Lục thư là gì?

Chữ Hán được cấu tạo bởi sáu cách (gọi là Lục Thư – 六书). Đó là: tượng hình (象形), hội ý (会意), chỉ sự (指事), hình thanh (形声), giả tá (假借) và chuyển chú (转注). Lý thuyết là vậy, trên thực tế, “giả tá” và “chuyển chú” là những cách sử dụng chữ (dùng chữ có sẵn để biểu đạt một khái niệm mới), chứ không phải là một cách tạo nên chữ mới.

Do đó, khi chúng ta tìm hiểu cấu tạo của chữ Hán, chỉ cần tìm hiểu và nghiên cứu bốn cách đầu, đặc biệt là loại chữ được cấu tạo theo cách hình thanh, loại chữ phổ biến nhất trong kho từ vựng của tiếng Trung.

Mời bạn tham khảo Cách viết 50 bộ thủ thường dùng hoặc 500 chữ Hán cơ bản!

Trong chữ Hán: Lục thư là gì?

TƯỢNG HÌNH 象形

Chữ Tượng Hình (象形文字): “Tượng hình” có nghĩa là căn cứ trên hình tượng của sự vật mà hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và đơn giản. Đó chính là phép vẽ hình tượng của các vật để tạo nên chữ, tùy theo thể mà thêm bớt.

Lục thư là gì?

Ví dụ:日 Nhật ; 月 Nguyệt; 人 Nhân; 木 Mộc v.v…

Sự vật, hiện tượng thì có quá nhiều, dùng một vài đường nét thì khó mà vẽ ra được, cho dù vẽ ra được thì đường nét lại phức tạp, không phù hợp với yêu cầu trong giao tiếp. Vì thế mà loại chữ này không nhiều lắm. Theo “Thuyết văn giải tự” (说文解字) thì chữ tượng hình 象形字 chỉ chiếm khoảng 4% trong bộ từ vựng tiếng Trung.

Hơn nữa, để tiện cho việc viết lách, người Trung Quốc sau này liên tục đơn giản hóa hình thể của loại chữ này, đến chữ Hán hiện đại thì phần lớn đã không còn sản sinh ra thêm bất cứ chữ tượng hình nào nữa, nó đã biến thành một loại ký hiệu thuần túy không biểu ý cũng không biểu âm.

CHỈ SỰ 指 事

Chữ Chỉ Sự (指事文字) hay chữ Biểu Ý (表意文字): Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triển lên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữ Chỉ Sự.

Lục thư là gì? 1

Ví dụ, để tạo nên chữ Bản ( 本 ), diễn đạt nghĩa “gốc rễ của cây” (根), thì người ta dùng chữ Mộc (木) và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa “ở đây là gốc rễ” và chữ Bản (本) được hình thành. Chữ Thượng (上), chữ Hạ (下) và chữ Thiên (天) cũng là những chữ Chỉ Sự được hình thành theo cách tương tự.

“Chỉ Sự” có nghĩa là chỉ định một sự vật và biểu diễn bằng chữ.

HỘI Ý 會意

Chữ Hội Ý (Hội Ý Văn Tự 會意文字): Để tăng thêm chữ Hán, cho đến nay người ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới.

Lục thư là gì? 2

Ví dụ, chữ Lâm (林, rừng nơi có nhiều cây) có hai chữ Mộc (木) xếp hàng đứng cạnh nhau được tạo bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau (Rừng thì có nhiều cây!!). Chữ Sâm (森,rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng cách ghép ba chữ Mộc.

Còn chữ Minh (鳴,kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu (鳥, con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口, mồm); chữ Thủ (取, cầm, nắm) được hình thành bằng cách chữ Nhĩ (耳, tai) của động vật với tay (chữ Thủ 手, chữ Hựu 又). Những chữ được tạo thành theo phương pháp ghép như trên gọi là chữ Hội Ý (會意文字).

“Hội Ý” có nghĩa là ghép ý nghĩa với nhau.

HÀI THANH 諧聲 / HÌNH THANH/形聲

Chữ Hình Thanh (形聲文字): Cùng với những chữ Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữ Hán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ Hình Thanh (形聲文字).

Chữ Hình Thanh chiếm phần lớn trong toàn bộ chữ Hán. Chữ Hình Thanh là những chữ bao gồm hai phần: phần hình (形) là phần biểu diễn ý nghĩa chính mà đã được dùng từ lâu đời, và phần thanh (聲) là phần biểu diễn cách phát âm chính xác của từ đó.

Lục thư là gì? 3

Ví dụ, chữ Khẩu (口) có hình biểu diễn việc ăn hoặc nói, và chữ Vị (未) có cách phát âm giống chữ vị (trong khẩu vị) khi ghép hai chữ với nhau tạo nên chữ Vị (味) của khẩu vị. Bộ Thủy (氵) biểu diễn nghĩa dòng sông hoặc dòng nước chảy, khi ghép cùng với chữ Thanh (青, màu xanh) tạo thành chữ Thanh (清) có nghĩa là “trong suốt” hoặc “trong xanh”.

CHUYỂN CHÚ 轉注

Chữ Chuyển Chú (轉注文字): Các chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể trên, nhưng còn có những chữ có thêm những ý nghĩa khác biệt, và được sử dụng trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó.

Ví dụ, chữ Dược (藥), có nguồn gốc là từ chữ Nhạc (樂), âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn khởi nên chữ Nhạc (樂) cũng có âm là Lạc nghĩa là vui vẻ. Chữ Dược (藥) được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo (có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (樂). Chữ được hình thành theo phương pháp này được gọi là chữ Chuyển Chú (轉注文字).

GIẢ TÁ 假借

Chữ Giả Tá (假借文字): Những chữ được hình thành theo phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm được gọi là chữ Giả Tá (假借文字).

Vốn là không có chữ, mượn thanh để gửi sự, biến thành âm và nghĩa xa lạ, không có quan hệ duyên do suy diễn. Ví dụ:道 đạo là con đường v.v

Ở trên giải thích về bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng chữ Hán. Bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng được gọi chung là Lục Thư (六 書). Thực tế còn có một dạng chữ được gọi là hình thanh kiêm hội ý, dạng chữ này cũng chiếm một lượng lớn trong toàn bộ chữ hán.

Tỉ lệ các loại chữ Hán

Một vài thống kê và mẹo nhỏ giúp ích cho người học chữ Hán:

  • Lượng chữ hán thống kê được rất lớn, khoảng 100.000 chữ; nhưng thường hay được dùng khoảng 3000 – 5000 chữ;
  • Chữ tượng hình + chữ chỉ sự chiếm khoảng 5%;
  • Chữ hội ý: chiếm khoảng 20%;
  • Chữ hình thanh: chiếm khoảng 65%;
  • Chữ hình thanh kiêm hội ý: chiếm khoảng 10%;
  • Hai dạng chuyển chú và giả tá rất ít gặp trong thực tế;
  • 214 bộ thủ chữ hán chủ yếu ở dạng chữ tượng hình (một số ít ở dạng hội ý, hình thanh và chỉ sự).
  • 80% chữ hình thanh có kết cấu trái phải. Trong đó, bộ phận biểu âm thường nằm bên trái và là chữ hội ý trong khi bộ phận biểu nghĩa bên phải thường là chữ tượng hình (điều này cho thấy tầm quan trọng của việc học chữ hội ý).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *