dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT

SKKN Kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Thứ nhất, Điều 2 Luật Giáo dục khẳng định: “Mục tiêu giáo dục là đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
”. Sự
phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh quốc tế được đặc trưng bởi xã hội
tri thức và toàn cầu hóa đã đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao
động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới cho sự nghiệp giáo
dục. Giáo dục cần đào tạo nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng được
những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực
hành động, tính năng động, sáng tạo và năng lực giải quyết các vấn đề
phức hợp trong mọi tình huống của cuộc sống. Giáo dục cần đổi mới để đáp
ứng được những yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, môn
GDCD là môn học quan trọng góp phần hình thành, phát triển năng lực cần
thiết cho mỗi công dân.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
trong dạy học môn GDCD. Trong xu hướng dạy học hiện đại, người học là
chủ thể trung tâm của quá trình học tập, phương pháp dạy học đã từng bước
đổi mới theo hướng tích cực để đáp ứng nhiệm vụ giáo dục. Song hành với
đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới kiểm tra đánh giá, bởi kiểm tra đánh
giá năng lực môn GDCD là kiểm tra đánh giá theo chuẩn sản phẩm đầu ra,
2
không chỉ kiểm tra kiến thức mà quan trọng là khả năng vận dụng tổng hợp
kiến thức, kĩ năng thái độ để giải quyết các vấn đề. Hoạt động dạy và học cần
có thông tin phản hồi để điều chỉnh nâng cao chất lượng hiệu quả học tập.
Hơn nữa, việc kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập sẽ giúp giáo viên, học
sinh và phụ huynh có thông tin xác thực về quá trình học tập để kịp thời điều
chỉnh nâng cao chất lượng học tập, hình thành năng lực cho người học.
Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn kiểm tra, đánh giá môn học GDCD tại
trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định. Những năm gần đây, trường
THPT Nguyễn Huệ nói chung và môn học GDCD nói riêng đã thay đổi từng
bước ở khâu kiểm tra đánh giá, chú trọng hơn khả năng vận dụng của học sinh
và chất lượng học tập cũng cao hơn. Tuy nhiên, quá trình kiểm tra, đánh giá
chưa được đồng bộ, còn diễn ra nhỏ lẻ, chưa bám sát mục tiêu giáo dục, chưa
đáp ứng được nhu cầu đổi mới giáo dục phổ thông nên cần được tiếp tục cải
tiến, hoàn thiện. Giáo viên còn chưa thành thạo trong lựa chọn cách thức,
công cụ kiểm tra, đặc biệt là chưa xây dựng được ngân hàng đề kiểm tra, đánh
giá đạt chuẩn.
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn trên, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Kiểm
tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12
ở trường THPT Nguyễn Huệ, Tỉnh Nam Định”
làm sáng kiến báo cáo năm
học 2022.
II. Thực trạng ( Trước khi tạo ra sáng kiến)
*/ Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS hiện nay phần lớn GV cho
biết vẫn thường xuyên chú trọng đánh giá kiến thức. Chỉ có số ít lần GV
thường xuyên kiểm tra, đánh giá kĩ năng của HS và ít khi nội dung trong bài
KT, ĐG là năng lực vận dụng tri thức vào giải quyết những vấn đề, tình huống
nảy sinh từ thực tiễn. GV đã nghiên cứu, sử dụng đa dạng các hình thức kiểm
tra, đánh giá trong quá trình dạy học ở THPT, trong đó kiểm tra viết, kiểm tra
3
vấn đáp được GV thường xuyên sử dụng, đa số GV lựa chọn sử dụng loại câu
hỏi trắc nghiệm, câu hỏi tự luận để kiểm tra. Đặc biệt, hình thức phương pháp
kiểm tra đánh giá trong dạy học môn GDCD thường là bài kiểm tra truyền
thống, chưa chú trọng phương pháp quan sát, đánh giá qua hồ sơ học tập và
đánh giá qua sản phẩm của học sinh. Và mặc dù dạy nhiều lớp, nhưng chỉ có
1 đề kiểm tra cho mỗi đợt kiểm tra, nên không tạo tính công bằng cho học
sinh giữa các lớp, chưa có ngân hàng đề xây dựng chuẩn xác, khoa học. Hơn
nữa, trong hoạt động học tập GV chưa khuyến khích HS tự đánh giá và đánh
giá đồng đẳng lẫn nhau. Nhiều giáo viên chưa tham khảo đánh giá của phụ
huynh học sinh và đánh giá thông qua các hoạt động giáo dục khác.
*/ Nhiều học sinh ít hứng thú với môn GGCD, sở dĩ học sinh chưa tìm
thấy niềm vui, sự hứng thú trong học tập GDCD là do chưa được rèn luyện
những kĩ năng, cũng như khả năng vận dụng tri thức của môn học vào trong
đời sống hằng ngày. Phần công dân với pháp luật được phân phối trong sách
giáo khoa như sau:
+ Pháp luật và đời sống
+ Thực hiện pháp luật
+ Công dân bình đẳng trước pháp luật
+ Công dân bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
+ Bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo
+ Quyền tự do cơ bản của công dân
+ Quyền dân chủ của công dân
+ Pháp luật với sự phát triển của công dân
4
Những khó khăn nảy sinh khi học tập môn GDCD và cốt lõi là phần
công dân với pháp luật: Học sinh phải nắm bắt và ghi nhớ khá nhiều khái
niệm, thời gian thực hành còn ít, dẫn đến lối học tập thụ động. Để góp phần
giải quyết những khó khăn trên, dựa trên thực tiễn đã giảng dạy, trong báo cáo
này tác giả trình bày cơ sở lý luận của kiểm tra đánh giá năng lực học sinh và
xây dựng ngân hàng đề kiểm tra đánh giá năng lực học sinh phù hợp với xu
thế đổi mới của giáo dục.
III. Giải pháp
III.1. TÓM TẮT NỘI DUNG GIẢI PHÁP
* Nhiệm vụ sáng kiến:
– Nghiên cứu cơ sở lý luận việc kiểm tra, đánh giá năng lực HS trong dạy
học môn GDCD ở trường THPT.
– Điều tra, đánh giá thực trạng kiểm tra, đánh giá năng lực HS trong dạy
học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định.
– Đề xuất nguyên tắc, biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra đánh giá
năng lực HS trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ,
tỉnh Nam Định.
– Tổ chức thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh
Nam Định để đánh giá hiệu quả các biện pháp đã đề xuất.
* Điểm mới- sáng tạo:
– Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về kiểm tra, đánh giá năng lực học
sinh của môn GDCD lớp 12.
– Gợi ý ma trận, ngân hàng đề phục vụ cho việc dạy học môn GDCD
lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, và giáo viên các trường THPT có thể
tham khảo sử dụng.
5
III.2. NỘI DUNG GIẢI PHÁP:
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ NĂNG
LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 TRƯỜNG
THPT NGUYỄN HUỆ, TỈNH NAM ĐỊNH
1.1. Cơ sở lí luận về kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học
môn GDCD lớp 12
1.1.1. Một số vấn đề lí luận chung về kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
1.1.1.1. Một số khái niệm về kiểm tra, đánh giá trong giáo dục
– Đo lường
“Đo lường là khái niệm chỉ sự so sánh một vật, hiện tượng với một
thước đo hay chuẩn mực về các đại lượng đặc trưng như nhận thức, tư duy,
kĩ năng và các phẩm chất nhân cách khác trong quá trình giáo dục. Và trình
bày kết quả dưới dạng thông tin định lượng hoặc định tính. Trong giáo dục,
đo lường là quá trình thu thập thông tin một cách định lượng, có thể thông
qua việc thi kiểm tra để xác định mức độ HS biết được kiến thức một môn
học hoặc mức độ hiểu biết về một vấn đề nào đó và kết quả thể hiện dưới
dạng một đại lượng định” [30, tr12].
– Kiểm tra
Trong lĩnh vực giáo dục, theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Kiểm tra là bộ
phận hợp thành của quá trình dạy học nhằm nắm được thông tin về KQHT
của học sinh, củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học. Nội
dung kiểm tra phải bám sát từng giai đoạn học tập” [19, tr175].
Kiểm tra là quá trình xem xét, thu thập thông tin và đo lường để đưa ra
các kết quả và so sánh, đối chiếu với các yêu cầu, mục tiêu hay chuẩn đã đề
6
ra, với mục đích là xác định xem cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được,
những nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng, chi phối. Trong giáo dục, kiểm tra
là hoạt động đo lường kết quả học tập sử dụng bộ công cụ phù hợp đã chuẩn
bị trước để điều chỉnh nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
– Đánh giá
Đánh giá được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội, tùy thuộc vào từng ngành và từng lĩnh vực cụ thể mà có các khái niệm
đánh giá khác nhau. Gloulund N.E định nghĩa: “Đánh giá là một tiến trình có
hệ thống của việc thu thập phân tích và giải thích thông tin nhằm xác định mức
độ mà học sinh đã đạt được mục tiêu bài dạy” [13, tr4]. Theo Polonxki VN :
“Đánh giá là sự xác định trình độ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh
trong sự tương ứng với yêu cầu của chương trình học” [13, tr5].
Theo Brown 1990 cho rằng: “Đánh giá đề cập đến một loạt các biện
pháp liên quan được sử dụng để xác định một thuộc tính phức tạp của một cá
nhân hoặc một nhóm cá nhân. Điều này liên quan đến việc thu thập và giải
thích thông tin về mức độ đạt được các mục tiêu học tập của học sinh. Đánh
giá cũng được sử dụng để xác định điểm yếu và điểm mạnh của cá nhân học
sinh để các nhà giáo dục có thể cung cấp chương trình giáo dục hỗ trợ học tập
chuyên biệt hoặc các dịch vụ xã hội” [26, tr6].
Theo tác giả Trần Bá Hoành “đánh giá là quá trình hình thành những
nhận định phán đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự phân tích những
thông tin thu được. Đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm
đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng
cao chất lượng và hiệu quả công việc” [16, tr10].
Trong giáo dục, đánh giá được hiểu là cách thức giáo viên thu thập và
sử dụng thông tin trong lớp học của mình nhằm đưa ra phán xét, nhận định,
quyết định để điều chỉnh hoạt động dạy và giúp HS học tập tiến bộ.
7
Như vậy, trong giáo dục kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của
quá trình dạy học, là một bộ phận không thể thiếu của quản lí giáo dục, quản
lí chất lượng dạy và học. Ở cấp độ nhà trường và lớp học, kiểm tra đánh giá
phục vụ 3 nhiệm vụ cơ bản: Hỗ trợ cho hoạt động dạy, học của GV và HS;
cho điểm từng cá nhân HS từ đó xác định kết quả học tập mà HS đạt được để
phân loại HS, chuyển lớp, cấp bằng; là cơ sở để nhà trường giải trình với xã
hội. Ở cấp độ chương trình đào tạo, kiểm tra đánh giá nhằm điều chỉnh đối
với nội dung chương trình, phương pháp dạy học và phương pháp kiểm tra
đánh giá… để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Mục đích cuối cùng của
kiểm tra, đánh giá là nhằm nâng cao chất lượng của tất cả các hoạt động giáo
dục. Vì vậy, kiểm tra, đánh giá cần phải mang tính dự đoán, giàu thông tin,
chính xác khoa học và mang lại tác động điều chỉnh cho GV và HS.
– Kiểm tra, đánh giá năng lực
“Năng lực là những khả năng và kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể
nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ,
xã hội,… và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách
nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt” [6, tr4].
Theo Bemd Meier và Nguyễn Văn Cường (2011), “năng lực là khả
năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các
nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề
nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh
nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động” [5, tr27].
Kiểm tra, đánh giá năng lực là quá trình GV tương tác với HS để thu
thập các minh chứng về năng lực của HS. GV sử dụng các chuẩn đánh giá đã
có để đưa ra kết luận về mức độ đạt hay không đạt về năng lực nào đó của
HS. Đánh giá năng lực chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong
những tình huống thực tiễn ứng dụng khác nhau, là biện pháp hữu hiệu nhằm
8
xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò to lớn trong việc cải
thiện kết quả học tập của HS.
1.1.1.2. Quan điểm hiện đại về KT, ĐG kết quả học tập, giáo dục theo hướng
phát triển năng lực HS
Trong suốt thế kỉ 20, hoạt động kiểm tra, đánh giá được xem là nguồn
cung cấp các chỉ số thông tin về việc học tập của người học, và nó tuân theo
những trình tự: GV thực hiện quá trình giảng dạy và kiểm tra kiến thức của
HS, sau đó tiến hành kiểm ra, đánh giá HS, dựa trên các kết quả kiểm tra đó
làm cơ sở cho các chuỗi hoạt động dạy học tiếp theo. Tuy nhiên, trước sự thay
đổi của nhân loại và xã hội, khi sự phát triển của khoa học đã cung cấp những
vấn đề bản chất quy luật của hoạt động học tập thì kiểm tra, đánh giá không
chỉ dừng ở việc thu thập và phân tích dữ liệu về thành quả học tập của HS mà
còn thực hiện các nhiệm vụ cao hơn với mục tiêu cuối cùng là sự tiến bộ
không ngừng của người học. Dưới đây là một số quan điểm hiện đại về kiểm
tra, đánh giá.
– Đánh giá là học tập
Đánh giá là học tập xem xét đánh giá với tư cách như là một hoạt động
của quá trình học tập. HS cần nhận thức được các nhiệm vụ của hoạt động
đánh giá cũng chính là nội dung của hoạt động học tập. Việc đánh giá cũng
được diễn ra thường xuyên, liên tục trong cả quá trình học tập của HS. Đánh
giá là học tập chủ yếu tập trung vào khả năng tự đánh giá của HS dưới sự
hướng dẫn, kết hợp với sự đánh giá của GV qua hai hình thức đánh giá cơ bản
là tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng.
– Đánh giá vì học tập
Đánh giá vì học tập diễn ra thường xuyên trong suốt quá trình dạy học
nhằm phát hiện nhanh những thay đổi tiến bộ của HS, từ đó hỗ trợ, điều chỉnh
hoạt động dạy học. Việc đánh giá nhằm cung cấp thông tin để cả GV và HS
9
điều chỉnh, cải thiện chất lượng dạy và học. Kết quả đánh giá không nhằm so
sánh giữa các HS với nhau mà để làm nổi bật những điểm mạnh và điểm yếu
của bản thân mỗi HS và cung cấp cho HS những thông tin phản hồi về từng
giai đoạn học tập để tiếp tục duy trì phương pháp học của mình ở các giai
đoạn học tập tiếp theo. Ở đây, không chỉ GV vẫn giữ vai trò chủ đạo trong
đánh giá kết quả học tập mà những HS cũng được tham gia vào quá trình
đánh giá ấy. HS có thể tự đánh giá bản thân hoặc đánh giá lẫn nhau dưới sự
hướng dẫn của GV, qua đó họ tự đánh giá được khả năng học tập của mình để
có kế hoạch điều chỉnh hoạt động học tập được tốt hơn.
– Đánh giá kết quả học tập
Đánh giá kết quả học tập có chức năng chủ yếu là tổng kết, xếp loại, lên
lớp và chứng nhận kết quả. Đánh giá này diễn ra sau khi HS học xong một
giai đoạn học tập nào đó nhằm xác định xem các mục tiêu dạy học có được
thực hiện không và đạt được ở mức nào. GV là chủ thể của quá trình đánh giá
và HS không được tham gia vào các khâu của quá trình đánh giá.
Hình vẽ dưới đây thể hiện quan điểm đánh giá hiện đại so với đánh giá
truyền thống [21].
10
Như vậy, với những quan điểm đánh giá nêu trên, việc đánh giá cần
được tích hợp lồng ghép vào trong quá trình dạy học, GV khi đánh giá thường
phải đặt ra và trả lời được những câu hỏi như: Sự hiểu biết của HS đang ở
mức độ nào của trình độ tri thức? HS đã tiến bộ như thế nào so với chính bản
thân HS? Tại sao có một số HS tiến bộ hơn những HS khác? Tôi có thể thiết
lập kế hoạch giáo dục cho các nhóm HS khác nhau không?…
1.1.1.3. Bản chất và một số yêu cầu của kiểm tra đánh giá năng lực
– Bản chất của kiểm tra đánh giá năng lực học sinh:
Phẩm chất và năng lực là hai yếu tố nền tảng trong cấu trúc nhân cách
con người nói chung và là hai yếu tố cốt lõi góp phần tạo nên nhân cách của
một con người nói riêng. Do đó, ở các giai đoạn khác nhau, ở trong mọi
chương trình giáo dục được áp dụng, tuy có khác nhau về cấu trúc, phương
pháp, hình thức và nội dung giáo dục… nhưng đều chung mục tiêu hướng tới
hoàn thiện nhân cách.
Đánh giá năng lực là quá trình GV tương tác với HS để thu thập các
minh chứng về năng lực và sử dụng các chuẩn đánh giá đã có để đưa ra kết
11
luận về mức độ đạt hay không đạt về năng lực nào đó của HS. Đánh giá năng
lực chú trọng khả năng vận dụng khoa học sáng tạo tri thức trong những tình
huống ứng dụng khác nhau, là biện pháp quan trọng nhằm xác định mức độ
thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò lớn trong việc cải thiện kết quả học tập
của HS. Đánh giá năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bối
cảnh có ý nghĩa.
Xét về bản chất thì giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức kĩ
năng không có mâu thuẫn với nhau, mà đánh giá năng lực được coi là bước
phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Đánh giá năng lực là
đánh giá kĩ năng, thái độ, hành vi của người học. Ví như để chứng minh
rằng HS có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho HS được
tham gia giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn, thời sự.
Khi đó HS sẽ vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở
nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân ích lũy được từ
những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội).
Tuy nhiên, đánh giá năng lực có những điểm khác biệt cơ bản so với đánh
giá kiến thức, kĩ năng.
Có thể phân biệt sự khác biệt đó dựa theo bảng dưới đây:
Bảng 1.1. “So sánh đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng” [18]

Tiêu chíĐánh giá năng lựcĐánh giá kiến thức, kĩ năng
Mục đích
đánh giá
– Đánh giá khả năng HS vận
dụng các kiến thức, kĩ năng đã
được học vào giải quyết vấn
đề nảy sinh từ thực tiễn của
cuộc sống;
– Vì sự tiến bộ của HS so với
chính mình.
– Xác định việc đạt được kiến
thức, kĩ năng theo mục tiêu của
chương trình giáo dục;
– Đánh giá, xếp hạng giữa những
HS với nhau.
Ngữ cảnh
đánh giá
– Gắn với ngữ cảnh học tập cụ
thể và thực tiễn đời sống của
HS.
– Gắn với nội dung học tập (những
kiến thức, kĩ năng, thái độ) học
được trong nhà trường.

12

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ
Nội dung
đánh giá
– Những kiến thức, kĩ năng,
thái độ ở nhiều môn học,
nhiều hoạt động giáo dục và
những trải nghiệm của bản
thân HS trong cuộc sống xã
hội (tập trung vào năng lực
thực hiện);
– Qui chuẩn theo các mức độ
phát triển năng lực của HS.
– Những kiến thức, kĩ năng, thái
độ ở một môn khoa học cụ thể;
– Qui chuẩn theo việc HS đó có
đạt hay không một nội dung đã
được học.
Công cụ
đánh giá
Nhiệm vụ, bài tập gắn với tình
huống, bối cảnh thực tiễn.
Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong
tình huống hàn lâm hoặc tình
huống thực.
Thời điểm
đánh giá
Đánh giá ở mọi thời điểm của
quá trình dạy học, chú trọng đến
đánh giá trong khi học.
Thường diễn ra ở những thời điểm
nhất định trong quá trình dạy học,
đặc biệt là trước và sau khi dạy.
Kết quả
đánh giá
– Năng lực HS phụ thuộc vào
độ khó của nhiệm vụ hoặc bài
tập đã hoàn thành;
– Thực hiện được nhiệm vụ
khó và phức tạp hơn thì được
xem là có năng lực cao hơn.
– Năng lực của HS phụ thuộc vào
số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay
bài tập đã hoàn thành;
– Càng đạt được nhiều đơn vị kiến
thức, kĩ năng thì càng được xem là
có năng lực cao hơn.

Dựa vào bảng 1.1 ta thấy điểm khác biệt căn bản giữa đánh giá năng
lực so với đánh giá kiến thức, kĩ năng là ở chỗ đánh giá kiến thức, kĩ năng chỉ
xem xét việc HS ghi nhớ và tái hiện kiến theo mục tiêu của chương trình giáo
dục, gắn với các nội dung được học trong nhà trường và kết quả đánh giá HS
căn cứ vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập mà HS hoàn thành về đơn
vị kiến thức, kĩ năng đó. Còn đánh giá năng lực là đánh giá dựa trên khả năng
mà HS vận dụng tổng hợp kiến thức, kĩ năng đã được học vào để giải quyết
vấn đề trong học tập hoặc trong thực tiễn cuộc sống của mỗi HS. Đánh giá
năng lực căn cứ vào kết quả HS tham gia thực hiện nội dung chương trình của
tất cả các môn học, các hoạt động giáo dục, nó là tổng hòa từ nhiều môn học,
kết tinh cả kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức
của HS.
Đánh giá năng lực HS được hiểu là hoạt động thu thập minh chứng về
13
một học sinh trong một lĩnh vực học tập có giá trị nhằm hỗ trợ việc đánh giá
về vị trí của HS trên đường năng lực từ mức thấp đến mức cao ghi nhận
những gì HS đã biết và có thể thực hiện và những gì HS chưa biết, cần học
tiếp một cách chủ động, tích cực. Qua đó, GV có thể điều chỉnh các hoạt động
dạy học và báo cáo cụ thể kết quả học tập của HS một cách chính xác.
– Một số yêu cầu khi đánh giá năng lực HS:
+ Đánh giá được tích hợp vào trong quá trình dạy học, giáo dục tức là
chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học, giáo
dục sang hướng tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, giáo dục. Xem đánh
giá như là một phương pháp giáo dục hiệu quả nhằm liên tục thu được những
thông tin phản hồi cho GV và HS, giúp cho GV có những quyết định phù hợp
trong các thời điểm dạy học và giáo dục, giúp HS tích cực hơn trong học tập
và trong tham gia các hoạt động giáo dục.
+ Chú trọng đánh giá quá trình và sự tiến bộ của HS, nghĩa là chuyển dần
trọng tâm từ việc đánh giá kết quả cuối cùng sang đánh giá cả quá trình đảm bảo
cho việc đánh giá toàn diện hơn, đầy đủ hơn, giảm sức ép cho học sinh trong
đánh giá cuối kì.
+ Chuyển từ đánh giá kiến thức, kĩ năng đơn lẻ sang đánh giá tri thức
tổng hợp, kĩ năng có tính phức hợp, tức là không chỉ đánh giá khả năng ghi
nhớ và hiểu bài mà còn đánh giá khả năng hiểu sâu sắc, khả năng vận dụng
kiến thức để giải quyết các vấn đề khác nhau và nhấn mạnh đến kĩ năng tư
duy, giao tiếp làm việc nhóm, thể hiện những năng lực cần thiết. Đánh giá cần
dựa trên nhiều thông tin đa dạng, phong phú, HS có thể tự đánh giá và đánh
giá HS từ các chủ thể khác nhau.
+ Chuyển từ đánh giá một chiều chủ yếu là GV đánh giá HS sang đánh
giá đa chiều (có thể là GV đánh giá kết hợp với HS tự đánh giá hoặc HS đánh
giá chéo nhau và đánh giá thông qua nhà trường, phụ huynh và cộng đồng xã
14
hội). Vì vậy, mà kết quả đánh giá sẽ toàn diện, công bằng và khách quan hơn,
đồng thời còn tạo cơ sở để hình thành cho HS năng lực tự kiểm tra, tự đánh
giá, tự điều chỉnh hành vi của mình.
+ Kết hợp đánh giá bằng nhận xét và điểm số, chú trọng nhận xét sự
tiến bộ của HS về thái độ, hành vi, kết quả thực hiện các nhiệm vụ học tập
theo định hướng phẩm chất, năng lực người học.
1.1.1.4. Hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá, năng lực HS
– Một là, hình thức kiểm tra, đánh giá
Trong thực tế, kiểm tra đánh giá thường xuyên và kiểm tra, đánh giá
định kì là hai hình thức cơ bản được lựa chọn và vận dụng trong các nhà
trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay. Điểm cốt lõi của các quan điểm hiện
đại về đánh giá (đánh giá là học tập, đánh giá vì học tập, đánh giá kết quả học
tập) được thể hiện và gắn kết chặt chẽ với mục đích đánh giá trong 2 hình
thức đánh giá cơ bản nói trên.
+ Kiểm tra, đánh giá thường xuyên
Kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện trong quá trình dạy
học và giáo dục, nhằm kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện các
nhiệm vụ học tập, rèn luyện của HS theo chương trình môn học, hoạt động
giáo dục trong Chương trình GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành.
+ Kiểm tra, đánh giá định kì
Kiểm tra, đánh giá định kì được thực hiện sau mỗi giai đoạn giáo dục nhằm
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện và mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của HS
theo chương trình môn học, hoạt động giáo dục quy định trong Chương trình
GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành. Về bản chất, đây là hoạt động kiểm tra,
đánh giá mức độ thành thạo của HS về kiến thức, kĩ năng so với các yêu cầu cần đạt
sau một giai đoạn học tập (giữa kỳ và cuối kì). GV sẽ dựa vào kết quả đánh giá định
kì để xác định thành tích của HS, xếp loại HS và đưa ra kết luận giáo dục cuối cùng.
15
– Hai là, phương pháp kiểm tra, đánh giá
GV sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục
đích, thời điểm và yêu cầu của từng hình thức đánh giá. Mối quan hệ giữa
hình thức, phương pháp và công cụ kiểm tra, đánh giá được thể hiện như sau:
Bảng 1.2. “Mối quan hệ giữa hình thức, phương pháp và công cụ đánh giá”

Hình thức
đánh giá
Phương pháp
đánh giá
Công cụ
đánh giá
Đánh giá
thường xuyên
(ĐG vì học tập;
ĐG là học tập
)
Hỏi – đápCâu hỏi.
Quan sátGhi chép các sự kiện thường
nhật, thang đo, bảng kiểm.
Đánh giá qua hồ sơ học tậpBảng quan sát, câu hỏi, phiếu
đánh giá theo tiêu chí.
Đánh giá qua sản phẩm học tậpBảng kiểm, thang đánh giá, phiếu
đánh giá theo tiêu chí.
Đánh giá
định kì
(ĐG kết quả
học tập
)
Kiểm tra viết
Đánh giá qua hồ sơ học tập
Bài kiểm tra (câu hỏi tự luận, câu
hỏi trắc nghiệm), bài luận, phần
mềm biên soạn đề kiểm tra, bảng
kiểm, phiếu đánh giá theo tiêu chí,
thang đo.

+ Phương pháp kiểm tra viết
Kiểm tra viết là phương pháp kiểm tra rất phổ biến, có thể được sử
dụng với nhiều HS cùng một thời điểm, được GV sử dụng sau khi học xong
một phần kiến thức của một chương hay nhiều chương, hoặc sau khi học xong
toàn bộ chương trình môn học. Cơ sở nội dung cần kiểm tra có khả năng bao
quát từ vấn đề lớn có tính chất tổng hợp đến vấn đề nhỏ, HS phải thể hiện câu
trả lời bằng ngôn ngữ viết. Phương pháp kiểm tra viết có hai loại cơ bản là
kiểm tra viết dạng tự luận và kiểm tra viết dạng trắc nghiệm khách quan.
Kiểm tra viết dạng tự luận: Là phương pháp GV thiết kế câu hỏi, bài
tập và hướng dẫn HS xây dựng câu trả lời hoặc làm bài tập trên bài kiểm tra
viết. Một bài kiểm tra tự luận thường có ít câu hỏi, mỗi câu hỏi phải viết
nhiều câu trả lời nên cần phải đầu tư nhiều thời gian để trả lời mỗi câu, nó
16
khuyến khích HS bộc lộ ý tưởng nào đó để trả lời các vấn đề đặt ra.
Kiểm tra viết dạng trắc nghiệm khách quan
Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi
câu sẽ được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản hay một từ, một cụm từ.
+ Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp kiểm tra, đánh giá đề cập đến việc theo, xem
xét HS thực hiện các hoạt động học tập hoặc nhận xét một sản phẩm do HS
làm ra (quan sát sản phẩm).
Phương pháp quan sát được tiến hành khi GV sử dụng thị giác phối hợp
với các giác quan khác, xem xét quá trình học tập của HS một cách có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch để thu thập thông tin và đưa ra những kết luận trên
cơ sở phân tích những thông tin ấy. Đây là một trong những phương pháp phổ
biến của kiểm tra, đánh giá thường xuyên.
Khi quan sát quá trình HS thực hiện nhiệm vụ học tập, GV phải chú ý
đến những biểu hiện về mặt hành vi của HS như: sự tương tác (tranh luận,
chia sẻ các suy nghĩ, biểu lộ cảm xúc,…) giữa các HS với nhau trong nhóm,
nói chuyện riêng trong lớp, mất tập trung, có vẻ mặt căng thẳng, lo lắng, lúng
túng,… hay tích cực hào hứng, giơ tay phát biểu xây dựng bài trong giờ học,
hay ngồi im thụ động…
Để tiến hành quan sát có hiệu quả, GV cần sử dụng các loại công cụ để
thu thập thông tin từ HS như: Sổ ghi chép các sự kiện thường nhật, thang đo,
bảng kiểm, phiếu đánh giá theo tiêu chí,…
+ Phương pháp hỏi – đáp
Hỏi – đáp là phương pháp chủ yếu thứ ba mà GV thường sử dụng để
thu thập minh chứng trong kiểm tra đánh giá trên lớp. Cách thức tiến hành
của phương pháp này là GV đặt câu hỏi và HS trả lời câu hỏi (hoặc HS phản
hồi thắc mắc để GV trả lời), nhằm rút ra những kết luận, những tri thức mới
17
mà HS cần hiểu, hoặc nhằm tổng kết, củng cố, kiểm tra mở rộng những kiến
thức mà HS đã học.
Phương pháp hỏi – đáp cung cấp rất nhiều thông tin chính thức và
không chính thức về HS. Do vậy, việc chủ động, thành thạo các kĩ thuật đặt
câu hỏi đặc biệt có hiệu quả đối với GV khi tiến hành đánh giá, nhất là khi
cần ôn tập lại một chủ đề đã học trước đó. Hoặc trong một chủ đề mới, suy
nghĩ xem HS có hiểu bài hay không và cần thu hút sự chú ý của một HS nào
đó đang mất tập trung. GV có thể thu thập được thông tin mình muốn mà
không cần đến bất kỳ một loại đánh giá viết nào.
+ Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập
Hồ sơ là tập hợp các bài tập, bài kiểm tra, bài thực hành, phiếu quan
sát, sản phẩm công việc, bằng video, ảnh,… đã hoàn thành một cách tốt nhất.
Hồ sơ học tập được sử dụng như là minh chứng về quá trình học tập và sự tiến
bộ của HS hoặc như là minh chứng về các tiêu chuẩn cần đạt.
Hồ sơ học tập giúp phát triển kĩ năng tổ chức, kĩ năng thể hiện, thuyết
trình,… của HS. Khi được GV giao nhiệm vụ học tập, động viên, khuyến khích
tạo sản phẩm, HS sẽ tự tôn trọng thành quả học tập của mình, độc lập suy nghĩ,
sáng tạo và tự thể hiện bản thân một cách rõ rệt. Thông qua hồ sơ học tập, HS có
cơ hội thể hiện năng lực bằng những sản phẩm tốt nhất; lập sơ đồ về sự tiến bộ
của mình; giám sát và điều chỉnh hành động và kế hoạch cá nhân; trao đổi học
tập với người khác; tạo những thay đổi cần thiết để phát triển năng lực.
+ Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập
Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập là phương pháp đánh
giá kết quả học tập của HS, kết quả được thể hiện bằng các sản phẩm như
câu trả lời, giải quyết tình huống, thực hành một kĩ năng, bảng sơ đồ tư
duy, bài thuyết trình, tranh ảnh, video…. Như vậy, sản phẩm là các bài làm
hoàn chỉnh, được HS thể hiện qua việc xây dựng, sáng tạo, hợp tác với
18
nhau thể hiện ở việc hoàn thành được hoạt động học tập một cách có hiệu
quả. Các tiêu chí và tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm của HS là rất đa dạng.
Qua đó mà GV có thể đánh giá được năng lực vận dụng kiến thức vào thực
tiễn của HS.
Đánh giá qua sản phẩm học tập giúp cho việc dạy học gắn với thực
tiễn, kích thích khơi dậy hứng thú học tập của HS, làm cho môn học trở nên ý
nghĩa hơn, HS học tập năng động hơn. Thông qua sản phẩm học tập, HS có
thể tự đánh giá được trình độ kiến thức cũng như khả năng thực hiện của
mình. Trọng tâm của đánh giá sản phẩm là hướng vào những gì HS đã làm
nên HS có cơ hội để thể hiện điều đã học, kiến thức đã được tích lũy theo các
cách khác nhau, nhờ đó mà phát huy được tính sáng tạo cho HS. Tuy nhiên,
đánh giá qua sản phẩm học tập thường chịu tác động chủ quan từ GV, nên GV
mất nhiều thời gian để xây dựng tiêu chí đánh giá, quan sát, phân tích, phản
hồi kết quả đến từng HS.
1.1.1.5. Công cụ kiểm tra, đánh giá năng lực HS
GV phải nắm vững quy trình kiểm tra đánh giá, hiểu được bản chất, ưu
nhược điểm và cách sử dụng của từng nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá.
Đặc biệt phải xác định và biết cách thiết kế các công cụ đánh giá phù hợp với
nội dung và phương pháp kiểm tra, đánh giá, đáp ứng được mục đích kiểm
tra, đánh giá đã đặt ra. Do đó, GV trong quá trình dạy học một bài học hay
chủ đề, cùng với việc lập kế hoạch dạy học thì nhất thiết phải xây dựng được
kế hoạch kiểm tra, đánh giá và thiết kế được các công cụ kiểm tra, đánh giá
theo kế hoạch đã xây dựng.
– Một là, câu hỏi
Câu hỏi là một trong các công cụ rất phổ biến được dùng trong kiểm
tra, đánh giá. Câu hỏi có thể được sử dụng trong kiểm tra miệng, kiểm tra viết
với các dạng: tự luận, trắc nghiệm khách quan, vấn đáp, bảng hỏi ngắn, thẻ
19
kiểm tra, bảng KWLH…
Các loại câu hỏi và cách sử dụng :
Thứ nhất, câu hỏi trắc nghiệm khách quan là một loại công cụ kiểm tra
đánh giá những câu trắc nghiệm, sở dĩ nó mang tên là khách quan vì cách cho
điểm mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người
chấm. Tuy nhiên độ khách quan, công bằng cũng chỉ mang tính tương đối vì câu
hỏi và các lựa chọn trong trắc nghiệm khách quan vẫn do GV thiết kế. Nếu
người GV thiết kế trắc nghiệm không chuẩn xác cũng sẽ dẫn tới đo lường sai
lệch trình độ của HS.
Có nhiều loại câu trắc nghiệm khách quan, mỗi loại có ưu nhược điểm
riêng, việc sử dụng loại trắc nghiệm nào phụ thuộc vào mục đích đánh giá,
loại kiến thức cần đo lường và phụ thuộc và những điểm mạnh, điểm yếu của
từng loại. Dưới đây là một số loại trắc nghiệm được sử dụng trong kiểm tra
đánh giá:
+ Trắc nghiệm nhiều lựa chọn là loại trắc nghiệm thông dụng nhất, còn
gọi là trắc nghiệm đa phương án.
+ Trắc nghiệm điền vào chỗ trống là loại trắc nghiệm đòi hỏi HS cung
cấp câu trả lời một hay một ít từ cho một câu hỏi trực tiếp hay một câu nội
dung một câu nhận định chưa đầy đủ.
+ Trắc nghiệm ghép đôi là loại trắc nghiệm thường có hai dãy thông tin
gọi là các câu dẫn và các câu đáp. Chúng cần được ghép lại với nhau theo
kiểu tương ứng một – một sao cho nội dung ghép lại là một câu đúng. Hai dãy
thông tin này không nên có số câu bằng nhau để cho cặp ghép cuối cùng
không chỉ đơn giản là kết quả của sự loại trừ liên tiếp.
+ Trắc nghiệm đúng sai là loại trắc nghiệm được trình bày dưới dạng
một câu phát biểu và thí sinh trả lời bằng cách lựa chọn đúng (Đ) hoặc sai (S).
Thứ hai, câu hỏi tự luận là loại công cụ được thiết kế để yêu cầu HS
xây dựng câu trả lời hoặc làm bài tập, bài kiểm tra viết.
20
Thứ ba, câu hỏi vấn đáp là một dạng công cụ được sử dụng cho việc hỏi
và đáp giữa GV và HS, câu hỏi vấn đáp có thể sử dụng ở mọi thời điểm dạy
học, HS cần trình bày diễn đạt bằng ngôn ngữ nói. Tuỳ theo vị trí, mục đích,
nội dung của bài học, người ta chia vấn đáp thành những dạng hỏi đáp cơ bản
sau:
+ Hỏi – đáp gợi mở: là hình thức GV khéo léo đặt những câu hỏi gợi
mở dẫn dắt HS rút ra những nhận xét, những kết luận cần thiết từ những sự
kiện đã quan sát được hoặc những tài liệu đã học được.
+ Hỏi – đáp củng cố: được sử dụng sau khi thực hiện các hoạt động
hình thành tri thức, kĩ năng mới, giúp HS củng cố được những tri thức và kĩ
năng cơ bản nhất hệ thống hoá chúng theo hướng mở rộng và vận dụng những
tri thức đã thu được, khắc phục tính thiếu chính xác của việc hiểu hàn lâm,
máy móc tri thức.
+ Hỏi – đáp tổng kết: được sử dụng khi cần dẫn dắt HS khái quát hoá,
hệ thống hoá những tri thức đã học sau một vấn đề, một phần, một chương
hay một môn học nhất định
+ Hỏi – đáp kiểm tra: được sử dụng trước, trong và sau giờ học hoặc sau
một vài bài học giúp GV đánh giá được nhận thức, kĩ năng của HS một cách
nhanh gọn kịp thời để có thể bổ sung ngay nếu cần thiết.
– Hai là, bài tập
Bài tập là loại công cụ kiểm tra, đánh giá, trong đó chứa các vấn đề cần
phải giải quyết. Bài tập thường được trình bày dưới dạng câu hỏi, bài tập có
thể là một câu hỏi nhưng không phải bất kỳ câu hỏi nào cũng là bài tập. Để
giải quyết bài tập HS phải căn cứ vào dữ liệu bài tập đã cho để tìm câu trả lời
chính, phù hợp. Khi trả lời câu hỏi mà việc trả lời nó không chỉ đơn thuần là
tái hiện kiến thức, không chỉ đòi hỏi sự nhớ lại đơn thuần mà nhằm hình
thành kiến thức với chất lượng mới bằng các thao tác tư duy phức tạp thì nó
21
trở thành bài tập nhận thức. Bài tập nhận thức có yêu cầu cao hơn, nội dung
có tính chất khái quát, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc mới giải quyết được
qua đó giúp HS nâng cao trình độ lên một bước. Bài tập trong đánh giá phát
triển năng lực HS là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống, trong đó
chứa đựng những vấn đề mà HS cần phải quan tâm, cần tìm hiểu, cần giải
quyết và có ý nghĩa giáo dục.
1.1.2. Kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD lớp
12
1.1.2.1. Đặc điểm dạy học môn GDCD lớp 12
Ở cấp THPT, môn GDCD tiếp tục “giúp HS phát triển các phẩm chất đã
được hình thành, phát triển ở cấp trung học cơ sở: Có hiểu biết, tình cảm, niềm
tin về những giá trị đạo đức của dân tộc và thời đại, đường lối phát triển đất
nước của Đảng và quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
dân; tích cực, tự giác học tập và tham gia lao động, sản xuất phù hợp với khả
năng của bản thân; có trách nhiệm công dân trong thực hiện đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước để góp phần bảo vệ, xây dựng Tổ quốc; tôn
trọng quyền, nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật;
nhận thức, hành động theo lẽ phải và sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chống
các hành vi, hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [10].
GDCD lớp 12 gồm mạch nội dung chính là Giáo dục Pháp luật. Phần
Công dân với pháp luật cung cấp những hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò
và nội dung của pháp luật trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội: Bình
đẳng trước pháp luật, công dân với các quyền tự do cơ bản, công dân với các
quyền dân chủ…. Những nội dung này giúp HS có thể chủ động, tự giác điều
chỉnh hành vi cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác theo quyền
và nghĩa vụ của công dân trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền
22
XHCN Việt Nam. Cụ thể:
– Công dân bình đẳng trước pháp luật:
+ Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (bình đẳng về quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí).
+ Bình đẳng giới trong các lĩnh vực.
+ Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
– Quyền dân chủ cơ bản của công dân:
+ Quyền và nghĩa vụ công dân trong tham gia quản lí nhà nước và xã hội.
+ Quyền và nghĩa vụ công dân về bầu cử và ứng cử.
+ Quyền và nghĩa vụ công dân về khiếu nại, tố cáo.
+ Quyền và nghĩa vụ công dân về bảo vệ Tổ quốc.
– Quyền tự do cơ bản của công dân:
+ Quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
+ Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm.
+ Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
+ Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín.
+ Quyền và nghĩa vụ công dân về tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận
thông tin.
+ Quyền và nghĩa vụ công dân về tự do tín ngưỡng và tôn giáo
Đặc thù tri thức của môn GDCD lớp 12 đã quy định nội dung đánh giá
đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu về hình thức đánh giá, phương pháp và
công cụ kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực
1.1.2.2. Vai trò của kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn
GDCD lớp 12
Theo tác giả Phùng Đình Mẫn Thông qua KT, ĐG, GV và HS có thể
hiểu được kết quả dạy học có đáp ứng được yêu cầu đề ra hay không để điều
chỉnh, hoàn thiện quá trình dạy học tốt hơn[24, tr100].
23
Đặc thù tri thức cũng như mục tiêu dạy học của môn GDCD lớp 12
không chỉ là căn cứ để định hướng cho hoạt động dạy học mà còn là căn cứ,
là định hướng cho hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, kết quả học
tập của HS. Đó là đánh giá mức độ đạt được của HS về các phẩm chất (yêu
nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm) và các năng lực đặc thù
(điều chỉnh hành vi, phát triển bản thân, tìm hiểu và tham gia các hoạt động
kinh tế – xã hội) so với yêu cầu cần đạt của mỗi lớp học, cấp học nhằm xác
định vị trí và ghi nhận sự tiến bộ của mỗi HS tại thời điểm nhất định trong
quá trình phát triển của bản thân; đồng thời cung cấp thông tin để GV điều
chỉnh hoạt động dạy học và cơ quan quản lí giáo dục thực hiện phát triển
chương trình. Và giai đoạn cuối cùng để biết được kết quả học tập của cả một
quá trình là KT, ĐG. Trong dạy học GDCD lớp 12, các thành tố của hoạt
động dạy học có vai trò và vị trí khác nhau song lại có mối quan hệ biện
chứng qua lại với nhau, thống nhất với nhau, hoạt động dạy học không thể
hoàn thiện nếu thiếu bất cứ một nhân tố nào. Trong đó KT, ĐG có tầm quan
trọng đặc biệt, đây là khâu khởi đầu cho một chu trình giáo dục, đồng thời
cũng là khâu kết thúc của hoạt động giáo dục này để mở ra một hoạt động
giáo dục khác cao hơn, tiến bộ hơn.
Do đó, trong dạy học GDCD lớp 12, quá trình KT, ĐG không thể xem
như là việc báo cáo có tính chất hình thức về tình hình học tập mà là hoạt
động quan trọng của quá trình hình thành phẩm chất, năng lực. Nếu làm tốt
KT, ĐG sẽ là một biện pháp cần thiết để hình thành năng lực cho học sinh qua
đó nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn GDCD lớp 12 nói riêng và chất
lượng dạy học cho cả quá trình học tập nói chung, nó là một phương tiện
không thể thiếu để điều chỉnh sự học tập của HS, đẩy mạnh sự phát triển và
giáo dục HS nên cần thiết KT, ĐG đặc biệt là KT, ĐG năng lực HS trong dạy
học GDCD lớp 12, cụ thể:
24
Thứ nhất, KT, ĐG năng lực trong dạy học GDCD lớp 12 có tác dụng to
lớn với việc phát triển toàn diện ở HS. Thông qua KT, ĐG năng lực giúp HS
củng cố, mở rộng, bổ sung vốn tri thức, thúc đẩy hoạt động trí tuệ như: nhớ,
hình dung, tưởng tượng, các thao tác tư duy phân tích, so sánh, tổng hợp. Phát
triển năng lực giao tiếp, hợp tác; năng lực giải quyết tình huống, vấn đề nảy
sinh từ thực tiễn cuộc sống. Từ đó, giúp HS nhận thức được điểm mạnh, điểm
yếu của bản thân, có kế hoạch và thực hiện kế hoạch phát triển bản thân
Thứ hai, KT, ĐG năng lực trong dạy học GDCD lớp 12 không chỉ có ý
nghĩa về mặt bồi dưỡng nhận thức, rèn luyện kĩ năng mà còn có tác dụng giáo
dục tư tưởng đạo đức, phẩm chất của HS. Nó giúp cho HS hình thành thói
quen tự kiểm tra, tự nhận xét, tự đánh giá khả năng chiếm lĩnh tri thức của
bản thân. Qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện ý chí
phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Quá trình KT, ĐG cũng giúp HS nâng
cao hứng thú khi học tập, tránh cảm giác nhàm chán với nội dung pháp luật
khô khan, khó nhớ. Đặc biệt, KT, ĐG còn giúp HS nhận thức được hành vi,
đánh giá được hành vi của bản thân và người khác, điều chỉnh hành vi và nhắc
nhở người khác điều chỉnh được cảm xúc, thái độ, hành vi phù hợp với chuẩn
mực đạo đức, pháp luật.
Như vậy, từ những phân tích trên cần thiết phải đổi mới kiểm tra đánh
giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho người học.
1.1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
trong dạy học môn GDCD lớp 12
Một là, năng lực của giáo viên
Để thực hiện việc KT, ĐG năng lực của học sinh thực sự đạt được hiệu
quả thì người GV đóng vai trò quan trọng và quyết định. Trong suốt quá trình
giáo dục, người học là chủ thể trung tâm của hoạt động dạy học, GV là người
định hướng và hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức. Với trình độ chuyên môn,
kỹ năng và kinh nghiệm của mình, GV là người nắm bắt rõ nhất đối tượng HS
25
của mình đã đạt được kiến thức, năng lực gì? Còn cần bổ sung thêm những tri
thức, rèn luyện hình thành năng lực hay không? Do vậy, trong các bài kiểm
tra đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, GV bám sát với học sinh, thể
hiện ở nội dung đề kiểm tra chính xác, khoa học, phù hợp với năng lực của
từng nhóm học sinh.
Để hoạt động kiểm tra đánh giá năng lực đạt hiệu quả cao, GV cần thực
hiện tốt vai trò của mình như: Nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu
về thái độ đối với học sinh môn GDCD lớp 12; tự giác tham gia các lớp bồi
dưỡng, tập huấn thường xuyên và định kì; tích cực vận dụng những kiến thức
đã được bồi dưỡng để nâng cao chất lượng chuyên môn và phổ biến kinh
nghiệm với đồng nghiệp. Thực hiện đổi mới KT, ĐG môn GDCD lớp 12 gắn
liền với hướng dẫn học sinh tự KT, ĐG kết quả học tập. Tham gia dự giờ đồng
nghiệp, tự giác tham gia hội giảng, GV giỏi, báo cáo kinh nghiệm chia sẻ, học
hỏi nhằm trau dồi chuyên môn, tích cực nghiên cứu khoa học, tổng kết thực
tiễn. Viết sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới KT và ĐG, ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học, học hỏi của giáo viên trường khác về khâu chuẩn bị
giáo án và đề kiểm tra. Từ đó năng lực của giáo viên sẽ được nâng cao, đem lại
chất lượng và hiệu quả phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh.
Hai là, năng lực của cấp quản lí
Để thực hiện đổi mới KT, ĐG năng lực học sinh trong dạy học môn
GDCD lớp 12, các cấp quản lí cũng có vai trò. Nếu lãnh đạo nhà trường nhận
thức đúng đắn và đầy đủ về tầm quan trọng của xu hướng đổi mới kiểm tra
đánh giá đang diễn ra khá phổ biến, mạnh mẽ thì ban lãnh đạo nhà trường cần
có kế hoạch lâu dài, đồng bộ, khoa học hoạt động KT, ĐG. Không ngừng
quan tâm động viên, khuyến khích các giáo viên trong trường đổi mới việc
KT, ĐG để mang lại hiệu quả tích cực, nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá
cho học sinh lớp 12 trong từng môn học và cho học sinh của toàn trường.
Ngoài ra, nhà trường cần nhân rộng những điển hình về đổi mới kiểm tra đánh
26
giá, nhân rộng ra toàn trường và những trường khác sẽ tạo ra không khí thi
đua tích cực về đổi mới kiểm tra, đánh giá.
Ba là, về phía tổ chuyên môn
Đội ngũ tổ trưởng và các thành viên trong tổ chuyên môn có ảnh hưởng
đến chất lượng KT, ĐG năng lực học sinh. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn,
tổ trưởng quán triệt tinh thần để các GV thường xuyên nghiên cứu nắm vững
chương trình GDPT của cấp học từ: mục tiêu, cấu trúc chương trình, nội
dung, phương pháp dạy học, các hoạt động GD…và đặc biệt để hướng dẫn
cho nhau, trao đổi nội dung cách thức, công cụ KT, ĐG phù hợp, để phân tích
bàn bạc ma trận đề kiểm tra bám bào từng đối tượng HS cụ thể thì sẽ góp
phần nâng cao được chất lượng của việc đổi mới KT, ĐG năng lực cho học
sinh trong dạy học môn GDCD lớp 12.
Bốn là, năng lực học sinh
Học sinh là yếu tố không thể thiếu trong KT, ĐG kết quả học tập, bởi
HS là người tham gia trực tiếp vào bài kiểm tra đánh giá để hình thành năng
lực cho bản thân. Cho nên để đạt được hiệu quả trong việc thực hiện đổi mới
phương pháp KT, ĐG theo hướng phát triển năng lực thì HS đóng vai trò rất
quan trọng. Nếu HS có thái độ học tập nghiêm túc, luôn cố gắng nỗ lực phấn
đấu cao nhất đạt được trí tuệ thì khi gặp một vấn đề nào khó hiểu trong môn
GDCD lớp 12 không nên nản chí mà cần phải kiên trì tìm hiểu, học hỏi thầy
cô, bạn bè và những người xung quanh thì chất lượng KT, ĐG cũng cao và
hiệu quả học tập nâng lên rõ rệt. Bản thân HS chú trọng việc học tập bộ môn
GDCD lớp 12 xem nó là môn học dạy cho ta nếp sống có kỷ cương, nề nếp,
đó là bước đệm để mỗi HS hình thành và phát triển tốt các năng lực cần thiết.
Năm là, cơ sở vất chất
Hiện nay, cơ sở vật chất được xem như một trong những điều kiện rất
quan trọng, cần thiết để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Sự phát triển
27
nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và thiết bị dạy học thông minh đã và đang
tạo ra tiềm năng giáo dục to lớn cho việc dạy học, là nhân tố quan trọng đặc
biệt góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KT, ĐG trong việc hướng và phát
triển năng lực cho HS. Các phương tiện dạy học hiện đại đã đem lại hiệu quả
chất lượng mới cho việc đổi mới KT, ĐG kết quả học tập của HS. Do vậy, để
đáp ứng yêu cầu của đổi mới KT, ĐG đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, trang
thiết bị cần thiết, hiện đại như: phòng học đúng tiêu chuẩn, máy tính, máy
chiếu, máy in, tranh, ảnh,…. Đối với KT, ĐG môn GDCD lớp 12 cần thiết có
tivi và tranh ảnh để HS có thể thỏa sức sáng tạo trình bày, thuyết trình các bài
kiểm tra, đánh giá qua sản phẩm học tập. Hơn nữa, sách giáo khoa và các tài
liệu tham khảo là nguồn tri thức quan trọng, phong phú cần trang bị cho GV
để bài kiểm tra được đa dạng, phong phú.
1.2. Cơ sở thực tiễn về kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy
học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
1.2.1. Đôi nét về trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
Trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ là một trường nằm trên địa
bàn Thành phố Nam Định, được thành lập từ năm 1976, có số lượng học sinh
tương đối đông với hơn 1000 em học sinh, nhìn chung chất lượng học tập
khá, là trường có điểm tuyển sinh năm học 2021-2022 cao thứ 4/57 trường
THPT trong toàn tỉnh Nam Định. Khuôn viên nhà trường nằm ngay cạnh khu
đô thị Dệt với hệ thống nhà máy Dệt cổ kính và lâu đời. Nhà trường có một
cơ ngơi khang trang, với một hệ thống nhà cao tầng khép kín, đầy đủ tiện nghi
như quạt điện, ánh sáng…cho 32 phòng học và có 4 phòng học bộ môn, 3
phòng nghe nhìn,1 phòng giáo dục thể chất.
Ban Giám hiệu Nhà trường hiện nay gồm có 3 thầy cô, các thầy cô
trong Ban lãnh đạo Nhà trường là những thầy cô trẻ, làm việc nhiệt tình và
khoa học. Với sức trẻ, sự quyết đoán và tinh thần dám nghĩ dám làm, các thầy
28
cô Ban giám hiệu liên tục cập nhật học hỏi, đổi mới và có nhiều kế hoạch
chiến lược giáo dục và phát triển thiết thực. Nên nhiều năm liền, trường
không có học sinh vi phạm đánh nhau và đạt được nhiều thành tích đáng tự
hào. Nét nổi bật và cũng là tài năng lãnh đạo của Ban Giám hiệu là đã phân
công nhiệm vụ cho đúng người đúng việc, để rồi đến với trường THPT
Nguyễn Huệ sẽ thấy một không khí thi đua làm việc hăng say để cống hiến.
Ngoài hoạt động giáo dục chính, thầy cô nào cũng có nhiệm vụ riêng như:
Tham gia ban liên lạc cựu học sinh, ban nề nếp học sinh, nề nếp giáo viên,
câu lạc bộ stem, câu lạc bộ truyền thông, ban tư vấn tâm lý học đường….Bên
cạnh mục đích chính là hoạt động trí dục thì nhà trường luôn là sân chơi bổ
ích để học sinh được học tập và phát triển toàn diện.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường: Gồm 68 cán bộ, giáo
viên, tất cả giáo viên của trường đều đạt chuẩn trình độ đại học, trong đó một
số giáo viên đã và đang theo học các khóa cao học, nhằm không ngừng nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng những yêu cầu ngày càng đổi
mới của giáo dục, đất nước và đến nay đã có 13 thạc sỹ. Đội ngũ giáo viên
dạy học môn GDCD là 2 cô giáo, các cô đều được đào tạo chuẩn chuyên
ngành Giáo dục chính trị của Trường Đại học sư phạm Hà nội. Với tuổi đời
và tuổi nghề còn trẻ, 2 cô giáo môn GDCD luôn cố gắng học hỏi, trau dồi
chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm, từng bước thay đổi phương pháp dạy học
tích cực để học sinh đóng vai trò chính là chủ thể hoạt động dạy học. Đặc
biệt, cả 2 cô giáo luôn chú trọng đổi mới kiểm tra đánh giá, nên năm học
2019-2020 chất lượng thi tốt nghiệp THPT của lớp 12 xếp thứ 3 toàn tỉnh.
Học sinh của mái trường THPT Nguyễn Huệ đa số là học sinh của con
em trong địa bàn thành phố Nam Định. Được thừa hưởng truyền thống hiếu
học của con người trên mảnh đất Thành Nam lại được gia đình quan tâm giáo
dục, có sự liên lạc và kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh nên các
em khá chăm ngoan, có đạo đức tốt, tuân thủ pháp luật. Các em sử dụng công
29
nghệ thông tin, tiếp cận giáo dục tốt nên dễ dàng thích ứng với phương pháp
đổi mới của giáo viên.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác giáo dục của trường THPT Nguyễn Huệ
còn một số hạn chế như: khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tế đời
sống của học sinh còn hạn chế; hơn nữa kinh phí giáo dục đầu tư cho hoạt
động dạy học, mua sắm trang thiết bị dạy học hàng năm còn thấp so với yêu
cầu thực tiễn đặt ra… và đó chính là những khó khăn mà toàn thể cán bộ, giáo
viên, nhân viên và học sinh của nhà trường cùng cố gắng vượt qua.
1.2.2. Thực trạng kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh lớp 12 trong dạy
học môn GDCD trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
1.2.2.1. Khái quát quá trình khảo sát
Nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tôi tìm hiểu
thực trạng việc KT, ĐG môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh
Nam Định cụ thể như sau:
Mục đích khảo sát: Nhằm đánh giá thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh
giá trong dạy học môn GDCD lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cho học
sinh trường THPT.
Nội dung khảo sát: Nội dung điều tra tập trung vào các vấn đề:
– Nhận thức của GV và HS về vị trí, vai trò của KT, ĐG theo hướng
phát triển phẩm chất, năng lực.
– Nội dung, phương pháp, hình thức KT, ĐG đang được áp dụng đối
với môn GDCD lớp 12 trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định hiện nay.
– Những khó khăn khi thực hiện đổi mới KT, ĐG để hình thành và phát
triển năng lực cho học sinh.
Các bước tiến hành điều tra:
– Gặp gỡ, trao đổi với GV giảng dạy trực tiếp bộ môn GDCD.
– Dự giờ GV, quan sát hoạt động dạy và học trên lớp.
30
– Trực tiếp lên lớp giảng dạy.
– Phỏng vấn 03 cán bộ quản lí, 02 giáo viên dạy môn GDCD, 19 giáo
viên tổ xã hội và 20 học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam
Định. (Câu hỏi phỏng vấn ở Phụ lục 1,2)
Đánh giá những đề kiểm tra được thực hiện trong những năm gần đây.
Xử lý kết quả điều tra thu được, tác giả rút ra những kết luận sau:
1.2.2.2. Kết quả nghiên cứu
1.2.2.2. Kết quả nghiên cứu
– Đối với giáo viên
+ Nhận thức của GV về sự cần thiết đổi mới KT, ĐG năng lực học sinh
trong dạy học môn GDCD lớp 12 trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
Khi được hỏi: “Thế nào là kiểm tra đánh giá năng lực học sinh”?
Cô giáo N.T.T.T và nhiều giáo viên khác trong trường đều cho rằng: “
Kiểm tra đánh giá năng lực là đánh giá kết quả học tập theo hướng tiếp cận
năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những
tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là
đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh
giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục
theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm
xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và
năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập
của học sinh”.
Khi được hỏi về: Sự cần thiết của kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
trong dạy học môn GDCD lớp 12 ? Các thầy cô Ban giám hiệu, thầy cô trong
tổ xã hội và giáo viên dạy môn GDCD đều cho rằng KT, ĐG là hoạt động rất
cần thiết của quá trình dạy học, thông qua kiểm tra đánh giá sẽ có được phản
hồi kịp thời từ phía học sinh, từ đó điều chỉnh được các hoạt động dạy và học.
31
Nhà trường cũng đã có nhiều kế hoạch triển khai đổi mới KT, ĐG như: tổ
chức cho giáo viên được đi tập huấn chuyên môn, khuyến khích giáo viên
thực hiện KT, ĐG năng lực học sinh đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo dục.
Như vậy, các thầy (cô) giáo đều nhận thức tương đối đúng và đầy đủ về kiểm
tra, đánh giá năng lực học sinh.
Khi được hỏi sự khác biệt giữa đánh giá năng lực và đánh giá nội dung
trong dạy học môn GDCD, cô B.T.H cho rằng : “Đánh giá năng lực được coi
là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Ví như để
chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho
học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi ấy
học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà
trường vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải
nghiệm bên ngoài nhà trường để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy,
đánh giá năng lực không hoàn toàn dựa vào chương trình giáo dục của từng
môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh
kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… năng lực
của học sinh được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau
và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người”. Có thể nói, các
giáo viên của trường đã phân biệt khá rõ về kiểm tra đánh giá năng lực và
đánh giá nội dung kiến thức.

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *