường không ôn tập những gì các em đã biết cũng như bỏ qua những bài tập khó. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy việc phản hồi kịp thời và hiệu quả có tác dụng rất lớn đối với những học sinh đang gặp khó khăn. Phản hồi giúp học sinh phân biệt được những gì các em đã biết và chưa biết – siêu nhận thức.

    Phần thứ hai trong chiến lược học tập của tôi dựa trên quy trình truy xuất (retrieval). Theo định nghĩa yêu thích của tôi về thuật ngữ này, khi nghĩ về việc học, chúng ta thường tập trung vào việc “nhồi” thông tin vào đầu học sinh. Quy trình truy xuất, theo một cách khác, lại tập trung vào việc thể hiện những thông tin mà học sinh đã biết ra ngoài. Có thể bạn cho rằng bạn biết mọi thứ về xã hội cổ đại Mesopotamian, nhưng chỉ khi bạn được yêu cầu giải thích lại những gì bạn biết thì bạn mới nhận ra những điều mà bạn còn chưa thực sự hiểu rõ ràng. Với nhiều học sinh, khoảnh khắc nhận ra những thiếu sót đó thường xảy ra khi các em thực hiện bài kiểm tra quan trọng. Và khi đó thì đã muộn!

    Khi đã hiểu rõ hơn về nghiên cứu này, tôi mới nhận ra học sinh không tiếp thu được nhiều từ việc làm đi làm lại bài tập về nhà và bài kiểm tra. Siêu nhận thức và truy xuất là những công cụ mạnh mẽ mà tôi cần đưa vào trong lớp học của mình. Hơn một thập kỷ trước, tôi bắt đầu áp dụng chúng vào các tiết dạy hàng ngày. Tôi dừng hẳn việc giao bài tập về nhà và thay vào đó cho các em làm những bài trắc nghiệm nhỏ: một bài tập mà học sinh không cần đầu tư quá nhiều. Tôi sẽ chọn ngẫu nhiên 5 nội dung đã học trong buổi trước và yêu cầu học sinh viết lại những gì mà các em nhớ được. Sau đó chúng tôi thảo luận và học sinh sẽ nhận được phản hồi ngay lập tức.

    Những bài trắc nghiệm nhỏ này giúp học sinh xác định những gì các em đã biết và chưa biết. Phương pháp có thực sự hiệu quả? Nếu không, truy xuất cần phải được nghiên cứu thêm. Bằng cách này, tôi đã giảm được thời gian chấm bài tập của mình từ 2 giờ mỗi buổi tối xuống còn 15 phút phân tích các bài trắc nghiệm nhỏ. Từ đó, tôi phát hiện được những mảng kiến thức học sinh chưa học hoặc chưa nắm chắc để tập trung hơn vào chúng trong các buổi ôn tập.

    Sau khi thấy được sự thành công của các bài trắc nghiệm đơn giản, tôi thích thú xem tôi có thể điều chỉnh những chiến lược dạy học mà mình đã sử dụng trở thành những công cụ mạnh mẽ như thế nào. Tôi bắt đầu sử dụng các nút bấm (clicker) để đưa ra những đánh giá không chính thức (informal assessments) và định kỳ (formative assessments). Tôi thường cho học sinh thực hiện một bài đánh giá nhanh trước khi bắt đầu bài học, một bài cách vài ngày sau bài học, và một bài trước khi kiểm tra tổng kết chương. Tôi muốn biết học sinh của mình ghi nhớ được những gì và nhớ đến khi nào.

    Cụ thể hơn, tôi bắt đầu nhận thấy những thành tựu đáng kể với những học sinh có nhu cầu đặc biệt (Individualized Education Program) – một nhóm đặc thù trong lớp học của tôi, bao gồm cả những học sinh giống như Abby. Các em thường dành thời gian ngoài giờ học cùng giáo viên giáo dục đặc biệt, và tôi muốn biết liệu phương pháp học tập của mình có giúp các em nắm được bài mới ngay trong lần đầu tiên hay không. Một số em cần nhận được hỗ trợ trong quá trình học tập như học thêm giờ hay ôn tập trước kiểm tra vẫn thực hiện đánh giá thường xuyên giống như những bạn học khác.

    Vào một năm, khi tôi theo dõi kết quả của 14 học sinh có nhu cầu đặc biệt, tôi phát hiện ra rằng các em thực sự đã học và ghi nhớ các kiến thức. Ví dụ trong một bài học về Ai Cập, những em này đã có khoảng 39% thông tin trước khi bắt đầu bài học. Vài ngày sau, tỷ lệ tỷ lệ trả lời chính xác trong bài kiểm tra của các em lên tới khoảng 70%. Tới bài đánh giá trước khi tổng kết chương, con số này chạm mốc 82%. Và với những học sinh có nhu cầu đặc biệt mà tôi dạy trong những năm sau, tôi cũng thu được kết quả tương tự. Đối với tôi, điều đó cho thấy rằng học sinh đã tận dụng thời gian hiệu quả cùng giáo viên để cải thiện kết quả học tập, đồng thời học cách đánh giá và ôn lại những gì mà các em chưa biết.

    Việc thay đổi phương pháp, đồng thời áp dụng các nguyên tắc dựa trên nghiên cứu của khoa học học tập đã tác động mạnh mẽ đến việc lưu giữ thông tin của học sinh. Nó đã thay đổi hoàn toàn “sự nghiệp” học hành của các em . Trên thực tế, nghiên cứu mà tôi tham gia đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa sự hiểu biết của học sinh về việc học của bản thân với việc học thực tế của các em có tác động lớn và lâu dài đến thói quen, động cơ và cả việc học tập nói chung.

    Trong những năm qua, điểm số những bài kiểm tra ngắn kia vẫn cứ tăng lên và sự tự tin được cải thiện. Nhiều học sinh của tôi đã chia sẻ rằng các em không còn cảm thấy bản thân là kẻ thất bại trong việc học nữa. Các em luôn nhớ về tôi như người đã góp phần giúp các em thành công; Về phần mình, tôi luôn cho rằng thành công có được hoàn toàn là công sức của các em. Học sinh của tôi đã học cách học – một kỹ năng mà các em khó có thể quên được.

  • Kỹ năng đặt câu hỏi – Cách hỏi như thế nào là tốt?

    Kỹ năng đặt câu hỏi – Cách hỏi như thế nào là tốt?

    Kỹ năng đặt câu hỏi – Cách hỏi như thế nào là tốt?

    Kỹ năng đặt câu hỏi là một trong những bí mật giúp bạn thành công trong giao tiếp, trong nghề nghiệp của mình. Đặt câu hỏi đúng “quan trọng hơn ngàn lần tìm câu trả lời đúng cho một câu hỏi sai”.

    Khi bạn hỏi, bạn ở thế “làm chủ”. Nếu vậy, kĩ năng đặt câu hỏi thực chất là kĩ năng để bạn dẫn dắt câu chuyện hay một cuộc đối thoại sao cho hiệu quả nhất.

    Câu hỏi có thể được phân loại theo nhiều cách. Nếu theo cách đặt câu hỏi, có thể phân chia thành câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nếu phân chia theo cách trả lời, có thể chia thành câu hỏi trực tiếp và câu hỏi gián tiếp. Hơn nữa, tùy từng ngữ cảnh, trong giao tiếp, đàm phán hay tham vấn, cách thức đặt câu hỏi, loại câu hỏi cũng được vận dụng khác nhau. Ở bài viết ngắn này, tôi chỉ tập trung trao đổi về hai dạng câu hỏi quan trọng nhất là câu hỏi đóng và câu hỏi mở, cũng như giới thiệu các bước chuẩn bị và tiến hành kĩ năng này.

    1. Có những loại câu hỏi nào?

    Câu hỏi đóng là gì?

    Câu hỏi đóng là những câu hỏi mà câu trả lời thường là “có”, “không” hoặc một thực tế đơn giản nào đó, tính chất của nó là xác nhận lại thông tin, chứ không có tính gợi mở.

    Kỹ năng đặt câu hỏi - Cách hỏi như thế nào là tốt? 16

    Hỏi đóng thường dùng với tính chất là câu mở đầu cho một đề tài nào đó. Chẳng hạn, câu hỏi đóng dùng để thăm dò, giúp bạn xác định nhanh được người đối diện có hứng thú/quan tâm không đến điều bạn nói. Qua cách trả lời của họ, bạn có thể tiếp tục hoặc dừng lại. Không nên lạm dụng câu hỏi đóng liên tục, vì điều này sẽ khiến người đối diện nghĩ là bạn đang tra khảo họ.

    Câu hỏi mở

    Hỏi mở là hỏi khi muốn nắm bắt ý kiến riêng của người được hỏi, đào sâu thêm thông tin, khơi gợi người được hỏi nói về những điều bạn chưa biết hay còn mơ hồ. Câu hỏi mở thường bắt đầu bằng từ để hỏi có dạng “vì sao, như thế nào, ở đâu, ý kiến của bạn về vấn đề đó…” (Trong Tiếng Anh là dạng câu hỏi WH [Why, how, where, when…). Câu hỏi mở là những câu hỏi không có câu trả lời cố định, chúng kích thích suy nghĩ và mở ra những trao đổi hoặc tranh luận, người được hỏi không bị gò bó về câu trả lời.

    Kỹ năng đặt câu hỏi - Cách hỏi như thế nào là tốt? 17

    Với một câu hỏi đóng, chẳng hạn như: “Ngài có dùng cà phê không (ạ)?”, câu trả lời chỉ có thể là Có hoặc Không. Nhưng muốn khai thác thêm thông tin, ta cần phải đặt câu hỏi mở. Chẳng hạn: Nếu có thêm một thứ khác nữa để lựa chọn tôi có thể đặt câu hỏi: “Liệu tôi có thể (hân hạnh) phục vụ ngài món gì?” Câu hỏi như thế khuyến khích việc mở rộng thông tin (Ngoài cà phê, có thể lựa chọn trà, nước ngọt…). Nếu muốn, có thể tiếp tục mở rộng câu hỏi như: “Ngài muốn dùng loại cà phê nào? (cà phê sữa, cà phê đen hoặc cà phê đen có đường…” Như thế, tính mở câu hỏi đã tiếp tục được mở rộng.

    Mời bạn tham khảo thêm Dạy đặt câu hỏi thế nào?

    Câu hỏi mở rất cần thiết cho việc nghiên cứu, điều tra thực tế, cho biết kiến thức, sự hiểu biết, quan điểm hoặc cảm xúc của người trả lời. Câu hỏi càng mở, người được hỏi càng dễ trả lời.

    Trong câu hỏi mở thường người hỏi đã định hướng điều gì có giá trị và điều gì quan trọng, cũng như khơi gợi nhiều đáp án đa dạng hoặc kích thích trao đổi, thảo luận và tranh luận.

    Các dạng câu hỏi mở Ví dụ
    Câu hỏi đào sâu (giúp khai thác thông tin, mở rộng vấn đề, giúp tìm hiểu bản chất vấn đề) ·   Điều này có ý nghĩa gì với bạn?/Bạn có thể mở rộng ý này như thế nào?/Theo bạn, bước tiếp theo có thể là gì?/ Tại sao vấn đề này lại quan trọng thế?/ Tại sao bạn nghĩ vậy?/ Bạn có thể nói theo cách khác không?/ Bạn có thể cho một ví dụ không? Bạn có thể giải thích lý do cho mọi người không?/ Bạn cho rằng đâu là vấn đề cốt lõi?
    Câu hỏi Giả định (giúp thăm dò các khả năng và kiểm chứng các giả thuyết, giúp phát huy trí tưởng tượng) …Điều gì sẽ xảy ra nếu…?/ Nếu…, bạn nghĩ thế nào?/ Nếu…, bạn đồng ý hay phản đối?/ Ta có thể đưa ra giả định nào thay thế?/ Có cách thay thế nào không?/ Nếu điều đó xảy ra, nó có thể gây ra hậu quả gì? Tại sao?
    Câu hỏi xác định nguồn thông tin? (giúp đánh giá mức độ tin cậy, trung thực của thông tin)     …Dữ liệu được thu thập như thế nào?/ Bạn sử dụng phương pháp nào để thu thập?/Tại sao bạn nghĩ thông tin mình đưa ra là có thể tin cậy được?/ Tại sao bạn nghĩ rằng điều đó là đúng?/ Có lý do nào để nghi ngờ bằng chứng này không?/ Đây là ý kiến của bạn hay là bạn lấy từ một nguồn nào khác?
    Câu hỏi về sự đánh giá của cá nhân (giúp đánh giá quan điểm, tình cảm, suy nghĩ của cá nhân)    …Bạn nghĩ gì về…?/ Bạn đánh giá như thế nào về…?/ Bạn đã từng ở trong tình huống đó chưa và bạn xử lý ra sao?/ Điều gì khiến bạn tin như thế?

    2. Kỹ năng đặt câu hỏi – Cách hỏi như thế nào là tốt?

    Muốn đặt câu hỏi tốt, bạn cần thực hiện các bước sau:

    Bước 1. Lên kế hoạch

    Việc đầu tiên là bạn cần lên kế hoạch chuẩn bị cho các câu hỏi. Khi lên kế hoạch bạn cần xác định rõ mục đích hỏi. Câu hỏi tốt trước tiên phải có mục đích hỏi rõ ràng, xác định rõ thông tin nào bạn muốn biết, vấn đề nào bạn sẽ hỏi. Hỏi có thể để thúc đẩy người tham dự tìm hiểu các lĩnh vực tư duy mới, thách thức các ý tưởng hiện tại, thăm dò kiến thức, hoặc hỏi đơn thuần chỉ để trao đổi thông tin, kinh nghiệm.

    Bước 2. Đặt câu hỏi

    Mấu chốt của kỹ năng này là hỏi sao cho trúng và đúng thời điểm. Một câu hỏi hay luôn là câu hỏi mang tính sáng tạo, những câu hỏi này khuyến khích sự tư duyTùy thuộc vào hoàn cảnh và đối tượng được hỏi mà bạn nêu câu hỏi sao cho phù hợp. Bạn cần lựa chọn câu hỏi tùy theo mục đích hỏi, có thể là câu hỏi nhớ lại/ miêu tả, câu hỏi phân tích hoặc câu hỏi ứng dụng. Câu hỏi tốt chỉ nên có một ý hỏi . Tránh đưa ra nhiều ý hỏi cùng một lúc khiến người tham dự không biết bắt đầu trả lời từ đâu.

    Đặt câu hỏi mở khéo léo, hấp dẫn cũng là cả một nghệ thuật. Câu hỏi mở sẽ dẫn đến câu trả lời dài hơn, phát huy tác dụng trong một cuộc trò chuyện mở, tìm kiếm thêm thông tin hoặc tham khảo ý kiến người khác. Nên mở rộng các câu hỏi mở, chú ý tính liên tục, chặt chẽ của các câu hỏi. Chẳng hạn nên phát triển những câu hỏi như: Điều gì làm bạn thích nhất/ Điều gì tạo cho bạn sự ấn tượng nhất khi…Hoặc mở rộng…Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm/quan điểm/ thông tin về…

    Trong thời gian ngắn, bạn phải xác định được câu hỏi nào là trọng tâm và câu hỏi nào là câu hỏi phụ. Khi hỏi không định kiến trước, cũng không nên áp đặt. Để thuận lợi trong việc trao đổi người hỏi vẫn có thể đưa ra quan điểm riêng của mình và lắng nghe ý kiến riêng của người được hỏi. Chẳng hạn, có thể bắt đầu bằng những câu như: “Theo ý kiến của tôi/ cảm nhận của tôi thì…/ Tôi tin rằng…”.

    Câu hỏi tốt là câu hỏi dùng từ ngữ phù hợp với vốn từ và trình độ, kinh nghiệm của người được hỏiCần hạn chế từ ngữ chuyên môn sâuKèm theo câu hỏi có thể là những gợi ý, ví dụ để người được hỏi dễ liên hệ, trả lời. Chỉ nên hỏi những câu hỏi mà người được hỏi có kinh nghiệm, kiến thức và sự ham thích. Hãy để cho buổi trao đổi được diễn ra tự nhiên nhất có thể. 

    Bước 3. Lắng nghe, đồng cảm và cùng chia sẻ 

    Một người biết cách lắng nghe có thể hoàn toàn làm chủ được mọi tình huống và sự trao đổi thông tin. Bạn cần quan sát phản ứng của người được hỏi để hiểu người khác thật sự muốn nói gì trong câu trả lời của họ. Sau khi đặt một câu hỏi, cần chú ý tới thời gian chờ đợi, đủ để họ suy nghĩ. Khi hỏi không nên ngắt lời người nói, mà hãy tập thái độ tôn trọng người nói như chính bạn đang nói vậy. Khi bạn thực sự lắng nghe, bạn sẽ khiến cho người khác tin tưởng ở bạn và họ sẽ sẵn sàng cùng bạn chia sẻ.

    Tóm lại, kỹ năng đặt câu hỏi rất quan trọng, cần thiết trong cuộc sống. Nếu biết cách đặt câu hỏi tốt, bạn có thể khuyến khích người đối diện cùng suy nghĩ, cùng tham gia. Hỏi đúng sẽ khiến giao tiếp hiệu quả và trao đổi thông tin chính xác. Hi vọng những gợi ý nêu trên cùng với việc luyện tập thường xuyên sẽ giúp bạn nâng cao khả năng đưa ra những câu hỏi hiệu quả, lắng nghe câu trả lời cẩn thận và đưa ra giải pháp phù hợp trong công việc và cuộc sống của bạn.

    Theo tuanhsl.blogspot.com

  • Dạy đặt câu hỏi thế nào?

    Dạy đặt câu hỏi thế nào?

    Dạy đặt câu hỏi thế nào?

    Bài viết của tác giả Nguyễn Ái Việt tại facebook.com/aiviet.nguyen.9/posts/4658327347576115

    Dạy đặt câu hỏi thế nào?

    1. Tại sao phải dạy cách đặt câu hỏi?

    1. Dạy cổ điển là đọc hộ và viết hộ người học. Người dạy lấy một cuốn sách, đọc, cố gắng tóm lược điểm chính, yêu cầu người học học thuộc các điểm này và nhắc lại. Thực ra là nhồi sọ và làm người học ngày càng lười, mất thói quen tự tìm hiểu, sáng tạo.
    2. Dạy hiện đại là việc người học có thói quen tự đọc các tài liệu, thậm chí tự tìm các tài liệu. Người dạy chỉ cần tương tác với người học bằng các câu hỏi.
    3. Tuy nhiên chất lượng đặt câu hỏi hiện nay trong sinh viên đại học, nhà nghiên cứu và những người làm việc đều thấp. Trách nhiệm vẫn ở việc dạy.
    4. Cần đưa đặt câu hỏi vào đào tạo kỹ năng mềm ở bậc đại học (quick fix). Đồng thời nuôi dưỡng và rèn luyện LIÊN TỤC kỹ năng đặt câu hỏi thành một phần của quá trình học từ tiểu học hoặc sớm hơn, đến trung học.

    2. Các câu hỏi đơn lẻ

    1. Câu hỏi factual: Gồm 4 câu hỏi Cái gì, Ai, Khi nào, Ở đâu? Các câu hỏi này ngày nay được xử lý nhờ máy tìm kiếm. Tuy vậy, nó giúp hình thành khái niệm. Cần gắn với kỹ năng ngôn ngữ. Các câu hỏi này trợ giúp cho việc hình thành các mệnh đề, câu chứa thông tin hoàn chỉnh, tránh các câu nói sáo mòn không chứa thông tin.
    2. Câu hỏi tại sao: Mang tính nhân quả. Vì vậy bao giờ cũng có 2 mệnh đề liên hệ tới 2 câu hỏi factual để hình thành 1 câu hỏi tại sao. Việc ghép 2 mệnh đề tức là “phát hiện” một mối quan hệ nhân quả. Ví dụ: 2 mệnh đề “Trời đang mưa” “Tôi đá bóng” sẽ dẫn đến câu hỏi Vì sao KHÔNG đá bóng? Phủ định là một thao tác bản năng của con người. Tuy vậy, phủ định gắn với câu hỏi tại sao là phủ định tích cực. Ngược lại mọi phủ định đều có thể tích cực hóa nhờ câu hỏi tại sao. Phủ định không có lý do tạo thói quen xấu trong tư duy.
    3. Câu hỏi làm thế nào. Câu hỏi này mang tính dẫn đạo và có mục đích. Thực tế luôn tách thành một chuỗi các câu hỏi.
    4. Câu hỏi cảm xúc. Quyết định được đưa ra được hỗ trợ bởi các câu hỏi a.-c. Tuy nhiên chủ yếu quyết định bởi câu hỏi cảm xúc “Bạn thích nhất (không thích nhất) là điều gì?” “Bạn nghĩ gì?”. Đào tạo nhồi sọ thường hay quên câu hỏi này vì câu hỏi này không có đáp án có sẵn.

    3. Chuỗi các câu hỏi

    1. Xác định mục tiêu của quá trình hỏi ?Vấn đề và câu hỏi lớn là gì? Bạn muốn biết về điều gì?
    2. Đảm bảo tính khách quan cho câu trả lời. Tránh áp đặt tình cảm, quyết định có sẵn cho người trả lời như “Bạn thấy ngôi nhà tuyệt vời này có đẹp không?”.
    3. Xây dựng một kiến trúc các câu hỏi liên kết từ thấp tới cao?
    4. Tách các câu hỏi mờ nhạt, đa mục tiêu thành các câu hỏi có mục tiêu duy nhất và rõ ràng.
    5. Lấp vào các chỗ trống về logic bằng các câu hỏi nảy sinh từ câu trả lời câu hỏi trước.
    6. Không khóa chết các câu hỏi cảm xúc như “Bạn có thích cái này không?” Biến nó thành câu hỏi mở “Những điều bạn thích nhất trong cái này là gì?”
    7. Trong quá trình hỏi, không quên mục tiêu và luôn trở lại, hướng tới mục tiêu bằng các câu hỏi thích hợp.

    4. Rèn luyện liên tục

    1. Nguyên tắc chỉ có đơn giản vậy thôi. Nhưng thực hiện không đơn giản mà phải rèn luyện suốt đời.
    2. Điều cần làm là liên tục rèn luyện bằng các topics cụ thể . Để trở thành bản năng.
    3. Sử dụng nội dung nào, thực ra không quan trọng, nếu như bạn dạy đặt câu hỏi đúng. Nếu đặt câu hỏi tốt môn nào cũng có thể dạy hay kể cả giáo dục công dân, đạo đức hay chính trị.
    4. Ngày nay kiến thức là vô tận và truy cập dễ dàng, học kiến thức là để rèn luyện phương pháp để tự học.

    Mời bạn xem thêm Kỹ năng đặt câu hỏi – Cách hỏi như thế nào là tốt?