dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt môn địa lý

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt môn địa lý

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Hiện nay đất nước chúng ta đang trong quá trình đổi mới kinh tế xã hội, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đặc biệt là cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0. Hòa chung trong không khí đổi mới đó, ngành giáo
dục cũng đã và đang có sự đổi mới đáng kể. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã
nêu rõ mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện
và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục
mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức
giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao
chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế
hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực”.
Địa lí là khoa học chú trọng đến nghiên cứu các quy luật, các mối liên hệ
giữa các thành phần, các hiện tượng cũng như các mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên. Trong trường Tiểu học, Địa lí là phân môn của môn Lịch sử và Địa lí, có
mục tiêu cung cấp cho học sinh các biểu tượng địa lí, bước đầu hình thành một số
khái niệm, xây dựng một số quan hệ địa lí đơn giản và rèn luyện các kỹ năng địa lí
như: kỹ năng sử dụng bản đồ, kỹ năng nhận xét, so sánh, phân tích các mối quan
hệ địa lí đơn giản. Do đặc điểm kiến thức của từng bài, từng chương có mối quan
hệ chặt chẽ, lôgic, nên việc sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp các em nắm tri thức một
cách hệ thống, dễ nhớ, hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn
đề một cách khoa học, sâu sắc. Các em không chỉ học tốt các kiến thức trong sách
vở mà còn nắm bắt được các kiến thức từ thực tế cuộc sống.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy giáo viên đã nhận thức được sự cần
thiết phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, có ý thức cải tiến phương pháp
dạy học. Tuy nhiên việc dạy và học các môn học nói chung và Địa lí nói riêng vẫn
chưa vượt qua quỹ đạo cũ. Đó là phương pháp dạy học theo kiểu truyền thống, học
sinh tiếp thu kiến thức một cách bị động mà kiến thức trong chương trình Địa lí 4
đã được đưa vào dạy học với nhiều phương pháp khác như phương pháp trực quan,
phương pháp dùng lời… Là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi nhận
4
thấy, phần đông giáo viên chưa chú trọng đổi mới phương pháp dạy học môn Địa
lí. Hơn nữa, một phần tư tưởng của phụ huynh vẫn chưa nhận thức được vai trò
quan trọng của môn học này nên không quan tâm đôn đốc, nhắc nhở, không giúp
con trong việc tìm hiểu kiến thức ở nhà. Trong những năm học vừa qua, nhằm
tiếp cận với chương trình GDPT 2018 mà Bộ GD&ĐT đã ban hành, tôi đã tìm
hiểu, nghiên cứu sâu hơn về môn Địa lí để tìm ra phương pháp dạy học phù hợp
nhất đối với học sinh. Làm thế nào để lôi cuốn các em vào tiết học Địa lí? Dạy
học thế nào để khơi dậy và nuôi dưỡng trí tò mò, sự ham hiểu biết khám phá của
học sinh đối với thiên nhiên và đời sống xã hội, từ đó hình thành năng lực tự
học và khả năng vận dụng tri thức địa lý vào thực tiễn? Phải đưa ra phương
pháp học như thế nào để phụ huynh có thể tham gia vào việc dạy con học môn
học này? … ..
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã tập trung nghiên cứu “Một số biện
pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt môn Địa lí”
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Thực trạng công tác dạy và học môn Địa lí
1.1.Ƣu điểm
*Học sinh: Học sinh đang ở lứa tuổi tiểu học nên rất ham thích, tò mò,
muốn khám phá những điều mới lạ. Nhiều học sinh tích cực học tập, tham gia nhiệt
tình vào các hoạt động trong tiết học.
*Giáo viên: Giáo viên say mê, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn tìm
tòi, nghiên cứu và tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
Thực hiện đúng chương trình thời khóa biểu nhà trường xây dựng, đánh giá
học sinh theo quy định.
Giáo viên kết hợp cùng tổ chuyên môn tích cực làm đồ dùng dạy học để
phục vụ cho tiết dạy.
* Nhà trường: Tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên tích cực sinh hoạt chuyên
môn, học tập nâng cao trình độ đào tạo.
Nhà trường kết cùng phụ huynh học sinh đầu tư mua sắm trang thiết bị cần
thiết cho việc dạy học các môn như: Tivi, máy chiếu, máy tính, máy in,….
1.2. Hạn chế:
*Học sinh: Ở lớp 4, học sinh mới được tiếp cận môn Địa lí nên các em
chưa có nhiều hiểu biết, chưa có kiến thức về địa lí đất nước. Trong quá trình
5
học tập, một số học sinh còn gặp khó khăn trong việc sử dụng bản đồ, tìm kiếm
thông tin liên quan đến kiến thức môn học,…..Khả năng tự học của các em còn
hạn chế, việc tìm hiểu khám phá kiến thức còn ít nên việc lĩnh hội kiến thức đạt
kết quả chưa cao.
Vì đây là một trong những môn học mới đối với học sinh nên học sinh chưa
biết cách nắm bắt kiến thức trọng tâm của bài học, học sinh học nhanh, nhớ nhanh
nhưng cũng nhanh quên.
*Giáo viên: Hình thức và phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự
phong phú. Phần lớn là giáo viên chỉ vận dụng giảng dạy đúng như sách hướng dẫn
học (chủ yếu giảng dạy bằng lời theo phương pháp truyền thống) chưa có sự sáng
tạo, mở rộng thêm kiến thức cuộc sống nên tiết học có sự nhàm chán.
Việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên còn hạn chế. Đôi khi
giáo viên chỉ sử dụng nững đồ dùng có sẵn một cách qua loa, dẫn đến học sinh
tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Vì thời lượng của môn Địa lí rất ít (1
tiết/ tuần) nên giáo viên ngại đầu tư đồ dùng cho tiết dạy, dẫn đến hiệu quả môn
học không cao.
* Phụ huynh: Phụ huynh quan tâm nhiều hơn đến các môn học chính là
Toán, Tiếng Việt, Ngọai ngữ. Rất ít các bậc phụ huynh tham gia, quan tâm đến
việc giúp con em mình tìm hiểu, khám phá nguồn kiến thức ở nhà, mà phần lớn chỉ
là đôn đốc các con học thuộc phần ghi nhớ trong sách. Chính vì thế, bản thân học
sinh không có sự sáng tạo mà chỉ tiếp nhận kiến thức một cách thụ động.
* Về điều kiện ngoại cảnh: Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 diễn
biến phức tạp nên một số hoạt động trải nghiệm của học sinh không được diễn ra.
2. Biện pháp nâng cao chất lƣợng giảng dạy môn Địa lí
Để đạt được mục tiêu dạy học Địa lí ở tiểu học, cần có cách thức dạy học
thích hợp nhằm làm cho học sinh không những nắm vững kiến thức Địa lí, mà còn
phải rèn luyện cho các em kỹ năng, năng lực tự học địa lí đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của đất nước, phù hợp xu thế thời đại “Học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định mình, học để cùng chung sống” (UNESCO). Vì vậy mọi hoạt động dạy
và học đều hướng tập trung vào học sinh, hướng vào việc tổ chức phương pháp dạy
học mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo và triệt để khai thác mọi tiềm năng trí
tuệ của học sinh. Trước những thực trạng như trên, ngay từ đầu năm học 2020 –
2021, khi nhận lớp, tôi đã chú trọng không dạy lệch mà thực hiện theo đúng
chương trình và thời khóa biểu của nhà trường đối với các môn học nói chung và
môn Địa lí nói riêng. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã thực hiện một số biện pháp
như sau:
6
Biện pháp 1: Giúp học sinh học tốt bằng sự chuẩn bị của giáo viên và
học sinh
Để tổ chức tốt quá trình dạy và học trên lớp thì một trong những yếu tố quan
trọng của quá trình dạy học là khâu chuẩn bị bài dạy. Nếu giáo viên và học sinh
chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp thì sẽ mở đường cho quá trình dạy và học đạt chất
lượng cao và đặc biệt tạo tâm thế tự tin, chủ động ở mỗi người giáo viên trong mọi
tình huống phát sinh. Cụ thể:
*Về phía giáo viên:
Giáo viên cần có nhận thức đúng đắn về ý nghĩa tầm quan trọng của công
tác chuẩn bị bài dạy trước khi lên lớp; coi đây là một khâu không thể thiếu được để
có một giờ dạy hiệu quả, biến thế bị động thành thế chủ động, làm chủ được mọi
tình huống phát sinh.
Giáo viên phải tìm hiểu kĩ về đặc trưng môn Địa lí, mục tiêu, nội dung
chương trình môn Địa lí. Trước mỗi bài dạy, tôi thường nghiên cứu kĩ mục tiêu,
nội dung trọng tâm của bài, lựa chọn đồ dùng, phương pháp dạy cho hiệu quả, hình
thức tổ chức dạy học với từng bài, từng đối tượng học sinh.
Ngoài kiến thức cơ bản trong Tài liệu hướng dẫn học, tôi thường xuyên đọc
sách báo, tìm hiểu trên mạng Internet, sưu tầm thêm các tư liệu dạy học như tranh
ảnh, video….để có thêm vốn kiến thức sâu rộng khi giảng dạy cho học sinh.
Những kiến thức mới mang tính thời sự, sinh động sẽ thu hút được sự tập trung,
chú ý, kích thích trí tò mò ở học sinh. Tôi cũng thường xuyên trao đổi kiến thức
từng bài trong tổ chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm từ những đồng nghiệp đã có
nhiều kinh nghiệm trong dạy học.
Việc học tập theo nhóm giúp học sinh phát huy tính tích cực trong học
tập, tạo cho các em thói quen làm việc nhóm, hợp tác, thảo luận một vấn đề.
Chính vậy, từ những tiết học đầu tiên, tôi đã hướng dẫn học sinh phương pháp
học tập làm việc theo nhóm, tập huấn kĩ cho nhóm trưởng, thư kí và có sự thay
đổi luân phiên trong các tuần học, đảm bảo sao cho tất cả học sinh trong lớp đều
có thể tham gia vào tiết học.
*Về phía học sinh:
Để một tiết học thành công, hiệu quả thì sự chuẩn bị của học sinh giữ một
vai trò hết sức quan trọng. Xác định được điều này nên ngay từ đầu năm học, trong
cuộc họp phụ huynh học sinh, tôi cũng đưa ra một số yêu cầu, quy định mỗi học
sinh phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Các bậc phụ huynh cần hướng cho
cho con tìm đọc sách truyện về địa lí, địa danh Việt Nam. Học sinh phải có sự
chuẩn bị bài trước ở nhà, sưu tầm tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến bài học.
7
Trong quá trình học tập trên lớp, mỗi cá nhân học sinh cần tham gia tích cực
vào tiết học dưới sự hướng dẫn của cô giáo, sự điều hành của nhóm trưởng khi
tham gia các hoạt động nhóm.
Biện pháp 2: Tạo cho học sinh hứng thú học tập, tính tò mò, khám phá,
hào hứng trước khi bắt đầu tiết học
Học tập cũng như làm việc muốn có hiệu quả thì phải có sự hứng thú, say
mê. Kinh nghiệm thực tế cho thấy bất kì học sinh nào, từ học sinh có lực học trung
bình đến học sinh khá, giỏi, muốn học tốt môn Địa lí thì trước hết phải ham thích,
say mê Địa lí. Có hứng thú, say mê với môn học thì mới có tiền đề để học giỏi
phân môn Địa lí, đồng thời, các em sẽ tự tin, mạnh dạn hơn. Chính vì vậy, tôi rất
quan tâm đến việc nuôi dưỡng hứng thú học tập của học sinh.
Bước vào đầu mỗi tiết học Địa lí, tùy từng nội dung bài, tôi thường kết hợp
cùng Ban học tập áp dụng những hình thức dẫn dắt vào nội dung bài như: Sử dụng
những câu hỏi mở, khơi gợi vấn đề; Đặt câu đố hay, thú vị để học sinh đoán ra tên
bài học; Hay khởi động bằng một bài hát liên quan đến bài học; Sử dụng các trò
chơi khởi động….
2.1. Khởi động tiết học dưới dạng các trò chơi
Để mở đầu tiết học Địa lí, tạo cho học sinh hứng thú khi bắt đầu tiết học, tôi
thường tổ chức các trò chơi nhanh như: Đuổi hình bắt chữ, Giải ô chữ, Ong tìm
mật, Vòng quay kì diệu,…. Các trò chơi này giúp cho tiết học trở nên sôi nổi, cuôn
hút, giúp học sinh rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin, khả năng phản xạ nhanh, sự sáng
tạo, nâng cao tinh thần đoàn kết và sự tương tác giữ học sinh với học sinh, học ính
với giáo viên,… Mở đầu tiết học Địa lí, các trò chơi thường được tôi tổ chức liên
quan đến kiến thức của các tiết học trước như học sinh sẽ được tái hiện kiến thức
về các vùng miền đã học hay tìm ra từ khóa liên quan đến nội dung bài học mới,
làm tiền đề để giáo viên dẫn vào bài học một cách hấp dẫn.
2.2. Khởi động tiết học bằng các câu hỏi gợi mở, khơi gợi vấn đề
Các câu hỏi trong phần khởi động có thể là những câu hỏi gợi mợ, liên quan
đến nội dung bài mới để cho học sinh phát hiện hay huy động vốn hiểu biết của
mình để trả lời các câu hỏi ấy.. Các vấn đề hay câu hỏi được đưa ra sẽ giúp học
sinh phát triển tư duy, xâu chuỗi vấn đề một cách mạch lạc đồng thời tạo hứng thú
cho học sinh vào tiết học mới để khám phá vấn đề vừa được gợi mở.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Dãy Hoàng Liên Sơn (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa
lí lớp 4, tập 1)
Để dẫn dắt vào nội dung bài học, tôi đặt ra câu hỏi cho học sinh: Em hãy nói
về một dãy núi mà em biết? Đó là dãy núi nào? Dãy núi đó ở đâu? Học sinh sẽ trả
8
lời các câu hỏi theo hiểu biết của mình. Từ đó, tôi sẽ liên kết với nội dung bài học
của ngày hôm đó là tìm hiểu về dãy núi Hoàng Liên Sơn.
2.3. Khởi động bằng một bài hát hay một câu đố
Khi khởi động tiết học bằng một bài hát hay một câu đố giúp cho tiết học trở
nên vui vẻ. Qua việc múa hát hay giải câu đố, học sinh sẽ có tinh thần thoải mái hơn
khi vào tiết học, phát huy óc sáng tạo nghệ thuật và tư duy khi giải câu đố.
Ví dụ : Khi dạy bài Thủ đô Hà Nội (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí lớp 4,
tập 2)
Trước khi bắt đầu vào tiết học, tôi kết hợp cùng Ban văn nghệ của lớp tổ chức
cho cả lớp hát bài “Em yêu Hà Nội” để tạo không khí vui tươi, sôi nổi và nối kết vào
bài học ngày hôm đó.
Ví dụ 3: Để dẫn dắt vào bài Đồng bằng Nam Bộ (Hướng dẫn học Lịch sử
và Địa lí lớp 4, tập 2)
Tôi đưa ra câu đố cho học sinh:
Sông nào chảy xuống Nam phần
Đổ ra chín nhánh cửa sông như rồng
Phun nước vào đến biển Đông
Phù sa bồi đắp cho đồng lúa xanh?
(Sông Cửu Long)
Sau đó tôi dẫn dắt vào bài học: Sông Cửu Long là một con sông lớn thuộc
Đồng bằng Nam Bộ của đất nước ta. Vì sao sông lại có tên là Cửu Long? Và con
sông này có vai trò quan trọng gì đối với đời sống sinh hoạt và sản xuất của người
dân Nam Bộ. Hôm nay, cô trò mình sẽ cùng tìm hiểu điều đó trong bài “Đồng bằng
Nam Bộ”.
9
Biện pháp 3: Xây dựng bài giảng sinh động, sáng tạo
Giáo viên là yếu tố quan trọng để có thể khơi gợi niềm yêu thích môn học
đối với học sinh Tiểu học. Một bài giảng không có điểm nhấn hay sáng tạo thì khả
năng tiếp thu của học sinh bị ảnh hưởng rất nhiều. Chính vì thế, tôi luôn tìm tòi,
đổi mới trong từng tiết giảng. Cụ thể:
3.1.Sử dụng các hình ảnh, video có liên quan đến nội dung bài học
Đối với học sinh tiểu học, các em luôn bị lôi cuốn, hấp dẫn với những hình
ảnh sinh động, màu sắc. Với phân môn Địa lí thì kiến thức thực tế là rất cần thiết
với các em. Vì qua thực tế, qua những hình ảnh trực quan các em dễ dàng hình
dung và hiểu được các nội dung trong sách. Chính vì thế, để tiết học thêm sinh
động, tôi thường tìm hiểu và chọn lọc những hình ảnh, những đoạn video đan xen
vào các bài giảng Địa lí của mình.
Với kho tư liệu phong phú có sẵn trên mạng internet, mỗi giáo viên đều dễ
dàng tìm cho mình nhiều hình ảnh đa dạng, đặc sắc minh họa cho bài học, như:
hình ảnh các dãy núi, vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Trung du Bắc Bộ , Tây
Nguyên hay các hoạt động của các vùng miền….. sinh động hơn nữa là các đoạn
video mô tả, như: video mô tả hoạt động của người dân Tây Nguyên, video về thủ
đô Hà Nội, video về các làng nghề của địa phương…… Để thực hiện tốt biện pháp
này, người giáo viên cần học hỏi các kĩ năng soạn bài trên các phần mềm: MS
PowerPoint, Word, MindMaps,… Khi dạy học cần có các phương tiện: máy tính,
maý chiếu, tivi, loa,…. Các hình ảnh rõ nét, đẹp, sinh động còn có thể thay thế bản
đồ, lược đồ trong sách. Sử dụng những phương tiện này sẽ gây được sự hứng thú
và tập trung chú ý của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài Tây Nguyên (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí lớp 4,
tập 21
Khi nhắc tới các dân tộc, hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên,
sách Hướng dẫn học đưa ra ít các tranh ảnh về Tây Nguyên. Nên tôi tìm kiếm thêm
hình ảnh về các dân tộc ở Tây Nguyên, hình ảnh thành phố Đà Lạt, video về các
hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên,…Qua quan sát các hình ảnh về các
dân tộc ở Tây Nguyên, hoạt động sản xuất ở Tây Nguyên học sinh rất thích thú,
nhiều học sinh thấy lạ, tò mò và muốn hiểu rõ hơn về đời sống của người dân ở
Tây Nguyên.
10
Ví dụ: Khi dạy Bài Đồng bằng Bắc Bộ (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí
lớp 4, tập 1)
Khi nhắc tới các làng nghề thủ công truyền thống ở đồng bằng Bắc Bộ, để
các em hiểu rõ hơn về làng gốm Bát Tràng – một làng nghề nổi tiếng ở Hà Nội , tôi
tổ chức cho học sinh xem video, để tìm hiểu kĩ hơn về làng nghề thủ công này với
các công đoạn : Nhào đất và tạo dáng gốm, phơi gốm, vẽ hoa văn, tráng men, nung
gốm, các sản phẩm gốm. Các công đoạn để tạo ra một sản phẩm gốm đẹp mắt, học
sinh chưa bao giờ được chứng kiến tận mắt. Khi được trực quan bằng video, học
sinh sẽ hiểu rõ hơn về nghề thủ công truyền thống này. Học sinh nắm được các
bước tạo ra sản phẩm gốm. Học sinh cũng có thể nhận biết được các sản phẩm
bằng gốm có xung quanh mình. Qua đó, biết trân trọng, giữ gìn những thành quả
mà những nghệ nhân gốm đã dày công tạo ra.
11
3.2.Tổ chức các trò chơi học tập để khám phá, củng cố kiến thức trong
tiết học
Trò chơi học tập bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học sinh tự củng cố
kiến thức, kĩ thuật, thói quen học tập một cách hứng thú, thói quen làm việc theo
nhiều quy mô (cá nhân, nhóm, lớp). Các tiết học có trò chơi sẽ thu hút mức
độ tập trung của học sinh mà không một phương pháp nào sánh được.
Những kiến thức khô khan và cứng nhắc sẽ sinh động, hấp dẫn nếu được tổ
chức dưới hình thức trò chơi và nhờ đó kết quả học tập của học sinh sẽ tăng lên.
Như vậy, việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học nói chung và trong dạy học
môn Địa lí nói riêng là một trong những biện pháp tăng cường tích cực hoá hoạt
đọng học tập của học sinh. Hơn thế nữa, mối quan tâm và hoạt động của học sinh
thể hiện qua các tiết học có trò chơi làm tăng thêm cảm tình của các em đối với
môn học và thầy cô giáo. Trò chơi là chiếc cầu nối môn Địa lí với thực tiễn, bởi vì
thông qua trò chơi các em thấy ứng dụng quan trọng của môn Địa lí trong thực
tiễn. Và như vậy là đã phát huy được tính tích cực nhận thức của các em. Thông
qua các trò chơi, học sinh ghi nhớ kiến thức rất nhanh. Chính vì thế, để tổ chức
các trò chơi học tập củng cố kiến thức, tôi đã thực hiện các bước như sau:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
– Tổ chức người tham gia trò chơi: Có thể tổ chức chơi cả lớp hoặc chơi theo
nhóm, số người tham gia, số đội tham gia (mấy đội chơi), quản trò, trọng tài.
– Các dụng cụ dùng để chơi (giấy khổ to, thẻ từ, thẻ a,b,c,d, Đ,S, cờ…)
– Giáo viên công bố luật chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội
chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm…
– Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi.
(nếu có)
Bước 3: Tổ chức trò chơi
Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
– Giáo viên hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của
từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
+ Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
cho đội đoạt giải.
+ Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể
hiện.
Dưới đây là một số trò chơi tôi đã lựa chọn và tổ chức cho học sinh chơi:
12
a.Trò chơi: Ai nhanh, ai đúng
Ví dụ: Khi dạy Hoạt động thực hành 4 bài Dãy Hoàng Liên Sơn, tôi sẽ chia
học sinh trong lớp thành các nhóm, mỗi nhóm 6 học sinh.
– Dụng cụ: Giáo viên và học sinh chuẩn bị bộ thẻ chữ ghi 4 cụm từ: Khai
thác quặng a-pa-tít; Làm giàu quặng; Sản xuất phân lân; Phân lân
– Cách chơi: Đại diện các nhóm lấy bộ thẻ chữ về cho nhóm mình. Khi giáo
viên hô “Bắt đầu” các nhóm sẽ xếp thẻ vào đúng sơ đồ theo quy trình sản xuất.
Nhóm nào xếp nhanh nhất sẽ giành chiến thắng.
b.Trò chơi: Rung chuông vàng
Đây là một trò chơi rất phổ biến và được sử dụng nhiều ở các tiết ôn tập hay
để củng cố bài học. Hầu hết các bài Địa lí đều có thể sử dụng trò chơi này.
Ví dụ: Khi học xong bài Trung du Bắc Bộ, tôi sẽ cho các nhóm cử ra một
đại diện nhóm để tham gia chơi.
– Hình thức: Đại diện các nhóm.
– Dụng cụ: Thẻ hoa có các đáp án a, b, c, d, Đ, S. Màn hình tivi.
– Cách chơi: Ban học tập đọc các câu hỏi và các đáp án. Sau thời gian 5s,
đại diện các nhóm giơ thẻ chọn đáp án đúng. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.
Ai trả lời sai, sẽ không được tham gia trả lời các câu hỏi nữa. Các câu hỏi bao gồm:
Câu 1. Đặc điểm của vùng đồi ở trung du Bắc Bộ là:
A. Đỉnh nhọn, sườn dốc
B.Đỉnh tròn, sườn thoải
C. Đỉnh cao, sắc nhọn
Câu 2. Trung du Bắc Bộ nằm ở đâu?
A.Nằm ở vùng núi
B. Nằm ở đồng bằng
C. Nằm giữa miền núi và đồng bằng
Câu 3: Các tỉnh có vùng trung du là:
A.Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nam
B.Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Bắc Giang
C.Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang
Câu 4: Để phủ xanh đất trống, đồi trọc, người dân ở đây đã làm gì?
A. Di dân tự do
13
B. Khai thác rừng
C. Trồng rừng
Câu 5: Trong các loại cây sau đây, cây nào không trồng được ở trung du Bắc Bộ?
A.Cây ăn quả
B. Rau xứ lạnh
C. Cây công nghiệp
Câu 6: Loại cây nào được coi là biểu tượng của trung du Bắc Bộ?
A. Rừng cọ đồi chè
B. Cây thông
C. Câu ăn quả
Câu 7: Cây trồng nổi tiếng ở Thái Nguyên là:
A.Vải thiều
B. Chè
C. Nhãn lồng
c. Trò chơi Chiếc hộp bí mật
Trò chơi này huy động được cả lớp cùng tham gia chơi, mục đích cũng là
củng cố kiến thức đã học, giúp học sinh thêm mạnh dạn, tự tin khi trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Khi dạy bài Tây Nguyên, tôi tổ chức cho cả lớp tham gia chơi
14
– Dụng cụ: Chiếc hộp được trang trí đẹp, trong đó có chứa các câu hỏi liên
quan đến nội dung bài
– Cách chơi: Học sinh sẽ đứng thành vòng tròn, quản trò sẽ bắt nhịp một bài
hát vui nhộn, học sinh vừa hát vừa truyền cho nhau chiếc hộp. Khi quản trò hô
“Dừng”, chiếc hộp đang trên tay ai, người đó sẽ bốc một câu hỏi có trong hộp và
trả lời. Nếu Học sinh trả lời sai thì các bạn khác được xung phong trả lời lại.
d. Trò chơi Tập làm hƣớng dẫn viên du lịch
Trò chơi này có thể dử dụng trong các bài liên qua đến địa danh như khi dạy
bài Tây Nguyên (Học sinh tìm hiểu và giới thiệu về đặc điểm về các cao nguyên ở
Tây Nguyên); Bài Thủ đô Hà Nội (học sinh giới thiệu về các địa điểm tham quan du
lịch tại Hà Nội) ….Nhưng để tổ chức được trò chơi này, đòi hỏi học sinh phải có sự
chuẩn bị trước ở nhà, chính vì thế, khi muốn tổ chức trò chơi này, tôi thường giao việc
trước cho học sinh 1 tuần, đồng thời qua nhóm Zalo của lớp, tôi cũng thông tin cho
phụ huynh và yêu cầu phụ huynh hỗ trợ con em mình trong việc chuẩn bị.
Học sinh tập làm Hướng dẫn viên du lịch
15
e. Trò chơi Mảnh ghép bí ẩn
Thông qua việc tìm thông tin và ghép những mảnh ghép lại với nhau, học
sinh sẽ biết được nội dung kiến thức mà giáo viên muốn truyền tải.
Ví dụ : Khi dạy bài “Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ”
Sau khi học sinh đã tìm hiểu và nắm được các kiến về hai thành phố Hồ chí
Minh và thành phố Cần Thơ, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi này để nhằm
củng cố kiến thức cảu bài cho học sinh.
Chuẩn bị: 12 thẻ, mỗi thẻ có một mặt hình và một mặt chữ. Mặt hình của
mỗi thẻ là một phần của lược đồ, còn mặt chữ là thông tin về một trong hai thành
phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.
Cách chơi như sau: Nhóm trưởng sẽ lên lấy một bộ gồm 12 thẻ. Sau đó úp
mặt hình của các thẻ xuống mặt bàn. Học sinh sẽ đọc thông tin ở mặt chữ rồi chia
các tấm thẻ thành hai nhóm theo đặc điểm của Thành phố Hồ Chí Minh và Thành
phố Cần Thơ. Sau đó lật mặt hính lên và xếp các thẻ trong mỗi nhóm thành một
lược đồ lớn. Nhóm nào xếp được thành hia lược đồ hoàn chỉnh cảu hai thành phố
là nhóm thắng cuộc.
g. Các trò chơi khác
Ngoài những trò chơi trên, tôi còn hay sử dụng các trò chơi như: Tiếp sức, Ô
chữ bí mật, hay Chỉ nhanh chỉ đúng, Hái hoa dân chủ… Mỗi trò chơi có một đặc
điểm khác nhau, nhưng đều có mục đích chung là nhằm giúp học sinh khám phá,
củng cố kiến thức. Thông qua hoạt động trò chơi, học sinh sinh thêm mạnh dạn, tự
tin hơn đồng thời tạo không khí lớp thêm sôi nôi hơn, tiết học diễn ra thoải mái,
nhẹ nhàng, vui vẻ.
Trò chơi Hái hoa dân chủ
16
Thông qua tổ chức trò chơi cho học sinh, tôi nhận thấy:
– Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn HS do
đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học.
– Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, đo đó
giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức lý thuyết mới.
– Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học
tập hợp tác cho HS.
Tuy nhiên, khi tổ chức trò chơi học tập trong môn Địa lí , cũng có
những tồn tại ngƣời giáo viên cần khắc phục nhƣ:
– Học sinh dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến tính chất học tập của các
trò chơi. Vì vậy, giáo viên cần làm chủ các trò chơi, định hướng khéo léo giúp học
sinh thực hiện đúng mục đích của trò chơi.
– Đồ dùng của một số trò chơi cần chuẩn bị kĩ nên cần có sự phối kết hợp
trong tổ chuyên môn khi chuẩn bị, như: giáo viên trong tổ cùng nhau làm đồ dùng,
hay có thể tạo đồ dùng chung cho cả khối sử dụng để tránh lãng phí.
3.3. Sử dụng hiệu ứng trình chiếu để khắc sâu kiến thức cho học sinh
Khi thiết kế các tiết dạy Địa lí, tôi sử dụng hiệu ứng trình chiếu với 2 mục
địch chính sau:
a. Tạo hiệu ứng khi trình chiếu bản đồ, lược đồ:
Nói tới Địa lí là nói tới bản đồ, lược đồ. Tuy nhiên, lược đồ, bản đồ là các yếu
tố mới đối với học sinh lớp 4. Mặc dù trong chương trình lớp 4, theo Tài liệu Hướng
dẫn học môn Lịch sử và Địa lí 4, có một bài hướng dẫn học sinh làm quen với bản đồ.
Tuy nhiên, giáo viên thường dạy qua loa, khiến cho học sinh nắm kiến thức về lược
đồ, bản đồ không chắc, nhiều học sinh không phân biệt được hướng Đông, Tây, Nam,
Bắc của bản đồ hay không phân biệt được các đối tượng trên bản đồ. Vì vậy, để học
sinh có ấn tượng sâu sắc với bản đồ, lược đồ, tôi xây dựng và cho học sinh quan sát
trên bản đồ động. Khi học sinh được tri giác trực tiếp trên bản đồ động, học sinh sẽ
nắm rõ hơn vị trí các đối tượng mà bản đồ đang hướng tới.
17
Lược đồ các cao nguyên ở Tây Nguyên
b.Tạo hiệu ứng trình chiếu khắc sâu kiến thức cho học sinh
Biện pháp này tôi áp dụng chủ yếu ở các bài ôn tập kiến thức cho học sinh.
Giúp học sinh có thể khái quát kiến thức đã học, phân biệt được vị trí, đặc điểm tự
nhiên giữa các vùng miền. Khi giáo viên thao tác kết hợp chạy hiệu ứng với kiến
thức cần chốt cho học sinh trên giáo án điện tử sẽ vô cùng hiệu quả khi hệ thống
kiến thức ôn tập cho học sinh. Bởi đây đều là các hình ảnh sống động, cụ thể hóa
giúp các em ghi nhớ lâu kiến thức.
18
Biện pháp 4: Giúp học sinh nắm bắt, khám phá, ghi nhớ kiến thức bằng
phương pháp sơ đồ tư duy
Yếu tố khiến hầu hết học sinh tiểu học sợ môn Địa lí đó chính là kiến thức
mang tính lí thuyết nhiều và khó học thuộc. Tuy nhiên chỉ cần trẻ có phương pháp
học tập đúng thì những rắc rối đó sẽ được khắc phục hoàn toàn. Nắm bắt được tâm
lí của học sinh tiểu học là “nhanh nhớ, nhanh quên” . Tôi thường ít cho học sinh
học thuộc lòng, vì nhiều khi học thuộc lòng các em không nắm chắc kiến thức, học
xong lại quên ngay nên trong mỗi tiết học. Chính vì vậy, để phát huy được tính tích
cực trong nhận thức của học sinh, tôi dạy cho các em khám phá kiến thức, cách ghi
nhớ bằng sơ đồ tư duy. Cụ thể:
1.Vận dụng sơ đồ tư duy trong khám phá, hình thành kiến thức mới
Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học hôm nay,
tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội
dung trong tài liệu hướng dẫn học, bản đồ trong sách, bản đồ treo tường để hoàn
thành bài tập. Cuối cùng, GV cùng HS hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến
thức theo ý muốn của mình.Có thể tiến hành theo hai cách sau:
Cách 1:
Bước 1: GV hướng dẫn HS đọc nội dung trong tài liệu hướng dẫn học, đưa
ra tình huống có vấn đề trước khi cho HS đọc.
Bước 2: GV và HS tìm hiểu, phân tích đặt tên các chủ đề(hoặc GVchọn
trước tên chủ đề cần nghiên cứu cho HS thiết lập BĐTD với các từ khóa đó).
19
Bước 3: GV hướng dẫn HS vẽ BĐTD theo các nội dung chính.
Bước 4: Chia nhóm, giao việc khai triển các nhánh của BĐTD theo ý của
HS. (có thể tất cả các nhóm cùng chung nội dung hoặc mỗi nhóm có nội dung khác
nhau tùy theo mục tiêu, nội dung bài và đối tượng HS).
Bước 5: HS báo cáo, trình bày BĐTD của nhóm mình .
Bước 6: Nhận xét, đánh giá, bổ sung thêm cho bạn.
Bước 7: GV chốt lại nội dung chính cần ghi nhớ, có thể đưa ra BĐTD đã
chuẩn bị, gọi HS đọc lại.
Tuy nhiên GV cũng có thể thiết kế sẵn BĐTD theo mục tiêu bài học nhưng
còn thiếu nhánh, thiếu nội dung. Sau đó, GV giao việc cho HS dưới dạng phiếu
học tập để HS vẽ hoặc viết tiếp …Từ đó, các em rút ra kiến thức khoa học cần ghi
nhớ của bài học.
Cách 2: Giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở rồi từ từ hình thành một BĐTD.
Ví dụ : Khi dạy bài 5 : Đồng bằng Bắc Bộ – Trang 82, Hướng dẫn học
Lịch sử và Địa lí 4 tập 1.
Tôi tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức mới theo sơ đồ tư duy dưới đây:
Bước 1: Khi vào nội dung bài, giáo viên đưa ra các tình huống có vấn đề.
Ví dụ : Giáo viên cho học sinh quan sát Lược đồ đồng bằng Bắc Bộ (Hình 1
– Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4, tập 1, trang 83), sau đó gọi học sinh lên chỉ
vị trí địa lí của đồng bằng Bắc Bộ trên lược đồ
– Giáo viên phát phiếu giao việc cho từng nhóm trong đó có các câu hỏi gợi
mở: Từ vị trí địa lí đó, các em hãy tìm hiểu xem, đồng bằng Bắc Bộ có những đặc
điểm gì nổi bật ? Đồng bằng Bắc bộ nằm ở miền nào của đất nước ta ? ĐBBB do
20
hệ thống phù sa của con sông nào bồi đắp lên ? Đây là đồng bằng lớn thứ mấy cả
nước ? Nêu đặc điểm nước sông ở đồng bằng Bắc Bộ vào mùa mưa ? …..
– GV cho cả lớp đọc thầm các nội dung trong tài liệu hướng dẫn học. Sau đó
hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích, đặt tên cho từng chủ đề.
Ví dụ : Bài học hôm nay chúng ta tìm hiểu là bài gì? (Đồng bằng Bắc Bộ).
Vậy tên chủ đề chính các em có thể đặt là gì? (Đồng bằng Bắc Bộ…). GV vừa hỏi
vừa vẽ trên bảng lớp, trực tiếp trên phần mềm hoặc giấy tooky, bảng lớp…
Giáo viên hỏi : Đồng bằng Bắc Bộ có những đặc điểm nào nổi bật? (Học
sinh dựa vào nội dung đã chuẩn bị và kiến thức từ việc đọc thầm để trả lời từng
câu hỏi khám phá nội dung bài.)
Bước 2: Sau khi hướng dẫn đặt tên các chủ đề xong giáo viên yêu cầu tiếp:
– Bây giờ cô chia lớp mình thành các nhóm 4 ( có thể là nhóm ngẫu nhiên,
cũng có thể chia nhóm theo đối tượng tùy theo mục đích của giáo viên), các em
đọc thầm các nội dung trong sách kết hợp vốn hiểu biết của mình làm rõ những đặc
điểm nổi bật của đồng bằng Bắc Bộ bằng sơ đồ tư duy ứng với tên mỗi chủ đề các
em vừa đặt. Trong thời gian 10 – 15 phút. Hết thời gian, đại diện các nhóm sẽ báo
cáo kết quả trước lớp. (Giáo viên có thể giao việc cho mỗi nhóm một nội dung, sau
đó các nhóm báo cáo để ghép lại thành bản đồ tư duy có nội dung hoàn chỉnh của
cả bài.)
– Học sinh thực hành theo nhóm. Giáo viên theo dõi, giúp đỡ nhóm còn gặp
khó khăn.
– Từng nhóm báo cáo kết quả trước lớp. Các nhóm khác bổ sung. Trưng bày
sản phẩm của nhóm. Giáo viên có thể đặt câu hỏi theo nội dung bài để làm rõ và
sâu hơn kiến thức trọng tâm hoặc để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, kỹ năng
sống cho các em thông qua môn học.
Sau đó, giáo viên đưa ra sơ đồ tư duy chuẩn của mình đã thiết kế trước, đưa ra
điều bỡ ngỡ mong muốn học sinh tìm hiểu thêm.
2. Vận dụng sơ đồ tư duy trong củng cố kiến thức
Để củng cố kiến thức cho học sinh, tôi thường cho học sinh lên trình bày,
thuyết minh về kiến thức bài học thông qua một sơ đồ tư duy do tôi đã chuẩn bị
sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc giấy bìa), hoặc sơ dồ tư duy mà các em vừa thiết kế và cả
lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. Tuy nhiên, giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho HS về
mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức nếu cần.
21
Phù hợp với việc củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập
thích hợp là cho HS tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý muốn sáng tạo của
mình với màu sắc tùy ý, có thể bản đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể hoặc đầy đủ
lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài học, hoạt động cá nhân hoặc
nhóm. Tuy nhiên các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một
lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học. Mỗi em có
một cuốn sổ tay địa lí, trong đó là những sơ đồ do chính tay các em thiết kế. Việc
này, không chỉ giúp các em ghi nhớ kiến thức bài học ngày hôm đó mà còn giúp
các em có tài liệu ôn tập trong mỗi lần kiểm tra cuối kì hoặc cuối năm học.
Hình ảnh một số sơ đồ tư duy của học sinh
Biện pháp 5: Tổ chức tốt các Hoạt động trải nghiệm để nâng cao vốn kiến
thức cho học sinh.
Những năm học trước, song song với việc nâng cao chất lượng, trường tiểu
học thị trấn Xuân Trường luôn quan tâm đến các hoạt động trải nghiệm của học
sinh. Để cung cấp thêm vốn kiến thức thực tế cho học sinh, nhà trường đã phối
hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp, phụ huynh học sinh xây dựng kế hoạch ngay
từ đầu năm học về các chuyến trải nghiệm cho học sinh từng khối lớp. Đây là một
22
hoạt động rất thiết thực với học sinh tiểu học. Bới vì thông qua các hoạt động thực
tế, các em được tham quan, tìm hiểu, khám phá những địa danh, những nét văn hóa
của một số vùng miền trên đất nước. Học sinh đã được tham quan nhiề

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay