dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Vật lý với giáo dục bảo vệ môi trường

SKKN Vật lý với giáo dục bảo vệ môi trường

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức
tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý
thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân;
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập Quốc tế.
Trong Chương trình Giáo dục phổ thông, giáo dục Vật lí được phân bố ở cả
ba cấp học với các mức độ khác nhau, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội
(lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (Trung học cơ
sở); Vật lý (Trung học phổ thông).
Ở Trung học phổ thông, Vật lí là môn học thuộc nhóm môn Khoa học tự nhiên,
được lựa chọn theo nguyện vọng của học sinh. Ở giai đoạn giáo dục định hướng
nghề nghiệp này, môn Vật lí giúp học sinh tiếp tục phát triển các phẩm chất, năng
lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, củng cố các phẩm chất, kỹ
năng cốt lõi, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường
của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học.
Thiết kế chương trình chú trọng vào bản chất, ý nghĩa Vật lí của các đối
tượng, đề cao tính thực tiễn; tránh khuynh hướng thiên về toán học; tạo điều kiện để
giáo viên giúp học sinh phát triển tư duy khoa học dưới góc độ Vật lí, khơi gợi sự
ham thích ở học sinh, tăng cường khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn. Các chủ
đề được thiết kế, sắp xếp từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ đơn giản
đến phức tạp, từ hệ được xem như một hạt đến nhiều hạt; bước đầu tiếp cận với một
số nội dung hiện đại mang tính thiết thực, cốt lõi.
Có rất nhiều vấn đề môi trường ở Việt Nam, do hậu quả từ Chiến tranh cũng
như quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Việt Nam từ sau cuộc cải cách kinh
tế vào năm 1986 còn được gọi là Đổi Mới. Theo báo cáo từ chính phủ Việt Nam năm
2001, một số vấn đề chính được nêu ra là ô nhiễm đất, tài nguyên rừng bị suy
thoái, mất đa dạng sinh học, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí và vấn đề quản lý
chất thải rắn. Gần đây, vấn đề biến đổi khí hậu đang trở thành một mối quan tâm lớn
tại Việt Nam. Theo nhiều chuyên gia quốc tế, Việt Nam hiện nay đang phải đương
đầu với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng như nạn phá rừng, sói mòn đất, việc
khai thác quá mức nguồn tài nguyên ven biển đe dọa tới các hệ sinh thái, sự đa dạng
sinh học và sự cạn kiệt nguồn gien. Thực trạng môi trường này đi cùng với vấn đề
2
biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang đặt ra những vấn đề nóng bỏng thách thức
đối với sự phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trong thời gian tới (Việt Nam
được đánh giá là một trong năm nước trên thế giới chịu tác động mạnh nhất của vấn
đề biến đổi khí hậu).
Việc Giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường mà cụ thể là môn Vật lí
rất quan trọng , cần thiết . Vì vậy tôi viết sáng kiến kinh nghiệm VẬT LÍ VỚI GIÁO
DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, tổng kết những kinh nghiệm sau hơn mười năm
giảng dạy, phần nào giúp các em học sinh thấy được sự cần thiết phải bảo vệ môi
trường đồng thời đưa ra các giải pháp để học sinh được trải nghiệm thực hành và
hành động cụ thể để xây dựng một môi trường sống xanh – sạch – đẹp quanh mỗi
chúng ta.
II. Thực trạng ( trước khi tạo ra sáng kiến)
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục môi trường, Đảng và Nhà
nước đã có những chính sách, chương trình hành động cụ thể để nâng cao nhận thức
cho của học sinh, sinh viên trong công tác bảo vệ môi trường. Đến nay, mạng lưới
giáo dục môi trường đã được hình thành; các chương trình giáo dục môi trường bao
gồm cả chính khóa và ngoại khóa đã được triển khai tới tất cả các cấp học trong hệ
thống giáo dục của Việt Nam, đưa nội dung Bảo vệ môi trường vào hệ thống Giáo
dục quốc dân.
Năm 1987, tại Hội nghị về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO
đồng tổ chức, đã đưa ra kết luận:
“Giáo dục môi trường là một phương tiện không thể thiếu để giúp mọi
người hiểu biết về môi trường”.
Những thông tin, kiến thức về môi trường được tích lũy trong mỗi cá nhân sẽ
nuôi dưỡng và nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm về bảo vệ môi trường của
chính họ, những hành động dù nhỏ nhưng tích cực cũng sẽ góp phần tạo nên những
thay đổi lớn tốt đẹp hơn cho môi trường.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh có tới 70% các dòng sông, 45% vùng ngập
nước, 40% các bãi biển đã bị ô nhiễm, hủy hoại về môi trường; 70% các làng nghề
ở nông thôn đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng. Cùng với đó, tình trạng
nước biển xâm nhập vào đất liền, đất trống, đồi núi trọc và sự suy thoái các nguồn
gien động thực vật đang có chiều hướng gia tăng là hệ quả của việc hủy hoại môi
trường. Để khắc phục những hậu quả trên phải cần một thời gian dài, liên tục, tốn
kém nhiều công sức và tiền của.
3
Chính phủ Việt Nam đã nhận định, không có giải pháp nào kinh tế và hiệu
quả bằng việc đầu tư vào con người thông qua công tác giáo dục môi trường.
Bảo vệ môi trường nên bắt đầu bằng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, nhất
là cho học sinh, sinh viên. Do đó, ngay từ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 1363/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi
trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”. Trong đó, chỉ rõ nội dung giáo dục bảo
vệ môi trường phải bảo đảm tính giáo dục toàn diện. Bên cạnh đó, các định hướng
chính sách về giáo dục cũng được đưa vào Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng về
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;
Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng ban hành “Định
hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Luật Bảo vệ môi trường còn
nêu rõ: Công dân Việt Nam được giáo dục toàn diện về môi trường nhằm nâng
cao hiểu biết và ý thức bảo vệ môi trường; giáo dục về môi trường là một nội
dung của chương trình chính khoá của các cấp học phổ thông; nhà nước ưu tiên đào
tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia
đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường.
Triển khai những định hướng, quyết sách nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ban hành Chỉ thị 02/2005/CT-BGDĐT về việc “Tăng cường công tác giáo dục
bảo vệ môi trường”; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT về việc phát động phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” .
Theo đó, các cơ sở giáo dục trong cả nước xây dựng chương trình, tài liệu
giảng dạy, học tập và tài liệu tham khảo về Giáo dục bảo vệ môi trường; xây dựng
mạng lưới đội ngũ giáo viên cốt cán triển khai nhiệm vụ tập huấn, tuyên truyền về
Giáo dục bảo vệ môi trường tại cơ sở. Toàn ngành Giaos dục và Đào tạo tích hợp,
lồng ghép các kiến thức, kỹ năng Giáo dục bảo vệ môi trường vào nội dung chương
trình môn học. Bậc học Mầm non đã thực hiện giáo dục môi trường thông qua hoạt
động vui chơi theo chuyên đề “Bé làm quen với môi trường xung quanh”; bậc Tiểu
học với các môn học: Giáo dục sức khỏe, tìm hiểu tự nhiên, xã hội; bậc Trung học
cơ sở, Trung học phổ thông lồng ghép chương trình giáo dục bảo vệ môi trường
trong nhiều môn học, đặc biệt là môn Vật lí, Địa lí, Sinh học, Giáo dục công dân,
Hóa học, tăng cường triển khai dạy học STEM, dạy học thông qua các hoạt động trải
nghiệm, thiết thực, ý nghĩa cho cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên…
4
Bên cạnh đó, công tác đào tạo thạc sĩ, kỹ sư, cử nhân về môi trường cũng được
đẩy mạnh. Đến nay, ngoài trường Đại học Tài nguyên và Môi trường còn có một số
trường đại học có chuyên khoa về môi trường như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại
học Quốc gia TP.HCM, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế
TP.HCM, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh…
Bộ GD&ĐT cũng chỉ đạo các trường thông qua các chương trình chính khóa
và ngoại khóa lồng ghép giáo dục về pháp luật môi trường cho học sinh từ mầm non,
phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, các trường cao đẳng và đại học
trong phạm vi cả nước. Phát động phong trào nghiên cứu, viết sáng kiến kinh nghiệm
về chủ đề bảo vệ môi trường, chống rác thải nhựa; tổ chức các buổi triển lãm, trưng
bày các sản phẩm, đồ dùng tái chế từ đồ nhựa đã qua sử dụng…
Thông qua các giải pháp tích cực, hoạt động cụ thể, ý thức về bảo vệ môi
trường của đội ngũ cán bộ, học sinh và sinh viên được nâng lên rõ rệt. Mạng lưới
giáo dục môi trường đã được hình thành, phát huy tác động tích cực trong việc phối
hợp thực hiện công tác giáo dục, đào tạo về môi trường. Có thể khẳng định giáo dục
bảo vệ môi trường trong trường học đã đạt nhiều thành công, góp phần không nhỏ
cho sự nghiệp bảo vệ môi trường của toàn dân.
Chính vì vậy, việc lồng ghép dạy kiến thức Vật lí với Giáo dục bảo vệ môi
trường là yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết. Bằng sự trăn trở trong quá trình dạy Vật
lí cho học sinh , cách đây hơn mười năm tôi đã tích hợp vấn đề bảo vệ môi trường
với các kiến thức Vật lí có liên quan nhưng đến năm học 2020-2021, 2021-2022 tôi
mới áp dụng một cách cụ thể chi tiết và có những hiệu quả bước đầu.Trong báo cáo
sáng kiến kinh nghiệm này tôi mạnh dạn đưa ra nội dung Vật lí với giáo dục bảo vệ
môi trường để vừa làm tài liệu tham khảo chung cho việc giảng dạy Chuyên đề Vật
lí với giáo dục bảo vệ môi trường trong chương trình Vật lí 10 mới, vừa là muốn
trao đổi học hỏi đồng nghiệp để sáng kiến của tôi thêm hoàn thiện, trọn vẹn, ngày
càng hiệu quả và được phổ biến rộng khắp.
III. Giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến

  1. Định nghĩa mở đầu
    Định nghĩa 1.
    Môi trường là các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật
    thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại,
    phát triển của con người và thiên nhiên. Môi trường được tạo thành bởi các yếu tố
    (hay còn gọi là thành phần môi trường) sau đây: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh
    5
    sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, hệ sinh thái, các khu dân cư, khu
    sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di
    tích lịch sử và các hình thái vật chất khác.
    Trong đó, không khí, đất, nước, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên… là các
    yếu tố tự nhiên (các yếu tố này xuất hiện và tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của
    con người), khu dân cư, khu sản xuất, di tích lịch sử… là yếu tố vật chất nhân tạo
    (các yếu tố do con người tạo ra, tổn tại và phát triển phụ thuộc vào ý chí của con
    người). Không khí, đất, nước, khu dân cư… là các yếu tố cơ bản duy trì sự sống của
    con người, còn cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh… có tác dụng làm cho
    cuộc sống của con người thêm phong phú và sinh động.
    Định nghĩa 2.
    Môi trường nhân tạo là tất cả các yếu tố do con người tạo như thành phần hoá
    học, tính chất vật lí… Những yếu tố này do con người tạo ra và bị con người chi
    phối.
    Một số ví dụ tiêu biểu về môi trường nhân tạo:
    Tại Singapore con người đã tạo ra một khu rừng nhiệt đới dưới dạng công viên vịnh
    nơi đa phần các cây tự nhiên không thể tồn tại ở quốc đảo này.
    Hay kho hạt giống được chôn sâu bên trong một ngọn núi trên quần đảo NaUy 130
    m, kho dự bị được thiết kế để bảo vệ những hạt giống quý giá nhất thế giới khỏi
    thảm hoạ, để đảm bảo tương lai của nguồn cung lương thực toàn cầu. Và rất nhiều
    công trình nhân tạo khác của con người có thể tạo ra những môi trường sống khác
    biệt, tách biệt và riêng có với thế giới tự nhiên.
    Định nghĩa 3.
    Môi trường xã hội là mối quan hệ giữa người với người. Đó là các luật lệ, cam
    kết, thể chế, ước định… ở các cấp khác nhau. Môi trường xã hội có nhiệm vụ định
    hướng con người theo một khuôn khổ nhất định để cho sự phát triển được thuận lợi,
    khiến cuộc sống của con người khác với sinh vật khác.
    Cũng theo một góc nhìn rộng hơn thì Môi trường xã hội là môi trường mà con
    người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi trường. Môi trường xã hội bao
    gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao, lịch sử, giáo dục… xoay quanh con người
    và con người lấy đó làm nguồn sống, làm mục tiêu cho mình. Môi trường xã hội tốt
    thì các nhân tố cấu thành môi trường sẽ bổ trợ cho nhau, con người sống sẽ được
    hưởng đầy đủ các quyền: sống, làm việc, cống hiến, hưởng thụ. Mặt trái của môi
    trường xã hội là các tệ nạn xã hội.
    6
    Định nghĩa 4.
    Môi trường sống được hiểu là không gian sống, cung cấp tất cả nguồn tài
    nguyên thiên nhiên, đây cũng là nơi chứa đựng các phế thải do chính con người tạo
    ra trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt, môi trường sống có trong lành thì con người
    mới đảm bảo có sức khỏe.
    Môi trường sống hiểu một góc độ rộng hơn có thể bao hàm cả môi trường
    sống của các loại động vật, các loại sinh vật, vi sinh vật … cùng tồn tại, sinh tồn trên
    trái đất nơi chứa đựng các sự sống nói chung.
    Định nghĩa 5.
    Môi trường tự nhiên bao gồm tất cả các sinh vật sống và không sống có trong tự
    nhiên, có nghĩa là không phải là nhân tạo. Thuật ngữ này thường được áp dụng
    cho Trái Đất hoặc một số phần của Trái Đất. Môi trường này bao gồm sự tương tác
    của tất cả các loài sống, khí hậu, thời tiết và tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng
    đến sự tồn tại của con người và hoạt động kinh tế. Khái niệm môi trường tự nhiên có
    thể được phân biệt thành các thành phần:
    Các đơn vị sinh thái hoàn chỉnh hoạt động như các hệ thống tự nhiên mà không
    có sự can thiệp lớn của con người văn minh, bao gồm tất cả thảm thực vật, vi sinh
    vật, đất, đá, khí quyển và các hiện tượng tự nhiên xảy ra trong ranh giới và bản chất
    của chúng.
    Các nguồn tài nguyên thiên nhiên phổ biến và các hiện tượng vật lý thiếu ranh
    giới rõ ràng, chẳng hạn như không khí, nước và khí hậu, cũng như năng lượng, bức
    xạ, điện tích và từ tính, không bắt nguồn từ hành động văn minh của con người.
    Định nghĩa 6.
    Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
    hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật (theo
    luật bảo vệ môi trường năm 2005)
    Định nghĩa 7.
    Biến đổi khí hậu là thuật ngữ được dùng để chỉ sự thay đổi của khí hậu do tác
    động chủ yếu của con người làm thay đổi các thành phần của khí quyển trái đất. Sự
    thay đổi này kết hợp với các yếu tố biến động tự nhiên của tự nhiên dẫn tới các biến
    đổi của khí hậu qua các thời kỳ. Nói một cách dễ hiểu, biến đổi khí hậu chính là sự
    7
    thay đổi của hệ thống khí hậu từ sinh quyển, khí quyển, thủy quyền tới thạch quyển
    trong hiện tại và tương lai.
    Định nghĩa 8.
    Năng lượng là đại lượng đặc trưng cho khả năng sinh công của vật, là số đo
    liên quan đến chuyển động vật chất, gồm cả các hạt cơ bản và từ trường. Trong lý
    thuyết tương đối, nhà khoa học Albert Einstein đã chỉ ra rằng giữa năng lượng với
    khối lượng của vật có sự liên hệ.
    Định nghĩa 9.
    Mưa acid là hiện tượng mưa mà trong nước mưa có độ pH dưới 5,6, được tạo
    ra bởi lượng khí thải SO2 và NxOy từ các quá trình phát triển sản xuất con người tiêu
    thụ nhiều than đá, dầu mỏ và các nhiên liệu tự nhiên khác. Từ thập niên 1970, một
    số quốc gia đã từng cố gắng giảm thải lượng lưu huỳnh dioxide và nitơ oxide vào
    khí quyển với những kết quả khả quan. Nitơ oxide cũng có được tạo ra từ tia sét, và
    lưu huỳnh dioxide cũng được tạo ra từ các vụ phun trào núi lửa. Mưa acid ảnh hưởng
    nghiêm trọng đến rừng, nguồn nước nhạt, và đất làm chết côn trùng và thủy sinh,
    tróc sơn, ăn mòn các kết cấu thép như cầu, và phong hóa các toà nhà và tượng bằng
    đá cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
    Định nghĩa 10.
    Tầng ozon không còn xa lạ với nhiều người, chúng là một lớp sâu ở bên trong
    tầng bình lưu, bao quanh trái đất. Lớp này có vai trò quan trọng để che chắn toàn bộ
    trái đất khỏi phần lớn các bức xạ cực tím có hại đến từ mặt trời, tầng ozon hấp thụ
    tia tử ngoại.
    Tầng ozon được sinh ra từ chính những tác động của tia cực tím đến các phân
    tử oxy, chúng gồm có hai dạng tốt và xấu với những đặc điểm cụ thể như sau:
    Ozon tốt được tạo ra từ tự nhiên, nằm ở tầng bình lưu phía trên. Tầng bình
    lưu là lớp không gian 6-30 dặm trên bề mặt trái đất.
    Ozon xấu còn được gọi là ozon tầng đối lưu hay ozon tầng mặt đất. Chúng là
    kết quả hành động của con người, tạo ra từ phản ứng hóa học giữa oxit của nito và
    các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi.
    Định nghĩa 11.
    Năng lượng tái tạo hay năng lượng tái sinh là năng lượng từ những nguồn liên
    tục mà theo chuẩn mực của con người là vô hạn như năng lượng mặt
    trời, gió, mưa, thủy triều, sóng và địa nhiệt. Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng
    năng lượng tái sinh là tách một phần năng lượng từ các quy trình diễn biến liên tục
    8
    trong môi trường và đưa vào trong các sử dụng kỹ thuật. Các quy trình này thường
    được thúc đẩy đặc biệt là từ Mặt Trời. Năng lượng tái tạo thay thế các nguồn nhiên
    liệu truyền thống trong 4 lĩnh vực gồm: phát điện, đun nước nóng, nhiên liệu động
    cơ và hệ thống điện độc lập nông thôn.
    Định nghĩa 12.
    Năng lượng không thể tái tạo được tạo ra từ các nhiên liệu hóa thạch như dầu,
    khí đốt và than đá. Các nguồn năng lượng không thể tái tạo chỉ có sẵn với một lượng
    nhất định và sẽ biến mất dần theo thời gian. Các nguồn năng lượng không thể tái tạo
    thường phân bố không đồng đều ở mỗi khu vực trên toàn thế giới, sẽ có một số vùng
    rất dồi dào và cũng có những vùng bị khan hiếm. Tuy nhiên, ở mọi quốc gia trên thế
    giới đều có thể tiếp cận được với nắng và gió. Việc ưu tiên năng lượng tái tạo cũng
    có thể giúp một số quốc gia giảm đi sự phụ thuộc vào các nước phân phối giàu nhiên
    liệu hóa thạch. Rất nhiều nguồn năng lượng không tái tạo có thể gây nguy hiểm cho
    môi trường và sức khỏ của con người. Ví dụ, việc khoan dầu có thể đòi hỏi phải phá
    rừng, các công nghệ kết hợp thủy lực cắt phá có thể gây ra động đất và ô nhiễm nước
    và các nhà máy điện than có thể làm ô nhiễm mùi hôi không khí. Tóm lại, tất cả các
    hoạt động này góp phần rất lớn vào sự nóng lên toàn cầu.
    Định nghĩa 13.
    Thủy điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng thủy
    điện có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước làm quay một tuốc bin
    nước và máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là sử dụng năng lượng động
    lực của nước hay các nguồn nước không bị tích bằng các đập nước như năng lượng
    thủy triều. Thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo.
    Định nghĩa 14.
    Năng lượng sinh học là năng lượng tái tạo được tạo ra từ các nguồn tự nhiên,
    sinh học. Nhiều nguồn tự nhiên, chẳng hạn như thực vật, động vật và các sản phẩm
    phụ của chúng, có thể là tài nguyên quý giá. Công nghệ hiện đại thậm chí còn làm
    cho các bãi chôn lấp hoặc các khu chất thải trở thành nguồn năng lượng sinh học
    tiềm năng. Nó có thể được sử dụng để trở thành một nguồn điện bền vững, cung cấp
    nhiệt, khí đốt và nhiên liệu.
    Định nghĩa 15.
    9
    Thủy triều là hiện tượng mực nước ở ven biển , cửa sông tại một nơi lên, xuống
    theo chu kì đúng bằng khoảng thời gian giữa hai lần liên tiếp Mặt Trăng qua kinh
    tuyến trên tại nơi đó.
  2. Giáo dục bảo vệ môi trường qua bộ môn Vật lí
    2.1. Cơ sở lí luận
    Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết mỗi năm trên thế giới có khoảng 7 triệu
    người chết sớm do ô nhiễm không khí, trong đó khu vực châu Á – Thái Bình Dương
    có gần 4 triệu người; khoảng 92% người dân trên thế giới không được hít thở không
    khí sạch. Hơn 88% các bệnh do ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu xảy ra ở trẻ
    em dưới 5 tuổi. Trẻ em dễ bị tác động của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường
    hơn các nhóm tuổi khác bởi đang trong giai đoạn phát triển, bị phụ thuộc vào người
    lớn và tiếng nói chưa có sức mạnh.
    Bởi vậy, giáo dục học sinh bảo vệ môi trường và lắng nghe tâm tư từ phía các
    em chính là sự bảo đảm cho tương lai của hành tinh chúng ta. Chưa bao giờ cả nhân
    loại và nhân dân trong cả nước lại quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường như
    hiện nay. Vấn đề ô nhiễm môi trường không chỉ trực tiếp làm tổn hại đến sức khỏe,
    tính mạng con người mà còn ảnh hưởng đến giống nòi, con cháu mai sau.
    Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã khẳng định và đưa vào một trong số các
    chỉ tiêu quan trọng: “Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn
    được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95-100% chất thải
    y tế được xử lý, tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%”.
    Thực trạng vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay:
    Sau Đại hội XII của Đảng, vấn đề môi trường đã được các cấp ủy đảng, chính
    quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường,
    đến năm 2017, tỷ lệ dân số thành thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp
    nước tập trung đạt khoảng 84,5%. Đến năm 2016 dân số nông thôn được sử dụng
    nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 87,5%. Năm 2017, chất thải nguy hại được tiêu hủy,
    xử lý đạt 90%, tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 41,45%, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
    nghiêm trọng theo Quyết định 64-QĐ/TTg được xử lý đạt 91,1%. Tuy nhiên, khâu
    tổ chức thực hiện để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường còn nhiều hạn chế, yếu
    kém.
    Trước hết là vấn đề quản lý rác thải nhập khẩu còn nhiều sơ hở. Theo thống
    kê của Tổng Cục Hải quan, tính đến ngày 28/8/2018, cả nước có đến 17.000
    container phế liệu chưa làm thủ tục thông quan, chủ yếu ở một số cảng biển. Các
    10
    phế liệu này chủ yếu là nhựa, giấy, phế liệu sắt, nhôm do các hãng tàu nước ngoài
    chở đến. Ở các đô thị và nhiều tỉnh, các bãi rác thải ứ đọng chưa được xử lý do khu
    vực chôn lấp và các nhà máy chế biến quá tải. Số lượng các chất thải rắn như đồ
    nhựa, túi ni lông, … ngày càng nhiều và đổ cả xuống biển, các dòng sông, gây ô
    nhiễm nghiêm trọng ở một số vùng.
    Vấn đề quản lý nước thải ô nhiễm càng phức tạp, khó khăn hơn. Theo các
    chuyên gia môi trường đánh giá, hầu hết các dòng sông và phần lớn ao hồ ở Hà Nội
    và một số đô thị đều ô nhiễm nặng. Hàng năm có hàng triệu mét khối nước chưa qua
    xử lý đổ xuống các dòng sông như sông Tô Lịch, sông Sét, sông Nhuệ, sông Kim
    Ngưu, sông Lừ. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện cả nước có 615 cụm công
    nghiệp nhưng chỉ khoảng 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung, gần 300 khu
    công nghiệp với lưu lượng xả thải trên 2 triệu m3
    /ngày nhưng có tới 70% lượng nước
    thải chưa được xử lý triệt để, 23% doanh nghiệp FDI xả thải vượt quy chuẩn cho
    phép từ 5-12%. Theo thống kê, mỗi năm cả nước có khoảng 9.000 người tử vong và
    trên 200.000 trường hợp được phát hiện ung thư do sử dụng nguồn nước ô nhiễm.
    Cùng với rác thải, nước thải, vấn đề khí thải cũng rất nghiêm trọng. Đầu tháng
    3/2019, Trung tâm phát triển Sáng tạo xanh (GreenID) thuộc Liên hiệp các hội Khoa
    học kỹ thuật Việt Nam công bố báo cáo của tổ chức Hòa bình xanh “Về hiện trạng
    chất lượng không khí toàn cầu năm 2018”. Theo báo cáo này, Hà Nội đứng thứ hai,
    thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ 15 về mức độ ô nhiễm không khí ở khu vực Đông
    Nam Á. Theo ước tính của trường Đại học Fulbright, thiệt hại kinh tế ở Việt Nam
    do ô nhiễm không khí (2013) khoảng 5 – 7% GDP và gây chết sớm cho hàng chục
    ngàn người. Tại Hội nghị Lagos (Thụy Sĩ) năm 2016, Việt Nam đứng thứ 10 về ô
    nhiễm không khí. Theo Cục kiểm soát ô nhiễm thuộc Tổng cục Môi trường, Việt
    Nam có khoảng 43 triệu xe máy và hơn 2 triệu ô tô lưu hành, chủ yếu sử dụng nhiên
    liệu hóa thạch như diesel, xăng, đang là nguồn phát thải lớn khói bụi, khí độc vào
    không khí. Nghiên cứu của WHO, ô nhiễm không khí ngoài trời được coi là nguyên
    nhân đứng thứ tư gây ra những cái chết yểu trên thế giới và ước tính thiệt hại đến
    225 tỉ USD hàng năm. Việc các công trình xây dựng, xe chuyên chở vật liệu, khai
    thác than, khoáng sản, các nhà máy nhiệt điện, xi măng, hóa chất … không chấp
    hành quy định xử lý môi trường cũng làm ô nhiễm không khí không nhỏ. Tình trạng
    ô nhiễm môi trường trầm trọng nêu trên do các nguyên nhân khách quan và chủ
    quan, trong đó chủ quan là chính.
    11
    Về nguyên nhân khách quan: Nước ta nằm ở vị trí địa lý chịu tác động rất lớn
    của hiện tượng biến đổi khí hậu dẫn đến tình trạng hạn hán, ngập úng, nhiễm mặn ở
    một số vùng. Điều kiện nguồn thu ngân sách khó khăn nên chi đầu tư cho lĩnh vực
    môi trường rất hạn chế. Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa
    diễn ra khá mạnh mẽ cũng góp phần làm gia tăng phát thải khí nhà kính, suy thoái,
    cạn kiệt tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học….
    Về nguyên nhân chủ quan: Nhận thức và ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường
    của một bộ phận lớn cán bộ, công chức, viên chức, của người dân về bảo vệ môi
    trường chuyển biến chậm. Đặc biệt, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ
    chính quyền các cấp và chủ doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Một số cán bộ lại bị
    chi phối bởi lợi ích cục bộ đã vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Công tác
    quản lý nhà nước, thực thi pháp luật và tổ chức ứng dụng khoa học công nghệ trong
    bảo vệ môi trường nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức.
    2.2. Một số câu hỏi , dự án học tập và định hướng học sinh giải quyết vấn đề
    Vật lí với giáo dục bảo vệ môi trường.
    Câu 1. Môi trường vai trò quan trọng như thế nào đối với đời sống con người?
    Môi trường là không gian sống lý tưởng của con người và các loài sinh vật.
    Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động
    sản xuất của con người.
    Môi trường là nơi chứa đựng, trung hòa và phân hủy các chất phế thải do con
    người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
    Môi trường là nơi bảo vệ con người và sinh vật ra khỏi các tác động bên ngoài.
    Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
    Câu 2. Môi trường sống của con người đang bị tác động tiêu cực như thế nào?
    Những tác động trực tiếp do các điều kiện nhiệt độ cực đoan: bao gồm các đợt
    sóng nhiệt và các đợt lạnh khắc nghiệt gây lên. Trong đó, sóng nhiệt là hiện tượng
    thời tiết nóng bất thường diễn ra trong một khoảng thời gian kéo dài, có thể đi kèm
    với độ ẩm cao. Khi phơi nhiễm với sóng nhiệt, con người phải đối mặt với nguy cơ
    căng thẳng do nhiệt khi làm việc dưới nhiệt độ và độ ẩm cao, hoặc say nắng, say
    nóng, chuột rút, ngất xỉu, kiệt sức do nhiệt. Nặng hơn nữa là tình trạng sốc nhiệt,
    nếu không được cấp cứu kịp thời có thể dẫn tới tử vong. Ngoài các đợt sóng nhiệt,
    các đợt không khí lạnh khắc nghiệt cũng là điều kiện nhiệt độ cực đoan gây nhiều
    tác động xấu đến sức khỏe con người. Các đợt lạnh khắc nghiệt có thể khiến nhiệt
    12
    độ mùa đông ở nhiều nước trên thế giới xuống tới dưới -300C, thậm chí dưới -400C,
    hoặc các nước có khí hậu nhiệt đới như Việt Nam trong những năm gần đây, nhiệt
    độ mùa đông có khu vực từng xuống tới -5
    0C kèm theo những đợt lạnh kỷ lục kéo
    dài. Các đợt lạnh khắc nghiệt có thể gây ra các nguy cơ cấp tính như cước chân tay,
    giảm thân nhiệt hoặc tăng nguy cơ phát các bệnh mạn tính liên quan đến đường hô
    hấp và một số bệnh khác. Đặc biệt các đợt lạnh khắc nghiệt có tác động xấu rõ rệt
    tới sức khỏe của người già, trẻ em, người nghèo và những người vô gia cư…
    Những tác động trực tiếp đến sức khỏe còn do các điều kiện thời tiết cực
    đoan, là những tác động rất đa dạng, thường liên quan tới các thảm họa do bão, lụt,
    hạn hán, động đất, sóng thần, các vụ cháy lớn… Biến đổi khí hậu góp phần làm tăng
    tần xuất xuất hiện và cường độ của các thảm họa thiên nhiên, điển hình là trong
    những năm gần đây, do biến đổi khí hậu, các cơn bão có sức tàn phá lớn xuất hiện
    ngày càng nhiều, gây hậu quả nặng nề cho sức khỏe con người như tử vong, mất
    tích, chấn thương, các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần nghiêm trọng…Ngoài
    những tác động trực tiếp đến sức khoẻ, con người đã, đang và sẽ phải hứng chịu
    nhiều gánh nặng bệnh tật khác do những thay đổi môi trường dưới ảnh hưởng của
    biến đổi khí hậu. Đó là:
    Tình trạng dinh dưỡng bị tác động: những thay đổi của môi trường do biến
    đổi khí hậu như hạn hán, lũ lụt, nước biển dâng… gây nên tình trạng khan hiếm
    nước, mặn hóa diện tích đất nông nghiệp, sâu bệnh, thất thu mùa màng, mất sinh kế,
    tăng nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh đường hô hấp. Hậu quả đối
    với sức khỏe là thiếu đói và cuối cùng là tình trạng suy dinh dưỡng protein năng
    lượng, thiếu hụt vi chất dinh dưỡng.
    Biến đổi khí hậu làm tăng bệnh tật liên quan đến an toàn thực phẩm: Biến đổi
    khí hậu làm thời tiết trở nên ấm áp hơn, mùa đông đỡ lạnh hơn, là điều kiện thuận
    lợi cho ruồi, gián và các véc tơ truyền bệnh qua thực phẩm khác sinh sôi phát triển
    mở rộng phạm vi sống và thời gian lưu hành truyền bệnh trong năm. Liên quan chặt
    chẽ tới sự thay đổi này là sự gia tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh đường
    tiêu hóa do vi khuẩn Salmonella.
    Mặt khác, khi nước biển ấm lên do biến đổi khí hậu thì số ca ngộ độc thực
    phẩm do ăn phải các loại hải sản sò, hàu… chứa độc tố của các loài tảo biển độc gia
    tăng, đây là những loài tảo có đặc điểm phát triển mạnh khi nước biển ấm lên, sản
    sinh ra lượng chất độc lớn thấm nhiễm vào các loài động vật biển.
    13
    Bệnh tật liên quan đến nước tăng: Biến đổi khí hậu làm thay đổi lượng mưa
    có thể dẫn tới khô hạn, thiếu nước sinh hoạt, ăn uống khiến con người phải đối mặt
    các bệnh liên quan đến dùng nước bị nhiễm bẩn hoặc thiếu nước như sỏi thận, viêm
    da, đau mắt, tử vong … Hoặc sự gia tăng của bệnh ỉa chảy và các bệnh liên quan đến
    điều kiện vệ sinh kém do ngập, lụt làm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước.
    Với các bệnh liên quan đến chất lượng không khí: Các mô hình thời tiết đặc
    thù của biến đổi khí hậu làm tăng thúc đẩy quá trình hình thành một số chất ô nhiễm
    không khí khiến hàm lượng các chất đó trong không khí trở nên rất cao ảnh hưởng
    đến sức khỏe con người. Một trong các khí đó, có thể kể đến là khí ozon ở tầng đối
    lưu (tầng sát mặt đất), hay còn gọi là khói mù, là nguyên nhân gây kích ứng hệ hô
    hấp, làm giảm chức năng phổi, khiến bệnh hen trở lên trầm trọng hơn và tăng nguy
    cơ đối với những người có tiền sử bệnh tim mạch, hô hấp…
    Các chất hạt mịn hay còn gọi là bụi mịn PM là một trong những chất ô nhiễm
    không khí thay đổi theo sự biến đổi của khí hậu. Với loại PM có kích thước siêu
    nhỏ, có khả năng vượt qua tất cả các hàng rào ngăn bụi để đi sâu vào hệ hô hấp, thậm
    chí vào máu và nó có thể tác động đến cấu trúc DNA gây đột biến gen… PM gây
    ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người còn hơn cả ozon, nó làm tăng cả tỷ
    lệ mắc bệnh và tử vong trong các cộng đồng dân cư.
    Ngoài ra dưới tác động của biến đổi khí hậu, các vụ cháy rừng lớn có xu hướng tăng
    cả về tần suất và mức độ nguy hiểm. Hậu quả là các chất khí độc hại, các chất ô
    nhiễm dạng hạt từ các vụ cháy thải vào khí quyển quá nhiều, góp phần làm tăng đột
    biến số ca mắc bệnh đường hô hấp cấp tính và mạn tính như viêm phổi, viêm đường
    hô hấp trên, hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính…
    Các bệnh do véc tơ và gặm nhấm truyền và một số bệnh truyền nhiễm khác:
    Nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu làm mở rộng các vùng có nhiệt độ mùa đông
    tăng, cùng sự thay đổi về lượng mưa gây ngập lụt, là điều kiện thuận lợi cho các véc
    tơ như ruồi, muỗi, chuột, bọ chét, ve, các loài gặm nhấm sinh sôi, phát triển gia tăng
    cả về số lượng và phạm vi lưu hành, dẫn tới khuynh hướng gia tăng các bệnh liên
    quan đến các véc tơ truyền bệnh trên như: bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não
    Nhật Bản, dịch hạch…
    Tác hại của bức xạ tia cực tím đối với sức khỏe: Trong khi khí ozon ở tầng
    đối lưu gây hại cho sức khỏe con người, thì lớp ozon ở tầng bình lưu lại có tác dụng
    ngăn chặn bức xạ cực tím không cho xuyên qua bầu khí quyển Trái Đất. Sự suy giảm
    ozon ở tầng bình lưu sẽ tạo điều kiện cho các bức xạ cực tím đến mặt đất nhiều hơn.
    14
    Biến đổi khí hậu làm thay đổi sự phơi nhiễm của con người với tia bức xạ cực tím
    do làm thay đổi sự phân bổ của các đám mây góp phần tăng phơi nhiễm của con
    người với tia bức xạ cực tím ở một số khu vực, gây nhiều hệ lụy cho sức khỏe như:
    đục thủy tinh thể, ung thư da, cháy nắng, giảm miễn dịch của cơ thể với một số loại
    vắc xin…
    Câu 3. Tại sao các Quốc gia cần quan tâm bảo vệ môi trường?
    Bảo vệ môi trường là những hoạt động được diễn ra nhằm mục đích giữ gìn
    sự trong lành, sạch đẹp của môi trường; giúp cân bằng hệ sinh thái và cải thiện môi
    trường sống của các sinh vật nói chung và con người nói riêng qua những việc làm
    để ngăn chặn, phòng ngừa, khắc phục các hậu quả xấu do thiên tai và con người gây
    ra ảnh hưởng đến môi trường. Như vậy, ta có thể khẳng định: Bảo vệ môi trường là
    bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
    Hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng môi trường của chúng ta
    đang bị ô nhiễm trầm trọng. Từ những điều nhỏ nhất như khói bụi cho đến những
    điều lớn như biến đổi khí hậu, thời tiết khắc nghiệt hơn, mưa axít, nước biển dâng,
    sa mạc hóa…
    Theo điều tra, nhiệt độ trung bình của Trái Đất đang nóng hơn gần 40°C so
    với kỷ băng hà cách đây 13.000 năm. Đặc biệt, trong 100 năm trở lại đây, nhiệt độ
    trung bình tăng 0.6 – 0.7°C và trong 100 năm tới sẽ tăng khoảng 1.4-5.8°C. Sự nóng
    lên toàn cầu như vậy có tác động không nhỏ đến môi trường và xã hội. Cụ thể, nhiệt
    độ tăng sẽ làm băng tan và mực nước biển cũng tăng theo, gia tăng các cơn bão, suy
    giảm tầng ozon… Ngoài ra, một số loài không kịp thích ứng có thể bị tuyệt chủng.
    Đặc biệt, con người sống trong môi trường bị ô nhiễm sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ.
    Khi sống trong môi trường bị ô nhiễm, con người có thể mắc các bệnh về phổi, tim
    mạch, gan, giảm trí thông minh ở trẻ em… Vì vậy, việc cấp thiết hiện nay đó là bảo
    vệ môi trường và cải thiện môi trường đang bị ô nhiễm. Nhận thức được vấn đề này,
    Liên Hợp Quốc đã quyết định ngày 5/6 là Ngày Môi trường thế giới.
    Ngoài ra còn có khái niệm về môi trường xã hội. Môi trường xã hội là mối
    quan hệ giữa người với người. Đó là các luật lệ, cam kết, thể chế, ước định… ở các
    cấp khác nhau. Môi trường xã hội có nhiệm vụ định hướng con người theo một
    khuôn khổ nhất định để cho sự phát triển được thuận lợi, khiến cuộc sống của con
    người khác với sinh vật khác. Mặc dù các nhân tố này trái ngược nhau nhưng

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ