dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên lớp 12

SKKN Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên lớp 12

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
Với tầm nhìn thời đại và tư duy toàn cầu, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra những mục tiêu của giáo dục là “đào tạo các em nên những người
công dân hữu ích cho nước Việt Nam, phát triển toàn diện con người, thúc đẩy
hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Dạy học là nhằm phát triển trí tuệ,
phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Trong giáo dục, người học bao giờ
cũng là trung tâm. Người luôn lưu ý những người dạy phải chú ý tới đặc điểm của
đối tượng, phải “đóng giầy theo chân”, không phải “khoét chân cho vừa giầy”.
Điều này đòi hỏi người thầy phải bám sát, hiểu rõ đặc điểm đối tượng người học để
từ đó có phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá phù hợp, đảm bảo tính vừa
sức.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, xã hội
thông tin, hình thành nền văn minh tri thức và tiến tới xây dựng một “ xã hội học
tập” đã tạo ra những cơ hội lớn, đồng thời là những thách thức lớn đối với nền giáo
dục hiện đại, nhất là trước yêu cầu cao hơn đối với việc hình thành phẩm chất,
năng lực của con người trong thời đại mới. Giáo dục theo định hướng phát triển
năng lực không chỉ là xu hướng phổ biến trên thế giới mà đó cũng là mục tiêu của
công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 29-NQ/TW nhấn mạnh: Giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Phát triển giáo dục và đào
tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất của người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn. Vì thế,
trong quá trình dạy học, giáo viên cần hình thành cho học sinh các năng lực chung
và năng lực đặc thù ở các bộ môn. Ở Việt Nam, trong lộ trình thực hiện Chương
trình giáo dục phổ thông mới, ở tất cả các môn học và hoạt động giáo dục đều
hướng tới hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh: năng lực tự chủ và tự
học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Như vậy
có thể nói năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo là một trong những năng lực cốt
lõi, cơ bản nhất cần hình thành và phát triển cho học sinh. Năng lực này giúp các
em phát triển tư duy, suy luận lôgic, kĩ năng phát hiện và giải quyết các vấn đề mới
nảy sinh trong cuộc sống. Việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề
và sáng tạo cho học sinh sẽ góp phần giúp các em tự tin, chủ động, thích ứng tốt
2
khi bước vào cuộc sống. Đánh giá năng lực trong đó có năng lực giải quyết vấn đề
và sáng tạo cũng là một trong những xu hướng tuyển sinh hiện tại và tương lai của
nhiều trường đại học để tạo cơ sở đào tạo nguồn lao động chất lượng cao cho đất
nước.
Môn Địa lí ở cấp Trung học phổ thông là môn học có nhiều khả năng và cơ
hội để hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Môn Địa lí
lớp 12 cung cấp cho các em hệ thống kiến thức về Địa lí tự nhiên và kinh tế – xã
hội của Việt Nam, trong đó phần Địa lí tự nhiên lớp 12 có nhiều vấn đề về tự
nhiên, vấn đề về vai trò của các nguồn lực tự nhiên trong phát triển kinh tế, mối
quan hệ giữa cuộc sống con người và thế giới tự nhiên tạo điều kiện cho các em
phát triển tư duy lôgic, tư duy theo lãnh thổ, tư duy liên hệ, tổng hợp, vận dụng
kiến thức đã học… để tìm hiểu, giải thích, đánh giá các mối quan hệ nhân quả
trong tự nhiên, cũng như giữa thiên nhiên và hoạt động kinh tế của con người, các
mối liên hệ trong dân cư, xã hội, kinh tế….để giải quyết vấn đề nhất là những vấn
đề thực tiễn cập nhật, có tính thời sự của đất nước và địa phương.
Để phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh, trong dạy
học, cần sử dụng các phương pháp dạy học hợp lí kết hợp tăng cường sử dụng các
công cụ kiểm tra đánh giá. Trong quá trình dạy học, giáo viên tăng cường tổ chức
các hoạt động học tập tạo điều kiện cho học sinh được trao đổi, thảo luận, tranh
luận, thuyết trình về các vấn đề trong học tập và thực tiễn. Việc sử dụng các công
cụ kiểm tra đánh giá trên cơ sở đánh giá vì học tập và đánh giá là học tập sẽ giúp
giáo viên phát hiện sự tiến bộ của học sinh, từ đó hỗ trợ, điều chỉnh quá trình dạy
học, cung cấp cho học sinh các thông tin phản hồi để tiếp tục việc học của mình
trong các giai đoạn tiếp theo. Đồng thời việc giáo viên tổ chức để học sinh tự đánh
giá và đánh giá đồng đẳng, coi đó như là một hoạt động học tập để học sinh thấy
được khả năng học tập, sự tiến bộ của chính mình so với yêu cầu cần đạt của bài
học, từ đó thiết lập mục tiêu học tập cá nhân và lên kế hoạch học tập tiếp theo.
Xuất phát từ những lí do trên, với mong muốn phát triển năng lực giải quyết
vấn đề và tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá trình dạy và học môn Địa lí lớp
12, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: Phát triển năng lực giải quyết vấn
đề và sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên Việt Nam lớp


  1. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
  2. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Trên cơ sở nền tảng kiến thức địa lí đại cương về tự nhiên và kinh tế – xã hội
    ở chương trình Địa lí lớp 10. Chương trình Địa lí lớp 12 hiện hành cung cấp cho
    các em hệ thống kiến thức về địa lí tự nhiên, địa lí dân cư, địa lí các ngành kinh tế,
    địa lí các vùng kinh tế và tìm hiểu địa lí địa phương. Trong đó phần Địa lí tự nhiên
    gồm các chủ đề dạy học:
    Chủ đề 1: Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ.
    Chủ đề 2: Đặc điểm chung của tự nhiên.
    3
    Chủ đề 3: Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên.
    Trong phần Địa lí tự nhiên Việt Nam, học sinh được tìm hiểu về vị trí địa lí
    và phạm vi lãnh thổ, các đặc điểm chung cơ bản của tự nhiên: đất nước nhiều đồi
    núi; thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển; thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió
    mùa, thiên nhiên phân hoá đa dạng, vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên
    và bảo vệ môi trường. Các chủ đề này làm rõ những đặc điểm cơ bản nhất về vị trí
    địa lí, đặc điểm cơ bản của tự nhiên Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong các
    thành phần tự nhiên, sự phân hoá đa dạng của lãnh thổ cả theo chiều Bắc – Nam,
    Tây – Đông và theo độ cao địa hình, tạo cơ sở hình thành các miền địa lí tự nhiên
    với các đặc trưng lãnh thổ khác nhau, chi phối lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội
    của các vùng miền. Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên được xem như phần kết nối
    giữa con người và thiên nhiên trong khai thác, sử dụng và phát triển lãnh thổ một
    cách hợp lí theo hướng phát triển bền vững. Nhiều vấn đề thực tế về tài nguyên,
    môi trường nổi cộm đã được đề cập đặt ra cho học sinh những suy nghĩ, thái độ,
    hành động tham gia vào thực tế phát triển đất nước.
    Do vậy trong quá trình dạy và học môn Địa lí 12 phần Địa lí tự nhiên, ngoài
    yêu cầu hướng dẫn các em khai thác kiến thức, vận dụng các kĩ năng Địa lí thì một
    nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra là tổ chức các hoạt động học tập, kiểm tra đánh giá
    phải phát huy tính chủ động của người học, tạo điều kiện cho các em tham gia phát
    hiện, đề xuất giải pháp giải quyết các vấn đề, đánh giá giải pháp giải quyết các vấn
    đề trong học tập và đời sống tạo cơ sở cho sự định hướng nghề nghiệp trong tương
    lai của các em.
    Thực tế việc dạy và học Địa lí trong những năm qua đã có nhiều đổi mới tuy
    nhiên vẫn còn nặng về trang bị kiến thức và kĩ năng cho người học. Trong các giờ
    học, giáo viên chủ yếu vẫn là người thuyết trình, diễn giảng, học sinh là người
    nghe, nhớ và ghi chép. Việc tạo ra các tình huống, các vấn đề có tính mở gắn liền
    với thực tế của đất nước và địa phương để học sinh được chủ động tham gia vào
    các hoạt động học tập, được trao đổi, thảo luận, bày tỏ quan điểm của bản thân,
    vận dụng kiến thức, kĩ năng được học để giải quyết vấn đề, tìm kiến các giải pháp
    vẫn còn hạn chế. Việc sử dụng các công cụ đánh giá trong các hoạt động học tập
    để học sinh thấy được khả năng học tập, khả năng nhận thức, giải quyết vấn đề, sự
    tiến bộ học tập vẫn chưa phổ biến. Việc kiểm tra, đánh giá thường tiến hành ở các
    bài kiểm tra đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, mục đích đánh giá kiến
    thức và kĩ năng, thái độ người học. Do vậy việc tổ chức đánh giá chưa tạo ra được
    nhiều bối cảnh, cơ hội, tình huống, nhiệm vụ, …để người học vận dụng kiến thức,
    kĩ năng đã học cùng với các kinh nghiệm của bản thân để giải quyết các tình huống
    trong học tập hoặc trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi môn Địa lí, nội dung
    chương trình rất gần gũi với thực tiễn, thuận lợi để học sinh có thể phát hiện các
    vấn đề trong thực tế cuộc sống, lao động – sản xuất của đất nước và địa phương để
    làm sáng tỏ kiến thức, từ đó thúc đẩy việc nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo các giải
    4
    pháp để bảo vệ tự nhiên, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong phát triển
    kinh tế – xã hội của đất nước cũng như tại địa phương.
    Chương trình môn Địa lí trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
    được xây dựng theo định hướng phát triển năng lực, chú trọng tích hợp và thực
    hành, tích hợp giữa các kiến thức địa lí tự nhiên, địa lí dân cư, xã hội và địa lí kinh
    tế trong môn học; lồng ghép các nội dung liên quan (như giáo dục dân số, giới tính,
    tài chính, môi trường, di sản, an toàn giao thông …) vào nội dung địa lí, vận dụng
    kiến thức các môn học khác (Vật lí, Hoá học, Sinh học, Lịch sử…) trong việc làm
    sáng rõ các kiến thức địa lí; hội tụ kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để xây
    dựng thành các chủ đề có tính tích hợp cao như phát triển kinh tế biển đảo, phát
    triển bền vững, biến đổi khí hậu…Do vậy đặt ra yêu cầu cần phải đa dạng hoá
    phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, các công cụ kiểm tra đánh giá để phát
    triển các năng lực chuyên môn, góp phần vào hình thành các năng lực cốt lõi trong
    đó có năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
  3. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    2.1. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    2.1.1. Năng lực và đặc điểm năng lực của học sinh.
    a. Khái niệm năng lực.
    Năng lực là một khái niệm trừu tượng, được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau.
    Dưới đây là một số quan niệm khác nhau về năng lực.
    Theo OECD “Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp
    và thực hiện thành công nhiệm vụ trong bối cảnh cụ thể”. Đây là khái niệm mang
    tính bao quát nhất, được dùng để đánh giá năng lực của học sinh trên gần 70 nước
    hiện nay, trong số đó có Việt Nam.
    Trong chương trình giáo dục trung học của bang Quebec (Ca-na-đa) năm
    2004, xác định “Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng
    dựa trên nhiều nguồn lực.
    Theo từ điển tiếng Việt: “Năng lực là khả năng làm tốt công việc”.
    Theo Bernd Meiner – Nguyễn Văn Cường: “Năng lực là khả năng thực hiện
    có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong
    các tình huống thay đổi thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ
    sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sẵn sàng hành động” .
    Theo chương trình GDPT tổng thể sau năm 2018 thì “Năng lực là thuộc tính
    cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn
    luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
    tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại
    hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
    Năng lực của HS là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng,
    thái độ… phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào
    thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra
    cho chính các em trong cuộc sống.”
    5
    Như vậy, năng lực là một thuộc tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của
    nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách
    nhiệm. Hai đặc điểm phân biệt cơ bản của năng lực là: (1) tính vận dụng; (2) tính
    chuyển đổi và phát triển. Đó cũng chính là các mục tiêu mà dạy học tích cực
    hướng đến.
    b. Đặc điểm năng lực của học sinh.
  • Năng lực của HS phổ thông không chỉ là khả năng tái hiện tri thức, thông
    hiểu tri thức, kỹ năng học được, … mà quan trọng là khả năng hành động, ứng
    dụng/vận dụng tri thức, kỹ năng học được để giải quyết những vấn đề của cuộc
    sống đang đặt ra với chính các em.
  • Năng lực của HS không chỉ là vốn kiến thức, kỹ năng, thái độ sống phù
    hợp với lứa tuổi mà là sự kết hợp hài hòa của cả 3 yếu tố này thể hiện ở khả năng
    hành động (thực hiện) hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động đạt mục
    đích đề ra (gồm động cơ, ý chí, tự tin, trách nhiệm xã hội…).
  • Năng lực của HS được hình thành, phát triển trong quá trình thực hiện các
    nhiệm vụ học tập ở trong lớp học và ngoài lớp học. Nhà trường được coi là môi
    trường giáo dục chính thống giúp HS hình thành những năng lực chung, năng lực
    chuyên biệt phù hợp với lứa tuổi, song đó không phải là nơi duy nhất. Những môi
    trường khác như: gia đình, cộng đồng … cùng góp phần bổ sung và hoàn thiện các
    năng lực của các em.
    2.1.2. Đánh giá năng lực.
    Đánh giá năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ của người học
    trong một bối cảnh có ý nghĩa. Cụ thể là đánh giá khả năng của học sinh vận dụng
    các kiến thức, kĩ năng đã được học vào giải quyết các tình huống trong học tập
    hoặc trong cuộc sống hàng ngày. Nhằm chứng minh người học có năng lực ở mức
    độ nào thì cần phải tạo ra bối cảnh, cơ hội, tình huống, nhiệm vụ,… để người học
    vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học cùng với các kinh nghiệm của bản thân để giải
    quyết. Thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, có thể đánh
    giá được khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của
    người học.
    Đánh giá năng lực có sự khác biệt so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Đánh
    giá kiến thức, kĩ năng là đánh giá xem xét việc đạt kiến thức kĩ năng của học sinh
    theo mục tiêu của chương trình giáo dục, gắn với nội dung được học trong nhà
    trường và kết quả đánh giá phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập
    đã hoàn thành về đơn vị kiến thức, kĩ năng. Còn đánh giá năng lực là đánh giá khả
    năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã được học vào giải quyết vấn đề trong học tập
    hoặc trong thực tiễn cuộc sống của học sinh và kết quả đánh giá người học phụ
    thuộc vào độ khó của nhiệm vụ và bài tập đã hoàn thành theo các mức độ khác
    nhau. Thang đo trong đánh giá năng lực được xác định theo các mức độ phát triển
    năng lực của người học, chứ không phải có đạt hay không một nội dung đã được
    học.
    6
    Nội dung Đánh giá năng lực
  1. Mục đích chủ yếu nhất – Đánh giá khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ
    năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của
    cuộc sống.
  • Vì sự tiến bộ của người học so với chính họ.
  1. Ngữ cảnh đánh giá. – Gắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn cuộc
    sống.
  2. Nội dung đánh giá. – Những kiến thức, kĩ năng, thái độ ở nhiều môn
    học, nhiều hoạt động giáo dục và những trải
    nghiệm của bân thân học trong cuộc sống xã hội
    (tập trung vào năng lực thực hiện).
  3. Công cụ đánh giá. – Nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh
    thực.
  4. Thời điểm đánh giá. – Đánh giá mọi thời điểm của quá trình dạy học,
    chú trọng đến đánh giá trong khi học.
  5. Kết quả đánh giá. – Năng lực người học phụ thuộc vào độ khó của
    nhiệm vụ hoặc bài tập đã hoàn thành.
    2.1.3. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    a. Năng lực giải quyết vấn đề.
    Vấn đề là gì?
  • Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng
    chưa có quy luật cũng như những tri thức, kĩ năng sẵn có chưa đủ giải quyết mà
    còn khó khăn, cản trở cần vượt qua.
  • Một vấn đề thường được đặc trưng bởi ba thành phần như: Trạng thái xuất
    phát (không mong muốn), trạng thái đích (trạng thái mong muốn), sự cản trở (cần
    vượt qua).
    Có thể thấy vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích
    muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách
    nào, chưa đủ phương tiện để giải quyết. Khi đó tư duy sẽ trở nên cần thiết.
    Giải quyết vấn đề, năng lực giải quyết vấn đề.
    Giải quyết vấn đề là khả năng suy nghĩ và hành động trong những tình
    huống không có quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường có sẵn. Người giải
    quyết vấn đề có thể ít nhiều xác định được mục tiêu hành động, nhưng không phải
    ngay lập tức biết cách làm thế nào để đạt được nó. Sự am hiểu tình huống vấn đề,
    và lý giải dần để đạt mục tiêu đó trên cơ sở việc lập kế hoạch và suy luận tạo thành
    quá trình giải quyết vấn đề.
    Có thể thấy, giải quyết vấn đề là quá trình tư duy phức tạp, bao gồm sự hiểu
    biết, đưa ra luận điểm, suy luận, đánh giá, giao tiếp… để đưa ra một hoặc nhiều giải
    7
    pháp khắc phục khó khăn, thách thức của vấn đề. Trong quá trình giải quyết vấn
    đề, chủ thể thường phải trải qua hai giai đoạn cơ bản: khám phá vấn đề và tổ chức
    nguồn lực của chính mình (tìm hiểu vấn đề; tìm hướng đi, thủ pháp, tiến trình… để
    dần tiến tới một giải pháp cho vấn đề); thực hiện giải pháp (giải quyết các vấn đề
    nhỏ hơn ở từng lĩnh vực/nội dung cụ thể; chuyển đổi ý nghĩa của kết quả thu được
    về bối cảnh thực tiễn); và đánh giá giải pháp vừa thực hiện, hoặc tìm kiếm giải
    pháp khác.
    Năng lực giải quyết vấn đề là năng lực hoạt động trí tuệ của con người trước
    những vấn đề, những tình huống cụ thể, có mục tiêu và có tính định hướng cao đòi
    hỏi phải huy động khả năng tư duy và sáng tạo để tìm ra lời giải của vấn đề.
    Theo tiếp cận tiến trình giải quyết vấn đề và sự chuyển đổi nhận thức của
    chủ thể thì có thể hiểu năng lực giải quyết vấn đề là khả năng của con người nhận
    ra vấn đề cần giải quyết và biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm
    của bản thân, sẵn sàng hành động để giải quyết tốt vấn đề cần đặt ra.
    Theo lý thuyết thông tin, năng lực giải quyết vấn đề được tiếp cận từ quá
    trình xử lí thông tin, nhấn mạnh tới suy nghĩ của người giải quyết vấn đề hay “hệ
    thống xử lí thông tin”, vấn đề và không gian vấn đề thì năng lực giải quyết vấn đề
    thể hiện khả năng của cá nhân (làm việc độc lập hoặc làm việc nhóm) để tư duy,
    suy nghĩ về tình huống vấn đề và tìm kiếm, thực hiện giải pháp cho vấn đề đó.
    Vì vậy, năng lực giải quyết vấn đề là khả năng cá nhân sử dụng hiệu quả các
    quá trình nhận thức, hành động và thái độ, động cơ, xúc cảm để giải quyết những
    tình huống vấn đề mà ở đó không có sẵn quy trình, thủ tục, giải pháp thông
    thường.
    b. Sáng tạo, năng lực sáng tạo
    Có rất nhiều quan niệm về sáng tạo. Theo từ điển Tiếng Việt thì: Sáng tạo
    nghĩa là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã
    có. Sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi theo những cách khác với thông
    thường.
    Theo tâm lý học thì: Sáng tạo đó là năng lực tạo ra những giải pháp mới
    hoặc duy nhất cho một vấn đề thực tiễn và hữu ích.
    Từ những kết quả nghiên cứu một số nhà tâm lý học đã cho biết: Sáng tạo là
    tiềm năng vốn có của mỗi người, khi gặp dịp thì bộc lộ. Chính vì vậy mà trong quá
    trình dạy học cần tạo cho học sinh có những cơ hội để phát huy năng lực sáng tạo.
    Vậy năng lực sáng tạo là gì?
    Đối với HS: “Năng lực sáng tạo là các khả năng của học sinh hình thành ý
    tưởng mới, đề xuất được các giải pháp mới hay cải tiến cách làm mới một sự vật,
    có các giải pháp khác nhau để giải quyết một vấn đề, sự tò mò, thích đặt các câu
    hỏi để khám phá sự thật xung quanh, năng lực tưởng tượng và tư duy sáng tạo…”
    Trên cơ sở những khái niệm nêu ở trên, theo chúng tôi năng lực giải quyết
    vấn đề và sáng tạo đối với HS Trung học phổ thông có thể hiểu như sau:
    8
    Là khả năng cá nhân giải quyết tình huống có vấn đề mà ở đó không có sẵn
    quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường có sẵn, hoặc có thể giải quyết một cách
    thành thạo với những nét độc đáo riêng, theo chiều hướng luôn đổi mới, phù hợp
    với thực tế.
    2.1.4. Nghiên cứu về sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo trong giáo
    dục hiện nay
    Theo Chương trình giáo dục phổ thông mới, nghiên cứu những biểu hiện của
    năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của HS Trung học phổ thông hiện nay được
    thể hiện qua bảng dưới đây:
    Năng lực thành
    phần
    Biểu hiện/Tiêu chí
    Phát hiện và làm rõ
    vấn đề
    Phân tích được tình huống trong học tập, trong thực tiễn,
    phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề.
    Đề xuất, lựa chọn
    giải pháp.
    Thu thập và làm rõ các thông tin có liên quan đến vấn đề,
    đề xuất và phân tích được một số giải pháp giải quyết vấn
    đề; lựa chọn được giải pháp phù hợp nhất.
    Thực hiện và đánh
    giá giải pháp giải
    quyết vấn đề
    Thực hiện và đánh giá giải pháp GQVĐ. Suy ngẫm về cách
    thức và tiến trình GQVĐ để điều chỉnh và vận dụng trong
    bối cảnh mới.
    Nhận ra ý tưởng mới Xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ
    các nguồn thông tin khác nhau. Phân tích các nguồn thông
    tin độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý
    tưởng mới.
    Hình thành và phát
    triển ý tưởng mới
    Nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và thực tiễn;
    Suy nghĩ không theo lối mòn.Tạo ra yếu tố mới dựa trên
    những ý tưởng khác nhau. Hình thành và kết nối các ý
    tưởng. Nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi
    của bối cảnh. Đánh giá rủi ro và có dự phòng.
    Tư duy độc lập Đặt được nhiều câu hỏi có giá trị, không dễ dàng chấp nhận
    thông tin một chiều; Không thành kiến khi xem xét, đánh
    giá vấn đề; Quan tâm tới các lập luận và minh chứng thuyết
    phục; Sẵn sàng xem xét, đánh giá lại vấn đề.
    Để đánh giá năng lực GQVĐ và ST của học sinh THPT hiện nay, ngoài
    phương pháp đánh giá truyền thống như đánh giá chuyên gia (giáo viên đánh giá
    học sinh), đánh giá định kì bằng bài kiểm tra từ giáo viên cần chú ý đến các
    phương pháp đánh giá khác như phương pháp quan sát; phương pháp hỏi – đáp,
    phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập.
    Tuy nhiên tất cả các phương pháp đánh giá trên đều có yêu cầu phải chú
    trọng đánh giá khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống học tập (hoặc
    tình huống thực tế) và chú trọng đánh giá khả năng sáng tạo của học sinh.
    9
    2.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
    2.2.1. Khái niệm.
    Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là chú trọng tổ chức cho học
    sinh hoạt động học. Trong dạy học định hướng phát triển năng lực, HS là chủ thể
    nhận thức, GV có vai trò tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học tập của HS
    theo một tiến trình sư phạm hợp lý sao cho HS tự chủ chiếm lĩnh, xây dựng tri
    thức.
    2.2.2. Bản chất, nguyên tắc, đặc điểm của dạy học theo định hướng phát triển
    năng lực.
    a. Bản chất:
  • Tạo hứng thú nhận thức thông qua việc tổ chức cho HS các hoạt động để
    HS bộc lộ những hiểu biết ban đầu…về cái mới sẽ được học trong bài.
  • Tổ chức cho HS tìm hiểu về cái mới/kiến thức mới thông qua việc sử dụng
    các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để HS chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
  • Yêu cầu HS vận dụng/ứng dụng cái mới học được vào giải quyết các tình
    huống, các vấn đề thực tiễn.
    b. Nguyên tắc.
  • Nội dung dạy học, giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, thiết thực, hiện đại
  • Đảm bảo tính tích cực của người học khi tham gia vào hoạt động học tập.
  • Tăng cường những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS.
  • Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp
  • Tăng cường dạy học, giáo dục phân hóa
  • Kiểm tra, đánh giá theo năng lực là điều kiện tiên quyết trong dạy học phát
    triển phẩm chất, năng lực
    c. Đặc điểm.
  • Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh: Dạy học thông qua tổ chức
    liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp HS tự khám phá những điều chưa biết
    chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp xếp sẵn. Theo tinh thần
    này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến thức có sẵn mà là người tổ chức và chỉ
    đạo HS tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát triển kiến
    thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình
    huống thực tiễn…
  • Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
    Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức phương pháp để biết cách đọc
    sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có,
    biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,… Các phương
    pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương thức hành động, tuy nhiên cũng
    cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dự đoán, giả định. Cần rèn luyện cho
    HS các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đánh giá… để dần hình thành và
    phát triển tiềm năng sáng tạo của HS.
  • Tăng cường học tập cá nhân với học tập hợp tác.
    10
    Tăng cường phối hợp học tập cá nhân với học tập hợp tác theo phương châm
    “tạo điều kiện cho HS nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”.
    Điều đó có nghĩa, mỗi HS vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác chặt
    chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học
    trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và
    kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập
    chung.
  • Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
    Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến
    trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng
    phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức
    như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể
    phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
    2.3. Phát triển năng lực dạy học và sáng tạo trong dạy học chủ đề Địa lí tự
    nhiên lớp 12
    2.3.1. Cấu trúc nội dung chủ đề Địa lí tự nhiên Việt Nam
    Chủ đề Nội dung
    Địa lí
    tự
    nhiên
    Nội dung 1: Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ
  • Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ.
  • Ý nghĩa của vị trí địa lí Việt Nam
    Nội dung 2: Đặc điểm chung của tự nhiên.
  • Đất nước nhiều đồi núi: Đặc điểm chung của địa hình, các khu vực địa
    hình.
  • Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển: Khái quảt về biển Đông,
    ảnh hưởng của biển Đông đến thiên nhiên Việt Nam.
  • Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa: Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, các
    thành phần tự nhiên khác.
  • Thiên nhiên phân hoá đa dạng: Thiên nhiên phân hoá theo Bắc – Nam,
    theo
    Đông – Tây, theo độ cao. Các miền địa lí tự nhiên.
    Nội dung 3: Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên.
  • Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên rừng, tài nguyên
    đất và các tài nguyên khác.
  • Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai: Bảo vệ môi trường, một số
    thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống.
    2.3.2. Mục tiêu dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên lớp 12
    2.3.2.1. Mục tiêu chương trình Địa lí 12 hiện hành:
    a. Về kiến thức
  • Trình bày vị trí địa lí, giới hạn, phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
    11
  • Phân tích được ảnh hưởng của vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ đối với tự
    nhiên, kinh – xã hội và quốc phòng.
  • Phân tích các thành phần tự nhiên để thấy được các đặc điểm cơ bản của tự
    nhiên Việt Nam.
  • Đất nước nhiều đồi núi: Đặc điểm chung của địa hình, các khu vực địa
    hình.
  • Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển: Khái quát về biển Đông,
    ảnh hưởng của biển Đông đối với thiên nhiên Việt Nam.
  • Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa: Nguyên nhân, biểu hiện của tính chất
    nhiệt đới ẩm gió mùa thể hiện qua các thành phần tự nhiên (khí hậu, địa hình, sông
    ngòi, đất, sinh vật).
  • Thiên nhiên phân hoá đa dạng: Nguyên nhân, biểu hiện sự phân hoá thiên
    nhiên theo Bắc – Nam, theo đông – tây và theo độ cao địa hình.
  • Phân tích và giải thích được đặc điểm cảnh quan ba miền tự nhiên nước ta:
    Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, miền Nam Trung
    Bộ và Nam Bộ (phạm vi, đặc điểm cơ bản về tự nhiên).
    -Trình bày được một số tác động tiêu cực do thiên nhiên gây ra: Bão, ngập
    lụt, lũ quét, hạn hán, động đất (nơi thường xảy ra, nguyên nhân, hậu quả, biện pháp
    phòng chống).
  • Biết được sự suy thoái tài nguyên rừng và đất; một số nguyên nhân và biện
    pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường.
    b. Về kĩ năng.
  • Xác định được vị trí địa lí Việt Nam trên bản đồ Đông Nam Á và thế giới.
  • Sử dụng các bản đồ Tự nhiên, khí hậu, đất, thực động vật Việt Nam (hoặc
    Atlat Địa lí Việt Nam) để trình bày các đặc điểm nổi bật về địa hình, khí hậu, sông
    ngòi, đất đai, thực động vật và nhận xét mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng,
    trình bày đặc điểm của ba miền tự nhiên (về địa hình, k

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *