SKKN Một số giải pháp nâng cao kỹ năng nghe tiếng Anh cho học sinh lớp 6
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
Đã từ rất lâu Tiếng Anh có vai trò quan trọng trong đời sống con người ở
mọi quốc gia trên thế giới. Nó chính là cầu nối của con người với con người, quốc
gia với quốc gia dù khác màu da, khác nền văn hóa, tiếng nói, quốc tịch…Tiếng
Anh giúp con người xích lại gần nhau hơn. Nhờ Tiếng Anh các quốc gia có điều
kiện giao lưu phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay – thế kỷ 21 với sự phát
triển vượt bậc về khoa học công nghệ, giao lưu và hội nhập thì vai trò của Tiếng
Anh càng trở nên quan trọng. Tiếng Anh là ngôn ngữ của toàn cầu, là ngôn ngữ
chính thức của 53 quốc gia, lãnh thổ. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ kinh doanh,
thương mại và kỹ thuật và là ngôn ngữ chung của truyền thông. Tiếng Anh có thể
giúp con người có thể cập nhật nguồn kiến thức về mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Trên thế giới, hiện nay có khoảng 1 tỷ trang web bằng Tiếng Anh, các phần mềm
ứng dụng, nhiều cổng thông tin, nhiều tạp chí và tờ báo nổi tiếng được viết bằng
Tiếng Anh…Vì thế việc hiểu biết Tiếng Anh là điều cần thiết trong kỷ nguyên
bùng nổ thông tin hiện nay.
Đối với Việt Nam, nước ta đang trên con đường hội nhập với thế giới thì
Tiếng Anh cũng trở thành yếu tố vô cùng và cần thiết. Đảng và nhà nước có nhiều
chỉ thị, nghị quyết về việc dạy và học Tiếng Anh. Đất nước đang chuyển mình
trong nền kinh tế thị trường. Tiếng Anh là cầu nối Việt Nam với các quốc gia phát
triển, giúp chúng ta tiếp cận với những thành tựu mới nhất của con người về khoa
học kỹ thuật, văn hóa, xã hội, hiểu biết nhau, giúp đỡ nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Để
làm được điều đó đòi hỏi Việt Nam phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao
phục vụ trực tiếp trong công việc, tạo mối quan hệ tốt đẹp và làm thay đổi chất
lượng cuộc sống con người. Nguồn nhân lực đó ngoài việc được đào tạo về chuyên
môn có chất lượng cao còn phải đáp ứng yêu cầu giao tiếp quốc tế.
Chính vì thế, hiện nay Tiếng Anh trở thành một môn học bắt buộc đối với
học sinh trong nhà trường, trong đó có việc nghe – nói Tiếng Anh của người học
Tiếng Anh nói chung và học sinh trong các nhà trường nói riêng. Tuy nhiên thực
trạng học Tiếng Anh của học sinh Việt Nam vẫn còn là vấn đề đau đầu của các
thầy cô giáo và cha mẹ học sinh. Đặc biệt là khả năng học Tiếng Anh của học sinh
nông thôn không có điều kiện và thời gian như học sinh thành thị. Đối với học
sinh nông thôn, Tiếng Anh được coi là một “môn học mới” về một ngôn ngữ của
một đất nước với nền văn hoá, phong tục, tập quán hoàn toàn xa lạ. Vì vậy, để các
em tiếp cận và học tốt môn Tiếng Anh đòi hỏi người thầy phải tích cực đổi mới
2
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Vậy làm thế nào để học sinh học tập tốt môn Tiếng Anh. Làm thế nào để học sinh
có cơ hội giao tiếp Tiếng Anh một cách tự tin, mạnh dạn. Đó là câu hỏi nhất định
cần phải có giải đáp cụ thể .
Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang triển khai chương trình GDPT 2018,
chương trình Tiếng Anh phổ thông đã thể hiện được mong muốn của những nhà
làm giáo dục đối với học sinh với nhiều đổi mới đáp ứng được với nhu cầu của xã
hội, của toàn cầu. Chương trình môn họcTiếng Anh đã được nghiên cứu biên soạn
và ban hành theo thông tư số 32/2008 TT – BGD ĐT ngày 26/12/2018 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo. Theo đó, chương trình Tiếng Anh được biên soạn
theo định hướng giao tiếp giúp học sinh sử dụng ngữ liệu ( ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp) để phát triển năng lực giao tiếp bằng Tiếng Anh thông qua 4 kỹ năng (nghe
– nói- đọc – viết), ưu tiên phát triển kỹ năng nghe- nói; lấy hoạt động học là trung
tâm, học sinh là chủ thể của quá trình dạy học. Trong đó, tâm lý lứa tuổi học sinh
THCS, các đặc điểm văn hóa của Việt Nam và các nước trên thế giới, đặc biệt là
các nước nói Tiếng Anh được coi trọng.
Để thực hiện được mục tiêu trên đòi hỏi giáo viên phải có sự linh hoạt trong
việc sử dụng phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học tích cực, hiện đại phù hợp
với trình độ, phầm chất, năng lực học sinh và các em phải thực sự chủ động lĩnh
hội để phát triển các năng lực, phẩm chất của mình; đặc biệt là năng lực giao tiếp
Tiếng Anh.
Để phát huy được năng lực giao tiếp trong Tiếng Anh, với 4 kỹ năng cơ bản
nghe- nói- đọc- viết thì kỹ năng nghe là cực kỳ quan trọng nhưng lại vô cùng khó
đối với học sinh. Giáo viên dạy ngôn ngữ nào cũng phải thừa nhận rằng giao tiếp
không thành công nếu thiếu kỹ năng nghe Tiếng Anh bởi vì nó giúp học sinh làm
quen từ giọng nói đến cách đọc, cách viết (đi từ âm thanh đến âm hình). Đây cũng
là kỹ năng mà học sinh yếu nhất. Vì vậy kết quả học tập của học sinh cũng còn
hạn chế. Tuy nhiên, để cải thiện kỹ năng nghe Tiếng Anh của học sinh đòi hỏi có
sự phối kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng từ nhiều phía: giáo viên, học sinh, phụ huynh
và nhiều yếu tố khách quan khác. Việc rèn cho học sinh kỹ năng nghe giáo viên
gặp không ít những khó khăn. Học sinh phải nghe, phải hiểu được người khác
đang nói gì và dùng từ ngữ nào để giao tiếp cho phù hợp, đạt hiệu quả. Học sinh
thường nói rằng có nhiều từ Tiếng Anh đã học nhưng khi nghe thì không phát
hiện ra được. Học sinh không tự tin khi thực hành nghe Tiếng Anh…Mặt khác
điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ cho giảng dạy như máy chiếu,
đài, máy tính và các thiết bị dạy học hiện đại khác vẫn chưa được trang bị đầy đủ
ở từng lớp. Bên cạnh đó, đôi lúc việc dạy kỹ năng nghe Tiếng Anh còn bị xem
nhẹ.
3
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh 24 năm tại trường THCS
Thịnh Long, tôi nhận thấy kỹ năng nghe Tiếng Anh của học sinh THCS Thịnh
Long nói chung, học sinh lớp 6 của nhà trường nói riêng còn yếu. Tôi đã đi sâu
nghiên cứu thực trạng nghe Tiếng Anh của các em, tìm hiểu nguyên nhân và mạnh
dạn đưa ra các giải pháp khắc phục thực trạng này.
Đây là lý do để tôi chọn đề tài viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải
pháp nâng cao kỹ năng nghe Tiếng Anh cho học sinh lớp 6 ở trường THCS.”
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Thực trạng chung
Như chúng ta đã biết, Nghe là một phản xạ tự nhiên và còn được hiểu là
một động từ thể hiện hành động cảm nhận, nhận biết bằng thính giác (cảm nhận
bằng tai) nhưng cũng là một kỹ năng. Nghe chính là một kỹ năng để giải quyết
vấn đề mà mình tiếp nhận được (nghe được), hiểu được. Người nghe phải kết hợp
giữa việc tiếp nhận, phân biệt các âm, nắm được quy tắc phát âm, trọng âm, hiểu
được từ vựng, cấu trúc ngữ pháp…Đồng thời người nghe phải có sự phân tích,
xác định được ý định của người nói trong ngữ cảnh cụ thể phù hợp với đặc điểm
văn hoá, xã hội…
Nghe là chìa khóa dẫn đến thành công của việc học một ngôn ngữ. Như
chúng ta biết một đứa trẻ trước khi học nói, biết nói thì trẻ đó phải biết nghe những
người xung quanh nói, hiểu ý nghĩa của các từ ngữ và cuối cùng mới có thể bắt
chước rồi tự mình nói. Khi học Tiếng Anh, chúng ta cũng cần học cách nghe người
khác nói trước khi biết nói Tiếng Anh
Người có kỹ năng nghe tốt sẽ nắm bắt được nội dung vấn đề, thu thập được
nhiều thông tin, đánh giá được thông tin và tương tác trong quá trình diễn đạt. Bên
cạnh đó, “Nghe” sẽ tạo sự liên kết giữa con người với con người, tạo mối quan hệ
tốt đẹp, giải quyết được vấn đề và đem lại chất lượng cho công việc và cuộc sống
của con người.
Như đã nói ở trên, kỹ năng nghe Tiếng Anh là một trong những kỹ năng
khó đối với người học nói chung, học sinh THCS nói riêng. Trong việc học nghe,
các em gặp nhiều khó khăn. Kết luận này là có cơ sở khi tôi tiến hành khảo sát
lấy ý kiến học sinh. Dưới đây là kết quả khảo sát học sinh khối 6 trong năm học
2019-2020. Qua kết qủa khảo sát tôi tổng hợp được thì 6 khó khăn phổ biến nhất
trong học nghe Tiếng Anh đối với học sinh lớp 6 là:
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế.
2. Học sinh không nhận ra âm tiếng Anh
3. Học sinh khó có thể nắm bắt được ý chính của bài nghe, không dự đoán
được điều sắp nghe.
4
4. Học sinh thường cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh
5. Học sinh không theo kịp tốc độ của người nói khi nghe Tiếng Anh
6. Học sinh thiếu tập trung khi nghe và không kiểm soát được điều sẽ nghe.
Bên cạnh đó, cũng còn có một số yếu tố khách quan khác như: trong giờ nghe
lớp học đòi hỏi im lặng nên học sinh cảm thấy căng thẳng nhưng một số học sinh
không nghe được làm việc riêng, mất trật tự làm ảnh hưởng đến những học sinh
khác và không gian bên ngoài lớp học ồn ào…
Dưới đây là kết quả khảo sát mà tôi đã thực hiện:
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 1
PHIẾU ĐIỀU TRA KHÓ KHĂN CỦA
HỌC SINH LỚP 6 TRONG QUÁ TRÌNH HỌC NGHE TIẾNG ANH
Năm học: 2019- 2020
Họ và tên học sinh:………………………
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Việc học nghe Tiếng Anh của em còn gặp nhiều khó khăn. Em hãy vui lòng
cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến:
Các khó khăn | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế | ||
2. Học sinh không nhận ra âm tiếng Anh | ||
3. Học sinh khó có thể nắm bắt được ý chính của bài ngnghe, không dự đoán được điều sắp nghe. | ||
4. Học sinh cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh | ||
5. Học sinh không theo kịp tốc độ của người nói khi nghe Tiếng Anh | ||
6. Thiếu tập trung khi nghe và không kiểm soát được điều sẽ nghe |
5
Thống kê sau cuộc khảo sát là:
Các khó khăn | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế, | 81% | 19% |
2. Học sinh không nhận ra âm tiếng Anh | 86% | 14% |
3. Học sinh khó có thể nắm bắt được ý chính của bài nghe, không dự đoán được điều sắp nghe. | 77% | 23% |
4. Học sinh cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh | 64% | 36% |
5. Học sinh không theo kịp tốc độ của người nói khi nghe Tiếng Anh | 60% | 40% |
6. Thiếu tập trung khi nghe và không kiểm soát được điều sẽ nghe | 42% | 58% |
Từ kết quả khảo sát trên tôi nhận thấy:
+ Tiếng Anh là ngôn ngữ nước ngoài học sinh khó hiểu, khó học, các em
hay tư duy bằng Tiếng Việt. Học sinh không thể nghe Tiếng Anh được là do các
em thiếu kiến thức về từ vựng. Học sinh thường cố dịch sang Tiếng Việt trong khi
nghe Tiếng Anh.
+ Tiếng Việt có hệ thống thanh điệu khác so với các ngôn ngữ khác. Người
Việt phải sử dụng cơ miệng theo một cách khác để nói Tiếng Việt. Vì thế khi học
phát âm Tiếng Anh, nhiều học sinh bị ảnh hưởng bởi tiếng mẹ đẻ. Cho nên các
em không nhận ra âm Tiếng Anh, phát âm không chuẩn dẫn đến việc nghe- nói
Tiếng Anh gặp nhiều bất lợi. Chính điều này tạo nên áp lực cho học sinh làm các
em không hứng thú, tâm lý chán nản khi học nghe Tiếng Anh .
+ Hơn nữa do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh lớp 6 (11 tuổi) hiếu
động nên nhiều khi học sinh không tập trung nghe và vì thế các em cũng không
theo kịp được tốc độ của người nói.
+ Nhiều học sinh không nhận ra rằng mỗi ngôn ngữ có quy tắc và luật riêng
nên không thể áp dụng việc học từ ngôn ngữ này sang việc học ngôn ngữ kia được.
+ Đây là năm thứ 3 học sinh được tiếp cận với SGK Tiếng Anh 6 của Nhà
xuất bản Giáo Dục Việt Nam. Một bộ sách được biên soạn theo hướng giao tiếp
giúp học sinh sử dụng ngữ liệu (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) theo định hướng phát
triển các năng lực đặc biệt là năng lực giao tiếp. Đồng thời lấy việc học làm trung
tâm nhằm phát huy toàn diện các kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết). Năng
lực giao tiếp Tiếng Anh của học sinh được phát triển thông qua hoạt động học tập
6
tích cực, chủ động và sáng tạo. Trong SGK Tiếng Anh 6, tất cả các bài nghe kể
cả phát âm, trọng âm của từ Tiếng Anh đều được ghi lại vào đĩa bằng giọng của
người bản địa với những chủ đề gần gũi trong thực tế cuộc sống. Trong khi trước
đây, với chương trình cũ, giáo viên thường ưu tiên dạy đọc, dạy viết, dạy ngữ
pháp và còn mang tính hàn lâm. Trong phần nghe giáo viên thường hay đọc cho
học sinh nghe hoặc học sinh nghe băng cũng chỉ là hình thức, chiếu lệ bởi lẽ trong
các bài kiểm tra định kỳ không có phần bài tập nghe. Tuy nhiên để thay đổi cách
dạy và cách học từ chương trình cũ sang chương trình mới là hoàn toàn không dễ
và nhanh chóng được. Vì vậy đòi hỏi cả người dạy và người học cùng cố gắng tìm
ra các nguyên nhân của những thực trạng trên để tìm ra các giải pháp thiết thực
đối với những vấn đề trên.
1.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Từ thực tế dạy – học của giáo viên và học sinh, khi dạy phần nghe Tiếng
Anh trong SGK Tiếng Anh lớp 6, tôi rút ra một số nguyên nhân của những hạn
chế nói trên như sau:
*Về phía người dạy
+ Một số giáo viên chưa dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị bài trước khi
lên lớp dẫn đến việc giải quyết các tình huống có vấn đề trong tiết học bị thụ
động. Giáo viên còn ngại tổ chức các hoạt động nhóm để học sinh cùng tham
gia. Giáo viên chưa tạo được một sân chơi bổ ích mà học sinh là những người
chơi, giao tiếp, trò chuyện với nhau bằng Tiếng Anh để học sinh cảm thấy học
mà chơi, chơi mà học.
+ Năng lực giáo viên còn hạn chế. Một bộ phận nhỏ giáo viên vẫn còn bị
ảnh hưởng bởi cách dạy cũ. Đó là thiên về dạy ngữ pháp, từ vựng và viết. Trong
tiết học, người hoạt động chủ yếu là giáo viên còn học sinh chỉ thụ động lắng
nghe, chưa chủ động tiếp thu kiến thức.
+ Phương pháp dạy còn chưa phù hợp, chưa linh hoạt với từng đối tượng
học sinh. Giáo viên ngại áp dụng phương pháp dạy học mới, ngại xây dựng thêm
những bài tập củng cố khắc sâu nội dung nghe cần đạt của mục tiêu tiết dạy.
+ Hình thức tổ chức dạy học chưa phát huy được năng lực của học sinh,
chưa tổ chức được các hoạt động như Warm up với các trò chơi hoặc các hoạt
động gợi mở, kích thích tính tò mò, ham học hỏi của học sinh đối với phần nghe,
và học sinh chưa biết nghe chủ động.
+ Thời gian tiết học 45 phút không nhiều, giáo viên sợ thiếu thời gian nên
có khuynh hướng tập trung cung cấp ngữ liệu mới mà ít quan tâm đến rèn kỹ năng
nghe cho học sinh. Ngoài ra nhiều giáo viên không kiên trì hướng dẫn các thủ
thuật nghe phù hợp với từng đối tượng học sinh và đôi lúc còn áp đặt.
7
+ Giáo viên còn chưa tin tưởng vào khả năng của học sinh. Giáo viên chưa
quan tâm đồng đều đến mọi đối tượng học sinh mà mới chỉ tập trung vào những
học sinh khá- giỏi có khả năng nghe nổi trội. Giáo viên chưa biết kết nối các học
sinh lại với nhau, chưa tạo cơ hội cho các em tự học hỏi nhau khi không hiểu bài,
không biết cách làm.
+ Giáo viên thực sự chưa gần gũi, thân thiện với học sinh, chưa hiểu hết
được những băn khoăn của học sinh. Học sinh ngại không dám hỏi hay chia sẻ
những điều băn khoăn, thắc mắc của các em với giáo viên. Chính vì thế đã tạo
nên khoảng cách giữa thầy và trò.
+ Việc sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng trực quan của giáo viên
trên từng giờ lên lớp chưa linh hoạt, chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến việc tiếp thu
bài của học sinh còn hạn chế.
*Về phía học sinh
Học sinh lớp 6 là lớp học đầu cấp của bậc THCS. Đó là giai đoạn chuyển
giao từ trẻ em thành vị thành niên. Các em ở độ tuổi dậy thì, tâm sinh lý, thể chất
thay đổi. Các em luôn muốn tự khẳng định mình, muốn thể hiện cái tôi của mình.
Lên lớp 6 ở bậc THCS, các em được tiếp xúc với nhiều điều mới mẻ như môi
trường mới, bạn bè mới, nội dung học tập mới và chương trình học mới. Các em
tiếp xúc với nhiều môn học mới được đảm nhiệm bởi các thầy cô giáo khác nhau
cùng với phương pháp dạy đặc trưng của mỗi môn khác nhau. Đặc biệt đa phần
các em rất ngỡ ngàng, lo lắng, tự ti khi học môn Tiếng Anh. Bởi lẽ Tiếng Anh ở
Tiểu học chỉ dừng ở những câu cơ bản, đơn giản nhưng ở bậc THCS thì các em
sẽ phải học từ vựng với phát âm chuẩn cùng với cấu trúc câu đi kèm…Đặc biệt
các em phải biết sử dụng các từ vựng, cấu trúc câu… vào việc thực hành nghe,
nói, đọc, viết. Chính những điều trên đã ảnh hưởng đến tâm lý của các em, khiến
nhiều khi các em căng thẳng, lúng túng và thiếu tự tin. Đặc biệt khi học nghe và
nói Tiếng Anh, các em không thể tập trung khi nghe, không nhận ra các âm Tiếng
Anh và không thể nắm bắt được ý chính của bài nghe…
Từ kết quả khảo sát đã có, tôi tiếp tục tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các
khó khăn mà học sinh gặp phải trong quá trình khi nghe (5 phiếu khảo sát) cụ thể
như sau:
1, Nguyên nhân khiến vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn
chế.
Khảo sát về nguyên nhân vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế,
tôi có tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, của học sinh và thu thập được một số
nguyên nhân cụ thể và tiến hành phát phiếu khảo sát toàn bộ số học sinh khối 6
đang học tại trường THCS Thịnh Long
8
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 2
PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC VỐN TỪ VỰNG
TIẾNG ANH CỦA HỌC SINH CÒN HẠN CHẾ
Năm học: 2019 – 2020
Họ và tên học sinh:
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Các em hay gặp những khó khăn trong việc làm phong phú vốn từ vựng
Tiếng Anh. Nguyên nhân gây ra khó khăn này là gì?
Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý
kiến.
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Lười học từ vựng. | ||
2. Không xác định được động cơ, mục đích học tập đúng đắn | ||
3. Cho Tiếng Anh là khó, không hiểu, không muốn học | ||
4. Chưa có kĩ năng, phương pháp học tập Tiếng Anh phù hợp | ||
5. Học từ vựng không gắn với chủ đề cụ thể, ngữ cảnh cụ thể | ||
6. Học quá nhiều từ mới một lúc | ||
7. Thụ động, không hứng thú học |
Thống kê sau cuộc khảo sát là:
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Lười học từ vựng | 89% | 11% |
2. Không xác định được động cơ mục đích học tập đúng đắn | 73% | 27% |
3.Cho Tiếng Anh là khó, không hiểu, không muốn học | 69% | 31% |
4. Chưa có kĩ năng, phương pháp học tập Tiếng Anh phù hợp | 58% | 42% |
5. Học từ vựng không gắn với chủ đề cụ thể, ngữ cảnh cụ thể | 62% | 38% |
6. Học quá nhiều từ mới một lúc | 65% | 35% |
7. Thụ động, không hứng thú học. | 60% | 40% |
9
Trên thực tế theo kết quả khảo sát học sinh khối 6, nguyên nhân của việc
vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế là do:
Học sinh lười học từ vựng, chưa có động cơ học tập đúng đắn. Đa phần các
em cho rằng học Tiếng Anh khó, không hiểu và ngại học. Đặc biệt khi không nghe
được, không nói được, không hiểu bài được nên các em sẽ chán nản, từ bỏ và
không kiên trì học tiếp. Các em cũng chưa có phương pháp, kỹ năng học tập.
Nhiều em còn bị ảnh hưởng bởi phương pháp truyền thống là thiên về học ngữ
pháp và học từ vựng dưới hình thức chép đi, chép lại từ ra giấy, chưa biết gắn học
từ vựng với chủ đề, ngữ cảnh cụ thể. Nhiều học sinh còn học từ mới một cách thụ
động và học quá nhiều từ mới một lúc. Vì thế sau một thời gian ngắn các em
không nhớ được những từ vựng đó nữa.
2, Nguyên nhân học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi nghe
Trong quá trình giảng dạy, một vấn đề làm người dạy nói chung, bản thân
tôi nói riêng rất trăn trở, đó là việc dạy phát âm cho học sinh; đặc biệt là tình trạng
học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi nghe Tiếng Anh. Cho nên việc tôi làm
đầu tiên khi bước vào năm học mới là khảo sát những nguyên nhân của việc học
sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi thực hiện hoạt động nghe Tiếng Anh. Tôi
đã tiến hành điều tra với một số gợi ý cụ thể:
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 3
PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦAVIỆCHỌC SINH
KHÔNG NHẬN RA ÂM TIẾNG ANH KHI NGHE
Năm học: 2019 – 2020
Họ và tên học sinh:………………………………………..
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
Các em hay gặp khó khăn trong việc nhận ra âm Tiếng Anh khi thực hiện
hoạt động nghe Tiếng Anh. Nguyên nhân gây ra khó khăn này là gì ?
Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý
kiến.
Các nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1.Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế | ||
2. Ảnh hưởng về phát âm chuỗi trong lời nói Tiếng Anh. (hiện tượng nuốt âm, hiện tượng nối âm, hiện tượng đồng hóa âm vị, hiện tượng rút gọn của từ…) |
10
3. Không phân biệt được các từ đồng âm và các từ có cách phát âm gần giống nhau. |
4. Nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và phủ định. |
5. Các nguyên nhân khác. |
Thống kê được sau cuộc khảo sát là:
Các nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế | 83 % | 17% |
2. Ảnh hưởng về phát âm chuỗi trong lời nói Tiếng Anh. (hiện tượng nuốt âm, hiện tượng nối âm, hiện tượng đồng hóa âm vị, hiện tượng rút gọn của từ…) | 87 % | 13% |
3. Không phân biệt được các từ đồng âm và các từ có cách phát âm gần giống nhau. | 78 % | 22% |
4. Nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và phủ định. | 59 % | 41% |
5. Các nguyên nhân khác. | 9 % | 91% |
Như vậy qua các cuộc khảo sát việc học sinh không nhận ra âm trong Tiếng
Anh cho thấy:
+ 83 % học sinh cho rằng khó khăn của các em là do vốn từ vựng Tiếng Anh
còn hạn chế.
+ 87 % học sinh cho ý kiến khó khăn của các em là do một số ảnh hưởng về
phát âm chuỗi trong lời nói Tiếng Anh
+ 78 % học sinh gặp khó khăn không phân biệt được các từ đồng âm và các từ
có cách phát âm gần giống nhau
+ 59 % học sinh nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và phủ định.
3, Nguyên nhân của việc học sinh khó nắm bắt được ý chính của bài
nghe, không dự đoán được điều sắp nghe
Ngoài việc khảo sát về nguyên nhân học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh
khi nghe Tiếng Anh, tôi tiếp tục khảo sát những nguyên nhân của việc học sinh
khó nắm bắt được ý chính của bài nghe Tiếng Anh và không dự đoán được điều
sắp nghe .
11
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 4
PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN
CỦA VIỆC HỌC SINH KHÓ NẮM BẮT ĐƯỢC Ý CHÍNH
CỦA BÀI NGHE VÀ KHÔNG DỰ ĐOÁN ĐƯỢC ĐIỀU SẮP NGHE
Năm học : 2019 – 2020
Họ và tên học sinh:………………………
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Các em gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt được ý chính của bài nghe
Tiếng Anh và dự đoán được điều sắp nghe. Những nguyên nhân gây ra những khó
khăn là gì ? Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X)
vào ô ý kiến.
Các nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Không phân biệt được thông tin chính cần nghe với các thông tin còn lại. | ||
2. Không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng | ||
3. Cả hai nguyên nhân trên. |
Các nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Không phân biệt được thông tin chính cần nghe với các thông tin còn lại. | 58 % | 42% |
2. Không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng | 66% | 34% |
3.Cả hai nguyên nhân trên. | 76 % | 24% |
Những số liệu trên cho thấy nguyên nhân của việc khó nắm bắt nội dung
chính của bài nghe là:
+ 58 % học sinh không phân biệt được thông tin chính cần nghe với các
thông tin còn lại. Thông tin các em nắm được khi nghe còn mơ hồ, không cụ thể,
không chính xác,
+ 66 % học sinh không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ
quan trọng. Bao giờ cũng vậy ý chính của bài nghe thường được diễn đạt qua một
12
số từ ngữ quan trọng hay còn gọi là từ khóa (key words), nhưng các em không
nắm được những từ khóa này.
+ 76 % học sinh cho rằng nguyên nhân của việc khó nắm bắt nội dung bài
nghe là do cả hai nguyên nhân: các em không phân biệt được thông tin chính cần
nghe và không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng.
+ Bên cạnh đó hoạt động nghe của học sinh còn rập khuôn, máy móc, chưa
biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các tình huống thực tế trong cuộc sống.
4, Nguyên nhân học sinh cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe
Tiếng Anh
Trong thực tế, có nhiều học sinh khi nghe Tiếng Anh thường hay cố gắng
dịch sang Tiếng Việt. Những nguyên nhân gây ra vấn đề này là gì ?
Chúng ta biết: khi tiếp nhận thông tin người ta phải hiểu người nói, người
viết muốn nói điều gì, nói về ai, muốn gửi gắm thông điệp nào…Vì vậy khi nghe
Tiếng Anh học sinh cũng mang theo thói quen đó. Tuy nhiên khi học Tiếng Anh,
đặc biệt là việc nghe Tiếng Anh cũng cần có cách nghe phù hợp với đặc trưng
môn học. Đi sâu tìm hiểu và qua thực tiễn giảng dạy tại trường THCS Thịnh Long
tôi thu thập được một số nguyên nhân chủ yếu. Đồng thời để kết luận của mình
có căn cứ xác thực tôi tiếp tục sử dụng phiếu khảo sát đối với học sinh trong nhà
trường.
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 5
PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN
CỦA VIỆC HỌC SINH CỐ GẮNG DỊCH SANG TIẾNG VIỆT
KHI NGHE TIẾNG ANH
Năm học: 2019 – 2020
Họ và tên học sinh:……………………………..
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Các em thường hay cố gắng dịch sang Tiếng Việt khi nghe Tiếng Anh
Những nguyên nhân gây ra việc này là gì. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của
mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Phương pháp học tập Tiếng Anh chưa phù hợp với đặc trưng môn học | ||
2. Áp dụng thói quen tư duy Tiếng Việt |
13
3. Muốn nhanh chóng nắm bắt mọi vấn đề trong bài nghe |
4. Chưa hiểu rõ yêu cầu của bài nghe |
Thống kê được sau cuộc khảo sát là:
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Phương pháp học tập Tiếng Anh chưa phù hợp với đặc trưng môn học | 69 % | 31 % |
2. Áp dụng thói quen tư duy Tiếng Việt | 61 % | 39% |
3. Muốn nhanh chóng nắm bắt mọi vấn đề trong bài nghe | 58 % | 42 % |
4. Chưa hiểu rõ yêu cầu của bài nghe | 34 % | 66 % |
Dựa vào thống kê sau cuộc khảo sát trên cho thấy, học sinh thường hay cố
dịch sang Tiếng Việt khi nghe Tiếng Anh là do:
Học sinh chưa có phương pháp học Tiếng Anh phù hợp cho bản thân và
chưa hiểu rõ yêu cầu của bài nghe. Học sinh còn có thói quen tư duy bằng Tiếng
Việt và muốn nắm bắt mọi vấn đề trong bài nghe.
Chính những thói quen đó đã gây trở ngại cho các em trong việc nghe Tiếng
Anh.
5, Nguyên nhân của việc học sinh thiếu tập trung khi nghe, không kiểm
soát được điều sẽ nghe
Các em gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung khi nghe, kiểm soát được
điều sẽ nghe. Những nguyên nhân gây ra những khó khăn là gì?
Qua khảo sát có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn đến việc học sinh thiếu tập
trung khi nghe, tôi tiếp tục khảo sát ý kiến của học sinh, có cả nguyên nhân chủ
quan từ phía học sinh và nguyên nhân khách quan tác động.
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 6
PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN
CỦA VIỆC HỌC SINH THIẾU TẬP TRUNG KHI NGHE
KHÔNG KIỂM SOÁT ĐƯỢC ĐIỀU SẼ NGHE
Năm học 2019 – 2020
Họ và tên học sinh:……………………………
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
14
Các em gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung khi nghe Tiếng Anh và
kiểm soát được điều sẽ nghe. Những nguyên nhân gây ra những khó khăn này là
gì. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý
kiến.
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1.Thiếu kinh nghiệm khi nghe. | ||
2. Không có thói quen nghe thường xuyên. | ||
3. Nghe không hiểu nên sợ nghe. | ||
4. Sức khỏe không tốt | ||
5. Không có hứng thú nghe | ||
6. Tốc độ của bài nghe quá nhanh | ||
7. Không gian nghe không yên tĩnh |
Thống kê sau cuộc khảo sát:
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1. Thiếu kinh nghiệm khi nghe. | 72 % | 28% |
2. Không có thói quen nghe thường xuyên. | 61% | 39% |
3. Nghe không hiểu nên sợ nghe. | 53% | 47% |
4. Sức khỏe không tốt | 22% | 78% |
5. Không có hứng thú nghe | 36% | 64% |
6. Tốc độ của bài nghe quá nhanh | 47% | 53% |
7. Không gian nghe không yên tĩnh | 49% | 51% |
– Nguyên nhân chủ quan từ phía học sinh là:
+ 72 % học sinh thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ
nghe là do các em thiếu kinh nghiệm khi nghe
+ 61 % học sinh không có thói quen nghe thường xuyên nên dẫn đến các
em thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe
+ 53 % học sinh nghe không hiểu nên sợ nghe
+ Chỉ có 22 % học sinh ý kiến sức khỏe không tốt
+ 36 % học sinh không có hứng thú nghe
– Nguyên nhân khách quan:
15
+ 47 % học sinh thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ
nghe là do các em thấy tốc độ của bài nghe quá nhanh
+ 49 % học sinh cho rằng không gian nghe không yên tĩnh đã ảnh hưởng
đến việc tập trung nghe của các em.
Từ kết quả khảo sát trên cho thấy:
Do việc thiếu kinh nghiệm khi nghe, không biết cần nghe thông tin chính
là gì và học sinh cố gắng nghe hết mọi thông tin trong bài nghe nên học sinh mất
tập trung khi nghe. Bên cạnh đó, tốc độ của bài nghe quá nhanh đã dẫn đến học
sinh mất tập trung khi nghe, nghe được phần này thì bài nghe đã sang phần khác.
Như vậy học sinh sẽ không nghe được phần khác nữa. Từ đó học sinh sẽ bối rối,
mất tập trung, đến khi tâm trí quay trở lại với bài nghe thì nội dung đã đi quá xa
và học sinh không hiểu đang nghe cái gì, không biết đang nghe đến đâu và không
kiểm soát được điều sẽ nghe. Ngoài ra, học sinh không có thói quen nghe, không
có hứng thú nghe cùng với sức khỏe không tốt và không gian nghe không yên tĩnh
cũng làm các em thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe.
6, Nguyên nhân học sinh không theo kịp tốc độ của người nói
Qua thực tế tìm hiểu tôi thấy được hạn chế trong kỹ năng nghe Tiếng Anh
là do học sinh không theo kịp tốc độ của người nói . Để tìm hiểu rõ nguyên nhân
này tôi đã khảo sát ý kiến của học sinh.
PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 7
PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂNCỦA
VIỆC HỌC SINH KHÔNG THEO KỊP TỐC ĐỘ CỦA NGƯỜI NÓI.
Năm học : 2019 – 2020
Họ và tên học sinh:
Lớp: …..
Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Các em gặp nhiều khó khăn trong việc theo kịp tốc độ của người nói. Những
nguyên nhân gây ra những khó khăn là gì. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của
mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1.Thiếu vốn từ vựng Tiếng Anh cần thiết | ||
2. Thiếu kĩ năng, phương pháp học tập môn học | ||
3. Không nắm chắc quy tắc âm, nghĩa của từ Tiếng Anh |
16
4. Thiếu tập trung khi nghe |
5. Quen với cách phát âm, dùng từ mang sắc thái địa phương( nói chậm, nói ngọng…) |
Thống kê sau cuộc khảo sát là:
Nguyên nhân | Đồng ý | Không đồng ý |
1.Thiếu vốn từ vựng Tiếng Anh cần thiết | 73% | 27% |
2. Thiếu kĩ năng, phương pháp học tập môn học | 57% | 43% |
3. Không nắm chắc quy tắc âm, nghĩa của từ Tiếng Anh | 56% | 44% |
4. Thiếu tập trung khi nghe | 54% | 46% |
5. Quen với cách phát âm, dùng từ mang sắc thái địaphương( nói chậm, nói ngọng…) | 33% | 67% |
Nhìn vào kết quả khảo sát ta thấy:
+ 73% học sinh đồng ý với ý kiến thiếu vốn từ vựng Tiếng Anh là nguyên nhân
dẫn đến việc học sinh gặp khó khăn khi nghe và không theo kịp tốc độ của người
nói.
+ 57% học sinh cho rằng việc thiếu kỹ năng và phương pháp học tập bộ môn
+ 56% học sinh đồng ý với ý kiến việc chưa nắm chắc quy tắc về âm, nghĩa của
từ Tiếng Anh làm các em không theo kịp tốc độ của người nói.
+ 54% thiếu tập trung khi nghe của học sinh cũng là nguyên nhân không nhỏ làm
các em không theo kịp tốc độ của người nói .
+ Một phần nhỏ học sinh quen với cách phát âm, dùng từ mang sắc thái địa
phương( nói chậm, nói ngọng…)
Chính những khó khăn trên đã làm cho học sinh không theo kịp được tốc độ của
người nói và dẫn đến kỹ năng nghe hiểu của học sinh chưa đạt hiệu quả cao.
1.2.3. Nguyên nhân khác.
+ Thị trấn Thịnh Long là khu du lịch với nhiều dịch vụ vui chơi và giải trí thu
hút sự tò mò, mải chơi của học sinh và có thể dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội.
+ Các em chưa có điều kiện được tiếp xúc với người nói Tiếng Anh bản địa nên
các hoạt động của các em còn mang tính gượng ép, chưa tự nhiên đã làm ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động nghe Tiếng Anh của các em. Khi không nghe được
thì các em cũng sẽ không đáp ứng được mục đích giao tiếp. Từ đó sẽ càng ngại
nghe, ngại nói Tiếng Anh.
17
+ Phát âm của học sinh còn bị ảnh hưởng nhiều bởi tiếng Việt đặc biệt là
tiếng địa phương. Sự ảnh hưởng của môi trường sống, của văn hóa vùng miền tác
động không nhỏ tới học sinh.Việc phát âm của người Hải Hậu nói chung, Thịnh
Long nói riêng mang đặc điểm vùng miền khá rõ. Học sinh Thịnh Long bị ảnh
hưởng bởi điều này. Học sinh nói ngọng, nói nặng, âm hay kéo dài cuối câu, phát
âm chưa chuẩn… Đặc biệt học sinh hay nhầm lẫn các âm: /n/ và /l/; /r/ và /d/…
+ Các thiết bị dạy học tuy đã được trang bị nhưng chưa đầy đủ và chưa bố
trí cho các khối, lớp trong tiết học Tiếng Anh.
+ Nhận thức của một số ít phụ huynh về môn học Tiếng Anh còn hạn chế.
Họ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh, chưa tạo điều kiện
cho con em mình học tập Tiếng Anh. Họ chưa quản lý được giờ giấc học tập của
con em ở nhà. Họ quan niệm học Tiếng Việt chưa sõi thì sao học được Tiếng Anh
và dẫn đến việc xem nhẹ môn học.
Vì những lý do trên đã làm học sinh còn nhiều hạn chế trong việc nghe.
Cho nên việc giúp học sinh phát triển kỹ năng nghe là việc cần thiết và cấp bách
đối với người dạy, phù hợp với xu thế chung, đáp ứng được yêu cầu của tình hình
mới và mục tiêu đào tạo của nền giáo dục là tăng cường kỹ năng ứng dụng thực
hành, hoàn thiện kỹ năng nghe- nói – đọc – viết cho học sinh.
Vậy để đạt được mục tiêu và yêu cầu của kỹ năng nghe hiểu Tiếng Anh cho
học sinh lớp 6 cần có sự kết hợp nhịp nhàng từ người dạy, người học và nhiều yếu
tố khách quan khác.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Qua ba năm học triển khai giảng dạy chương trình Tiếng Anh hệ 10 năm
cho lớp 6 tại trường THCS Thịnh Long, tôi thấy để khắc phục những tình trạng
trên và triển khai tốt việc dạy kỹ năng nghe thì giáo viên cần thực hiện tốt các giải
pháp sau:
2.1.Giải pháp thứ nhất: Củng cố và làm giàu thêm vốn từ vựng Tiếng
Anh của học sinh.
Từ vựng được coi là sự bắt đầu của tất cả việc học ngôn ngữ. Từ vựng
quyết định sự thành công của học sinh trong quá trình học tập. Không có từ vựng
thì không có thông tin nào có thể được truyền đạt. (Without vocabulary, nothing
can be conveyed). Từ vựng là nền tảng cho các kỹ năng phát triển ngôn ngữ trong
giao tiếp trong đó có kỹ năng nghe. Nếu có vốn từ vựng đa dạng, phong phú sẽ
giúp học sinh hiểu được nội dung người nói, người viết truyền đạt. Khi hiểu được
nội dung truyền đạt học sinh sẽ biết mình phải làm gì, phải thực hiện những nhiệm
vụ nào để đem lại hiệu quả học tập và từ đó học sinh sẽ phát triển và hoàn thiện
các kỹ năng cơ bản nghe- nói- đọc- viết. Đặc biệt quá trình nghe- nói cuả học sinh
ngày càng thành thạo, trôi chảy. Vì vậy việc củng cố và làm giàu thêm vốn từ
18
vựng Tiếng Anh của học sinh là rất quan trọng. Giáo viên cần định hướng và
khuyến khích học sinh kiên trì, chăm chỉ học từ mới, tìm ra phương pháp học từ
một cách hiệu quả phù hợp với khả năng của từng học sinh. Bác Hồ kính yêu của
chúng ta chính là một tấm gương sáng cho mỗi học sinh với các phương pháp học
nâng cao vốn từ vựng Tiếng Anh rất hiệu quả của Bác. Phương pháp học từ vựng
của Bác đã được cả thế giới biết đến và truyền tụng.
2.1.1.Cần kiên trì học từ mới hằng ngày
Để có vốn từ vựng học sinh phải thường xuyên kiên trì, có tinh thần tự học
và phân bố thời gian hợp lý. Các em không nhất thiết phải học suốt ngày, học suốt
đêm hay lúc nào cũng phải ngồi vào bàn học; mà chỉ cần học mỗi ngày. Có thể là:
sau khi thức dậy, trước khi đi ngủ, trước hoặc sau bữa ăn, trên đường đi học hay
tan học về thậm chí khi làm việc nhà…hoặc bất cứ nơi nào. Học sinh học từ vựng
Tiếng Anh ở lớp, ở trường, ở nhà, ở ngoài đường, ngoài công viên, học với bạn
bè, với thầy cô, anh chị em… Các em cần duy trì việc học từ mới thành một thói
quen. Thói quen học từ mới phải thực hiện như cơm ăn, nước uống hằng ngày.
Học sinh cần kết hợp giữa việc học từ mới với ôn lại những từ đã học. Có
như thế học sinh sẽ nhớ được từ Tiếng Anh lâu hơn, hiệu quả hơn.
Số lượng từ vựng mà học sinh học được mỗi ngày tùy thuộc vào khả năng
trình độ và phương pháp học của mỗi em. Học sinh cần đặt ra mục tiêu về số
lượng từ mới cần học mỗi ngày cho riêng mình và quyết tâm thực hiện
Với việc chăm chỉ, kiên trì, học tập chắc chắn kiến thức từ vựng của học
sinh sẽ ngày càng được củng cố và phong phú hơn.
2.1.2. Có phương pháp học từ vựng hiệu quả.
– Học từ vựng của một ngôn ngữ nói chung hay của Tiếng Anh nói riêng
trước hết là bắt chước làm quen với âm thanh, biết nghĩa của từ và cách sử dụng
của từ đó.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education