Cuộc sống hàng ngày có muôn màu sắc để con khám phá, nhưng không phải đứa trẻ nào cũng biết cách cảm nhận. Đôi khi vì quá bận rộn, mệt mỏi với công việc, cha mẹ cũng bỏ quên những khoảnh khắc để trải nghiệm cùng con.
Do đó, việc đầu tiên cần làm chính là hướng dẫn con cách quan sát những điều diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Cảnh vật, âm thanh, những rung động tuổi mới lớn, tình bạn, áp lực học tập, các mối quan hệ trong gia đình… đều là những tư liệu đáng giá vun đắp tâm hồn cho con.
Cho con đọc sách ngay từ nhỏ
Đọc truyện là một trong những cách tốt nhất giúp bé học tốt môn tập làm văn. Bởi trong truyện thường có ngôn ngữ đa dạng. Thông qua đó, các bé có thể tiếp cận và học thêm được nhiều từ mới và áp dụng trong từng hoàn cảnh và bài viết khác nhau.
Do đó, để con học tốt văn, diễn đạt giàu hình cảnh, cảm xúc, cha mẹ cần giúp con mở rộng vốn từ. Ngay từ nhỏ, cha mẹ hãy rèn luyện cho con thói quen đọc sách. Bắt đầu từ việc đọc sách cho con nghe khi con còn nhỏ, đến việc yêu cầu con dành ra 30 phút mỗi ngày khi con bắt đầu biết đọc.
Cha mẹ hãy cho con đọc nhiều loại sách khác nhau, từ Văn học, Nghệ thuật, Lịch sử đến sách Khoa học, Phát triển kỹ năng,… Ngoài ra, cần hạn chế cho con đọc truyện tranh. Cô Thu cũng nói thêm: “Truyện tranh thường sử dụng ngôn ngữ nói, ngôn ngữ tối giản, nên không thể giúp trẻ mở rộng vốn từ”. Do đó, cha mẹ hãy trang bị cho con những cuốn truyện chữ, phù hợp với lứa tuổi và thị hiếu của những đứa trẻ.
Thường xuyên trò chuyện với con
Trò chuyện với con để thúc đẩy khả năng ngôn ngữ. Đối với những sinh hoạt của cuộc sống hàng ngày, chắc chắn bố mẹ và con sẽ cùng đi đến đâu đó, sau những khoảng thời gian như thế, bố mẹ hãy cùng con kể về những thứ mình đã thấy.
Lúc đi chợ con người có gì khác, các bạn ở trên lớp lại như thế nào, các ông/bà ở công viên thì ra sao? Những người cùng đi du lịch thì cảm nhận được tâm trạng thế nào? Hãy cùng con thi kể về những thứ mình đã nhìn thấy xem ai quan sát nhiều hơn. Các chủ đề về thiên nhiên, cây cối, con người,… là những chủ đề muôn thủa bố mẹ không khai thác hết. Sau cùng, hỏi con về điều gì gây ấn tượng nhất với con theo chủ đề đó (cảm xúc yêu thích hoặc ngược lại), vì sao con lại cảm thấy thế?
Việc trò chuyện với con thường xuyên không chỉ làm khăng khít hơn tình cảm của con cái với bố mẹ, mà còn từ đó giúp con có cái nhìn rộng mở về thế giới xung quanh. Nhận ra được sự khác biệt phong phú của môi trường sống là tiền đề giúp con hoc tốt môn văn.
Thay đổi nhiều cách thức nói chuyện với con, mẹ – con, bạn – con ( cách nói như một người bạn của con, để con bớt đi khoảng cách, cũng như thoải mái kể cho mẹ nghe).
Thường xuyên nói chuyện, và cung cấp thêm cho con các vốn từ. Thay vì nói chuyện thường ngày, các bà mẹ cũng nên đọc thêm sách, để dùng các từ trong văn học. Cách nói chuyện gãy gọn, sinh động, để con có thể nhiều vốn từ mới.
Cho trẻ viết những gì trẻ muốn
Sau khi hướng dẫn con cách quan sát, bố mẹ hãy yêu cầu con ghi chép lại những thứ con thấy và cảm xúc con đã có, có thể cho con ghi nhật ký. Bố mẹ cũng nên ghi chép vào sổ tay của mình, việc thi đua và có sự so sánh sẽ giúp con hứng khởi hơn rất nhiều so với việc làm mọi thứ một mình.
Trong quá trình ghi chép, bố mẹ nên khuyến khích con cảm nhận tổng thể, không chỉ hướng đến những thứ con nhìn thấy mà cả những thứ con cảm nhận thấy thông qua khứu giác/thính giác/xúc giác/vị giác.
Hướng dẫn con cách “ghi chép lại” những điều đã nhìn thấy. Không cần ép con phải viết quá nhiều, cha mẹ chỉ nên yêu cầu con dành khoảng 5 – 10 phút để viết về những điều đơn giản như: những việc con đã làm trong ngày hôm nay, kể về một chuyện đã diễn ra ở trường, viết về điều mà con thấy vui nhất trong ngày,…
Bên cạnh đó, bố mẹ cũng có thể cho con viết về điều mà con học được sau khi đọc một cuốn sách. Tuy nhiên, nếu con không có năng khiếu viết văn, thì bố mẹ tuyệt đối không được ép con. Điều này sẽ vô hình trung tạo ra áp lực cho trẻ, không những không giúp con tiến bộ, mà còn càng khiến con xa lánh với việc viết lách và học Văn.
Cùng con chụp ảnh quay phim
Các con sẽ rất thích thú nếu được bố mẹ hướng dẫn cách quay phim, chụp ảnh, vì vậy, bố mẹ hãy để con cầm máy, bởi vì đây là một cách con lưu giữ tư liệu đồng thời thể hiện sự quan sát và cái nhìn của con về cuộc sống.
Phụ huynh hẳn sẽ rất ngạc nhiên trước những gì con thấy, cũng là chụp cảnh đoạn đường từ nhà đến trường lúc chiều về, có bạn thích chụp những cửa hàng đèn điện sáng choang, có những bé lại mê mệt với những chiếc ô tô đời mới hay những tòa cao ốc cửa kính lấp lóa.
Bạn có thể nhìn thấy nhận thức và tâm hồn của con qua những bức ảnh chụp ảnh chụp những người bán hàng rong trên vỉa hè, những ngôi nhà tập thể cũ rêu phong; hay sở thích ồn ã của con khi chụp cảnh động như cảnh cổng trường giờ tan học hay cảnh mua bán ở chợ. Việc chụp ảnh giúp con có cái nhìn phong phú hơn về cuộc sống, từ đó, một cách tự nhiên con có thêm tư liệu cho sự văn học của mình.
Đến một thời điểm nào đó, khi con biết phải chụp ở góc độ nào cho cảnh đẹp, đứng ở góc nào để lấy sáng… thì bố mẹ hãy tin rằng chắc chắn con sẽ viết được những câu văn đẹp!
Gợi ý cho con phương pháp học Văn
Không gò bó theo khuôn mẫu, tập làm văn với đặc thù là sự sáng tạo. Chính vì vậy các phụ huynh không nên gò bó và bắt con phải trau chuốt ngôn từ ngay từ đầu. Bởi điều này sẽ gây ảnh hưởng và đánh mất đi niềm hứng thú của trẻ khi học. Hãy để trẻ viết thỏa thích, sau đó mới hướng dẫn trẻ sắp xếp lại sao cho logic và hợp lý.
Phụ thuộc nhiều vào sách văn mẫu không phải là một cách học giỏi môn ngữ văn mà bạn nên áp dụng. Đối với sách văn mẫu bạn chỉ nên đọc để tham khảo những nét đặc sắc trong đó chứ không nên sao chép từ đó ra. Điều đó sẽ vô tình khiến bạn bị phụ thuộc và kiềm hãm sự sáng tạo ngôn từ của bản thân. Tốt nhất bạn nên viết văn theo những dòng cảm xúc vốn có của mình để tạo nên điểm nhấn của riêng bạn.
Tập trung nghe giảng và ghi nhớ nội dung của bài. Ngoài sự sáng tạo và sự vận dụng ngôn từ một cách hài hòa, thì điểm số của con còn phụ thuộc vào việc con có viết đúng theo nội dung bài học đã được giảng trên lớp hay không. Chính vì vậy, bí kíp học giỏi văn tiếp theo đó là khi đến lớp con hãy thật tập trung nghe giảng và ghi chép lại những ý chính.
Giữ tâm trạng thoải mái khi học bài. Con sẽ không đạt được sự hiệu quả khi học với sự căng thẳng và áp lực. Vì vậy, việc giữ một tinh thần thoải mái khi bắt đầu việc học chính là cách học giỏi văn hiệu quả. Nhắc con cũng đừng nên quá chú trọng nhồi nhét kiến thức mà có thể chia nhỏ các phần ra để học và kết hợp với việc giải trí để tránh stress trong suốt quá trình.
Tâm trạng chán nản khi học tập sẽ không mang lại hiệu quả
Bắt đầu học từ những điều đơn giản nhất. Văn chương là một phương pháp lột tả hiện thực, chính vì vậy con đừng nên nghĩ về nó quá sâu xa mà và phức tạp hóa chúng lên. Hãy nghĩ đơn giản rằng Văn chương chính là những gì xung quanh cuộc sống của con và con hoàn toàn có thể khai thác được văn học nếu nắm chắc được hướng đi mà tác giả nhắm đến.
Đối với trẻ nhỏ, việc yêu thích quyết định rất nhiều tới thành công của con. Nếu con ghét một điều gì đó, chất lượng và kết quả sẽ tụt dốc một cách nhanh chóng. Các mẹ có thể áp dụng bí kíp này, tạo cảm hứng cho con bằng cách:
Cho con viết thư ông bà, bố mẹ, anh chị, thần tượng của con.
Để con viết ước mơ của con mong muốn, mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm.
Viết ra những ý tưởng của con, cũng như các mẩu truyện con nhớ hoặc sáng tác.
Cho con trải nghiệm thực tế
Phụ huynh không chỉ giới hạn việc học của trẻ trong khuôn khổ và sách giáo khoa. Cha mẹ nên để bé được học ngoài thực tế. Việc nhìn nhận sự vật, sự việc ngoài đời sẽ giúp trẻ dễ dàng phân biệt và có trí tưởng tượng phong phú hơn. Qua đó trẻ sẽ có những bài tập làm văn tốt và hấp dẫn hơn.
Cha mẹ hãy tạo điều kiện để trẻ được tham gia những công việc nhỏ ngoài xã hội, để chúng tự lập hơn. Nếu gia đình bạn có đủ điều kiện thì hãy cho các em tham gia vào các lớp kỹ năng để được học nhiều kỹ năng cuộc sống, vui chơi an toàn.
Khích lệ con đúng lúc đúng chỗ hài hòa
Một câu động viên, khích lệ con, sẽ làm thay đổi rất nhiều suy nghĩ trong các bé. Bên cạnh đó, một lời chê ác ý, cũng vô tình làm con tổn thương. Nên nếu chất lượng bài viết con không tốt, bố, mẹ cũng cần có cách nói để con cảm thấy thoải mái. Có thể khích lệ như:
Câu chuyện này của con khá hay đấy, nếu con đọc cho bố con nghe chắc chắn bố con sẽ rất thích. (Trước đó, hãy nói điều này với bố của bé).
Mẹ thấy đoạn văn này khá hay, nhưng nếu con thay thế câu này, bằng một câu khác, chắc chắn sẽ rất tuyệt vời.
Con đã cố gắng rất nhiều, chữ viết của con khá đẹp đấy. Chỉ cần con kiên trì trau dồi thêm, mẹ tin rằng bài viết sau con sẽ tốt hơn rất nhiều…
Dạng 1: Cảm nhận hình tượng nhân vật. Nhân vật trung tâm là người đàn bà làng chài. Ngoài ra đề thi có thể yêu cầu phân tích, cảm nhận về nhân vật Phùng.
Dạng 2: Cảm nhận, phân tích đoạn trích văn xuôi. Tác phẩm này chú ý những đoạn quan trọng như:
“Người đàn bà bỗng chép miệng… chúng được ăn no” (Đề thi THPT QG 2015)
“Những tấm ảnh tôi mang về đã được chọn lấy một tấm… hoà lẫn trong đám đông”
Dạng 3: Cảm nhận về chi tiết. Các em chú ý chi tiết bức ảnh nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng trong bộ lịch năm ấy.
Dạng 4: Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, ý kiến bàn về tác phẩm,…
Dạng 5: Dạng đề so sánh văn học: tác phẩm này có thể so sánh với Vợ nhặt và những tác phẩm cùng chủ đề.
Dạng 6: Liên hệ thực tế (dạng đề tích hợp nghị luận xã hội). Ví dụ, từ câu chuyện của người đàn bà làng chài, liên hệ tới cảnh bạo hành gia đình, hoặc liên hệ tới cách nhìn nhận cuộc sống và con người,…
Mở bài tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của người nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấy của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinh anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại, nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong gieo những hạt giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
Kết luận CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nhà văn Nam Cao đã từng thể hiện một quan điểm nghệ thuật rất hay và sâu sắc rằng: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn tránh sự thật mà “phải đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời”. Quan điểm ấy của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, nghệ thuật chân chính phải là “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cùng với quan điểm ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã không chỉ phản ánh những vấn đề của đời sống mà còn gửi gắm quan niệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Trong từng lời văn, trong hình tượng người kể chuyện, thấp thoáng một Nguyễn Minh Châu, nghệ sĩ sáng tạo và con người giàu lòng thương yêu con người, yêu quý cuộc sống.
“Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn vào một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.” (Muốn viết được bài văn hay – Chủ biên: Nguyễn Đăng Mạnh)
“Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá …Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh” (Thời gian – Văn Cao)
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp đẽ sẽ “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Cũng như dù thời gian có trôi qua nhưng những giá trị của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu vẫn vẹn nguyên và tỏa sáng. Đến với tác phẩm này bên cạnh những nhân vật Phùng, Đẩu, lão đàn ông…, chúng ta hẳn là không thể quên được nhân vật người đàn bà hàng chài. Đây chính là hình tượng tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu về cách nhìn cuộc sống và con người, để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.
“Văn học là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)
Bộ đề tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Đề thi CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 1
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng…lảo đảo ngã dúi xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận thức.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Nói cách khác thì tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo.
– Tính huống truyện ở đoạn trước:
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với tâm thế của một người nghệ sĩ chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này suốt gần một tuần mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh.Và buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình.
2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt ngã
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình … Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt nhìn xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ “hùng hổ, mặt đỏ gay”, lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.
Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há mồm ra mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác, là con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn. Trong gia đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền rủa vợ con bằng những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết cam chịu trước những trận đòn vô cớ của người chồng; có một đứa con vì thương mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố. Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm những phát hiện, nhận thức về hiện thực đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện lên thật trần trụi, đau đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại cái đẹp mà còn có bao nhiêu điều nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là bức tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên hoàn mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã. Tất cả những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi. Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là ngạc nhiên, đau đớn. Đằng sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã, đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của hiện thực đời sống.
3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)
Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm đã bộc lộ một tình huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và nghệ thuật. Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận ra:
Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật của đời sống.
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh huyền ảo nhưng ở rất xa, còn cuộc đời đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính không chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của anh về lao động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc sống và làm cho nó tốt hơn lên.Nghệ thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời.Nói như Biêlinxki thì văn học“trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này.
3. Đánh giá
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một tình huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, … Điểm nhìn linh hoạt bởi truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, và người kể chuyện chứng kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên khiến người đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp hơn rất nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 2
Phân tích số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện trong đoạn trích sau:
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
– Con lạy quý toà…
– Sao, sao?
– Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng toà án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
– Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
– Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án – chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà thuận…
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
– Chị cám ơn các chú! – Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết – Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 74)
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà…khó nhọc” đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vậy và góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất.
Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.
2. Số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận:
Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị….như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn khi chị đến toà án huyện.
Vì lạc hậu, ít học, nghèo khổ và hơn nữa có thể do bị bạo hành thường xuyên nên người đàn bà xuất hiện ở tòa án trong dáng vẻ và hành động đầy tự ti, rụt rè đến tội nghiệp. Chị xưng là con, gọi chánh án Đẩu là quý tòa, thậm chí còn có hành động chắp tay lại vái lia lịa. Khi nhận ra Phùng là người đã chứng kiến câu chuyện, chị nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Có lẽ, chị nghĩ rằng tòa sắp xếp Phùng đến đây làm nhân chứng.
2.2. Vẻ đẹp khuất lấp
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
Người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí, ít học, lam lũ và cuộc đời đầy bất hạnh ấy hóa ra bên trong lại ẩn chứa nhiều phẩm chất tốt đẹp. Điều đó thể hiện rõ qua cách ứng xử của chị trước bi kịch gia đình. Khi biết hoàn cảnh gia đình của người đàn bà, cách giải quyết của chánh án Đẩu là cho gọi người đàn bà tới và khẳng định: “Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu”. Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Người đàn bà thậm chí còn van lạy để đừng bắt chị bỏ chồng “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu trả lời cũng như phản ứng cuả người đàn bà làm cho căn phòng “lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Hóa ra, cách giải quyết của Phùng và Đẩu tuy đứng về phía người đàn bà nhưng rất thiếu thực tế. Họ chỉ nghĩ giúp đỡ người đàn bà mà chưa nghĩ đến việc những đứa trẻ rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra khơi lao động cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà. Người đàn bà ấy và cả chục đứa trẻ vô tội ngây thơ kia sẽ sống ra sao khi trên thuyền không còn bàn tay lao động chủ đạo của người đàn ông?…
– Vậy vì sao người đàn bà không chịu bỏ chồng. Đó là vì:
+ Thương con: Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương nhiên. Trong khổ đau, bất hạnh chị vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc hiếm hoi và niềm hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
+ Thấu hiểu chồng và có tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu: Bị chồng đánh tàn độc với ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng người đàn bà không hề oán trách chồng. Chị hiểu nguyên nhân sâu xa lão đàn ông trở nên vũ phu là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con và khi nói chuyện với Phùng và Đẩu “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình, sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
– Từng trải, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế: Bên trong vẻ ít học, lạc hậu của chị là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế. Trong đoạn trích, người phụ nữ đáng thương đã khiến cho Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chị không những không bỏ chồng mà còn nói: “Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Trong lời nói này ta thấy người đàn bà bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ. Chị nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của mình, chủ động thay đổi cách xưng hô từ “con”- quý tòa” sang “chị – các chú”. Dưới góc nhìn ngôn ngữ có thể thấy người phụ nữ khốn khổ ấy đã khéo léo chuyển từ mối quan hệ thứ bậc (con – quý tòa) trong đó người đàn bà ở vai dưới sang quan hệ thân sơ (chị – chú), người đàn bà trở thành vai trên. Chị khen người ta trước “lòng các chú tốt” rồi mới phê bình người ta “các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…” là cách hữu hiệu để buộc Phùng và Đẩu phải tiếp nhận câu chuyện ở một vị thế khác, chỉ cho họ thấy được những khuyết điểm của mình là sự thiếu từng trải, va vấp. chỉ biết nhìn cuộc đời qua một mớ lí thuyết, sách vở. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều về cuộc sống.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Bức chân dung của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích được tác giả xây dựng bằng nghệ thuật đậm nét sự sáng tạo. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
3.2. Ý nghĩa của đoạn văn và vài trò của nhân vật người đàn bà
Thông qua vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà, đoạn văn cũng như tác phẩm tác phẩm đã bộc lộ giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đó là ca ngợi vẻ đẹp của con người giữa cuộc đời đầy sóng gió. Người đàn bà tiêu biểu cho biết bao nhiêu phụ nữ sống nghèo khổ, bất hạnh và tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất cao quý như tảo tần, lam lũ, chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha cao thượng. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam. Từ đó khiến chúng ta rút ra rằng không thể nhìn đời, nhìn người bằng một cái nhìn đơn giản, một chiều mà phải nhìn đời, nhìn người bằng cái nhìn đa diện nhiều chiều để khám phá được cái đẹp về bản chất nhiều khi ẩn rất sâu trong bề ngoài thô nhám.
Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 3
Đọc đoạn trích sau:
“Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
– Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được !
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
– Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?
– Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
– Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rôi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.
– Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?
– Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”
12, tập hai , NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.Từ đó nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong văn học.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận bất hạnh:
– Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị….như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng…Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.
– Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”
– Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó thì “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ, người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần quen thuộc của cuộc đời.
– Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng
Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
* Thương con:
Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.
* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.
Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc nhỏ bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Nụ cười hạnh phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?” thì câu trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì tình mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những bất hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi bay còn những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca… Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.
3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương giành cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh của họ trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp: tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha, thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.
3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn
Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải có cái nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người. Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi . . . toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.
Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam.
3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:
Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thông, chia sẻ và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của chị.
3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.
Đề thi bài CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 4
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, qua con mắt của Phùng và lời kể của người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết về nhân vật người đàn ông như sau:
(…)Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”(…)
(…)- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
– Không chú à, cũng nghèo khổ túng quẫn vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu,
Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh người đàn ông trong lời kể trên. Từ đó, nhận xét về cảm hứng thế sự thể hiện trong tác phẩm.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích kể về người đàn ông đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật, từ đó thấy được cảm hứng thế sự được thể hiện rõ qua tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Người gây ra cảnh bạo lực tàn bạo ấy chính là người đàn ông. Vậy ông ta là người thế nào mà lại đánh vợ như vậy? Đọc tác phẩm, ta có thể nhận thấy nhân vật người đàn ông xuất hiện qua đôi mắt quan sát và miêu tả của Phùng và qua lời kể của người đàn bà. Chừng đó thôi cũng đủ để người đọc hiểu về nhân vật một cách rõ nét.
2. Nhân vật lão đàn ông qua cái nhìn của Phùng
2.1. Ngoại hình
Người đàn ông xuất hiện đầu tiên trước người đọc khi ông ta cùng người đàn bà bước từ dưới thuyền lên, ông ta quát đứa con đang ở dưới thuyền “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó đâu phải là lời của một con người bình thường với người khác, nhất là với những người thân của mình. Đó là lời nói của một người gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết… Cùng với lời nói cộc cằn, thô lỗ, thất học thể hiện sự tàn ác, lão đàn ông xuất hiện trong đoạn trích với những nét ngoại hình “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Những nét ngoại hình vừa làm toát ra vẻ tàn độc vừa thể hiện vẻ lam lũ, khắc khổ, hé lộ những điều ẩn khuất trong cuộc đầy những lo toan, vất vả, cực nhọc của lão.
3. Hành động bạo lực (tội nhân)
Đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn, tàn ác. Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Theo suy nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình phải yêu thương vợ con, lo lắng và chở che cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông không những không bảo vệ vợ con mà còn hành hạ họ. Lão lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận như lửa cháy, đối xử thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ khiến cho người đàn bà phảichỉ biết cam chịu, phải nhẫn nhịn, chịu nhục nhã. Bấy thôi cũng quá đủ để nói lên tính cách dữ tợn, vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông.
Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Lão nguyền rủa vợ con một cách nghiệt ngã bằng lời lẽ của kẻ thất học, vô văn hóa, tàn ác đã đành và nhưng hơn nữa lời nói ấy còn có nghĩa lão nhìn nhận vợ con là gánh nặng cuộc đời. Vợ là gánh nặng nên “mày chết đi cho ông nhờ”, con cũng là nợ đời nên “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà nó đã diễn ra rất thường xuyên “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy khiến Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.
4. Người đàn ông là nạn nhân
Qua sự quan sát và miêu tả của Phùng về người đàn ông thuyền chài, ai cũng đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng lắng nghe câu chuyện của người đàn bà với Phùng và Đẩu ở tòa án chúng ta nhận thấy ngay câu chuyện không đơn giản, Người đàn bà đã cho ta thấy một mặt khác ở người đàn ông, đó là ông ta còn là một kẻ đáng thương.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Qua lời người đàn bà, trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng cũng chính vì trốn lính mà sinh ra nghèo đói, túng quẫn. Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân vì sao lão đàn ông lại đánh vợ. Người đàn bà hiểu rõ, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như những người đàn ông hàng chài khác uống rượu. Như vậy, nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ông là một kẻ độc ác, không có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ông ta không chỉ là người chồng mà còn là một ân nhân, một nạn nhân. Ngày còn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang và ban đầu đã mang đến cho người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Bạo lực, độc ác của lão đàn ông không phải do tính cách bẩm sinh mà chủ yếu do cảnh ngộ xô đẩy. Người đàn ông hóa ra cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu chiến. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm ngay cả với những người thân yêu nhất của mình.
Tính chất lưỡng phân ở nhân vật lão đàn ông, vừa đáng giận vừa đáng thương, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân, còn được thể hiện rõ qua nhiều chi tiết trong đoạn trích: Hành động vừa quất tới tấp cái thắt lưng lính ngụy vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két cho thấy cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ông ta cũng rất đau khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Không ai có thể phủ nhận sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận một cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn có trách nhiệm với gia đình, cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Lão đàn ông dù có vũ phu, nguyền rủa vợ con nhưng trên hết ông ta vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả năng chèo lái con thuyền trước những bão going, là chỗ dựa của người đàn bà và những đứa con. Trong đoạn trích, người đàn bà còn kể “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc lão đàn ông chấp nhận lời cầu xin ấy của vợ cho thấy trong sâu thẳm ở ông ta tình phụ tử vẫn còn tồn tại, vẫn còn chút lương tri như bản chất lương thiện ban đầu.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức, miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ sắc sảo, chọn chi tiết độc đáo. Nhân vật người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt vào nhiều góc nhìn khác nhau của các nhân vật. Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn cũng như bản chất của lão được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan. Một thành công nữa của Nguyễn Minh Châu là đã học tập ở nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người đàn ông thuyền chài: vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, khốn khổ, vừa là tội nhân vừa là nạn nhân…
3.2. Nhận xét về ý nghĩa đoạn trích
Qua hình ảnh người đàn ông hàng chài trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện quan niệm về cuộc sống, con người và cảm hứng nhân đạo trong ngòi bút của mình. Từ nhân vật người đàn ông ta thấy rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Qua đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người. Tác phẩm vì vậy góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
3.3. Nhận xét về cảm hứng thế sự trong tác phẩm
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời khi đất nước đã hòa bình thống nhất, trong hoàn cảnh ấy con người có bao nhiêu điều phải suy ngẫm trước cuộc sống bộn bề. Nguyễn Minh Châu là người đi trước, nên cảm hứng thế sự được thể hiện rõ trong tác phẩm qua các phương diện:
– Dự cảm, day dứt, lo âu về bất hạnh của con người trong cuộc sống thường nhật đã thôi thúc Nguyễn Minh Châu gửi đến bạn đọc thông điệp: sự nghèo đói, ngu dốt, tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến cái xấu, cái ác và số phận bi thảm của con người. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ cho cuộc sống ấy. Ở đó, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối khiến tác giả phải day dứt vì những số phận như số phận người đàn bà, số phận người đàn ông và cả số phận những đứa trẻ…
– Nhưng hơn nữa, Nguyễn Minh Châu còn khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn của con người. Thể hiện rõ qua tính chất lưỡng phân ở nhân vật người đàn ông. Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ khi cho thấy người đàn ông ấy đâu chỉ là một tội nhân mà ông ta còn là ân nhân của người đàn bà, là nạn nhân của đói nghèo, lạc hậu. Trên vai ông ta là cả một gánh nặng mưu sinh nhọc nhằn. Còn người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội khi chấp nhận đòn chồng mà không van xin, chạy trốn hay chống trả lại là một người rất thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu chồng, biết cảm thông cho chồng và biết hy sinh. Rõ ràng, đằng sau sự man rợ của người đàn ông là bản tình hiền lành, chất phác; đằng sau cái vẻ xù xì, thô mộc của người đàn bà là những vẻ đẹp bất ngờ của con người. Đó là một cách thể hiện niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào con người và cuộc đời. Cuộc đời và con người có thể không xấu xa, độc ác đến mức như bề ngoài của nó.
– Nhà văn đã dám nhìn thẳng vào hiện thực đời sống với những mảng tranh tối, tranh sáng với bạo lực, nghèo đói, lạc hậu…Đó chính là hệ quả của việc cải cách đời sống nhân dân chưa triệt để sau những năm đổi mới giành thắng lợi. Điển hình như gia đình hàng chài ngoài nghề đánh cá ra không biết làm nghề gì khác để sinh sống. Dù được cấp đất nhưng không được phổ biến và dạy cách trồng trọt, chăn nuôi… nên họ có đất cũng vô nghĩa. Vậy nên họ không thể rời chiếc thuyền được. Cuộc sống trên thuyền lại gắn liền với những cơn giông bão hiểm nguy. Nếu không có người đàn ông khỏe mạnh chèo lái con thuyền, chắc hẳn họ cũng không thể nào sống được.
– Từ đó, nhà văn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về bạo lực gia đình, về việc phải bảo vệ trẻ em và phụ nữ và đặt ra vấn đề phải cải tạo cuộc sống bằng những giải pháp thiết thực để con người thoát khỏi cảnh khổ, để giảm thiểu cái xấu và cái ác trong xã hội.
Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 5
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:
“Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất la trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12,
tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78)
Bài làm
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Nguyễn Minh Châu là người luôn trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của nhà văn trong cuộc đời. Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” qua đoạn văn ngắn cuối tác phẩm. Đây là chi tiết đắt giá thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của tác giả và có thể khơi dậy ở người đọc nhiều chiêm nghiệm sâu xa.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống nhận thức ấy, nhà văn khám phá và thể hiện nhiều điều về cuộc sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Những ngày sau đó, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn bà bị đánh lần thứ hai, anh muốn ngăn cản nên đã lao vào đánh người đàn ông và bị thương nhẹ. Chánh án Đẩu và Phùng có khuyên người phụ nữ ấy nên ly hôn, tuy nhiên người đàn bà đã kiên quyết không chịu bỏ chồng. Rồi người đàn bà kể cho Phùng và Đẩu nghe câu chuyện cuộc đời mình để từ đây Phùng và Đẩu đã ngộ ra nhiều điều về cuộc sống và nghệ thuật.
2. Tấm ảnh được chọn
Tấm ảnh được nhắc đến trong đoạn trích là bức ảnh Phùng chụp được trong buổi sáng hôm ấy. Đó là bức ảnh tĩnh vật với cảnh thuyền và biển vào buổi sáng có sương mù. Tấm ảnh Phùng chụp được trưởng phòng rất ưng ý “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.” Sự đánh giá cao của cấp trên xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới chụp đựơc tấm ảnh đó cũng như tài năng của anh. Không những thế, nó trở thành bức ảnh có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”. Tấm ảnh được nhiều người rất yêu thích, được “treo rất nhiều nơi trong các gia đình sành nghệ thuật”. Tấm ảnh đó đã khẳng định tài năng, nâng cao uy tín của người nghệ sĩ trên hành trình khám phá cái đẹp và việc nhiều người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh của Phùng cũng là điều dễ hiểu. Có lẽ, những người yêu nghệ thuật thực sự đã nhận ra bức ảnh đẹp toàn bích, đáng để cho họ thưởng thức và treo ở nơi sang trọng nhất trong nhà.
Mỗi khi nhìn lại vào tấm ảnh năm ấy, dù là ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn nhìn thấy màu hồng hồng của ánh ban mai, nhìn thấy hình ảnh người đàn bà làng chài lam lũ, như đang bước ra khỏi tấm ảnh. Nhà văn viết: Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”.
Với rất nhiều sự băn khoăn day dứt nên Phùng luôn “ ngắm kĩ”, “nhìn lâu hơn” để mỗi lần như thế anh lại không chỉ rung động trước cái đẹp mà còn bị ám ảnh bởi hình ảnh người đàn bà nghèo khổ lam lũ. Cái “màu hồng hồng của sương mai” chính là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là chất thơ của cuộc sống và đó cũng chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật. Qua đó nói lên ngụ ý của nhà văn nghệ thuật cần có chút lãng mạn trong bề sâu tác phẩm. Và hình ảnh người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh là hiện thân cho cuộc đời thực nhiều sóng gió, phũ phàng. Qua hai hình ảnh ấy, người đọc nhận ra hóa ra đằng sau vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện, thơ mộng của cái màu hồng hồng ánh sương mai kia chính là hiện thực bi đát của cuộc đời, cuộc sống lam lũ, khổ đau của người hàng chài nói riêng và người lao động nghèo sau chiến tranh nói chung. Tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài. đằng sau nó là cuộc sống rách rưới, đói nghèo, khổ đau của con người.
Qua những khám phá, phát hiện của Phùng khi ngắm nhìn bức ảnh của mình ở cuối truyện tác giả Nguyễn Minh Châu gửi gắm đến người đọc thông điệp nhận thức:
+ Thông điệp thứ nhất là về cách nhìn cuộc đời, con người: Cuộc sống vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp. Cuộc sống nhiều khi thường “đánh lừa” ta như thế. Hơn nữa, nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy, con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột để khám phá, phát hiện ra bản chất thật của đời sống.
+ Thông điệp thứ hai là về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Thông qua hai hình ảnh đầy ám ảnh trong bức ảnh, nghệ sĩ Phùng đã thể hiện những nhìn nhận đúng đắn về bản chất đích thực của nghệ thuật. Không thể có nghệ thuật thuần túy, nghệ thuật vị nghệ thuật mà cái đích tối cao của nghệ thuật là nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật chân chính phải bắt nguồn từ cuộc sống dẫu có nhọc nhằn, lam lũ, thậm chí là khổ cực và cay đắng và quay lại phục vụ cho cuộc sống, phải dành ưu tiên trước hết cho con người, góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực, làm thay đổi cuộc sống theo hướng tốt đẹp hơn. Đúng như chính nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Mỗi tác phẩm nghệ thuật thật sự đều phải bắt nguồn từ cuộc sống, không được tách rời cuộc sống. Người nghệ sĩ chân chính phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận con người; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và phải dũng cảm, trung thực nhìn thẳng vào hiện thực, biết rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
Quan niệm về đời sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống ấy của Nguyễn Minh Châu đã được cụ thể hóa qua nhân vật Phùng và bức ảnh được chọn trong đoạn trích. Với tư cách là một con người, Phùng là cũng là một con người chân chính, biết yêu thương, nâng đỡ cái yếu, căm ghét cái ác, có nhưng trăn trở, băn khoăn, lo lắng trước nỗi đau khổ của những con người bất hạnh. Với tư cách người nghệ sĩ Phùng đã nhận ra chân lí của nghệ thuật và thực hiện được sứ mệnh, thiên chức của người nghệ sĩ, có cái tâm với nghề, đáng để người ta kính phục. Thế nhưng, trước sự thực cuộc đời đầy cay đắng, phức tạp đôi khi người nghệ sĩ ấy còn “ngây thơ” và có những lẽ ngang trái cuộc đời, anh không thể làm gì để thay đổi nên có những điều khiến anh luôn phải trăn trở, day dứt thành nỗi ám ảnh. Còn bức ảnh nghệ thuật được nhắc đến trong đoạn trích đã chuyển tải được thông điệp nghệ thuật sâu sắc nên nó trở thành bức ảnh nghệ thuật mẫu mực, là nghệ thuật thăng hoa được công chúng đón nhận.
+ Tấm ảnh ấy cho ta thấy rõ trái tim nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Không chỉ trăn trở về cuộc sống nghèo đói, nhìn thấy vẻ đẹp của người lao động giữa cát bụi thô nhám của cuộc đời đầy sóng gió mà nhà văn còn quan tâm, thể hiện niềm tin vào tương lai của họ. Mỗi lần xem lại bức ảnh, Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của người lao động trong hành trình đi lên của cuộc sống.
3. Đánh giá
Kết thúc truyện cho thấy tác phẩm được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, triết lí, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ cùng lối kết thúc mở độc đáo, gợi nhiều suy nghĩ ở người đọc như một khúc vĩ thanh không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người; chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu tượng; cách kể chuyện hấp dẫn từ cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục…
Đoạn văn miêu tả bức ảnh nghệ thuật gợi bao thức nhận đầy đau đớn và sâu sắc và chỉ một đoạn văn ngắn nhưng đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Dạng 1: Nghị luận ý kiến bàn về văn học. Có những nội dung chính cần ôn tập như: nhân vật ông lái đò,vẻ đẹp sông Đà, hoặc ý kiến bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này.
Dạng 2: Dạng đề so sánh. Ví dụ: So sánh Huấn Cao ( Chữ người tử tù ) và ông lái đò. Ví dụ khác: So sánh hai đoạn văn miêu tả sông Đà và Sông Hương ( Ai đã đặt tên cho dòng sông– Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Dạng 3: Cảm nhận về đoạn trích văn xuôi. Ví dụ: Đề bài trích dẫn đoạn văn miêu tả dòng sông, hoặc đoạn miêu tả cuộc chiến của ông lái đò với dòng sông, và yêu cầu học sinh nêu cảm nhận. Một số đoạn trọng tâm:
Cảm nhận đoạn văn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá… gậy đánh phèn”
Cảm nhận đoạn văn: “Thạch trận dàn bày vừa xong…Thế là hết thác”. (Đoạn này chủ yếu phân tích cảnh vượt thác của người lái đò.
Cảm nhận đoạn: “Con sông Đà tuôn dài…nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. (Chủ yếu là vẻ đẹp trữ tình)
Dạng 4: Cảm nhận về hình tượng Sông Đà, hình tượng ông lái đò.
Với tác phẩm này, các em chú ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, đây cũng là nội dung cơ bản thường xuất hiện trong đề thi, như đề Đề Văn Nam Định 2022 lớp 12 đợt 1.
Mở bài NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
MB1: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế. Ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người “một thời vang bóng” như Huấn Cao thì sau cách mạng, ông khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
MB2: Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Kết bài NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Và quả thực tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm như thế! Trong suốt quá trình dài của thời gian, “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên và sống mãi trong lòng người đọc về một tác phẩm cũng như một nhà văn đa tài đã làm tôn lên vẻ đẹp của thiên nhiên của xứ xở Tây Bắc nói riêng và thiên nhiên đất nước nói chung.
Nguyễn Tuânlà nhà văn có một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
Bộ đề Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đề bài Người lái đò sông Đà số 1
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xétvề cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
– Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân về dòng sông Đà: “Hùng vĩ… đánh phèn”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
– Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
– Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.
– Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.
2. Hình tượng conSông Đà qua đoạn trích
Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.
2.1. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành
Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” cùng với việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
2.2. Mặt ghềnh Hát Loóng
Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó rất dữ dội Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dàihàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýtbất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Qua từ “nợ xuýt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người. Những người lái qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền ra.
2.3. Hút nước trên sông Đà
Trên Sông Đà còn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xoáy tít đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như những cái giếng bê tôngđược người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm thanh thở và kêu nhưcửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sôi. Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ.
Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về giao thông, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để thoát khỏiquãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy hiểm hơn nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lôi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những nước trên Sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút Sông Đà để thu ảnh. Đây hẳn là một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
3. Đánh giá
3.1. Về nghệ thuật
Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình… tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có.
3.2. Nhận xét những phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây.
Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là trong tác phẩm có vai trò là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
3.3. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạntrích:
– “Cái tôi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
– “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
– “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.
———————————————
Đề bài Người lái đò sông Đà số 2
… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xétphong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
– Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: “Còn xa lắm… tiến gần vào”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
– Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.
– Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.
– Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.
2. Hình tượng sông Đà trong đoạn trích
2.1. Khái quát
Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, hiền hòa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả cảnh dữ dội, hiểm trở, trùng trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những cảnh thác ghềnh dữ dội như “Bạch đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, “Bạch đằng Hải khẩu” của Nguyễn Trãi… Nhưng có lẽ chỉ đến “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân thì sự hiểm trở, hung bạo và dữ dội của con sông mới trở nên sống động và thật khủng khiếp. Trong đoạn văn này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn Tuân khi miêu tả những thác đá trên sông Đà đã làm nổi bật lên hình ảnh con sông Đà không chỉ gập ghềnh, lởm chởm mà còn đầy nguy hiểm, sống dậy gào thét làm náo động cả lên, khiến cho người đọc phải “rùng mình, sởn gáy” (Nguyễn Đăng Mạnh).
2.2.Tiếng nước thác trên Sông Đà:
Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là những thác đá. Những thác đá trên sông Đà được nhà văn miêu tả chi tiết qua âm thanh, cảnh tượng và sự nguy hiểm đến kinh hoàng của nó. Trước tiên nhà văn cảm nhận nó qua âm thanh. Chủ thể miêu tả đang trong quá trình di chuyển đến gần cái thác đá, và âm thanh tiếng nước thác được miêu tả phù hợp về khoảng cách và cường độ. Ban đầu, có lẽ là nghe từ xa thì tiếng nước thác Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Rồi khi lại gần, tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân đã rất ngông khi dùng lửa để miêu tả nước. Nước và lửa vốn xung khắc với nhau, hủy diệt lẫn nhau nhưng ở đây nhà văn đã dùng hình ảnh và âm thanh của lửa để miêu tả nước khiến hiện ra trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa đang bị đốt cháy, phát ra tiếng nổ. Nhưng âm thanh đó còn chưa là gì khi trong khu rừng đang cháy ấy còn có hàng ngàn con trâu mộng to khỏe đang bị lửa hun nóng và đốt cháy. Lửa đã bén vào da của đàn trâu khiến chúng rống lên đầy đau đớn và lồng lộn muốn phá tan rừng lửa để tìm cách thoát thân. Miêu tả từ xa đến gần nên lúc đầu là tiếng “réo” còn về sau trở thành tiếng “rống”. Đây là cách dùng từ rất chính xác và bất ngờ, khiến sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí, như một con người. Các sắc thái khác nhau của âm thanh tiếng “réo” của nước thác: vừa mới “oán trách” và “van xin” như một kẻ bại trận, biết mình yếu thế hơn đối thủ; ngay lập tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi “rống” lên như một kẻ trên cơ, ra sức giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng khiếp và đòn tâm lí chiến trở mặt như trở bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà khi sắp xung trận. Những người lái đò yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ cảm thấy mất tinh thần, hồn xiêu phách lạc.
Quả thật, sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, nhân hóa và trí tưởng tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã cho người đọc một cảm giác mạnh đến tận độ. Như vậy, chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người đọc về sự dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.
2.3.Những thạch trận đá trên sông Đà
Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã “Tới cái thác rồi”. Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội. Ngoặt tới khúc sông ấy là cảnh sóng bọt đã trắng cả một chân trời đá. Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa. Sông Đà ở đây bao nhiêu là đá với đủ những đá to đá bé, đá hòn đá tảng… mà thằng đá nào trông cũng ngỗ ngược, xấc xược, hỗn hào, du côn và mặt cũng nhăn nhúm, méo mó hơn mặt nước ở quãng ấy. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá không chỉ mang những nét chung ấy mà còn có một gương mặt riêng. Để khắc họa từng gương mặt riêng của những hòn đá trên thác đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã phải lao động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú. Phép liên tưởng và nhân hóa, kết hợp với những động từ, tính từ: chỉ hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), chỉ tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm) khiến người đọc cảm nhận Sông Đà mang gương mặt của dân anh chị, những kẻ côn đồ chuyên đi đòi nợ thuê bặm trợn và sẵn máu giang hồ.
Sự nham hiểm quỷ quyệt của Sông Đà đối với những người lái đò được thể hiện rõ nhất ở những thế trận mà đá dàn bày. Đội quân đá ấy ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Đá sông Đà dường như không đứng, nằm, ngồi một cách tùy tiện mà Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mỗi hòn một dáng (đứng, nằm, ngồi), mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông: hàng tiền vệ là hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; tuyến giữa sóng nước đánh khuýp quật vu hồi lại, tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi có nhiệm vụ phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên).
Đá trên sông Đà đã giao việc cho nhau như vậy để dàn bày thành ba thạch trận đá đầy biến hóa. Mỗi thạch trận đều có rất nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, lúc ở chính giữa. Thạch trận thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Đến thạch trận thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền, tiêu diệt cả thủy thủ và thuyền trưởng trên chiếc thuyền ấy.
Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân sự, võ thuật (“mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”, “đòn âm”)… làm hiện lên hình tượng con Sông Đà dữ dội, hung bạo đến khủng khiếp. Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, là một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:
Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,l ịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong phú, ngòi bút miêu tả độc đáo, con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ.
3.2. Nội dung
Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sông Đà, biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp. Qua đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, từ đó ta càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.
3.3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
– Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
– Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Ông có xu hướng muốn tô đậm cái cá tính, phi thường của dòng sông Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà. Nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.
– Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuânlà nhà văn có ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.
————————————————————-
Đề bài Người lái đò sông Đà số 3
…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)
Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xétcái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
(Có thể hỏi theo cách khác: khám phá về người lao động mới hoặc tìm thấy chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn Tây Bắc)
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
– Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: “…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn… Thế là hết thác””.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát (Có thể lược ngắn gọn hơn)
– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
– Lời đề từ: Hai câu đề từ của tác phẩm đã không chỉ thể hiện nguồn cảm hứng mà còn nêu lên được những ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Ngay từ câu để từ đầu tiên trong tác phẩm nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Có ý kiến cho rằng lời đề từ này là để ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà. Nhưng không chỉ vậy, nó còn gợi liên tưởng về hình ảnh con người lao động trên dòng sông. Tiếng hát ở đây là lời ngợi ca con người trong lao động, chinh phục tự nhiên để xây dựng cuộc sống. Lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” còn gợi hình ảnh đẹp về con người trong lao động, sản xuất mà ở đây nhà văn Nguyễn Tuân muốn nhắc đến hình ảnh ông lái đò trong tác phẩm. Câu đề từ thứ hai nhấn mạnh vẻ đẹp đầy cá tính, dữ dội của dòng sông Đà để từ đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.
– Giới thiệu về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật ông lái đò không có tên tuổi, lai lịch cụ thể mà chỉ được gọi bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật để khái quát vẻ đẹp của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà phi thường. Nhà văn Nguyễn Tuân giới thiệu “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi” khoảng 70 tuổi. Ông đã làm nghề lái đò trên Sông Đà được hơn mười năm, đã xuôi ngược trên dòng sông Đà hàng trăm chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng đã không lái đò được khoảng 10 năm. Ở tuổi 70, ngoại hình của ông lái đò được nhà văn miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, đôi chân khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng. Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng nói ào ào như nước mặt gềnh… Có thể nói ngoại hình của ông lái đò là ngoại hình của một người lao động trên sông nước. Trên ngực còn ông nổi một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất ngưỡng mộ gọi là “thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng bay phượng múa, nói lên cái hoài bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống như một cụ ấm thức dậy từ tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một triết lý”… Hình tượng ông lái đò Tây Bắc cũng là một người nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Ông là tay lái ra hoa, là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng của ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra tình huống nghệ thuật ông lái đò vượt thác Sông Đà là một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt.
2. Vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích
2.1. Tái hiện hình ảnh ông lái đò trong cuộc giao tranh với dòng Sông Đà
Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách sinh động, đầy gay cấn. Sông Đà trong đoạn trích hiện nguyên hình là một kẻ thù số một của con người, như một bầy thủy quái rất nham hiểm, chúng bày sẵn những thạch trận đá đầy biến hóa với mục đích ăn chết cái thuyền, tiêu diệt thủy thủ và thuyền trưởng ở ngay chân thác.
– Thạch trận thứ nhất: Ở thạch trận thứ nhất, Sông Đà hiện lên là một đối thủ kiên cường, lắm mưu nhiều kế: nómở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Cảnh hỗn chiến ác liệt bởi Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất rồi lạiđánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Thác nước reo hò làm thanh viện Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác, chúng tạo ra cảnh tượng đầy đe dọa Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Một bên giao chiến nữa là ông lái đò. Trước sự tấn công đầy dữ dội của dòng sông, ông lái đò đã bị thương, mặt méo bệch đi nhưng ông cố nén vết thương, hai tay giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt lấy cuống lái. Bằng thể chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường và bằng sự bình tĩnh, tự tin trên chiếc thuyền sáu bơi chèo vẫn vang lên tiếng chỉ huy ngắn gọn, dứt khoát của người cầm lái ông lái đò đã vượt qua thạch trận thứ nhất một cách bình tĩnh, chủ động.
– Thạch trận thứ hai: Không được nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò bước vào ngay thế trận thứ hai. Thế trận này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn, vẫn chỉ có một cửa sinh còn lại đều là luồng chết. Thác nước Sông Đà được so sánh với sức mạnh của hổ báo và chúng tấn công những người lái đò một cách quyết liệt với dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nhưng bằng nghệ thuật lái đò điêu luyện, ông lái đò chủ động thế tấn công, ông cưỡi lên sóng thác sông Đà như là cưỡi hổ, “Nắm chặt lấy bờm sóng”, “ghì cuống lái”, “lái biết một đường chéo để phóng nhanh vào cửa sinh”. Hàng loạt động từ được nhà văn huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu để miêu tả khí thế xung trận của ông đò: Nắm, ghì, phỏng, lái, tránh, ráo, đè, chặt… Dù ông đò đã bẻ gãy những đợt tấn công của chúng, nhưng bọn đá sông Đà vẫn chưa chấp nhận chịu thua nên bốn năm thủy quân cửa ải xô ra để hòng lôi thuyền vào tập đoàn cửa tử nhưng ông đò sớm đã nhận ra dã tâm của chúng, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, lúc thì ông chặt đôi ra để mở đường tiến, khiến thằng đá tướng đứng chiến ở cửa đá này mặt xanh lè, tiu nghỉu vì thất trận.
– Thạch trận thứ ba: Thạch trận thứ ba ít cửa hơn. Nhưng bên phải bên trái, bên tả bên hữu đều là cửa chết. Những thế trận mà sông Đà dàn bày quả thực đầy biến hóa, vừa khiêu khích, dụ dỗ vừa đầy mưu cao kế hiểm. Ở trùng vi thạch trận này, tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm nổi bật lên được sự nham hiểm của đá thác Sông Đà và tài nghệ của ông lái đò. Một loạt các động từ lại được nhà văn sử dụng để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái lượn được.. phối hợp phép điệp “cánh mở, cánh khép”, “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”, âm thanh “vút vút” tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Quả đúng như Phan Huy Đông đã từng nhận định, “Đọc Người lái đò Sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ”. Cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt qua các trùng vi một cách phi thường. Đến đây, người lái đò đã khiến nhà văn, khiến người đọc và có lẽ là cả đội quân đá trên sông Đà phải hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Ông đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ chèo lái điêu luyện, dạn dày, siêu phàm như đua tài cùng tạo hóa. Tài nghệ đến mức điêu luyện của ông đã khiến việc lái đò như biến thành một môn nghệ thuật: Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
=> Có thể nói quy luật trên Sông Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.
2.2. Đánh giá về đẹp của ông lái đò
“Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình” (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.
– Tài hoa: Nguyễn Tuân quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, con người trong tác phẩm của ông dù làm bất cứ công việc gì, ở tầng lớp nào đều là bậc nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, công việc lái đò đã trở thành một nghệ thuật và trình độ lái đò của ông lái đò đã đạt đến sự siêu phàm. Tài hoa của ông lái đò được thể hiện rõ:
+ Ông lái đò rất am hiểu về dòng sông Đà Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, ông cũng nhớ mặt của từng thằng đá với những âm mưu của chúng Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này nên rất ung dung chủ động. Hình ảnh ông lái đò vì thế được đánh giá “trên thác hiên ngang người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”.
+ Ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, một tay lái ra hoa. Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.
Nhà văn đã sử dụng ngôn từ có tính nghệ thuật cao để miêu tả tài năng của ông lái đò như “Ông lái đò ghì cương lái”, lái miết một đường chéo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra để mở đường tiến”, “thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”…
+ Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên thành một môn nghệ thuật. Và điều đáng chú ý ở đây là những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người vĩ đại, phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh.
– Trídũng: Để làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của ông lái đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với “bầy thủy quái” Sông Đà. Sông Đà dữ dội, hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp dàn trận bủa vây, có sự hợp sức của nhiều thế lực: sóng, nước, đá…còn ông đò là một viên tướng dũng cảm tả xung hữu đột, tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua nhiều vòng, nhiều cửa và cuối cùng ông lái đò đã chiến thắng. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng tung ra những kiến thức về quân sự, võ thuật, thể hiện một vốn kiến thức rất phong phú uyên bác để làm nổi bật vẻ đẹp như một anh hùng trên sông nước của ông lái đò.
3. Đánh giá về đoạn trích
3.1. Về nghệ thuật:
Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói “tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài hoa, trí dũng của nhân vật.
3.2. Cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
– Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới: Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước.
– Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
– Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng
+ Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ sĩ.
+ Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò thành một nghệ thuật.
+ Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có ngày ở trong cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.
3.3. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
– Đoạn văn góp phần thể hiện phong cách Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
– Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân:Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả bộc lộ sự tinh tế trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa điêu luyện. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng. “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng.
—————————————————————
Đề bài Người lái đò sông Đà số 4
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.191-192)
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
– Đoạn trích sau đây ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà thể hiện chất thơ trong sáng tác của Nguyễn Tuân “Con sông Đà tuôn dài…ngay đấy”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
– Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.
– Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách trữ tình, thơ mộng của Đà giang.
2. Hình tượng conSông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
– Điểm nhìn nghệ thuật: Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiềukhông gian, nhưng trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả Sông Đà với một điểm nhìn khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn viết rằng mình ngồi trên máy bay mà quan sát sông Đà Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần, và cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc thì trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm nhìn ấy: Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.
– Con sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Tác giả còn nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà để thấy “con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Hai từ “tuôn dài” được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy của Sông Đà dường như nó vô cùng, vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn cuộn của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” của mặt ghềnh Hát Loóng phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất “ngông” của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ chảy trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Nhà văn còn so sánh Sông Đà như “một áng tóc trữ tình” làm cho dòng Sông Đà giống như một làn tóc mây thướt tha, bồng bềnh và mang vẻ đẹp của người thiếu nữ kiều diễm. Từ “áng” vừa có sự quen thuộc bởi ta thường bắt gặp từ “áng” ở áng văn, áng thơ vừa có sự mới lạ vì ở đây nó được Nguyễn Tuân gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã bộc lộ vẻ đẹp đầy chất thơ, sự trẻ trung và mềm mại đầy nữ tính của con sông Tây Bắc.
– Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dòng sông được tác giả điểm tô như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc màu như màu trắng tinh khôi của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba. Ngoài ra, dòng sông còn mang vẻ đẹp ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa mù khói Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những câu văn đầu tiên trong đoạn văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ hoa”, “trang hoa” trong văn học Việt Nam.
– Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua màu sắc nước: Nhà văn còn có sự quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: xuân và thu: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sông Đà”. Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu “xanh ngọc bích” – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp màu xanh này trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn thôn Vĩ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của Sông Đà như “chất vàng” mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không “xanh như màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”. Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: “Việc so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô không phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà còn là một sự thiên vị của một niềm yêu”. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào với ông cũng không đẹp như sông Đà.
Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu “lừ lừ chín đỏ”. Phải chăng là màu đỏ của “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi miêu tả? Và như để giải thích rõ hơn về màu đỏ của nước sông Đà nên sau đó tác giả đã miêu tả và so sánh sắc đỏ ấy với hai đối tượng khác nhau là khiến người đọc dễ hình dung hơn là “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ thu về” hay “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Nhà văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của con người lúc “bất mãn”, “bực bội” khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của hai mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy đối chọi nhau giờ lại hài hòa, êm dịu một cách lạ thường… Như vậy bên cạnh vẻ đẹp duyên dáng thì Sông Đà còn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt, hấp dẫn không lặp lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang mùa thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng của nó.
Với cái nhìn của tình yêu và tinh thần dân tộc nên trong đoạn văn, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự am hiểu tường tận về dòng sông hơn nữa. Ông khẳng định chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ”.
– Cách nhìn nhận của tác giả về dòng sông Đà: Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông Đà không đơn thuần với quan hệ giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ. Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông với con người. Tác giả dùng từ “cố nhân” rất gần gũi, thiêng liêng để gọi sông Đà. Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình bạn thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa, từ “cố nhân” còn gợi lên cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu về người cũ, xa cách lâu ngày. Và như vậy, khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ một người bạn thân thiết .
Vì tác giả dành cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương, nhà văn có cảm giác “đằm đằm, ấm ấm” và niềm vui vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ. Niềm vui được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể nói đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ. Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Trong đó, Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì mãnh liệt nên nó có thể nối lại được những giấc mơ đã đứt.
Khi gặp lại Sông Đà, với một cái nhìn rất gần nhà văn nhận ra vẻ đẹp mang đầy chất thơ của nó. Vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên, kì ảo trong khu vườn cổ tích: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, cụm từ “sông Đà” được điệp lại liên tiếp thể hiện tình cảm ấm nóng như đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại tất cả những gì là đẹp đẽ, thơ mộng dị nhất của sông Đà.
3. Đánh giá về đoạn văn
3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình sắc của nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc biến ảo lung linh. Nếu ví sông Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác phẩm hội họa tuyệt mỹ. Và để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh, khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Thì đối với Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy. Ông đã sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả; Vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; Lời văn bay bổng, phóng túng – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn lao.
3.2.Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích
– Chất thơ là sự pha trộn những đặc điểm của thơ ca vào tác phẩm văn học thuộc thể loại khác. Chất thơ trong văn xuôi nói chung được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
– Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích:
+ Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói…Vẻ trữ tình của dòng sông mang vẻ đẹp của Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch.
+ Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc “Chao ôi” được nhà văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sông thương nhớ.
+ Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những biện so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc cảm…Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
3.3. Nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân
– Trong đoạn trích, người đọc cảm nhận được cái tôi uyên bác, tài hoa nghệ sĩ của một người suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng.
– Một cái tôi am tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước là cái tôi yêu nước mà sau cách mạng đã tìm thấy sự hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.
Đề bài Người lái đò sông Đà số 5
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, sách Ngữ văn 12, Tập 1,
NXB Giáo dục 2014, tr.191-192)
Phân tích vẻ đẹp của hình tượng con Sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nêu ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung
– Đoạn trích sau đây nằm ở đoạn cuối của tác phẩm, ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà và góp phần thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân “Thuyền tôi trôi…dòng trên”.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
– Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.
– Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Nếu ở thượng lưu, con sông Đà được nhà văn khắc họa với vẻ đẹp hung bạo, quanh năm làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc, thì ở đoạn chảy về hạ lưu, sông Đà lại trở nên hiền hòa, thơ mộng, trữ tình.
2. Hình tượng conSông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
2.1. Điểm nhìn nghệ thuật
Đoạn văn được bắt đầu bằng câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Câu văn ngắn chỉ gồm 6 âm tiết, mà lại đều là thanh bằng, gợi sự nhẹ nhàng êm ái đã tạo nên không gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du, dẫn họ đến một không gian nên thơ, cổ tích. Mặt khác, nó cũng cho thấy Nguyễn Tuân là người ưa những điều mới lạ và muốn khám phá một cách tường tận vẻ đẹp của dòng sông Đà. Nhà văn muốn quan sát và miêu tả dòng sông Đà từ nhiểu điểm nhìn khác nhau nên nếu ở đoạn văn trước đó, ông cảm nhận vẻ trữ tình thơ mộng của dòng sông từ điểm nhìn trên cao là từ tàu bay nhìn xuống, hay cái nhìn gần hơn là khi đi từ rừng ra bắt gặp sông Đà thì ở đoạn văn này, điểm nhìn còn gần hơn nữa là ngồi trên con thuyền trôi chầm chậm trên sông để quan sát và miêu tả về dòng sông mà ông thương nhớ như cố nhân.
2.2. Vẻ đẹp tĩnh lặng và hoang dại
Ngay từ đầu đoạn trích, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc về vẻ đẹp ấn tượng của sông Đà ở dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng ở thượng nguồn, cảnh vật thiên nhiên sông Đà ở đây thật tĩnh lặng và hoang sơ. Sự tĩnh lặng của không gian cảnh vật sông Đà được nhà văn miêu tả “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Ngồi trên khoang đò ở quãng ấy, nhà văn có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa xưa trở về thời Lí, thời Trần, thời Lê. Nhắc đến các triều đại ấy là tác giả muốn gợi lại lịch sử dựng nước, giữ nước và thể hiện lòng tự tôn dân tộc, cũng là một cách để nhà văn tô đậm vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Cảnh vật tĩnh lặng đến mức nhà văn chợt ao ước có một âm thanh của cuộc sống con người, khao khát được cảm nhận những thành tựu của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống mới trên Tây Bắc:“Chao ôi thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu’’.
Cảnh vật bờ bãi sông Đà không chỉ tĩnh lặng mà còn hoang sơ đến lạ kỳ. Sự tĩnh lặng, hoang sơ của dòng sông hiện lên rõ nét hơn qua các nét phác họa “tịnh không một bóng người”, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Có thể nói, qua phép so sánh đầy sức gợi và các nét tả của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà ở hạ lưu vẫn giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ như thể hàng ngàn năm, vạn năm hay hàng tỷ năm nay nó vẫn nguyên sơ như thế. Với cách liên tưởng và ví von ấy, tác giả dường như muốn cho ta thấy sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Đặc biệt, hai câu văn “bờ sông hoang dại …bờ sông hồn nhiên…” khiến ta tưởng đây là hai vế của một câu song quan trong bài phú lưu thủy. Nghệ thuật điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ mà ta đã bắt gặp ở người nghệ sĩ một thời vang bóng này. Nguyễn Tuân đã tìm về vẻ đẹp xưa trong cái ngày hôm nay để từ đó bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở.
2.2.Thế giới thiên nhiên sinh động, kì ảo và thi vị
Không bằng lòng với cái đẹp nhợt nhạt, Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa bức tranh cảnh vật sông Đà, hệt như một người họa sĩ tài hoa. Thế giới thiên nhiên Sông Đà qua sự miêu tả của ông thật sinh động, kỳ ảo, lý thú nhưng cũng tràn đầy sức sống. Những hình ảnh về “một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”… cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống, kéo dòng sông từ thuở hồng hoang trở về gần với thực tại. Giữa không gian thơ mộng, tĩnh lặng đó là hình ảnh một đàn hươu “cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm”. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”, rồi “hươu vểnh tai”… Cuộc đối thoại giữa ông khách sông khách sông Đà và con vật “lành” đích thực là một bài thơ trữ tình, nó chập chờn chơi vơi. Hươu hỏi người hay người tự hỏi một giả định vừa thực vừa ảo. Hình ảnh đầy chất thơ này gợi cho chúng ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ nổi tiếng của tác giả Lưu Trọng Lư:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Thiên nhiên sông Đà với sự sống nguyên sơ còn được miêu tả qua hình ảnh đàn cá dầm xanh trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”, “Tiếng cá đập nước sông khiến đàn hươu vụt biến”. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh. Biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể nghe thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật mình và ông khách sông Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.
2.3. Vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ
Nghệ thuật trùng điệp với cụm từ và cấu trúc “Thuyền tôi trôi…” được lặp lại lần nữa để nhấn mạnh vẻ đẹp tĩnh lặng mà thơ mộng của sông Đà. Từ trên còn thuyền trôi chầm chậm trên sông, nhà văn phát hiện ra sông Đà mang vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, đậm đà bản sắc văn hóa như nó được miêu tả trong câu thơ rất mực tài hoa của thi sĩ Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Ở đây ta lại bắt gặp một nét phong cách quen thuộc của nhà văn họ Nguyễn là ông luôn nhìn sự vật dưới phương diện văn hóa, lịch sử, thẩm mĩ.
Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”, “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “Con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đằm thắm nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịn sống ấm ấp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi, đang lững lờ trong tâm hồn mình, bát ngát mênh mông… Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy.
3. Đánh giá
3.1. Nội dung và nghệ thuật
Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Nhịp điệu chậm rãi, như tãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông. Ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu; những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi khiến đoạn văn trở thành một đoạn hay và đẹp về quê hương, đất nước.
Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Đọc đoạn văn, người đọc như cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”.
3.2. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong đoạn văn
Đoạn văn đã thể hiện rõ nét những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Ông là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá. Khi miêu tả sông Đà, nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, thi ca… để viết về con Sông Đà trữ tình, thơ mộng. Hơn nữa, đoạn văn cũng thể hiện văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể loại tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đọc “Người lái đò Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
Đoạn văn trích cho ta thấy được vẻ đẹp thơ mộng tiềm tàng sức sống của sông Đà, xúc cảm rất chân thành của người ngắm cảnh và một lần nữa, buộc ta phải khâm phục, ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa tài tử của Nguyễn Tuân, những chữ nghĩa, ví von có hồn có mắt được nâng niu, cẩn thận góp nhặt qua “hàng trăm tuần trà, hàng ngàn lần dạo phố Hà Nội, đi Đông đi Tây chắt lọc lại, giữ lại cho chúng ta”.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐỢT 1 CUỐI NĂM HỌC 2021 – 2022 Môn: Ngữ văn – lớp 12 THPT (Thời gian làm bài: 120 phút) Đề khảo sát gồm 02 trang.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Trăm trứng mẹ Âu Cơ, những quả trứng vũ trụ Và một ngày nở ta Ta đẫm hương một chiều sen xanh mướt Mẹ ru ta ngàn xưa tiếng Việt Hạt gạo trắng nuôi ta mặn mòi châu thổ Tóc ta bay cùng phấp phới cánh cò Gom rơm mục đồng về lót gối Hành trình dài, thao thức cơn mơ Gặt mùa nắng chín Châu thổ Cửu Long nghiêng bến Trường Sơn điệp trùng cuộn lời Hồng Hà phù sa ta Ta đã qua bao phố phường tráng lệ Paris ánh sáng hay London cổ kính Lòng vẫn trôi về bến Cội nguồn văng vẳng à ơi Mái đình cong trăng khuyết Triền sông mướt câu hò Đường làng rơm thơm vào trí nhớ Rặng tre già măng non ta Về dòng thác người cuộn về muôn hướng Chảy không nguôi dòng máu Lạc Hồng Giấc mơ nào từng ôm ấp biển Đông? (Trích Là Việt, Tập thơ Tổ quốc gọi tên mình, Nguyễn Phan Quế Mai, NXB Phụ nữ, 2015, tr 14 – 15)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Trong hai khổ thơ đầu đoạn trích, tuổi thơ của nhân vật trữ tình gắn liền với những hình ảnh nào của quê hương?
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về tâm trạng của nhân vật trữ tình khi ở cách xa quê hương?
Lòng vẫn trôi về bến Cội nguồn văng vẳng à ơi Mái đình cong trăng khuyết Triền sông mướt câu hò Đường làng rơm thơm vào trí nhớ Rặng tre già măng non ta
Câu 4. Nội dung của những dòng thơ sau có ý nghĩa gì với anh/chị?
Về dòng thác người cuộn về muôn hướng Chảy không nguôi dòng máu Lạc Hồng
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn văn bản trong phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của việc hướng về cội nguồn trong cuộc sống hôm nay.
Câu 2 (5,0 điểm)
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ1 mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt2 bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất3 tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông4 dưới. (Trích Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2021, tr.186, 187)
Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét về sự tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân. Mời các em tham khảo thêm Bộ đề thi NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ chuẩn nhất 2022!
1 Đúng ngọ: giữa trưa. 2 Đòi nợ xuýt: đòi người không mắc nợ mình một cách vô lí. 3 Khinh suất: không thận trọng. 4 Khuỷnh sông: chỗ sông gấp khúc, uốn quanh lại.
Đáp án Văn Nam Định 2022 lớp 12 đợt 1
Mời thầy cô và các em tải đề và đáp án môn Văn của SGD Nam Định lần 1 tại đây:
Có lẽ bạn muốn trở thành mặt trời nhưng bạn chỉ là một ngôi sao. Có lẽ bạn muốn thành cây lớn nhưng bạn lại là một ngọn cỏ. Có lẽ bạn muốn trở thành một con sông lớn nhưng bạn lại chỉ là một con suối nhỏ… Thế là bạn tự ti với những gì mình có. Thực ra bạn chẳng giống như những người khác, bạn cũng là một phong cảnh đẹp, cũng có không khí, cũng có bốn mùa xuân hạ thu đông, cũng là một phần đặc sắc của thế giới này. Bình thường đâu phải là đáng xấu hổ. Chỉ cần có vai trong cuộc sống là đã có vị trí thuộc về mình thực sự và bạn sáng lấp lánh từ vị trí ấy của mình….
Mỗi chúng ta đều là một sự mới mẻ, độc nhất vô nhị. Nếu chúng ta muốn độc lập tự do, muốn phát triển đặc điểm của mình thì chỉ có đưa vào chính bản thân mình. Nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta phải xây dựng những cái mới lạ đặc biệt, cũng không có nghĩa là chúng ta ăn mặc quái dị, có những hành vi lạ lùng. Thực ra chỉ cần chúng ta tuân thủ những quy định của tập thể với điều kiện là gìn giữ cái tôi của mình, không tát nước theo mưa, không tranh thủ giấu đổ bìm leo thì bạn sẽ vẫn chính là bản thân mình…
Việc gìn giữ bản sắc riêng cũng giống như lịch sử lâu đời của loài người, Angelo Patrick người đã viết mười ba cuốn sách và nhiều bài báo liên quan đến việc dạy dỗ trẻ con, nói “Điều tồi tệ nhất của con người chính là không thể trở thành chính mình và không giữ được cái tôi trong thể xác và tinh thần của mình”…
Mọi nghệ thuật đều là cách thể hiện cái tôi, vậy thì chúng ta phải hát về mình, vẽ về mình, làm nên bản thân mình. Chỉ khi nào chúng ta chăm chút cho mảnh đất nhỏ bé là cuộc sống của bản thân thì mới có thể thể hiện tốt vai trò của mình trong cuộc đời.
(Theo Giáo dục thành công kiểu Harvard, Thủy Trung Ngư – Vương Nghệ Lộ – Đặng Chi, NXB Lao động, 2018, tr. 310-314)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả đã dùng những hình ảnh nào để biểu đạt khao khát của con người muốn trở thành những cá nhân nổi bật, có vị trí quan trọng trong đời sống?
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về quan điểm của tác giả trong câu “Thực ra bạn cũng giống như những người khác, bạn cũng là một phong cảnh đẹp, cũng có không khí, cũng có bốn mùa xuân hạ thu đông, cũng là một phần đặc sắc của thế giới này”?
Câu 4. Nhận định “Mọi nghệ thuật đều là cách thể hiện cái tôi, vậy thì chúng ta phải hát về mình, vẽ về mình, làm nên bản thân mình” trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải trân trọng chính mình.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
– Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
– Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối..
– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở–Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu.. Giá mà lão uống rượu.. thì tôi còn đỡ khổ.. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão.. đưa tôi lên bờ mà đánh..
– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông..
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 75 – 76)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên; từ đó nhận xét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện qua đoạn trích.
Kiến thức cơ bản của tác phẩm gồm những đơn vị nào?
1. Xuất xứ
2. Hoàn cảnh
Tìm hiểu hoàn cảnh là một khâu không thể bỏ qua trong quá trình tìm hiểu tác phẩm.
Khi tìm hiểu, GV nên gắn với tác phẩm để HS thấy mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tác phẩm ấy. Tránh tình trạng nêu hoàn cảnh một cách ơ hờ, nêu cho có. Để làm được điều này, GV phải chú ý tích hợp với kiến thức lịch sử, xã hội, đặc biệt là kiến thức văn học sử.
Ví dụ: Khi học Chiếc thuyền ngoài xa, GV phải cho HS thấy được tác phẩm ra đời những năm 80, đất nước trở lại hòa bình, cuộc sống xã hội có nhiều thay đổi nên văn học cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ từ đề tài, cảm hứng, nhận thức hiện thực, quan niệm con người…Tác phẩm là minh chứng đầy nghệ thuật cho cuộc chuyển mình đó của văn học.
3. Chủ đề
Chủ đề là vấn đề cơ bản được đặt ra qua hình tượng
Cho HS hiểu được chủ đề chính là hiểu được tư tưởng của tác phẩm đó. Tuy nhiên, xác định chủ đề không dễ. HS thường ỷ lại vào phần ghi nhớ, nhớ một cách máy móc, nô lệ. Do đó, GV phải hướng dẫn để HS nắm được chủ đề.
Cách xác định chủ đề: Hướng dẫn HS trả lời câu hỏi (Với truyện: Truyện kể về cái gì và đằng sau câu chuyện ấy, nhà văn muốn nói điều gì ?; với thơ: Cảm xúc chủ đạo của bài thơ?).
4. Đặc sắc nghệ thuật: Tích hợp với kiến thức Lý luận văn học lớp 11 (Thể loại văn học – SGK cơ bản; Đọc thơ – SGK nâng cao), GV trang bị cho HS các yếu tố nghệ thuật của một tác phẩm văn xuôi tự sự thường bao gồm: cách xây dựng cốt truyện, tình huống, cách khắc họa tính cách và tâm lý nhân vật, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ…; Các yếu tố nghệ thuật của thơ gồm: thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu…HS lấy đó làm căn cứ để xác định nghệ thuật từng tác phẩm.
5. Dẫn chứng: GV hướng dẫn HS cách nhớ và cách sử dụng dẫn chứng: chỉ những dẫn chứng nào cần phân tích cả câu mới phải thuộc câu, còn lại chỉ cần nhớ một số từ khoá để việc học đỡ nặng nề và việc viết được linh hoạt.
Vì sao phải nắm kiến thức cơ bản
Về lý luận: đặt vấn đề nghị luận trong tổng thể tác phẩm, tránh tình trạng thấy cây mà chẳng thấy rừng; là bột để gột nên hồ – bài văn
Về thực tế:
+ đảm bảo yêu cầu của một bài làm văn (phần giới thiệu VĐ, đáp án đề thi phần này thường cho 0,5 điểm; phục vụ đắc lực cho phần triển khai và trả lời câu hỏi phân hoá theo dạng đề 2021).
+ Nắm được giá trị tác phẩm, nhớ được dẫn chứng là yếu tố tiên quyết để việc viết có tâm thế chủ động, diễn đạt sinh động, ấn tượng.
Ví dụ: Khi giới thiệu về cuộc nhân duyên kì lạ của nhân vật Tràng, nếu chỉ nắm sơ sơ, ta dễ dàng viết như sau: Tràng gặp người vợ nhặt rất tình cờ, chóng vánh.
Nhưng nếu nắm vững, nhớ cả dẫn chứng, ta có thể viết như sau: Chuyện nhân duyên của Tràng với người vợ nhặt thật chóng vánh, tình cờ: hai lần gặp gỡ, mấy câu tầm phơ tầm phào và 4 bát bánh đúc mà nên vợ thành chồng.
Rõ ràng, cùng một thông tin nhưng hai cách viết khác hẳn nhau về hiệu quả, đó là kết quả của việc nắm TP vững vàng. Chuyện tưởng xưa nhưng không bao giờ cũ !
2. Nắm vững kiến thức LLVH
a. Vai trò: LLVH là khoa học về VH. Do đó, nắm vững mảng KT này, không chỉ giúp các em Đọc hiểu TP mà còn làm cho việc tạo lập VB có hiệu quả: có tính khoa học, có sự chững chạc, có tầm nhất định.
b. Vốn liếng đã được trao: LLVH đã được trang bị tương đối đầy đủ trong CTTHPT
Lớp 10: Văn bản văn học (Đặc trưng VH); Nhà văn và quá trình sáng tạo;
Lớp 11: Đặc trưng các thể loại VH (Thơ, truyện – Tập 1; Kịch, kí, VNL – Tập 2)
Lớp 12: Các giá trị VH; Tiếp nhận VH; Phong cách VH.
c. Cách học
– Nắm những vấn đề hết sức cơ bản
Ví dụ:
Đặc trưng VH, chỉ cần hiểu: VH phản ánh con người và đời sống trong sự đa dạng, phong phú, phức tạp; VH lấy hình tượng làm phương thức phản ánh, lấy ngôn ngữ làm phương tiện; lấy việc thể hiện tư tưởng, tình cảm của người viết làm mục đích. Hình tượng và ngôn ngữ VH bao giờ cũng đa nghĩa đa tầng. Đó là cơ sở để khi phân tích ngôn ngữ, hình tượng, bao giờ cũng chú ý nghĩa biểu tượng thì bài mới có độ sâu.
Thể loại VH: Thơ (tình cảm cảm xúc; ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ..); Truyện (cốt truyện, nhân vật là linh hồn, chi tiết là hạt bụi vàng, ngôn ngữ, điểm nhìn trần thuật, ngôi kể, giọng điệu…)
– Mỗi vấn đề LLVH, nên có một vài ý kiến minh hoạ để vận dụng vào bài viết
VD: Về Phong cách VH, có thể lấy câu thơ Lê Đạt, ý kiến của Macel Prouxt ngay trong SGK…
3. Biết được thang điểm cho từng phần của bài thi
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: mở bài giới thiệu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề.
0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
0,5
c. Triển khai vấn đề nghị luận: HS vận dụng hợp lí các thao tác lập luận để triển khai và đánh giá vấn đề.
*Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, đoạn trích…
0,25
*Cảm nhận/phân tích
2,75
* Nhận xét /nêu/so sánh/liên hệ…
0,5
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo đúng chính tả, ngữ pháp và ngữ nghĩa tiếng Việt.
0,25
e. Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
0,5
4. Cách làm bài nghị luận văn học
Cách mở bài nghị luận văn học
Nguyên tắc: ngắn gọn, đầy đủ
Ngắn gọn: nên dừng ở mức 3- 5 câu
Đầy đủ: Dạng đề như đề tham khảo năm nay, có hai yêu cầu. Khi mở bài, cần giới thiệu cả 2 yêu cầu. Nếu chỉ chú ý vào yêu cầu 1 (cơ bản) mà phớt lờ yêu cầu 2(phân hoá) là thiếu, MB chưa đạt, ảnh hưởng yêu cầu 1 trong thang điểm.
Các yếu tố tác giả, tác phẩm, nội dung nghị luận cần giới thiệu ở MB phải hiểu đó là các đơn vị KT cần đảm bảo. Tuyệt nhiên không phải là trình tự cần tuân theo. Hiểu điều này, MB ít nhất sẽ tránh được mòn sáo: Tô Hoài là…; Nguyễn Tuân là …; Tố Hữu là…
Cách thức: Có rất nhiều cách MB. Xin giới thiệu với các em hai cách dễ vận dụng. Và chú ý là nên bắt đầu từ nội dung NL.
+ MB bằng tương liên: Nêu một ý/hình ảnh giống như vấn đề cần NL rồi bắt vào vấn đề đó. Cách MB này có ưu thế là có hình ảnh, dễ gây ấn tượng nhưng đòi hỏi người viết cần sẵn sàng sức liên tưởng.
VD: MB cho đề Phân tích chi tiết tiếng sáo trong VCAP (Tô Hoài). Nhận xét/nêu vai trò chi tiết trong tác phẩm tự sự.
Có thể MB như sau:
Một sợi tóc, một lóng móng tay, khoa học có thể xác định quan hệ huyết thống để ta thấy được sự bền vững của giống dòng và sự thiêng liêng nguồn cội; áp vỏ ốc biển vào tai, ta có thể nghe cả đại dương sóng vỗ. Mới hay, cái nhỏ bé ở đời nhiều khi lại chứa bao điều to lớn. Chi tiết trong TP tự sự cũng vậy. Đến với chi tiết tiếng sáo trong VCAP của TH, ta sẽ có dịp hiểu thêm về chi tiết và vai trò của nó.
+MB bằng đối lập: Nêu một ý trái ngược với nội dung NL cần bàn rồi bắt vào vấn đề NL.
VD: MB cho đề trên, có thể viết như sau:
Người ta hay bị choáng ngợp bởi những thiên sử thi đồ sộ mấy nghìn trang, mấy trăm nhân vật. Người ta cũng dễ bị hấp dẫn bởi những hình tượng chói loà, kì vĩ mang vóc tầm vũ trụ. Còn tôi, đọc truyện, tôi lại hay bị ấn tượng bởi những chi tiết bé nhỏ như mảy “bụi vàng” mà góp phần không nhỏ làm nên “bông hồng vàng” tác phẩm (Pauxtopxki). Tôi muốn nói đến một chi tiết như thế. Chi tiết tiếng sáo trong VCAP của Tô Hoài.
Hai cách MB nêu trên cũng chính là vận dụng LLVH về đặc trưng thể loại tự sự, đó là chi tiết và vai trò của nó.
Cách viết thân bài nghị luận văn học
Cách gọi ý/luận điểm
Ý phải rõ ràng, chính xác, sát hợp với vấn đề NL. Đó là thước đo của tư duy người viết, phẩm chất khoa học của bài viết.
Ví dụ: Gọi ý cho đề Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong buổi tối đầu tiên gặp người vợ nhặt.
Muốn gọi cho chính xác, cần thầm trả lời câu hỏi: nv là người như thế nào, ta sẽ có 2 ý như sau: (1). Nhân vật bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ
Và (2).Nhân vật bà cụ Tứ là người nhân hậu.
Nên gọi ý một cách ngắn gọn.
Khi chuyển ý, nên chú ý tính kết dính để tránh rời rạc, văn không có mạch.
Tuyệt đối không đi theo mạch truyện, vì: bài viết thành bài kể lể; chứng tỏ không có khả năng khái quát ý, không hiểu đề.
Cách vận dụng LLVH
Vận dụng LLVH vào gọi ý/luận điểm.
Để làm được điều này, cần phải nhận ra rất nhanh ý đó/ vấn đề đó liên quan đến vân đề gì của LLVH thì sự vận dụng mới hợp lí.
Ví dụ
Ý (1). Nhân vật bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ là hình ảnh rất chân thực. Do đó, có thể vận dụng LLVH về đối tượng phản ánh/mối quan hệ giữa VH và đời sống để gọi ý (1) như sau: Văn chương bắt nguồn từ đời sống nên văn chương trước hết phải chân thật. Nhân vật bà cụ Tứ là hình ảnh chân thật về người mẹ khổ nghèo.
Ý (2) Nhân vật bà cụ Tứ là người nhân hậu. Nhân hậu là phẩm chất, là vẻ đẹp. Do đó, có thể vận dụng LLVH về đối tượng phản ánh để gọi ý như sau: Lấy con người làm đối tượng phản ánh nhưng con người trong văn chương được khám phá ở chiều sâu thẩm mĩ, do đó, nó không chỉ chân thật mà còn phải đẹp. Nhân vật bà cụ Tứ trong VN của KL tuy nghèo khổ mà đẹp vô cùng ở một lòng nhân hậu.
Vận dụng LLVH vào chốt ý.
Muốn làm được điều này, việc phân tích cần kĩ lưỡng, sâu sắc. Cần hơn nữa là việc phân tích cần khoa học: có phân tích, có tổng hợp, nâng cao (Bài Phép phân tích và tổng hợp đã học ở lớp 9). Khi nâng cao, khái quát, chính là lúc chạm đến được LLVH.
Ví dụ: Phân tích đoạn thơ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời/Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Sau khi phân tích các yếu tố ngôn từ, hình ảnh, nhịp thơ, biện pháp nghệ thuật, có thể khái quát như sau: Đoạn thơ giàu chất nhạc; giàu chất hoạ khiến người đọc không chỉ như “ngậm nhạc ở trong miệng” (Xuân Diệu) mà còn như được thưởng tranh. Đoạn thơ quả là minh chứng sinh động cho mối duyên thơ – nhạc – hoạ. Đoạn thơ cũng là một nhịp cầu cho ta đến với một Quang Dũng tài hoa, lãng mạn bởi “người thơ phong vận như thơ ấy”
Hai câu cuối chính là vận dụng LLVH về đặc trưng thơ, về phong cách NT để chốt, nâng cao, đánh giá. Những đoạn chốt đó giúp cho bài viết từ cây mà thấy được rừng, tránh vụn vặt, miên man.
Cách sử dụng dẫn chứng mở rộng
Mục đích
Thể hiện phông kiến thức;
Thể hiện khả năng huy động kiến thức;
Giúp cho việc phân tích thấu đáo
Giúp cho người chấm có thiện cảm.
Nguyên tắc: hợp lí (đối tượng; mức độ: không nên lạm dụng)
Cách huy động: luôn có ý thức liên hệ = cách trả lời câu hỏi, viết về vấn đề này, ai đã viết? viết như thế nào?
Nguồn huy động: không cần phải tìm tòi ở đâu xa, tìm ngay các tác phẩm cùng chương trình.
Ví dụ: Phân tích câu thơ Mưa nguôn suối lũ những mây cùng mù trong VB có thể liên hệ với Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa trong TT; Phân tích dáng sông Đà như áng tóc trữ tình có thể liên hệ với dáng sông Hương mềm như tấm lụa; Phân tích nỗi khổ của người đàn bà hàng chài trong CTNX, có thể liên hệ với nỗi khổ của Mị, của nv vợ nhặt…
Hoặc xa hơn, có thể liên hệ với những TP cùng đề tài. VD: Phân tích vẻ đẹp thuỷ chung của người con gái trong Sóng, liên hệ với ca dao về lòng chung thuỷ, với chính thơ XQ.
Cách sử dụng: Dù liên hệ để thây điểm chung hay nét riêng, luôn cần những khái quát để bài có chiều sâu.
+ Liên hệ để thấy điểm tương đồng
Ví dụ: Khi phân tích điệu chảy của sông Hương khi ngang qua thành phố, điệu chảy chậm như mặt hồ yên tĩnh, như điệu slow tình cảm, có thể liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay; với thơ Tố Hữu Hương giang ơi, dòng sông êm; với thơ Thu Bồn Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Từ đó, có thể kết lại như sau: Không hẹn mà gặp, các nhà thơ đều có chung cảm nhận về điệu chảy dịu dàng của dòng sông xứ Huế. Có phải đó cũng là vẻ đẹp riêng, góp phần làm nên sức quyến rũ của xứ mộng và thơ? Và có phải cái đẹp muôn đời là nơi hẹn hò của nghệ thuật?
+ Liên hệ để thấy điểm khác biệt
Ví dụ: Phân tích hai câu thơ Em cũng không biết nữa/Khi nào ta yêu nhau, có thể liên hệ với câu thơ của Xuân Diệu Làm sao cắt nghĩa được tình yêu. Từ đó thấy rõ sự khác biệt: XD cắt nghĩa bằng lí trí, XQ nói bằng trực cảm nên thơ XQ là lời tự bạch hồn nhiên, chân thành, tươi tắn mà vẫn không kém phần sâu xa, ý nhị. Đó cũng là nét riêng thơ XQ vậy!
Về dung lượng: không cần quá dài: khoảng ¼ trang giấy thi.
Về cách trả lời
+ Nếu hỏi về liên hệ để thấy điểm chung, nét riêng: nên giới thiệu ngắn gọn đối tượng liên hệ, chỉ ra điểm chung, nét riêng và ý nghĩa.
+ Nếu hỏi về /nhận xét về một phương diện nào đó (tác phẩm, tác giả): nêu biểu hiện và nêu ý nghĩa.
Thay đổi từ linh hoạt, tránh lặp từ, tuyệt đối không dùng từ như văn nói (rằng, thì, là, mà, các thứ, con người ta); các từ rất mòn sáo (trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tóm lại, ở đây có thể hiểu là…)
Viết câu linh hoạt về dung lượng, về kiểu câu.
Muốn vậy: ngôn ngữ phải phong phú, tác phẩm phải nắm vững và sâu.
Sau khi đã biết cách làm bài đọc hiểu Ngữ Văn trong đề thi tốt nghiệp thì các em học sinh cần có Kĩ năng làm bài đọc hiểu Ngữ Văn để đạt điểm tối đa.
Câu hỏi đọc hiểu Ngữ Văn mức độ nhận biết
Đối với câu hỏi kiểm tra năng lực nhận biết về hình thức của văn bản: Nắm chắc kiến thức cơ bản liên quan đến hình thức văn bản; gọi tên chính xác đơn vị kiến thức ấy. Ví dụ: Phương thức biểu đạt; thể thơ…
Đối với câu hỏi kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin văn bản:
Ví dụ:
Đề thi TN 2021, Đợt 1
Câu 1. Theo đoạn trích, sự ra đời của một dòng sông diễn ra như thế nào? Câu 2. Trong đoạn trích, món quà cuối cùng nước dành tặng cho loài người trước khi hòa vào biển cả là gì?
Đề thi TN 2021, Đợt 2 Câu 1. Theo đoạn trích, mục đích của việc chăm sóc và giữ gìn hành tinh này là gì? Câu 2. Chỉ ra những điều cần gũi, trong việc đơn giản nên làm để bắt đầu xây dựng mái nhà chung được nêu trong đoạn trích.
👉Đọc kĩ văn bản, xác định vị trí câu có chứa yêu cầu cần hỏi trong văn bản. Tìm các thông tin có liên quan đến yêu cầu hỏi trong văn bản làm căn cứ trả lời. Cách làm đơn giản nhất là là trích dẫn trực tiếp thông tin có trong ngữ liệu đó vì khi diễn đạt lại sẽ rất dễ bị sai ý hoặc thiếu sót.
Câu hỏi đọc hiểu Ngữ Văn mức độ thông hiểu
Câu hỏi
Cách trả lời
Nêu hiệu quả sử dụng biện pháp tu từ…
– Gọi tên, chỉ rõ biện pháp;– Nêu hiệu quả về mặt nội dung, nghệ thuật+ Nhấn mạnh/ làm nổi bật điều gì?+ Bộc lộ cảm xúc gì?+ Tạo hiệu quả gì về hình thức: hình ảnh/ nhịp điệu/ liên kết…?
Việc trính dẫn câu nói của…/ việc đưa các con số…có tác dụng gì? VD: Việc tác giả trích dẫn ý kiến của Gail Sheehy có tác dụng gì? (Đề minh họa 2019)
Chỉ ra tác dụng về nội dung, nghệ thuật, về hiệu quả thuyết phục: + Làm nổi bật được vấn đề/ chủ đề chính …..của đoạn trích. + Làm cho đoạn văn sinh động, hấp dẫn. + Tăng thuyết phục được người nghe/ người đọc.
Những dòng thơ/ dòng văn sau giúp anh/chị hiểu gì về …?(Hiểu nội dung phản ánh của một câu văn/đoạn văn, câu thơ/ đoạn thơ) VD: Câu 3- Đề thi tốt nghiệp THPT 2021
Diễn giải nội dung phản ánh của các câu văn/đoạn văn (câu thơ/ đoạn thơ), trả lời theo ý hỏi của đề.
Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ….? VD: Anh/Chị hiểu như thế nào về nhận định “Thật ra, bạn vẫn luôn ở nhà mình cả khi bạn đang đang ở bất kỳ vị trí nào trên hành tinh này” trong đoạn trích? (Đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2021, đợt 2)
– Đặt ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ trong ngữ cảnh, cắt nghĩa từ ngữ quan trọng;– Diễn giải nội dung ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ;– Tác giả muốn nói điều gì qua ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ đó?
Hình ảnh thơ/ câu thơ/ câu văn/ ý kiến …có ý nghĩa gì? VD: Theo anh/chị, hình ảnh “đôi mắt” có ý nghĩa gì trong đoạn thơ? (Đọc hiểu “Đôi mắt người Sơn Tây”)
Cần trả lời cho câu hỏi: – Hình ảnh thơ/ câu thơ/ câu văn/ ý kiến… đó nói/gợi về cái gì? – Tác động đến nhận thức, tình cảm, thái độ của người đọc như thế nào?
– Theo anh/chị, vì sao…?– Bằng hiểu biết/trải nghiệm của bản thân hãy…
Dựa vào hiểu biết, trải nghiệm của bản thân để trả lời yêu cầu hỏi.
Nêu khái quát nội dung của đoạn thơ/ đoạn trích (Nêu nội dung chính của đoạn thơ/ đoạn trích).
Trả lời cho các câu hỏi: Đoạn thơ/ đoạn trích nói về điều gì/ thể hiện cảm xúc, thái độ gì của tác giả? Tác giả nói thế để làm gì? (mục đích). (dựa vào câu mở bài/câu kết bài/ ở cụm từ lặp lại nhiều lần…=> khái quát lên nội dung)
Nhân vật…hiện lên như thế nào?
Cần chú ý đến tên tuổi, nghề nghiệp, ngoại hình, tính cách, tâm trạng của nhân vật.
Chi tiết …có ý nghĩa gì?
Trả lời các câu hỏi: – Chi tiết làm nổi bật điều gì về nhân vật, về chủ đề tác phẩm? – Chi tiết đó có góp phần thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả?
Câu hỏi đọc hiểu Ngữ Văn mức độ vận dụng
Câu hỏi
Cách trả lời
Anh/chị có đồng ý với ý kiến…? Vì sao?
Nêu rõ đồng tình hay không đồng tình và lí giải vì sao? – Nếu đồng tình => Lí giải theo hướng nêu ý nghĩa của quan điểm đó. – Nếu không đồng tình => Lí giải theo hướng phản biện lại quan điểm đó. – Nếu vừa đồng tình, vừa không đồng tình => Kết hợp cả hai để lí giải.
Rút ra bài học/thông điệp có ý nghĩa nhất.
– Nêu ngắn gọn bài học/ thông điệp trong một câu. – Lí giải: Đưa ra 2-3 lí lẽ về ý nghĩa của thông điệp/bài học đó
Từ…trong đoạn trích, rút ra những bài học.VD: câu 4- Đề tốt nghiệp THPT 2021
– Chỉ ra đặc điểm của…trong đoạn trích; – Rút ra các bài học.
Nhận xét về tình cảm của tác giả với … được thể hiện trong đoạn trích. VD: câu 4- Đề tham khảo 2021
– Tác giả thể hiện tình cảm gì?– Tình cảm đó được thể hiện như thế nào?
Câu thơ/đoạn thơ….gợi cho anh chị những suy nghĩ gì? VD: Hành trình theo đuổi khát vọng của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì? (Đề thi TN THPT 2019)
Cần trả lời theo các câu hỏi: – Điều được nói tới trong câu thơ/câu văn là gì? – Đó có phải là hiện tượng đang diễn ra trong cuộc sống hay không? – Điều đó tác động đến nhận thức, tình cảm, hành động của cá nhân mình ra sao?
Đưa ra những giải pháp/ hành động cụ thể của anh/chị để…
Cần đưa ra những hành động/ giải pháp cụ thể, có tính khả thi.
Phần Đọc- hiểu thường hướng đến kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản. Năng lực đó được cụ thể hóa ở các mức độ: Nhận biết đúng, chính xác về văn bản; thông hiểu văn bản; vận dụng.
Ngữ liệu đọc hiểu là một đoạn trích hoặc một văn bản không có trong Sgk Ngữ văn.
Độ dài: vừa phải (khoảng 150 – 300 chữ).
Đề tài: rất đa dạng, phong phú.
Kiểu loại văn bản: văn bản văn học, văn bản nhật dụng/văn bản thông tin.
Độ phức tạp (độ khó) tương đương với các văn bản HS đã được học trong chương trình lớp 12.
Số điểm dành cho phần Đọc – hiểu là 3,0 điểm, với 4 câu hỏi. Cấu trúc đề thường có 02 câu nhận biết (1,0 -1,5 điểm), 01câu thông hiểu (1,0 điểm), 01câu vận dụng (0,5 – 1,0 điểm).
Một số dạng câu hỏi đọc hiểu Ngữ văn thi TN
Nhậnbiết
Thông hiểu
Vận dụng
– Nhận diện thể loại/ phương thức biểu đạt/ phong cách ngôn ngữ của văn bản/đoạn trích; – Chỉ ra chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ/ thông tin,… nổi bật trong văn bản/ đoạn trích; (Với thơ: Xác định nhân vật trữ tình, cấu trúc…; Với truyện: nhân vật, cốt truyện, tình huống truyện…, Với kịch: Xác định kiểu loại nhân vật/tuyến nhân vật…) – Chỉ ra cách thức liên kết của văn bản/ đoạn trích.
– Khái quát chủ đề/ nội dung chính/ vấn đề chính mà văn bản/ đoạn trích đề cập; – Nêu cách hiểu về một hoặc một số câu văn trong văn bản/ đoạn trích; – Hiểu được quan điểm/ tư tưởng/tình cảm của tác giả; – Hiểu được ý nghĩa/ tác dụng/ hiệu quả của việc sử dụng thể loại/ phương thức biểu đạt/ từ ngữ/ chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ,… trong văn bản/ đoạn trích; – Hiểu được một số nét đặc sắc về nghệ thuật theo đặc trưng thể loại (thơ/ truyện/ kịch/ kí…) hoặc một số nét đặc sắc về nội dung của văn bản/ đoạn trích. (Ví dụ: Với truyện: đặc điểm của nhân vật, cốt truyện, tình huống; với kịch: đặc điểm ngôn ngữ kịch, hành động kịch, xung đột kịch…)
– Nhận xét/ đánh giá về tư tưởng/ quan điểm/ tình cảm/ thái độ của tác giả thể hiện trong văn bản/ đoạn trích… – Nhận xét về một giá trị nội dung/ nghệ thuật của văn bản/đoạn trích; – Thể hiện quan điểm (đồng tình/phản đối) với một ý kiến được đề ra trong VB. – Rút ra bài học về tư tưởng/ nhận thức; – Rút ra thông điệp cho bản thân.
Những lỗi cần tránh khi làm bài đọc hiểu
Không nắm chắc kiến thức:
Không phân biệt được các khái niệm phương thức biểu đạt, thao tác lập luận với phong cách ngôn ngữ….
Không nhận diện được biện pháp tu từ, không biết cách nêu hiệu quả của phép tu từ.
Không xác định được đề tài, chủ đề, phương thức trần thuật, nhân vật trữ tình… trong văn bản…
Thiếu kĩ năng làm bài
Trả lời dài dòng, không đúng trọng tâm khiến câu trả lời vừa thiếu, vừa thừa, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian làm các phần còn lại của bài thi. Ví dụ: Anh/Chị có suy nghĩ gì về việc người học tự“đặt ra các câu hỏi”đểkhám phá tri thức mới? (Đề Khảo sát chất lượng kì I, năm học 2021-2022, Sở GD và ĐT Nam Định) HS trả lời: Theo em việc người học tự “đặt ra các câu hỏi” để khám phá tri thức mới là hoàn toàn đúng. Khi gặp những sự việc lần đầu tiên với họ chưa có kinh nghiệm thì việc đầu tiên họ nghĩ tới là đặt câu hỏi. Từ đó, dẫn đến trả lời câu hỏi, tháo gỡ thắc mắc, vấn đề càng ngày càng được giải quyết. Bản thân họ cùng có thêm tri thức mới, kinh nghiệm khi họ mới trải qua sự việc này. Và họ sẵn sàng hơn cho những lần sau. Nếu họ vẫn chưa biết cách giải quyết, hay tò mò về điều gì. Cách tốt nhất là “đặt ra các câu hỏi”.
Trả lời không đủ ý. Ví dụ: Những câu văn sau giúp anh/chị hiểu gì về dòng chảy của nước và cuộc sống của con người?Một ông lão băng qua cây cầu, một cô gái trẻ trên chiếc xe đạp điện, một đôi tình nhân ngồi ngắm sông trôi. Cứ mãi chầm chậm và cứ mãi xanh, dòng sông tận mắt chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong khu vui chơi giải trí công viên hai bên bờ và người cha cùng cậu con nhỏ đang chơi bắt bóng. (Đề Tốt nghiệp THPT 2021) HS trả lời:
HS1: Dòng nước cũng như con người sống cùng những kỉ niệm cho tới khi đổ ra biển hay chết đi.
HS2: Dòng chảy của nước nó là một hình thể giống như con người biết quan sát những sự vật hiện tượng của con người.
Trả lời không bám sát vào văn bản. Ví dụ 1: vẫn câu hỏi trên (Đề thi Tốt nghiệp THPT 2021) HS trả lời: Dòng chảy của nước và cuộc sống của con người đều trôi đi và không thể quay lại. Dù cuộc sống của con người có thay đổi như thế nào thì dòng chảy vẫn vậy.
Bỏ sót câu, ý.
CÁCH LÀM TỐT PHẦN ĐỌC HIỂU
Nắm chắc kiến thức cơ bản:
Nắm chắc những kiến thức cơ bản về Tiếng Việt, Làm văn, Văn học;
Kiến thức đời sống.
Rèn kĩ năng trả lời Đọc hiểu
Phân bố thời gian làm bài hợp lí (khoảng 15-20 phút);
Đọc kĩ đề: Đọc văn bản và câu hỏi; gạch chân dưới các từ ngữ quan trọng;
Trả lời từng câu một cách ngắn gọn, rõ ràng, đúng trọng tâm (chia thành các ý); có kĩ năng trả lời từng dạng câu hỏi;
Để lại: Bãi mới của sông xanh ngát Đất đai lấn dần ra biển Tâm hồn đằm thắm phù sa/ dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ.
Câu 3:
Câu thơ trên thể hiện những vai trò của sông Hồng:
Sông Hồng làm nên giá trị văn hoá, văn học, làm nên đời sống tinh thần, vật chất cho con người.
Sông hồng làm nên lịch sử dân tộc.
Câu 4:
Câu trên có thể hiểu: Sông Hồng của ngày hôm nay mang trong mình cả máu, nước mắt của dân tộc trong những năm oằn mình chiến đấu với giặc. Nhưng sông Hồng của là niềm vui chiến thắng.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
1. Giới thiệu chung: Sự cần thiết trân trọng giá trị văn hoá dân tộc
2. Giải thích: Văn hoá dân tộc là những giá trị tốt đẹp, ý nghĩa về vật chất, tinh thần tồn tại qua hàng nghìn năm. Nét văn hoá ấy làm nên chất riêng, bản sắc riêng của con người Việt.
👉Giữ gìn, trân trọng giá trị văn hoá dân tộc là điều vô cùng quan trọng đối với mỗi con người.
3. Bàn luận:
* Vì sao cần phải trân trọng giá trị văn hoá dân tộc?
Biểu hiện của lòng yêu đất nước.
Bảo vệ giá trị văn hóa là bảo vệ nền tảng tinh thần của dân tộc.
Những giá trị văn hoá dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết, nối kết các thế hệ.
* Cần làm gì bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc?
Nhà nước có chính sách bảo vệ những giá trị văn hoá.
Mỗi cá nhân cần ý thức được ý nghĩa của những giá trị văn hoá, từ đó bảo vệ, trân trọng những giá trị đó.
* Mở rộng:
Phê phán những kẻ phá hoại những nét đẹp của văn hoá dân tộc.
Cần học tập để hiểu rõ giá trị văn hóa dân tộc.
Tuyên truyền, tham gia giữ gìn, bảo vệ giá trị văn hóa.
Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tình thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.
– Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, từ đó bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm.
2. Thân bài
1) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích.
a) Giới thiệu nhân vật
Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, cơ cực, phải tha phương cầu thực, trở thành dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định kiến của xã hội. Chồng bà đã mất từ sớm, nhà chỉ còn mẹ góa con côi nuôi nhau đắp đổi qua ngày.
Cả đời bà lão long đong, lận đận, đến lúc gần đất xa trời mà vẫn không có tiền để thực hiện được ước mơ lớn nhất là lấy vợ cho con. Và giữa lúc đói kém, vào tâm điểm nạn đói năm 1945, người chết như ngả rạ khắp nơi, anh con trai lại lấy được vợ, đúng hơn là “nhặt vợ”.
Vì quá bất ngờ nên bà lão hết sức ngạc nhiên, đến mức không dám tin vào những gì mình nhìn thấy và nghe thấy. Mãi rồi cuối cùng bà lão cũng hiểu ra “cơ sự”. Đó là tình huống để bắt đầu những dòng cảm xúc của bà cụ Tứ trong đoạn trích.
b) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích
* Đoạn 1: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”
👉Phản ứng đầu tiên của bà cụ Tứ sau khi nghe lời giới thiệu của con trai về người đàn bà lạ “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”, khi hiểu ra sự tình là “cúi đầu nín lặng”.
– “Bà lão hiểu rồi”: Phải sau rất nhiều sự kiện, đến tận lúc này, khi anh con trai phải nói một cách tường minh thì bà cụ Tứ mới hiểu. Một người phụ nữ trải đời, một người mẹ lẽ thường sẽ rất nhạy cảm với chuyện hệ trọng cả đời của đứa con trai độc nhất, thế mà mãi đến bây giờ mới hiểu ra sự tình. Vô lí nhưng lại hợp lí bởi bà không thể tưởng tượng con trai bà có thể lấy vợ dễ dàng đến thế.
– Cái cử chỉ cúi đầu cho thấy sự nặng trĩu trong tâm tư khi bà không chỉ hiểu ra sự tình- rằng người đàn bà lạ đứng ở đầu giường thằng con trai bà và chào bà bằng u kia chính là “vợ nhặt” theo không về làm con dâu của bà, mà bà còn “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự” bằng những trải nghiệm của cả một cuộc đời nghèo khổ dằng dặc. Cho nên lẽ ra phải mừng rỡ thì bà cúi đầu, thứ ngỡ là hạnh phúc với bà lại trở thành gánh nặng. Niềm vui không thể cất cánh bởi nỗi lo áo cơm ghì sát đất.
– Bà nín lặng vì không biết phải nói gì khi trong bà đang thức dậy bao nhiêu cảm xúc hỗn độn “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”.
+ Bà thấy tủi cho con, cũng là tủi cho mình “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu chấm lửng ấy chính là sự thảm hại đến tận cùng của đói nghèo. Vì vậy mà mối nhân duyên của con trai bà mới trở thành câu chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ rúng. Phút so sánh ấy còn ẩn chứa cả cảm giác tội lỗi, vì không làm tròn bổn phận của người mẹ, lo được cho con một đám cưới trọn vẹn.
+ Bà cũng không tránh khỏi cảm giác lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Câu hỏi không có lời đáp, là vì chính bà cũng không dám hi vọng vào một cái kết lạc quan, khi xung quanh bà là sự bao vây của cái đói, cái chết
👉Giữa những cảm xúc hỗn độn đó, “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Hình ảnh này có sự gặp gỡ với giọt nước mắt khổ đau của lão Hạc “những nếp nhăn xô lại vào nhau ép cho nước mắt chảy ra”. Giọt nước mắt của người già hiếm hoi lắm “Tuổi già hạt lệ như sương” (Nguyễn Khuyến), thế mà vẫn trào ra khóe mắt bởi những cảm xúc dâng trào trong tình huống đặc biệt.
* Đoạn 2: “Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”
👉 Sau những giây phút cúi mặt với nỗi lòng nặng trĩu, với những cảm xúc tiêu cực, cuối cùng bà lão cũng ngửng lên để đối mặt với thực tại:
– Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà”, chăm chú quan sát người phụ nữ xa lạ đã dũng cảm theo không con trai bà để xây dựng tổ ấm. Trong tầm mắt nhìn của bà “thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Đó là những cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ của một người đang thiếu tự tin, dường như còn mang theo cả mặc cảm tội lỗi, thậm chí cả một chút sợ hãi. Bởi thị đường đột về đây mà chưa được sự cho phép của người lớn, mà nói như Thúy Kiều thì:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
– Cái tà áo rách bợt đã giúp bà hiểu thêm về gia cảnh của thị, về sự khó khăn đói khổ đến cùng cực, từ đây đã khơi lên ở bà tình thương ở những người đồng cảnh. Thương người, rồi lại thương con mình, vì vậy mà hướng bà đến những ý nghĩ tích cực hơn:
+ Bà nhìn nhận cuộc hôn nhân này là sự may mắn của gia đình bà “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Hơn ai hết, bà hiểu những thiệt thòi của con trai mình: lí lịch ngụ cư, gia cảnh nghèo, ngoại hình lại không hấp dẫn, nên đã đến tuổi dựng vợ gả chồng mà suốt bao lâu nay không lấy nổi vợ. Bây giờ có người sẵn sàng cùng con bà chung tay xây dựng tổ ấm, bà còn mong gì hơn. Như vậy, thay vì coi thường người vợ nhặt của con trai, bà xem thị như ân nhân của gia đình mình.
+ Bà trông chờ, hi vọng vào sự may mắn mơ hồ “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó” và dũng cảm đối mặt với những tình huống xấu nhất “chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?” -> bà nghĩ đến trọn vẹn, thấu đáo mọi chiều để sẵn sàng đón nhận
* Đoạn 3:“Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
– Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân.”
👉Cuối cùng, giữa những cảm xúc hỗn độn vừa mừng vừa tủi, với tình yêu thương con và tấm lòng nhân hậu, bà đã mở rộng vòng tay với người con dâu tội nghiệp. Câu nói đầu tiên của bà sau những giây phút cúi đầu nín lặng “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” là sự đón nhận chính thức người con dâu mới. Mừng lòng chứ không phải là bằng lòng miễn cưỡng. “Phải duyên phải kiếp” nghĩa là cuộc hôn nhân do ông tơ bà nguyệt xe duyên chứ không phải chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ rúng nữa. Bà đã khiến cho cuộc hôn nhân của Tràng và người vợ nhặt trở nên bình đẳng, đẹp đẽ như những cuộc hôn nhân bất kì nào khác. Lời đón nhận của bà như trút hẳn gánh nặng đang đè trĩu lồng ngực của anh Tràng “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi” và chắc hẳn đó cũng là những cảm xúc của người con dâu.
* Đoạn 4: “Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
– Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
– Những lời dặn dò tiếp sau của bà là sự vun vén cho đôi trẻ, hướng các con vào tương lai tươi sáng “Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Một lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của một bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết.
c) Đánh giá chung:
* Bà cụ Tứ: Đoạn trích là những diễn biến tâm lí rất xúc động của bà cụ Tứ với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc. Từ đó mà bà cụ Tứ hiện lên là linh hồn của tác phẩm, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con.
* Đặc sắc nghệ thuật:
– Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo, éo le để tạo cơ hội cho nhân vật bộc lộ, tỏa sáng những vẻ đẹp tâm hồn
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ – người mẹ nông dân chất phác mà trải đời sâu sắc
+ Dựng đối thoại sinh động với ngôn ngữ nông dân theo lứa tuổi, giới tính… mộc mạc, chân thực và sinh động tạo được sức hấp dẫn riêng.
2) Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Qua hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót thương với số phận đau khổ của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã phát hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ: dù nghèo đói và khổ cực đến đâu, ngay cả khi kề bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, và không gì có thể cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ
👉Kim Lân tâm sự:“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả.