dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Biện pháp tạo hứng thú cho HS trong hoạt động Giáo dục thể chất bằng trò chơi và âm nhạc

SKKN Biện pháp tạo hứng thú cho HS trong hoạt động Giáo dục thể chất bằng trò chơi và âm nhạc

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
* Cơ sở lí luận:
Nghiên cứu khoa học đã chứng minh rèn luyện thể chất không những có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của cơ thể mà còn có những tác động tới
con người về các mặt trí lực. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe thông qua việc rèn luyện thể chất, là biện pháp chủ động, tích cực
nhất, ít tốn kém nhất, có khả năng thực thi cao nhất và phù hợp với quy luật phát
triển tâm, sinh lý của cơ thể và lứa tuổi, đóng vai trò quan trọng phòng ngừa
bệnh tật, nâng cao sức khỏe, làm đẹp hình thái và phát triển toàn diện các tố chất
vận động một cách hoàn thiện nhất. Rèn luyện thân thể bằng việc tập luyện các
môn thể dục thể thao khác nhau với những đòi hỏi sự nỗ lực cao của bản thân về
thể chất và ý chí tinh thần, có thể giúp hình thành và giáo dục được những phẩm
chất đạo đức nhân cách của con người một cách tự nhiên như: Ý chí, lòng dũng
cảm, sự quyết tâm, sự tự tin, tính kiên trì và nhẫn nại; ý thức tổ chức kỷ luật,
tinh thần tập thể, ý thức đồng đội… Văn hóa thể chất giúp xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần lành mạnh, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng niềm
tin và tinh thần lạc quan cho thế hệ trẻ.
Rèn luyện thể chất cũng giúp trí não thư thái, giảm bớt những căng thẳng
lo âu. Các nghiên cứu cho thấy tập luyện thường xuyên ảnh hưởng đến nhiều
chức năng của hệ thần kinh, làm phát triển khả năng hoạt động của não bộ, làm
tăng sự sảng khoái, giảm stress, cải thiện giấc ngủ, cải thiện sự tự tin, tăng khả
năng nhận thức.
Điều 2 Nghị định 11/2015/NĐ-CP quy định về vị trí, mục tiêu giáo dục
thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường: “Giáo dục thể chất trong nhà
trường là nội dung giáo dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình giáo dục của
các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em, học sinh, sinh viên
các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục,
3
thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện”
Giáo dục rèn luyện thể chất trong nhà trường có ý nghĩa to lớn trong việc
phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người. Đồng thời góp phần nâng cao thể lực,
hoàn thiện các năng lực thể chất, phát triển trí lực, giáo dục nhân cách, đạo đức,
lối sống lành mạnh, văn minh.
Nội dung đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với giáo dục trí
dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động. Mục đích của GDTC là góp phần
phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt Nam, thế hệ trẻ đó phải được phát triển thể
chất có chủ định để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.
Học sinh là lứa tuổi đang phát triển và hoàn thiện thể chất, hình thành
nhân cách. Việc rèn luyện thể chất không chỉ giúp thể chất khỏe mạnh mà còn
hoàn thiện nhân cách, phát triển các năng lực trí tuệ, nhằm hướng tới sự phát
triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, đáp ứng được các đòi hỏi của cuộc
sống cũng như thích nghi được với các điều kiện môi trường tự nhiên, xã hội
trong suốt thời gian học tập cho tới quá trình lao động nghề nghiệp.
Bậc tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân vì vậy
giáo dục thể chất ở trường tiểu học có ý nghĩa vô cùng quan trọng với học sinh.
Rèn luyện thể chất – thể lực là cơ sở, nền tảng trau dồi và phát triển trí lực, hoàn
thiện nhân cách.
Mục tiêu của hoạt động Giáo dục thể chất cấp tiểu học – giai đoạn giáo
dục cơ bản là: “Giúp học sinh biết cách chăm sóc sức khoẻ và vệ sinh thân thể;
hình thành thói quen tập luyện nâng cao sức khoẻ; thông qua các trò chơi vận
động và tập luyện thể dục, thể thao hình thành các kĩ năng vận động cơ bản, phát
triển các tố chất thể lực, làm cơ sở để phát triển toàn diện…”
Như vậy, ngay từ cấp tiểu học, học sinh cần được giáo dục dần hình thành
thói quen rèn luyện sức khỏe qua các hoạt động giáo dục thể chất. Để đạt mục
4
tiêu trên, chúng ta cần phải tạo cho học sinh sự yêu thích môn học và hào hứng,
nhiệt tình khi tham gia luyện tập.
Như chúng ta đã biết nét đặc trưng không thể thiếu trong tâm lý học sinh
tiểu học là tính vui tươi, hồn nhiên, hiếu động . Vì vậy, phương thức “Học mà
chơi – chơi mà học” luôn tạo nên môi trường sư phạm thân thiện, hiệu quả.
Trong hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) thì phương thức này càng hữu hiệu.
Các hoạt động GDTC không nên theo khuynh hướng thể dục đơn thuần, máy
móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm chán mà phải kích thích, tác
động toàn diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, tạo nên sự hứng thú, giúp các em
ham thích, tập luyện tốt hơn đồng thời giáo dục đạo đức và ý chí tập luyện cho
học sinh.
Để một giờ hoạt động thể chất đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần nắm vững và
vận dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng trong dạy- học GDTC, trong đó
có chú trọng phương pháp trò chơi, thi đấu, trình diễn. Ngoài việc dùng hình ảnh
minh họa, thị phạm trực tiếp bằng động tác mẫu thì âm nhạc và trò chơi là
những yếu tố vừa có tính thẩm mỹ vừa có tính hiện đại, khoa học và tạo hứng
thú học tập cho học sinh. Sử dụng âm nhạc trong dạy thể dục được coi như một
phương tiện truyền thụ kiến thức rất hiệu quả cho học sinh. Bởi vậy, đưa âm
nhạc vào tiết Thể dục làm nhạc nền, sử dụng âm nhạc vào các giai đoạn của các
bước lên lớp chính là góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy.
p dụng âm nhạc trong môn thể dục giúp cho quá trình truyền đạt nội
dung bài học được diễn ra rất nhanh gọn và khoa học. Qua các bài khởi động
liên hoàn, các bài tập, các trò chơi hỗ trợ dưới tiếng nhạc nền, phù hợp với nội
dung bài học sẽ giúp tiết học nhịp nhàng sinh động hơn, tăng khả năng tiếp thu
của học sinh lên nhiều lần. Âm nhạc đưa vào phần chuyển tiếp nội dung cũng
giúp học sinh thư giãn hơn, tránh được khoảng thời gian lặng đôi khi vẫn xảy ra
trong giờ học.
5
Trò chơi là loại hình hoạt động rất quen thuộc gần gũi với chúng ta. Trò
chơi vừa mang tính chất vui chơi, giải trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo
dưỡng và giáo dục lớn lao đối với con người. Với lứa tuổi trẻ em ,trò chơi càng
có ý nghĩa đặc biệt hơn. Trò chơi tạo tất cả những điều kiện để trẻ em được thể
hiện những nhu cầu tự nhiên về hoạt động, tạo ra những rung động thực tế và
quan trọng cho cuộc sống. Trong hoạt động GDTC, trò chơi giúp học sinh luôn
húng thú và tích cực vận động, góp phần tạo nên thành công cuả hoạt động
GDTC.
* Cơ sở thực tiễn:
Hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao khi học sinh tiến hành các hoạt động
học tập một cách tự nguyện, tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ sâu
sắc. Thực tế hiện nay, giờ học giáo dục thể chất trong nhà trường học sinh tiểu
học còn xem nhẹ, cho đây là một môn phụ, chưa thực sự hứng thú nên khi vận
động nhanh bị nản và mệt mỏi.
Mặt khác, đối với học sinh tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát
triển đầy đủ, tổ chức sụn chiếm tỷ lệ cao, cột sống yếu. Hệ hô hấp ở độ tuổi này
có đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động chưa tốt (do tim còn nhỏ). Sự
tập trung chú ý chưa bền vững, dễ phân tán, tính hưng phấn cao, trí tưởng tượng
phát triển hơn song còn tản mạn, ít có tổ chức, tư duy logic chưa cao. Do đó làm
thế nào để giờ dạy giáo dục thể chất thực sự thu hút được học sinh tập trung chú
ý, tích cực tập luyện và tập luyện có hiệu quả là một vấn đề đòi hỏi người giáo
viên cần phải có sự đầu tư, nghiên cứu.
Hơn nữa, phần lớn các trường tiểu học vùng nông thôn chưa có nhà hoạt
động thể chất, tiết học chủ yếu diễn ra ngoài trời nên thường bị các yếu tố bên
ngoài tác động làm ảnh hưởng đến các hoạt động và sự tập trung của học sinh.
Do vậy giáo viên cần có những biện pháp tích cực để giúp học sinh tập trung và
có được hứng thú trong học tập.
Một yếu tố quan trọng mà giáo viên phải lưu tâm tới là nội dung bài học
theo phân phôi chương trình của khối lớp 4,5 có rất nhiều bài ôn tập dễ gây ra
6
sự nhàm chán cho HS vì vậy việc tạo ra sự nét mới cho các hoạt động trong giờ
học để thu hút sự hào hứng học tập của học sinh là vô cùng cần thiết.
Bảng thống kê nội dung chương trình Phần vận động cơ bản lớp 5:

Nội dungHọc mớiÔn tập
1. ĐHĐNÔn tập các nội dung đã học ở các
lớp 1,2,3,4
2. Bài TDPTC– Học 8 động tác bài
TDPTC
Ôn tập cả bài TD (6 tiết ) tuần
14-15-16
3. Bài tập RLTT
và KNVĐCB
– Bật cao
– Bật phối hợp chạy
& bật nhảy
– Ôn Tung và bắt bóng( lớp 2-3)
– Ôn Bật xa (lớp 4)
– Ôn Nhảy dây (lớp 3- 4)
– Phối hợp chạy, mang vác (lớp4)
– Ôn Phối hợp chạy, nhảy, mang
vác (lớp 4)
4. Trò chơi– Học mới 8 trò chơi– Chơi 19 trò chơi đã học từ lớp
1,2,3,4
5. TTTC– Học tâng cầu bằng
mu bàn chân
– Phát cầu bằng mu
bàn chân.
– Ôn tâng cầu bằng đùi (lớp 4)
– Ôn chuyền cầu bằng mu bàn
chân (Lớp 4)
– Chuyền cầu theo nhóm hai
người (Lớp 4)

Đặc biệt, bản thân tôi từng tham gia những chuyến dã ngoại cùng với các
em HS. Tôi đã thực sự ấn tượng về cảm xúc và hành vi của các em HS trong
màn khởi động tập thể. Những người tổ chức đã biết phối hợp các động tác khởi
động quen thuộc, đơn giản cùng nhạc nền sôi động được cập nhật theo thị hiếu
của các em thành những hiệu lệnh và tổ chức thành một trò chơi tập thể rất sôi
nổi và lôi cuốn trẻ em …Và chính qua chuyến trải nghiệm đã giúp tôi cảm nhận
sâu sắc rằng: trẻ em có sở thích, phong cách và xu hướng riêng – chúng luôn
7
bùng cháy hết mình trong âm nhạc và trò chơi. Điều này đã khơi gợi trong tôi ý
tưởng nắm bắt lấy xu hướng đó và phát huy một cách có chủ định nhằm tạo
không khí sôi nổi thu hút sự tập trung của các em học sinh và màu sắc mới mẻ
trong việc tổ chức các HĐGDTC.
Với mục đích tạo những hoạt động hiệu quả với tinh thần: “Học mà chơi –
chơi mà học” cho các em học sinh thì lồng ghép âm nhạc vào các nhiệm vụ vận
động và tổ chức một số bài tập dưới hình thức trò chơi là biện pháp tôi đã chọn
để tạo hứng thú tập luện cho học sinh trong hoạt động GDTC.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến :
1.1. Ưu điểm:
* Ban giám hiệu nhà trường:
Xác định đúng vai trò và tầm quan trọng của hoạt động giáo dục thể chất nên đã
có sự quan tâm chỉ đạo sát sao, thể hiện qua việc: Tạo điều kiện cho đội ngũ giáo
viên dạy giáo dục thể chất học tập nâng cao trình độ đào tạo, tham gia các buổi
hội thảo và giao lưu với các trường bạn để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và
học hỏi kinh nghiệm.
Đầu tư mua sắm trang thiết bị cần thiết cho việc dạy học môn Giáo dục thể
chất và những trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TDTT.
Chỉ đạo đội ngũ giáo viên GDTC thực hiện nghiêm túc nội dung chương
trình, thường xuyên kiểm tra dự giờ để nắm bắt thực trạng dạy học bộ môn
đồng thời giúp đỡ để giáo viên thể chất chủ động tích cực đổi mới phương pháp
dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
Đảm bảo chế độ chính sách cho đội ngũ GV, kịp thời động viên khích lệ
thành tíchmôn học và thành tích hoạt động TDTT.
* Giáo viên bộ môn giáo dục thể chất:
Có năng lực sư phạm vững vàng, không ngừng học tập bồi dưỡng để trau
dồi chuyên môn nghiệp vụ
8
Thực hiện nghiêm túc chương trình nội khóa và các hoạt động giáo dục thể
chất ngoại khóa; đánh giá học sinh theo đúng quy định.
Tích cực làm đồ dùng dạy học để phục vụ môn học, khắc phục tình trạng
khó khăn, hạn chế về kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy học.
Tích cực đổi mới phương pháp: phối hợp các phương pháp dạy học truyền
thống đặc thù của môn học và các PPDH tích cực dạy học để tạo hứng thú học
tập cho học sinh, nâng cao chất lượng bộ môn.
* Học sinh:
Phần lớn học sinh được gia đình quan tâm chăm sóc đầy đủ chế độ dinh
dưỡng nên thể lực khỏe, vận động tốt
Học sinh ngoan, tích cực tham gia các hoạt động học tập, nhiều em khá
mạnh dạn, tự tin trong học tập.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:
* Khó khăn về cơ sở vật chất: Nhà trường chưa có nhà đa năng, học sinh
tập luyện trên sân tập ngoài trời nên phụ thuộc nhiều vào thời tiết và bị chi phối
bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh . Mặc dù nhà trường đã quan tâm đầu tư trang thiết
bị dạy học song vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ theo yêu cầu phục vụ tập luyện.
* Nhận thức của học sinh về vai trò môn học:
Lứa tuổi nhỏ nên các em học sinh rất hiếu động, sự tập trung chú ý chưa
cao. Bản thân các em học sinh chưa hiểu đầy đủ được tầm quan trọng của môn
học cũng như tác động tích cực của từng nội dung học tập đối với sự phát triển
của cơ thể, với sự hình thành năng lực phẩm chất nên chưa có động cơ học tập
đúng đắn.
Học sinh học tập một cách thụ động, giáo viên hướng dẫn thao tác, kĩ thuật
động tác nào các em tiếp thu một cách đơn điệu, đôi lúc còn tỏ ra uể oải vì cho
rằng khối lượng vận động quá nhiều, không phù hợp với các em.
* Sự quan tâm của phụ huynh: chưa thực sự chú trọng đến giáo dục Thể
chất của con em trong trường học, coi đó là môn phụ nên chưa thấy được tầm
trọng và cũng chưa có sự quan tâm tạo điều kiện thích đáng cho con em học tập.
9
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1 Tính mới và sự khác biệt:
Xuất phát từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và đặc biệt từ thực trạng về công
tác dạy học môn Giáo dục thể chất của đơn vị công tác, tôi thấy cần thiết phải có
những biện pháp tích cực để phát huy ưu điểm đồng thời khắc phục khó khăn
hạn chế trong dạy học bộ môn.
Qua tìm hiểu và thực nghiệm tôi đã quyết định lựa chọn đưa âm nhạc và trò
chơi tích hợp vào môn học để góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giảng
dạy, biện pháp có được những điểm mới sau:
– Trò chơi và âm nhạc thực sự là một trong các phương tiện và phương thức
giúp tạo húng thú học tập vận động hữu hiệu trong môn GDTC.
– Không những giúp HS luyện tai nghe nhạc, củng cố ca hát, tạo cảm giác
nhịp điệu, cảm thụ âm nhạc…. mà chính các yếu tố đó góp phần làm cho HS yêu
thích đồng thời phát triển khả năng vận động nhịp nhàng linh hoạt.
– Mỗi trò chơi được kết hợp, sử dụng trong giờ học đều có ý nghĩa
giúp HS phát triển trí tuệ, bổ trợ,tạo cho trẻ có những phản xạ nhanh, nhạy,
có tác dụng trong việc tạo hứng thú học tập.
– Biện pháp kết hợp được cả âm nhạc vào trong trò chơi và âm nhạc vào
các bài tập vận động.
– Việc lựa chọn các bài nhạc có nhịp điệu tiết tấu phù hợp giúp vận động
nhịp nhàng hơn. Tích hợp các bài hát theo chủ điểm của tháng còn góp phần
giáo dục truyền thống cho học sinh.
– Trong giờ học sử dụng đa dạng các trò chơi từ kho tàng trò chơi dân gian
và trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động kết hợp phát triển trí tuệ giúp học sinh
hào hứng tự nguyện tập luyện, tránh được sự nhàm chán tẻ nhạt.
– Học sinh dễ dàng vận dụng tập luyện được các bài tập qua trò chơi và âm nhạc.
Lựa chọn và sử dụng hợp lý các trò chơi, các bài hát,nhạc tích hợp vào
giờ học giúp cho:
– Quá trình truyền đạt nội dung bài học nhanh hơn, kiến thức được khắc
sâu hơn.
10
– Cải thiện khả năng phối hợp vận động của học sinh.
– Tránh được sự hình thức, lan man, hoặc làm mờ nhạt nội dung bài học.
Đảm bảo đạt được mục tiêu, yêu cầu giờ học theo phương thức “Học mà chơi –
chơi mà học” phù hợp tâm lí lứa tuổi của HS tiểu học.
– Và nhất là phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phất triển toàn diện phẩm chất và năng lực cho học sinh, góp phần thực
hiện nhiệm vụ của hoạt động Giáo dục thể chất trong chương trình GDPT mới .
– Việc đưa âm nhạc vào giờ thể dục là một trong nhưng biện pháp đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong giờ học. Đối với học sinh tiểu học, là thời kỳ đầu tiên để phát triển thể
chất thì việc áp dụng âm nhạc vào môn thể dục sẽ góp phần rèn luyện cho học
sinh có nếp sống lành mạnh, tập luyện và vui chơi có ý thức kỷ luật, từ đó hình
thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển trí tuệ và thể chất
một cách toàn diện. Ví dụ, để di chuyển từ đội hình hàng ngang thành vòng tròn,
để khởi động chơi trò chơi, trước đây các em di chuyển theo khẩu lệnh thì nay
được áp dụng bằng âm nhạc. Các em sẽ vừa hát theo nhạc, vừa vỗ tay, vừa di
chuyển về vị trí đã được quy định trên sân. Nên chọn những bài hát vui tươi,
trong sáng phù hợp với lứa tuổi, những bản nhạc học sinh dễ cảm nhận, dễ
thuộc, phù hợp với các bài tập để tạo cảm giác hứng thú cho các học sinh…
Đối với học sinh tiểu học, các em thích có những động tác, bài tập ngộ nghĩnh
đáng yêu và cũng rất thích hát. Vì vậy, việc biên soạn một số bài tập thả lỏng,
thư giãn theo tiếng nhạc, sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao.
– Ngoài các trò chơi vận động trong chương trình theo quy định thì GV cũng rất
cần tìm tòi và sáng tạo các trò chơi khác để ứng dụng vào quá trình dạy học, góp phần
tạo không khí vui tươi, sự hứng thú cho HS, đem lại hiệu quả cao cho giờ học bộ môn.
2.2 Nội dung biện pháp và cách thực hiện:
* Biện pháp 1: Tổ chức một số các bài tập vận động dƣới hình thức trò chơi.
– Tổ chức cho học sinh khởi động, thả lỏng bằng đa dạng các trň chơi trong
kho tàng trò chơi dân gian, trò chơi sáng tạo do giáo viên lựa chọn, phù hợp với
nội dung vận động của bài học:
11
VD: Trò chơi: Kết bạn, mèo đuổi chuột, kéo cưa lừa xẻ, làm theo lệnh tôi,
chim bay cò bay, đứng ngồi theo lệnh, tôi bảo, gió thổi….
– Tổ chức trò chơi dưới hình thức trò chơi : Ở các bài ôn tập các nội dung,
các tư thế : Nghiêm! Nghỉ; quay phải- quay trái, tập hợp hàng dọc- hàng ngang
– điểm số…giáo viên có thể cho học sinh tập luyện các bài tập dưới hình thức tổ
chức trò chơi như :„„Làm theo hiệu lệnh”, „Thi xếp hàng nhanh‟‟, „„Thi điểm số
đúng‟‟…để tạo ra tính mới mẻ, hấp dẫn cho các nội dung tập luyện , thu hút học sinh hơn.
– Với nội dung bài dạy động tác mới của bài TDPTC: Sau khi phân tích kĩ
thuật, hình thành kiến thức động Gv có thể tổ chức cho học sinh tập luyện kết
hợp các bài tập bổ trợ động tác. Khi học sinh đã hình thành được động tác có thể
tập luyện dưới hình thức trò chơi : “Ai nhanh ai đúng” các nhịp của động tác.
Với trò chơi này, giáo viên có thể nêu nhịp theo thứ thự, sau đó tăng dần độ khó
là đảo nhịp- trò chơi này giúp các em kết hợp phản xạ nhanh trong ghi nhớ giúp
quá trình ghi nhớ nhịp trong động tác được nhanh, chính xác và lâu hơn.
Sau khi đã hình thành các động tác bài thể dục, để các em có thể ghi nhớ chủ
động và khắc sâu hơn, nhanh và chính xác tên các động tác, thứ tự các động tác Gv
có thể tổ chức cho các em chơi trò chơi “ Truyền điện” tên các động tác , có thể
tăng dần độ khó của trò chơi theo nhận thức của học sinh theo 3 mức độ sau :
+ Mức độ 1: Chỉ cần nhớ tên các động tác.
+ Mức độ 2: Nhớ tên động tác theo thứ tự theo thứ tự đúng.
+ Mức độ 3: Nói được tên động tác theo chỉ định
* Biện pháp 2: Sử dụng các giai điệu, bài hát phù hợp lồng ghép vào một số
các bài tập vận động tại những thời điểm nhất định trong giờ học.
Cụ thể dựa trên tiến trình hoạt động của giờ học và phân phối nội dung
phần vận động cơ bản các khối lớp, tôi đã thực hiện như sau:
– Phần khởi động, thả lỏng hồi tĩnh:
Thay cho cách hô nhịp truyền thống , giáo viên tổ chức cho học sinh kết
hợp khởi động hoặc thả lỏng trên nền các giai điệu, bài hát vui tươi, phù hợp
lứa tuổi học sinh để tạo không khí tích cực cho giờ học.
12
Cũng có thể sử dụng chính các bài dân vũ, múa hát giữa giờ để đưa vào
phần hoạt động này.
VD: Các bài dân vũ: (vũ điệu rửa tay, Trống cơm, Chicken Dance…),
một số bài hát có nhịp điệu phù hợp học sinh đã được học trong giờ Âm nhạc
:„„Hát lên chào ngày mới‟‟, „„ Ước mơ‟‟, „„ Reo vang bình minh‟‟, „„Khăn
quàng thắp sáng bình minh‟‟, „„Lớp chúng mình đoàn kết‟‟…, các bản nhạc
nền cho thể dục nhịp điệu
Vào từng tháng trong năm học, Giáo viên có thể sử dụng một số các bài
hát theo chủ điểm đưa vào hoạt động khởi động hay thả lỏng sẽ gián tiếp giáo
dục truyền thống cho học sinh ngay trong các hoạt động Thể chất. Chủ điểm
các tháng trong năm học là:
Tháng 8 + 9: Chào mừng năm học học mới.
Tháng 10: Chăm ngoan, học tốt.
Tháng 11: Kính yêu thầy cô giáo.
Tháng 12: Uống nước nhớ nguồn.
Tháng 1 + 2: Mừng Đảng, mừng xuân.
Tháng 3: Yêu quý mẹ và cô giáo.
Tháng 4: Mừng đất nước nở hoa.
Tháng 5: Kính yêu Bác Hồ.
– Phần vận động cơ bản:
+ Nội dung ĐHĐN:
Khi học sinh thực hiện các bài ôn tập như: Đi đều, đi đều vòng trái, đi đều
vòng phải, giáo viên có thể tổ chức cho các em tập luyện trên nền các bài hát truyền
thống Đội có nhịp điệu tiết tấu phù hợp với nhịp hành tiến như : Hành khúc đội
TNTPHCM, Đi ta đi lên, như có Bác Hồ, Nhanh bước nhanh nhi đồng….
+ Nội dung bài Thể dục phát triển chung ( TDPTC ):
Trong các tiết ôn tập 8 động tác bài TD, khi học sinh đã thực hiện tương
đối chính xác động tác, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh ôn luyện bài Thể
dục trên nền các giai điệu bài hát vui tươi có nhịp điệu tiết tấu phù hợp với bài
13
tập do giáo viên lựa chọn, hoặc tập trên nền các ca khúc theo chủ điểm tháng
cùng thời điểm.
VD: phần ôn tập bài TDPTC khối 5 vào tháng 12, ta có thể hướng dẫn cho
các em tập trên nền các bài hát theo chủ điểm tháng là: „„Uống nước nhớ
nguồn‟‟ có nhịp điệu tiết tấu phù hợp như: „„Cháu hát về đảo xa‟‟, „„Màu áo chú
bộ đội‟‟…
Một số hình ảnh tập luyện bài TDPTC của học sinh lớp 5
14
+ Nội dung Bài tập RLTTVĐCB:
Trong giờ học, giáo viên linh hoạt kết hợp sử dụng nhạc nền khi tổ chức
cho học sinh các nhóm, tổ thi trình diễn sẽ tạo được không khí sôi nổi, sự mới
mẻ cho các bài tập, một sân khấu trình diễn ngay giữa không gian lớp học, qua
đó thu hút được sự tập trung của học sinh cả lớp và cảm hứng biểu diễn hơn nơi
học sinh lên tham gia diễn tập.
VD: Khi học sinh trình diễn các tư thế cơ bản, các bài tập đi theo vạch kẻ
thẳng, hay đi chuyển hướng phải – trái…. Có thể lựa chọn các bản nhạc EDM có
tiết tấu phù hợp bài tập, các bản nhạc có lời hoặc không lời có tiết tấu nhẹ nhàng
vui tươi làm nền nhạc biểu diễn..phù hợp theo tâm lý của các em.
VD: Có thể cho học sinh thực hiện bài tập nhảy dây theo tiết tấu nhạc nhanh hay
chậm của nền nhạc do giáo viên chuẩn bị:
15
Trò chơi : Nhảy dây tập thể
+ Nội dung Trò chơi VĐ vàTTTC
Với nội dung Trò chơi vận động và TTTC: Khi học sinh đã nắm được cơ
bản chính xác các động tác, cách chơi trò chơi,Giáo viên có thể tổ chức cho học
sinh tập luyện và chơi các trò chơi dưới hình thức thi giữa các nhóm, tổ – và có
thể sử dụng âm nhạc làm nền để tạo thêm tiết tấu cho các động tác. Bên cạnh
việc giúp cho học sinh cảm nhận nhịp điệu bài tập tốt hơn âm nhạc còn giúp tạo
cho không khí giờ học trở nên sôi động cuốn hút hơn.
Trò chơi Bịt mắt bắt dê
16
Với các trò chơi như: Nhảy lò cò tiếp sức, nhảy đúng nhảy nhanh, dẫn bóng,
tung và bắt bóng, trò chơi thăng bằng hay trò chơi bóng chuyền sáu,…có thể tổ
chức cho hs thực hiện trên nền nhạc do GV chọn, có tiết tấu nhanh hay chậm tùy
theo tiết tấu của bài tập, hoặc theo chủ định của giáo viên.
Trò chơi: Nhảy bao bố
Tùy theo đặc điểm và cách chơi từng trò chơi, giáo viên có thể kết hợp sử
dụng đồng dao, hay lời bài hát ngắn gọn, gần gũi để làm hiệu lệnh của trò chơi
thay cho nhịp hô thông thường:
VD: Trong trò chơi ‘‘Thăng bằng’’
17
Giáo viên có thể sáng tạo kết hợp lời bài hát để làm hiệu lệnh để trò chơi
sôi động hơn, đồng thời qua lời bài hát cũng gián tiếp giáo dục tình đoàn kết bạn
bè như sau:
“Nào mình cùng…Vỗ cái tay lên đi- xem ai có ngại ngần gì
Cầm cái tay nhau đi (các cặp học sinh chơi làm động tác cầm tay nhau)
Xem ai có ngại ngần chi
Mình là anh em, có chi đâu mà ngại ngần
Cầm cái chân lên đi (học sinh làm động tác co và giữ chân)
Nào mình cùng chơi!”
2.3. Những yêu cầu đối với giáo viên khi áp dụng biện pháp:
Để có thể dụng biện pháp hiệu quả trong giảng dạy, người giáo viên cần có
sự chuẩn bị kĩ lưỡng về tất cả các điều kiện cả chủ quan và khách quan:
* Điều kiện chủ quan:
– Bên cạnh vốn kiến thức chuyên môn giáo viên cần có tâm thế sẵn sàng,
luôn có thức trau dồi học hỏi để có vốn kiến thức nhất định về âm nhạc, thao tác
kĩ thuật cắt ghép nhạc, nắm được tâm lý thị hiếu âm nhạc của học sinh để có thể
lựa chọn và cắt ghép được các giai điệu, các bài hát có nội dung nhịp điệu tiết tấu
phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh,với nhịp điệu của bài tập,và phù hợp với nội
dung,mục tiêu yêu cầu của bài học để lồng ghép vào bài tập.
– Trò chơi vận động được sử dụng trong các giờ học thể chất như là một
công cụ, một phương tiện hữu hiệu nhằm củng cố các bài tập đã học một cách
hiệu quả. Tuy nhiên để phát huy tác dụng của trò chơi vận động như đã nêu
người giáo viên cần có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có kĩ năng tổ
chức và kĩ năng quản trò để tổ chức và triển khai các hoạt động trò chơi phù hợp
bài học và đối tượng học sinh , điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. Nếu
không đảm bảo được các điều kiện trên thì việc tổ chức trò chơi ngược lại sẽ
thành cái „„bẫy‟‟ mà tác hại là đi ngược với mục tiêu giáo dục ban đầu. Cụ thể
như khi giáo viên tổ chức trò chơi nhưng không đưa ra được luật chơi chặt chẽ,
phương tiện đầy đủ- an toàn hay trọng tài thiếu công bằng…sẽ dẫn đến các tình
huống không mong muốn như ganh tị, tranh cãi , va chạm, không an toàn tập
18
luyện…Do đó khi sử dụng phương pháp này, GV cần chú ý lựa chọn các trò chơi
hoặc tự thiết kế sáng tạo trò chơi đảm bảo những yêu cầu:
+ Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc bổ trợ cho
nội dung bài tập vận động cơ bản.
+ Hình thức chơi đa dạng giúp HS được thay đổi các hoạt động học tập
trên lớp, giúp HS phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động.
+ Luật chơi đơn giản rõ ràng để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các
cách chơi có nhiều HS tham gia để tăng cường kỹ năng học tập hợp tác.
+ Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm, an toàn.
+ Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi.
+ Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học
sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung
khác của bài học một cách có hiệu quả.
* Điều kiện Khách quan:
– Khi tổ chức tập luyện có kết hợp âm nhạc và trò chơi, giáo viên cần chủ
động chuẩn bị đầy đủ, hợp lý trước các phương tiện đi kèm như loa đài…, dụng
cụ phục vụ trò chơi nếu có…
– Bên cạnh đó cần đặc biệt chú ý tới yếu tố ngoại cảnh là sân tập và không
gian tập luyện. Vì không phải trường nào cũng có nhà đa năng hoặc điều kiện
sân tập tách biệt nên khi sử dụng biện pháp này giáo viên cần chú ý đến vấn đề
âm thanh, tiếng ồn… mình học nhưng cũng không làm ảnh hưởng tới hoạt động
học tập của các lớp học xung quanh.
2.4 Kế hoạch bài dạy minh họa giáo viên có sử dụng biện pháp tạo hứng
thú học tập cho học sinh bằng âm nhạc và trò chơi:
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT LỚP 4
Chủ đề : BÀI TẬP RLTTCB – TRÒ CHƠI
Bài 39: Đi chuyển hƣớng phải trái – trò chơi: ‘‘Thăng bằng’’
I. Mục tiêu bài học
1. Về phẩm chất:
19
Bài học góp phần bồi dưỡng cho học sinh các phẩm chất cụ thể:
– Chăm chỉ, đoàn kết trong tập luyện và hoạt động tập thể.
– Tích cực tham gia các trò chơi vận động , trung thực và có trách nhiệm
trong khi chơi trò chơi.
2. Về năng lực:
2.1. Năng lực chung:
– Tự chủ và tự học: HS biết chuẩn bị và luyện tập trước nội dung cho bài
học: Tự ôn lại kĩ thuật đi chuyển hướng và cách chơi trò chơi „„ Thăng bằng‟‟
– Giao tiếp và hợp tác: Biết phân công, hợp tác trong nhóm để thực hiện
các nhiệm tập luyện
– Vận dụng và sáng tạo: Biết vận dụng bài học vào trong cuộc sống và vui
chơi cùng bạn bè, người thân
2.2. Năng lực đặc thù:
– Năng lực chăm sóc sức khỏe: Biết thực hiện vệ sinh sân tập, thực hiện vệ
sinh cá nhân để đảm bảo an toàn trong tập luyện.
– Năng lực vận động cơ bản: Biết quan sát,lắng nghe và thực hiện nhiệm vụ
được phân công:
+ Trò chơi: Biết cách chơi và tham gia chơi được trò chơi: „„ Thăng bằng‟‟.
+ Đi chuyển hướng phải trái: Thực hiện được động tác tương đối chính xác.
II. Địa điểm – phƣơng tiện
– Địa điểm: Sân thể dục hoặc nhà hoạt động đa năng.
– Phương tiện:
+ Giáo viên chuẩn bị: Kế hoạch bài dạy,còi, trang phục thể thao, kẻ sân,
cờ, phương tiện âm thanh để phục vụ bài học và trò chơi.
+ Học sinh chuẩn bị: Trang phục phù hợp.
III. Phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy họ

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay