Tag: thơ

  • Bài thơ Cộng trừ nhân chia phân số

    Bài thơ Cộng trừ nhân chia phân số

    Bài thơ Cộng trừ nhân chia phân số

    Bài thơ Cộng trừ nhân chia phân số

    Cộng hai phân số với nhau
    Mẫu cùng: tử trước tử sau cộng vào
    Nếu mà khác mẫu thì sao?
    Quy đồng mẫu số, cộng vào như trên.
    Mẫu chung ta phải giữ nguyên
    Rút gọn (nếu có) chớ quên bạn à.
    Trừ hai phân số thì ta
    Giống như phép cộng thay là trừ thôi.
    Nhân hai phân số biết rồi
    Tử sau tử trước bạn ơi nhân nào

    Tiếp tục hai mẫu nhân vào
    Rút gọn (nếu có) thế nào cũng ra.
    Chia hai phân số sẽ là
    Phân số thứ nhất chúng ta nhân cùng
    Số chia đảo ngược là xong
    Bạn làm tốt nếu THUỘC LÒNG đó nha.

    Cộng, trừ, nhân, chia các phân số

    Bài thơ Cộng trừ nhân chia phân số

    Tác giả: Trần Xuân Kháng

    Phép cộng, (trừ) phân số
    Cùng mẫu số tính sao?
    Cộng, (trừ) tử số vào
    Và giữ nguyên mẫu số.

    Các bạn cần ghi nhớ
    Nếu mẫu số khác nhau
    Quy đồng chúng mau mauF
    Rồi cộng, trừ tử sau
    Mẫu giống nhau giữ (nguyên) nhé!

    Nhân phân số nghe vẻ
    Cách tính dễ lắm thay
    Tử nhân tử số ngay
    Mẫu nhân mẫu như vậy
    Kết quả ắt sẽ thấy

    Phép chia hơi khác đấy
    Lấy phân số bị chia
    Nhân đảo ngược số kia
    Thì sẽ ra kết quả

    Học hành hơi vất vả
    Nhưng không quá khó đâu
    Chúng mình ráng bảo nhau
    Nhớ mấy câu thầy dạy

  • Bài thơ đọc ngược đọc xuôi theo 8 cách!

    Các Bài thơ đọc ngược đọc xuôi (còn gọi là thơ nghịch đảo – Lục chuyển hồi văn) là những bài thơ mà đọc xuôi hay ngược đều có ý nghĩa. Ngoài ra, còn có một bài thơ rất kỳ lạ, tựa đề là “Cảnh xuân” có thể đọc ngược, đọc xuôi, cắt đầu, cắt đuôi từng câu mà vẫn cực hay. 

    Bài thơ đọc ngược đọc xuôi hay nhất

    Theo thông tin tham khảo thì bài “CẢNH XUÂN” của tác giả Nguyễn Vân Thiên, còn có bút hiệu Thiện Mỹ Giang. Bài thơ “Cảnh Xuân” không phải là sáng tác “độc lập”, mà được tác giả viết bài thơ này lồng vào 1 truyện ngắn đề là “Khai Bút Đầu Xuân”, và truyện ngắn này đã được đăng trên Tạp chí NGÀN THÔNG số Xuân năm 1972 { Tòa soạn chung với Tuổi Hoa: 38 Kỳ Đồng, Q.3, Saigon)

    Bài thơ đọc ngược đọc xuôi theo 8 cách! 1

    Không biết tác giả là ai, nhưng khi đọc bài thơ này ta vô cùng khâm phục tác giả của bài thơ, càng thêm yêu quý và càng phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt. Vậy mà có kẻ bày ra thứ trò cải tiến nhảm nhí và muốn phá hoại chữ nghĩa của bao thế hệ tổ tiên để lại.

    Cách đọc thứ nhất là đọc xuôi, bình thường:

    “Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
    Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
    Hoa cài giậu trúc cành xuân biếc
    Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
    Qua lại khách chờ sông lặng sóng
    Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
    Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
    Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười”.

    Đến cách đọc thứ hai, là đọc ngược từ phải sang trái và từ dưới lên:

    “Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
    Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
    Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
    Sóng lặng sông chờ khách lại qua
    Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
    Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
    Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
    Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta”

    Cách đọc thứ ba, là đọc xuôi như cách đọc thứ nhất, nhưng mỗi câu thơ bỏ hai từ đầu:

    “Cảnh xuân ánh sáng ngời
    Thơ rượu chén đầy vơi
    Giậu trúc cành xanh biếc
    Hương xuân sắc thắm tươi
    Khách chờ sông lặng sóng
    Thuyền đợi bến đông người
    Tiếng hát đàn trầm bổng
    Bóng ai mắt mỉm cười”

    Cách đọc thứ tư, là đọc ngược từ phải sang trái, từ dưới đọc lên, mỗi câu thơ lại bỏ hai từ cuối:

    “Mắt ai bóng thướt tha
    Đàn hát tiếng ngân xa
    Bến đợi thuyền xuôi ngược
    Sông chờ khách lại qua
    Sắc xuân hương quyện lá
    Cành trúc giậu cài hoa
    Chén rượu thơ vui thú
    Ánh xuân cảnh mến ta”

    Cách đọc thứ năm là đọc ngược từ phải sang trái, mỗi câu bỏ ba từ đầu:

    “Cười mỉm mắt ai
    Bổng trầm đàn hát
    Người đông bến đợi
    Sóng lặng sông chờ
    Tươi thắm sắc xuân
    Biếc xanh cành trúc
    Vơi đầy chén rượu
    Ngời sáng ánh xuân”

    Cách đọc thứ sáu, là đọc xuôi, mỗi câu bỏ 3 từ cuối:

    “Ta mến cảnh xuân
    Thú vui thơ rượu
    Hoa cài giậu trúc
    Lá quyện hương xuân
    Qua lại khách chờ
    Ngược xuôi thuyền đợi
    Xa ngân tiếng hát
    Tha thướt bóng ai”

    Cách đọc thứ bảy, là đọc xuôi, mỗi câu thơ bỏ bốn chữ đầu:

    “Ánh sáng ngời
    Chén đầy vơi
    Cành xanh biếc
    Sắc thắm tươi
    Sông lặng sóng
    Bến đông người
    Đàn trầm bổng
    Mắt mỉm cười”

    Còn cách đọc thứ tám, là đọc ngược từ dưới lên, mỗi câu lại bỏ bốn từ cuối:

    “Bóng thướt tha
    Tiếng ngân nga
    Thuyền xuôi ngược
    Khách lại qua
    Hương quyện lá
    Giậu cài hoa
    Thơ vui thú
    Cảnh mến ta”

    Các bài thơ đọc ngược đọc xuôi khác

    Hàn Mặc Tử cũng là một nhà thơ có nhiều bài thơ nghịch đảo, xin giới thiệu cùng bạn đọc.

    Bài thơ đọc ngược đọc xuôi theo 8 cách! 2

    Đi thuyền (Hàn Mặc Tử – Lục chuyển hồi văn)

    Bài thơ gốc:

    Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông
    Cỏ mọc bờ xa bóng liễu trông
    Chèo vững thiếp qua vời khổ hải
    Chí bền chàng đến vận trung không
    Theo lần nguyệt xế mây mờ mịt
    Hoạ đáp thông reo trống não nồng
    Neo thả biết đâu nơi định trước
    Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông

    Đọc ngược:

    Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo
    Trước định nơi đâu biết thả neo
    Nồng não trống reo thông đáp họa
    Mịt mờ mây xế nguyệt lần theo
    Không trung vận đến chàng bền chí
    Hải khổ vời qua thiếp vững chèo
    Trông liễu bóng xa bờ cỏ mọc
    Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo

    Cửa sổ đêm khuya (Hàn Mặc Tử – Lục Chuyển Hồi Văn)

    Bài thơ gốc:

    Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
    Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
    Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
    Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
    Xa người nhớ cảnh tình lai láng
    Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
    Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
    Hoà đàn sẵn có dế bên tường.

    Đọc ngược:

    Tường bên dế có sẵn đàn hòa
    Lá ủ dâu ngàn yến lại qua
    Bàng bẽ rượu thơ ngâm bạn vắng
    Láng lai tình cảnh nhớ người xa
    Hương đưa gió thoảng mai hờ hững
    Sóng gợn hồ in liễu thướt tha
    Vương vấn nỗi thêm buồn cảnh lạ
    Gương lồng cửa rọi nguyệt cười hoa

    Vô Đề (Vua Tự Đức – Lục Chuyển Hồi Văn)

    Bài thơ gốc:

    Gương tà nguyệt xế đã ngoài song
    Héo hắt sao trông quá sức trông
    Thương bấy thiết tha lòng héo liễu
    Nhớ thêm vàng vọ má phai hồng
    Vương sầu xiết tưởng chi ngôi bắc
    Ðoạn thảm xui buồn vã chạnh đông
    Chàng hỡi biết chăng ai bực bội
    Loan hàng viết thảo tả tình chung

    Đọc ngược:

    Chung tình tả thảo viết hàng loan
    Bội bực ai chẳng biết hỡi chàng
    Đông chạnh vã buồn xui thảm đoạn
    Bắc ngôi chi tưởng xiết sầu vương
    Hồng phai má vọ vàng thêm nhớ
    Liễu héo lòng tha thiết bấy thương
    Trông sức quá trông sao héo hắt
    Song ngoài đã xế nguyệt tà gương

    Đền Ngọc Sơn (Khuyết Danh – Lục chuyển hồi văn)

    Bài thơ gốc:

    Linh uy tiếng nổi thật là đây:
    Nước chắn, hoa rào, một khoá mây.
    Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng,
    Tím bầm rêu mọc, đá tròn xoay.
    Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng,
    Khách vắng khi đưa xạ ngát bay.
    Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng,
    Rành rành nọ bút với nghiên này.

    Đọc ngược:

    Này nghiên với bút nọ rành rành:
    Thắng cảnh đồn vang tiếng thị thành.
    Bay ngát xạ đưa khi vắng khách;
    Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh.
    Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím;
    Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh.
    Mây khoá một rào hoa chắn nước,
    Đây là thật nổi tiếng uy linh.

  • CHẬM LẠI MẸ ƠI!

    CHẬM LẠI MẸ ƠI!

    Trong cuộc sống hiện đại quá vội vã này, đôi khi chúng ta cần chậm lại, sống chậm lại để cảm nhận mọi thứ xung quanh, để thực sự là sống thay vì tồn tại. Chúng tôi xin giới thiệu bài thơ Slow down Mummy của tác giả Rebekah.Knight, người dịch Amy Dương.

    “Bất cứ ai yêu thích âm nhạc hơn tiếng ồn, niềm vui hơn lạc thú, tâm hồn hơn vàng bạc, công việc sáng tạo hơn chuyện kinh doanh, đam mê hơn trò khờ dại, sẽ không thể tìm thấy một mái nhà trong thế giới tầm thường của chúng ta.” – Herman Hesse.

    chậm lại mẹ ơi


    CHẬM LẠI MẸ ƠI!

    Chậm lại mẹ ơi, không cần phải vội,
    Chậm lại mẹ ơi, có gì mà rối?
    Chậm lại mẹ ơi, hãy pha một tách trà.
    Chậm lại mẹ ơi, hãy đến và dành thời gian với con.

    Chậm lại mẹ ơi, chúng ta hãy mang ủng ra ngoài đi dạo, hãy đá vào đống lá, mỉm cười và khúc khích chuyện trò.

    Chậm lại mẹ ơi, mẹ trông mệt mỏi quá,
    Hãy đến ngồi, rúc vào chăn và nghỉ ngơi với con chốc lát.

    Chậm lại mẹ ơi, chén bát bẩn có thể đợi,
    Chậm lại mẹ ơi, cùng chơi đùa, nướng bánh nào!

    Chậm lại mẹ ơi! Con biết mẹ làm việc rất nhiều, nhưng mẹ ơi, đôi khi thật tuyệt khi mẹ dừng lại.

    Hãy ngồi với chúng con một chút,
    Lắng nghe ngày của chúng con.

    Tận hưởng những khoảnh khắc quý giá,
    Bởi vì tuổi thơ của chúng con sẽ không mãi ở đây…

  • Cách mở bài Tây Tiến

    Để làm tốt Bộ đề thi thử Văn tác phẩm TÂY TIẾN thì phần mở bài rất quan trọng. Dưới đây chúng tôi giới thiệu các cách mở bài Tây Tiến tương ứng với từng dạng đề thi.

    Cách mở bài Tây Tiến

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 1

    Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp” và “quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm”. Vậy tình cảm chứ không phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của người nghệ sĩ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: “Tây Tiến” – bài thơ mang chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 2

    Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài trong nhiều thể loại văn học từ viết văn, làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc… Trong đó, ông được biết đến nhiều hơn trong lĩnh vực thơ ca, với phong cách nghệ thuật độc đáo cùng hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng, Quang Dũng đã mang đến cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc mang màu sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là viết về hình tượng người lính: vừa kiên cường bất khuất lại vừa hào hoa phong nhã. Đặc biệt, bài thơ Tây Tiến cho ta thấy rõ nét nhất về phong cách nghệ thuật và những nét mới mẻ này của Quang Dũng. Tây Tiến được viết vào năm 1948, khi Quang Dũng phải chuyển đơn vị công tác nhưng vẫn luôn nhung nhớ về đồng đội, về đơn vị cũ. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng, nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đồng đội và người dân Tây Bắc, đồng thời cũng phác họa chân dung người lính Tây Tiến đầy sống động, chân thực với những vẻ đẹp kiêu dũng, hào hoa lãng mạn.

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 3

    Ẩn sau cái vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ đầy thơ mông của thiên nhiên vùng núi rừng Tây Bắc là biết bao hiểm nguy đang rình rập. Dường như cảnh hùng vĩ của núi non ấy đã làm nổi bật lên vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến, họ như một tượng đài bất diệt, vừa mang vẻ đẹp kiêu hãnh, bất khuất của người lính cụ Hồ vừa mang vẻ tài hoa phong nhã của những chàng trai Hà thành. Bài thơ “Tây Tiến” được tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực về sự tàn khốc của chiến tranh, những nỗi gian lao vất vả của người lính trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng, những điều đó không làm họ chùn bước, những người lính vĩ đại ấy vẫn luôn lạc quan yêu đời và chiến đấu một cách anh dũng kiên cường.

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 4

    Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?
    Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
    Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…
    Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhoà sắc ban.

    (Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)

    Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 5

    Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Thơ của ông thường viết về thời kỳ kháng chiến với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người, đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Bài thơ Tây Tiến chính là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Tây Tiến sáng tác năm 1948 gợi cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và người chiến binh Tây Tiến. Gợi tả về những vẻ đẹp ấy, ngòi bút Quang Dũng đã thể hiện rất xuất sắc với sự chứa chan về cảm xúc.

    Mở bài cảm nhận bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Những năm tháng khói lửa bom đạn trong chiến tranh gian khổ đã đi qua nhưng những bài thơ, lời ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang mãi tới bây giờ. Thơ ca thời kỳ kháng chiến luôn khắc họa những hình ảnh chân thực về những con người góp phần làm cho đất nước thống nhất, trong đó có người lính Việt Nam. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được cảnh vật núi rừng Tây Bắc hùng vĩ mà nên thơ cùng hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn mà vẫn rất dũng cảm, oai hùng và bi tráng trước sự hi sinh vì tổ quốc.

    Mở bài mẫu 2

    Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu,phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

    Mở bài mẫu 3

    Nguyễn Đình Thi từng viết: “Thích một bài thơ là thích một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, xét đến cùng là thích một con người”. Giữa rừng thơ kháng chiến đầy sắc khoe hương đang nở rộ, “Tây Tiến” vẫn được người đọc rất ưa thích, đơn giản vì “một cách nhìn, một cách cảm, một cách nghĩ” ấy mà thôi. “Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng.

    Mở bài mẫu 4

    Nhận xét về áng thơ của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: “Tây Tiến là đứa con tráng kiện và hào hoa của đời thơ Quang Dũng.” Thật vậy, bài thơ đã ghi lại dấu son trên hành trình nghiệp cầm bút của thi sĩ, đồng thời khắc sâu vào lòng bạn đọc những ấn tượng đặc biệt về một thời hào hùng của dân tộc.

    Mở bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét về bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

    Mở bài mẫu 2

    Chiến tranh đã qua đi, những hạt bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, họ đã dùng máu và nước mắt của mình tô lên hai chữ “độc lập” của dân tộc. Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong giai đoạn lịch sử khốc liệt những 1945 – 1954. Qua bài thơ này, Quang Dũng đã dùng bút lực của mình để vẽ lên thi đàn văn chương một bức tượng đài người lính Tây Tiến vừa lãng mạn hào hoa, vừa hào hùng bi tráng.

    Mở bài mẫu 3

    Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.

    Mở bài mẫu 4

    Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.

    Mở bài mẫu 5

    Một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu, phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

    Mở bài mẫu 6

    Thơ ca cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Những bài thơ, ca khúc đã đi sâu vào trái tim của triệu triệu đồng bào về một thời khói lửa chiến tranh. Hình ảnh những người lính bước vào trang thơ cũng rất tự nhiên và gần gũi, là một đề tài quen thuộc trong thơ cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân là những người thanh niên trí thức Hà thành. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn và cũng rất dũng cảm, ngàng tàng cùng vẻ đẹp bi tráng.

    Mở bài mẫu 7

    Quang Dũng là một nhà thơ chiến sĩ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu của một con người tài hoa, đa tài. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, là kết tinh của những trải nghiệm trong cuộc đấu tranh chống Pháp cùng những người đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến. Thành công nổi bật của của bài thơ là xây dựng được hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của những người chiến sĩ thuở trước, vừa mang những vẻ đẹp hiện đại của những người chiến sĩ chống Pháp, kiên cường nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã.

    Mở bài mẫu 8

    Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và trái tim thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.

    Mở bài mẫu 9

    Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc biệt là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ, vừa mơ mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường, anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.

    Mở bài mẫu 10

    Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.

    Mở bài mẫu 12

    Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta sẽ nhớ ngay những người lính nông dân trong Đồng Chí, Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Và cũng không thể không nhắc đến người lính Tây Tiến trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh mà anh dũng, kiên cường.

    Mở bài phân tích bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    “Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bồng bềnh như mơ… Gặp lại dấu chân cha ông, gặp lại chín năm gian khổ”. Những giai điệu trong bài hát Hành quân lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn một lần đưa ta ngược về thời gian, vượt qua khoảng cách không gian về với núi rừng Tây Bắc của một thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn chương nói chung và văn học thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có vị trí đặc biệt. Đọc Tây Tiến người ta không chỉ thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính mà còn ấn tượng sâu sắc về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng, lãng mạn.

    Mở bài mẫu 2

    Thế giới được tạo lập không phải một lần nhưng mỗi lần người nghệ sĩ xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập. Cỏ cây hoa lá vẫn ở đó, vẫn là cuộc sống thường ngày xung quanh ta nhưng sao khi vào những trang thơ, áng văn lại trở nên đẹp đến lạ kỳ! Hình ảnh thiên nhiên vùng Tây Bắc luôn làm chúng ta bất ngờ như thế qua từng câu chữ của “Tây Tiến”.

    Mở bài mẫu 3

    Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong nhà thơ những cảm xúc riêng để rồi bức tranh ấy đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.

    Mở bài mẫu 4

    Mỗi một vùng đất mà con người có cơ hội đặt chân đến ắt hẳn sẽ ít nhiều để lại trong lòng họ những ấn tượng khó phai. Với Quang Dũng thì Tây Bắc – nơi đoàn binh của ông đã từng sống và hoạt động không chỉ là một miền nhớ dạt dào bởi ở đó có bóng dáng của những người đồng đội thân thương mà nó còn để lại trong tâm trí nhà thơ những dấu ấn về hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên ấy, tuy hoang sơ, xa xôi, hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng và trữ tình. Những kí ức tươi đẹp về thiên nhiên của vùng đất Tây Bắc đầy kỉ niệm của một thời lính trẻ sẽ được Quang Dũng thể hiện trong những vần thơ của thi phẩm “Tây Tiến”.

    Mở bài mẫu 5

    Thơ Quang Dũng vừa có hơi hướng cổ điển vừa mới mẻ hiện đại. Ông có một hồn thơ tài hoa, tinh tế đa cảm. “Tây tiến” là bài thơ đặc sắc của Quang Dũng. Bài thơ thể hiện nỗi nhơ thương da diết cháy bỏng về đồng đội Tây Tiến hào hoa kiêu dũng chiến đấu giữa miền tây hùng vĩ lệ.Bài thơ thành công một phần là là nhờ cách xây dựng hình tượng núi rừng Tây bắc hùng vĩ diễm lệ.

    Mở bài mẫu 6

    Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ, không ai không thể không nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ một vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành Tây Tiến vì nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm hứng chủ đạo chứ ko cần đến từ “nhớ”

    Mở bài mẫu 7

    Tác phẩm “Tây Tiến” là một trong tác phẩm thành công nhất của chàng thi sĩ Hà thành Quang Dũng. Từ thiên nhiên hùng vĩ tới tâm tình người lính trẻ đều được nhà thơ khắc họa chân thực, đầy kiêu hùng. “Tây Tiến” giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn lãng mạn của chàng trai Hà Nội – Quang Dũng. Đường ra trận dù hiểm nguy, cái chết cận kề nhưng vẫn có những phút giây thư thái ngắm nhìn thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.

    Mở bài mẫu 8

    Bài thơ Tây Tiến biểu hiện một nỗi nhớ da diết mênh mang về người, về cảnh, về những kỉ niệm mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua. Quang Dũng đã sống những tháng ngày không thể nào quên trong cuộc đời cầm súng và cầm bút của mình. Hình tượng nhân vật trữ tình trung tâm bài thơ là người lính hào hoa, lãng mạn. Họ tự dấn thân vào cuộc chiến đấu với ý chí quyết tâm lớn với những ước mong cao đẹp và một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm. Bức tranh Tây Tiến vừa thơ mộng, trữ tình, dịu êm, vừa dữ dội, kì vĩ được khắc họa đậm nét qua nỗi nhớ thiết tha của người lính.

    Mở bài phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Quang Dũng là nhà thơ lãng mạn, tài hoa. Bài thơ Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho sáng tác của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc. Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang. Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

    Mở bài mẫu 2

    Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: “ Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:

    Mở bài mẫu 3

    Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là của những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu và rất mực tài hoa lãng mạng. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 4

    Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.

    Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đột xuất mà vẫn là sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.

    Mở bài mẫu 5

    Và cũng có một bài thơ như thế, những năm tháng như thế, khắc sâu vào tiềm thức bao nhiêu thế hệ người Việt ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai. Đó là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước và cả sự chiến đấu và hy sinh cao cả, trong đó đẹp nhất là hình ảnh người lính. Có rất nhiều bài thơ khai thác đề tài này, và bài “Tây Tiến” của Quang Dũng được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất. Bài thơ là nỗi nhớ về một thời chiến đấu gian khổ nhưng anh hùng của chính nhà thơ bên cạnh đoàn quân Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 6

    Tây Tiến bài thơ được viết trong giai đoạn nước nhà căng mình để chiến đấu chống thực dân Pháp. Bài thơ giúp người đọc cảm nhận được tình đồng đội trong thời chiến, nhớ binh đoàn hùng mạnh Tây Tiến đặc biệt là trong đoạn đầu tiên.

    Mở bài phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ biển rì rào cát trắng mà nó còn ở trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi Tây Bắc và phẩm chất của những người lính qua tác phẩm “Tây Tiến”. Ông sáng tác bài thơ vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết là những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể hiện tinh tế qua đoạn thơ thứ 2.

    Mở bài mẫu 2

    Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thể hiện những nỗi niềm, tình cảm của mình về vùng đất Tây Bắc – nơi mà đoàn binh Tây Tiến của ông đã có rất nhiều những kỉ niệm tươi đẹp với đất, với người. Ngay từ khi đọc những dòng thơ đầu của tác phẩm có lẽ người đọc đã thấy ấn tượng về thiên nhiên Tây Tiến với sự hùng vĩ, hoang sơ và có lúc thật dữ dội, nguy hiểm khiến bước chân của người lính cũng trở nên mỏi mệt, rã rời. Thế nhưng, đến khổ thơ thứ hai, những mỏi mệt, rã rời ấy như lùi ra xa nhường chỗ cho không khí tươi mới của một đêm liên hoan ấm tình quân dân nhưng cũng chất chứa những suy tư chính ở nơi doanh trại.

    Mở bài mẫu 3

    Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tinh tế và lãng mạn – được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc họa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm, nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc họa rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy.

    Mở bài mẫu 4

    Quang Dũng là một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, là nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là thi phẩm nổi tiếng nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mà mỹ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có những kỉ niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến thuở nào:

    Mở bài mẫu 5

    Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 6

    Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm (1921-1988). Là nhà thơ với một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa. Trong thơ Quang Dũng thường kết hợp hiện thực và chất men say lãng mạn tại nên nét độc đáo trong thơ ông. Chính vì vậy ông được mệnh danh là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình Quang Dũng để lại nhiều bài thơ có giá trị trong đó phải kể đến “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ khắc họa thành công bức chân dung người lính Tây Tiến mà còn là vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi vùng núi Tây Bắc được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ thứ 2.

    Mở bài phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

    Mở bài mẫu 2

    Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ rất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ, ông còn biết sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng mạn, hào hoa, thấm đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện cái tình đó của Quang Dũng. Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang Dũng cho rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ được nảy sinh trong những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống và chiến đấu không thể nào quên của cuộc đời người lính

    Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về kỉ niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ.

    Mở bài mẫu 3

    Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mĩ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc… Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…

    Mở bài mẫu 4

    “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường. Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ Tây Tiến này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài “Tây Tiến”, đã khắc hoạ khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa.

    Mở bài mẫu 5

    Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ.

    Mở bài phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Mọi thứ có thể bị lãng quên nhưng những người con đã hi sinh vì đất nước, vì dân tộc thì mãi mãi được khắc ghi, sống mãi với thời gian. Những người lính vĩ đại của dân tộc được khắc họa trong những áng văn thơ cũng sẽ là những bức tượng đài uy nghiêm trường tồn mãi mãi với thời gian. Những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến cũng là những người như vậy. Khổ cuối bài thơ một lần nữa khắc họa lên những đặc điểm đáng quý của những người lính đó.

    Mở bài mẫu 2

    Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 3

    Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà thơ vào những câu chữ:

    Mở bài mẫu 4

    Tây Tiến là một trong những bài thơ được xem là hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.

    Mở bài mẫu 5

    Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. – Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. – Bài thơ bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ . Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến : Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Mở bài vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính. Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, hào hùng, đậm chất bi tráng, Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

    Mở bài mẫu 2

    Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.

    Mở bài mẫu 3

    Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng, là thành tựu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Trần Lê Văn đã từng có những nhân xét như: “Trước Tây Tiến Quang Dũng đã có những khúc dạo đàn khá hay nhưng thật sự chỉ đến Tây Tiến Quang Dũng mới thực sự trình làng một phong cách thơ, một diện mạo thơ”. Đó là một phong cách hồn hậu, hào hoa. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 4

    Trong thời kì đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng trung tâm được nhiều nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng là một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến chống Pháp trong đó có vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.

    Mở bài mẫu 5

    Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn – Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hoà, hào hoa, bi tráng.

    Mở bài vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Đối với một tác phẩm văn chương, nhất là thơ ca, ngôn ngữ chính là chất liệu. Chất liệu có tốt, tác phẩm mới có hồn. nói như Pautopxki: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, đã mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. Với việc lựa chọn, sử dụng ngôn từ, Quang Dũng đã rất thành công trong việc thể hiện tiếng nói của tình cảm, của trái tim ông qua bài thơ Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 2

    Giả Đảo thời Đường đã từng chiêm nghiệm:

    “Nhị cú tam niên đắc
    Nhất ngâm song lệ lưu”

    (Hai câu làm mất ba năm
    Một ngâm, lã chã hai hàng lệ rơi)

    Làm được những câu thơ vừa ý mình chưa bao giờ là đơn giản với một nhà thơ, vừa ý người đọc lại càng là chuyện khó khăn. Ấy thế mà, vẫn có những bài thơ tuyệt bút có thể khiến “kinh nhân”, xao xuyến mãi không thôi. Với vẻ đẹp ngôn ngữ, “Tây Tiến” là một bài thơ như thế.

    Mở bài cảm hứng lãng mạn ở bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.

    Mở bài mẫu 2

    Có một thời, nhắc đến khái niệm “lãng mạn” người ta thường đồng nhất nó với những gì xa rời thực tế, cá nhân, tiêu cực, mềm yếu… và người ta phản đối, phê phán, thậm chí tẩy chay nó. Nhưng nếu xét đến tận cùng, phần lãng mạn ấy không thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong tâm hồn con người và cái gọi là “lãng mạn” ấy cũng thật nhiều vẻ, nhiều hình. Nó có thể làm con người ta nhỏ lại yếu hèn đi nhưng cũng có thể đem đến cho con người có sức mạnh phi thường để làm nên những điều phi thường. Ta bắt gặp sức mạnh lãng mạn ấy qua Tây tiến của Quang Dũng – một tác phẩm mang đậm chất sử thi, đậm chất lãng mạn anh hùng, lãng mạn cách mạng.

    Mở bài mẫu 3

    Quang Dũng được xem là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông chủ yếu viết về đề tài người lính, bởi bản thân ông xuất thân từ một người chiến sĩ, chính vì vậy đây là cảm hứng chủ đạo để ông sáng tác lên bài thơ Tây Tiến để khắc họa lại hình ảnh của những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của mình.

    Mở bài mẫu 4

    Quang Dũng là một trong những nhà thơ xuất sắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cả trong thơ hiện đại. Quang dũng còn luôn nổi tiếng với hồn thơ lãng mạn, bay bổng tài hoa đậm chất bi tráng và Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu như thế.

    Mở bài mẫu 5

    “Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Bài thơ là sự kết hợp bởi cảm hứng lãng mạn cũng như tinh thần bi tráng.

    Mở bài so sánh hình ảnh đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc

    Mở bài mẫu 1

    Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có một nguồn cảm hứng bao trùm đó là cảm hứng sử thi và lãng mạn. Cảm hứng ấy hướng về cuộc kháng chiến của nhân dân chống thực dân và đế quốc xâm lược. Trong nguồn cảm hứng bất tận ấy, hình tượng người lính là hình tượng được khắc họa rõ nét để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu đã phần nào mang đến cho chúng ta vẻ đẹp sáng ngời ấy.

    Mở bài mẫu 2

    Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắc là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc. Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng.

    Mở bài phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa

    Mở bài mẫu 1

    Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu tác giả tác trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chống thực dân Pháp. Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức giúp nhà thơ khắc họa cảnh sắc thiên nhiên và hình tượng người lính đậm chất hội họa.

    Mở bài mẫu 2

    Trong văn chương, ta thường nghe nói: “Thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Đây là thành ngữ chỉ sự dung hòa trong trong cùng một tác phẩm thơ hai loại hình nghệ thuật: thơ và họa. Tuy nhiên, không phải tác giả nào cũng tiến tới được sự dung hòa đó. Phải là một người đa tài, có con mắt hội họa thiên bẩm. Quang Dũng là một trong số những người tài hoa đó. Chất họa của ông thể hiện rõ trong bài thơ “Tây tiến”. Bài thơ đã tả lại cảnh vật rừng núi Tây Bắc bằng cảm nhận của một họa sĩ.

    Mở bài mẫu 3

    Trong nền văn học Việt Nam, Quang Dũng là nhà thơ được biết đến với cái “tôi” hào hoa, lãng mạn, qua những cảm nhận đầy tài hoa, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người. Bài thơ “Tây Tiến” là thi phẩm thể hiện rõ hồn thơ ấy. Một trong những đặc sắc của bài thơ là chất hội họa được thể hiện qua những hình ảnh và lớp ngôn từ có khả năng kiến tạo nên những đường nét, màu sắc về thiên nhiên cũng như con người, làm nên một tác phẩm “thi trung hữu họa”.

  • Bộ đề thi thử tác phẩm VIỆT BẮC

    Các dạng đề thi bài Việt Bắc của Tố Hữu

    Dạng 1. Cảm nhận về đoạn thơ: Bài này quá dài nên sẽ không thể thi cả tác phẩm Việt Bắc, do đó các em lưu ý mấy đoạn trọng tâm sau:

    • 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc
    • Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu…
    • Chày đêm nện cối đều đều suối xa
    • Đoạn Bức tranh tứ bình: Ta về mình có nhớ ta. thuỷ chung
    • Phân tích 3 khổ thơđầu bài Việt Bắc (bản tình ca về Việt Bắc)
    • Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến: Những đường Việt Bắc của ta…đèo De núi Hồng

    Dạng 2. Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ Việt Bắc, chứng minh nhận định về bài Việt Bắc, Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc, Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu

    Dạng 3. Đề so sánh văn học: so sánh đoạn thơ trong bài Việt Bắc với đoạn thơ trong bài Tây Tiến, đây thôn Vĩ Dạ, Sóng,….

    Dạng 4 : Cảm nhận về 1 phương diện trong nội dụng hoặc nghệ thuật của tác phẩm. Ví dụ: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc, nghệ thuật của cách xưng hô “Mình – Ta” trong “Việt Bắc”, “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”…

    Cách mở bài tác phẩm Việt Bắc

    Biêlinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Tố Hữu chính là một đại biểu xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối trong cuộc đời mình ông đều gắn bó với con đường cách mạng giải phóng dân tộc, là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ của ông luôn gắn bó, song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dễ đi vào lòng người, trở thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ “Việt Bắc” được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954.

    Phân tích một số đoạn thơ Việt Bắc

    Đoạn thơ “Mình về mình có… nói gì hôm nay”

    Cảm nhận về đoạn thơ “Mình về… nói gì hôm nay” trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    – Mình về mình có nhớ ta?
    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
    Mình về mình có nhớ không
    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

    Tiếng ai tha thiết bên cồn
    Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
    Áo chàm đưa buổi phân ly
    Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

                       (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)

    I. MỞ BÀI

    • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tham khảo phần mở bài chung
    • Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Kết cấu bài thơ:

         – Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.

         – Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

    1.3. Đề tài:

              – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ

    2.1. Khái quát

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

    2.2. Bốn câu thơ:

    “Mình về mình có nhớ ta
    Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.

    Mình về mình có nhớ không
    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

    Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại

         – Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” và Mình về mình có nhớ không”, hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra về hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình – ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ “mình có nhớ” thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại.

         – Cụm từ “mình có nhớ” được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. “Việt Bắc” là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ:

                                        Mình về thành thị xa xôi

                                        Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng

                                        Phố đông có nhớ bản làng

                                        Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

         – Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim Trọng:

                                        Những là dày ước mai ao

                                        Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình

         Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc:

                                        Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

                                        Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

                                        Bác về im lặng con chim hót

                                        Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

         Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về xuôi.  Mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, mười lăm năm “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, …làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên những ngày tháng ấy.

         – Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Phải chăng người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.

    => Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.

    2.3.  Bốn câu thơ:      Tiếng ai tha thiết bên cồn
                             Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
                                     Áo chàm đưa buổi phân ly
                             Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

     Tiếng lòng của người ra đi

    *Hai câu đầu:

         – Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câu hỏi của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ tình đầy sâu lắng. Đại từ “ai” tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi, thân thương  và chỉ người ở lại. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến… Bởi vậy, đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.

         – Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và bồn chồn.       

         +“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn.

         + “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nôn nao.

    Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay tâm trạng ấy của người ra đi “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ vừa tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi. 

    *Hai câu sau:  

         – Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó “áo chàm” là biện pháp nghệ thuật hoán dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng bộ phận để chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là màu sắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi không bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân tình, thủy chung:

    Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

    Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhòa

         Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ, nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung.

         – Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnh có giá trị biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Cả người đi và kẻ ở đều có bao nhiêu điều muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời. Và có lẽ ngôn ngữ cũng không đủ để diễn đạt bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là cách thể hiện tình cảm. Họ cầm tay nhau mà không biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào. Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay thôi đã đủ nói lên tất cả. Giống như những người lính trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà nắm lấy tay nhau:

                                                  Áo anh rách vai

                                                  Quần tôi có vài mảnh vá

                                                  Miệng cười buốt giá

                                                  Chân không giày

                                                  Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

                                                                                        (Đồng chí – Chính Hữu)

             Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau vượt lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá nước, là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân. Ba dấu chấm lửng đặt ở cuối đoạn thơ giống như một nốt lặng trong một khuôn để tình cảm cứ ngân dài, sâu lắng.

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

             Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, hoán dụ, tiểu đối… đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

    Đoạn thơ “Mình đi có nhớ… mái đình cây đa”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    “Mình đi, có nhớ những ngày
    Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
    Mình về, có nhớ chiến khu
    Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
    Mình về, rừng núi nhớ ai
    Trám bùi để rụng, măng mai để già.
    Mình đi, có nhớ những nhà
    Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
    Mình về, còn nhớ núi non
    Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
    Mình đi, mình có nhớ mình
    Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Kết cấu bài thơ:

         – Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.

         – Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

    1.3. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách mạng tháng Tám

    2.1. Giới thiệu đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân. Trong đoạn thơ, từ mình lúc được ghép thành “mình đi”, lúc lại thành “mình về” có thể hiểu một cách đơn thuần là chỉ người cán bộ cách mạng nhưng cũng có thể hiểu theo một hướng khác là mình đi hôm nay liệu ngày mai mình có trở về và khi về còn nhớ. Từ “mình” còn được ghép thành các cụm từ “Mình đi, có nhớ”, “mình về, còn nhớ” thành lời ướm hỏi, gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi ra về hãy nhớ.

         – Trong đoạn thơ 12 câu có 4 câu thơ đầu tái hiện những ngày tháng gian khổ trên chiến khu Việt Bắc, 4 câu thơ tiếp theo là những ngày tháng nghĩa tình và 4 câu thơ cuối khẳng định những ngày tháng trên chiến khu Việt Bắc đã làm nên những trang sử vẻ vang của đất nước.

    2.2. Bốn câu thơ:           – Mình đi, có nhớ những ngày

                                  Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

                                          Mình về, có nhớ chiến khu

                                   Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

     Những ngày tháng gian khổ

         – Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa nguồn, suối lũ, mây mù. Núi rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận bão rừng đá nghiêng, cây đổ, những con suối róc rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ cuốn phăng tất cả, rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó rất cao so với mực nước biển. Cảnh sương mù ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong “Tây Tiến” để nói về những khó khăn, gian khổ của người lính:

         Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi

          Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách với người cán bộ cách mạng. Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ miền xuôi chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian khổ. Nhưng cũng từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng khổ, gắn bó chia sẻ cùng nhau.

         –  Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc còn phải sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ. Thiếu thốn nên chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn trám, ăn măng, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui.  Mặc dù khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn cùng nhau vượt qua bởi cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ có tác dụng vật chất hóa, cụ thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước. Nghệ thuật đối lập giữa miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng cao tầm vóc con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, người Việt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng quân thù.

    2.3. Bốn câu thơ:          Mình về, rừng núi nhớ ai

                                 Trám bùi để rụng, măng mai để già

                                        Mình đi, có nhớ những nhà

                                  Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

    Những ngày tháng nghĩa tình

    *Hai câu thơ đầu:

         – Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau hơn. Bởi vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình sâu nặng nên khi phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm nổi lòng mình mà cất lên lời giãi bày, thổ lộ tình cảm.

         – Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết qua hai hình thức gián tiếp và trực tiếp:

         + Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình ảnh thiên nhiên như rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm đầy ý nhị, khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học được từ ca dao:

    Bây giờ mận mới hỏi đào

    Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

    Mận hỏi thì đào xin thưa

    Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

         Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ “rừng núi” chỉ Việt Bắc và người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn tả trong cuộc chia tay này, dường như cả thiên nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ người cán bộ về xuôi.

         Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành, mộc mạc của mình qua hình ảnh trám bùi, măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật của cán bộ kháng chiến, cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:

                                                      Sáng ra bờ suối tối vào hang

                                                           Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

         Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán bộ. Vì thế bài thơ mới có những câu thơ tuyệt bút:

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

         Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà không hề gợi cảm giác lẻ loi, đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về xuôi trám và măng không có người thu hái nên để trám rụng, măng già.

         => Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình cảm nhớ thương, cảm giác lẻ loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về  ta nhớ và  nỗi lòng của con người lan tỏa cả ra thiên nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như cũng ngẩn ngơ, trống trải, buồn bã đến lạ thường.

    *Hai câu thơ sau:

         – Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây vẫn là những hình ảnh được sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia tay. Từ láy”hắt hiu” kết hợp với màu lau xám càng làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, buồn bã của cảnh vật.

         – Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết được tình cảm sâu nặng nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng định trực tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là “đậm đà lòng son”. “Lòng son” là từ ngữ rất đắt để thể hiện tình cảm sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy “đậm đà” cùng nghệ thuật đối lập, đối lập giữa “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son”càng góp phần khẳng định tấm lòng sắc son, cao quý của nhân dân Việt Bắc.

    2.4. Bốn câu thơ:      Mình về, còn nhớ núi non

                              Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

                                     Mình đi, mình có nhớ mình

                              Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

     Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc

         – Người ở lại một lần nữa nhắn nhủ người đi nhớ về Việt Bắc. “Núi non” ở đây là hoán dụ chỉ thiên nhiên, con người Việt Bắc. Núi non này đã từng chở che và cùng cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt Bắc đánh giặc:

                                                    “Nhớ khi giặc đến giặc lùng

                                               Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

                                                      Núi giăng thành lũy sắt dày

                                               Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

         Lời người ở lại gợi nhắc lại những ngày còn là Việt Minh kháng Nhật, là những ngày đầu đầu gian khổ của cuộc kháng chiến, người ở lại mong người về xuôi nhớ ghi những thời khắc lịch sử ấy, bởi “mình – ta” đã gắn bó với nhau từ khi đó để làm nên chiến thắng hôm nay.

         – Ở đoạn thơ 12 câu này cặp từ mình – ta được lặp đi lặp lại 8 lần. Trong đó, mười câu thơ đầu của đoạn thơ “mình” chỉ người ra đi nhưng đến câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” thì từ mình chỉ cả người đi và kẻ ở. Mình với ta chuyển hóa, tuy hai mà một thể hiện tình cảm gắn bó, mặn nồng.

         – Người ở lại còn nhắc đến các tên địa danh Tân Trào, Hồng Thái nay đã trở thành hai di tích lịch sử nổi tiếng, gắn với hai sự kiện quan trọng của cách mạng. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Việt Nam. Đình Hồng Thái là nơi họp quốc dân đại hội phát động khởi nghĩa cách mạng tháng Tám. Những sự kiện lớn lao ấy đã làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, mở ra là những trang sử vẻ vang của dân tộc. Nhắc đến các địa danh này, người ở lại muốn nhắn nhủ người ra đi nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương cách mạng.

    3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật

             – Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu đối… Nét đặc sắc trong đoạn thơ này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để trong các câu thơ tám chữ làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc với người đọc. Đoạn thơ vì thế đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

    Đoạn thơ “Ta với mình… đều đều suối xa”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    – Ta với mình, mình với ta
    Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
    Mình đi, mình lại nhớ mình
    Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

    Nhớ gì như nhớ người yêu
    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
    Nhớ từng bản khói cùng sương
    Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
    Nhớ từng rừng nứa bờ tre
    Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
    Ta đi, ta nhớ những ngày
    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

    Thương nhau, chia củ sắn lùi
    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
    Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
    Nhớ sao lớp học i tờ
    Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
    Nhớ sao ngày tháng cơ quan
    Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
    Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110,111)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó

    2.1. Giới thiệu đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này.  Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng, đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

              – Nếu như đoạn thơ trước nói về nỗi lòng kẻ ở người đi, tái hiện cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn rồi sau đó người ở lại đã hỏi và gợi nhắc người ra đi hãy nhớ về 15 năm gắn bó, nhớ về những ngày tháng gian khổ mà nghĩa tình thì đoạn thơ này đến lượt người ra đi thổ lộ, giãi bày tình cảm của mình. Lời người ra đi gợi lại nỗi nhớ về cuộc sống sinh hoạt trên chiến khu Việt Bắc, khẳng định tình cảm son sắc, chưa về đã nhớ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, thanh bình, yên ả và nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình, nhớ những ngày tháng gian nân mà vẫn lạc quan, yêu đời, tỉnh cảm vẫn gắn bó keo sơn.

    2.2. Bốn câu thơ đầu:   – Ta với mình, mình với ta

                               Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

                                         Mình đi, mình lại nhớ mình

                                   Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

    Người ra đi  khẳng định tình cảm mặn nồng, trước sau như một

          – Trước nỗi lòng của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. “Ta – mình”, “mình – ta”  được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hoà làm một. Câu thơ đầu của đoạn thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình cảm lứa đôi:

                                              Ta với mình tuy hai mà một

                                              Mình với ta tuy một mà hai

         “Đinh ninh” là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không thay lòng đổi dạ.

         – Câu thơ “Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc “Mình đi mình có nhớ mình”. Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng.
         – Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định một lần nữa sự chung thuỷ son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa trên hình ảnh ca dao:

    Công cha như núi Thái Sơn

    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

         Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. “Bao nhiêu” thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô tận khác. Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những người cách mạng về xuôi với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn.

    2.3. Câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”

    Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa:

             – Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi nhớ người yêu, một mối quan hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Thơ ca xưa nay viết về nỗi nhớ trong tình yêu rất nhiều. Ca dao cũng có những câu như:

    Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

    Như đứng đống lửa như ngồi đống than

    Hoặc:

    Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

    Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai

    Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt:

                                                Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

                                                Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi

    Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả:

                                                   Lòng em nhớ đến anh

                                                   Cả trong mơ còn thức

             Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi, mãnh liệt và thường trực… Nỗi nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu đậm của người đi bởi có nỗi nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt hơn nỗi nhớ trong tình yêu.

             – Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi. Cuộc đời mỗi con người đều không tránh được chuyện đi và ở, hội ngộ và chia li. Những mảnh đất đã từng qua, ngững con người đã từng gắn bó đều để lại niềm thương và nỗi nhớ như nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát:

    Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

    Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

             Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên trong  giờ phút chia tay tất cả kỉ niệm trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với những ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu được bày tỏ nỗi lòng.

    2.4. Đoạn thơ:    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

                                Nhớ từng bản khói cùng sương

                                Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

                                Nhớ từng rừng nứa bờ tre

                                Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

    Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng

             – Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là Việt Bắc vào những đêm trăng. “Trăng lên đầu núi” là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp và lãng mạn. Khung cảnh Việt Bắc có ánh trăng chiếu rọi rất nên thơ còn được nhà thơ Tố Hữu miêu tả một lần nữa trong bài thơ:

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

             “Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng dịu nhẹ trải vàng cả núi rừng và nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiên nhiên thơ mộng ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những khoảnh khắc đẹp, gợi những đêm trăng hò hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy.

             – Nỗi nhớ không chỉ trải dài theo thời gian “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya” mà còn trải rộng khắp không gian: Bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê… Nghệ thuật liệt kê đã tái hiện nỗi nhớ vơi đầy của người cán bộ kháng chiến đồng thời khắc họa được vẻ đẹp của quê hương Việt Bắc. Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, những bếp lửa ấp iu nồng đượm, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là rưng rưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm, cảm xúc. Có thể nói mỗi thời gian, không gian này với người về xuôi đều lung linh kỉ niệm, cham chứa yêu thương.    

             – Câu thơ “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” là một điểm nhấn của nỗi nhớ với sự xuất hiện của hình ảnh con người Việt Bắc. Hai chữ “người thương” thật hay, đó là những con người gắn bó với nhau bằng tình sâu nghĩa đậm. “Người thương” ấy là những ai? Đó có thể là người em liên lạc “Sớm bản Na chiều em qua bản Bắc, mười năm tròn không mất một phong thư”, có thể là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, là người mế “Lửa hồng soi tóc bạc/ năm con đau mế thức một mùa dài” như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên cũng đã từng nói đến. Họ là những người đã cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ kháng chiến, là những người mà cán bộ kháng chiến coi như máu thịt, như gia đình. Hai chữ “người thương” vì vậy mà chất chứa biết bao ân tình của người về xuôi.

             – Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), các tên địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê và tiểu đối đều góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng, tạo nên chất nhạc chất họa mê li, say đắm cho khổ thơ.

    2.5. Đoạn thơ:                          Ta đi, ta nhớ những ngày

    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

    Thương nhau, chia củ sắn lùi

    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

    Nhớ người mẹ nắng cháy lung

    Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

    Nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình

             – Hai câu thơ “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” đã khái quát và khẳng định được tình cảm của người ra đi, ta về là ta luôn nhớ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, trong đó “đắng cay” là ẩn dụ cho những gian khổ, vất vả; “ngọt bùi” tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc. Trong nỗi nhớ của người ra đi có những kỉ niệm về những ngày tháng khó khăn, gian khổ những cũng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, có niềm vui chiến thắng, có hạnh phúc tình yêu.

             – Nếu hai câu thơ trước có ý nghĩa khái quát, thì hai câu thơ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” đã cụ thể hóa những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống kháng chiến. Bao nhiêu gian khổ đã cùng nhau nếm trải như thiên nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn kham khổ về vật chất, giặc đến giặc lùng… Khó khăn gian khổ lại làm người cán bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Nghệ thuật đảo ngữ với từ “Thương nhau” được đặt lên đầu cặp lục bát cho thấy đó là căn nguyên, cội nguồn để dẫn đến những hành động nhường cơm, sẻ áo. Sắn lùi là món ăn bình dị, dân dã. Chăn sui được làm từ vỏ cây sui, thô ráp nhưng là thứ duy nhất họ có để xua đi cái giá lạnh của vùng núi cao. Họ phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm sẻ làm đôi, đắp cùng chăn sui để tỏa cho nhau hơi ấm. Các động từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” thể hiện những hành động đầy ân nghĩa của người Việt Bắc, làm người ra đi mãi ghi nhớ, khắc sâu.

             – Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn được thể hiện qua hình ảnh người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây có lẽ là một trong những  hình ảnh in đậm nhất trong lòng người ra đi. Người mẹ  địu con lên nương rẫy trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để  vừa trông nom, che chở cho đứa con thơ bên mình vừa kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của người mẹ dân tộc. Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm:                 

                                           Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội

                                           Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”

             Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình cảm cách mạng thiêng liêng đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành những nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại.

    2.6. Đoạn thơ:

                                   Nhớ sao lớp học i tờ
                               Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
                                        Nhớ sao ngày tháng cơ quan
                                Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
                                        Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
                                 Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

    Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui

             – Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng vừa làm cách mạng vừa diệt giặc dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi cực, tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số nhân dân mù chữ. Muốn làm cách mạng phải dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ “đồng khuya đuốc sáng” cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên một sức sống mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ “những giờ liên hoan” trong câu thơ cho thấy lớp học tuy có những vất vả gian khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là trong những giờ liên hoan sôi nổi.

             – Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưng với tinh thần lạc quan cách mạng người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ rõ ràng. Tinh thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin để ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.

             – Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, thân thương  là âm thanh tiếng mõ tiếng chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi chiều trở về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Những âm thanh của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý, nhớ nhung, nhưng khi xa rồi thì những âm thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến, thổn thức. Lời thơ dứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Từ láy “đều đều” không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các buổi chiều và vào ban đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều đều, êm ả thanh bình trên chiến khu.

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

     Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu đối…Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm trong lòng nhà thơ cũng như bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc.

    Cảm nhận về đoạn thơ “Ta về mình có… ân tình thuỷ chung”

    Ta về, mình có nhớ ta
    Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
    Ngày xuân mơ nở trắng rừng
    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
    Ve kêu rừng phách đổ vàng
    Nhớ cô em gái hái măng một mình
    Rừng thu trăng rọi hoà bình
    Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.111)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

         1.2. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Bức tranh tứ bình về Việt Bắc

    2.1. Giới thiệu về đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Ngoài ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

         – Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần lượt nhắc lại những kỉ niệm gắn bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. Đến đoạn thơ này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó bằng những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây được coi là 10 câu thơ tuyệt bút đạt đến độ toàn bích trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát được nội dung của cả đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông – Xuân – Hạ – Thu.

    2.2.  Hai câu thơ đầu:                       Ta về, mình có nhớ ta

                                        Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

    Hai câu thơ chủ đề cho cả đoạn

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

         – Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. “Ta về” được lặp lại hai lần như xác nhận hoàn cảnh chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra đi ở đây đặt câu hỏi với người ở lại không phải để được trả lời bởi đến đoạn thơ này cả người đi kẻ ở đều đã cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau. Bởi vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình là ra về mà lòng đầy thương nhớ.

         – Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ người. Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc. “Nhớ hoa cùng người” nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. Tố Hữu lựa chọn thật đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa – người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, tương xứng với hoa là con người như người ta thường nói “Người ta là hoa của đất”.

    2.3. Bốn cặp lục bát còn lại là bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc

         – Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa, cân xứng. Chẳng hạn, khi miêu tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng – cúc – trúc – mai, Xuân – hạ – thu – đông; khi miêu tả người thì theo mô-típ ngư – tiều – canh – mục; khi miêu tả các con vật thì là Long – ly – quy – phụng… Trong đoạn thơ này Tố Hữu đã sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc    

         – Sự đối xứng giữa hoa và người khiến bốn cặp lục bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu tả khá thống nhất là cứ câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với màu sắc đặc trưng của từng mùa, tả con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc.

          – Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.

    2.4. Mùa đông:                Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

                                       Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

         – Vẻ đẹp của thiên nhiên: Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu sắc xanh và đỏ thể hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi.

         + Rừng xanh:Mùa đông rừng núi hiện lên trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một không gian rộng lớn tạo thành cái nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt Bắc đã:

    Núi giăng thành lũy sắt dày

    Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

         + Hoa chuối đỏ tươi (nhãn tự): Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng như ngọn lửa ấm thắp sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt của rừng núi vào mùa đông. Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi còn hiện lên như một biểu tượng của niềm tin, của tình yêu, của sự lạc quan như Nguyễn Mỹ cũng hướng đến trong “Cuộc chia li màu đỏ”:

                                                       Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

                                                       Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

                                                        Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi

                                                        Như chưa hề có cuộc chia li 

         – Hình ảnh con người: Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người với công việc lên rừng hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân đã tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin, mang tâm thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống. Tư thế và tâm thế ấy còn được thể hiện một lần nữa trong bài thơ “Lên Tây Bắc” của Tố Hữu thể hiện rõ quan niệm của nhà thơ về con người kháng chiến, trở thành một nét thi pháp đặc sắc trong thơ của ông:

                                        Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

                                         Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

                                        Núi không đè nổi vai vươn tới

                                        Lá ngụy trang reo với gió đèo

         Tâm thế là chủ ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ cùng thời với Tố Hữu như Nguyễn Đình Thi:

                                                    Trời xanh đây là của chúng ta

                                                  Núi rừng đây là của chúng ta

                                                            Những cánh đồng thơm mát

                                                             Những ngả đường bát ngát

                                                             Những dòng sông đỏ nặng phù sa

         Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt cạnh sườn, ánh nắng mùa đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

         – Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu cho con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó.

    2.5. Mùa xuân:                              Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

         – Vẻ đẹp của thiên nhiên:

         + Cụm từ chỉ thời gian “ngày xuân” :Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất, có thần nhất của mùa xuân Việt Bắc.

         + Màu sắc, hình ảnh: Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân gắn với sắc trắng. Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cụm từ “trắng rừng” cho thấy hoa mơ nở trắng, bao phủ cả khu rừng. Núi rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và mang sức sống bất diệt, xôn xao, rạo rực của mùa xuân. Hiện thực đầy mơ mộng này còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong trường ca “Theo chân Bác”:

                                        Ôi sáng xuân nay xuân 41

                                        Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

                                        Bác về im lặng con chim hót

                                        Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

         – Hình ảnh con người: Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến con người Việt Bắc vào mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì dù mùa xuân nhân dân gác lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa xuân con người xuất hiện trong công việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập trung miêu tả qua đôi bàn tay. Hai chữ “chuốt từng” gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng, tài hoa. Sự khéo léo và tài hoa của người đan nón, của con người Việt Nam cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi miêu tả:

    Tay người như có phép tiên

    Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ

         Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng của người dân Việt Bắc. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp:

    Quân đi điệp điệp trùng trùng

    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

    2.6. Mùa hè:

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

         – Vẻ đẹp của thiên nhiên: Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè, tác giả đã đánh thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không chỉ gắn với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của tiếng ve.

         Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu thơ là ở chỗ nó thể hiện được một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng vào mùa hè và khi ve kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc nhưng bông hoa phách ẩn hiện trong tán lá nở rộ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sắc vàng trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” không phải là màu vàng của hoa như những người soạn sách nhiều năm lầm tưởng mà là màu vàng của lá. Trong cuốn Hồi kí nhớ lại một thời khi nói về vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc cùng những gì là “luyến tiếc ngẩn ngơ” khi rời Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã chép lại đoạn thơ đặc sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã chú thích rất rõ ràng về cây phách: Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên (Nhớ lại một thời – Hồi kí – NXB Hội Nhà văn, 2000, trang 302).

             Từ “đổ” là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và đồng loạt của màu sắc. Và chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động khi tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột ngột, đồng loạt đổi sang màu vàng rực rỡ.     – Câu thơ miêu tả mùa hè Việt Bắc gợi ta nhớ đến hai câu Kiều của Nguyễn Du, cũng thể hiện một phản ứng dây chuyền và sự chuyển màu đồng loạt của lá rừng. Khi Thúc Sinh lên ngựa, Thúy Kiều phải buông áo và đúng lúc Kiều buông áo Thúc Sinh thì rừng cây phong đồng loạt đổi màu sang màu đỏ của chia li. Có điều để diễn tả sự động loạt đổi màu của rừng phong, đại thi hào Nguyễn Du đã dùng từ “nhuốm”:

    Người lên ngựa, kẻ chia bào

    Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

         – Hình ảnh con người: Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái măng một mình. Cách gọi “Cô em gái” thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể hiện rõ sự gần gũi, thân thương, trìu mến. Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừng không gợi sự cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân thắm thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”.

         – Có ý kiến cho rằng hai câu thơ về mùa hè rất đẹp, gợi cảm nhưng ít nhiều chưa hợp lí vì cô em gái không thể tìm kiếm, hái măng trong rừng phách. Thế nhưng ta hoàn toàn có thể chấp nhận được vì cảnh vật, con người Việt Bắc ở đây là những vẻ đẹp ấn tượng, kết tinh nhất trong mùa hè và có thể chúng được cảm nhận ở những không gian, vạt rừng khác nhau trên chiến khu cách mạng.

    2.7. Mùa thu:             Rừng thu trăng rọi hòa bình

                                    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

         Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Nếu như bức tranh mùa hè được đánh giá là gợi cảm nhất thì bức tranh mùa thu lại thơ mộng và được miêu tả bằng cách thức khác biệt nhất. Bức tranh cảnh vật không được miêu tả vào ban ngày mà được miêu tả vào ban đêm, không được miêu tả qua màu sắc mà gắn với vẻ đẹp của ánh trăng, con người không xuất hiện qua công việc lao động mà xuất hiện qua tiếng hát.       

    – Vẻ đẹp của thiên nhiên: Ấn tượng đẹp nhất về mùa thu Việt Bắc là những đêm trăng. Ánh trăng sáng trong, mát dịu chiếu rọi khắp núi rừng gợi một không gian huyền ảo, thơ mộng, thanh bình. Ánh trăng Việt Bắc ấy cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ được sáng tác trên chiến khu cách mạng:                             

    Trăng vào cửa sổ đòi thơ

    Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

         – Hình ảnh con người: Đại từ phiếm chỉ “ai” thể hiện cách nói bóng gió, lấp lửng của ca dao, dân ca và ở đây chỉ người Việt Bắc. Trong không gian mờ ảo, thơ mộng, thanh bình của đêm trăng vang lên tiếng hát của người Việt Bắc. Tiếng hát về tình cảm ân nghĩa, thủy chung hòa quyện vào bức tranh cảnh vật không chỉ làm cho bức tranh mùa thu thêm gợi cảm mà còn thể hiện phẩm chất ân tình, thủy chung của người Việt Bắc nói riêng, của người Việt Nam nói chung.

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

         Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện thấm thía… Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu đậm nhất. Trong đó người và cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và con người được đặt trong khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên nhiên Việt Bắc, cho rằng đó là vùng rừng núi xa xôi, heo hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng, đáng yêu biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tươi đẹp.

    Đoạn thơ “Nhớ khi giặc đến… đèo De núi Hồng”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    Nhớ khi giặc đến giặc lùng
    Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
    Núi giăng thành luỹ sắt dày
    Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
    Mênh mông bốn mặt sương mù
    Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

    Ai về ai có nhớ không?
    Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
    Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
    Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
    Những đường Việt Bắc của ta
    Đêm đêm rầm rập như là đất rung
    Quân đi điệp điệp trùng trùng
    Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
    Tin vui chiến thắng trăm miền
    Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
    Vui từ Đồng Tháp, An Khê
    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.112,113)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc

    2.1. Giới thiệu đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Trong đó đoạn thơ này là lời người ra đi thể hiện nỗi nhớ về những ngày tháng hào hùng trên chiến khu Việt Bắc.

         – Nếu như các đoạn thơ trước của bài thơ đã thể hiện nghĩa tình trong kháng chiến giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trong suốt 15 thì đoạn thơ này lời người đi đã làm sống lại khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc từ những ngày đầu gian khổ đến khi chiến thắng về ta.

         – Đoạn thơ thể hiện cảm hứng sử thi đậm nét khi tái hiện khí thế dũng mãnh, cảnh tượng hào hùng, sôi nổi của quân và dân ta trong chiến đấu. Từ đó ca ngợi chiến thắng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. “Việt Bắc” vì thế không chỉ là bản tình ca mà còn trở thành bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.

    2.2. Mười câu thơ:                 Nhớ khi giặc đến giặc lùng

                                            … Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

    Khí thế chiến đấu và những trận đánh, chiến thắng bước đầu

         – Những ngày kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc là những ngày tháng đầy gian khổ. Những ngày đầu ấy quân và dân ta không chỉ phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt là mưa nguồn, suối lũ, mây mù, với điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng thiếu thốn chỉ có miếng cơm chấm muối, chia sẻ với nhau từng củ sắn, bát cơm, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui… mà còn có cả những ngày giặc đến giặc lùng. “Giặc đến” là thời điểm nguy kịch, “giặc lùng” là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Cảnh giặc đến gây bao tang thương đã được nhà thơ Hoàng Cầm khắc họa:                                    Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

                                                         Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

                                                         Ruộng ta khô Nhà ta cháy

                                               Chó ngộ một đàn

                                                Lưỡi dài lê sắc máu

                                                    Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

         Hiện thực của những ngày đầu ta yếu, địch mạnh ấy cũng giống như khi Lê Lợi mới gây dựng khởi nghĩa Lam Sơn được Nguyễn Trãi viết trong “Bình Ngô đại cáo”:

                                                             Ta đây!

                                                              Núi Lam Sơn dấy nghĩa

                                                              Chốn hoang dã nương mình.

         Nghệ thuật chiến tranh du kích là phải dựa vào là phải dựa vào địa hình hiểm trở, rừng núi để đánh giặc. Bởi vậy mà núi đá, rừng cây cũng tham gia đánh giặc. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành những chiến sĩ thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.

             + Núi đá tham gia đánh giặc:Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực.

             + Rừng cây cũng tham gia đánh giặc: Rừng cây vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Rừng núi vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu và trở thành đồng đội với quân và dân ta trong cuộc chiến. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường.

             + Bốn mặt sương mù: Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù.

             + “Cả chiến khu một lòng”: Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ này đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng.

             Qua những câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Ngay từ những ngày đầu vất vả, gian khổ nhất khí thế chiến đấu của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc đã cao ngất trời, không khác gì khí thế của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông:

                                        Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

                                        Ba quân tì hổ khí thôn ngưu

                   (Múa giáo non sông trải mấy thâu – Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

        – Câu thơ “Ai về ai có nhớ không?”: Đại từ “ai” lặp lại 2 lần, tuy phiếm chỉ nhưng kết hợp thành “ai về” rõ ràng là chỉ người đi. Cả câu thơ là một câu hỏi. Câu hỏi ấy cũng không phải để được trả lời mà là một câu hỏi tu từ để cho thấy người ra đi đang tự nhìn vào lòng mình và sử dụng câu hỏi như một cây cầu nối để dẫn dắt vào nỗi nhớ về những trận đánh, chiến thắng.

             – Với quyết tâm đánh giặc, cả chiến khu từ thiên nhiên đến con người đều một lòng chiến đấu nên ta đã có những trận đánh, những chiến thắng bước đầu. Điệp từ “nhớ” được lặp lại 4 lần trong 4 câu thơ khẳng định sâu sắc nỗi nhớ niềm thương của người cán bộ về xuôi. Cũng trong 4 câu thơ, nhà thơ còn sử dụng nhiều tên địa danh. Nhưng đó không phải những địa danh đơn thuần mà là những địa danh diễn ra những trận đánh, những chiến thắng của quân và dân ta. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ “Tây Tiến” cũng nhắc đến rất nhiều tên địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông, Mường Hịch…

                                        Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

                                        Mường Lát hoa về trong đêm hơi

             Những tên địa danh ấy gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ về một thời Tây Tiến. Nhưng ở đây, các địa danh trong thơ Tố Hữu không chỉ gợi niềm thương, nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào chiến thắng. Đoạn thơ là lời khẳng định đầy tự hào rằng ta vẫn có thể chiến đấu và chiến thắng trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ nhất.

    2.3. Hai câu thơ:           

    Những đường Việt Bắc của ta

                                                          Đêm đêm rầm rập như là đất rung

    Nét tả khái quát: Những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc

         – Nếu như đoạn thơ 10 câu trên là những ngày đầu khó khăn, gian khổ mới chỉ có những trận đánh, chiến thắng bước đầu thì đoạn thơ tiếp theo đã tái hiện khí thế chiến đấu, chiến thắng ngút trời của quân và dân ta. Đoạn thơ được kết cấu theo cấu trúc mà trong đó nét tả khái quát là miêu tả những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc làm hiện lên khí thế ra trận của quân và dân ta. Sau đó là miêu tả cụ thể những đoàn quân, đoàn dân công và những đoàn xe cơ giới ra chiến trường trên những nẻo đường Việt Bắc. Và cuối cùng là nêu các tên địa danh là những chiến thắng trên khắp mọi miền tổ quốc, khẳng định chiến thắng về ta.

         – Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy được thể hiện trước hết qua nét tả khái quát về những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, hùng tráng là trên khắp các ngả đường Việt Bắc. Thời gian được thể hiện qua từ láy “đêm đêm” không chỉ thể hiện quãng thời gian lặp đi lặp lại là hàng đêm mà còn xác nhận một hiện thực thời đó là quân ta chủ yếu hoạt động và kiểm soát về đêm. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến trường đủ cả về nhân lực và vật lực thì quân và dân ta phải hoạt động cả trong đêm. Hiện thực ấy được nhắc tới trong rất nhiều thi phẩm ra đời  cùng thời như:

                                              Những đêm dài hành quân nung nấu

                                              Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

                                                                   (“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi),

                                              Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống

                                              Bộ đội bên sông đã trở về”

                                                                    (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm)

         – Khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta được thể hiện rõ qua từ láy “rầm rập” và biện pháp nghệ thuật so sánh “như là đất rung”:

         + Từ láy “rầm rập”: cho thấy sự chuyển động của những bước chân trên con đường ra mặt trận và hơn nữa cho thấy sức mạnh, nhịp độ khẩn trương của quân ta.

         + Nghệ thuật so sánh có phần cường điệu “như là đất rung” càng nhấn mạnh khí thế chiến đấu, sức mạnh quân và dân ta, là sức mạnh nhân nghĩa của mấy ngàn năm lịch sử. Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy tưởng chừng có thể làm rung chuyển trời đất, lay động cả càn khôn. Mặt đất tưởng chừng rung chuyển dưới bước chân của những người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất trong cuộc ra quân vĩ đại.

         + Từ “của ta” một lần nữa khẳng định tâm thế làm chủ. Đó là tâm thế của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tâm thế ấy còn được Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”:

                                                           Của ta trời đất đêm này

                                                       Sông kia, đồi nọ, núi này của ta

    Cũng là tâm thế được thể hiện trong thơ Nguyễn Đình Thi về thời ấy:

                                                    Trời xanh đây là của chúng ta

                                                  Núi rừng đây là của chúng ta

                                                            Những cánh đồng thơm mát

                                                             Những ngả đường bát ngát

                                                             Những dòng sông đỏ nặng phù sa

         Nhìn chung, hai câu thơ thể hiện rõ niềm tự hào làm chủ và khí thế chiến đấu chiến thắng cao ngất trời của những con người chưa ra trận mà như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Truyền thống yêu nước đã kết tinh thành sức mạnh, thành khí thế hào hùng của cả dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi miêu tả:

                                                            Đánh một trận sạch không kình ngạc

                                                            Đánh hai trận tan tác chim muông

                                                            Nổi gió to quét sạch lá khô

                                                            Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ

    2.4. Hai câu thơ:            Quân đi điệp điệp trùng trùng

                                         Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

    Hình ảnh đoàn quân ra trận

             – Hình ảnh đoàn quân được miêu tả trong sự trưởng thành, lớn mạnh, đội ngũ đông đảo, hùng hậu. Nghệ thuật trùng điệp với hai từ láy “điệp điệp” và “trùng trùng” đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh đoàn quân với sức mạnh vô song, tầng tầng, lớp lớp như sóng cuộn. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

         – Câu thơ thứ hai “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đầy sáng tạo, được ngắt theo nhịp 4/4 càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính – một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mộng ảo, gợi lên những ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Câu thơ trước hết tả thực hình ảnh những người lính trong cuộc hành quân đêm, súng khoác trên vai, ánh sao chênh chếch trên đầu mũi súng. Nhưng câu thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn gợi nhiều liên tưởng. Trong đó, ánh sao là biểu tượng cho lí tưởng của người chiến sĩ, là ánh sáng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Những người lính chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho đất nước. Cụm từ “ánh sao đầu súng” đã nâng tầm vóc những người lính khiến họ vươn tới tận sao trời. Từ “bạn cùng” đã nhấn mạnh sự hài hòa giữa vẻ đẹp và lí tưởng ngời sáng của người chiến sĩ với cái bình dị, đời thường của người lính được gợi ra từ hình ảnh “mũ nan”. Chiếc mũ nan ấy có thể được đan bởi những người dân Việt Bắc, họ gửi vào chiếc mũ bao nhiêu tin yêu cho chiến trường:

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

             Như thế, hình ảnh “Ánh sao đầu súng” ở đây cũng có nét giống với hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Ánh sao đầu súng ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài “Núi đôi” đã viết:

                                              Anh đi bộ đội sao trên mũ

                                          Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

    2.5. Hai câu thơ:                Dân công đỏ đuốc từng đoàn

                                              Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.          
    Hình ảnh đoàn dân công

             – Trên các nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn dân công bền bỉ tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính. Cụm từ “từng đoàn” thể hiện đội ngũ rất đông đảo, hùng hậu. Điều đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là cuộc chiến tranh nhân dân mà cả nước đều dốc lòng, dốc sức cho tiền tuyến lớn.

         – Hình ảnh đoàn dân công đi trong đêm cũng là hình ảnh rất thực ở thời ấy. Họ đi dưới ánh sáng của những ngọn đuốc và từ những ngọn đuốc bay ra muôn tàn lửa tạo nên một hình ảnh rất đẹp, đậm chất lãng mạn, thậm chí có thể liên tưởng muôn tàn lửa bay ra từ những bó đuốc ấy như đã tạo ra một đêm hội hoa đăng. Nghệ thuật cường điệu “dấu chân nát đá” đã tạo nên hình ảnh thơ đầy chất thần thoại. Bước chân đoàn dân công như bước chân của những con người đội đá, vá trời, làm rung chuyển vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng nhấn mạnh sức mạnh và ý chí của đoàn dân công sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Bởi thế nên mới có những câu thơ, lời hát:

                                                      Bác thương đoàn dân công

                                                      Đêm nay ngủ ngoài rừng

                                                      Rải lá cây làm chiếu

                                                      Manh áo phủ làm chăn

    2.6. Hai câu thơ:            Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

                                           Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

     Đoàn xe cơ giới ra chiến trường

         – Trên những con đường Việt Bắc không chỉ có đoàn quân, đoàn dân công mà còn có những đoàn xe cơ giới chở lương thực, đạn dược, chở bộ đội ra chiến trường. Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh thơ ở đây vừa có nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu trưng:

         + Nghĩa thực: Những đoàn xe đi trong đêm giữa bóng tối nghìn đêm thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc với đèn pha bật sáng xua tan bóng tối sương dày để soi rõ con đường ra tiền tuyến cho đến ngày mới sẽ có hừng đông ló rạng.

         + Nghĩa biểu trưng: Cụm từ thời gian “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” như gợi lại cả một thời kì dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Đồng thời là muôn vàn những gian khổ, hi sinh, thử thách, khó khăn trên con đường cách mạng, kháng chiến. Cụm từ“ngày mai lên” chỉ một tương lai tươi sáng. Con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc là con đường đầy khó khăn gian khổ, hi sinh nhưng cũng chính là con đường đi tới ngày mai tươi sáng.

         – Nghệ thuật tương phản, đối lập càng bộc lộ rõ cảm hứng lãng mạn, thể hiện khát vọng và niềm tin cháy bỏng của nhân dân ta vào một ngày mai tất thắng. vẻ đẹp của đoàn xe cơ giới ra chiến trường và niềm tin chiến thắng ấy còn được thể hiện trong một bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

                                                 Không có kính, rồi xe không có đèn,

                                                 Không có mui xe, thùng xe có xước,

                                                 Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

                                                 Chỉ cần trong xe có một trái tim.

    2.7. Bốn câu thơ:             Tin vui chiến thắng trăm miềm

                                       Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

                                               Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

                                       Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

    Tin vui chiến thắng

         Với khí thế chiến đấu và chiến thắng mạnh mẽ, với sức mạnh, ý chí to lớn nên cuối cùng ta đã chiến thắng. Tin vui thắng từ khắp các mặt trận dồn dập ùa về. Gọi tên các địa danh để nói đến chiến thắng trở thành một nét riêng của thơ Tố Hữu. Nghệ thuật liệt kê, trong đó mỗi địa danh được liệt kê ra là một chiến thắng. Vì vậy, gọi tên địa danh là thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào chiến thắng. (Mở rộng về cách sử dụng địa danh trong thơ: Xem ở trên)

         – Với các địa danh được liệt kê ở khắp mọi miền đất nước cùng với cách sử dụng ngôn ngữ như “trăm miền”, cấu trúc “…vui về…vui từ…vui lên…” càng thể hiện rõ hơn chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Chiến thăng liên tiếp báo về Việt Bắc cũng được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Báo tiệp”:

    Trăng vào cửa sổ đòi thơ,

    Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

    Chuông lầu chợt tỉnh giác thu

    Ấy tin thắng trận liên khu báo về

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

         Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, đáng chú ý trong bài thơ là âm hưởng rất hùng tráng khi miêu tả cuộc ra quân vĩ đại của dân tộc. Có thể nói “Việt Bắc” là thơ trữ tình chính trị và đoạn thơ này mang đầy cảm hứng anh hùng ca, đậm màu sắc sử thi lãng mạn. Đoạn thơ là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh, là bản tổng kết bằng thơ về mười lăm năm chống Pháp nhưng vẫn nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ Việt Bắc, ân tình ân nghĩa của người cán bộ cách mạng miền xuôi với Việt Bắc và nhân dân việt Bắc.

    Đoạn thơ “Ai về ai có… cây đa Tân Trào”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    Ai về ai có nhớ không?
    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
    Nắng trưa rực rỡ sao vàng
    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
    Điều quân chiến dịch thu đông
    Nông thôn phát động, giao thông mở đường
    Giữ đê, phòng hạn, thu lương
    Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

    Ở đâu u ám quân thù
    Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
    Ở đâu đau đớn giống nòi
    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
    Mười lăm năm ấy, ai quên
    Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
    Mình về mình lại nhớ ta
    Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Kết cấu bài thơ:

         – Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

    1.3. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ:Việt Bắc là quê hương của cách mạng

    2.1. Giới thiệu về đoạn thơ

         Đoạn thơ này tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin,hi vọng của cả dân tộc.

    2.2.  Hình ảnh Trung ương chính phủ ở Việt Bắc

         – Câu thơAi về ai có nhớ không?”:Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng như nốt luyến láy đầy vấn vương. “Ai” vừa là người đi cũng vừa là nhân dân Việt Bắc nên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết của cả người đi và kẻ ở khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió ngàn.

         – Khung cảnh Việt Bắc:Khi quyết định rời thủ đô Hà Nội, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan đầu não của TƯ của đảng và chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu Việt Bắc nên mới có khung cảnh:

    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
    Nắng trưa rực rỡ sao vàng
    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

         + Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng được lấy làm quốc kì của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng gió, phải chăng đó là hang PắcPó, nơi lãnh tụ HCM  kính yêu của chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc.

         + Ánh nắng trưa rực rỡ: Khung cảnh Việt Bắc nơi chiến khu hiện lên rực sáng bởi sự xuất hiện ánh nắng chói chang của mặt trời. Hãy nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ Tố Hữu muốn nói thật giản dị nơi nào có Đảng, có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời, có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lí mà chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi.

                                        Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

                                        Mặt trời chân lí chói qua tim

         Khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm phông nền tươi sáng cho “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công”. Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mĩ hơn ánh sáng lí tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự do đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả vì ngày mai chiến thắng.

         – Từ Việt Bắc phát động ra mọi phong trào thi đua, yêu nước trong cả nước:

         + Trên tiền tuyến: Ðiều quân cho chiến dịch thu đông.

         + Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho chiến trường với các phong trào: phát động phong trào ở nông thôn như phong trào ba tốt, ba đảm đang, chị hai năm tấn, phong trào mở đường giao thông, giỡ đê, phòng hạn, thu mua lương thực, mở trường ở các khu…

    2.3. Vai trò của Bác Hồ:      Ở đâu u ám quân thù

                                         Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

         Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc. Bác chính là người soi đường dẫn lối cho kháng chiến. Bóng tối và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó không chỉ đơn thuần là ánh sáng của vị lãnh tụ mà còn là linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả dân tộc.

    2.4. Vai trò của chiến khu cách mạng

    Ở đâu đau đớn giống nòi

    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

         – Khi giống nòi dân tộc đang quằn quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim thì Việt Bắc chính là nơi hội tụ cội nguồn sức mạnh, là nơi đặt niềm tin và hi vọng của đồng bào cả nước. Cả nước hướng về Việt Bắc để nuôi ý chí chiến đấu quyết giành lại độc lập tự do cho đất nước.                                              Mười lăm năm ấy ai quên

                                               Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

         – Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai trong đầy ắp ân tình và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề son sắt “Mười lăm năm ấy ai quên”. Hơn nữa, hai câu thơ còn là một khái quát về ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng, đó là lẽ sống, lẽ làm người chân chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu nước – sẽ mãi còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã khiến Việt Bắc trở thành quê hương, thành cái nôi của cách mạng, trở thành cội nguồn chiến thắng.

    2.5. Hai câu thơ cuối:    Mình về mình lại nhớ ta

                                         Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

    – Khúc hoàn ca:

         – Hai câu thơ là tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại cất lên như lời thủy lời chung. Mình và ta lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu trả lời của người ra đi cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” của người ở lại. Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

         – Một lần nữa những địa danh thiêng liêng như Tân Trào, Hồng Thái được nhắc lại tạo thành kết cấu vòng tròn để thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi kẻ ở rằng tình cảm với 15 năm trên chiến khu Việt Bắc mãi vẹn nguyên như thuở ban đầu.

    Cách kết luận bài thơ Việt Bắc

    Thơ ca nói riêng cũng như văn chương nói chung phải bắt rễ từ cuộc đời để rồi “nở hoa nơi từ ngữ”. Mỗi tác phẩm văn chương được ví như tấm gương phản chiếu thời đại nó ra đời . Ý thức được về điều đó nên bàn về tình yêu Tổ quốc nhà thơ Tố Hữu đã từng thổ lộ  rằng: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu”. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến thắng vẻ vang của dân tộc. từ đó thể hiện tình yêu quê hương, đất nước đã trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trở thành bài ca đi cùng năm tháng. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc.

  • Hãy uống nước từ dòng suối nơi ngựa uống

    Hãy uống nước từ dòng suối nơi ngựa uống

    “Hãy uống nước từ dòng suối nơi ngựa uống
    Con ngựa chẳng bao giờ uống nước xấu đâu
    Hãy đặt giường nơi chú mèo nằm ngủ
    Ăn trái cây có dấu vết của chú sâu
    Hãy chọn nấm có côn trùng đậu lại
    Hãy trồng cây nơi chuột chũi dũi đất lên
    Xây nhà bạn nơi rắn nằm sưởi ấm
    Đào giếng nơi loài chim tránh nắng rền
    Đi ngủ và thức giấc cùng lũ chim – bạn gặt hái những ngày vàng thóc lúa
    Ăn nhiều màu xanh – bạn có đôi chân và trái tim khỏe như những sinh vật rừng sâu
    Bơi thường xuyên, bạn sẽ thấy mình sống trên trái đất như cá trong làn nước,
    Ngắm bầu trời luôn khi có thể, suy nghĩ bạn sẽ nhẹ bẫng và trong suốt
    Hãy im lặng nhiều, nói thật ít – sự tĩnh lặng sẽ đến trong tim, tâm hồn bạn an tĩnh và tràn đầy bình yên.”

    Đây là một bài thơ của Saint Seraphim of Sarov, bản dịch của Nguyễn Quỳnh Mai.

    Hãy uống nước từ dòng suối nơi ngựa uống 3

    Seraphim of Sarov, tên khai sinh là Prókhor Isídorovich Moshnín [Про́хор Иси́дорович Мошни́н], là một trong những vị thánh Nga nổi tiếng nhất và được tôn kính trong Giáo hội Chính thống phương Đông. Ông thường được coi là người vĩ đại nhất của thế kỷ 18.

    Bản tiếng Anh của bài thơ như sau:

    Drink water from the spring where horses drink. The horse will never drink bad water.
    Lay your bed where the cat sleeps.
    Eat the fruit that has been touched by a worm.
    Boldly pick the mushroom on which the insects sit.
    Plant the tree where the mole digs.
    Build your house where the snake sits to warm itself.
    Dig your fountain where the birds hide from heat.
    Go to sleep and wake up at the same time with the birds – you will reap all of the days golden grains.
    Eat more green – you will have strong legs and a resistant heart, like the beings of the forest.
    Swim often and you will feel on earth like the fish in the water.
    Look at the sky as often as possible and your thoughts will become light and clear.
    Be quiet a lot, speak little – and silence will come in your heart, and your spirit will be calm and full of peace.”

  • Haiku là gì?

    Haiku là gì?

    Haiku là gì?

    Haiku âm theo lối chữ Kanji (gốc chữ Nho) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày. Chữ “hai” nghĩa là “bài”, trong tiếng Hán Việt có nghĩa “phường tuồng”, chữ “ku” là “cú” hay “câu”. Haiku là loại thơ độc đáo, rất thịnh hành của Nhật Bản và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới.

    Thơ haiku là gì?

    Haiku (tiếng Nhật: 俳句, âm Hán Việt: Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài).

    Thể thơ haiku ra đời vào thế kỷ 17 và phát triển mạnh vào thời kỳ Edo (1603 – 1867). Lúc sơ khởi haiku mang sắc thái trào phúng nhưng dần chuyển sang mang âm hưởng lắng tịnh của Thiền tông. Thiền sư thi sĩ lỗi lạc Matsuo Bashō được coi là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson cùng Masaoka Shiki đã phát triển thể thơ này thêm hoàn thiện, cho nó thể thức như ta thấy ngày nay.

    Thơ Haiku là gì?

    Hình thức thơ Haiku

    Một bài thơ theo thể thơ Haiku có ba dòng, dòng đầu và dòng cuối mỗi dòng có năm âm, ôm lấy dòng giữa có bảy âm, có dạng 5-7-5, tổng cộng 17 âm.
    Tiếng Nhật Bản đa âm, nên mỗi dòng có thể có một, hai, ba chữ hay nhiều hơn. Haiku có biến thể là 5-7-6 hay 5-8-5, lên 18 âm trọn bài. Tiếng Việt đơn âm, nên mỗi chữ là một âm.
    Không cần vần điệu, nhưng thơ Haiku là sự kết hợp giữa màu sắc, âm thanh, tượng hình có chọn lọc. Thoạt nhìn chỉ là một bài thơ ngắn gọn, nhưng người thơ đã dẫn dắt chúng ta đi qua một khu vườn chữ nghĩa nhỏ hẹp để thênh thang bước vào một cõi tư duy vô cùng bát ngát, một chân trời sáng tạo rộng mở mà người đọc cần có một sự tưởng tượng dồi dào phong phú.
    Ngày nay thơ Haiku thoáng hơn nhiều, không gò bó số chữ trong mỗi câu (tổng cộng trên dưới 17 âm hay chữ), không nhất thiết phải chấm, phết hoặc chấm phết tuỳ tiện (không cần phải ở cuối câu), không cần đặt tựa, không bắt buộc phải có từ của mùa. Chỉ giữ lại hình thức 3 câu, và được đưa vào những từ ngữ chải chuốt, những ẩn dụ của cái hữu hạn và vô hạn…

    Nội dung thơ Haiku

    Về nội dung có luật cơ bản sau: không mô tả cảm xúc, chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm nên thơ Haiku thường chỉ diển tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này có thể liên kết hai ý nghĩ, hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một lúc.
    Ôi những hạt sương (sự kiện hiện tại)
    Trân châu từng hạt (ý nghĩ thứ 1)
    Hiện hình cố hương (ý nghĩ thứ 2)
    Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa và Tính Tương Quan Hai Hình Ảnh.Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa ( không dùng từ xuân, hạ, thu, đông nhưng dùng các từ như hoa anh đào, cành khô, lá vàng,tuyết trắng… để chỉ các mùa), và diễn tả một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường).
    Tiếng ve kêu râm ran (tiếng ve kêu chỉ mùa hạ)
    Như tan vào trong than trong đá
    Ôi, sao tĩnh lặng quá!
    Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được.
    Cỏ hoang trong đồng ruộng
    Dẫy xong bỏ tại chỗ
    Phân bón!
    Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
    Thế giới này như giọt sương kia
    Có lẽ là một giọt sương
    Tuy nhiên, tuy nhiên…
    Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh : một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.
    Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)
    Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
    Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)
    Nhà thơ không giải thích hay luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh nầy, chỉ diễn tả sự vật theo bản chất tự nhiên của nó. Người làm thơ phải tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ, lạ lùng khi tiếp xúc lần đầu tiên với ngoại giới. Một bài thơ Haiku hay là làm sống lại những gì đã chôn sâu trong ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc để người đọc tự suy diễn, cảm nhận.
    Chim vân tước bay
    Thở ra sương gió
    Dẫm lướt từng mây
    Thơ như một bài kệ, sàn lọc từng chữ, không dư mà cũng không thiếu, cốt sao nói đến chính cái đang là – “đương hạ tức thị”. Nắm bắt thực tại ngay trong giây phút nẩy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả một vũ trụ thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới hòa nhập vào nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một hiện tượng hay biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng mình.
    Kỹ xảo của thơ Haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận dụng trí tưởng tượng nơi người đọc. Không có người làm thơ và kẻ đọc thơ, cả hai nhập làm một, đồng âm cộng hưởng trong niềm rung cảm với sự liên hệ rất tinh tế và hài hòa của đất trời.
  • Em – cơn mưa rào – ngọn lửa

    Em – cơn mưa rào – ngọn lửa

    Em – cơn mưa rào – ngọn lửa

    Y Phương

    Ngày ra suối nhớ em
    Gặp bông hoa nhớ em
    Nói chuyện với người con gái cũng nhớ em
    Em hiền lành
    Em chậm chạp
    Em đội chum rượu đến với anh
    Người con gái có bàn chân to khoẻ
    Đạp qua bao nhiêu đau khố
    Đến với anh
    Em đã nở cho anh một cô nàng đa cảm nữa
    Em – cơn mưa rào – ngọn lửa
    Có em rồi đời mất dần thói xấu
    Biết ăn năn trước mỗi bình minh
    Khầu súng trường qua cuộc chiến tranh
    Anh bắn vỡ tảng ngực thằng xâm lược
    Em là mực trong ngòi là cơm trong nồi là gà gáy nhưng cũng là quả ớt
    Những gì anh có được
    Đều bắt đầu từ em
    Chờ đón em
    Hạt ngô, bông lúa
    Em về cấy gặt
    Có em rồi làm ngắn ngày tháng chạp
    Bàn tay mềm ra suối lại thơ ngây
    Bàn tay mềm nẩy búp trên cây
    Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp.
    Báo Tiền phong, số ngày 15-3-1988
    Em - cơn mưa rào - ngọn lửa 4
    “Ở bài thơ Em-cơn mưa rào-ngọn lửa, chả có nhà thơ nào vùng xuôi ca ngợi người yêu thế này:
    Người con gái có bàn chân to khỏe
    Nhưng dựa trên thế mạnh của cách nói thật thà ấy, Y Phương đã đẩy thơ lên một tầm mới khi anh viết tiếp:
    Đạp trên bao đau khổ
    Đến với anh
    — Vân Long, “Âm thanh mới trong Tiếng hát tháng giêng của Y Phương”

    Tác giả Y Phương

    Y Phương (24/12/1948 – 9/2/2022) tên thật là Hứa Vĩnh Sước, người dân tộc Tày, sinh tại Trùng Khánh, Cao Bằng. Y Phương nhập ngũ năm 1968, trong kháng chiến chống Mỹ, ông là bộ độ thuộc binh chủng đặc biệt tinh nhuệ. Ông phục vụ trong quân đội đến năm 1981 thì chuyển về công tác tại Sở Văn hoá – Thông tin Cao Bằng.

    Ông tốt nghiệp Đại học viết văn Nguyễn Du khoá II, rồi làm cán bộ biên tập văn nghệ Sở văn hoá thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông là chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá VI. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.