dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào quá trình chuyển đổi số ở trường THPT

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào quá trình chuyển đổi số ở trường THPT

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong những thập niên vừa qua, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công
nghệ, cũng như bước đột phá của cuộc cách mạng 4.0 đã mở ra nhiều cơ hội cho
tăng trưởng kinh tế, văn hóa. Xu hướng đầu tư cho các hoạt động sản xuất thông
minh, xây dựng chính phủ điện tử, đô thị thông minh, công nghiệp và nông nghiệp
thông minh… đã và đang trở nên phổ biến.
Sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 từ 2020 là một biến cố lớn của nhân
loại, tạo ra một khủng hoảng trên diện rộng, làm thay đổi thế giới trên nhiều lĩnh
vực. Kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh, hạn chế tác động và phục hồi sau suy
thoái kinh tế là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia. Đây cũng là cơ hội để các quốc
gia đánh giá lại các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao nhận thức cộng đồng về
các mối đe doạ nghiêm trọng từ các vấn đề môi trường và sức khỏe cũng như tận
dụng những thay đổi từ đại dịch.
Mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành
kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học
và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng
bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm
thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Trong bối cảnh đó, cuộc cách mạng công
nghệ 4.0, với những đột phá chưa từng có về công nghệ, liên quan đến kết nối
Internet, điện toán đám mây, in 3D, công nghệ cảm biến, thực tế ảo đã được dự
đoán sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, Chính phủ, doanh nghiệp và người
dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc
và sản xuất.
Cách mạng công nghệ 4.0 có tác động sâu rộng tới toàn cầu đặc biệt tạo ra
thời cơ thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Đảng và chính
phủ Việt Nam đã và đang tận dụng tối đa các yếu tố thuận lợi của cách mạng công
nghệ 4.0, đề ra các chính sách để hòa nhập cùng với thời đại. Tháng 6 năm 2020,
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu Việt Nam gia nhập nhóm 50 nước
dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Chương trình nhấn mạnh người dân là
trung tâm của chuyển đổi số. Vì vậy những lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan
hằng ngày với người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp
tiết kiệm chi phí cần được ưu tiên chuyển đổi số trước, trong đó có 8 lĩnh vực
được ưu tiên hàng đầu trong triển khai thực hiện. Đó là: y tế, giáo dục, tài chính –
2
ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên
và môi trường và sản xuất công nghiệp.
Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về Ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày
04/11/2013 Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế đã nêu rõ: “Đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho sự phát triển,
từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ
thông tin để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”.
Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ về Ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày
01/7/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững và hội nhập quốc tế cũng nêu rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý điều hành của cơ quan nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
sức cạnh tranh, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các
ngành kinh tế, kỹ thuật, các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, giao thông, xây
dựng, điện, thuế, hải quan, tư pháp…”. Và “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin để đổi mới phương thức quản lý, nội dung và chương trình đào tạo, phương
thức dạy và học nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng nguồn nhân lực,
thúc đẩy xã hội học tập, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”.
Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ
điện tử khi đề ra giải pháp chủ yếu đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo là “Thực hiện
các giải pháp để nâng cao chỉ số thành phần nguồn nhân lực của Việt Nam theo
phương pháp đánh giá Chính phủ điện tử của liên hợp quốc, công bố thông tin
trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ và hàng năm chủ động đề nghị phối hợp
với các tổ chức quốc tế liên quan để cung cấp các số liệu này kịp thời, đầy đủ;
Xây dựng phương án và hướng dẫn thực hiện qua mạng điện tử việc xét tuyển đầu
cấp học (bao gồm cả xét tuyển đại học, cao đẳng) trên toàn quốc; xây dựng và
đưa vào triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục; Đẩy mạnh xã hội hóa đào
tạo các cấp học trên mạng và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học,
sách giáo khoa điện tử”.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra những yêu cầu mới về kỹ
năng của người lao động. Những kỹ năng của người lao động có thể được phân
thành 3 nhóm: Một là các kỹ năng liên quan đến nhận thức; hai là các kỹ năng về
thể chất; ba là các kỹ năng về xã hội.
3
Trong đó, các kỹ năng liên quan đến nhận thức bao gồm: Tư duy phản biện,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tự phê bình (self-reflection);
khả năng sáng tạo tri thức, hay chiến lược học tập.
Các kỹ năng về thể chất bao gồm: Kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng về cuộc
sống, kỹ năng số.
Các kỹ năng về xã hội bao gồm: Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan
hệ, ứng xử. Trong cuộc cách mạng sản xuất mới, khi tri thức tồn tại khắp nơi, xuất
hiện trong mọi mặt của cuộc sống và hoạt động sản xuất, việc áp dụng những kiến
thức chúng ta được học trở nên quan trọng hơn rất nhiều so với bản thân những
kiến thức đó.
Ngoài ra, khi hằng ngày hằng giờ đều có những thay đổi về mặt công nghệ,
ảnh hưởng đến đời sống thì khả năng thích ứng và khả năng giải quyết vấn đề một
cách linh hoạt, sáng tạo là những chìa khóa để người lao động thành công trong
thời đại mới.
Hơn nữa, xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu cũng yêu cầu
người lao động có những kỹ năng mang tính toàn cầu hơn. Cụ thể, để cạnh tranh
trong thời đại mới, người lao động cần sử dụng được nhiều hơn một ngôn ngữ,
những kỹ năng xúc cảm cũng cần được phát triển để người lao động có thể làm
việc trong môi trường đa quốc gia với các đồng nghiệp đến từ nhiều nơi trên thế
giới.
Như vậy, có thể thấy, để thực sự thành công trong chuyển đổi số của mỗi
quốc gia, trong đó với Việt Nam, người dân là trung tâm của chuyển đổi số thì để
tạo nền tảng vững chắc và đưa đến thành công về thực chất và lâu dài thì chuyển
đổi số trong giáo dục phải thực sự được ưu tiên và đặt lên hàng đầu.
Trên cơ sở học tập các module chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ
thông 2018 đặc biệt là Module 9, xuất phát từ hiệu quả của hoạt động dạy và học
trực tuyến trong thời kỳ thích ứng linh hoạt, hiệu quả trong phòng chống dịch
Covid -19; những hiệu quả bước đầu khi thực hiện các quy định mới về kiểm tra
đánh giá theo Thông tư số 26/2020/TT –BGDĐT cùng với việc cho phép học sinh
sử dụng điện thoại thông minh trong giờ học theo Thông tư 32/2020/ TT –
BGDĐT, các văn bản chỉ đạo về chủ trương thực hiện chuyển đổi số trong giáo
dục cùng với những định hướng trong chương trình giáo dục phổ thông 2018,
nhóm tác giả đã và đang từng bước nỗ lực thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt
động giáo dục mà mình tham gia và phụ trách, đồng thời tích lũy được nhiều kinh
nghiệm, sáng kiến trong thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục.
Từ những lý do trên, nhóm tác giả mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh
nghiệm “Một số giải pháp giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào quá
trình chuyển đổi số ở trường THPT”.
4
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1.Thực trạng của quá trình thực hiện chuyển đổi số ở Việt Nam và
chuyển đổi số từ phía học sinh trường THPT Mỹ Lộc – Nam Định.
1.1.1. Thực trạng của công tác chuyển đổi số hiện nay ở Việt Nam
Thứ nhất, thực trạng của việc sử dụng mạng Internet của người dân
Việt Nam.
Việt Nam hiện là một trong các quốc gia có tỷ lệ sử dụng internet tăng
trưởng nhanh nhất ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tính tới tháng 1/2020,
Việt Nam có 64 triệu người dùng Internet, chiếm hơn 66% dân số. Việt Nam cũng
có tới 62 triệu người dùng MXH. Trong số đó, 96% người sử dụng tài khoản
Youtube và 95% có tài khoản Facebook. Hơn một phần ba trong số người sử dụng
Internet ở Việt Nam là người chưa thành niên và thanh niên (trong độ tuổi 15-24,
theo số liệu của Unicef).
Với số lượng người dùng như vậy, Việt Nam hiện đang đứng thứ 7 thế giới,
lần lượt sau các nước: Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Brazil, Mexico và Philippines.
Người dùng chủ yếu tham gia với các bài đăng video và hình ảnh hoặc sử dụng
Facebook Messenger để nhắn tin với bạn bè, hoặc giao dịch mua bán online. Nội
dung chủ đạo trên MXH này là các video giải trí với đối tượng độc giả chủ yếu
cũng là lớp trẻ. MXH ở một khía cạnh nào đó đã làm thay đổi thói quen, tư duy,
lối sống, văn hóa của một bộ phận học sinh sinh viên hiện nay vì đây là nguồn
nhân lực có khả năng tiếp nhận những tiến bộ khoa học một cách nhanh nhạy nhất,
đồng thời đây cũng là lực lượng chịu tác động của các phương tiện thông tin truyền
thông nhiều nhất trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Bên cạnh những
tích cực mà MXH mang lại khi nó lan tỏa nhiều thông tin, kiến thức giá trị, kết
nối con người với nhau một cách nhanh chóng và thuận tiện… nhiều hệ lụy cũng
đã xảy ra, nhất là với giới trẻ.
Thứ hai, thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế
Tại Hội thảo đổi mới sáng tạo: Kết nối chính sách với doanh nghiệp Việt
Nam do Tạp chí Kinh tế và Dự báo diễn ra (tháng 12/2021), bà Bùi Thu Thủy,
Phó Cục trưởng Cục phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã chỉ rõ
thực trạng của việc chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay: Việt
Nam có tỷ lệ thuê bao bang thông rộng (cả cố đinh và di động) tương đối tốt so
với một số quốc gia trong khu vực (Thái Lan, Indonesia, Malaysia). Tỷ lệ các
doanh nghiệp trực tuyến sử dụng thanh toán kỹ thuật số cũng ngang bằng với một
số nước trong khu vực. Tuy nhiên, môi trường kinh tế số của Việt Nam vẫn còn
hạn chế. Cụ thể là, tỷ lệ giao dịch kỹ thuât số của Việt Nam chỉ đạt 22%. Trong
khi đó, ở Indonesia là 34% và Thái Lan là 62%. Đồng thời, tỷ lệ thanh toán online
5
khi mua sắm trên internet của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực
(chỉ đạt 10%) so với 49% của Indonesia và 52% của Malaysia. Điều này có nghĩa
Việt Nam đang bị lãng phí tài nguyên số. Việc sử dụng nguồn tài nguyên này chưa
thực sự đem lại hiệu quả cao về kinh tế đất nước. Đồng thời bà Thủy đã chỉ rõ
“chuyển đổi số là giải pháp mà các doanh nghiệp không thể không triển khai.
Chuyển đổi số nhằm nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh, tạo ra các giá trị mới
cho doanh nghiệp”
Tuy nhiên, theo khảo sát về những rào cản khó khăn của doanh nghiệp trên
các lĩnh vực (1300 doanh nghiệp tham gia khảo sát) khi thực hiện chuyển đổi số
là: thứ nhất là chi phí đầu tư, ứng dụng công nghệ còn cao (60,1%); thứ hai, hạn
chế trong thay đổi thói quen và tập quán kinh doanh (52,3%); thứ ba, thiếu nguồn
nhân lực để ứng dụng công nghệ số (52,3%); ngoài ra còn có các rào cản về cơ sở
hạ tầng công nghệ số, thiếu cam kết và hiểu biết của người lao động, khó khăn về
hệ thống an ninh mạng.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực có nhận thức, tư duy
và thói quen gắn liền với chuyển đổi số cũng như năng lực số cần có khi tham gia
vào các lĩnh vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp thì yêu cầu đặt ra đối với
Giáo dục và đào tạo cần thay đổi kịp thời, thực hiện chuyển đổi số ngay từ các
nhà trường phổ thông để góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ
năng, năng lực số phù hợp.
Thứ ba, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục
Giáo dục là 1 trong 8 lĩnh vực được ưu tiên triển khai trong chương trình
chuyển đổi số quốc gia. Với quy mô hơn 53.000 cơ sở giáo dục đào tạo, 24 triệu
học sinh, sinh viên và 1,4 triệu giáo viên, ngành Giáo dục và Đào tạo xác định
chuyển đổi số có vai trò quan trọng để triển khai đổi mới căn bản, toàn diện công
tác giáo dục và đào tạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các hoạt động giáo dục, phấn
đấu Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số
trong giáo dục và đào tạo. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, thời điểm
dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đã có 80% trường phổ thông, 240 cơ sở đào tạo
tổ chức dạy học trực tuyến, trong đó có 79 cơ sở tổ chức quản lý dạy – học hoàn
toàn qua mạng. Việc phát triển học liệu số cũng được Bộ GDĐT chú trọng triển
khai. Đến nay đã có 5.000 bài giảng e-learning; 2.000 bài giảng dạy trên truyền
hình, 200 đầu sách giáo khoa phổ thông, 200 thí nghiệm ảo và hơn 35.000 câu hỏi
trắc nghiệm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều cuộc thảo, tập huấn, các
diễn đàn nhằm thúc đẩy nhanh và toàn diện quá trình chuyển đổi số để đáp ứng
đòi hỏi của nền kinh tế về nguồn nhân lực chất lượng cao có kỹ năng, năng lực số
phù hợp.
6
1.1.2. Thực trạng của việc trang bị các phương tiện cần thiết cho việc
chuyển đổi số trong học tập của học sinh trường THPT Mỹ Lộc.
1.1.2.1. Về trang thiết bị từ phía nhà trường
Trong các năm học gần đây, nhà trường và các bậc cha mẹ học sinh đã trang
bị tương đối đầy đủ các thiết bị cần thiết để bước đầu thực hiện chuyển đổi số
trong học tập. Nhà trường có một phòng học STEM có máy tính và các công cụ
cần thiết hỗ trợ học tập, các phòng tin học, phòng học bộ môn cùng với 20 phòng
học được trang bị ti vi thông minh và hệ thống mạng Internet băng thông rộng ở
tất cả các dãy nhà. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi tạo ra môi trường học tập
hiện đại tại chính các lớp học trong nhà trường, có khả năng kết nối Internet vạn
vật (IOT).
1.1.2.2. Trang thiết bị từ phía học sinh
Theo điều tra xã hội học (từ ứng dụng MS Forms và Google Form), chúng
tôi nhận thấy
Với 1115 học sinh tham gia điều tra tại trường THPT Mỹ Lộc chỉ có 5 học
sinh chưa có thiết bị thông minh để học tập (chiếm 0,45%), trong khi đó có tới
1110 học sinh được trang bị các thiết bị thông minh (chủ yếu là điện thoại thông
minh chiếm 67%, Laptop chiếm 19,55%, máy tính bàn chiếm 10%, Ipad chiếm
3%).
Như vậy phần lớn học sinh đã được trang bị các thiết bị thông minh để có
thể tham gia vào quá trình học tập kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, học tập
trực tuyến, từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi số trong học tập. Đây là điều
kiện vô cùng thuận lợi cho học sinh trong việc lĩnh hội tri thức (thời kỳ thích ứng
linh hoạt, an toàn với dịch Covid – 19) đồng thời góp phần tạo nền tảng cơ sở vật
chất từ phía học sinh cho việc thực hiện quá trình chuyển đổi số.
1.1.3. Thực trạng của việc nhận thức về chuyển đổi số và chuyển đổi số
trong giáo dục từ phía học sinh trường THPT Mỹ Lộc
Máy tính bàn Laptop Ipad Điện thoại thông minh Không có thiết bị
7
Qua việc điều tra xã hội học (thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn chuyên
sâu), nhóm tác giả đã tiến hành phân tích dữ liệu đã thu thập và nhận thấy:
Mặc dù hầu hết học sinh trong nhà trường đều đã được cha mẹ trang bị các
thiết bị hiện đại để học tập đồng thời đã tham gia học trực tuyến trong thời kỳ
thích ứng linh hoạt trong việc phòng chống dịch Covid -19, tuy nhiên nhiều em
còn khá mơ hồ về việc chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục.
Theo thống kê cho biết, có tới 11,9 % (chiếm 133/1115 học sinh tham gia
điều tra) chưa từng nghe thấy chuyển đổi số và 48.7% (chiếm 543/1115 học sinh)
ít nghe thấy chuyển đối số. Đây là con số đáng lo ngại bởi lẽ, các bạn học sinh
phần lớn chỉ dùng điện thoại thông minh (hay các thiết bị hiện đại, thông minh
khác) để phục vụ cho nhu cầu liên lạc thông thường hoặc giải trí, hoặc chỉ dùng
như một phương tiện để đăng nhập một cách thụ động và bắt buộc vào lớp học
trực tuyến mà không để ý đến các tính năng khác cũng như quan tâm đến sự khác
biệt trong quá trình học. Trong số các bạn được điều tra, chỉ có 14,4% học sinh
thường xuyên và rất thường xuyên biết đến và nhận thức được về quá trình chuyển
đối số hiện nay.
Tương tự như thế, khi nhóm tác giả đặt câu hỏi “Quan niệm của em về
chuyển đổi số như thế nào?” thì vẫn còn một số bạn có quan điểm hạn chế khi cho
rằng chuyển đổi số là quá trình “sử dụng công nghệ vào các lĩnh vực của cuộc
sống” (chiếm 7,7%) sử dụng các thiết bị vào các lĩnh vực của cuộc sống (chiếm
10.5%); hoặc đơn giản là “thực hiện số hóa để lưu trữ thông tin”. Tuy nhiên, đa
số các em khi được hỏi đã xác định được “chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng
thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức
sản xuất dựa trên các công nghệ số” (chiếm 77.7 %). Điều này hoàn toàn không
mâu thuẫn với câu hỏi khảo sát ở trên (khi có tới trên 50 % không biết hoặc ít biết
về chuyển đổi số) vì khi tham gia khảo sát, các em học sinh đã bước đầu tìm kiếm
các thông tin liên quan đến chuyển đổi số.
Biểu đồ về mức độ quan tâm đến chuyển đổi số của học sinh

Hoàn toàn không biết
Thường xuyên biết đến
Ít biết đến
Biết đến rất thường xuyên
Biết đến khá nhiều

8

Nội dung khảo sátTỉ lệ (Kháo sát
1115 HS)
Sử dụng thiết bị thông minh vào các lĩnh vực của cuộc
sống
7,7%
Ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực của cuộc sống10,5%
Thực hiện số hóa để lưu trữ thông tin (chuyển từ tài liệu
dạng giấy sang các file mềm trên máy tính)
4,1%
“Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện
của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và
phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số”.
77,7%

Bảng khảo sát về quan niệm của học sinh về chuyển đổi số
Điều này cũng tương tự về nhận thức của học sinh liên quan đến khái niệm
chuyển đổi số trong giáo dục. Đa số các em đều cho rằng chuyển đổi số trong giáo
dục là “thực hiện khai thác thông tin, số hóa bài giảng, thực hiện quản lý, giảng
dạy và học tập trong không gian số”. Một số khác, tuy không đầy đủ nhưng cũng
đã bước đầu nhận thức được chuyển đổi số trong giáo dục là việc sử dụng các
phần mềm ứng dụng để thiết lập và tham gia vào các lớp học (điều này hiện đang
phù hợp với tình hình dạy trực tuyến hiện nay). Tuy nhiên cũng có một số ít học
sinh cho rằng chuyển đổi số trong giáo dục là việc thầy cô giáo sử dụng phần mềm
Powepoint và các thiết bị thông minh như máy tính, máy chiếu, ti vi để dạy học.
Đây là quan điểm đã trở nên lỗi thời và không phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ
của công nghiệp 4.0 hiện nay.

Nội dung khảo sátTỉ lệ
(Kháo sát 1115
HS)
Thầy cô giáo sử dụng phần mềm ứng dụng powerpoint để
dạy học
5,0%
Thầy cô giáo sử dụng các thiết bị (máy chiếu, ti vi, …) để
dạy học.
8,8%
Dùng phần mềm ứng dụng để thiết lập và tham gia các lớp
học trực tuyến
13,3 %
Thực hiện khai thác thông tin, số hóa bài giảng, thực hiện
quản lý, giảng dạy, học tâp trong không gian số
72,9 %

Bảng khảo sát về quan niệm của học sinh về chuyển đổi số trong giáo dục
9
Khi được hỏi về tầm quan trọng của việc chuyển đổi số trong giáo dục, đã
có tới 66 % số học sinh được hỏi cho rằng cần thiết và rất cần thiết phải thực hiện
chuyển đổi số trong giáo dục. Trong khi chỉ có 1 số ít cho rằng không cần thiết và
ít cần thiết. Đây là tín hiệu đáng mừng bởi các em đã bước đầu nhận thức được
về xu thế khách quan của việc chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số trong
giáo dục nói riêng.
Về điều kiện đầu tiên để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục thành công
thì cần nhiều yếu tố. Qua khảo sát, học sinh trường THPT Mỹ Lộc đã có nhiều
quan điểm khác nhau trong đó, quan điểm sự thay đổi về nhận thức của giáo viên,
học sinh và cha mẹ học sinh” (chiếm 10,5%) ngoài ra còn có các quan điểm khác
như “sự đổi mới về thiết bị dạy học” (chiếm 17,8 %), sự đổi mới về phương pháp
kiểm tra và đánh giá (chiếm 23,4%), sự hoàn thiện và đồng bộ về cơ sở hạ tầng
(chiếm 20,8%). Mỗi quan điểm đều đúng khi đứng ở các khía cạnh khác nhau
nhưng theo nhóm tác giả, thì yếu tố thay đổi tư duy của các đối tượng tham gia
vào quá trình chuyển đổi số là quan trọng nhất bởi chỉ có thay đổi tư duy thì mới
tạo ra động lực và điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương pháp kiểm
tra đánh giá. Bản thân TS. Tôn Quang Cường, Trưởng khoa công nghệ giáo dục,
Trường Đại học giáo dục cho rằng, một trong những khó khăn của quá trình
chuyển đổi sang dạy và học trực tuyến là thay đổi tư duy, thói quen làm việc tại
các cơ sở đào tạo. “Tôi cho rằng hiện cơ sở vật chất hạ tầng của các đơn vị hoàn
toàn có thể sẵn sàng chuyển đổi số. Tuy nhiên, có cái khó khăn lớn nhất là sự do
dự, chưa hiểu chuyển như thế nào thường có tâm lý e dè. Bên cạnh đó, câu chuyện
chuyển đổi số đòi hỏi cả một hệ thống. Trong khi chúng ta một số khâu thì làm
trước, một số khâu chưa kịp làm thì hệ thống trực tuyến khó đạt hiệu quả. Ba là
vấn đề về chính sách, vì làm chuyển đổi số sẽ có những hy sinh, có những cái phải
đóng góp mà chúng ta thiếu cơ chế tạo động lực thì đôi khi sẽ tạo sự cản trở trong
quá trình chuyển đổi số”. Trong hội nghị Bộ trưởng thế giới số tháng 10/2021
Không cần thiết
Ít cần thiết
Khá cần thiết
Cần thiết
Rất cần thiết
Biểu đồ nhận thức về tầm quan trọng phải thực hiện
chuyển đôi số trong giáo dục
10
cũng đã nhận định “Chuyển đổi số không chỉ chuyển đổi công nghệ mà là chuyển
đổi tư duy”.
Từ nhận thức về tầm quan trọng phải thay đổi về tư duy trong quá trình
chuyển đổi số, phần lớn học sinh đã đánh giá được mức độ quan trọng của việc
sẵn sàng tiếp nhận chuyển đổi số trong giáo dục từ phía người học. Có tới 56,1%
học sinh cho rằng vai trò của sự sẵn sàng tiếp nhận của người học là quan trọng
và rất quan trọng. Như vậy, bản thân các em đã nhận thức đúng đắn vấn đề muốn
thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục thành công thì yêu cầu người học phải có
nhận thức và tham gia tích cực, chủ động vào quá trình đó thì mới có thể thành
công.
Bên cạnh đó, nhận thức của giáo viên và cha mẹ học sinh về việc thực hiện
chuyển đổi số trong giáo dục cũng vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, cha mẹ học sinh
và giáo viên sẽ là người định hướng quan tâm và hỗ trợ cho học sinh trong quá
trình đó. Có tới 60% số học sinh được hỏi cho rằng mức độ của giáo viên đối với
việc thúc đẩy học sinh thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục là quan trọng và rất
quan trọng. Khoảng 7% số học sinh chưa đánh giá đúng về vai trò của giáo viên
trong hỗ trợ, thúc đẩy học sinh chuyển đổi số.
Biểu đồ về quan điểm điều kiện đầu tiên thực hiện
chuyển đổi số
Sự thay đổi về tư duy Sự đổi mới về thiêt bị học tập
Sự đổi mới về kiểm tra đánh giá Sự hoàn thiện về cơ sở hạ tầng
Biểu đổ nhận thức về tầm quan trọng về mức độ
tham gia của người học trong thực hiện chuyển
đổi số
Không quan trọng Ít quan trọng Khá quan trọng
Quan trọng Rất quan trọng
11
Tương tự, có tới 65% học sinh đánh giá cha mẹ học sinh có tầm quan trọng
trong việc tạo điều kiện cho học sinh thực hiện chuyển đổi số trong học tập. Đây
là nhận thức hoàn toàn đúng đắn vì cha mẹ học sinh là một trong các lực lượng
quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong giáo dục. Chỉ khoảng
5 % số học sinh của cả hai trường hợp nhận thức chưa đúng vai trò của cha mẹ
học sinh đối với chuyển đổi số.
1.1.4. Thực trạng của quá trình tham gia chuyển đổi số của học sinh trước
khi thực hiện dự án
Thứ nhất, về việc sử dụng các phần mềm để tham gia học tập và trao
đổi trực tuyến.
Qua phiếu điều tra, nhóm tác giả đã thống kê được tỉ lệ học sinh sử dụng
các phần mềm, cụ thể được phản ánh thông qua sơ đồ sau đây:
Biểu đồ về mức độ chủ động sử dụng các phần mềm tiện ích
Đối với học sinh trường THPT Mỹ Lộc số lượng học sinh sử dụng phần
mềm Zoom, Google Meet, MS Teams chiếm số đông nhưng chủ yếu do nhà
trường và giáo viên yêu cầu trong dạy học trực tuyến để thích ứng linh hoạt an
toàn trong phòng chống dịch bệnh Covid – 19. Các phần mềm khác có được sử
dụng nhưng cũng chưa nhiều và chưa thực sự phổ biến.
Nguyên nhân của tình trạng này là do: Bản thân các giáo viên cũng ít đổi
mới, chưa thực sự tham gia vào quá trình chuyển đổi số, chưa biết vận dụng linh
12
hoạt vào việc tổ chức các hoạt động học cho học sinh. Ngoài ra, bản thân các bạn
học sinh chưa có tâm thế, chưa có sự chủ động sáng tạo tham gia vào các hoạt
động học có ứng dụng công nghệ số. Bởi vậy, việc chuyển đổi số trong nhà trường
từ phía học sinh mới chỉ dừng lại ở việc tham gia vào các lớp học trực tuyến do
nhà trường và giáo viên tổ chức.
Thứ 2, về việc sử dụng các tài liệu học tập
Đối với học sinh trường THPT Mỹ Lộc, phần lớn học sinh vẫn sử dụng tài
liệu giấy là chủ yếu (67,8% sử dụng thường xuyên và rất thường xuyên). Đối với
tài liệu số dạng văn bản chỉ có 40,9% học sinh sử dụng thường xuyên và rất thường
xuyên. Tỉ lệ này càng ít đi đối với tài liệu số dạng âm thanh (22,7%); tài liệu số
dạng video (22,8%); tài liệu số theo bài giảng E – Learning (11,2%); tài liệu số
về ngân hàng đề thi có thể chấm thi tự động (10,6%); phần mềm mô phỏng thí
nghiệm ảo (3,9%).
Biểu đồ về mức độ sử dụng các dạng tài liệu học tập của học sinh
Đây là thực trạng khi học sinh và giáo viên chưa thực sự tham gia vào quá
trình chuyển đổi số. Ngay cả trong thời kỳ học tập trực tuyến tại nhà để phòng
chống dịch bệnh Covid -19, nhóm tác giả quan sát và thấy, phần lớn các thầy cô
giáo vẫn gửi tài liệu giấy đến trường và học sinh theo thời gian quy định đến để
lấy về hoàn thành nhiệm vụ học tập. Một số giáo viên khác có thể sử dụng zalo,
Messeger để gửi tài liệu số dạng văn bản cho các nhóm học sinh và yêu cầu các
bạn tải về và hoàn thiện bài tập vào vở. Điều này chứng tỏ việc giáo viên và học
sinh bắt tay vào chuyển đổi số còn rất hạn chế.
13
Thứ ba, về mức độ chủ động và thành thạo của học sinh trong ứng
dụng công nghệ số vào quá trình học tập
Với việc thiết kế bài trình chiếu Powerpoint, số học sinh không biết chiếm
21,6%, chưa thành thạo chiếm 42,2%, thành thạo chỉ chiếm 7,8%; Việc làm bài
trực tuyến theo yêu cầu của giáo viên, số học sinh không biết chỉ chiếm 0.9%,
chưa thành thạo chiếm 10,1%; còn lại hơn 80% học sinh đã khá thành thạo và rất
thành thạo; Do trong mấy năm liên tiếp, học sinh ở các lứa tuổi khác nhau đều
phải học trực tuyến do ứng phó linh hoạt với dịch Covid -19, vì vậy hầu hết các
em đều đã thành thạo với việc tham gia vào các phần mềm học tập trực tuyến do
thầy cô và nhà trường tổ chức. Chỉ có một số rất ít học sinh chưa thành thạo khi
tham gia các lớp học này (chiếm 2,2%). Đây là thông tin đáng mừng vì đó là điều
kiện cơ bản đầu tiên kích thích học sinh tham gia vào quá trình chuyển đổi số
trong học tập và lao động trong tương lai.
Tương tự, việc các em tìm kiếm các tư liệu trên Web đã tương đối quen
thuộc (chiếm tới trên 90 % số các bạn tham gia khảo sát). Một vấn đề nhóm tác
giả băn khoăn là, việc tìm kiếm các tư liệu trên Web rất đa dạng và phong phú, có
cả những tư liệu mang tính khoa học, có cả những tư liệu còn thiếu chính xác.
Điều này khi thực hiện phỏng vấn sâu đối với các đối tượng học sinh ở các khối
lớp, nhiều em cũng có cùng băn khoăn với nhóm tác giả. Vậy làm thế nào để tất
cả học sinh có thể đến với các tư liệu minh bạch, đã được kiểm chứng về mức độ
chính xác, khoa học và có tính giáo dục cao; đồng thời có thể giúp học sinh tiết
kiệm được thời gian tìm kiếm. Để làm được điều đó, cần có sự chung tay của các
thày cô giáo và các thế hệ học sinh trong nhà trường nói riêng, của cả hệ thống
giáo dục nói chung.
Theo phiếu điều tra, việc xử lý các thông tin của các học sinh tại trường
THPT Mỹ Lộc đã khá thành thạo trở lên (chiếm tới trên 80%); Tuy nhiên, trên
thực tế, khi nhóm tác giả phỏng vấn sâu đối với các giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy tại trường THPT Mỹ Lộc, việc các bạn học sinh có thể tìm kiếm được tư liệu
trên Web là phổ biến, nhưng việc xử lý các tư liệu đó, biến các tư liệu đó thành
nội dung học tập, thành kiến thức tiếp thu của bản thân là còn rất hạn chế. Chỉ có
một số ít học sinh khá giỏi mới thực sự xử lý được các thông tin này (tất nhiên
vẫn cần có sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn).
Việc hoàn thành các sản phẩm học tập số của học sinh theo thống kê tại
trường THPT Mỹ Lộc là khá thành thạo (41%), thành thạo (35,3%), rất thành thạo
(11,2%); Chỉ có khoảng 12% học sinh không biết hoặc ít thành thạo khi hoàn
thành các sản phẩm học tập số. Tuy vậy, khi được phỏng vấn sâu, học sinh nói,
việc hoàn thành sản phẩm học tập số mới chỉ dừng lại ở chụp ảnh bài tập hoặc
làm các bài tập trực tuyến là chủ yếu. Chỉ có một số rất ít học sinh có thể thiết kế
các bài tập theo bản trình chiếu Powerpoint hoặc dạng bài tập video,
14
Infographics…. Đây là điểm yếu trong của học sinh trong quá trình thực hiện
chuyển đổi số.
Biểu đồ về mức độ thành thạo kỹ năng sử dụng phần mềm
Điểm yếu này được minh chứng rõ nét trong nội dung mà nhóm tác giả khảo
sát về mức độ chủ động, sáng tạo trong việc tạo ra các sản phẩm học tập số (Chỉ
có 3,2% học sinh trường THPT Mỹ Lộc được cho là rất thành thạo; trong khi đó
có tới 26,5% học sinh không biết, và gần 40% học sinh chưa thành thạo trong việc
tạo ra các sản phẩm số.
Phần lớn học sinh cũng đã biết trao đổi, tương tác với nhau ở các nhóm học
tập (cũng chiếm tới trên 80% đối với học sinh tham gia khảo sát). Phần lớn các
em đều thực hiện trao đổi với nhau thông qua nhóm Zalo, Messenger, Gmail…
Đây là một điều kiện vô cùng thuận lợi để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc
chuyển đổi số trong giáo dục, bởi chính đối tượng học sinh đã quen thuộc với việc
trao đổi với nhau trên không gian mạng.
Ngoài ra việc tham gia khảo sát hoặc học tập ở một số trang Web hoặc phần
mềm của học sinh đã tương đối phổ biến. Đây là tín hiệu đáng mừng cho quá trình
chuyển đổi số trong giáo dục từ phía học sinh đồng thời rèn luyện năng lực tự học
cho học sinh. Điều này chứng tỏ học sinh trong nhà trường đang từng bước chủ
động tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
Về mức độ chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi số trong giáo
dục từ phía học sinh
Việc học sinh được trang bị điện thoại và các thiết bị thông minh khác có
khả năng kết nối Internet vạn vật cùng với việc trong suốt 3 năm học qua học sinh
phải thích ứng linh hoạt với dịch bệnh Covid -19, số học sinh tích cực chủ động
15
sử dụng các thiết bị thông minh và tham gia các lớp học trực tuyến chiếm tỉ lệ khá
cao. Điều này được minh chứng trong biểu đồ sau đây
Biểu đồ về mức độ chủ động tham gia chuyển đổi số của học sinh
Đồng thời với đó, các em cũng đã chủ động lưu trữ tư liệu học tập số, làm
các bài tập số và tương tác với thầy cô giáo và bạn bè. Tuy nhiên số học sinh chủ
động tạo ra các sản phẩm học tập số không nhiều (chỉ chiếm 6,2%).
Về hình thức học sinh tham gia vào quá trình chuyển đổi số
Có nhiều hình thức học tập mà học sinh có thể tham gia vào quá trình
chuyển đổi số. Theo khảo sát của nhóm tác giả tại trường THPT Mỹ Lộc, số lượng
các em tham gia theo hình thức trực tuyến (30,7%) và trực tiếp kết hợp với trực
tuyến (58,9%) là chủ yếu. Số lượng các bạn học sinh thực tận dụng các ưu thế của
chuyển đổi số trong giáo dục để tự học là rất ít (1,2%).
Như vậy, việc học sinh tận dụng tài nguyên số để tự học, tự ôn luyện còn
hạn chế. Điều đó chứng tỏ rằng nhận thức của các bạn học sinh về vai trò của việc
tự học để phát huy năng lực bản thân còn chưa cao. Do đó, cần phải có giải pháp
thúc đẩy sự hình thành và phát huy năng lực tự học của mỗi em trên cơ sở sự
Biểu đồ các hình thức học tập tham gia vào
chuyển đổi số
Trực tuyến Trực tiếp Kết hợp trực tuyến với trực tiếp Tự học
16
hướng dẫn của các thầy cô và sự tận dụng nguồn tài nguyên số trong bối cảnh hiện
nay.
1.1.5. Thực trạng việc nhận thức về tác động của chuyển đổi số đối với quá
trình dạy và học trước khi thực hiện dự án
Thứ nhất, sự tác động của chuyển đổi số đối với hình thức dạy học
truyền thống
Có một số ít học sinh cho rằng việc thực hiện chuyển đổi số không thay đổi
hình thức dạy học truyền thống (5,8%); một số khác cho rằng thay đổi hoàn toàn
(8,9%). Đây là sự nhận thức hoàn toàn trái ngược nhau, điều đó chứng tỏ những
bạn học sinh này thực sự chưa hiểu đúng đắn về chuyển đổi số. Tuy nhiên, rất
nhiều học sinh đã nhận thức được việc chuyển đổi số đã thay đổi một phần
(57,6%) hoặc hỗ trợ cho dạy học trực tuyến (27,7%). Đây là nhận thức đúng đắn,
thực tế khi các em đang tham gia vào quá trình chuyển đổi số gắn liền với các
hoạt động học mà bản thân đang chủ động hoặc chưa chủ động tham gia.
Thứ hai, nhận thức về mức độ tác động tích cực của chuyển đổi số với
quá trình học tập của học sinh
Khi được tham gia vào quá trình chuyển đổi số trong học tập, nhiều học
sinh trong nhà trường đã thấy được những tác động tích cực của nó đối với học
sinh. Từ 65 đến 85% số các bạn tham gia khảo sát đã cho rằng việc thực hiện
chuyển đổi số đã tăng mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học, có thể tiếp
cận thông tin đa chiều, rút ngắn thu hẹp về khoảng cách (thời gian và không gian),
tiết kiệm chi phí (học tập, sinh hoạt, tài liệu học tập), tăng tính tương tác, thực
hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học, trải nghiệm đa giác quan để hiểu,
để nhớ, bồi dưỡng kiến thức, khả năng nhận thức và tư duy người học. Số liệu này
giúp cho nhóm tác giả thêm tự tin để đề xuất các giải pháp để thực hiện chuyển
đổi số ở trường THPT Mỹ Lộc. Vì khi nhận thức được tác động tích cực, thì các
em sẽ tự giác, chủ động, nhiệt tình tham gia vào các hoạt động học gắn liền với
chuyển đổi số.
Biểu đồ nhận thức về tác động tích cực của chuyển đổi số
17
Thứ ba, nhận thức về mức độ hạn chế của chuyển đổi số với quá trình
học tập của học sinh
Biểu đồ nhận thức về sự hạn chế trong quá trình chuyển đổi số
Bên cạnh sự nhận thức về tác động tích cực, thì đa số các em cũng đã chỉ
ra được một số hạn chế của chuyển đổi số đối với quá trình học tập của bản thân.
Chính vì nhận thức được các hạn chế của quá trình chuyển đối số sẽ giúp các em
có sự điều chỉnh hành vi, thái độ của mình cho phù hợp để khắc phục các hạn chế
trên. Mặc dù vậy, vẫn có một số ít không nhận thức được hạn chế của quá trình
này. Điều này có thể được lý giải bởi hai lý do sau đây: một là học sinh nghiêm
túc học tập, không sa đà, lôi kéo vào các ứng dụng không phục vụ cho học tập,
tiếp nhận được đầy đủ sự hướng dẫn của giáo viên, tận dụng nguồn tài nguyên số
để hình thành và phát triển kỹ năng sáng tạo,…; hai là, học sinh không quan tâm
đến việc chuyển đổi số hoặc là không để ý hay cho rằng công nghệ thông tin là
chỉ có tác động tích cực đối bản thân mình, hoặc bản thân say mê quá độ với công
nghệ thông tin, với Internet nên không nhìn ra các hạn chế.
1.2. Các đề tài nghiên cứu về quá trình chuyển đổi số trong giáo dục
Trong những năm gần đây, khái niệm “chuyển đổi số” và “chuyển đổi số
trong giáo dục” đã được đề cập đến trong các buổi hội thảo, các bài viết và một
số đề tài nghiên cứu. Ví dụ như: Đề án chuyển đổi số quốc gia – Dự thảo 1.0 (ngày
4/4/2019): xác định thực trạng về chuyển đổi số ở Việt Nam và đề ra yêu cầu và
chủ trương chuyển đổi số trong các lĩnh vực ở Việt Nam (trong đó có giáo dục)
và có so sánh với một số nước trên thế giới; Đề tài “Thời chuyển đổi số, trí tuệ
nhân tạo và khoa học dữ liệu” của Hồ Tú Bảo – Viện nghiên cứu cao cấp về Toán
trường ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh trong đó có nêu lên lên các khái niệm số
hóa, công nghệ số và thời chuyển đổi số; đề tài “Nghiên cứu về phương pháp học
tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo trực tuyến mở
giành cho đại chúng – MOOCS (Massive online open: Courses): Kinh nghiệm thế
giới và ứng dụng tại Việt Nam; bài viết “Kinh tế số và chuyển đổi số tại Việt Nam
18
đề cập đến thời cơ và thách thức trong chuyển đổi số tại Việt Nam; bài viết về
chuyển đổi số trong giáo dục thời kỳ Corona – Tạp chí Giáo dục – viết về thách
thức chuyển đổi số; bài viết “chuyển đổi số và tác động của chuyển đổi số trong
giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Phương Dung – Bộ môn Toán, học viện
ngân hàng trên báo Công thương viết về lợi ích của chuyển đổi số đối với Chính
phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng đồng thời chỉ ra tác động của chuyển đổi
số đến cuộc sống; bài viết “ chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: thực
trạng và giải pháp” đăng trên cổng thông tin điện tử Học viện cảnh sát nhân dân
đã viết về nội dung, điều kiện, thực trạng và giải pháp của chuyển đổi số nhưng
mới chỉ mang tính chất khái quát trong đào tạo nguồn nhân lực cấp đại học; Buổi
tọa đàm “chuyển đổi số từ góc nhìn khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo”
trong đó đề cập đến 3 cấp độ của chuyển đổi số: số hóa, ứng dụng công nghệ số,
chuyển đổi số; tọa đàm “chuyển đổi số trong giáo dục đại học với chủ đề “Công
nghệ cho tương lai” – cổng thông tin Bộ Giáo dục và đào tạo đã chia sẻ việc đào
tạo trực tuyến qua nền tảng LMS và LCMS; Hội thảo “chuyển đổi số trong giáo
dục: thực trạng và giải pháp” ngày 4/11/2021; Hội thảo “ Chuyển đổi số để vận
hành giáo dục hiệu quả chất lượng hơn” ngày 23/11/2021 đã xác định quá trình
chuyển đổi số không phải của một tổ chức, một cá nhân, một trường học mà là
vấn đề toàn cầu. Vì vậy cần phải nắm bắt kịp thời khoa học kỹ thuật, công nghệ
4.0 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đồng thời phải có sự nhận thức xuyên suốt
và toàn diện; có sự kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến qua lớp học ảo; bài viết
“Chuyển đổi số trong giáo dục – thách thức và thời cơ” của Đỗ Thị Ngọc Quyên
đăng trên báo Tia sáng – một ấn phẩm của Báo Khoa học và phát triển nói về giáo
dục mở, học liệu mới, khoa học mở đồng thời nhấn mạnh về sự cần thiết về số
hóa học liệu, tài liệu, sách giáo khoa, số hóa dữ liệu người học và kiểm tra đánh
giá kết quả đầu ra của học sinh và môi trường giáo dục số; bài viết “Xu hướng
chuyển đổi số trong ngành giáo dục” đăng trên cổng thông tin của FPT viết về
thực trạng, hành trình, khó khăn và các giải pháp trong đó nói đến giáo dục tích
hợp, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và an toàn thông tin cho các
cấp học, ứng dụng công nghệ số trong kiểm tra đánh giá đánh giá và chuẩn bị bài
trước khi lên lớp, số hóa cá nhân đối tượng học sinh.
Tất cả các đề tài và bài viết đều nhất trí trong quan điểm phải thực hiện
chuyển đổi số trong các lĩnh vực trong đó có chuyển đổi số trong giáo dục và đào
tạo. Tuy nhiên, các đề tài, các bài viết, các cuộc hội thảo, tọa đàm đều dừng lại ở
khái niệm và chỉ ra một cách khái quát các giải pháp và các yêu cầu cần thực hiện
của quá trình chuyển đổi số. Trong đó có một số đề tài, bài viết, hội thảo đề cập
đến chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nhưng mới nghiên cứu, nhìn nhận học
sinh, sinh viên ở góc độ là đối tượng (khách thể) mà không phải là người chủ động
thực hiện (chủ thể) của quá trình chuyển đổi số.
19
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
2.1. Cơ sở lý luận của việc thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục hiện
nay
2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào
tạo
Về phía Đảng
Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
XI năm 2013 đã thông qua Nghị quyết về Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và
Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã chỉ rõ: Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Phát triển Giáo dục và Đào tạo là nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Phát triển giáo dục và đào tạo phải
gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học
và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo,
tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo
cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng
cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII (2021), Đảng đã thông qua nghị quyết về
giáo dục trong đó nhấn mạnh tiếp tục kế thừa coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, vừa là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám sát xu thế phát triển của
nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy
mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đồng thời tiếp tục phát triển
trên tinh thần mới phù hợp với tình hình đất nước và thế giới: “phát triển nguồn
nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc
20
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế “Chú trọng giáo dục phẩm
chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước,
tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”“ chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho
phát triển kinh tế tri thức”, đào tạo con người “có kỹ năng sống, kỹ năng làm
việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập
quốc tế”.
Về phía Nhà nước
Thực hiện Nghị quyết 29- NQ/TW (2013) của Đảng, nước ta đã từng bước
thực hiện quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đến năm 2019,
Quốc hội nước ta đã ban hành Luật giáo dục. Tại Điều 2 đã xác định mục tiêu
giáo dục là “phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn
hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công
dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”; tại Điều 4 chỉ rõ “Phát
triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học,
công nghệ, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận
giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”; Tại Điều
7 nhấn mạnh “Phương pháp giáo dục phải khoa học, phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực
tự học và hợp tác, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”;
tại Điều 16 quy định “Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự
nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây
dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh”.
Tháng 6 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình “Chuyển
đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu Việt
Nam gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Chương trình
nhấn mạnh người dân là trung tâm của chuyển đổi số. Vì vậy những lĩnh vực có
tác động xã hội, liên quan hằng ngày với người dân, thay đổi nhận thức nhanh
nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần được ưu tiên chuyển đổi số
trước, trong đó có 8 lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong triển khai thực hiện. Đó
là: y tế, giáo dục, tài chính – ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và
logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường và sản xuất công nghiệp. Trong
đó, giáo dục là lĩnh vực cần ưu tiên có tác động xã hội liên quan trực tiếp và hàng
ngày tới người dân. Giáo dục được chuyển đổi số thành công sẽ giúp thay đổi
nhận thức con người một cách nhanh nhất mang lại hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho
21
nhiều hoạt động trong đời sống xã hội đồng thời tạo động lực chuyển đổi số cho
các ngành nghề khác.
Về phía Bộ Giáo dục và đào tạo
Đến năm 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các thông tư nhằm
triển khai Luật Giáo dục 2019 một cách hiệu quả. Trong đó, Thông tư
26/2020/TT- BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 15/8/2020 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung
học cơ sở và học sinh trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số
58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, tại Điều 1, khoản 3 đã sửa đổi, bổ sung Điều 7 của Thông tư 58/2011,
cho phép việc “kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện theo hình thức
trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua: hỏi – đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí
nghiệm, sản phẩm học tập”; việc “kiểm tra, đánh giá định kì, gồm kiểm tra, đánh
giá giữa kì và kiểm tra, đánh giá cuối kì, được thực hiện thông qua: bài kiểm tra
(trên giấy hoặc trên máy tính), bài thực hành, dự án học tập”. Tại Thông tư 32,
Điều 37. Những điều học sinh không được làm, khoản 4 đã quy định học sinh
không được “Sử dụng điện thoại di động, các thiết bị khác khi đang học tập trên
lớp không phục vụ cho việc học tập và không được giáo viên cho phép”. Với quy
định này đồng nghĩa với việc học sinh có quyền sử dụng điện thoại di động và các
thiết bị thông minh khác trong giờ học phục vụ mục đích học tập nếu được giáo
viên cho phép.
Ngày 9/12/2020, tại Hà Nội, Bộ GDĐT tổ chức hội thảo “Chuyển đổi số
trong giáo dục và đào tạo”. Hội thảo đã nhấn mạnh yêu cầu cần thiết phải tích cực
phải chuyển đổi số trong giáo dục nhằm hướng tới việc đào tạo những công dân
Việt Nam có kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số để trở thành công dân toàn cầu.
Trong năm 2021, Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo,
tọa đàm như: Chuyển đổi số trong giáo dục đại học với chủ đề “Công nghệ cho
tương lai”; “Chuyển đổi số để vận hành giáo dục hiệu quả, chất lượng hơn”;
“Chuyển đổi số trong giáo dục: thực trạng và giải pháp”. Bộ GDĐT đã nhấn mạnh
ngành giáo dục rất quan tâm tới việc đào tạo những công dân Việt Nam có kiến
thức, kỹ năng chuyển đổi số để trở thành công dân toàn cầu (có khả năng thích
ứng sống và lầm việc tại nhiều quốc gia). Chính vì vậy, chuyển đổi số được ngành
xác định là khâu đột phá, nhiệm vụ quan trọng cần chú trọng triển khai thực hiện
những năm tới đây, nhằm rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo
dục, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và đóng góp tích cực vào quá trình chuyển
đổi số quốc gia. Chuyển đổi số trong giáo dục, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn
mạnh là “phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ
số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây
dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp
và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể
22
hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm
chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20%
nội dung chương trình…”.
Về phía Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định
Đối với Sở giáo dục và đào tạo Nam Định cũng đã ra nhiều văn bản chỉ đạo
như: Kế hoạch số 120/KH-UBND ngày 31/12/2020 của UBND tỉnh Nam Định về
việc Chuyển đổi số tỉnh Nam Định giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm
2030; Kế hoạch số 122/KH-UBND ngày 22/10/2021 của UBND tỉnh về việc thực
hiện Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 15/10/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Nam Định về chuyển đổi số tỉnh Nam Định đến năm 2025, định hướng đến năm
2030; Kế hoạch số 480/KH-SGDĐT ngày 08/04/2021 về Chuyển đổi số ngành
Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Nam Định giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến
năm 2030: Công văn 1739 về ứng dụng công nghệ thông tin phát triển chính quyền
số; Hướng dẫn 1804 về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin – chuyển đổi
số; công văn 1638 về quy định thích ứng với linh hoạt với dịch Covid – 19. Tất
cả các văn bản chỉ đạo trên đều chỉ rõ mục tiêu và yêu cầu cần thiết phải thực hiện
chuyển đổi số trong giáo dục ở địa phương, trong đó có xác định mục tiêu xây
dựng kho học liệu số của ngành (bài giảng điện tử e-learning, dữ liệu về đề thi, đề
kiểm tra, đề ôn thi tốt nghiệp THPT quốc gia các môn học) được chia sẻ trực tuyến
đáp ứng được 10% nhu cầu về tài liệu giảng dạy, học tập đối với giáo viên, học
sinh và học viên.
Như vậy, Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện lộ trình
đổi mới toàn diện, liên tục, đồng bộ hệ thống giáo dục và đo tạo nhằm phát huy
năng lực của người học đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và
hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Trong đó, chú trọng đổi mới phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc; gắn đổi mới giáo dục với tiến bộ khoa học công nghệ,
phát triển khả năng sáng tạo, tự học của học sinh, khuyến khích học tập suốt đời,
tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi
hình thức, học tập suốt đời.
Có thể thấy, việc thực hiện chuyển đổi số ở mỗi nhà trường phổ thông nói
chung và chuyển đổi số từ mỗi học sinh nói riêng là một yêu cầu cần thiết góp
phần thực hiện hiệu quả, thành công yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục của
Đảng – Nhà nước và ngành Giáo dục đào tạo.
2.1.2. Quan điểm về chuyển đổi số trong giáo dục
2.1.2.1. Quan niệm chung về chuyển đổi số
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số. Mặc dù thuật
ngữ này đã xuất hiện phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, tuy nhiên
lại không có một định nghĩa chung nào cho tất cả.
23
Có quan niệm cho rằng “Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và
toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản
xuất dựa trên các công nghệ số”.
Theo trang Tech Republic – Tạp chí trực tuyến, cộng đồng xã hội dành cho
các chuyên gia công nghệ thông tin, khái niệm chuyển đổi số là “cách sử dụng
công nghệ để thực hiện lại quy trình sao cho hiệu quả hơn hoặc hiệu quả hơn”.
Theo Gartner chuyển đổi số là “việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi
mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới”.
Microsoft lại cho rằng “Chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ
chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới”.
Đối với FSI – doanh nghiệp chuyển đổi số hàng đầu Việt Nam: “Chuyển
đổi số là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số, bằng
cách áp dụng công nghệ mới như điện toán đám mây (Cloud), dữ liệu lớn (Big
data), Internet vạn vật (IOT), …thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy
trình làm việc, văn hóa công ty…”.
Với Chuyển đổi số (Digital Transformation) trong tiếng Anh là “sự tích hợp
các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng
các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và
cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc
các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa của
các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm
cái mới và thoải mái chấp nhận các thất bại”.
Do cách tiếp cận từ các góc độ khác nhau, quan niệm khác nhau nên cách
diễn đạt của các định nghĩa trên không giống nhau. Nhưng, về nội hàm tất cả các
định nghĩa trên đều có điểm chung: Chuyển đổi số (Digital Transformation) là
việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện
tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống,
làm việc và liên hệ với nhau.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang triển khai các chiến lược
quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung chuyển đổi số rất rộng và đa dạng nhưng có
chung một số nội dung chính gồm chính phủ số (dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu
mở), kinh tế số (tài chính số, thương mại điện tử), xã hội số (giáo dục, y tế, văn
hóa) và chuyển đổi số trong các ngành trọng điểm (nông nghiệp, du lịch, điện lực,
giao thông). Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam nói chung và ngành
Giáo dục và Đào tạo nói riêng cũng không thể thoát ly khỏi xu thế chung của thế
giới.
“Chuyển đổi số” (Digital Transformation) có thể dễ bị nhầm lẫn với khái
niệm “Số hóa” (Digitizing). Để phân biệt hai khái niệm này, có thể hiểu rằng “Số
24
hóa” là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ
thuật số (chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy
tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số…);
trong khi đó, “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa,
rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá
trị mới hơn. Có thể xem “Số hóa” như một phần của quá trình “Chuyển đổi số”
2.1.2.2. Quan niệm về chuyển đổi số trong giáo dục
Chuyển đổi số trong ngành giáo dục là việc áp dụng công nghệ, cũng dựa
vào mục đích, cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục và được ứng dụng dưới ba hình
thức chính:
Thứ nhất: Ứng dụng công nghệ trong lớp học như cơ sở vật chất lớp học,
công cụ giảng dạy.

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay