SKKN Xây dựng một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học phần Địa lý tự nhiên lớp 10 ở trường THPT
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong những năm gần đây, nền giáo dục của nước ta đang có bước chuyển
mình mạnh mẽ với những đổi mới trong nội dung giảng dạy, phương pháp giảng
dạy và hình thức kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đáp ứng yêu cầu hội
nhập khu vực và quốc tế.
Nghị quyết 29 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI cũng nêu rõ mục tiêu
tổng quát của đổi mới giáo dục là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có
cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm
các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội
hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực….
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự
học, khuyến khích học tập suốt đời”. Như vậy, giáo dục phổ thông nước ta đang
chuyển từ chương trình định hướng nội dung sang tiếp cận năng lực của người
học. Để đạt được mục đích này, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển
từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận
dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
2
Đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra
trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, chú
trọng kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Theo tinh thần ấy, các yếu tố của quá
trình giáo dục trong trường phổ thông cần được đổi mới tất cả các mặt: nội dung
dạy học, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá. Để thực hiện được các quan
điểm hiện đại trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng
phát triển phẩm chất, năng lực cần có các công cụ đánh giá hợp lý, hiện đại. Trước
đây việc đánh giá học sinh chủ yếu dựa trên đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức
và đánh giá một chiều giáo viên với học sinh. Công cụ đánh giá đơn điệu chủ yếu
bằng hệ thống câu hỏi đóng, các đề kiểm tra, hồ sơ học tập của học sinh (vở ghi,
bài tập, bài thực hành…).
Vì vậy để đáp ứng được yêu cầu mới thì cần có những đổi mới, những đột
phá trong việc thiết kế tiến trình dạy học của giáo viên. Việc đổi mới phương pháp
dạy học đã được triển khai từ lâu và đã đạt được những hiệu quả nhất định trong
việc thay đổi không khí giờ học, thay đổi ý thức người học và khả năng tiếp thu
kiến thức. Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa hiệu quả của mỗi giờ học cũng như thực
hiện được quan điểm hiện đại về kiểm tra đánh giá, tôi nghĩ cần có sự thay đổi
trong việc thiết kế và sử dụng các công cụ đánh giá.
Công cụ đánh giá trong môn Địa lí nói riêng và các môn học nói riêng rất đa
dạng bao gồm:
- Câu hỏi – bài tập – Thang đo
- Bảng kiểm – Hồ sơ học tập
- Phiếu đánh giá theo tiêu chí – Đề kiểm tra
- Sổ ghi chép các sự kiện thường nhật
Đánh giá cần chú trọng đến đánh giá quá trình để phát hiện kịp thời sự tiến
bộ của học sinh và vì sự tiến bộ của học sinh từ đó điều chỉnh kịp thời hoạt động
dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học. Thay vì chỉ giáo viên đánh giá học
sinh thì học sinh có thể tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Vì vậy việc thiết kế
các công cụ đánh giá hiện đại là rất quan trọng. Bản thân tôi là một giáo viên sau
3
khi được tham gia vào lớp tập huấn nội dung mô đun 3: “Kiểm tra, đánh giá học
sinh THPT theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực”, tôi đã rất tâm huyết
với nội dung xây dựng công cụ kiểm tra, đánh giá. Tôi nghĩ đây là một nội dung có
nhiều cái mới và nhiều giáo viên có thể chưa hiểu hết được các công cụ cũng như
việc sử dụng các công cụ này như thế nào cho hợp lý. Vì vậy trong năm học 2021
– 2022, tôi đã nghiên cứu các tài liệu liên quan, học hỏi đồng nghiệp trong và
ngoài trường để có thể hiểu rõ về các công cụ đánh giá, đồng thời xây dựng một số
công cụ mới phục vụ cho việc giảng dạy, quan trọng hơn là để chuẩn bị cho
chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ áp dụng cho năm học 2022- 2023 đối với
lớp 10. Chương trình địa lí lớp 10 gồm 2 phần: địa lí tự nhiên và địa lý kinh tế – xã
hội tuy nhiên trong nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh cảm thấy khó khăn
hơn trong việc học địa lí tự nhiên do kiến thức trừu tượng và khó hiểu. Vì vậy
trong phạm vi sáng kiến này tôi muốn xây dựng một số công cụ đánh giá được áp
dụng vào các bài học của phần địa lí tự nhiên nhằm giúp các em học tốt hơn nội
dung này và qua đó cũng đánh giá được phần nào năng lực được hình thành cho
các em sau mỗi bài học. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tôi quyết định thực
hiện sáng kiến : “Xây dựng một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm
chất, năng lực học sinh trong dạy học phần địa lí tự nhiên lớp 10 ở trường THPT”
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
- Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Địa lí là một bộ môn khoa học đặc biệt bởi nó vừa mang tính khoa học tự
nhiên, vừa mang tính khoa học xã hội. Mục tiêu của môn địa lí trong nhà trường
phổ thông hiện nay không chỉ cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức khoa học địa
lí mà còn hướng đến việc hình thành và phát triển những năng lực cần thiết cho
các em. Những năng lực này giúp học sinh giải quyết các tình huống trong cuộc
sống và nghề nghiệp, tăng cường giúp đỡ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để cùng
phát triển, hội nhập. Tuy nhiên để hình thành được phẩm chất, năng lực cho học
sinh không thể nhanh chóng trong một thời gian ngắn, do đó cần có các công cụ
kiểm tra, đánh giá thường xuyên, liên tục để giúp học sinh hình thành và khắc sâu
năng lực một cách hiệu quả.
4
Thực trạng hiện nay cho thấy các giáo viên trung học phổ thông nói chung
về cơ bản đã hiểu được tầm quan trọng của kiểm tra, đánh giá trong dạy học và sự
cần thiết phải đổi mới các công cụ đánh giá theo hướng phát triển năng lực, phẩm
chất người học. Tuy nhiên ở góc độ thực hành, nhiều giáo viên vẫn chưa thực sự
đánh giá thường xuyên người học, chưa chú trọng đến xây dựng kế hoạch đánh giá
và sử dụng các công cụ đánh giá hiện đại. Mặc dù nhận thức được xu hướng đổi
mới trong kiểm tra, đánh giá nhưng giáo viên vẫn chủ yếu đánh giá học sinh theo
hướng cũ, bộc lộ nhiều hạn chế, chưa phát triển được hết phẩm chất và năng lực
người học.
Bản thân tôi trong những năm học trước, tôi tự nhận thấy việc kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh còn nhiều hạn chế. Mục đích của kiểm tra,
đánh giá vẫn chỉ tập trung vào đánh giá kết quả học tập của học sinh, xếp loại học
sinh, cho điểm nhưng không phản hồi (hoặc có chữa bài, nhưng “áp đặt” cách giải
đúng của giáo viên mà bỏ qua khâu phân tích sai sót/lỗi cho người học). Các công
cụ đánh giá vẫn chưa được sử dụng phong phú: ví dụ khi đánh giá tôi hay đặt ra
các câu hỏi đóng và bài tập cơ bản yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức trong sách
giáo khoa, thỉnh thoảng đưa ra một số câu hỏi mở lấy thông tin, ý kiến học sinh.
Bài tập thực tiễn và bài tập vận dụng rất ít. Công cụ tiếp theo là sử dụng hồ sơ học
tập của học sinh, tôi thường kiểm tra vở ghi của học sinh để theo dõi việc ghi chép
và đánh giá ý thức của học sinh trong mỗi giờ học, từ đó nhắc nhở các em ghi chép
cẩn thận và đầy đủ hơn. Khi đánh giá định kỳ, tôi sử dụng công cụ phổ biến là các
đề kiểm tra tự luận hoặc trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn ngoài ra cũng
chưa sử dụng công cụ nào khác. Như vậy các công cụ mới như bảng kiểm, phiếu
đánh giá theo tiêu chí, thang đo chưa được sử dụng phổ biến để đánh giá học sinh.
Và tôi nghĩ việc sử dụng các công cụ truyền thống để đánh giá học sinh vẫn còn
phổ biến trong các nhà trường THPT hiện nay.
Vậy tại sao phần lớn giáo viên vẫn thường sử dụng các công cụ truyền thống
trong đánh giá học sinh? Theo tôi nghĩ là vì nó không mất nhiều thời gian chuẩn
bị, không khó khăn trong việc xây dựng, biên soạn và đánh giá kết quả người học.
Tuy nhiên đứng trước yêu cầu phải đổi mới để đáp ứng được mục tiêu của
chương trình giáo dục phổ thông mới thì bản thân mỗi chúng ta cần có sự đổi mới.
Đổi mới từ cái nhỏ nhất đó chính là những công cụ đánh giá trong mỗi bài học để
học sinh có hứng thú hơn khi tiếp nhận kiến thức, học sinh hiểu rõ mình cần phải
làm gì sau mỗi bài học để tiến bộ hơn và học sinh được khách quan trong việc
đánh giá bản thân mình và đánh giá bạn bè của mình. Hướng đánh giá được đa
5
chiều hơn không chỉ là giáo viên đánh giá học sinh mà học sinh có thể đánh giá lẫn
nhau, học sinh tự đánh giá bản thân mình. - Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Lý luận chung về công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất,
năng lực học sinh trong dạy học môn địa lí ở trường THPT.
Công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong
dạy học môn địa lí ở trường THPT rất đa dạng, gồm 7 loại công cụ:
Hình 1: Các công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất,
năng lực học sinh
Trong phạm vi nghiên cứu của sáng kiến, tôi đặc biệt dành nhiều thời gian tìm
hiểu về các công cụ tôi sử dụng phổ biến và có hiệu quả trong dạy học là: câu hỏi
và bài tập, bảng kiểm và phiếu đánh giá theo tiêu chí (rubric) vì vậy tôi xin phép
được trình bày cụ thể về ba loại công cụ này.
2.1.1. Câu hỏi và bài tập
Câu hỏi và bài tập là công cụ đánh giá mà trong đó học sinh trả lời câu hỏi
(vấn đáp) hoặc viết câu trả lời (kiểm tra viết). Các bằng chứng thu thập được từ
câu hỏi có thể giúp giáo viên phát hiện những quan niệm sai lầm của học sinh và
sự phân hóa trình độ trong nhóm học sinh,… Loại công cụ này rất đa dạng có thể là
câu hỏi bằng hình thức trắc nghiệm, câu hỏi tự luận, vấn đáp, viết báo cáo, vẽ
tranh, viết bài luận,… Nhưng phổ biến nhất là câu hỏi tự luận và câu hỏi trắc
nghiệm. Trong chỉ đạo dạy học và kiểm tra, đánh giá hiện nay, Bộ Giáo dục và
6
Đào tạo đang hướng dẫn thực hiện theo bốn mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận
dụng và vận dụng cao. Theo tài liệu hướng dẫn bồi dưỡng giáo viên phổ thông cốt
cán – Mô đun 3, câu hỏi và bài tập có 4 loại, tuỳ thuộc vào kế hoạch và mục đích
dạy học mà có thể áp dụng các dạng câu hỏi và bài tập phù hợp.
Hình 2: Sơ đồ các loại câu hỏi và bài tập
2.1.1.1. Câu hỏi vấn đáp
Sử dụng câu hỏi vấn đáp trong đánh giá kết học tập của học sinh là cách thức
giáo viên đặt câu hỏi, học sinh trả lời hoặc ngược lại. Đây là phương pháp đặc
trưng và phổ biến nhất trong dạy học nhằm thu nhận những thông tin chính thức và
không chính thức về việc học của học sinh. Thông qua đó, người học nhận thức
được nhu cầu học tập của bản thân và con đường để cải thiện, giáo viên kịp thời
điều chỉnh việc hoạt động dạy học để đạt mục đích của yêu cầu bài học đặt ra, có
điều kiện quan tâm trực tiếp tới từng học sinh, nhất là các đối tượng đặc biệt. Để
có câu hỏi hiệu quả trong dạy học Địa lí ở nhà trường phổ thông, giáo viên cần chú
ý tới một số vấn đề như:
- Câu hỏi rõ ràng và súc tích để học sinh hiểu được chủ đích của câu hỏi.
- Câu hỏi phải phù hợp nội dung bài học và với trình độ học sinh.
- Câu hỏi phải khuyến khích học sinh trả lời, câu hỏi phải giúp học sinh huy động
7
kiến thức và kinh nghiệm đã có và kích thích tư duy sáng tạo. - Hạn chế câu hỏi yêu cầu học sinh thuộc lòng.
- Tăng cường sử dụng câu hỏi mở, câu hỏi thực tiễn.
- Câu hỏi phải tạo ra sự thu hút cả lớp và cho học sinh đủ thời gian chuẩn bị trả lời.
- Giáo viên cần ứng đáp thích hợp với những câu trả lời của học sinh.
Bảng 1: Những chú ý khi đặt câu hỏi
Trong những chú ý này, để góp phần phát triển phẩm chất, năng lực cho
người học, giúp người học tư duy nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, thảo luận nhiều
hơn thì giáo viên cần tăng cường sử dụng câu hỏi mở, câu hỏi thực tiễn.
Câu hỏi mở là câu hỏi có nhiều đáp án và khuyến khích học sinh suy nghĩ
chứ không chỉ khôi phục thông tin trong trí nhớ. Câu hỏi mở giúp giáo viên thăm
dò, lấy ý kiến của học sinh, giúp giáo viên biết được rõ hơn mức độ hiểu bài của
học sinh. Câu hỏi mở đòi hỏi học sinh tư duy nhiều, khuyến khích học sinh tham
gia, thảo luận. Câu hỏi mở thường được dùng trong phần giới thiệu bài, phát triển
bài.
Sau đây là một số kiểu vấn đáp gợi mở thường dùng trong dạy học Địa lí
như: - Kiểu câu hỏi mở lấy thông tin là kiểu câu hỏi giúp học sinh có cái nhìn tổng
quan hoặc đưa ra những băn khoăn về tình huống hiện tại. - Kiểu câu hỏi mở hỏi ý kiến là loại câu hỏi dùng để học sinh đưa ra ý kiến, suy
nghĩ, tranh luận của mình về một sự kiện, chủ đề nào đó. - Kiểu câu hỏi mở giả định là loại câu hỏi giúp học sinh suy nghĩ vượt ra khỏi
khuôn khổ của tình huống hiện tại. - Kiểu câu hỏi mở hành động là kiểu câu hỏi giúp cho học sinh đưa ra các giải
pháp, các ý tưởng,… để sử dụng hiệu quả tài nguyên, phát triển bền vững, thích
ứng với môi trường địa lí, thích ứng với sự thay đổi của tự nhiên, của xã hội cũng
như các xu hướng phát triển kinh tế, các vấn đề đặt ra đối với bản thân, gia đình,
cộng đồng, quốc gia, khu vực và thế giới.
2.1.1.2. Câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Gọi là khách quan
vì cách cho điểm (đánh giá) hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm. Dạng câu
hỏi này có nhiều dạng câu hỏi: đúng – sai, điền khuyết, ghép đôi, đa lựa
chọn,…Trong đó, dạng câu hỏi đa lựa chọn (nhiều lựa chọn) được sử dụng nhiều
nhất trong đánh giá kết quả học tập của học sinh.
8 - Dạng câu hỏi đúng – sai: Là dạng câu hỏi đưa ra các phát biểu để học sinh
đánh giá đúng hay sai hoặc để trả lời có hoặc không. Loại câu hỏi này thích hợp để
học sinh nhớ lại một khối lượng kiến thức đáng kể trong một thời gian ngắn. Do
đó, câu dẫn của loại câu hỏi này phải rất rõ ràng để học sinh có thể trả lời dứt
khoát có hoặc không, đúng hoặc sai. - Dạng câu hỏi điền khuyết (điền vào chỗ trống): Là dạng câu hỏi đòi hỏi
học sinh trình bày sự hiểu biết bằng cách viết một từ, một cụm từ hay một đoạn
văn khoảng 4, 5 dòng. Phương pháp này thích hợp cho những học sinh gặp khó
khăn về vốn từ. Khi thiết kế dạng câu hỏi này, giáo viên phải chú ý tới một số kĩ
thuật như: từ cần điền phải là các từ khóa thể hiện nội dung, bản chất của sự vật,
hiện tượng địa lí, đánh số thứ tự các ô trống cần điền, dự kiến các phương án học
sinh sinh có thể điền (nhất là các từ đồng nghĩa). - Dạng câu hỏi ghép đôi: Ở dạng này thường có hai dãy thông tin, một bên là
các câu dẫn và bên kia là các câu đáp, học sinh phải tìm ra các cặp tương ứng.
Thường sử dụng dạng câu hỏi này để đánh giá học sinh về khả năng nhận biết sự
khác biệt về đặc điểm của các đối tượng địa lí. - Dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn: Là dạng câu hỏi
bao gồm một câu hỏi và các phương án trả lời. Trong các phương án trả lời, có một
phương án đúng hoặc đúng nhất, các phương án còn lại là phương án sai/ phương
án nhiễu. Dạng câu hỏi này có hai phần, phần dẫn và phương án trả lời.
2.1.1.3. Câu hỏi tự luận
Câu hỏi tự luận là dạng câu hỏi cho phép học sinh tự do thể hiện quan điểm
khi trình bày câu trả lời cho một chủ đề hay một nhiệm vụ và đòi hỏi học sinh phải
tích hợp kiến thức kĩ năng đã học, kinh nghiệm của bản thân, khả năng phân tích,
lập luận, đánh giá,… và kĩ năng viết. Dạng câu hỏi này có nhiều ưu điểm trong việc
đánh giá các năng lực tư duy bậc cao trong dạy học địa lí như: đánh giá thuận lợi
và khó khăn của đối tượng địa lí, lí giải về sự tồn tại và phát triển của đối tượng
địa lí, đưa ra quan điểm hoặc ý kiến cá nhân về xu hướng phát triển của đối tượng
địa lí,… Kiểu câu hỏi tự luận thường có hai dạng: tự luận trả lời ngắn và tự luận
trả lời dài.
Như vậy, câu tự luận không có cấu trúc: là những câu hỏi cho phép học sinh
tự do xác định nội dung, cấu trúc và phạm vi câu trả lời về một chủ đề cụ thể,
trong khoảng thời gian nhất định, học sinh tự quyết định thực tế nào là thích hợp
và làm thế nào để tổ chức, tổng hợp, đánh giá chúng. Câu hỏi này thích hợp với
những mục tiêu kỹ năng, bao gồm cả khái niệm, tổ chức, phân tích và đánh giá.
Câu hỏi tự luận có những ưu – nhược điểm sau:
9
Ưu điểm Nhược điểm - Là cách thức chủ yếu để đánh giá khả
năng tổ chức, diễn tả và bảo vệ quan
điểm của học sinh. - Có thể đánh giá các kỹ năng nhận
thức, ở tất cả mức, bao gồm cả kỹ năng
cao và kỹ năng ra quyết định. - Cũng có thể sử dụng để đo các kỹ
năng phi nhận thức, ví dụ thái độ, giao
tiếp,… - Tạo cơ hội để học sinh sắp xếp các ý
tưởng để chứng tỏ khả năng tư duy và
sáng tạo của bản thân. - Có thể sử dụng cả đánh giá định kỳ
và đánh giá thường xuyên. - Chiếm nhiều thời gian để trả lời và
chấm điểm; khó đạt sự khách quan khi
chấm. - Chỉ kiểm tra một số lượng kiến thức
giới hạn và chú trọng đến khả năng viết.
Đồng thời nhiều khi câu trả lời vượt
ngoài phạm vi khóa học, môn học. - Quá trình phản hồi diễn ra chậm, hầu
như không kịp thời với tiến trình học
tập.
Bảng 2: Ưu điểm và nhược điểm của câu tự luận
2.1.1.4. Bài tập thực tiễn
Đối tượng của môn Địa lí có tính không gian, tính thời gian và có mối quan
hệ với các sự vật hiện tượng khác, là các sự vật hiện tượng đang tồn tại và xảy ra
ngay trong môi trường xung quanh học sinh. Do vậy, việc sử dụng các tình huống
thực tiễn của môi trường xung quanh để tạo ra các tình huống có vấn đề, các bối
cảnh là một trong những giải pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực cho người học. Kiểu
câu hỏi và bài tập đánh giá này, giúp cho giáo viên đánh giá được khả năng vận
dụng kiến thức, kĩ năng,… đã học vào giải quyết vấn đề. Bài tập thực tiễn đều là
các câu hỏi dựa trên các tình huống của đời sống thực, nhiều tình huống được lựa
chọn không phải chỉ để học sinh thực hiện các thao tác về tư duy, mà còn để học
sinh ý thức về các vấn đề xã hội, vấn đề toàn cầu.
Dạng thức của câu hỏi phong phú, không chỉ bao gồm các câu hỏi lựa chọn
đáp án mà còn yêu cầu học sinh tự xây dựng nên đáp án của mình. Các tình huống,
ngữ cảnh trong bài tập thực tiễn trong dạy học Địa lí rất đa dạng, vì môn Địa lí có
tính tích hợp và liên môn rất cao. Do đó, học sinh dễ dàng bộc lộ tư duy và quan
điểm cá nhân, năng lực của bản thân khi giải các bài tập đó.
Cấu trúc của kiểu bài này gồm 2 phần: Phần dẫn và phần câu hỏi.
10 - Phần dẫn: là phần mở đầu, phần để dẫn mô tả tình huống thực tiễn hoặc
giả tình huống thực tiễn nhưng phải hợp lí. Các tình huống đó có thể là kênh chữ
hoặc kênh hình được lấy từ thực tiễn sách, báo, tạp chí,,… hoặc tác giả tự viết,
nguồn trích dẫn phải rõ ràng. - Phần câu hỏi: bao gồm nhiều kiểu câu hỏi được sử dụng:
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn kiểu đơn giản, câu hỏi Đúng/
Sai phức hợp, câu hỏi Có/ Không. - Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn.
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài.
- Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời.
- Câu hỏi yêu cầu vẽ đồ thị, biểu đồ.
- Câu hỏi yêu cầu học sinh dùng lập luận để thể hiện việc đồng tình hay bác bỏ
một nhận định,…
Các dạng câu hỏi và bài tập rất đa dạng, loại công cụ này được giáo viên sử
dụng thường xuyên để đánh giá thường xuyên hay đánh giá định kỳ học sinh. Tuy
nhiên cần áp dụng các dạng câu hỏi và bài tập cho linh hoạt và hợp lí nhằm khơi
gợi sự hứng thú và sáng tạo trong quá trình tiếp thu kiến thức, phát triển phẩm chất
và năng lực của học sinh
2.1.2. Bảng kiểm
Bảng kiểm là một trong những công cụ đánh giá có hiệu quả trong việc đánh
giá theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Bảng kiểm là những yêu
cầu cần đánh giá thông qua trả lời câu hỏi có hoặc không. Công cụ đánh giá này
mang lại nhiều lợi ích trong việc đánh giá kĩ năng thực hành địa lí cho học sinh với
các hành động cụ thể. Loại công cụ này cũng có thể sử dụng để đánh giá sản phẩm
học tập của học sinh với các yêu cầu cụ thể mà một sản phẩm cần có.
Lợi ích của việc sử dụng bảng kiểm trong đánh giá kết quả học tập của học sinh - Tạo thuận lợi cho việc ghi lại các bằng chứng về sự tiến bộ của học sinh trong
một mục tiêu học tập nhất định. - Người học có thể tự đánh giá mức độ đạt được và chưa đạt được của mình và
của bạn so với yêu cầu đặt ra.
Thông qua đó, người học có thể tự điều chỉnh hoặc bổ sung những thao tác,
kĩ năng, nội dung còn thiếu và hạn chế của mình. Do vậy, đây là loại công cụ có
hiệu quả trong việc đánh giá sự tiến bộ của người học và đánh giá năng lực tìm hiểu
địa lí. Bảng kiểm thường được xây dựng nhằm đánh giá sản phẩm học tập của học
11
sinh như: làm bài thực hành, vẽ biểu đồ, nhận xét, xử lý bảng số liệu…Khi
xây dựng bảng kiểm cần chú ý những điều sau:
Bảng 3: Những lưu ý khi xây dựng bảng kiểm
2.1.3. Phiếu đánh giá theo tiêu chí (Rubric)
Phiếu đánh giá theo tiêu chí là một tập hợp các tiêu chí được cụ thể hóa
bằng các chỉ báo, chỉ số, các biểu hiện hành vi có thể quan sát, đo đếm được. Các
tiêu chí này thể hiện mức độ đạt được của mục tiêu học tập và được sử dụng để
đánh giá và thông báo về sản phẩm, năng lực thực hiện hoặc quá trình thực hiện
nhiệm vụ của người học. Dạng công cụ này thường dùng để đánh giá sản phẩm
học tập của học sinh, giúp học sinh có thể tự đánh giá sản phẩm học tập của mình
và đánh giá sản phẩm của người khác.
Loại công cụ này, mang lại lợi ích cho cả giáo viên và học sinh khi triển
khai hoạt động đánh giá. Cụ thể như: - Đối với giáo viên:
- Cụ thể hóa các tiêu chí quan trọng để người giáo viên tập trung vào những nội
dung quan trọng; - Cụ thể hóa các tiêu chí để giáo viên có trọng tâm khi đánh giá người học;
- Tăng tính nhất quán trong đánh giá;
- Hạn chế tranh cãi khi đánh giá vì sự chủ quan của người đánh giá được giảm
bớt nhờ các tiêu chí và cấp độ cho điểm rõ ràng; - Mang lại cho cả giáo viên và phụ huynh thông tin đầy đủ vể sự thể hiện năng lực
của người học. - Đối với học sinh:
- Làm rõ sự mong đợi của người dạy đối với hoạt động của người học;
- Chỉ rõ những điểm quan trọng của một quy trình hay sản phẩm;
- Giúp người học giám sát và tự nhận xét sản phẩm học tập của mình;
- Mang lại cho người học thông tin đầy đủ về sự thể hiện năng lực của người học;
- Mang lại thông tin đánh giá rõ ràng hơn cách đánh giá truyền thống bằng điểm
số.
Khi thiết kế phiếu đánh giá theo tiêu chí cần chú ý những vấn đề sau:
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: