dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực viết cho học sinh trong bối cảnh đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở nhà trường Phổ thông hiện nay

SKKN Đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực viết cho học sinh trong bối cảnh đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở nhà trường Phổ thông hiện nay

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ
  1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam
    Theo dòng chuyển động của giáo dục quốc tế, giáo dục Việt Nam đang từng
    ngày bắt nhịp, thích ứng và vươn lên khẳng định sứ mệnh phát triển nhân lực của quốc
    gia. Giữa những biến thiên đổi thay của thời đại mới, dưới những tác động ảnh hưởng
    của Công nghệ số, tất cả mọi lĩnh vực ngành nghề trong đời sống văn hóa xã hội đều
    có sự bứt phá chuyển mình. Đổi mới giáo dục đào tạo là mục tiêu, là trách nhiệm, là
    SỨ MỆNH cần có của bất kỳ một đơn vị trường học và cá nhân mỗi giáo viên đứng
    lớp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu, đặt ra
    những yêu cầu đổi mới để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, giúp thế hệ trẻ Việt
    Nam có đủ năng lực và bản lĩnh thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của thế
    giới cũng như đáp ứng những yêu cầu mới về nguồn lực lao động của đất nước trong
    giai đoạn lịch sử đương thời.
    Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục trung học phổ thông
    của Đảng, Nhà nước: Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban
    Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện GD đào
    tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
    định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày
    09/6/2014 ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
    29/NQ-TW; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội
    về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới căn
    bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Quyết định số 404/QĐ-TT của Thủ tướng chính
    phủ ngày 27 tháng 3 năm 2015 phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa
    giáo dục phổ thông…, ngành giáo dục nước nhà chính thức đón nhận một dấu mốc bản
    lề mới, mở ra một thời kì mới cho việc dạy – học trong trường phổ thông ở nước ta,
    nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là cung cấp tri thức một
    chiều cho các em. Nền Giáo dục sẽ chuyển từ chương trình định hướng nội dung dạy
    học sang chương trình định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc
    dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng
    năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con
    người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp theo sở
    trường, nguyện vọng của từng học sinh. Dạy học định hướng phát triển năng lực, hay
    còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90
    của thế kỷ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế.
    Chương trình giáo dục phổ thông sẽ cụ thể hoá mục tiêu giáo dục phổ thông,
    “giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng
    đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp,
    2
    biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và
    đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích
    cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại”1
    . Theo đó, mục tiêu thực hiện Chương
    trình giáo dục THPT sẽ giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực
    cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý
    thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở
    thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia
    vào cuộc sống lao động, khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn
    cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới. Ngoài những nhóm năng lực chung cần hình
    thành và phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục như năng lực
    tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng
    tạo.., chương trình Giáo dục Phổ thông mới còn xác định mục tiêu hình thành và phát
    triển các nhóm năng lực đặc thù trong từng bộ môn và hoạt động giáo dục, song song
    với việc phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh.
  2. Xuất phát từ Thực trạng dạy học và kiểm tra đánh giá bộ môn Ngữ văn
    trong nhà trường Phổ thông hiện nay
    Giáo dục nói chung và dạy học từng bộ môn nói riêng, trong những năm gần
    đây, dù đã có một số những thành tựu tiên tiến, đổi mới nhất định hòa nhập chung với
    xu thế toàn cầu, song thực tế vẫn còn mang màu sắc “bình mới, rượu cũ”. Sự đổi mới
    diễn ra, chủ yếu thể hiện ở những tiết dạy kiểm tra, Hội thi GVG, những giờ dạy mẫu,
    những bài tham luận trong Hội nghị/ Hội thảo chuyên môn… Đổi mới là yêu cầu, là
    lời hô hào, hiệu triệu của tất cả các cơ sở giáo dục, thể hiện trong nhiều văn bản, giấy
    tờ, công văn chỉ đạo chung cho đến giáo án lên lớp giảng dạy từng ngày của giáo viên.
    Song, từ lý thuyết đến thực tế là “cả một đường chân trời”, đòi hỏi rất nhiều sự dũng
    cảm, can trường của GV và đội ngũ lãnh đạo nhà trường. Những chuyên đề Hội thảo,
    những tiết dạy thử nghiệm công phu, hoành tráng chỉ mang tính chất “biểu diễn”, “phô
    trương” kỹ thuật và năng lực thực hành của học sinh, chưa thực sự tạo hiệu quả sâu và
    rộng trong việc thực hiện phong trào “dạy thật, học thật, thi thật”. Những tiết dạy đổi
    mới trình diễn sinh động hấp dẫn, GV và HS đều thích thú thưởng lãm và thể hiện,
    song chưa đảm bảo được mục tiêu “đầu ra” với chất lượng kiểm tra, đánh giá. Và
    ngược lại, nếu GV chú tâm vào dạy học kiến thức cho HS ghi chép, học tập để thi cử
    đạt kết quả cao, sẽ không đòi hỏi sử dụng PPDH và những KTDH tích cực nhằm khơi
    gợi động cơ và hứng thú người học. Kết quả thực tế nhận được sẽ là một bức tranh đổi
    mới “nửa vời”, tùy thuộc vào mục tiêu giáo dục của từng đơn vị, từng cá nhân GV và
    từng giai đoạn học tập của năm học.
    1 Nội dung Chương trình giáo dục Phổ thông tổng thể (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TTBGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
    3
    Đổi mới trong dạy học, kiểm tra đánh giá các môn học đã khó, đổi mới trong
    dạy học, kiểm tra đánh giá Ngữ văn còn cần nhiều thử thách và bền bỉ hơn nữa. Vừa
    đảm bảo sử dụng linh hoạt những PPDH, KTDH tích cực, vừa không được “đánh rơi”
    những điểm sáng thẩm mĩ trong văn chương, kéo độc giả đến gần với trang sách của
    nhà văn dù có cách xa nhau vạn dặm về không gian và thời gian tiếp nhận. Đó là yêu
    cầu, nhiệm vụ và chính là thách thức với mỗi người Thầy dạy văn trong bối cảnh đổi
    mới hiện nay.
    Để tiến hành thực hiện SKKN này, nhóm tác giả có thực hiện nghiên cứu khảo
    sát thực trạng đổi mới dạy học Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông với một số nhóm
    GV Ngữ văn ở các tổ chuyên môn trên địa bàn thành phố Nam Định (trường THPT
    Trần Hưng Đạo, THPT Nguyễn Khuyến, THPT Nguyễn Huệ, THPT Ngô Quyền,
    THPT Nguyễn Công Trứ…) bằng hai hình thức: phỏng vấn và khảo sát trực tuyến. Đa
    số GV đều chia sẻ chân thành, thẳng thắn về PPDH thường xuyên sử dụng trong các
    tiết dạy học Ngữ văn. Để đảm bảo mục tiêu kiểm tra, đánh giá, GV vẫn thường xuyên
    lựa chọn PPDH truyền thống thiên về truyền thụ kiến thức một chiều, trò thụ động tiếp
    nhận kiến thức, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, dập
    khuôn những gì GV đã giảng. Với HS, thầy cô là” bách khoa” là ‘từ điển”, là “vũ trụ”,
    các em chưa có tư duy sáng tạo, chưa biết cách tự học, thậm chí là lười đọc, trông chờ
    vào văn mẫu. Sự ngại đổi mới, áp lực thành tích thi cử, tâm lý học trò (thế hệ GENZ
    mới hiện nay), khoảng cách thời đại…là những nguyên nhân căn bản dẫn đến lối dạy
    công thức sáo mòn, thực trạng văn mẫu đại chúng đang tồn tại trong dạy học Ngữ văn
    hiện nay.
    Tổng hợp, chọn lọc các phiếu trả lời khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy có 03 tồn
    tại thực tiễn đòi hỏi những giải pháp khẩn thiết và kịp thời trong quá trình dạy học
    Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông giai đoạn hiện nay.
    Thứ nhất, mục tiêu dạy học trong nhà trường đa số chỉ thể hiện qua Kế hoạch
    bài dạy của Giáo viên, còn thực tế dạy học trên lớp lại là HỌC ĐỂ THI. Việc hình
    thành và phát triển năng lực toàn diện cho học sinh luôn được GV chú trọng trong mỗi
    tiết học nhưng do áp lực thi cử, chỉ tiêu về thành tích nên tiến trình dạy học cũng thay
    đổi nhiều để đảm bảo mục tiêu đầu ra. Các hoạt động dạy học tích cực, mới mẻ GV
    Ngữ văn xây dựng và thực hiện, thường chỉ xuất hiện trong các tiết thanh/ kiểm tra
    hoặc có lãnh đạo, tổ chuyên môn dự giờ. Còn đại đa số các tiết dạy học, GV sẽ hướng
    dẫn HS khai thác văn bản, nhưng chú trọng vào việc ĐỌC – CHÉP, đảm bảo một
    khung kiến thức nhất định để HS có thể viết bài văn nghị luận văn học theo yêu cầu
    của đề thi trong các kỳ kiểm tra đánh giá. Điều này dẫn đến hệ quả: thi văn trong nhà
    trường Phổ thông là thi văn VIẾT của thầy A và cô B, thầy C…, còn chưa đánh giá
    4
    được trung thực, chính xác năng lực ngôn ngữ và cảm thụ văn học của từng đối tượng
    học sinh.
    Thứ hai, từ phương pháp dạy học đến kiểm tra đánh giá trong Ngữ văn, các thầy
    cô GV thường chỉ chú trọng hình thành và phát triển năng lực VIẾT, vì bài kiểm tra
    đánh giá thường chỉ đo lường kỹ năng này (có kiểm tra về năng lực đọc nhưng tham số
    điểm chấm không nhiều). Đây là một thực trạng mất cân bằng so với việc học các
    Ngoại ngữ khác của học sinh Phổ thông. Từ tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nhật…, các
    em học sinh khi tham gia học tập và trải nghiệm các kỳ kiểm tra đánh giá năng lực
    ngôn ngữ đều phải trải qua 4 phần thi: Nghe, nói, đọc, viết. Còn HS Phổ thông học
    tiếng Việt và Ngữ văn trong nhà trường, nhưng tham gia các kỳ thi kiểm tra đánh giá
    năng lực cũng chỉ làm 1 bài viết đảm bảo kiến thức Đọc hiểu văn bản và kỹ năng viết
    bài luận văn học. Điều này dẫn đến thực trạng: HS được học gì thi nấy, được GV
    “chăm sóc” kỹ thuật dùng từ, đặt câu, viết đoạn như nào thì đi thi sẽ sử dụng như thế,
    còn để HS nói “tròn vành rõ chữ” từng câu trong tiếng Việt, trong những cảnh huống
    giao tiếp nhất định thì các em chưa có nhiều kỹ năng. Tương tự như vậy, với việc hình
    thành và phát triển năng lực Nghe và Đọc.
    Thứ ba, dạy học Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông hiện nay chưa tạo sức
    hấp dẫn cho GV và HS, vì lượng văn bản trong SGK chưa nhiều. Việc cập nhật đời
    sống văn học và lượng văn bản thông tin ngoài nhà trường nhiều khi chưa được thức
    thời, dễ dẫn đến sự nhàm chán, đơn điệu trong quá trình tiếp nhận. Hiện nay, đời sống
    văn học nghệ thuật đang sinh sắc mỗi ngày, nhưng GV và HS chủ yếu chỉ tiếp cận với
    VB trong SGK để đảm bảo lượng kiến thức ổn định, an toàn để đi thi. Còn có thực tế
    nhiều GV chỉ dạy các VB xuất hiện trong đề kiểm tra đánh giá các kỳ, còn các VB đọc
    thêm, văn học sử hay lí luận văn học.. các thầy cô chỉ điểm lướt qua mà không liên hệ,
    giới thiệu mở rộng thêm cho HS nhận diện và nắm bắt.
    Những tồn tại nêu trên đã gây ra nhiều trở ngại trong quá trình kiểm định, đánh
    giá chất lượng toàn diện, cụ thể của việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông
    ở nhiều năm học. Từ việc không kích thích được nhu cầu khám phá, hiểu biết của HS,
    không tạo được hứng thú cho HS, dẫn đến tâm lý chán chường, uể oải xa cách với mỗi
    tiết học bộ môn, thái độ ơ hời, thiếu lửa, thiếu tình yêu và niềm say mê với môn học.
    Việc học tập bộ môn chỉ đáp ứng được một mục tiêu “thực dụng” duy nhất là đi thi và
    có điểm cao, hoàn toàn chưa chú trọng đến việc phát triển năng lực ngôn ngữ tự thân
    và toàn diện cho học sinh. Đến bao giờ việc tiếp thu và cảm nhận, trau dồi ngôn ngữ là
    nhu cầu, là niềm yêu thích, hứng thú “bên trong” của người học, chừng đó dạy học
    Ngữ văn mới có cơ hội làm tròn sứ mệnh đổi mới của chính mình. Khi người GV Ngữ
    văn biết quan tâm đến việc hình thành và phát triển từng nấc thang năng lực ngôn ngữ
    cho mọi đối tượng HS trong lớp học, tất yếu HS sẽ được khơi nguồn cảm hứng học tập
    và say mê con chữ, trang văn.
    5
  3. Mục tiêu phát triển năng lực ngôn ngữ đặc thù của môn học Ngữ văn
    “Văn học là nhân học”, dạy học văn là dạy làm người. Chương trình GDPT mới
    đặt ra mục tiêu chung là hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất đẹp
    (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm); bồi dưỡng tâm hồn, hình
    thành nhân cách và phát triển cá tính; giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới
    xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống
    và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn
    và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có
    tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế.
    Bên cạnh yêu cầu phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học,
    năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, môn Ngữ văn
    hướng tới sự phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học (thẩm mĩ) cho học
    sinh: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền
    tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần
    hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông
    dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và
    các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống. Dạy học Ngữ văn để phát triển năng
    lực là cách dạy – học Ngữ văn tiên tiến, hiện đại, mang ý nghĩa đổi mới – cách mạng so
    với cách dạy – học Ngữ văn truyền thống trước đây, nhằm phát triển năng lực người
    học là chủ yếu: năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ.
    Ngữ văn là một môn học đặc biệt trong chương trình giáo dục Trung học các
    cấp. Mang trong mình chức năng, nhiệm vụ của một môn Khoa học trong nhà trường,
    đồng thời cũng bao chứa nhiều phẩm chất thẩm mĩ riêng biệt của một môn học Nghệ
    thuật. Người thầy dạy văn và người học trò học văn luôn đòi hỏi quá trình tiếp nhận,
    tích lũy, trau dồi tri thức, kỹ năng bộ môn một thái độ chuyên cần, tỉ mỉ, công phu và
    nghiêm túc. Dạy văn và học văn chính là một quá trình “lao động nghệ thuật”, không
    chỉ làm quen với con chữ, đọc và nhận diện con chữ mà cần phải dành cả tình yêu,
    niềm say mê vào việc cảm hiểu, giải mã con chữ ấy.
    Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường nét là
    ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì bản thân ngôn từ chính
    là chất liệu của tác phẩm văn chương. Macxim Gorki đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ
    nhất của văn học”. Tùy vào đặc trưng thể loại, ngôn ngữ trong mỗi loại thể văn học có
    những đặc điểm riêng. Là nghệ thuật “lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson), ngôn
    ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật. Đó là
    thứ ngôn ngữ được chưng cất công phu, biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc phong
    phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) vừa giàu nhạc điệu (tính
    nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng nghệ thuật lung linh,
    đa nghĩa. Muốn thâm nhập văn chương, người học không thể bỏ quên ngưỡng cửa đầu
    6
    tiên, bậc thềm quan trọng nhất để đến với thế giới nghệ thuật, đó là tri giác hình tượng
    của ngôn ngữ.
    Chương trình GDPT mới lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói
    và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương
    trình theo định hướng năng lực. HS cấp tiểu học: Giúp học sinh bước đầu hình thành
    các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và
    nghe với mức độ căn bản: đọc đúng, trôi chảy văn bản; hiểu được nội dung, thông tin
    chính của văn bản; liên hệ, so sánh ngoài văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp; viết
    được một số câu, đoạn, bài văn ngắn (chủ yếu là bài văn kể và tả). HS cấp trung học cơ
    sở: Tiếp tục phát triển các năng lực chung, năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học đã
    hình thành ở cấp tiểu học với các yêu cầu cần đạt cao hơn. Phát triển năng lực ngôn
    ngữ với yêu cầu: phân biệt được các loại văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn
    bản thông tin; đọc hiểu được cả nội dung tường minh và nội dung hàm ẩn của các loại
    văn bản; viết được đoạn và bài văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh,
    nhật dụng hoàn chỉnh, mạch lạc, logic, đúng quy trình và có kết hợp các phương thức
    biểu đạt; nói dễ hiểu, mạch lạc; có thái độ tự tin, phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp; nghe
    hiểu với thái độ phù hợp.
    Riêng đối với HS cấp trung học phổ thông, chương trình đặt ra mục tiêu tiếp tục
    phát triển các năng lực đã hình thành ở trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao
    hơn: đọc hiểu được cả nội dung tường minh và hàm ẩn của các loại văn bản với mức
    độ khó hơn thể hiện qua dung lượng, nội dung và yêu cầu đọc; đọc hiểu với yêu cầu
    phát triển tư duy phản biện; vận dụng được các kiến thức về đặc điểm ngôn từ văn học,
    các xu hướng – trào lưu văn học, phong cách tác giả, tác phẩm, các yếu tố bên trong và
    bên ngoài văn bản để hình thành năng lực đọc độc lập. Viết thành thạo kiểu văn bản
    nghị luận và thuyết minh tổng hợp (kết hợp các phương thức biểu đạt và các thao tác
    nghị luận), đúng quy trình, có chủ kiến, đảm bảo logic và có sức thuyết phục. Nói và
    nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu
    đạt của bài thuyết trình; biết tham gia và có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù
    hợp trong tranh luận…
    Chính từ những đặc trưng cơ bản của văn chương nghệ thuật, CBQL và GV có
    thể xác định được những mục tiêu, nhiệm vụ riêng biệt của môn học Ngữ văn. Với
    mục tiêu tổng quát là “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy
    tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
    đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”, việc triển khai dạy học các bộ môn nói
    chung và Ngữ văn nói riêng theo định hướng phát triển năng lực hiện nay là một yêu
    cầu bức thiết. Chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
    toàn diện năng lực và phẩm chất người học, trước hết, “cần nhận thức đúng vị trí, vai
    trò của môn Ngữ văn ở trường phổ thông là: hình thành và phát triển các năng lực cốt
    7
    lõi và năng lực đặc thù của môn học; đặc biệt là năng lực giao tiếp (kiến thức Tiếng
    Việt cùng với 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến
    thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống) và năng
    lực cảm thụ, thưởng thức văn học; bồi dưỡng và nâng cao vốn văn hoá cho người học
    thông qua những hiểu biết về ngôn ngữ và văn học, góp phần tích cực vào việc giáo
    dục, hình thành và phát triển cho học sinh những tư tưởng, tình cảm nhân văn, trong
    sáng, cao đẹp”. Như vậy, phát triển năng lực ngôn ngữ là một trong hai nhiệm vụ quan
    trọng của Ngữ văn (bên cạnh năng lực thẩm mĩ). Làm chủ tiếng Việt, biết sử dụng
    tiếng Việt một cách thuần thục để lĩnh hội và tạo lập văn bản (nói và viết) giúp cho
    việc diễn đạt, giao tiếp đạt hiệu quả. Hơn nữa Ngữ văn không chỉ là môn học thực
    hành bình thường mang ý nghĩa tự thân mà nó còn có thêm yêu cầu hỗ trợ cho các
    môn khác trong việc diễn đạt để hoàn thành vai trò của môn học công cụ trong nhà
    trường. Bởi vậy năng lực ngôn ngữ lại càng cần thiết và có vai trò quan trọng.
    Xuất phát từ những thực trạng và yêu cầu đổi mới nêu trên của giáo dục nói
    chung và dạy học Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông nói riêng, chúng tôi nhận thấy
    trách nhiệm của người thầy dạy Văn trong việc rèn giũa, trau dồi và phát triển năng lực
    ngôn ngữ toàn diện cho học sinh. Do điều kiện thời gian và năng lực nghiên cứu nhất
    định, nhóm tác giả mạnh dạn thực hiện Đề tài SKKN “Đề xuất một số giải pháp phát
    triển năng lực viết cho học sinh THPT trước bối cảnh đổi mới dạy học và kiểm tra
    đánh giá Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông hiện nay”. Các nhóm, vùng năng lực
    nghe, nói, đọc sẽ được nhóm tác giả giới thiệu và đề xuất giải pháp tùy theo điều kiện
    thời gian và đối tượng nghiên cứu trong những năm học tiếp theo.
  4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
    4.1. Về tên gọi bộ môn
    Cho đến nay trong các văn bản chính thức của Bộ GD-ĐT, môn Văn vẫn gọi là
    môn Ngữ Văn. Tuy nhiên trong thực tế và trên báo chí hầu hết mọi người đều dùng
    chữ môn Văn (qua cách diễn đạt học Văn, dạy Văn, thi Văn…). Ở nước ta, môn học
    này từ lâu đã có những tên gọi khác nhau. Trước Cách mạng tháng Tám và sau đó ở
    miền Nam người ta thường dùng chữ môn Quốc văn hay Việt văn. Ở miền Bắc trước
    đây có khi gọi là môn Văn học, có khi gọi là Tiếng Việt và Văn học và gần đây nhất
    thì gọi là Ngữ văn. Bản thân nhiều chuyên gia giáo dục cũng băn khoăn về cách gọi
    tên môn học trong các tên: Ngữ văn, Tiếng Việt và Văn học, Tiếng Việt.
    Tiếng Việt và Văn học là tên gọi được lấy từ chương trình của Liên Xô cũ có
    tên là “tiếng Nga và Văn học”. Tên gọi này có ưu điểm là đưa Tiếng Việt thành một
    nội dung giảng dạy chủ yếu trong chương trình và từ đó nâng cao hiểu biết và rèn
    luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh. Tuy nhiên việc tách rời tiếng Việt và Văn
    học thành hai thành phần độc lập, sẽ không phản ánh đúng bản chất của mối quan hệ gắn
    bó giữa Văn và Tiếng, mặt khác dễ dẫn đến tình trạng việc dạy tiếng trở thành một bộ
    8
    phận riêng biệt, ít gắn với dạy Văn và phát triển kỹ năng giao tiếp của học sinh mà
    nặng về cung cấp những tri thức mang tính chất ngôn ngữ học.
    Nếu gọi môn học này là Tiếng Việt như Chương trình của một số nước (Anh,
    Pháp, Mỹ), tuy có thuận lợi trong việc đề cao mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp
    của học sinh, song lại đối lập với quan niệm ông cha xưa cho rằng trong Văn có Tiếng,
    dạy tiếng là dạy văn.
    Tên gọi Ngữ văn phản ánh được sự thống nhất của Ngữ và Văn, bản chất mối
    quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học, giữa việc dạy tiếng Việt và việc dạy văn học, trong
    văn có ngữ và trong văn cũng có văn chương. Theo Từ điển Tiếng Việt, Ngữ văn “chỉ
    một khoa học hay một ngành nghiên cứu về ngôn ngữ”, gọi chung là Philology. Tên
    gọi này phản ánh truyền thống lâu đời của giáo dục Việt Nam vốn coi trọng Văn
    chương, phù hợp với yêu cầu của giáo dục phổ thông, bên cạnh việc cung cấp những
    tri thức về khoa học, còn hình thành ở người học năng lực giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ,
    năng lực thẩm mỹ để phát triển nhân cách toàn diện.
    4.2. Về năng lực
    Trong Tâm lí học, năng lực được định nghĩa: “Là tổ hợp các thuộc tính độc đáo
    của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho
    hoạt động đó có kết quả” 2
    .
    Trong nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khoa học, năng lực được hiểu
    chung là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ,
    tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,…nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của
    hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện khả năng làm chủ và vận dụng
    hợp lý các kiến thức, kinh nghiệm, thái độ một cách có hứng thú để hành động một
    cách có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống.
    Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh
    có khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động
    cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong
    một số hoàn cảnh nhất định.
    4.3. Về năng lực ngôn ngữ
    Là môn học tích hợp, mang trong mình phẩm chất nghệ thuật, đồng thời lại
    là môn học thực hành, trên tổng thể có thể xem Ngữ văn là môn học về Cái Đẹp với
    hai khâu liên hoàn: cảm thụ Cái Đẹp trong văn chương (Văn), ngôn ngữ (Tiếng Việt)
    để tạo lập ra Cái Đẹp trong văn bản nói và viết (Tập làm văn). Đó chính là sợi dây liên
    kết gắn bó giữa môn học nghệ thuật và môn học thực hành trong môn Ngữ văn với hai
    hoạt động chủ yếu: đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Với những đặc trưng đó, môn
    2 Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), 2005. Tâm lí học đại cương, trang 178, NXB Đại học Quốc
    gia Hà Nội.
    9
    Ngữ văn sẽ hình thành và phát triển hai năng lực quan trọng cho thế hệ trẻ: năng lực
    thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ. Năng lực thẩm mĩ là năng lực khám phá Cái Đẹp
    trong văn chương và trong tiếng Việt để thưởng thức chúng; còn năng lực ngôn ngữ là
    năng lực làm chủ được tiếng Việt, biết sử dụng tiếng Việt một cách thuần thục để tạo
    lập văn bản (nói và viết) giúp cho việc diễn đạt, giao tiếp đạt hiệu quả. Hai năng lực
    này không tách rời nhau, mà có mối quan hệ gắn bó, tương hỗ với nhau và với các
    nhóm năng lực chung khác (năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng
    lực hợp tác, năng lực tự chủ và tự học, năng lực khoa học, ..), đều đóng vai trò quan
    trọng trong việc xác định nội dung dạy học của môn học và phát triển trình độ, phẩm
    chất cho học sinh.
    Năng lực giao tiếp tiếng Việt (sau đây gọi tắt là năng lực ngôn ngữ) là một năng
    lực tổng hợp trên cơ sở biểu hiện của bốn yếu tố đọc, viết, nghe, nói cấu thành. Các
    yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ, thúc đẩy và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên
    tính toàn diện năng lực đặc thù của môn Ngữ văn.
    Năng lực ngôn ngữ của học sinh trung học gồm ba năng lực chủ yếu sau
    đây: năng lực làm chủ ngôn ngữ (tiếng Việt); năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng
    Việt) để giao tiếp; năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) để tạo lập văn bản. Năng
    lực làm chủ ngôn ngữ đòi hỏi học sinh phải có một vốn từ ngữ nhất định, hiểu và cảm
    nhận được sự giàu đẹp của tiếng Việt, nắm được các quy tắc về từ ngữ, ngữ pháp,
    chính tả để sử dụng tốt tiếng Việt. Năng lực giao tiếp ngôn ngữ đòi hỏi học sinh phải
    biết sử dụng thuần thục tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) để giao tiếp trong nhiều tình huống
    khác nhau với những đối tượng khác nhau trong gia đình, nhà trường và xã hội. Năng
    lực sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản là một năng lực đặc trưng rất quan trọng của
    năng lực ngôn ngữ học sinh trong nhà trường.
    Chương trình Ngữ văn 2018 tập trung hình thành và phát triển hai năng lực đặc
    thù quan trọng là năng lực ngôn ngữ (NLNN) và năng lực văn học (NLVH). Hai năng
    lực này đều được thể hiện qua các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe.
    4.4. Về năng lực viết
    Đối với hoạt động viết, mục tiêu dạy học bộ môn Ngữ văn trong Chương trình
    giáo dục Phổ thông 2018 chỉ rõ mức độ cần đạt ở từng cấp học. Ở cấp tiểu học: yêu
    cầu học sinh viết đúng chính tả, từ vựng, ngữ pháp; viết được một số câu, đoạn văn
    ngắn; bước đầu viết được bài văn ngắn hoàn chỉnh, chủ yếu là bài văn kể, tả và bài
    giới thiệu đơn giản; viết được văn bản kể lại những câu chuyện đã đọc, những sự việc
    đã chứng kiến, tham gia, những câu chuyện do học sinh tưởng tượng; miêu tả những
    sự vật, hiện tượng quen thuộc; giới thiệu về những sự vật và hoạt động gần gũi với
    cuộc sống của học sinh; viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của học sinh khi
    đọc một câu chuyện, bài thơ, khi chứng kiến một sự việc gợi cho học sinh nhiều cảm
    xúc; nêu ý kiến về một vấn đề đơn giản trong học tập và đời sống; viết một số kiểu văn
    10
    bản như: bản tự thuật, tin nhắn, giấy mời, thời gian biểu, đơn từ; bước đầu biết viết
    theo quy trình; bài viết cần có đủ ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Ở cấp trung học
    cơ sở, học sinh cần viết được bài văn tự sự, miêu tả và biểu cảm; bước đầu biết viết bài
    văn nghị luận, thuyết minh, nhật dụng; viết đúng quy trình, biết cách tìm tài liệu để
    đáp ứng yêu cầu viết văn bản; có hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ và biết cách trích
    dẫn văn bản.
    Ở cấp trung học phổ thông, học sinh có thể viết thành thạo kiểu văn bản nghị
    luận và thuyết minh về các đề tài gắn với đời sống và định hướng nghề nghiệp; Viết
    được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp; văn bản
    nghị luận yêu cầu phân tích, đánh giá, so sánh giá trị của tác phẩm văn học; bàn về
    những vấn đề phù hợp với đối tượng gần đến tuổi thành niên, đòi hỏi cấu trúc và kiểu
    lập luận tương đối phức tạp, bằng chứng cần phải tìm kiếm từ nhiều nguồn; văn bản
    thuyết minh viết về những vấn đề có tính khoa học dưới hình thức một báo cáo nghiên
    cứu đúng quy ước; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ và tránh đạo văn; bài viết thể hiện
    được cảm xúc, thái độ, những trải nghiệm và ý tưởng của cá nhân đối với những vấn
    đề đặt ra trong văn bản; thể hiện được một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm
    cá tính.
  5. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
  • Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp phát triển Năng lực viết cho học sinh trong
    bối cảnh đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở nhà trường Phổ thông.
  • Đối tượng thực nghiệm và đối chứng: Quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài
    sáng kiến được nhóm tác giả áp dụng triển khai cho đối tượng học sinh khối 10 niên
    khóa 2021 – 2024 trường THPT Trần Hưng Đạo trong năm học 2021 – 2022 và tiếp
    tục thực hiện trong năm học 2022 – 2023. Đây là khóa học sinh đặc biệt, được giáo dục
    trong bối cảnh bản lề, vừa thực hiện chương trình SGK cũ, vừa chuẩn bị tinh thần, tâm
    thế đón nhận những đổi mới trong dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn do ảnh
    hưởng của CT GDPT mới. Trong đó, học sinh lớp 10A7, 10A8, 10A10 là đối tượng
    thực nghiệm, học sinh lớp 10A4 là lớp học đối chứng.
  • Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thu thập số liệu, phương pháp định
    tính, phương pháp định lượng, phương pháp thực nghiệm, phương pháp phi thực
    nghiệm (phỏng vấn, điều tra bảng hỏi, hỏi ý kiến chuyên gia,..), phương pháp phân
    tích và tổng hợp, phương pháp thống kê toán học, phương pháp quy nạp và diễn giải…
  1. Phạm vi áp dụng
    Toàn bộ giải pháp sáng kiến đề xuất đã được áp dụng và thực hiện tại đơn vị
    trường THPT Trần Hưng Đạo, một số giải pháp sáng kiến đã được áp dụng và thực
    hiện ở một số đơn vị trường THPT khác trên địa bàn tỉnh (trường THPT Nguyễn
    Khuyến, THPT Lý Tự Trọng, THPT Ngô Quyền, THPT Mỹ Lộc, THPT Nam Trực…)
    và 01 đơn vị trường THPT của thành phố Hà Nội (THPT Ngô Thì Nhậm).
    11
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
  2. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Để có thêm cơ sở thực tiễn đề xuất giải pháp phát triển năng lực viết cho học
    sinh THPT, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức và giải pháp sử
    dụng để phát triển năng lực viết của học sinh tại một số đơn vị trường THPT trên địa
    bàn tỉnh Nam Định và các trường THPT khác trên cả nước.
     Đối tượng khảo sát, thăm dò ý kiến: cán bộ quản lý, giáo viên Ngữ văn, giáo
    viên các bộ môn khác trong nhà trường và học sinh của trường THPT Trần Hưng Đạo
    và cán bộ quản lý, giáo viên Ngữ văn, giáo viên các bộ môn khác của các đơn vị
    THPT trên địa bàn tỉnh Nam Định và một số tỉnh thành khác.
     Nội dung khảo sát, thăm dò ý kiến: thực trạng nhận thức và quan niệm, nhu
    cầu của GV, HS về phát triển năng lực viết cho HS trong bối cảnh đổi mới dạy học và
    kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn trong nhà trường Phổ thông hiện nay.
     Thời gian khảo sát: bắt đầu từ ngày 24 tháng 03 năm 2021 đến hết ngày 28
    tháng 03 năm 2021.
     Kết quả khảo sát:
  • Số lượng phiếu phản hồi ý kiến: 208.
  • Nội dung phản hồi ý kiến: được hiển thị qua các sơ đồ biểu thị và phần phân
    tích chi tiết trong từng đề mục nội dung.
    1.1. Thực trạng quan niệm và giải pháp của giáo viên về việc phát triển
    năng lực viết cho học sinh
    Để xác lập được giải pháp phát triển năng lực viết cho học sinh, nhóm tác giả
    tiến hành khảo sát quan niệm, thực trạng nhận thức của đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ
    môn Ngữ văn tại đơn vị trường THPT Trần Hưng Đạo.
     Đường link khảo sát, thăm dò ý kiến của GV:
    https://forms.gle/FjJutnS57NboonsJ9
    Nội dung khảo sát gồm các câu hỏi hiển thị trong Phụ lục 1 của Sáng kiến.
     Kết quả khảo sát:
    Đối tượng khảo sát,
    thăm dò ý kiến
    Câu hỏi 1: Thái độ của Quý Thầy cô với việc phát triển
    năng lực viết cho học sinh?
    Phương án A:
    Rất quan tâm
    Phương án B:
    Quan tâm
    Phương án C:
    Không quan tâm
    SL % SL % SL %
  1. Cán bộ quản lý, giáo
    viên Ngữ văn trường
    THPT Trần Hưng Đạo
    01 7.7 % 01 7.7 % 11 84,6%
  2. Giáo viên Ngữ văn
    trường THPT khác trên địa
    bàn tỉnh Nam Định
    01 3.2 % 02 6.4 % 28 90.3 %
    12
  3. Giáo viên Ngữ văn các
    trường THPT khác ngoài
    địa bàn tỉnh Nam Định
    0 2.1 % 01 16.6 % 05 83.3 %
    Qua nội dung khảo sát câu hỏi số 1 đã cho thấy, thầy cô có quan tâm đến việc
    phát triển năng lực viết cho học sinh nhưng số đó không nhiều và không đồng đều ở
    các môi trường giáo dục khác nhau. Chúng ta cần đặt ra sự thay đổi trong chính những
    người thầy để đáp ứng mục tiêu phát triển năng lực ngôn ngữ cho HS từ chính những
    bài viết, kết quả của hoạt động DH bộ môn nói riêng và giáo dục nói chung.
    Đối tượng khảo sát,
    thăm dò ý kiến
    Câu hỏi 2: Thầy cô quan niệm như thế nào về việc cho học sinh
    ghi chép và học thuộc theo mẫu Làm văn mà Giáo viên cung cấp
    sẵn?
    Phương án
    A: Đây là
    việc làm
    không khoa
    học, không
    hình thành và
    phát triển
    năng lực viết
    của học sinh
    Phương án
    B: Đây là việc
    làm cần thiết,
    phù hợp với
    mọi đối tượng
    học sinh
    Phương án C:
    Đây là việc
    làm quan trọng
    để giúp cải
    thiện chất
    lượng kiểm tra
    đánh giá môn
    Ngữ văn của cá
    nhân học sinh
    và tập thể lớp
    Phương án D:
    Đây là giải
    pháp khả thi
    nhất để nâng
    cao chất lượng
    dạy học Ngữ
    văn trong nhà
    trường THPT
    SL % SL % SL % SL %
  4. Cán bộ quản lý,
    giáo viên Ngữ văn
    trường THPT Trần
    Hưng Đạo
    01 7.7 % 01 7.7 % 07 53.8% 04 30.7 %
  5. Giáo viên Ngữ
    văn trường THPT
    khác trên địa bàn
    tỉnh Nam Định
    01 6.4% 03 9.6% 19 61.2% 08 25.8 %
  6. Giáo viên Ngữ văn
    các trường THPT
    khác ngoài địa bàn
    tỉnh Nam Định
    0 0% 01 16.6% 04 66.6% 01 16.6%
    Kết quả khảo sát câu hỏi số 2 cho thấy việc cho học sinh ghi chép và học thuộc
    theo mẫu Làm văn mà Giáo viên cung cấp sẵn đã trở thành lối mòn. Đó là lối dạy
    truyền thụ kiến thức một chiều, trò thụ động tiếp nhận kiến thức, quen nghe, quen
    13
    chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, dập khuôn những gì GV đã giảng. Hơn
    một nửa số giáo viên tham gia khảo sát cho rằng đó là việc làm cần thiết, họ đã và
    đang sử dụng phương pháp đó nhằm giải quyết áp lực của việc kiểm tra và đánh giá,
    cải thiện chất lượng học tập của cá nhân học sinh và tập thể lớp.
    Đối tượng khảo sát, thăm
    dò ý kiến
    Câu hỏi 3: Thầy cô có thường xuyên cung cấp tài liệu
    tham khảo cho học sinh tự đọc, tự nghiên cứu và ghi
    chép kiến thức, tư liệu?
    Phương án A:
    Rất thường
    xuyên
    Phương án B:
    Thường xuyên
    Phương án C:
    Không thường
    xuyên
    SL % SL % SL %
  7. Cán bộ quản lý, giáo
    viên Ngữ văn trường
    THPT Trần Hưng Đạo
    02 15.3 % 03 23 % 08 61.5%
  8. Giáo viên Ngữ văn
    trường THPT khác trên địa
    bàn tỉnh Nam Định
    02 6.4 % 05 16.1 % 24 77.4%
  9. Giáo viên Ngữ văn các
    trường THPT khác ngoài
    địa bàn tỉnh Nam Định
    0 % 01 16.6% % 05 83.3%
    Với câu hỏi số 3, đa số GV đều thừa nhận mình không thường xuyên cung cấp
    tài liệu tham khảo cho học sinh tự đọc, tự nghiên cứu và ghi chép kiến thức, tư liệu.
    Dù có thầy cô đã tạo ra hướng tự học cho HS nhưng phần lớn là để HS tự học theo
    cách của cá nhân HS, còn việc định hướng tài liệu và hướng dẫn tự học, tự nghiên cứu
    dưới vai trò định hướng của thầy còn chưa thực sự thường xuyên, chưa trở thành một
    hướng giải quyết, một cách thức DH cụ thể, thức thời.
    Đối tượng khảo sát,
    thăm dò ý kiến
    Câu hỏi 4: Thầy cô ý thức như thế nào về việc tạo lập ngân
    hàng “đề mở” cho học sinh để phát huy năng lực viết sáng
    tạo cho học sinh?
    Phương án A:
    Rất cần thiết
    Phương án B:
    Cần thiết
    Phương án C:
    Không cần thiết
    SL % SL % SL %
  10. Cán bộ quản lý, giáo
    viên Ngữ văn trường
    THPT Trần Hưng Đạo
    01 7.6 % 02 15.3 % 10 76.9 %
  11. Giáo viên Ngữ văn
    trường THPT khác trên địa
    bàn tỉnh Nam Định
    0 0 % 02 6.4 % 29 93.5 %
    14
  12. Giáo viên Ngữ văn các
    trường THPT khác ngoài
    địa bàn tỉnh Nam Định
    0 0 % 01 16.6 % 05 83.3 %
    Câu hỏi khảo sát số 4 cho thấy: từ 76% đến trên 90% các thầy cô không quan
    tâm hoặc quan tâm rất ít đến việc tạo lập ngân hàng “đề mở” cho học sinh để phát huy
    năng lực viết sáng tạo cho học sinh. Vì thực tếcác thầy cô có ngân hàng câu hỏi nhưng
    chưa thực sự “mở” do phải bám sát định hướng đề thi QG và mục tiêu chất lượng của
    tổ nhóm chuyên môn.
    Đối tượng khảo sát, thăm dò
    ý kiến
    Câu hỏi 5: Thầy cô quan niệm như thế nào về việc
    thiết lập hồ sơ văn bản kiểm tra năng lực viết của học
    sinh qua các khóa học?
    Phương án A:
    Rất cần thiết
    Phương án B:
    Cần thiết
    Phương án C:
    Không cần thiết
    SL % SL % SL %
  13. Cán bộ quản lý, giáo viên
    Ngữ văn trường THPT Trần
    Hưng Đạo
    0 0% 02 15.3 % 11 84.6%
  14. Giáo viên Ngữ văn trường
    THPT khác trên địa bàn tỉnh
    Nam Định
    0 0 % 01 3.2 % 30 96.7 %
  15. Giáo viên Ngữ văn các trường
    THPT khác ngoài địa bàn tỉnh
    Nam Định
    0 0 % 01 16.6 % 05 83.3 %
    Câu hỏi khảo sát số 5 cho kết quả trên 80% GV tham gia khảo sát về việc thiết
    lập hồ sơ văn bản kiểm tra năng lực viết của học sinh qua các khóa học không quan
    tâm nhiều đến vấn đề này. Cũng có nghĩa những người làm thầy chúng ta đã bỏ qua
    một giải pháp rèn năng lực viết cho HS qua từng lời nhận xét để từ đó định hướng
    cách khắc phục hạn chế, phát huy điểm mạnh giúp khả năng viết của HS ngày một
    hoàn thiện hơn.
    Đối tượng khảo sát, thăm dò ý
    kiến
    Câu hỏi 6: Các thầy cô có chú trọng rèn luyện tư
    duy phản biện cho học sinh trong quá trình viết
    văn?
    Phương án A: Có Phương án B: Không
    SL % SL %
  16. Cán bộ quản lý, giáo viên
    Ngữ văn trường THPT Trần
    Hưng Đạo
    02 15.3 % 11 84.6 %
  17. Giáo viên Ngữ văn trường
    THPT khác trên địa bàn tỉnh
    Nam Định
    03 9.6 % 28 90.3 %
    15
  18. Giáo viên Ngữ văn các trường
    THPT khác ngoài địa bàn tỉnh
    Nam Định
    01 16.6 % 05 83.3 %
    Kết quả khảo sát đã chỉ ra một thức tế là việc rèn luyện tư duy phản biện cho
    học sinh trong quá trình viết văn chưa được chú trọng đúng mức, trên 80% GV tham
    gia khảo sát cho ý kiến đã không làm được điều đó.
    Đối tượng khảo sát, thăm dò ý
    kiến
    Câu hỏi 7: Các thầy cô có quan tâm đến việc hình
    thành năng lực liên tưởng, tưởng tượng cho học
    sinh trong quá trình dạy học sinh viết Văn tự sự?
    Phương án A: Có Phương án B: Không
    SL % SL %
  19. Cán bộ quản lý, giáo viên
    Ngữ văn trường THPT Trần
    Hưng Đạo
    01 7.6 % 12 92.3 %
  20. Giáo viên Ngữ văn trường
    THPT khác trên địa bàn tỉnh
    Nam Định
    02 6.4% 29 93.5 %
  21. Giáo viên Ngữ văn các
    trường THPT khác ngoài địa
    bàn tỉnh Nam Định
    01 16.6 % 05 83.3 %
    Kết quả khảo sát câu hỏi số 7 cho thấy, rất nhiều thầy cô chưa quan tâm việc
    hình thành tư duy sáng tạo qua liên tưởng, tưởng tượng trong viết Văn tự sự cho HS
    nên hạn chế chất văn, sự sáng tạo của bài viết.
    Đối tượng khảo sát,
    thăm dò ý kiến
    Câu hỏi 8: Các thầy cô quan niệm như thế nào về việc thực
    hành tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá trình tạo lập văn
    bản viết?
    Phương án A:
    Rất cần thiết
    Phương án B: Cần
    thiết
    Phương án C:
    Không cần thiết
    SL % SL % SL %
  22. Cán bộ quản lý,
    giáo viên Ngữ văn
    trường THPT Trần
    Hưng Đạo
    01 7.6 % 02 15.3 % 10 76.9 %
  23. Giáo viên Ngữ
    văn trường THPT
    khác trên địa bàn
    tỉnh Nam Định
    0 0 % 02 6.4% 29 93.5 %
  24. Giáo viên Ngữ
    văn các trường
    THPT khác ngoài địa
    bàn tỉnh Nam Định
    0 0 % 01 16.6 % 05 83.3 %
    16
    Với câu hỏi số 8, kết quả khảo sát cho thấy, rất nhiều thầy cô chưa chú tâm việc
    thực hành tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá trình tạo lập văn bản viết thậm chí
    cho rằng không cần thiết, thiên về lí thuyết mà nhẹ bài tập thực hành.
    Với nội dung câu hỏi số 9, dạng Trả lời ngắn: Các thầy cô có thể mạnh dạn đề
    xuất ít nhất 01 giải pháp phát triển năng lực viết cho học sinh mà các thầy cô thấy tâm
    đắc nhất? Nhóm tác giả đã nhận được ý kiến phản hồi về một số giải pháp Giáo viên
    thường sử dụng trong quá trình hướng dẫn HS tạo lập văn bản viết như: phương pháp
    đọc – chép truyền thống, hoàn thiện hệ thống luận điểm theo sơ đồ tư duy, đọc thêm tư
    liệu ngoài SGK, kiểm tra mức độ ghi nhớ – học thuộc văn mẫu của học sinh… Đây đều
    là nhóm giải pháp truyền thống, an toàn, phù hợp triển khai với mọi đối tượng học
    sinh. Những cách thức tiến hành nêu trên được đại đa số giáo viên Ngữ văn ở các
    trường THPT lực chọn thực hiện nhằm góp phần cải thiện và nâng cao điểm số kiểm
    tra đánh giá qua các bài kiểm tra thường xuyên/ định kỳ. Do việc đánh giá năng lực
    học tập bộ môn Ngữ văn hiện nay chủ yếu dừng lại ở việc kiểm t

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *