SKKN Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho học sinh lớp 4
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
1. Lý do chọn đề tài:
Ngay từ khi mới biết nhận thức, thế giới xung quanh luôn là điều mà con
người khao khát tìm hiểu. Ở tiểu học, các kiến thức về tự nhiên và xã hội; sự vận
động và phát triển cũng như mối quan hệ giữa chúng được trình bày một cách
đơn giản, phù hợp với nhận thức của học sinh trong môn khoa học.
Môn khoa học từ lớp 4 được xây dựng trên cơ sở tiếp nối và kế thừa những
kiến thức của môn tự nhiên và xã hội được học từ lớp 1; 2; 3. Nội dung chương
trình có cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo 3 chủ đề:
– Con người và sức khỏe
– Vật chất và năng lượng
– Thực vật và động vật.
Lê – nin từng nói: “Học, học nữa, học mãi”, câu nói đó luôn có giá trị ở
mọi thời đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay đang hướng tới nền kinh tế tri thức,
nó đòi hỏi mọi người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính
vì vậy mà tinh thần tự học có vai trò vô cùng quan trọng.
Trong lịch sử của dân tộc ta có rất nhiều tấm gương thành tài nhờ nỗ lực tự
học của bản thân như trạng nguyên Nguyễn Hiền, Bạch Thái Bưởi, và tiêu biểu
chính là vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh. Người đã từng nói “Trong cách học,
phải lấy tự học làm nòng cốt”. Khi phải bôn ba ở xứ người, Bác đã tự học tiếng
Pháp mỗi ngày mười từ, và cứ thế. Người đã thông thạo không chỉ tiếng Pháp
mà còn nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Trung Quốc, Nga, tiếng Anh…
Như vậy có thể nói rằng, tự học, tự giải quyết vấn đề là một năng lực vô
cùng cần thiết trong hoạt động sống của con người, giúp con người thành công.
Nhưng trong thực tế ở tiểu học hiện nay, trong môn Khoa học lớp 4, nhiều học
sinh học thuộc bài nhưng không hiểu bài dẫn đến tình trạng thuộc lí thuyết
những không biết làm thực hành. Vì vậy việc chú trọng hình thành và phát triển
các kỹ năng: quan sát, dự đoán, giải thích các hiện tượng tự nhiên và kĩ năng tự
học hỏi mọi lúc mọi nơi và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống cần
được giáo viên đặc biệt chú trọng trong mọi hoạt động học tập để dần tạo lập
thói quen giúp học sinh thực hành những hành vi có lợi cho sức khỏe của cá
nhân, gia đình và cộng đồng xã hội.
Với những lí do trên, việc phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và tự
học của học sinh là một đòi hỏi cấp thiết cần giải quyết. Đó là lí do tôi chọn đề
tài: “Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho
học sinh lớp 4.”
2
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở thực tiễn của việc học tập môn khoa học, giáo viên định hướng
giúp học sinh phát huy tính chủ động, năng lực tư duy và đề ra biện pháp nhằm
nâng cao tính tích cực chủ động tìm tòi kiến thức mới của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Tìm hiểu thực trạng và những tồn tại trong quá trình học sinh học môn
Khoa học dành cho học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 4.
– Tìm hiểu các biện pháp và hình thức tổ chức dạy học mới thông qua dạy
học tích hợp, lồng ghép các môn học nhằm kích thích sự sáng tạo, nhu cầu khám
phá kiến thức mới đối với bộ môn Khoa học.
– Đề xuất một số kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động dạy và học,
giúp giáo viên lên lớp hiệu quả.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là học
sinh của trường tôi và đối tượng nghiên cứu trực tiếp là học sinh lớp 4 mà tôi đã
trực tiếp giang dạy những năm qua.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 4 của trường tiểu học nơi tôi đang
công tác từ năm học 2018- 2019 cho đến nay.
6. Phương pháp thực hiện
Đọc, nghiên cứu các tài liệu, sách báo về các biện pháp tổ chức hoạt động dạy
và học môn Khoa học ở trường Tiểu học. Đạt được mục đích nghiên cứu tôi đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Nghiên cứu thông qua việc thực hiện tổ chức dạy học môn Khoa học tại
trường dựa theo những phương pháp cụ thể như:
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
– Phương pháp tìm hiểu thực tế.
– Phương pháp quan sát.
– Phương pháp trải nghiệm.
– Phương pháp điều tra.
7. giả thuyết khoa học
Một số kinh nghiệm về dạy học và học phân môn khoa học ở lớp 4
II. Mô tả giải pháp kĩ thuật.
II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Như chúng ta đều biết không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Việc
người giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học mới vào việc dạy học các
3
môn học ở Tiểu học nói chung và môn Khoa học nói riêng chỉ nhằm mục đích
hình thành cho học sinh năng lực tự học, giúp học sinh hình thành phương pháp
học tập đúng đắn giúp họ thực sự trở thành chủ thể tìm kiếm tri thức.
Chương trình môn khoa học lớp 4 đã chú trọng tới hình thành và phát
triển các kỹ năng trong học tập các môn khoa học như quan sát, thí nghiệm,
phán đoán, giải thích các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và kỹ năng sử dụng
kiến thức khoa học vào thực tế cuộc sống hàng ngày của các em..
Thế giới tự nhiên đối với các em luôn chứa đựng bao điều bí ẩn. Sự tác
động của nó hàng ngày qua mắt các em làm các em lạ lẫm, khiến các em tò mò
và mong muốn khám phá để hiểu biết về chúng. Chính trí tò mò ham hiểu biết
khoa học sẽ là động cơ thúc đẩy các em học tập một cách tích cực. Sự hứng thú
sẽ nảy sinh đam mê hoạt động và hoạt động sáng tạo . Điều này sẽ hình thành
động cơ học tập (động cơ bên trong) của mỗi học sinh. Khi người giáo viên kích
thích được năng lực tự học ở mỗi học sinh thì việc gợi mở và mang đến những
kiến thức mới cho HS không còn là điều khó khăn nữa.
Mục đích, yêu cầu của việc phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho
học sinh lớp 4:
Mục tiêu của môn Khoa học lớp 4 là giúp học sinh có những kiến thức cơ
bản ban đầu về sự trao đổi chất, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, các dạng
năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành và phát
triển cho các em những kỹ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm
thực hành khoa học đơn giản, gần gũi với đời sống sản xuất. Biết nêu thắc mắc
và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp, biết diễn
đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích rút ra những
dấu hiệu chung và riêng cùng một vài hiện tượng tự nhiên. Qua đó hình thành và
phát triển thái độ cũng như hành vi đúng đắn như: ham hiểu biết khoa học, có
thói quen vận dụng kiến thức đã học và đời sống, yêu con người, yêu thiên
nhiên, đất nước, yêu cái đẹp; có ý thức và hành động để bảo vệ môi trường xung
quanh.
1. Những thuận lợi
a) Đối với giáo viên (GV):
Trường Tiểu học nơi tôi đang dạy là ngôi trường của “Ước mơ và lòng
nhân ái”. Trường có cơ sở vật chất hiện đại, khang trang, sạch sẽ. Bên cạnh đó là
sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn cùng với sự góp
ý, chia sẻ thân tình của các đồng nghiệp.
Mỗi thầy cô giáo trong trường đều là một tấm gương sáng về tinh thần tự
học và sáng tạo. Đồng thời họ là những giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiệt
4
tình và yêu nghề, luôn chủ động trong việc tìm kiếm và lĩnh hội các phương
pháp dạy học tích cực, đặc biệt là dạy học theo mô hinh VNEN. Đó chính là môi
trường thuận lợi cho giáo viên trong việc học hỏi, trau dồi kiến thức để giúp học
sinh ngày càng chủ động, tự tin và sáng tạo.
b) Đối với học sinh (HS):
Thực tế các em học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng rất
thích môn khoa học, bởi vì môn học này có vai trò rất quan trọng, nó trang bị
cho các em một số hiểu biết có liên quan đến bản thân các em, đến lứa tuổi các
em, giúp các em có ý thức, biết tự bảo vệ mình và phòng tránh được một số
bệnh truyền nhiễm. Nó còn giúp các em có hiểu biết về thế giới tự nhiên, về môi
trường xung quanh.
Mặt khác, khi học môn này các em được tự mình làm thí nghiệm, tự dự
đoán và rút ra kết luận cho bản thân. Ví dụ: Bài Âm thanh trong cuộc sống
(Bài 22 – khoa học lớp 4). Nên các em thường hiểu bài và thuộc bài ngay tại lớp.
Các em thường xuyên được tham gia học tập trải nghiệm nên rất tự tin, mạnh
dạn trong giao tiếp. Hơn thế nữa, các em học sinh phần lớn được cha mẹ tạo mọi
điều kiện tốt nhất cho con lên internet tìm kiếm thông tin, chuẩn bị đồ dùng cho
hoạt động nhóm hoặc thực hành thí nghiệm.
2. Những khó khăn:
a) Đối với giáo viên:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa phát huy hết tính tích cực, sáng
tạo của học sinh. Đôi lúc giáo viên còn làm thay cho học sinh vì sợ mất thời gian
mà đáng lẽ ra học sinh phải trực tiếp làm thí nghiệm.
Trong hoạt động nhóm để làm thí nghiệm giáo viên chưa kiểm tra kịp thời
những em thiếu tự giác trong học tập nên những em này ỷ vào các bạn trong
nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng và không chịu học.
Giáo viên thường gọi em khá, giỏi làm cho nhanh để khỏi mất nhiều thời
gian.
b) Đối với học sinh:
Trong quá trình học tập, một số học sinh không chịu tập trung, không chú
ý nghe giảng bài, không có sự tìm hiểu kiến thức hay sưu tầm tranh ảnh, vật mẫu
để làm thí nghiệm. Một số học sinh chưa chủ động, còn dựa dẫm nhiều vào các
bạn nhanh nhẹn, tích cực trong nhóm, chưa thể hiện và phát huy được hết khả
năng của mình.
Một số em lười đọc sách. Khi giáo viên hỏi các em không chịu trả lời mặc
dù đó là những câu hỏi trong SGK mà ngồi làm việc riêng.
Học sinh lười học bài phần cung cấp thông tin ở SGK và mục bạn cần
biết, các em không chịu đọc nên không làm bài được.
5
Một số em ngại tiếp xúc, “giấu dốt” không dám thắc mắc, không muốn hỏi
vì sợ bạn chê cười…Một số em xem “nhẹ” môn Khoa học, chủ yếu tập trung
học Toán và Tiếng Việt vì thế dẫn đến kết quả không cao.
Theo khảo sát thực nghiệm trên học sinh trong năm học 2018 – 2019 thì
kết quả tôi thu được về số lượng học sinh chủ động, tích cực phát huy năng lực
tự học môn Khoa học như sau:
Học sinh (32 học sinh) | Học sinh chủ động, tự tin, tích cực | |
Số lượng | Đầu năm học | Cuối năm học |
10 | 22 |
Một khó khăn không thể không kể đến đó là các em sống ở rải rác các khu
dân cư xa trường học không ở gần nhau. Chính điều này làm cho việc liên lạc,
gắn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong việc chuẩn bị đồ dùng hay làm bài tập nhóm gặp
không ít khó khăn.
II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
Trong quá trình thực tiễn giảng dạy, tôi thấy vấn đề quan trọng nhất để
học sinh phát huy được năng lực tự học trong một bộ môn đòi hỏi có sự hiểu
biết thực tế, có sự chuẩn bị chu đáo trong mỗi hoạt động dạy và học của môn
Khoa học lớp 4 là việc đòi hỏi người giáo viên cần lập kế hoạch hoạt động cụ
thể cho từng nội dung bài học. Người giáo viên cũng cần dự đoán được hết các
câu trả lời, các tình huống có thể sảy ra trong lớp học để có phương án xử lí kịp
thời. Đồng thời lồng ghép các môn học trong cùng một bài dạy để kích thích nhu
cầu khám phá và tự học hỏi của học sinh.
1. Đối với giáo viên:
– Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải thiết kế hệ thống câu hỏi và bài
tập một cách rõ ràng. Tổ chức các hoạt động như: quan sát; làm thí nghiệm; trò
chơi học tập…để động viên các em tham gia tích cực nhằm lĩnh hội kiến thức
mới một cách nhẹ nhàng và có hiệu quả.
– Dạy học môn khoa học cần chú ý phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh, có thể lựa chọn phối hợp nhiều phương pháp dạy học như: thuyết
trình, hỏi- đáp; thảo luận; trò chơi; động não; quan sát; thí nghiệm; thực hành.
Đáng chú ý, người giáo viên cần giảm sự can thiệp và quyết định của mình lên
hoạt động cá nhân để tự tìm ra kiến thức của học sinh dù thấy học sinh đang đi
chưa đúng hướng, tăng cường sự tham gia của học sinh vào các hoạt động tìm
tòi phát hiện ra kiến thức mới.
6
– Môn khoa học là môn học bước đầu hình thành cho các em một số kĩ năng
quan sát; dự đoán và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống nên giáo viên
phải đổi mới và lựa chọn nhiều phương pháp dạy cho phù hợp với đặc trưng bộ
môn. Trong môn khoa học lớp 4 thường dùng một số phương pháp: quan sát, thí
nghiệm, dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ, trò chơi học tập… là phương pháp
đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy học môn khoa học.
– Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ càng từ việc tự làm thử thí nghiệm trước
khi lên lớp đến cách tổ chức, giao việc để tránh gây lộn xộn, hoặc học sinh
không nắm bắt được yêu cầu kiến thức cần đạt được của bài học đó. Muốn vậy,
giáo viên cần chú ý:
+ Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng học sinh hoặc nhóm học sinh.
+ Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn.
+ Có sự phân công kiểm tra cụ thể, nghiêm túc trước khi vào tiết học.
1.1. GV hướng dẫn HS lập kế hoạch chuẩn bị đồ dùng
Trước mỗi tiết học, GV dặn học sinh xem trước nội dung, dựa vào tranh
minh họa trong SGK, các em tự nêu ý kiến cần chuẩn bị tranh ảnh hay dụng cụ
thí nghiệm nào cần thiết cho bài học. Tôi dành thời gian 5 phút cuối tiết hướng
dẫn học để Nhóm trưởng cùng các bạn trong nhóm sẽ bàn bạc lên danh sách đồ
dùng cần chuẩn bị. Căn cứ vào nội dung kế hoạch dạy học, tôi bổ sung thêm
danh sách đồ dùng cần chuẩn bị. Sau khi có danh sách đồ dùng, tôi yêu cầu các
nhóm HS tự lên kế hoạch phân công người chuẩn bị, xác định thời gian hoàn
thành. Việc làm này giúp các em biết lên kế hoạch cho việc sắp diễn ra, biết hợp
tác, nâng cao tinh thần trách nhiệm ,…Và điều tôi đặc biệt muốn HS phải làm
được khi lập kế hoạch là có trách nhiệm hoàn thành. Điều này, giúp các HS có
thói quen tốt về thời gian, bước đầu biết quản lí thời gian hợp lí. Khi có thời
gian cụ thể phải hoàn thành, chính các em là người tự thúc giục mình, chứ
không cần người khác nhắc nhở.
+ Ví dụ minh họa : Bài 12: Nước có tính chất gì?
CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG – NHÓM …
Bài: Nước có những tính chất gì?
STT | Đồ dùng | Số lượng | Phân công | Thời gian hoàn thành |
Bắt buộc | Cần mượn cô | |||
1 | Bình nước | 1 cái | Minh | 12/10 |
7
2 | Các loại chai lọ | 3 cái | Long | |
3 | Cốc | 1 cái | Diệu | |
4 | Thìa | 1 cái | Diễm | |
5 | Khay | 1 cái | x | Hải |
6 | Tấm nhựa | 1 tấm | x | An |
7 | Khăn bông loại nhỏ | 1 cái | Bình | |
8 | Cát | 1 cốc nhỏ | Hoàng | |
9 | Đường | 1 cốc nhỏ | Vũ Linh | |
10 | Muối | 1 cốc nhỏ | Diệu |
1.2. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài trước khi học
Đồng thời với việc hướng dẫn HS lập kế hoạch chuẩn bị đồ dùng thì việc
tự chuẩn bị bài của mỗi HS là vô cùng quan trọng. Nó quyết định chất lượng học
tập của các em. Tôi nhớ một câu nói rất ý nghĩa của Margaret Mead “Không nên
dạy cho trẻ em những gì chúng phải suy nghĩ, mà dạy cho chúng cách suy
nghĩ.”. Vì vậy tôi cho các nhóm tự thảo luận và chọn hoạt động nào trong bài
các em có thể tự làm ở nhà và chỉ cần báo cáo kết quả trên lớp. Việc làm này
giúp nâng cao khả năng tự học, tư duy phán đoán và tự đánh giá của các em.
Để nắm sâu và mở rộng kiến thức thì mỗi HS sẽ tự đặt thêm các câu hỏi về
nội dung trong SGK, đặc biệt tôi khuyến khích các em đặt câu hỏi phản biện để
các em vừa nắm chắc kiến thức vừa rèn tính tự tin. Ngoài ra các em còn tự tìm
kiếm thêm những nội dung liên quan đến kiến thức bài học. Trong lớp tôi, 100%
các gia đình HS có máy tính kết nối mạng Internet và phụ huynh cũng luôn tạo
điều kiện cho con lên mạng internet tìm kiếm thông tin cho bài học.
Các em sẽ copy các đường link video hay thông tin trên mạng internet mà các
em muốn cho cả lớp xem, rồi gửi qua Zalo cho tôi. (Tôi sẽ xem trước và quyết
định nội dung sưu tầm của em nào sẽ trình chiếu trước lớp và thời gian trình
chiếu). Tất cả những việc chuẩn bị của HS tôi cho phép các em ghi luôn vào vở
Ghi Khoa- Sử- Địa. Công việc này giúp các em dễ dàng tổng hợp kiến thức, ghi
nhớ lâu hơn và không gặp khó khăn vào mỗi đợt thi cử. Ở vở Ghi Khoa- Sử-
Địa, các em có thể viết, vẽ hình minh họa, sử dụng sơ đồ tư duy, kẻ biểu bảng,
dùng bút các màu để trình bày phần chuẩn bị của bản thân.
8
Hình ảnh minh họa Sơ đồ tư duy một số bài Khoa học
do học sinh tự vẽ sau mỗi bài học
1.3 GV kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục học sinh
GV thống nhất với phụ huynh mọi việc GV giao về nhà cho HS chuẩn bị để
phụ huynh cho phép con vào mạng internet tìm hiểu thông tin. Phụ huynh chỉ
giúp đỡ khi thấy thật cần thiết. Khi phụ huynh hiểu việc làm của cô giáo là tốt
cho con em mình thì họ sẽ tự nguyện đồng hành cùng giáo viên và giúp đỡ con
kịp thời, đúng đắn. Từ đó giúp cho hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên
có hiệu quả hơn. Để việc thông báo thông tin tới phụ huynh kịp thời, ngay từ
đầu năm học, lớp tôi đã lập nhóm Zalo để liên lạc. Các hình ảnh hoạt động của
HS trong tiết Khoa học cũng được tôi gửi tới phụ huynh kịp thời đã tạo được sự
hưởng ứng, ủng hộ của phụ huynh HS, tạo cơ hội cho các con tham gia hoạt
9
động. Tôi lưu ý phụ huynh về việc kiểm soát việc sử dụng mạng internet của các
con để đảm bảo các con sử dụng đúng mục đích, lành mạnh.
Nhưng thực tế, không phải cứ hướng dẫn cách học là học sinh tự học được
mà giáo viên cần có sự quan tâm khen chê kịp thời và khéo léo. Đối với HS
hoàn thành phần chuẩn bị sẽ được nhận điểm cộng thi đua trong Classzoom
(phần mềm quản lí HS, giúp GV tính thi đua, theo dõi HS, trao đổi thông tin với
PH). Còn học sinh chưa hoàn thành phần chuẩn bị, thì đến lần thứ 2 tôi mới trừ
điểm thi đua của các em. Tôi luôn quan tâm tìm nguyên nhân dẫn đến việc các
em chưa hoàn thành phần chuẩn bị. Tùy từng tình huống mà có lời nhắc nhở,
động viên kịp thời.
Để kích thích được sự hứng thú của học sinh cũng như động viên các em
tham gia vào các hoạt động học tập, tôi kết hợp cùng Ban phụ huynh lớp chuẩn
bị trước những phần thưởng nho nhỏ để tặng các em khi các em tích cực tham
gia học tập một cách có hiệu quả. Những điểm thưởng các em có được khi tham
gia vào hoạt động học tập sẽ được quy đổi thành tiền Dojo dollar để các em đổi
quà, tạo thêm niềm hứng thú và động lực giúp các em tích cực tham gia vào các
hoạt động học tập tiếp theo.
Hình ảnh minh họa GV chuẩn bị tiền Dojo dollar và danh mục quà tặng để
HS lựa chọn.
2. Đối với học sinh:
2.1. Các em cần tự giác học tập: Khi học sinh ham học, ham hiểu
biết và thích tìm tòi, phát hiện ra những cái mới trong cuộc sống xung quanh
đồng thời có đầy đủ dụng cụ học tập và đồ dùng để làm thí nghiệm theo sự
hướng dẫn của giáo viên thì các em sẽ càng thêm yêu thích môn học. Việc
hoạt động nhóm lại càng đòi hỏi ý thức tự giác và tích cực tham gia của mỗi
thành viên để tìm ra kết quả mà không thể ỷ lại vào bạn.
10
* Ví dụ bài 29: Nhiệt cần cho sự sống (Khoa học lớp 4).
Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật. Học sinh làm việc theo nhóm :
Phân loại ảnh động vật sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái đất như
sau:
+ Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm.
+ Động vật sống ở vùng ôn đối.
+ Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm.
+ Động vật sống ở vùng ôn đối.
+ Động vật sống ở vùng nhiệt đối.
+ Động vật sống ở vùng sa mạc.
– Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều động vật sinh sống hoặc động vật
sinh sống).
Trên cơ sở tranh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của nhiệt đối
với đời sống động vật.
2.2.Phân công nhiệm vụ của học sinh trong hoạt động nhóm:
Các thành viên trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào các hoạt
động của nhóm (mỗi nhóm chỉ nên có khoảng 4 đến 6 em).
+ Nhóm trưởng: Quản lí chỉ đạo, điều khiển nhóm hoạt động.
+ Thư kí nhóm: Ghi chép lại kết quả công việc của nhóm sau khi đạt được
sự đồng tình của nhóm.
+ Báo cáo viên: Trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm.
Khi bắt đầu mỗi hoạt động nhóm, học sinh bốc thăm thẻ nhóm (nhóm
trưởng, thư kí nhóm, báo cáo viên, thành viên) để có điều kiện thể hiện khả năng
ở các vị trí khác nhau.
2.3. Học sinh được tạo cơ hội tự tìm kiếm kiến thức thông qua cách tổ
chức các hoạt động trên lớp của giáo viên:
Trước khi tổ chức cho học sinh học theo nhóm, GV cần giúp học sinh nắm
rõ yêu cầu của hoạt động và thời gian kết thúc hoạt động đó. GV cần ước lượng
đúng thời gian để học sinh có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Sử dụng đồng hồ
đếm ngược cho mỗi hoạt động học sinh được giao sẽ giúp học sinh có trách
nhiệm hơn trong hoạt động nhóm đồng thời phát huy được tính chủ động, tích
cực để tìm ra kiến thức.
+ Ví dụ minh họa: Tìm hiểu âm thanh lan truyền trongkhông khí
Bài 22: âm thanh cần cho sự sống (khoa học 4)
*Mục tiêu: Học sinh làm thí nghiệm để nhận ra âm thanh lan truyền qua
môi trường không khí, chất lỏng, rắn. Nêu được ví dụ chứng tỏ âm thanh lan
truyền trong môi trường không khí, không truyền trong môi trường chân không.
11
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT
Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa