SKKN Thiết kế và sử dụng các phần mềm vẽ sơ đồ tư duy để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán ở trường THPT
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
PHẦN I: ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
- Lí do chọn đề tài
Chúng ta đã biết rằng Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục chú trọng giúp
người học hình thành phát triển 10 năng lực và 5 phẩm chất. Trong môn Toán năng
lực nhìn thấy rõ nhất là năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tính toán, sáng tạo,
ngoài ra rèn luyện tư duy lôgic, phản xạ, … Một trong những phương pháp giúp học
sinh có thể học tốt môn toán cũng như góp phần hình thành những năng lực và phẩm
chất là sử dụng sơ đồ tư duy.
Trong điều 24, mục 2 Luật giáo dục ( do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã
chỉ rõ: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động ,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”.
Nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất của nghành Giáo dục và Đào tạo nói chung
và của mỗi giáo viên nói riêng là nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Đổi
mới phương pháp giảng dạy chính là một biện pháp thiết thực nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy học. Đổi mới theo hướng: “ Người học là chủ thể ”, “ Người
học là trung tâm của quá trình giáo dục ” trong tiếp nhận kiến thức đã được Bộ giáo
dục – Đào tạo phát động, điều đó có nghĩa: “ Người học không chỉ thu nhận kiến
thức thụ động mà quan trọng là phải biết phương pháp để thu nhận kiến thức và vận
dụng được kiến thức đó ” vào trong bài học và trong thực tế cuộc sống.
Trong thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay theo hướng phát
huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh. Bên cạnh việc đổi mới trong
phương pháp dạy thì việc đổi mới phương pháp học của học sinh cũng rất quan trọng.
Nó góp phần làm cho tiết học trên lớp đạt hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó, việc hướng
dẫn học sinh định hướng để xây dựng và củng cố, khắc sâu kiến thức một cách hệ
thống bằng sơ đồ được xem là một hình thức mới trong việc đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
“ Trong thời đại ngày nay, nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp
chí, báo, các kỷ yếu,…rất phong phú. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của
2
ngành công nghệ thông tin, chúng ta đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh mông
của thế giới. Bên cạnh đó, chúng ta thường xuyên phải ghi nhớ, tổng hợp hay phân
tích một vấn đề bằng nhiều phương pháp như kẻ bảng, gạch đầu dòng các ý chính,
vẽ sơ đồ tổng hợp,…nhưng nó chưa bao giờ được hệ thống và được nghiên cứu kỹ
lưỡng, mà chỉ được dùng tản mạn trong giới sinh viên học sinh trước các mùa thi.
Vì vậy, trong công tác giáo dục, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho sinh viên,
chúng ta cần hướng sinh viên đến một phương pháp học tập tích cực và tự chủ để
lĩnh hội tri thức, và giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật
kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để tiếp cận tốt cần có
phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình
ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại những lợi ích đáng quan
tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng
sáng tạo…Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên
kết” là Sơ đồ Tư duy – MindMap. Bài viết này, xin giới thiệu phương pháp Sơ đồ tư
duy do Tony Buzan đề xuất, được mệnh danh là “công cụ vạn năng cho bộ não” là
phương pháp ghi chú đầy sáng tạo, hiện đang được ngành giáo dục khuyến khích
đưa vào thực hiện trong giảng dạy và học tập.
Trong những năm vừa qua, việc áp dụng phương pháp mới trong giảng dạy ở
trường THPT nói chung và môn Toán nói riêng đã đem lại những kết quả bước đầu
đáng khích lệ. Học sinh hoạt động tích cực hơn trong các giờ học, các em nắm vững
và chủ động tìm tòi, phát hiện tri thức, giáo viên không còn là người làm thay mà
các em đã phát huy được vai trò thực sự của mình. Đó là thành quả của phong trào
đổi mới phương pháp dạy học, trong đó sử dụng SĐTD là phương tiện dạy học tương
đối mới mẻ ở nước ta. Đây là phương pháp mang lại tâm lí thoải mái, vui vẻ, đầy
tính sáng tạo rất phù hợp với tình hình dạy học của GV và HS hiện nay và các phong
trào do Bộ giáo dục và đào tạo phát động như phong trào “ trường học thân thiện,
học sinh tích cực”.
Tuy nhiên hiện nay còn nhiều HS học tập thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến
thức một cách rời rạc, máy móc hay theo một trình tự áp đặt của thầy cô giáo dẫn
đến HS chóng quên. Do đó, sử dụng SĐTD để hệ thống kiến thức rất thuận lợi trong
3
quá trình học tập, tư duy và ghi nhớ kiến thức. SĐTD là một sơ đồ mở chính do HS
hình thành, sáng tạo thỏa sức, là sản phẩm của chính tay HS tạo ra nên HS nhớ rất
lâu. Đồng thời, SĐTD được thể hiện bằng màu sắc, đường nét và dùng những từ
khóa để ghi chép một cách ngắn gọn, đầy đủ giúp HS quan sát được tổng thể hệ
thống kiến thức.
Dạy học bằng những phương pháp tích cực và có sử dụng SĐTD là một
phương pháp dạy học mới được áp dụng nên cả thầy và trò đều bỡ ngỡ và gặp không
ít khó khăn. HS chưa quen với việc sử dụng SĐTD để hình thành được phương pháp
tổng quát hóa nội dung của một tiết học, chưa quen trong quá trình thể hiện các
nhánh cho khoa học. Đó là chưa kể đến một bộ phận HS lười tư duy và thụ động
trong học tập. Không ít HS lúng túng không biết học bắt đầu từ đâu, làm sao ghi nhớ
các kiến thức một cách hệ thống. Không thấy được mối quan hệ giữa các kiến thức
dẫn đến nhầm lẫn, chán nản trong các giờ học kể cả học ở nhà. Ghi chép một cách
thụ động bài tập của GV cung cấp nên khi gặp bài toán tương tự vẫn ko biết cách
giải quyết. Đối với GV, sử dụng SĐTD gặp rất nhiều khó khăn trong khâu soạn,
giảng. Trong thực tế giảng dạy, qua một thời gian tìm hiểu chúng tôi thấy rằng khi
dạy tiết lí thuyết, chỉ có một đơn vị kiến thức nên rất khó hình thành SĐTD, các tiết
lí thuyết là xây dựng kiến thức mà SĐTD thường dùng để hệ thống, củng cố kiến
thức. Phần khác do một số GV suy nghĩ là dùng SĐTD để củng cố kiến thức nhằm
mục đích là nhớ kiến thức để vận dụng vào giải bài tập. Khi dạy tiết ôn tập chương,
GV thường ngại khó, chỉ hướng dẫn HS ôn tập lí thuyết một cách qua loa rồi giành
thời gian còn lại để hướng dẫn HS giải bài tập hoặc bỏ qua phần ôn tập lí thuyết chỉ
hướng dẫn giải bài tập, khi nào cần kiến thức nào thì mới yêu cầu HS nhắc lại, hoặc
ôn tập kĩ lí thuyết thì thời gian hướng dẫn ôn các dạng bài tập trong chương không
đảm bảo. Trong khi đó, tiết ôn tập chương được phân bố thời lượng tối đa chỉ một
đến hai tiết, nhưng nội dung ôn tập phải chuyển tải một lượng lớn kiến thức cơ bản
của chương và bài tập vận dụng. Mặt khác, một số GV còn ngần ngại sử dụng SĐTD
vì chưa xác định rõ quy trình dạy học và vẽ SĐTD. Đồng thời còn gặp nhiều trở ngại
trong việc sử dụng các phần mềm vẽ SĐTD. Với thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài : THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG CÁC PHẦN MỀM VẼ SƠ ĐỒ TƯ
4
DUY ĐỂ GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TOÁN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và đã ứng dụng thực tế đề tài này tại
trường THPT nơi tôi giảng dạy.
Với mong muốn thay đổi cách giảng dạy truyền thụ tri thức một chiều sang
cách tiếp cận kiến tạo kiến thức và suy nghĩ. Ý tưởng là “sơ đồ” được xây dựng theo
quá trình từng bước khi người dạy và người học tương tác với nhau. Vì đây là một
hoạt động vừa mang tính phân tích vừa mang tính nghệ thuật, nó làm cho HS gợi
nhớ các kiến thức vừa mới học hoặc đã được học từ trước. Để thực hiện được điều
như trên, bản thân tôi xác định phải bám sát các nguồn tư liệu như: chuẩn kiến thức,
kĩ năng; sách giáo khoa, sách GV và các nguồn sách tham khảo khác. Ngoài ra còn
luôn chuẩn bị một hệ thống câu hỏi và bài tập dựa trên mục tiêu của từng bài, từng
chương cụ thể, giúp HS định hướng và nắm được kiến thức trọng tâm của từng bài
học. Thông qua đó HS nắm được kiến thức cũ và lĩnh hội kiến thức mới nhanh hơn.
Trong phạm vi bài viết của mình, vì khuôn khổ đề tài nên tôi không thể đi sâu
vào giải quyết tất cả các bài học mà tôi chỉ tập trung vào việc giúp GV và HS vẽ
SĐTD và đưa ra cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học ở
một vài tiết dạy trong chương trình sách giáo khoa 11,12. Vì vốn kiến thức còn hạn
hẹp, vì khuôn khổ đề tài, cộng với kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế nên đề tài còn
nhiều thiếu sót rất mong sự trao đổi, đóng góp của các đồng nghiệp để chúng ta tạo
ra sự đa dạng, phong phú trong cách tạo cảm giác, gây dựng tình yêu toán học của
HS. - Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với HS, tạo hứng thú học tập cho HS.
Từ đó, nâng cao chất lượng học tập của HS trong các tiết học. - Qua nội dung của đề tài, tôi muốn giúp HS tiếp cận kiến thức một cách đơn
giản trực quan nhất. Giúp HS biết khắc sâu kiến thức trọng tâm, biết liên tưởng
kiến thức và giúp HS ghi nhớ kiến thức một cách tốt nhất - Giúp GV khai thác tốt SĐTD để hỗ trợ đắc lực trong quá trình dạy học
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này tập trung vào việc giúp GV và HS vẽ
5
SĐTD và cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học - Giới hạn của đề tài
Trên các cơ sở lí luận, thực tiễn và nhiệm vụ của đề tài tôi đã chọn phạm vi
nghiên cứu của đề tài là :
- Sử dụng SĐTD trong dạy học môn toán THPT
- Các tiết dạy học lí thuyết, ôn tập chương môn Toán ở các lớp 11,12
- Qua công tác dự giờ trong nhà trường và kết quả khảo sát .
- Nhiệm vụ của đề tài
- Giúp cho GV thực hiện tốt nhiệm vụ và nâng cao chất lượng giáo dục.
- Giúp cho HS phát triển tư duy, tiếp cận kiến thức một cách đơn giản nhất và
ghi nhớ kiến thức một cách tốt nhất. - Rút ra kết luận và đề xuất một số biện pháp khi tiến hành giúp đỡ từng đối
tượng HS nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường THPT.
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, trong quá trình nghiên cứu tôi
đã sử dụng các nhóm phương pháp sau:
- Nghiên cứu các loại tài liệu sư phạm, quản lí có liên quan đến đề tài
- Phương pháp quan sát (công việc dạy- học của GV và HS)
- Phương pháp điều tra (nghiên cứu chương trình và hồ sơ chuyên môn)
- Phương pháp đàm thoại phỏng vấn (lấy ý kiến của GV và HS thông qua trao
đổi trực tiếp) - Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê toán học
- Kế hoạch nghiên cứu
STT Thời gian Nội dung công việc Sản phẩm
1
Từ 15/10/2021
đến
30/11/2021
Tìm hiểu thực trạng
và chọn đề tài, viết
đề cương nghiên cứu
Bản đề cương chi tiết của đề
tài
6
2
Từ 1/12/2021
đến
15/12/2021
- Khảo sát thực trạng, tổng
hợp số liệu khảo sát thực tế - Áp dụng thử nghiệm ở các
lớp 11,12 - Tập hợp lí thuyết của đề tài
- Xử lí số liệu-> kết quả thực
nghiệm
3
Từ 16/01/2022
đến 31/3/2022
Đọc tài liệu lí thuyết, viết cơ
sở lí luận - Viết cơ sở lí luận của đề tài
- Tập hợp lí thuyết
4
Từ 1/4/2022
đến 1/5/2022
Trao đổi với đồng nghiệp
và đề xuất các biện pháp,
các sáng kiến
Tập hợp ý kiến đóng góp của
đồng nghiệp
5
Từ 2/5/2022
đến 30/6/2022 - Viết sơ lược sáng kiến
- Xin ý kiến đóng góp của
đồng nghiệp
Bản nháp sáng kiến
6
Từ 1/7/2022
đến 15/8/2022
Hoàn thành sáng kiến kinh
nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm chính
7
PHẦN II: MÔ TẢ GIẢI PHÁP
- Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Trong chương trình giáo dục phổ thông, môn toán là môn học quan trọng, môn
toán có tiềm năng để khai thác góp phần phát triển trí tuệ chung, rèn luyện và phát triển
tư duy. Trường THPT nơi tôi giảng dạy là một tập thể đoàn kết, thương yêu giúp đỡ
lẫn nhau, nhiệt tình trong công tác, tâm huyết với nghề, có tính cộng đồng cao.
Những thầy cô lớn tuổi có tay nghề vững, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy
cũng như trong cuộc sống, mẫu mực và luôn sẵn sàng giúp đỡ, dìu dắt thế hệ trẻ.
Lực lượng giáo viên trẻ năng động, kiến thức vững vàng, ham hoạt động, hăng say
và có chí tiến thủ, có ý thức rèn luyện và trau dồi chuyên môn, say mê học tập nâng
cao trình độ. Đội ngũ quản lí tâm huyết, năng động, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho
GV và HS phát triển năng lực. Ngay từ khi Bộ giáo dục chủ trương đổi mới phương
pháp dạy học, nhà trường cũng như các tổ chuyên môn đã nhanh chóng triển khai
các buổi họp chuyên môn, thảo luận về đổi mới phương pháp, chuần kiến thức, kĩ
năng. Triển khai và rút kinh nghiệm sau mỗi giai đoạn, tạo điều kiện cho GV và HS
thích nghi nhanh với việc dạy và học theo phương pháp mới.
Về bản thân, được nhà trường giao nhiệm vụ dạy học lớp 11,12, được lãnh đạo
nhà trường tạo điều kiện, góp ý về chuyên môn; được các đồng nghiệp và học trò
ủng hộ và hưởng ứng trong việc áp dụng phương pháp mới vào dạy học. Được trao
đổi và đã rút ra nhiều kinh nghiệm trong quá trình hình thành đề tài.
Bên cạnh đó nhà trường còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất; điều kiện
kinh tế xã hội khu vực trường đang đóng còn nhiều thiếu thốn, đa số HS là con em
nông dân có thu nhập thấp còn khó khăn về kinh tế dẫn đến việc đầu tư học tập còn
nhiều hạn chế.
Theo quan điểm từ trước đến nay, học toán là những kiến thức mang tính chất
chân lí, hàn lâm nên con đường để tiếp nhận kiến thức rất cứng nhắc và khô khan.
Vì vậy trong tâm lí đại đa số HS học toán lúc nào cũng khó và chán. Và lâu nay việc
dạy học toán cũng nặng về truyền thụ kiến thức, rèn luyện kĩ năng giải bài tập, còn
ít hoạt động thực tế và trải nghiệm. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là, trên thực tế lớp
học lúc nào cũng bao gồm đủ các loại HS từ khá giỏi đến yếu kém. Mức độ tiếp thu
8
bài của các em không đồng đều nhau gây ra việc khó khăn trong việc lựa chọn các
hoạt động giảng dạy phù hợp với trình độ của lớp.
Trong những năm vừa qua việc áp dụng phương pháp dạy học mới- sử dụng
SĐTD vào giảng dạy môn toán tại trường bản thân tôi nhận thấy được sự lúng túng
trong việc hình thành SĐTD cho từng tiết dạy, hệ thống kiến thức từng phần, từng
chương; thiết kế và thực hiện các hoạt động dạy học theo phương pháp dạy học lấy
học sinh làm trung tâm. Hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chưa
thật sự độc lập suy nghĩ. Nhiều HS không biết đọc và lưu giữ thông tin ( nghe giảng
thì không ghi được, ghi thì không nghe được; sắp xếp lộn xộn, ghi xong quên
ngay…). Hầu hết HS chỉ đơn thuần là tìm kiếm kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa và ghi nhớ một cách rời rạc, chưa có sự ghi nhớ giữa các phần, các bài, các
chương theo một hệ thống tư duy có logic và nhớ, thuộc kiến thức theo một trình tự
sắp đặt, bắt buộc của thầy cô giáo và sách giáo khoa,….
Mặt khác, dạy học có sử dụng SĐTD là một phương pháp dạy học mới do đó
một số thầy cô giáo còn lúng túng trong quá trình giảng dạy cũng như hình thành
bản đồ tư duy. Đặc biệt một số thầy cô giáo và HS gặp nhiều khó khăn trong việc
đưa SĐTD vào tiết học như thế nào, tại thời điểm nào cho thích hợp. Bên cạnh đó,
việc vẽ SĐTD trên giấy, trên bảng, trên bảng phụ, trên máy tính của thầy cô giáo
gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, vì không tuân theo một chuẩn mực nào nên không
ít GV vi phạm nguyên tắc ghi bảng khi hình thành kiến thức theo dạng SĐTD. - Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng SĐTD
Việc sử dụng SĐTD như một phương pháp giảng dạy mới. Theo ông Vũ Đình
Chuẩn vụ trưởng vụ giáo dục trung học: “ngoài tính khoa học ,phương pháp học này
có nhiều ưu điểm phù hợp với điều kiện kinh tế và cơ sở vật chất của ngành giáo
dục Việt Nam”; “Sơ đồ tư duy có thể áp dụng cho nhiều vùng khác nhau ,đặc biệt
tại các vùng nghèo ,giáo viên có khi chỉ cần một tấm bản đồ dùng rồi , một tờ lịch
dùng rồi,chỉ cần một mặt giấy cũng có thể vẽ được bản đồ tư duy . Chính vì tính linh
hoạt nên khi áp dụng nó khả thi”; “Việc phát triển tư duy cho học sinh và giảng dạy
kiến thứcvề thế giới xung quanh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của những
9
người làm công tác giáo dục”. Còn theo tiến sĩ Trần Đình Châu-người đầu tiên tiến
hành nghiên cứu và tìm cách đưa phương pháp bản đồ tư duy vào giảng dạy ở Việt
Nam thì “quan trọng là phổ biến phương pháp giảng dạy này đến giáo viên ,thay đổi
tư duy dạy học của họ”.
Trong hoạt động dạy học có hai chủ thể thầy và trò. Mối quan hệ giữa thầy và
trò là quan hệ thầy – người tổ chức, điều khiển quá trình nhận thức và trò, nhằm thực
hiện mục tiêu các hoạt động dạy học. dạy học chỉ có hiệu quả khi cả thầy và trò tích
cực hợp tác hoạt động.
SĐTD là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ
thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức… bằng cách kết hợp việc sử dụng
đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Tác giả của
SĐTD là Tony Buzan, ông là người đã thúc đẩy làn sóng cách mạng học tập bùng
nổ tại nhiều nước trên thế giới và khu vực, trong đó có Việt Nam. Có thể nói, SĐTD
là con đường dẫn HS đến với phương pháp “ học cách học”.
Lí luận dạy học đã chỉ ra rằng, HS vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình
dạy học. Việc sử dụng kĩ thuật dạy học SĐTD làm cho HS có điều kiện trao đổi với
thầy với bạn, sẽ phát huy tốt tính tích cực chủ động của HS. Thay đổi phương pháp,
mô hình dạy học là yêu cầu không thể thiếu trong xã hội hiện đại, nó vừa phát huy
tốt ưu thế của mỗi môn học, vừa tạo được sự hấp dẫn đối với HS, thông qua đó vừa
giáo dục và hình thành những kĩ năng sống cơ bản cho HS.
Tuy nhiên, việc tổ chức bài học sôi động và chuyển đổi các dòng chữ dài và đơn
điệu trong sách giáo khoa thành các bài học với những hình vẽ, đường cong sinh
động và dễ hiểu không phải là vấn đề dễ dàng đối với GV và HS hiện nay. Việc thay
đổi cách nghĩ, cách học đối với lớp học mà HS có mặt bằng nhận thức không đồng
đều, lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Bởi vì, từ lâu HS đã quen với việc chỉ cần
ghi chép các nội dung mà thầy, cô truyền đạt, khi về nhà chỉ cần học thuộc lòng bài
cũ, không cần hiểu sâu hay áp dụng vào thực tế, tất cả những điều đó đã ăn mòn
trong cách học của các em bấy lâu nay. Do vậy, việc vận dụng phương pháp SĐTD
lại càng trở nên gian nan đối với GV.
Từ những vấn đề lý luận nêu trên, có thể khẳng định việc sử dụng kĩ thuật dạy
10
học SĐTD là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập. Bằng phương pháp
này, GV và HS có thể trình bày ý tưởng và nội dung bài học một cách rõ ràng, sáng
tạo, thông tin được tóm tắt cô đọng, đưa ra được nhiều ý tưởng mới… Trong đó, GV
đóng vai trò hướng dẫn, tổ chức, nhận xét, bổ sung và đánh giá trong tiết học; HS
không phải ghi chép nhiều, thời gian của tiết học được dùng để thảo luận nghiên cứu
và báo cáo; đồng thời HS được rèn luyện nhiều kỹ năng như làm việc nhóm, hợp tác
và tự tin trước tập thể, qua đó giúp HS vượt qua rào cản tự ti và
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: