dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3

SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Cơ sở tâm lí học sinh Tiểu học
– Tri giác của HS tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính
không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan,
đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, HS thích quan sát các sự
vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác đã mang tính mục đích, có
phương hướng rõ ràng.
– Tư duy của HS tiểu học mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư
duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư
duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp
4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp
kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông HS tiểu học.
– Về trí nhớ và sự phát triển nhận thức của HS tiểu học: Giai đoạn lớp 1,2 ghi
nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý
nghĩa. Nhiều HS chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các
điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ
tài liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.
Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ
định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các
em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các
em.
Để khai thác tốt các đặc điểm này, GV cần phải phát triển tư duy và trí tưởng
tượng của các HS bằng cách biến các kiến thức “khô khan” thành những hình ảnh
có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào
các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình
nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện, thu hút HS bằng các hoạt động mới,
mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích
HS cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
2
1.2. Chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3
Về kiến thức: HS có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
– Con người và sức khỏe: tên, chức năng và giữ vệ sinh cơ quan hô hấp, tuần
hoàn, bài tiết nước tiểu và thần kinh. Biết tên và cách phòng tránh một số bệnh
thường gặp ở cơ quan hô hấp, tuần hoàn và bài tiết nước tiểu.
– Xã hội: mối quan hệ họ hàng nội ngoại; một số hoạt động chủ yếu ở trường;
biết một số cơ sở hành chính, văn hóa, y tế, giáo dục và một số hoạt động thông tin
liên lạc, nông nghiệp, công nghiệp ở nơi HS đang sống…
– Tự nhiên: biết được sự đa dạng, phong phú của thực vật, động vật; chức
năng của rễ, thân, lá, hoa, quả đối với đời sống của cây và ích lợi đối với con
người; biết vai trò của Mặt trời đối với Trái đất và đời sống con người, vị trí và sự
chuyển động của Trái đất trong Hệ mặt trời; sự chuyển động của Mặt trăng quanh
Trái đất; hình dạng, đặc điểm của Trái đất; biết hiện tượng ngày, đêm, các tháng,
mùa trong năm.
Về kĩ năng: bước đầu hình thành và phát triển cho HS các kĩ năng:
– Ứng xử thích hợp trong các tình huống liên quan đến vấn đề sức khỏe của
bản thân, gia đình và cộng đồng; viết vệ sinh và phòng chống bệnh tật )bệnh lao
phổi, tim mạch, …)
– Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập; biết diễn đạt những hiểu
biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,…
– Phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật,
hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
Về thái độ: hình thành và phát triển ở HS thái độ:
– Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cả
cộng đồng.
– Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng kiến thức đã học vào đời sống.
– Yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp, có ý thức bảo vệ môi
trường xung quanh.
* Nội dung môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3: Nội dung chương trình Tự nhiên
và Xã hội lớp 3 gồm 3 chủ đề lớn: Con người và sức khỏe; Xã hội; Tự nhiên.
3
2. Cơ sở thực tiễn
Nghị quyết 29/NQ-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng ngày 04 tháng
11 năm 2013 về đổi mới căn bản , toàn diện nền giáo dục và đào tạo đã yêu cầu
ngành giáo dục cần “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc”.
Trọng tâm của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ
thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt
động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp
của GV, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu
cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong
học tập.
PPDH bằng Bản đồ tư duy được coi là một trong những PPDH tích cực.
Phương pháp này nhằm hướng các em đến một phương cách học tập tích cực và tự
chủ. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ
mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư
duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo. PPDH này giúp HS khắc sâu và ghi nhớ
kiến thức tốt hơn, đồng thời đem lại những giờ học nhẹ nhàng, vui vẻ, lý thú mà
vẫn đạt hiệu quả cao. Như vậy, đây là PPDH hướng vào người học, nó phù hợp và
đáp ứng yêu cầu của đổi mới dạy học hiện nay.
Hiện nay trên thực tế HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến
thức máy móc HS chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân
môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư
duy logic và tư duy hệ thống. Đặc biệt sau đại dịch Covid- 19, chương trình giáo
dục nói chung và chương trình giáo dục Tiểu học nói riêng phải giảm tải nên việc
HS phải tiếp thu một lượng kiến thức nhiều hơn sẽ dẫn đến tình trạng các em hay bị
quên và lẫn lộn các nội dung kiến thức với nhau. Sử dụng BĐTD (BĐTD) giúp các
em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
Môn học Tự nhiên và xã hội ở Tiểu học quán triệt quan điểm tích hợp, coi tự
nhiên, con người và xã hội là một thể thống nhất có mối quan hệ qua lại. Trong đó,
con người với những hoạt động của mình, vừa là cầu nối giữa tự nhiên và xã hội,
4
vừa tác động mạnh mẽ đến tự nhiên và xã hội. Chương trình có nhiều vấn đề được
mở rộng, liên hệ với thực tiễn đời sống từ các nội dung lí thuyết, chú trọng đến các
hoạt động quan sát, thực hành giúp HS tìm tòi phát hiện ra kiến thức và biết cách
thực hiện những hành vi có lợi cho sức khoẻ cá nhân, gia đình và cộng đồng, thuận
lợi cho việc triển khai bằng BĐTD.
Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng ứng dụng BĐTD trong các nội
dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân HS cũng như hiệu
quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học
môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3” nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Sáng kiến này được thực hiện tại lớp 3A, trường Tiểu học Trần Quốc Toản –
nơi tôi chủ nhiệm và giảng dạy. Cụ thể tình hình như sau:
+ Tổng số HS: 36 em. Trong đó: 15 em nữ, 21 em nam.
+ Thời gian áp dụng : Từ tháng 8 năm 2019 đến tháng 6 năm 2020.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng dạy và học sử dụng BĐTD tại trường
tiểu học Trần Quốc Toản trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội, và thu được một
số kết quả cụ thể như sau:
* Khảo sát nhận thức của giáo viên về sử dụng BĐTD:
– Có 54.5% GV đã tìm hiểu, nghiên cứu hoặc được giới thiệu về BĐTD
nhưng chưa hiểu sâu.
– Chỉ có 27.2% GV hiểu rõ cấu trúc của một BĐTD cần ít nhất 3 thành phần
cơ bản nào là: Ý chủ đạo/ hình ảnh trung tâm, các nhánh tỏa ra từ ý chủ đạo và sự
phân cấp nhánh theo trật tự và từ khóa trên các nhánh.
– Có 63.6% ý kiến cho rằng sử dụng BĐTD trong dạy học chỉ là lồng ghép
trong dạy học, không thể thay thế các phương pháp khác.
– Chỉ có 36.4% ý kiến cho rằng sử dụng BĐTD trong dạy học như một công
cụ để truyền tải kiến thức.
5
Từ thực tế khảo sát trên cho thấy vẫn còn một bộ phận GV hiểu chưa thật sự
đúng về bản chất, lợi ích của BĐTD trong dạy học đặc biệt đối với môn Tự nhiên
và xã hội.
* Khảo sát sự đánh giá của giáo viên về mức độ cần thiết của sử dụng BĐTD
trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội:
– Có 63.6% GV cho rằng việc ứng dụng BĐTD vào dạy học ở tiểu học là
“Rất hữu ích”, chỉ có 9% GV cho rằng việc ứng dụng BĐTD vào dạy học ở tiểu
học là “Không hữu ích”.
– Có 81.8% GV đánh giá BĐTD sẽ thích hợp ứng dụng vào nhiều kiểu bài:
dạy học kiến thức mới, ôn tập, củng cố, kiểm tra, đánh giá.
– Có 63.6% GV cho rằng sử dụng BĐTD trong dạy học môn Tự nhiên và xã
hội sẽ đem lại nhiều tác dụng với HS: ghi nhớ tốt kiến thức, hệ thống hóa được kiến
thức, Phát triển năng lực tư duy, năng lực sáng tạo cho HS, rèn kĩ năng tự học, tăng
cường kĩ năng làm việc theo nhóm, nâng cao khả năng tổ chức giải quyết vấn đề,
giúp HS hứng thú, tích cực, chủ động.
Như vậy phần lớn GV đều thấy được sự cần thiết sử dụng BĐTD trong dạy
học môn tự nhiên và xã hội cho HS tiểu học.
* Khảo sát về thực trạng dạy và học sử dụng BĐTD
Tại trường tiểu học Trần Quốc Toản, cũng đã có những GV sử dụng BĐTD
trong dạy học. Tuy nhiên, phần lớn GV chỉ lấy sẵn các nội dung BĐTD đã có sẵn ở
mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút, song trong giáo án thì không thể hiện rõ từng
bước tiến hành sử dụng BĐTD như thế nào, thông qua BĐTD thì GV chưa hướng
dẫn cụ thể cho HS cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở BĐTD ra sao. Bên
cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn GV gặp phải khi sử dụng BĐTD trong dạy học
như: kĩ năng sử dụng các phần mềm vẽ BĐTD chưa tốt, sử dụng BĐTD phải đầu tư
nhiều thời gian và công sức chuẩn bị giáo án, chuẩn bị các BĐTD trong bài học,
nhiều GV cũng cho rằng thời gian dạy học trên lớp không phù hợp để sử dụng
BĐTD…
Về phía HS, hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo
mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà GV nói. Hơn nữa chương trình lịch
6
sử quá rộng, kiến thức nhiều mà GV chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những
gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho HS.
* Khảo sát về thực trạng học sinh
– Đối với HS lớp 3, các phẩm chất của các em đang được hình thành và phát
triển, tuy nhiên những phẩm chất này chưa ổn định và chưa trở thành các nét tính
cách. Năng lực tự chủ còn yếu, đặc biệt các em thiếu kiên nhẫn, chóng chán, khó
giữ trật tự.
– Các em đang được hình thành trong mọi hoạt động học tập, lao động, vui
chơi. Cụ thể ở các em hình thành những nét tính cách mới như tính hồn nhiên, tính
hay bắt chước những hành vi, cử chỉ của người lớn, tính hiếu động, tính trung thực
và tính dũng cảm.
Bằng phương pháp quan sát và phỏng vấn, tôi đã tiến hành khảo sát mức độ
hứng thú và kĩ năng sử dụng BĐTD trong học tập của 36 HS lớp 3A trường tiểu
học Trần Quốc Toản – nơi tôi đang giảng dạy, từ đó thu được một số kết quả cụ thể
như sau:
– Có 72.2% HS rất thích thú khi được sử dụng BĐTD trong quá trình học.
– Có 41.7% HS tỏ ra dễ hòa hợp, thích thú khi được học và sử dụng BĐTD.
– Có 16.7% HS còn lúng túng, chưa biết cách sử dụng BĐTD.
Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số GV lúng túng cả
về nội dung, biện pháp ứng dụng BĐTD vào dạy học cho HS. Nhận thức của nhiều
GV còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ và lúng túng trong việc khai thác nội dung bài
học nào có thể sử dụng BĐTD trong quá trình dạy và học. Nhà trường cũng đã có
tổ chức một số hoạt động nhằm tăng cường hỗ trợ GV trong việc sử dụng các
phương pháp, hình thức dạy học, có giới thiệu phương pháp sử dụng BĐTD nhưng
còn chung chung, chưa đi sâu, chưa thể hiện thường xuyên rõ nét. HS khi được tiếp
xúc với phương pháp dạy học mới thì phần lớn các em tỏ ra rất thích thú và hào
hứng tham gia.
Từ thực trạng nói trên, đề tài nghiên cứu để đưa ra một số giải pháp sử dụng
BĐTD nhằm góp phần giúp GV nâng cao chất lượng dạy và học, đặc biệt với môn
Tự nhiên và xã hội.
7
1.2. Bản đồ tư duy và vai trò trong dạy học Tiểu học
1.2.1. Bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được phát triển vào cuối thập niên
60 của thế kỉ 20 bởi Tony Buzan, là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng
ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để
phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy
tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định
chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của một câu chuyện) thì não bộ còn có khả
năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả
năng này của bộ não.
BĐTD là một phương pháp, lưu trữ, sắp xếp thông tin và xác định thông tin
theo thứ tự ưu tiên bằng cách sử dụng từ khoá, hình ảnh chủ đạo. Mỗi từ khoá hoặc
hình ảnh chủ đạo trong BĐTD sẽ kích hoạt những ký ức cụ thể và làm nảy sinh
những suy nghỉ, ý tưởng mới.
Cơ chế hoạt động của BĐTD là chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các
mạng lưới liên tưởng (các nhánh), là một hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu,
mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức… bằng
cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự
tư duy tích cực.
1.2.2. Vai trò của Bản đồ tư duy trong dạy học ở Tiểu học
BĐTD là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa
lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu
sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Cùng một chủ đề mỗi người có thể
thể hiện nó theo một cách riêng. Chính vì vậy BĐTD sẽ phát huy được tối đa năng
lực sáng tạo của HS và đặc biệt sẽ giúp được HS tiểu học hình thành và phát triển
những yếu tố căn bản của năng lực cá nhân.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc và các mạng lưới liên tưởng. Hiện
nay, phương pháp dạy học phần lớn làm cho não trái của HS phát triển hơn não
phải. Não phải thường ít được dùng đến, trong khi tiềm năng tư duy của não phải
không thua kém, thậm trí còn vượt trội hơn so với não trái nếu tìm được quy luật
làm việc của nó. BĐTD được xem là một công cụ giúp bộ não tư duy toàn diện và
8
khai thác được tiềm năng của não phải. Nhờ có sự liên kết giữa các ý tưởng với ý
tưởng trung tâm nên BĐTD cho thấy mức độ bao quát, sâu rộng của vấn đề cần
nghiên cứu. Điều đó giúp HS phát triển toàn diện theo đúng hướng của chương
trình giáo dục phổ thông tổng thể đang hướng tới.
Lí thuyết BĐTD gắn bó chặt chẽ với các nghiên cứu về hoạt động của não bộ
con người, trong đó đề cao việc kết hợp sử dụng tất cả các tiềm năng thuộc về hai
bán cầu não.
Chức năng của hai bán cầu não [Nguồn: Internet]
Việc ứng dụng BĐTD góp phần đổi mới phương pháp dạy học của GV ở
nhiều mặt: hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập
hệ thống hóa kiến thức cũng như lập kế hoạch công tác. GV có thể sử dụng BĐTD
trong quá trình soạn giảng, bố cục nội dung bài dạy; vẽ sơ hoá kiến thức thông qua
việc liên kết các mắt xích kiến thức cho từng bài, từng chương, từng phần kiến
thức; hệ thống nội dung ôn tập để HS có cái nhìn tổng quát về kiến thức đã học, từ
đó dễ dàng ôn tập và khắc sâu kiến thức hơn; cấu trúc trong ra đề kiểm tra bằng
cách đưa ra các ma trận kiến kiến nhằm phân bố lượng kiến thức, mức độ kiến thức
cần kiểm tra cho hợp lí; phân tích cách giải các bài tập định tính cũng như định
lượng, đưa ra những kiến thức chính cần giải bài tập cũng như các kiến thức liên
quan, từ đó đưa ra các bước giải trình tự và cách trình bày rõ ràng, lập luận chặt
chẽ. HS vừa tham gia học vừa tự học để từ đó các em được hình thành các kĩ năng
9
thông qua các hoạt động. Từ đó giúp GV dạy học chương trình đặc biệt chuẩn bị
cho dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới vừa cung cấp kiến thức vừa phát
triển hài hòa cả phẩm chất và năng lực HS.
HS tiểu học đang trong độ tuổi trí tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện,
đặc biệt bộ não đã có thể khắc sâu nhờ hình ảnh trực quan và ấn tượng, chính vì vậy
việc sử dụng BĐTD trong dạy học HS tiểu học sẽ giúp các em học tập có nhiều
hứng thú, tích cực, chủ động và sáng tạo hơn, việc học trở nên đơn giản, nhớ lâu,
ngày càng yêu thích môn học và kết quả học tập tốt hơn.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Vấn đề cần giải quyết
Khi sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học phù hợp với từng hoạt động sẽ
giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức đặc biệt kích thích được
sự hứng thú trong học tập của HS tiểu học nhằm phát triển năng lực HS. BĐTD là
một công cụ dùng để phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu
quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì
vậy, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp, nhiều kĩ thuật nhưng chú trọng là tôi sử
dụng BĐTD. Sau đây tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm có hiệu quả trong việc sử
dụng BĐTD cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau.
2.2. Tính mới, sự khác biệt của Bản đồ tư duy trong dạy học Tự nhiên và xã hội
lớp 3
Qua khảo sát bước đầu về phạm vi ứng dụng của BĐTD vào dạy học tự
nhiên và xã hội 3 nói riêng và trong dạy học tiểu học nói chung, có thể kể đến một
số điểm mới và khác biệt so với các kiểu dạy học khác như sau:
* BĐTD giúp cả GV và HS lên kế hoạch làm việc (giảng dạy, học tập, trình
bày…) một cách dễ dàng nhờ sự phát triển ý tưởng và móc nối chúng lại với nhau.
Việc hoàn thành được BĐTD đồng nghĩa với khả năng đưa đến cái đích cuối cùng
là những tiền đề và giải pháp hành động.
* BĐTD góp phần khiến HS trở nên sáng tạo hơn vì trong quá trình xây
dựng, HS phải vận dụng triệt để mọi tiềm năng về phân tích, liên tưởng, tưởng
tượng và cảm thụ của chính bản thân mình.
10
* So với lối ghi chép liệt kê thông thường, lập một BĐTD sẽ tiết kiệm thời
gian với các từ khoá ngắn gọn, các hình ảnh đơn giản mà vẫn phản ánh được tư
tưởng chủ đạo của vấn đề, giúp HS ghi nhớ sâu các nội dung học tập.
* Một BĐTD hoàn chỉnh có thể được xem là một bức tranh sống động gây
hứng thú cho HS. Nó đem đến cái nhìn vừa tổng thể, vừa chi tiết, vừa ở tầm vĩ mô,
vừa ở dạng vi mô về nội dung học tập, đặc biệt là các kiến thức tự nhiên xã hội rất
gần gũi với thực tiễn đời sống của HS.
* Nội dung vấn đề được phát triển bằng cách toả ra đồng thời theo nhiều
hướng mà vẫn có sự phân cấp rõ ràng nhánh lớn, nhánh nhỏ; màu sắc, kích thước,
kiểu chữ,… tham gia hỗ trợ khiến BĐTD phù hợp hơn với quy luật suy nghĩ của
HS tiểu học, giúp HS nhớ nhanh và nhớ lâu những gì đã phát triển, mở rộng từ nội
dung học tập ban đầu qua hình ảnh gốc…
* Phạm vi triển khai của BĐTD là vô hạn. Nói cách khác, có thể vẽ ra bao
nhiêu nhánh triển khai là tuỳ thuộc vào ý muốn và năng lực chủ quan của HS,
không có giới hạn cụ thể về dung lượng với bất kì vấn đề trung tâm nào. Vì vậy,
GV hay HS ngay từ đầu đã có thể tự do sáng tạo, không bị bó buộc vào bất kì
khuôn khổ nào. Bất kì khi nào muốn dừng lại, HS có thể quay trở về để xem xét vai
trò của từng yếu tố trong bản đồ để cân nhắc và sắp xếp lại vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của nó.
* BĐTD tạo hứng thú và kích thích say mê ở cả GV và HS khi tiến hành dạy
và học, việc triển khai các nội dung dạy học bằng BĐTD cũng đồng thời trở thành
một trò chơi thú vị với con chữ, số, màu sắc, đường nét, hình ảnh,…
Từ những ưu điểm kể trên, BĐTD hướng đến cái đích là giúp HS nhận thấy
bản thân mình là một “chiếc máy ý tưởng” (theo Tony Buzan), cảm thấy được giải
phóng về mặt trí tuệ và tính sáng tạo – những năng lực rất cần có trong môi trường
giáo dục hiện nay, và cũng là một trong 10 năng lực cần phải trang bị cho HS trong
chương trình giáo dục phổ thông 2018.
2.3. Giải pháp ứng dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 3
2.3.1 Sử dụng Bản đồ tư duy trong hoạt động khởi động
Hoạt động khởi động diễn ra thường xuyên trong các tiết dạy. Vì vậy, hoạt
động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động
11
trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn. Tùy theo mỗi tiết học và tuỳ
theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà GV có thể áp dụng các hoạt
động khác nhau. Sử dụng BĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần
hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì thời gian đầu giờ tương đối ngắn nên các BĐTD
tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu
và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Một số cách triển khai nhánh trong Bản đồ tư duy
GV có thể cho HS hoàn thành trọn vẹn BĐTD dưới hình thức cuộc thi chẳng
hạn HS nào hay nhóm nào nhanh nhất, chính xác nhất hoàn thiện BĐTD sẽ được
tuyên dương trước lớp. Hoặc GV chuẩn bị sẵn mô hình học tập ứng với nội dung
của bài , hoặc khung BĐTD để HS tham gia điền hoặc dán thông tin lên phần kiến
thức đó. Hoặc GV có thể thiết kế hoạt động đầu giờ của HS bằng việc thu hoạch,
trưng bày các BĐTD HS đã thiết kế bài ở nhà để trưng bày trước lớp.
12
Học sinh hoàn thiện Bản đồ tư duy về Cơ quan bài tiết nước tiểu
Sơ đồ trong bài:”Hoạt động tuần hoàn”
13
2.3.2. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới
Dạy học Tự nhiên và Xã hội không chỉ đơn giản là cung cấp những kiến thức
cơ bản mà còn bước đầu phát triển tư duy, năng lực suy nghĩ cho HS. Mục đích
hướng tới là giúp HS có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học về Tự nhiên
và xã hội vào giải quyết những nhiệm vụ, những vấn đề đơn giản trong thực tiễn.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận
dụng kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của
trò là yếu tố quyết định. GV thường sử dụng hoạt động nhóm trong dạy học Tự
nhiên và Xã hội nhưng GV chưa khai thác được hết ưu điểm của PPDH này do
cách tổ chức hoạt động nhóm còn chưa hợp lí, cách phân công nhiệm vụ chưa phù
hợp… dẫn tới hiệu của sử dụng chưa cao. Để HS tiếp thu kiến thức mới hiệu quả,
việc sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới đã trở thành công cụ hỗ trợ
hữu ích cho GV trong việc tạo hứng thú, tiếp thu hiệu quả của HS.
14
Học sinh hoạt động nhóm trong bài:”Các thế hệ trong một gia đình”
Học sinh hoạt động trong bài: “Hoạt động nông nghiệp”
15
Như vậy,qua việc khai thác kiến thức mới có sử dụng BĐTD các em vừa nhớ
hiểu kiến thức, vừa thấy hứng thú và thích thú hơn trong học tập và hiểu bài nhanh
hơn. Trong dạy học kiến thức mới, BĐTD giúp HS dễ dàng liên tưởng, liên kết các
mạch kiến thức đã học và phát triển ý tưởng để tìm kiếm kiến thức mới. Việc sử
dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới hiệu quả nhất đối với bài học có liên quan
đến kiến thức đã biết hoặc trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi dạy bài mới, tôi
thường kết hợp sử dụng máy chiếu có phần mềm BĐTD để hoàn thiện kiến thức.
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ thì
BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc GV và HS
đã hoàn thành xong BĐTD cho bài học.
Bản đồ tư duy bài:” Rễ cây”
16
Bản đồ tư duy bài:” Thân cây”
Trong chương trình TNXH lớp 3, sau khi học xong 2 bài “ Thân cây” và “Rễ
cây”, HS rất hay nhầm lẫn kiến thức. Đặc biệt sau khi nghỉ dịch, chương trình cắt
giảm, dồn các bài lại khiến cho lượng kiến thức tiếp thu trong một tiết học của các
em nhiều hơn. Các em dễ nhầm lẫn hơn. Khi sử dụng BĐTD sẽ giúp các em nắm
chắc được kiến thức và không bị lẫn lộn giữa các kiến thức với nhau.
Nếu như những GV nào không có điều kiện sử dụng máy chiếu hoặc sử dụng
chưa quen máy chiếu thì hoàn toàn có thể sử dụng bằng bảng. GV có thể dành một
góc bảng bên phải để cùng HS hoàn thiện BĐTD.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó HS
phải lên trình bày, thuyết minh thông qua BĐTD mà GV và HS hoặc nhóm mình đã
hoàn thành. HS khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp
17
HS hoàn chỉnh BĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. GV giới
thiệu BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung 1
kiểu BĐTD, tôi chỉ chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét
vẽ và hình thức (nếu cần).

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay