SKKN Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề “Tiệc sinh nhật diệu kỳ” theo định hướng giáo dục STEM ở môn Khoa học tự nhiên lớp 8
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong những năm gần đây, thuật ngữ “Giáo dục STEM”, “Dạy học vận
dụng giáo dục STEM” không còn xa lạ đối với các nhà giáo dục nói chung và
giáo viên (GV) phổ thông nói riêng, đặc biệt là đội ngũ GV dạy các môn học
thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên. Là một trong sáu điểm mới của Chương trình
GDPT 2018 (theo Tài liệu tập huấn GV phổ thông cốt cán Mô đun 1 của Bộ
GD&ĐT, 10/2019), giáo dục STEM đã từng bước được vận dụng vào quá trình
dạy – học ở các mức độ khác nhau. Công văn số 3089/BGDĐT-GDTrH V/v triển
khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học ngày 14 tháng 8 năm
2020 của Bộ GD&ĐT cũng nhấn mạnh: “Dạy học các môn khoa học theo bài
học STEM là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà trường trung
học. GV thiết kế các bài học STEM để triển khai trong quá trình dạy học các
môn học thuộc chương trình GDPT theo hướng tiếp cận tích hợp nội môn hoặc
tích hợp liên môn”.
Tuy nhiên qua thực tế tìm hiểu, nghiên cứu về thực tiễn dạy học vận dụng
giáo dục STEM ở một số trường trung học cơ sở (THCS) trên địa bàn tỉnh Nam
Định cũng như tiến hành bồi dưỡng GV THCS về dạy học định hướng giáo dục
STEM ở tỉnh Hưng Yên; qua tiếp xúc trao đổi với nhiều nhà giáo trong các đợt
tham gia hội thảo quốc gia, quốc tế về STEM và giáo dục STEM; chúng tôi
nhận thấy một bộ phận không nhỏ GV phổ thông còn chưa hiểu rõ về giáo dục
STEM nên gặp rất nhiều khó khăn khi vận dụng mô hình này vào quá trình dạy
học, hoặc vận dụng không đúng với tiêu chí của bài học STEM; do đó đội ngũ
cán bộ quản lý và GV của nhiều trường THCS đã bày tỏ nhu cầu được tập huấn,
dự giờ và trao đổi kinh nghiệm về việc thiết kế và tổ chức một bài học STEM cụ
thể, từ đó giúp họ có thể hiểu đúng và thiết kế được các chủ đề dạy học theo sát
các tiêu chí của bài học STEM đối với các môn học thuộc lĩnh vực Khoa học tự
nhiên hiện hành, cũng như chuẩn bị cho dạy học môn Khoa học tự nhiên theo
Chương trình GDPT mới.
4
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu: “Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề Tiệc sinh nhật diệu kỳ theo định hướng giáo dục STEM ở môn Khoa học Tự nhiên lớp 8” nhằm hỗ trợ các GV THCS và những người quan tâm tới nghiên cứu này trong việc vận dụng giáo dục STEM vào dạy học. |
Phần II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Chương trình GDPT 2018 với mục tiêu giáo dục được chuyển đổi từ tiếp cận nội
dung sang tiếp cận phẩm chất, năng lực người học đã đề ra yêu cầu đổi mới
không chỉ nội dung giáo dục mà còn nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp giáo
dục và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng: Áp dụng các phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh,
các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương
pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.
Ở cấp THCS, môn Khoa học tự nhiên được tích hợp từ các phân môn của
chương trình giáo dục THCS hiện hành: Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học
trái đất, thể hiện rõ quan điểm đổi mới giáo dục theo định hướng: Cơ bản, thiết
thực, hiện đại, hài hòa đức – trí – thể – mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến
thức để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống, tích hợp cao ở các lớp học
dưới. Giáo dục STEM với mục tiêu giúp người học áp dụng những kiến thức đã
học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, qua đó phát triển năng lực người học,
trở nên rất phù hợp với chương trình GDPT mới.
Để chuẩn bị cho việc triển khai dạy học theo chương trình GDPT mới, Bộ
GD&ĐT đã chỉ đạo và hướng dẫn các cơ sở giáo dục phổ thông trên cả nước
thực hiện nhiệm vụ trọng tâm theo lộ trình từng năm học, trong đó Công văn số
3089/BGDĐT-GDTrH ban hành tháng 8/2020 nêu rõ yêu cầu đẩy mạnh việc
triển khai thực hiện giáo dục STEM đối với các trường trung học ở mức độ vận
dụng vào dạy học môn học. Điều đó đặt mỗi giáo viên nói chung và giáo viên
5
THCS nói riêng trước nhiệm vụ phải biết cách vận dụng giáo dục STEM vào
việc xây dựng chủ đề bài học theo môn học và tổ chức dạy học với chủ đề đó.
Tuy nhiên từ quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi nhận
thấy dù đã được tập huấn về giáo dục STEM nhưng khi bắt tay áp dụng vào thiết
kế và tổ chức dạy học một chủ đề cụ thể trong môn học, không ít giáo viên còn
gặp rất nhiều khó khăn và có nhiều khúc mắc muốn được giải đáp. Nhiều giờ
dạy của giáo viên ở các trường THCS chúng tôi tham dự còn thể hiện những
quan niệm chưa đúng về bản chất của giáo dục STEM, trong đó phổ biến là:
– Bài học nhất thiết phải hướng tới việc tạo ra một sản phẩm vật chất theo
yêu cầu cho trước, thậm chí là sản phẩm đồng nhất giữa các nhóm HS.
– Sản phẩm phải được hoàn thiện ngay trong buổi học.
– Mục tiêu của bài học là làm được sản phẩm, việc đánh giá chủ yếu là
thông qua sản phẩm cuối cùng chứ không phải quá trình đi tới cái đích cần đạt.
Từ đó dẫn tới hệ quả:
– Các chủ đề bài học đều được xây dựng theo Quy trình kỹ thuật (sử dụng
kiến thức vào việc thiết kế và thực hiện giải pháp).
– GV thường can thiệp vào quá trình HS chế tạo sản phẩm vì lo lắng các
em không biết cách tự làm, không làm đúng theo yêu cầu GV đưa ra, không kịp
hoàn thiện sản phẩm trong buổi học…
– Nếu sản phẩm không hoàn thiện → giờ dạy không đạt yêu cầu → phải
có sự hướng dẫn trước cho HS để bài dạy tròn trịa, HS không sai sót, tuân thủ
theo đúng kịch bản GV đề ra.
Như vậy, từ hệ thống kiến thức lý thuyết được trang bị về giáo dục
STEM, dạy học vận dụng giáo dục STEM tới việc áp dụng vào xây dựng một
chủ đề dạy học cụ thể vẫn còn là bước trở ngại với hầu hết giáo viên các trường
THCS mà chúng tôi tiếp cận. Từ đó chúng tôi nhận thấy cần có sự phối kết hợp
giữa giảng viên trường CĐSP Nam Định (với vai trò đã tham gia nghiên cứu,
biên soạn, thực nghiệm, tập huấn, bồi dưỡng giáo viên, tổng kết thành các báo
cáo khoa học trao đổi trong các Hội thảo, hội nghị các cấp về giáo dục STEM)
với các nhà trường phổ thông trong việc triển khai dạy thực nghiệm, tập huấn
6
cho đội ngũ GV để hỗ trợ họ hiểu và vận dụng tốt giáo dục STEM vào dạy học
môn học theo yêu cầu đặt ra của chương trình GDPT mới.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Một số vấn đề cơ bản về giáo dục STEM và dạy học vận dụng giáo dục
STEM trong môn Khoa học tự nhiên của Chương trình GDPT 2018
* STEM là thuật ngữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology
(Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học), thường được
sử dụng khi bàn đến các chính sách phát triển về Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật
và Toán học của mỗi quốc gia. Sự phát triển về Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật
và Toán học được mô tả bởi chu trình STEM, trong đó Science là quy trình sáng
tạo ra kiến thức khoa học; Engineering là quy trình sử dụng kiến thức khoa học
để thiết kế công nghệ mới nhằm giải quyết các vấn đề; Toán là công cụ được sử
dụng để thu nhận kết quả và chia sẻ kết quả đó với những người khác.
* Giáo dục STEM là mô hình giáo dục dựa trên cách tiếp cận liên môn,
giúp HS áp dụng các kiến thức khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học vào
giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh cụ thể. (Bộ GD&ĐT (2018).
Chương trình giáo dục phổ thông, Chương trình tổng thể).
Mỗi bài học STEM sẽ đề cập và giao cho HS giải quyết một vấn đề tương
đối trọn vẹn, đòi hỏi HS phải huy động kiến thức đã có và tìm tòi, chiếm lĩnh
kiến thức mới để sử dụng. Quá trình đó đòi hỏi HS phải thực hiện theo “Quy
trình khoa học” (để chiếm lĩnh kiến thức mới) và “Quy trình kĩ thuật” để sử dụng
kiến thức đó vào việc thiết kế và thực hiện giải pháp (“công nghệ” mới) để giải
quyết vấn đề. Đây chính là sự tiếp cận liên môn trong giáo dục STEM, dù cho
kiến thức mới mà HS cần phải học để sử dụng trong một bài học STEM cụ thể
có thể chỉ thuộc một môn học.
Các mức độ áp dụng giáo dục STEM trong GDPT:
– Dạy học các môn khoa học theo chủ đề STEM
– Tổ chức các hoạt động trải nghiệm STEM
– Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, kỹ thuật
7
Trong đó, dạy học các môn khoa học theo chủ đề STEM đã được Bộ
GD&ĐT nhấn mạnh là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà
trường. Các bài học, các hoạt động giáo dục STEM được triển khai ngay trong
quá trình dạy học các môn học STEM theo hướng tiếp cận liên môn và bám sát
chương trình của môn học thành phần. Hình thức giáo dục STEM này không
làm phát sinh thêm thời gian học tập.
Mỗi bài học STEM cần phải được xây dựng theo 6 tiêu chí sau:
– Tiêu chí 1: Chủ đề STEM tập trung vào các vấn đề của thực tiễn
– Tiêu chí 2: Cấu trúc chủ đề STEM theo quy trình thiết kế kĩ thuật
– Tiêu chí 3: Phương pháp dạy học chủ đề STEM đưa HS vào hoạt động
tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm.
– Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức chủ đề STEM lôi cuốn HS vào hoạt động
nhóm kiến tạo.
– Tiêu chí 5: Nội dung chủ đề STEM áp dụng chủ yếu từ nội dung khoa
học và toán mà HS đã và đang học.
– Tiêu chí 6: Tiến trình chủ đề STEM tính đến có nhiều đáp án đúng và
coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập.
* Một trong những điểm mới ở cấp THCS của Chương trình GDPT 2018
là tích hợp các môn: Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất thành môn
Khoa học tự nhiên; dựa trên nền tảng Khoa học tự nhiên là một lĩnh vực thống
nhất và ở cấp THCS, HS cần được trang bị các năng lực nhận thức, vận dụng
thực tiễn dựa trên sự thống nhất đó.
Chương trình GDPT 2018 chỉ rõ nền tảng vận dụng giáo dục STEM cụ
thể trong từng phân môn của môn Khoa học tự nhiên. Cụ thể với môn Hóa học
là: Các kiến thức trong Hóa học đều có mối quan hệ hữu cơ với các môn học
khác như: Toán học, Vật lý, Sinh học. Ví dụ: Cấu tạo nguyên tử, phương trình
hóa học, điều chế, thu khí, tính chất vật lý của các chất… có mối quan hệ đến
kiến thức Toán học, Vật lý; các kiến thức về quang hợp, hô hấp, acid, lipit,
gluxit, protein… gắn liền với kiến thức Sinh học. Do đó, việc dạy học Hóa học
bằng phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn là cần thiết.
8
Bên cạnh đó, các kiến thức về phân bón hóa học, ứng dụng của các chất… đều
gắn kết với công nghệ; các bài học có tích hợp giáo dục môi trường như chống ô
nhiễm môi trường nước, hiệu ứng nhà kính, mưa acid, dầu mỏ, nhiên liệu… đều
liên quan đến việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, kinh tế – xã hội. Thông
qua mô hình STEM, HS được học Hóa học trong một chỉnh thể có tích hợp với
Toán học, Công nghệ, Kỹ thuật và các môn khoa học khác; không những thế HS
còn được trải nghiệm, được tương tác với xã hội, với các doanh nghiệp. Từ đó
kích thích được hứng thú, tự tin, chủ động trong học tập của HS; hình thành và
phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù học tập; tạo ra sản phẩm giáo
dục đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực hiện đại.
2.1.2. Thực trạng nhận thức của GV về giáo dục STEM và dạy học các môn học
thuộc lĩnh vực STEM ở một số trường THCS tại thành phố Nam Định
Để tìm hiểu nhận thức về giáo dục STEM của GV THCS và thực tiễn vận
dụng giáo dục STEM trong dạy học ở THCS, chúng tôi đã sử dụng phương pháp
điều tra bằng phiếu điều tra nhanh kết hợp phỏng vấn trực tiếp các cán bộ quản
lí và GV tại một số trường THCS ở thành phố Nam Định. Thời gian điều tra từ
tháng 3/2019 đến tháng 11/2019. Kết quả điều tra cho thấy:
– Các GV đều đã được tập huấn, tìm hiểu về STEM nhưng chưa hiểu rõ
bản chất, mức độ áp dụng, quy trình xây dựng và tổ chức dạy học STEM. Vẫn
có GV cho rằng STEM là phải tạo ra được sản phẩm tái chế hoặc thiết kế robot,
lập trình. Vì vậy, dù một số GV khá hứng thú và mong muốn được thử nghiệm
dạy học STEM trong môn học song vẫn lúng túng chưa biết cần biên soạn, tổ
chức bài học STEM như thế nào cho đúng chuẩn.
– Nhiều GV dù đã thấy được vai trò, ý nghĩa của giáo dục STEM trong
nhà trường song vẫn cho rằng việc vận dụng giáo dục STEM vào dạy học bộ
môn trong chương trình là không khả thi do phải đòi hỏi nhiều điều kiện đi kèm
như cơ sở vật chất hiện đại, chỉ tổ chức được cho nhóm nhỏ HS và là HS khá
giỏi, cần nhiều thời gian tiến hành và chuẩn bị công phu, chưa đồng bộ với việc
đánh giá trong các kì thi.
9
– Đặc biệt, do chưa được tập huấn đầy đủ, chi tiết về STEM và thực
nghiệm cách thức biên soạn, tổ chức bài học STEM nên GV vẫn còn một số ngộ
nhận chưa đúng về giáo dục STEM.
Từ các kết luận rút ra, với vai trò là các giảng viên Hóa học, Sinh học của
trường CĐSP Nam Định, chúng tôi nhận thấy việc thiết kế và tổ chức dạy thực
nghiệm chủ đề định hướng giáo dục STEM theo môn Khoa học tự nhiên nói
chung và Hóa học nói riêng ở trường THCS rất cần thiết trong việc hỗ trợ GV
nhận thức đủ, đúng về giáo dục STEM và có thể vận dụng trong dạy học môn
học hiện hành cũng như môn Khoa học tự nhiên theo Chương trình mới.
2.2. Đề xuất giải pháp thực hiện
2.2.1. Thiết kế chủ đề dạy học “Tiệc sinh nhật diệu kỳ” theo mô hình dạy học
STEM
a. Quy trình thiết kế chủ đề
Hiện nay, có rất nhiều tài liệu tham khảo đề xuất các bước xây dựng chủ
đề giáo dục STEM và các chủ đề giáo dục STEM minh họa như tài liệu [1], [2],
[3], [6]… Bằng việc tham khảo các tài liệu và thực tế vận dụng, thực nghiệm tại
một số trường THCS trên địa bàn tỉnh Nam Định, chúng tôi đã tiến hành xây
dựng các chủ đề STEM trong môn KHTN theo quy trình các bước như sau:
Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học
Việc lựa chọn chủ đề bài học cần xác định các yếu tố sau:
Đối tượng: Chủ đề được xây dựng cần đảm bảo phù hợp với đối tượng
người học và theo sát nội dung, chương trình môn học.
Thời gian: Cần bố trí phù hợp với điều kiện thực tiễn (tránh thời điểm HS
thi hoặc nhà trường có nhiều hoạt động khác; thời lượng phù hợp theo tiết học
hoạc theo buổi, theo tuần…)
Địa điểm: Có thể tổ chức trong giờ học chính khóa (tại lớp học, các phòng
thực hành thí nghiệm, phòng STEM… của nhà trường) hoặc ngoại khóa (tại các
cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các trường đào tạo nghề).
Ngoài ra chủ đề lựa chọn cần dựa trên các căn cứ về:
– Các năng lực cần đạt;
10
– Nội dung kiến thức trong chương trình môn học và các hiện tượng, quá
trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên;
– Quy trình hoặc thiết bị công nghệ có sử dụng kiến thức đó trong thực
tiễn… phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường.
Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết
Dựa trên chủ đề bài học đã chọn, GV xác định vấn đề cần giải quyết để
giao cho HS thực hiện. HS phải được trang bị những kiến thức, kĩ năng trong
chương trình môn học đã được lựa chọn hoặc vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
biết để xây dựng bài học.
Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/ giải pháp giải quyết vấn đề
Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết hoặc sản phẩm cần chế tạo, cần
xác định rõ tiêu chí của giải pháp hoặc sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ
quan trọng để đề xuất giả thuyết khoa học hoặc giải pháp giải quyết vấn đề/thiết
kế mẫu sản phẩm.
Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học
Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học có thể được thiết kế theo quy trình
5E (hoặc mở rộng lên 6E, 7E). Với mô hình dạy học 5E (là mô hình được chúng
tôi áp dụng với chủ đề đã nghiên cứu) có 5 giai đoạn với những đặc điểm chính
như sau:
– Engagement (Gắn kết): Trong giai đoạn đầu của chu kỳ học tập, GV tìm
hiểu nhanh về các kiến thức sẵn có của HS và xác định bất kỳ khoảng trống kiến
thức nào liên quan đến chủ đề bài học. Điều quan trọng là khuyến khích HS
quan tâm đến các khái niệm sắp tới để HS có thể sẵn sàng tìm hiểu. GV có thể
gợi ý HS đặt câu hỏi mở hoặc ghi lại những gì họ đã biết về chủ đề. Thông qua
các hoạt động đa dạng, GV thu hút sự chú ý và quan tâm của HS, tạo không khí
trong lớp học, HS cảm thấy có sự liên hệ và kết nối với những kiến thức hoặc
trải nghiệm trước đó. Giai đoạn này cho phép HS gắn kết, liên hệ lại với các trải
nghiệm và quan sát thực tế mà các em đã có. Trong bước này, các khái niệm
mới cũng sẽ được giới thiệu cho các em.
11
Ví dụ: Cho các HS chơi trò chơi ô chữ, đoán hình, tổ chức trò chơi vận
động, xem một trích đoạn phim ngắn hoặc nghe một bản nhạc có liên quan đến
chủ đề bài học.
– Khảo sát (Exploration): Trong giai đoạn này, HS chủ động khám phá
các khái niệm mới thông qua các trải nghiệm học tập cụ thể. GV cung cấp
những kiến thức hoặc những trải nghiệm mang tính cơ bản, nền tảng, dựa vào đó
các kiến thức mới có thể được bắt đầu. HS sẽ trực tiếp khám phá và thao tác trên
các vật liệu hoặc học cụ đã được chuẩn bị sẵn. GV có thể yêu cầu HS thực hiện
các hoạt động như quan sát, làm thí nghiệm, thiết kế, thu số liệu.
Ví dụ: Cho HS làm thí nghiệm với những vật liệu và dụng cụ có sẵn, HS
làm theo hướng dẫn, hoặc HS được đi thực địa để khảo sát/quan sát về một chủ
đề nào đó.
– Giải thích (Explanation): Ở giai đoạn này, GV sẽ hướng dẫn HS tổng
hợp kiến thức mới và đặt câu hỏi nếu họ cần làm rõ thêm. GV tạo điều kiện cho
HS được trình bày, miêu tả, phân tích các trải nghiệm hoặc quan sát thu nhận
được ở bước khảo sát. GV có thể giới thiệu các thuật ngữ mới, khái niệm mới,
công thức mới, giúp HS kết nối và thấy được sự liên hệ với trải nghiệm trước
đó. Để giai đoạn này hiệu quả, GV nên yêu cầu HS chia sẻ những gì các em đã
học được trong giai đoạn khảo sát trước khi giới thiệu thông tin chi tiết một cách
trực tiếp hơn.
Ví dụ: GV hỏi các nhóm sau khi tiến hành thí nghiệm thấy có hiện tượng
gì xảy ra hoặc thí nghiệm đó có thể trả lời được câu hỏi ban đầu không, hoặc GV
có thể giới thiệu các công thức, khái niệm, sơ đồ mới để hệ thống hóa lại các
kiến thức mà các HS đã khám phá ra ở bước trước đó.
– Củng cố (Elaborate): Giai đoạn này tập trung vào việc tạo cho HS có
được không gian áp dụng những gì đã học được. GV giúp HS thực hành và vận
dụng các kiến thức đã học, giúp HS đào sâu hơn các hiểu biết, khéo léo hơn các
kỹ năng, có thể áp dụng trong những tình huống và hoàn cảnh đa dạng khác
nhau. Điều này giúp các kiến thức trở nên sâu sắc hơn. GV có thể yêu cầu HS
trình bày chi tiết hoặc tiến hành khảo sát bổ sung để củng cố các kỹ năng mới.
12
Giai đoạn này cũng nhằm giúp HS củng cố kiến thức trước khi được đánh giá
qua các bài kiểm tra.
Ví dụ: GV ra bài tập tìm điểm giống và khác nhau giữa các sự vật, hiện
tượng, chơi trò chơi thử thách giúp HS vận dụng ngay các kiến thức.
– Đánh giá (Evaluation): Mô hình 5E cho phép đánh giá chính thức (dưới
dạng các bài kiểm tra) và phi chính thức (dưới dạng những câu hỏi nhanh). GV
có thể quan sát HS thông qua các hoạt động nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn để xem sự
tương tác trong quá trình học. Cần lưu ý là HS tiếp cận các vấn đề theo một cách
khác dựa trên những gì họ học được. Các yếu tố hữu ích khác của giai đoạn
đánh giá bao gồm tự đánh giá, bài tập viết và bài tập trắc nghiệm, hoặc các sản
phẩm. Ở đây, GV sẽ linh hoạt sử dụng các kỹ thuật đánh giá đa dạng để nhận
biết quá trình nhận thức và khả năng của từng HS, từ đó đưa ra các phương
hướng điều chỉnh và hỗ trợ HS phù hợp, giúp HS đạt được các mục tiêu học tập
như đã đề ra.
Ví dụ: GV có thể cho HS làm bài trắc nghiệm nhanh với các thẻ từ khoá
hoặc bài viết tự luận.
Hình 1: Mô hình 5E và mở rộng thành mô hình 7E theo Eisenkraft (2003)
13
b. Thiết kế chủ đề “Tiệc sinh nhật diệu kỳ”
Bước 1: Lựa chọn chủ đề
Chủ đề được biên soạn trong dạy học môn Hóa học lớp 8, tổ chức từ 45 –
60 phút tại lớp học. Chủ đề tập trung phát triển các năng lực: Năng lực nhận
thức khoa học tự nhiên, năng lực tìm hiểu tự nhiên, năng lực thực hành, năng lực
hợp tác.
Chủ đề được thiết kế dựa trên 3 yêu cầu cần đạt của môn Khoa học Tự
nhiên, thuộc chủ đề khoa học “Chất và sự biến đổi của chất”, nội dung
“Chuyển hóa hóa học”, loại nội dung kiến thức “Khái niệm, thuyết và định luật
Khoa học tự nhiên cơ bản”. Ngoài ra chủ đề cũng tích hợp các kiến thức Sinh
học về tác động của enzim trong hệ tiêu hóa nhằm giúp HS hiểu sâu sắc hơn
kiến thức về sự biến đổi hóa học, sinh học của chất trong những hoạt động thân
thuộc xảy ra xung quanh cuộc sống mà cụ thể là trong bữa tiệc sinh nhật. Ngoài
ra khi tham chiếu sang chương trình hiện hành, chủ đề cũng đáp ứng mục tiêu
của môn Hóa học 8 (Bài 12- Sự biến đổi chất) và môn Sinh học 8 (Bài 25 – Tiêu
hóa ở khoang miệng).
* Bảng ma trận của chủ đề
Yêu cầu cần đạt | Thành phần NL KHTN | Phương pháp dạy học | KT dạy học |
Nêu được khái niệm sự biến đổi vật lí và biến đổi hóa học | Nhận thức khoa học tự nhiên | – Dạy học giải quyết vấn đề – Dạy học trực quan: sử dụng mẫu vật thật, video – Vấn đáp: gợi mở, giải thích minh họa, tìm tòi – phát hiện | Tia chớp |
Phân biệt được sự biến đổi vật lí, sự biến đổi hóa học Đưa ra được ví dụ về sự biến đổi vật lí, biến đổi hóa học | Nhận thức khoa học tự nhiên | – Dạy học giải quyết vấn đề – Dạy học trực quan: sử dụng mẫu vật thật – Vấn đáp: gợi mở, giải thích minh họa, tìm tòi – phát hiện | Tia chớp, công não |
14
Tiến hành một số thí nghiệm về biến đổi vật lí, hóa học | Tìm hiểu tự nhiên | – Sử dụng thí nghiệm: làm thí nghiệm về sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa học – Vấn đáp gợi mở | Hỏi đáp |
* Yếu tố STEM trong chủ đề
– S (Khoa học): Các khái niệm hóa học: sự biến đổi vật lí và sự biến đổi
hóa học
– T (Công nghệ): Sử dụng dao, kéo, ống nghiệm, đế sứ, đèn cồn, giá thí
nghiệm, kẹp gỗ, bật lửa, giấy ghi nhãn, nến sinh nhật, bánh kem, bánh mỳ
Balan, thìa inox, cốc nhựa, chai nước.
– E (Kĩ thuật): Thao tác lấy chất, cô cạn, nung nóng chất
– M (Toán học): Tính toán lượng chất làm thí nghiệm, thao tác thí nghiệm
sao cho đạt được kết quả mong muốn.
Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết
Phân biệt được sự biến đổi vật lí (biến đổi về trạng thái, màu sắc, hình
dạng) với sự biến đổi hóa học (biến đổi từ chất này thành chất khác) thông qua
một bữa tiệc sinh nhật.
Bước 3: Xác định tiêu chí của thiết bị/ giải pháp giải quyết vấn đề
Sau khi xác định được vấn đề cần giải quyết GV sẽ thống nhất với HS tiêu
chí đánh giá sản phẩm.
Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức dạy học
Chủ đề được thiết kế theo 5 hoạt động, có thể thực hiện ngay trên lớp học.
Với HS lớp 8 do kĩ năng làm thí nghiệm chưa được thành thục nên khi
xây dựng chủ đề GV cần lựa chọn kiến thức phù hợp với đối tượng HS.
Tiến trình gồm chuỗi các hoạt động sau:
Hoạt động 1: Xác định vấn đề, yêu cầu (Gắn kết)
* Mục đích: HS xác định được nhiệm vụ cần phải hoàn thành là: xác định
rõ sự biến đổi vật lí, sự biến đổi hóa học từ những hiện tượng biến đổi chất trong
thực tế cuộc sống.
15
* Nội dung:
– Tổ chức tiệc sinh nhật cho các bạn sinh vào tháng 11 (tháng dự kiến dạy
học chủ đề)
– Xác định vấn đề của bài học: Phân biệt được sự biến đổi vật lí và hóa
học trong một số hiện tượng của thực tiễn đời sống.
* Dự kiến sản phẩm của HS: Bản liệt kê các hoạt động xảy ra trong tiệc
sinh nhật.
* Cách thức tổ chức hoạt động: GV tổ chức tiệc sinh nhật cho các bạn
trong lớp có sinh nhật vào tháng 11, phát nhạc bài hát Happy Birthday:
https://tinyurl.com/y66dqfx6
– GV cùng cán bộ lớp chuẩn bị trước 1 chiếc bánh kem nhỏ, nến, diêm,
dao/kéo cắt bánh, bánh mỳ (loại ít đường). Các HS sinh nhật trong tháng 11 lên
thực hiện nghi thức sinh nhật như thắp nến, ước, cắt bánh, ăn bánh…
– GV gợi vấn đề: Theo các em buổi học của chúng ta hôm nay có liên
quan đến nội dung gì?
– GV sử dụng kĩ thuật tia chớp, yêu cầu HS trong vòng 1 phút liệt kê tất cả
các hoạt động xảy ra trong quá trình tổ chức tiệc sinh nhật, GV ghi nhanh ra
bảng có chọn lọc 1 số hoạt động thể hiện rõ sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa
học: đốt nến, cắt bánh, ăn bánh, bật lửa…
– GV giới thiệu: Trong các hoạt động trên có xảy ra 2 loại biến đổi là biến
đổi vật lí và biến đổi hóa học. Trong thực tế cuộc sống xung quanh ta cũng xảy
ra rất nhiều 2 loại biến đổi này.
Vậy:
+ Thế nào là sự biến đổi vật lí?
+ Thế nào là sự biến đổi hóa học?
+ Làm thế nào phân biệt được 2 sự biến đổi này trong bữa tiệc sinh
nhật nói riêng và trong cuộc sống nói chung?
16
Hình 2: Tổ chức sinh nhật cho những HS có sinh nhật trong tháng 11
Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất vấn đề cần giải quyết
(Khảo sát)
* Mục đích:
– HS hình thành được kiến thức nền: Khái niệm sự biến đổi vật lí, sự biến
đổi hóa học, phân biệt được 2 khái niệm thông qua làm thí nghiệm nghiên cứu.
– Rèn kĩ năng thực hành thí nghiệm
* Nội dung: HS tìm hiểu về các kiến thức nền liên quan đến sự biến đổi
vật lí và sự biến đổi hóa học thông qua làm thí nghiệm nghiên cứu theo nhóm.
* Dự kiến sản phẩm của HS:
– Hoàn thành phiếu học tập 1, 2
– Tiêu chí đánh giá HS trên phần mềm Class Dojo
* Cách thức tổ chức hoạt động:
– GV chia nhóm HS làm thí nghiệm nghiên cứu về sự biến đổi vật lí và sự
biến đổi hóa học trên phần mềm Class Dojo và thốn
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education