dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học tác phẩm tự sự dân gian trong chương trình Ngữ văn lớp 10

SKKN Vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học tác phẩm tự sự dân gian trong chương trình Ngữ văn lớp 10

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà
trường phổ thông
Đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra đối với tất cả các
ngành học, cấp học của hệ thống giáo dục trong những thập kỉ đầu thế kỉ XXI.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ định
hướng đổi mới giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú
trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học”, “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường
kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội”, từ nội dung nặng tính hàn lâm sang
nội dung có tính thực tiễn cao; từ phương pháp truyền thụ một chiều sang
phương pháp dạy học tích cực; từ hình thức dạy học trên lớp là chủ yếu sang
kết hợp đa dạng các hình thức dạy học trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà
trường, trực tiếp và qua mạng; từ hình thức đánh giá tổng kết là chủ yếu sang
coi trọng đánh giá trên lớp và đánh giá quá trình; từ giáo viên đánh giá học sinh
là chủ yếu sang tăng cường việc học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của
học sinh”,… đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn phát triển
mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất
nước.
Ngày 27/12/2018, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức họp báo
công bố chương trình giáo dục phổ thông mới. Chương trình này được xây
dựng theo định hướng tiếp cận năng lực, phù hợp với xu thế phát triển của các
nước tiên tiến, nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu
quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề
nghiệp; phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Đổi mới phương pháp
dạy học là một giải pháp then chốt, có tính đột phá cho việc thực hiện chương
trình này.
Dựa trên quan điểm chỉ đạo đó, kết hợp với những chuyển biến của dạy
học hiện đại, chúng ta nhận thấy rằng đổi mới phương pháp dạy học là một giải
pháp cơ bản để nâng cao chất lượng nền giáo dục nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động học tập
tự chủ của học sinh (HS), giúp các em phát huy tích cực tính tích cực, sáng tạo,
rèn luyện khả năng tự học. HS là đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ
thể của hoạt động học, đây là điều kiện tiên quyết của một nền giáo dục hiện
đại.
2. Xuất phát từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông
Trong trường phổ thông, Ngữ văn là một môn học có đặc thù riêng vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Trước đây người giáo viên môn
Ngữ văn bằng tài năng sư phạm của mình cố gắng truyền thụ cho học sinh
những cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương bằng các phương pháp truyền
thống như thuyết giảng, đàm thoại thì giờ đây, người giáo viên phải là người
biết thiết kế tổ chức các hoạt động để học sinh có thể tự chiếm lĩnh kiến thức.
Qua đó hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết, bao gồm: Năng lực
chung (Năng lực làm chủ và phát triển bản thân: Tự học, giải quyết vấn đề,
sáng tạo và quản lí bản thân; Năng lực xã hội: năng lực giao tiếp, hợp tác; Năng
lực công cụ: năng lực tính toán, sử dụng ngôn ngữ, ứng dụng công nghệ thông
tin) và năng lực đặc thù bộ môn Ngữ văn (năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp Tiếng
Việt, năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ). Bởi vậy, yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học lại càng trở nên cấp thiết. Định hướng đổi mới yêu
cầu phương pháp dạy học Ngữ văn phải lựa chọn và ứng dụng thích hợp những
giải pháp có lợi ích cao nhất cho bộ môn, cho người học và cho cả người dạy.
Để thực hiện theo quan điểm chỉ đạo và mục tiêu trên, giáo viên phải vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực: cải tiến các phương pháp dạy
học truyền thống; kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học; vận dụng dạy học
giải quyết vấn đề; vận dụng dạy học theo tình huống; sử dụng các kỹ thuật dạy
học phát huy tính tích cực và sáng tạo; chú trọng các phương pháp dạy học đặc
thù bộ môn; bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh, tăng cường
sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học
Trong các phương pháp dạy học tích cực, đóng vai là phương pháp phù
hợp với đặc trưng dạy – học của môn Ngữ văn. Đây là phương pháp tổ chức
cho học sinh thực hành để trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo
một vai giả định. Từ đó giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách
đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ
thể mà các em quan sát được từ vai của mình.
Từ những lí do trên, tôi lựa chọn giải pháp dạy học đóng vai vào khai
thác, áp dụng trong hoạt động dạy học của bản thân, cụ thể hơn là trong quá
trình dạy tác phẩm tự sự – Phần văn học dân gian Việt Nam, chương trình Ngữ
văn 10 (tập 1) vì ưu điểm của phương pháp DHĐV có thể đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục nói chung và phù hợp đặc thù riêng của môn học, bài học.
PHẦN HAI.
MÔ TẢ GIẢI PHÁP
I.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1. Đặc điểm kiểu bài dạy học tác phẩm tự sự dân gian ở trường
THPT
Tác phẩm tự sự là một thể loại văn học có phương thức trình bày một
chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia cuối cùng đi đến một kết thúc,
thể hiện một ý nghĩa. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực đời sống một cách
khách quan bằng cách kể lại sự việc, hiện tượng, con người, …thông qua nhân
vật, cốt truyện bởi một người kể chuyện nào đó. Đây là một thuận lợi rất lớn
đối với phương pháp DHĐV, vì thực chất quá trình đóng vai là hóa thân vào
nhân vật, vào người kể chuyện để thể hiện các sự việc, sự kiện, … nào đó, cuối
cùng rút ra ý nghĩa.
Trong chương trình Ngữ văn THPT, ở lớp 10, tác phẩm tự sự dân gian
Việt Nam chiếm một số lượng lớn. Mỗi một tác phẩm được đưa vào giảng dạy
tiêu biểu cho một thể loại , là tác phẩm đặc sắc trong nền văn học nước nhà,
cho nên dung lượng dài, nội dung nhiều, nghệ thuật độc đáo, (gồm có các tác
phẩm, đoạn trích sau: Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxay (trích “Đăm Săn”-
Sử thi Tây Nguyên; “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy
(Truyền thuyết); Tấm Cám (Truyện cổ tích; “Tam đại con gà” và “Nhưng nó
phải bằng hai mày” (Truyện cười)
Thời gian trên lớp dành cho các tác phẩm tự sự dân gian Việt Nam có
khoảng 7- 8 tiết, và thời gian cho mỗi bài không nhiều, thường là 2 tiết mỗi bài.
Do áp lực về thời gian, kiến thức, về hình thức kiểm tra, đánh giá, GV khi dạy
tác phẩm tự sự vẫn chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp lên lớp, các hình thức
lên lớp còn đơn điệu nên tiết học còn trầm, học sinh còn mang tâm lí chán nản,
thiếu hứng thú, không thích học môn Ngữ văn. GV dạy có tích hợp kỹ năng
sống qua mỗi bài dạy nhưng do hình thức chưa đổi mới nên phần giáo dục kỹ
năng có phần gượng ép, chưa mang lại hiệu quả cao.
Là một nội dung quan trọng trong chương trình Ngữ văn lớp 10, tác phẩm
tự sự dân gian không chỉ là kiến thức trọng tâm của chương trình học, mà còn
là một nội dung quan trọng giúp bồi đắp thái độ, tình cảm, hình thành nhân
cách, rèn luyện kĩ năng cảm thụ, tạo lập văn bản… cho nên để giúp các em hiểu
và nhớ lâu thì đổi mới phương pháp tiếp cận tác phẩm tự sự dân gian là điều
cần thiết.
2. Thực trạng dạy và học theo phương pháp DHĐV
2.1. Về phía giáo viên
Từ trước đến nay, GV đã vận dụng phương pháp DHĐV vào hoạt động
dạy học, hình thức đóng vai chủ yếu mà GV sử dụng là “kịch bản hóa” tác
phẩm tự sự; GV là người cung cấp kịch bản, theo ý đồ của người dạy. HS đóng
vai, tái hiện lại nhân vật trong tác phẩm, từ đó nêu nhận xét về nhân vật đóng
vai. Mặc dù đã có tác động tích cực đến người học, tạo cho HS hứng thú hơn
nhưng xét đến cùng, hình thức đóng vai tái hiện chưa thực sự phát huy hết khả
năng của người học. HS vẫn là đối tượng được truyền đạt kiến thức từ GV,
chưa tích cực, chủ động trong học tập chứ chưa nói đến khả năng sáng tạo; GV
thì làm việc quá nhiều nhưng hiệu quả dạy học chưa cao.
Mức độ sử dụng chưa phổ biến, đa số GV sử dụng trong các tiết hội
giảng, có người dự giờ nhận xét, đánh giá; sử dụng chưa đồng bộ ở một số GV,
ở một số bài học, lớp học, …và mức độ sử dụng phương pháp DHĐV trong tiết
học mới chỉ dừng lại ở việc giúp GV triển khai kiến thức thuận lợi hơn, học
sinh hứng thú hơn trong một số tiết học.
2.2. Về phía học sinh
Theo xu hướng chọn trường, chọn nghề hiện nay, học sinh THPT đa số
chọn môn tự nhiên để học. Các em học môn Ngữ văn với mục tiêu “lấy điểm”,
mà chưa thấy được những giá trị bồi đắp tư tưởng, tình cảm cho mình. Với đặc
điểm bài dài, phải đọc nhiều, chép nhiều, học thuộc nhiều, phương pháp dạy
học chưa sáng tạo là một trong những nguyên nhân dẫn đến thái độ học tập
chưa tích cực ở môn Ngữ văn, nhất là đối với các tác phẩm tự sự.
Đa số HS không đọc tác phẩm, soạn bài một cách đối phó. Thông thường,
các em sử dụng tài liệu, chép lại một cách thụ động, nhiều em còn mượn vở
ghi của anh chị lớp trước hay bạn bè lớp khác đã học rồi chép lại “một công đôi
việc” vừa có soạn bài, vừa để nếu GV có gọi hỏi bài mà nhìn vào đó trả lời.
Tác phẩm tự sự với những đặc trưng cơ bản như: có cốt truyện, có nhân
vật, có người kể chuyện, … là một thuận lợi rất lớn cho phương pháp đóng vai.
Dựa vào những đặc trưng cơ bản đó mà GV đưa ra các hình thức đóng vai phù
hợp. Qua nghiên cứu cơ sở lí luận của phương pháp DHĐV, qua thực tế giảng
dạy tác phẩm tự sự dân gian, tôi xin nêu một số hình thức tổ chức trong DHĐV.
II. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
1. Cơ sở lí luận của phương pháp dạy học đóng vai
1.1.Khái niệm phương pháp DHĐV
“Đóng vai là một phương pháp dạy hoc thực hiện những hành động được
mô phỏng (theo các vai) về một chủ đề gắn với thực tiễn, thường mang tính
chất trò chơi, trong đó các tình huống, các vấn đề hoặc xung đột được thể hiện.
Đóng vai nhằm phát triển năng lực hành động thông qua sự trải nghiệm của
chính bản thân người học và thông qua thông tin phản hồi từ người quan sát”
(Nguyễn Văn Cường- Rend Meier 2014. Lí luận dạy học hiện đại- Cơ sở đổi
mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.NXB Đại học Sư phạm,Tr
142).
Tóm lại, phương pháp đóng vai là phương pháp dạy học mà ở đó mà
người học sẽ hóa thân vào một vai “giả định” trong một tình huống hành động
cụ thể để hành động, trình bày suy nghĩ, cảm nhận từ chỗ đứng, góc nhìn của
vai mà họ đảm nhận.Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK
lớp 10 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006 cũng viết: “Đóng vai là tổ chức
cho người học thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình
huống giả định”. Trong định nghĩa này, các tác giả tiếp cận theo hướng nhấn
mạnh vai trò của người học qua việc thể hiện quan điểm, thái độ, hành vi ứng
xử trước các tình huống được giao; GV nên tạo các tình huống “mở” để người
học tự sáng tạo kịch bản, lời thoại phù hợp với nội dung bài học và kỹ năng của
mình.
Từ trước đến nay, nhiều giáo viên vẫn hiểu PP DHĐV là phương pháp
dạy học đóng kịch. Về phương pháp dạy học đóng kịch, tác giả Phan Trọng
Ngọ, trong cuốn “Dạy học và Phương pháp dạy học trong nhà trường – NXB
Đại học sư phạm Hà Nội, 2005” định nghĩa: “Phương pháp đóng kịch trong dạy
học là GV cung cấp kịch bản, học viên hành động theo các vai diễn. Qua đó,
họ học được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ và hành động cũng như các kỹ năng
ứng xử khác của nhân vật trong kịch bản”. Tác giả PGS.TS Trần Thị Tuyết
Oanh trong cuốn “Giáo dục học – tập 1” cho rằng: “Đóng kịch là phương pháp
dạy học, trong đó, GV tổ chức quá trình dạy học bằng cách xây dựng kịch bản
và thực hiện kịch bản đó nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung học tập”.
Như vậy, các định nghĩa về phương pháp dạy học đóng kịch đều nhấn mạnh
vai trò của người dạy là người tạo ra kịch bản, yêu cầu người học diễn lại vai
diễn đã soạn sẵn trong đó có chứa đựng nội dung dạy học mà GV cần truyền
đạt. Về mặt giống nhau, ta thấy dạy học đóng kịch và dạy học đóng vai đều là
“diễn” một vai khác mình trong một kịch bản có sẵn. Còn khác nhau, trong dạy
học đóng kịch, GV cho trước kịch bản, HS “diễn” theo vai diễn có ý đồ của
người dạy, còn DHĐV, người học chủ động tạo ra kịch bản để “diễn” và hơn
nữa, trong DHĐV, người học có thể vào rất nhiều “vai” khác nhau, không chỉ
sáng tạo vai từ tác phẩm văn học mà có thể vào bất cứ một “vai diễn giả định”
nào trong cuộc sống. Nếu hiểu theo cách hiểu DHĐV là dạy học đóng kịch thì
tôi thấy, thứ nhất thu hẹp ý nghĩa của từ “đóng vai”, thứ hai là GV vẫn đóng
vai trò chủ động trong quá trình dạy học, thứ ba là chưa phát huy được tính tích
cực, chủ động của học sinh, như vậy dạy học đóng kịch là một hình thức của
phương pháp DHĐV.
Còn xét về khái niệm được nêu trong cuốn tài liệu tập huấn của Bộ giáo
dục và Đào tạo, các tác giả định nghĩa phương pháp DHĐV dưới góc độ thực
hành, “làm thử” và không chỉ “làm thử” diễn xuất mà còn “làm thử” vai nhà
biên kịch, “làm thử” vai đạo diễn, … trong những tình huống “giả định”.
Phương pháp này nhằm giúp các em tập trung suy nghĩ về một vấn đề, xem xét
nó trong mối quan hệ với tác phẩm văn học và bản thân, xem xét các cách ứng
xử để lựa chọn cho mình một cách ứng xử phù hợp – tất nhiên là phù hợp với
trình độ hiểu biết, quan điểm của học sinh đó về tình huống đặt ra. Từ đó, giáo
viên có thể nắm được mức độ hiểu bài và hiểu học sinh của mình để có thể đưa
ra những nhận xét, đánh giá, giáo dục phù hợp.
Như vậy, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số nội dung
học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể một văn
bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý một tình huống giao tiếp giả
định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau…
1.2. Quy trình thực hiện phương pháp DHĐV
a. Quy trình chung
Việc thực hiện phương pháp dạy học đóng vai trải qua các bước sau:
Bước 1: Giáo viên lựa chọn tình huống và cung cấp thông tin về vai diễn.
Giáo viên xác định đề tài, lựa chọn các tình huống và các vai. Cần phân
tích những đặc điểm của học sinh và môi trường học để xây dựng tình huống
sao cho sát với thực tế, tạo sự hứng thú và phù hợp với khả năng của học sinh.
Học sinh có thể cùng giáo viên lựa chọn tình huống mô phỏng.
Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm, giao tình huống và yêu cầu đóng vai
cho từng nhóm. Trong đó quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai
cho các nhóm.
Bước 2: Học sinh làm quen và tập đóng vai
Học sinh làm quen với các tình huống và các vai được đảm nhận; Giáo
viên giải thích rõ hơn về các vai cho học sinh. Giáo viên tổ chức cho học sinh
tự phân vai nếu hoạt động theo nhóm, tự chọn vai nếu nhiều vai, chủ yếu dựa
trên nguyên tắc tự nguyện. Học sinh làm quen với vai của mình, có thể sử
dụng thẻ mô tả vai, thảo luận về tính cách, cách thức thể hiện của các vai
Học sinh tập đóng vai
Học sinh (đặc biệt là những học sinh, nhóm học sinh không tham gia
đóng vai được hướng dẫn để xác định các tiêu chí và nhận nhiệm vụ quan sát,
nhận xét, góp ý cho những vai diễn
Bước 3: Học sinh đóng vai
Học sinh diễn vai do mình đảm nhận và những học sinh khác không
trực tiếp tham gia đóng vai sẽ thực hiện việc quan sát.
Bước 4: Giáo viên và học sinh thảo luận, đánh giá và rút ra kết luận
Học sinh tự tách mình ra khỏi vai diễn, tự đánh giá về kết quả trình diễn
của bản thân, về vai diễn và cảm nhận của mình.
Người quan sát nhận xét về tiến trình đóng vai
Toàn lớp thảo luận, đánh giá về hoạt động đóng vai
Rút ra kinh nghiệm, kiến thức, thông điệp từ hoạt động
b. Quy trình cụ thể
*. Đóng vai trực tiếp
Quy trình đóng vai trực tiếp được tiến hành trong cùng một tiết học. Hình
thức đóng vai trong tiết học được tiến hành đan xen với hoạt động lên lớp của
GV.
Các bước tiến hành đơn giản, nhanh và gọn hơn:
Bước 1:
– GV nêu tình huống đóng vai
Bước 2:
– HS tiếp nhận và suy nghĩ
Bước 3:
– Tiến hành đóng vai trước lớp
Bước 4:
– GV điều khiển quá trình nhận xét, đánh giá của HS trong lớp
– GV nhận xét, đánh giá, tổng kết lại kiến thức.
Quy trình này, người dạy vẫn đảm bảo các khâu lên lớp: khởi động, hình
thành kiến thức, luyện tập, vận dụng, mở rộng. GV lựa chọn hình thức đóng
vai trong hoạt động lên lớp thay vì sử dụng các kiểu câu hỏi khác nhau để triển
khai các nội dung bài học. GV đưa ra một tình huống đóng vai cụ thể, HS vào
vai để các em trình bày nội dung, cách hiểu, cách cảm nhận, … về vấn đề được
nêu ra, từ đó, GV định hướng, tổng kết lại yêu cầu cần đạt. Với cách đóng vai
này, GV và HS không mất nhiều thời gian mà vẫn đảm bảo nội dung bài học,
học sinh có hứng thú hơn cách nêu câu hỏi truyền thống. Đây cũng là một hình
thức dạy học “nêu vấn đề”, có khả năng đem lại những kết quả tích cực cho
hoạt động dạy học so với phương pháp dạy học truyền thống. Tuy nhiên, để
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo thì phương pháp này vẫn chưa đáp
ứng yêu cầu giải phóng sức sáng tạo của HS. Một hạn chế nữa của phương pháp
này là lời thoại các nhân vật chưa được trau chuốt do không có nhiều thời gian
chuẩn bị, đa số là tái hiện lại lời thoại từ SGK.
*. Đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà
Đây là quy trình bắt đầu từ cuối tiết học trước, hoặc tiết học đầu tiên của
bài học có nhiều tiết lên lớp. Quy trình cơ bản vẫn gồm ba bước như quy trình
chung, sự khác nhau thể hiện ở mức độ công việc của từng bước. Cụ thể:
– Bước 1: Giáo viên:
+ Chuẩn bị tình huống đóng vai
+ Giao nhiệm vụ đóng vai cho các nhóm;
+ Hướng dẫn HS lựa chọn xây dựng kịch bản phù hợp với chủ đề bài
học;
+ Tạo mối liên hệ giữa GV và HS để liên lạc, chia sẻ thông tin, “tư vấn”
cho HS khi HS gặp khó khăn;
+ Định lượng thời gian cụ thể, xác định mục tiêu kịch bản, …
– Bước 2: Các nhóm tiến hành nhiệm vụ được giao:
+ HS tìm tòi cùng nhau thảo luận để xây dựng kịch bản.
+ Trao đổi lại với GV về nội dung, cách thức tiến hành kịch bản
+ Phân công công việc của từng thành viên một cách khoa học: trưởng
nhóm, thư ký, vai diễn, chuẩn bị đạo cụ, …
+ Tiến hành tập luyện vai diễn theo kịch bản, đảm bảo thời gian quy
định.
Thể hiện kịch bản và vai diễn trước lớp theo yêu cầu của GV.
– Bước 3: Thể hiện kịch bản và vai diễn trước lớp theo yêu cầu của GV.
– Bước 4: Nhận xét, đánh giá:
+ Các nhóm nhận xét vai diễn của nhau, phản biện- giải trình (nếu có)
+ GV nhận xét, đánh giá quá trình chuẩn bị, nội dung kịch bản, kỹ năng
đóng vai, hiệu quả đóng vai, có thể phỏng vấn (chất vấn) các nhân vật, tổng kết
lại nội dung bài học.
1.3. Ưu và nhược điểm của phương pháp dạy học đóng vai
a. Ưu điểm
Qua quá trình vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học môn Ngữ
văn, chúng tôi nhận thấy được những tín hiệu tích cực từ phía học sinh:
– Học sinh được đồng sáng tạo với các tác giả, có cơ hội trải nghiệm
những cảm xúc, suy nghĩ, quan điểm, lối sống của các nhân vật. Từ đó có cái
nhìn toàn diện, sâu sắc, mới mẻ hơn về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật của tác phẩm.
– Học sinh được quyền nêu cảm xúc, bay tỏ thái độ, quan điểm riêng của
bản thân từ góc nhìn của người trẻ ở thời hiện đại.
– Học sinh có cơ hội khai phá và phát huy những năng khiếu mà có thể
bản thân chưa hiểu hết: viết kịch bản, đạo diễn, diễn xuất, thiết kế trang phục,
đạo cụ; góp phần hình thành một số năng lực cho học sinh: hợp tác, sáng tạo,
cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng tiếng Việt…
– Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
Học sinh qua việc trải nghiệm sẽ rút ra những thông điệp va giá trị sống có ý
nghĩa.
– Tạo không khí sôi nổi, sự hứng thú trong các tiết học.
– GV có thể nắm bắt ngay được tác động, hiệu quả giáo dục trong lời nói,
hành động của học sinh qua vai diễn.
– GV có thể quan tâm đối với tất cả các học sinh, nhất là với những HS
nhút nhát, thiếu tự tin. Giúp các em có cơ hội thể hiện bản thân, mạnh dạn, tự
tin thể hiện mình trước tập thể lớp, từ đó giúp các em hòa nhập tích cực khi
đứng trước một tập thể lớn hơn.
b. Nhược điểm
– Phương pháp này đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo, công phu (trừ một số
tình huống giao tiếp giả định bất ngờ trên lớp), học sinh cần dành nhiều thời
gian và đầu tư trang phục để có thể cho ra những sản phẩm chất lượng.
– Sự thành công của tiết học phụ thuộc nhiều vào khả năng “diễn xuất”
của học sinh. Đối với học sinh rụt rè, nhút nhát thì khả năng thành công
không cao.
– Thường “kén” học sinh hơn các phương pháp truyền thống vì phương
pháp này đòi hỏi người học chủ động, tích cực và có “khiếu” diễn xuất nữa.
1.4. Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp đóng vai
– Phương pháp đóng vai không khuyến khích sử dụng trong tất cả các
khâu lên lớp, tất cả nội dung bài học, GV chỉ nên chọn nội dung phù hợp để
đóng vai tránh lặp lại nhàm chán.
– Trong quá trình lên lớp, cần kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy
học tích cực khác để tăng hiệu quả của hoạt động dạy học.
– Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với
lứa tuổi, trình độ HS và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
– Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho
phép
– Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù
hợp; không cho trước “kịch bản”, lời thoại.
– Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai
– Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên theo sát quá
trình thực hiện nhiệm vụ của HS, lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết
– Nên khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.
– Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của hình thức
đóng vai.
– Tuy nhiên, đóng vai không phải là sự chuyển hóa một cách tuyệt đối,
học sinh có thể mang vào đó những cách cảm, cách nghĩ, cách ứng xử của riêng
mình trên cơ sở tôn trọng ý nghĩa khách quan của tác phẩm và ý đồ chủ quan
của nhà văn. Đây chính là tiền đề để học sinh phát huy được khả năng “đồng
sáng tạo” của mình.
2.Vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học tác phẩm tự sự dân
gian trong chương trình Ngữ văn 10
2.1. Một số hình thức đóng vai trong dạy học tác phẩm tự sự dân
gian ở trường THPT được vận dụng
a. Đóng vai nhân vật
– Đóng vai nhân vật có các hình thức:
*. Đóng vai tái hiện
– Đây là hình thức tổ chức cho học sinh đóng vai các nhân vật trong tác
phẩm tự sự. Thay vì cho các em đọc tác phẩm, GV có thể phân vai, cho HS có
thời gian chuẩn bị, sau đó tái hiện lại nhân vật trong SGK. Ở hình thức đóng
vai này, HS có thể kết hợp ngôn ngữ, điệu bộ, … để trình bày con người, về
hoàn cảnh, sự kiện, … bằng suy nghĩ chủ quan của người trong cuộc. Kiểu đóng
vai tái hiện này GV, HS không cần thời gian chuẩn bị nhiều, có thể đóng vai
trực tiếp trong giờ học, đặc biệt thuận lợi trong hoạt động hình thành kiến thức
mới. Tuy nhiên, GV không nên sử dụng kiểu đóng vai tái hiện trong một lượng
thời gian quá dài hoặc lượng kiến thức nhiều vì rất dễ gây nhàm chán. Để tăng
hiệu quả của phương pháp đóng vai nhân vật tái hiện, một nhân vật nhưng có
thể cho nhiều nhóm đóng vai theo từng sự việc (từng nội dung) theo bố cục bài
dạy.
– Ví dụ:
+ Đóng vai Đăm Săn, tái hiện chiến thắng Mtao Mxây.
GV chia lớp thành 3 nhóm, phân công mỗi nhóm thực hiện một giai đoạn:
Nhóm 1: Trận đánh
Nhóm 2: Kêu gọi dân làng Mtao Mxây
Nhóm 3: Lễ mừng chiến thắng
+ Đóng vai nhân vật Mị Châu kể lại chuyện An Dương Vương xây thành,
chế nỏ bảo vệ đất nước và bi kịch nước mất nhà tan
GV có thể chia lớp thành 2 nhóm, đóng vai Mị Châu để trình bày lại các
sự việc, suy nghĩ của nhân vật
Nhóm 1: Lúc An Dương Vương xây thành, chế nỏ bảo vệ đất nước
Nhóm 2: Bi kịch mất nước
+ Đóng vai nhân vật cô Tấm, tái hiện lại câu chuyện cuộc đời mình…
– Ưu điểm của phương pháp này là giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu
hơn vì muốn “diễn” được, học sinh phải đọc kĩ, nắm được các tình tiết, sự kiện
và cả diễn biến tâm lí nhân vật trong SGK, thậm chí, nếu có thời gian, các em
còn có thể học thuộc lời thoại. Thêm vào đó là quá trình sáng tạo kịch bản
không mất nhiều thời gian vì thực chất chỉ là “kịch bản hóa” tác phẩm tự sự.
– Nhược điểm của phương pháp này là không phát huy được tính sáng
tạo của người học vì hầu hết kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa; tiết học đôi
khi nhàm chán, chưa thực sự tạo cho các em một sân khấu mà ở đó các em có
thể thể hiện hết mình.
*. Đóng vai suy luận
– Đây là hình thức người học đặt mình vào vị trí nhân vật để hình dung
thái độ, phản ứng, hành động, … trước các sự việc, tình huống nào đó. Về bản
chất, hình thức đóng vai này bao hàm cả cái các em đã biết (trong tác phẩm) và
cái chưa biết (từ tác phẩm, HS sáng tạo cách ứng xử mới). Hình thức đóng vai
này có sự chuẩn bị chu đáo hơn từ kịch bản, lời thoại, hành động, nhân vật,
…được xây dựng, phát triển từ nội dung trong tác phẩm tự sự, kết hợp suy luận,
sáng tạo ra những cách ứng xử mới. Dạng thức “nêu vấn đề” đóng vai của GV
thường đặt ra dưới dạng câu hỏi “nêu vấn đề” như: Nếu em là nhân vật A, em
sẽ hành động như thế nào trong hoàn cảnh đó? Vì sao lại thế? Chẳng hạn như:
+ Nếu em là Mị Châu,em có hành động như vậy không? Em sẽ làm thế
nào?
+ Nếu em là An Dương Vương, em sẽ làm gì khi nghe lời kết tội của Rùa
Vàng đối với Mị Châu? Vì sao?
+ Nếu là An Dương Vương, hoặc Mị Châu, hay Trọng Thuỷ, em sẽ làm
gì để bù đắp những lỗi lầm trong quá khứ?
+ Nếu là Lí trưởng, em sẽ xử kiện thế nào? Tại sao?
– Ưu điểm của phương pháp này là học sinh được đặt vào các tình huống
“có vấn đề”, kích thích sự tìm tòi, giải quyết vấn đề bằng hiểu biết cá nhân.
Hình thức này thường tạo cho học sinh hứng thú bởi luôn phải suy nghĩ, tìm
tòi, sáng tạo. GV có điều kiện để hiểu HS của mình hơn, dễ uốn nắn những kỹ
năng xử lý tình huống, phần nào giúp các em định hình được cảm xúc, hành vi
của mình trong thực tiễn. Đây là hình thức mà GV có thể tích hợp giáo dục kỹ
năng sống, kỹ năng làm văn nghị luận xã hội về một vấn đề xã hội đặt ra trong
tác phẩm.
– Nhược điểm của phương pháp này là: Phải có thời gian cho HS chuẩn
bị, do đó GV rất dễ “cháy giáo án”. Đối với HS trung bình, yếu rất khó để tổ
chức phương pháp đóng vai suy luận này, và nếu có sử dụng thì cũng khó đạt
kết quả như mong muốn vì nó đòi hỏi suy luận hợp lý, sáng tạo.
b. Đóng vai người kể chuyện
– Tác phẩm tự sự nào cũng có người kể chuyện. Người kể chuyện trong
các tác phẩm tự sự xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Có khi xưng
“tôi” với tư cách tác giả; có khi xưng “tôi” với tư cách là nhân vật trong truyện;
Thường thấy nhất là giọng trần thuật của một người nào đó không xuất đầu lộ
diện nhưng người đọc vẫn thấy được tư tưởng, tình cảm, thái độ đối với nhân
vật trong truyện. Các tác phẩm tự sự dân gian thường sử dụng hình thức kể
chuyện này. Người kể ở đây chính là tác giả dân gian, theo cái nhìn, quan điểm
của nhân dân. Do đó, đóng vai người kể chuyện là hình thức cho học sinh đóng
vai tác giả, sáng tạo lời nói, suy nghĩ, hành động của nhân vật theo quan điểm
của cá nhân. Hình thức đóng vai này thường định dạng kiểu như: “Nếu em là
tác giả, em sẽ (hãy), …” hoặc “Hóa thân vào tác giả, lí giải vì sao lại để cho
nhân vật hành động như vậy?”
Ví dụ:
+ Nếu em là tác giả, em sẽ cho kết thúc tác phẩm “Tấm Cám” như thế
nào? (Lí giải vì sao lại kết thúc như thế)
+ Hóa thân vào tác giả dân gian, hãy viết tiếp câu chuyện về Mị Châu và
Trọng Thuỷ.
+ Em thích hay không thích chi tiết nào trong tác phẩm? Nếu là tác giả,
em sẽ sửa lại câu chuyện như thế nào?
– Ưu điểm của phương pháp này: Học sinh rất tích cực, chủ động, hứng
thú vì các em được trải nghiệm nhiều hơn, khi vào vai nhà văn, HS sẽ thỏa sức
sáng tạo theo trí tưởng tượng của mình. Đối với hình thức hóa thân này, giờ
học không chỉ sinh động mà không khí lớp học rất vui vẻ, hiệu quả. Đây là một
hình thức tổ chức dạy học không chỉ góp phần tích cực vào củng cố kiến thức
mà còn phát huy được khả năng sáng tạo của người học, vốn sống, vốn hiểu
biết của các em sẽ bộc lộ qua cách các em hóa thân vào nhà văn sáng tạo nghệ
thuật, GV nắm bắt tình hình dạy học thuận lợi hơn.
– Nhược điểm: HS muốn sáng tạo được thì phải nắm được ý nghĩa của
sự việc, hiện tượng, tình huống, …trong SGK, từ đó mới thấy được cái hay, cái
hạn chế của tình huống, sự việc, … để sáng tạo cho phù hợp.
c. Đóng vai “giả định”
– Đóng vai “giả định” cũng là một hình thức nhập vai, hóa thân nhưng
không phải thành nhân vật hay nhà văn mà là một nhân vật khác do người dạy
hoặc người học sáng tạo ra từ nội dung bài học.
– Đây là hình thức vận dụng hình thức đóng vai theo chủ đề trong dạy
học mầm non như: đóng vai một thành viên trong gia đình: mẹ – con, bà – cháu,
hay bác sĩ khám bệnh, công an giao thông, người bán hàng, mua hàng, …Vai
trò của hình thức đóng vai này “là loại trò chơi trong đó trẻ đóng một vai chơi
cụ thể để tái tạo lại những ấn tượng, những cảm xúc mà trẻ thu nhận được từ
một môi trường xã hội của người lớn nhờ sự tham gia tích cực của trí tưởng
tượng”
(“Giáo dục mầm non”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội- Phạm Thị
Châu). Từ hình thức trò chơi đóng vai theo chủ đề trong giáo dục mầm non, kết
hợp với những hiểu biết của học sinh về xã hội, về tác phẩm tự sự, người dạy
có thể tạo ra các vai diễn “giả định” hoặc gợi ý để học sinh sáng tạo ra các vai
diễn “giả định” trong một tình huống “giả định” – để học sinh tự tiếp cận nội
dung tác phẩm tự sự. Hình thức này tiệm cận gần hơn với định nghĩa DHĐV
của Bộ Giáo dục và Đào tạo “Đóng vai là tổ chức cho người học thực hành,
“làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định”.Từ đó,
học sinh có
thể trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau
– Ví dụ:
Khi dạy tác phẩm “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ”,
GV đưa ra một tình huống “giả định”: phiên toà đặc biệt (được lập ra để xét
xử các nhân vật An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thuỷ vì có ý kiến cho rằng
các nhân vật này vừa xứng đáng dược trân trọng, tôn thờ nhưng cũng đáng bị
kết tội vì những việc làm khi còn sống. )
Dự kiến các nhân vật giả định:
Hội đồng xét xử gồm có: Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa; Hội thẩm nhân dân
Thư ký phiên tòa
Bị cáo/ bị hại
Luật sư bào chữa cho bị cáo/bị hại
Người đại diện theo pháp luật của bị cáo/ bị hại
HS dựa vào các gợi ý về “tình huống giả định”, các “vai giả định”, GV
giao nhiệm vụ cho các nhóm về nhà chuẩn bị kịch bản, tư vấn HS nội dung,
tiến hành chỉnh sửa và tập luyện, đúng thời gian quy định trình bày “PHIÊN
TÒA ĐẶC BIỆT”, kết quả phải đưa ra được một kết luận hợp lý, hợp tình.
Với tình huống này, GV có thể sử dụng khi dạy tác phẩm “Tấm Cám”:
Xét xử mẹ con Cám, hoặc khi dạy đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”
có thể xét xử Mtao,Mxây
– Đặc điểm của phương pháp đóng vai “giả định” là kiểu đóng vai ứng
dụng. Đây là hình thức đóng vai hoàn toàn sáng tạo của học sinh, trong đó
người học tạo ra kịch bản, không chỉ dựa vào tác phẩm tự sự mà còn dựa vào
những tình huống đã gặp, những con người đã gặp, những hành vi đã thấy, …
trong cuộc sống tương đồng với tác phẩm văn học, để từ đó sáng tạo kịch bản
“giả định”, những vai diễn “giả định” để chủ động tiếp cận nội dung bài học,
rút ra bài học ứng xử cho bản thân khi gặp những tình huống tương tự.
– Ưu điểm của hình thức đóng vai “giả định” này: Tổng hợp được ưu
điểm của nhiều hình thức đóng vai khác nhau, có thể phát huy cùng một lúc ưu
điểm của phương pháp đóng vai tái hiện (ghi nhớ kiến thức), đóng vai suy luận
(từ cái đã biết sáng tạo cái chưa biết) và đóng vai ứng dụng (sáng tạo cái mới
trong tình huống mới); phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh, phát hiện được những khả năng tiềm ẩn ở mỗi học sinh, đưa tác phẩm văn
học gắn liền hơn với cuộc sống, giúp các em hiểu được học văn không chỉ để
“lấy điểm” mà quan trọng hơn là “học làm người” qua việc tự điều chỉnh tình
cảm, thái độ, hành vi , …trong cuộc sống. Với hình thức đóng vai này, GV có
thể hình thành cho học sinh rất nhiều năng lực: Năng lực giao tiếp; Năng lực
sáng tạo; Năng lực hợp tác và đảm nhận trách nhiệm.; Năng lực tự quản lý thời
gian; Rèn luyện và phát triển năng lực giải quyết vấn đề.; Hình thành và phát
triển năng lực tự học; Năng lực cảm thụ văn học; Năng lực trình diễn, hóa thân,
…không chỉ phù hợp với quan điểm đổi mới phương pháp dạy học mà còn phù
hợp với xu hướng “Trả tác phẩm về cho học sinh”, đem đến sân chơi bổ ích
cho HS qua hình thức “chơi mà học, học mà chơi”, …
+ Có người nói: nếu giao quyền cho học sinh hết thì GV làm gì?
+ Thực ra, HS càng chủ động, sáng tạo thì vai trò của GV càng quan
trọng. Không chủ động truyền đạt kiến thức cho HS theo cách dạy truyền thống,
không cầm tay chỉ việc, … nhưng GV chính là người chủ động trong mọi hoạt
động của HS, từ việc đặt các em vào “tình huống có vấn đề”, đến định hướng
mục tiêu hành động cho học sinh; đến “chuyên gia” – cố vấn; đến người đồng
hành cùng HS trên con đường đi tìm chân lí.
– Nhược điểm của phương pháp này là “kén” HS – có nghĩa là không
phải mọi đối tượng HS đều có thể tham gia và đáp ứng yêu cầu sáng tạo của
phương pháp. Đối tượng HS trung bình, yếu rất khó để áp dụng. Thêm nữa, GV
sử dụng phương pháp này không khéo thường có kết quả ngược, vì để cho HS
sáng tạo mà không theo sát các em thì rất dễ xa đề, lạc đề, … và như vậy, lại
tạo thêm nhiều áp lực cho GV trong quá trình nhận xét và tổng kết lại nội dung
bài học; phương pháp này đòi hỏi GV và HS mất nhiều thời gian chuẩn bị và
tài chính hơn cách dạy truyền thống nhưng bù lại, những bài học các em thu
nhận được thì không phải bao nhiêu tiền cũng mua được.
Trên đây là một số hình thức DHĐV mà GV có thể sử dụng trong quá
trình dạy học tác phẩm tự sự ở trường THPT. GV khi sử dụng phương pháp
DHĐV, tùy vào từng tác phẩm cụ thể, tùy vào đặc điểm học sinh từng lớp, từng
trường, tùy vào lượng thời gian, điều kiện cụ thể mà lựa chọn hình thức đóng
vai cho phù hợp. Không nên sử dụng một hình thức đóng vai cho nhiều tác
phẩm cùng một lúc, không dùng một phương pháp DHĐV trong tất cả nội dung
bài học sẽ gây nhàm chán, thậm chí, HS làm việc nhiều quá sẽ nảy sinh tâm lí
“sợ môn văn”, mà nên kết hợp luân phiên các phương pháp DHĐV qua từng
tác phẩm, chỉ nên chọn nội dung phù hợp nhất để đóng vai, như vậy hiệu quả
của phương pháp DHĐV mới phát huy được.
2.2. Vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học tác phẩm “Truyện
An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ”
a. Cơ sở áp dụng phương pháp DHĐV
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ” là văn bản tự sự
thuộc thể loại truyền thuyết, được xây dựng trên cơ sở sự thật lịch sử kết hợp
với các yếu tố hoang đường, kì ảo. Điểm cốt lõi của tác phẩm là phản ánh
những xung đột, những kịch tính, các nhân vật đều chứa những mâu thuẫn, dẫn
đến những quan điểm trái chiều trong cách nhìn nhận, đánh giá. Đây chính là
điều kiện lí tưởng để áp dụng phương pháp đóng vai ở hình thức đóng vai giả định.
b. Quy trình sử dụng phương pháp DHĐV
Bước 1
– GV chuẩn bị tình huống đóng vai giả định: Một phiên toà đặc biệt được
lập ra nhằm xét xử nhân vật Mị Châu và Trọng Thuỷ vì những tội lỗi mà họ đã
gây ra trong quá khứ.
-Chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm:
+ Nhóm 1: Tìm hiểu nhân vật Mị Châu, thực hiện nhiệm vụ xét xử Mị
Châu, bao gồm kết tội, bào chữa cho nhân vật
+ Nhóm 2: Tìm hiểu nhân vật Trọng Thuỷ, thực hiện nhiệm vụ xét xử
Trọng Thủy, bao gồm kết tội, bào chữa cho nhân vật
– Lập địa chỉ liên lạc giữa GV và HS để trao đổi thông tin, “cố vấn” cho
HS khi cần thiết.
-Thời gian chuẩn bị: một tuần;
-Thời gian báo cáo: nhóm 1 không quá 20 phút; nhóm 2 không quá 10 phút
– Hướng dẫn:
+ Yêu cầu:
Đọc kĩ văn bản, tìm hiểu chi tiết từng nhân vật, có cách nhìn nhận, đánh
giá xác đáng về từng nhân vật
Tìm hiểu hình thức một phiên toà
+ Hướng dẫn học sinh đóng vai:
Mỗi nhóm chuẩn bị:
Vai nhân vật: Mị Châu và Trọng Thuỷ cũng là bị cáo
Luật sư: có nhiệm vụ đưa ra những lí lẽ, lập luận bào chữa cho các bị cáo
Công tố : đọc lời kết tội
Thư kí
Bồi thẩm đoàn
Chủ toạ..
Bước 2: Các nhóm tiến hành nhiệm vụ được giao
– Thảo luận xây dựng kịch bản
– Phân công nhiệm vụ của từng thành viên một cách khoa học: trưởng
nhóm, thư ký, vai diễn, chuẩn bị đạo cụ, , …
-Tiến hành tập luyện vai diễn theo kịch bản, đảm bảo thời gian quy
định.
Bước 3: Đóng vai
-Học sinh thể hiện kịch bản và vai diễn trước lớp đúng theo yêu cầu của GV.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá
– Các nhóm nhận xét vai diễn của nhau, phản biện- giải trình (nếu có);
tiến hành cho điểm đánh giá theo phiếu đánh giá GV đã chuẩn bị.
– GV nhận xét, đánh giá quá trình chuẩn bị, kỹ năng đóng vai, hiệu quả
đóng vai, có thể phỏng vấn (chất vấn) các vai diễn, tổng kết lại nội dung bài
học.
c. Thiết kế thể nghiệm phương pháp DHĐV qua tác phẩm “Truyện
An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ”
– Kế hoạch dạy học tác phẩm “Truyện An Dương Vương và Mị
Châu, Trọng Thuỷ”:

Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ
Tiết 1
(KHDH:
10)
Nội dung:
– Tìm hiểu phần tiểu dẫn
– Đọc hiểu văn bản: tìm hiểu nhân vật An Dương Vương
Giao nhiệm vụ
Tiết 2
(KHDH:
11)
Nội dung:
– Đọc hiểu văn bản: + Tìm hiểu nhân vật Mị Châu, Trọng Thuỷ
Tiết 3
(KHDH:
12)
Nội dung:
– Đọc hiểu văn bản: + Tìm hiểu hình tượng nghệ thuật ngọc
trai- giếng nước
+ Tổng kết
+ Luyện tập

Thiết kế thể nghiệm phương pháp DHĐV tác phẩm
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ” tiết 2
(KHDH: 11)
Tiết: 11
Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ
( Truyền thuyết )
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC.
1. Kiến thức:
– Hiểu được Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy là một
cách giải thích bằng trí tưởng tượng của dân gian về nguyên nhân của việc
mất nước Âu Lạc nhằm nêu lên bài học lịch sử về việc dựng nước và giữ
nước.
– Thấy được đặc trưng cơ bản của truyền thuyết: Sự kết hợp hài hòa
giữa “cốt lõi lịch sử“ với tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật của dân gian
– Bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đứng
đắn mqh giữa riêng với chung, nhà với nước, cá nhân với cộng đồng
2. Kĩ năng:
– Kĩ năng đọc hiểu tác phẩm truyện truyền thuyết theo đặc trưng thể loại
– Rèn luyện kỹ năng diễn xuất, bày tỏ thái độ, nêu ý kiến, quan điểm, ….
– Phát triển kỹ năng làm việc nhóm
– Rèn luyện phẩm chất tự tin, chủ động, sáng tạo cho học sinh.
3. Thái độ:
– Giúp các em yêu thích môn học, có hứng thú với các hoạt động trải
nghiệm ở bộ môn Ngữ văn

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *