ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: Như chúng ta đều biết ngôn ngữ đóng một vai trò rất quan trọng trong giao tiếp. Ngoại ngữ nói chung và tiếng anh nói riêng đã và đang được sử dụng rộng rãi, nhất là trong thời kỳ kinh tế mở cửa, kinh tế hội nhập .Nhờ có ngoại ngữ mà các nước có thể giao lưu học hỏi, trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật….Nhận thức được vai trò quan trọng đó nên ngày càng có nhiều người học ngoại ngữ đặc biệt là Tiếng anh.Vì nó là phương tiện ngôn ngữ quốc tế. Với tầm quan trọng đó , ngày nay Tiếng anh đã được đưa vào giảng dạy trong các trường học trong cả nước từ Tiểu học cho đến các trường THPT nhằm giúp các em có thể mở rộng kiến thức, tầm hiểu biết của mình về văn hóa, khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới để áp dụng đưa đất nước ta ngày càng đi lên sánh vai cùng các nước bạn. Trong những năm học vừa qua Sở giáo dục, Phòng giáo dục tổ chức cho học sinh học môn Tiếng anh theo chương trình sách giáo khoa thí điểm, sách được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm có nội dung khá hay và chú trọng phát triển đầy đủ bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kỹ năng nghe, viết và từ vựng rất được chú trọng nên việc khai thác công nghệ thông tin để dạy và học là rất cần thiết bởi nó sẽ giúp giáo viên, học sinh khai thác và lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng nhanh, chính xác và chủ động hơn. Bộ GD&ĐT đã triển khai dạy và học theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất, việc hướng dẫn học sinh sử dụng công nghệ thông tin vào học ngoại ngữ nói chung và Tiếng anh nói riêng là rất cần thiết. Hơn nữa học sinh cũng có điều kiện để chủ động lĩnh hội kiến thức, rèn kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, tự sáng tạo hội họa từ đó có thể viết và nói theo chủ đề trong sách giáo khoa. Mỗi đơn vị bài học trong sách giáo khoa được biên soạn theo 7 phần: Getting started, A closer look 1 (Vocabulary and Pronunciation), A closer look 2 (Grammar), Communication (Speaking), Skills 1 (Reading), Skills 2 (Listening and Writing), Looking back (Revision) và thêm một phần mở rộng cho học sinh thực hành đó chính là phần Project. Nội dung, kiến thức và từ vựng của từng 2 phần khá nhiều và đòi hỏi rất nhiều kỹ năng, do vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tạo hứng thú học, giúp học sinh tiếp thu kiến thức, rèn kỹ năng chính xác và hiệu quả nhất. – Hầu hết các trường học trong tỉnh Nam Định nói chung và trường THCS Nghĩa Châu huyện Nghĩa Hưng nói riêng cũng đã được công nhận là trường chuẩn quốc gia cấp độ 2 hoặc 3. Do đó các trường đã được trang bị nhiều phòng học chức năng, bảng tương tác, ti vi thông minh, máy chiếu đa năng, máy tính, hệ thống âm thanh hiện đại, mạng Internet. Chính vì vậy mà việc ứng dụng, khai thác công nghệ thông tin vào dạy học là rất quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ thực tế này và là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Tiếng anh cấp THCS tôi có mong muốn giúp học sinh không còn cảm giác sợ học môn Tiếng anh cũng như mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp trong lĩnh vực tạo hứng thú học cho học sinh tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tiếng anh” làm sáng kiến kinh nghiệm cho mình. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: Từ bao đời nay việc dạy học theo phương pháp truyền thống đã trở thành thói quen trong mỗi tiết học của chúng ta. Đó là phương pháp giảng dạy một chiều. Nghĩa là phương pháp này lấy trung tâm là giáo viên, còn học sinh là khách thể, là quỹ đạo xung quanh. Giáo viên là người phát huy hết khả năng của mình để chiếm lĩnh thời gian trên lớp, còn học sinh thì thu mình lại một cách quá khiêm tốn. Giáo viên là người thuyết trình, diễn giải kho tàng tri thức còn học sinh chủ yếu lắng nghe, ghi chép và học thuộc lòng rồi tái tạo lại. Số ít học sinh có thái độ học tập tích cực, coi bài giảng của thầy cô chỉ là một phần kiến thức cần có, chỉ là định hướng chứ không phải là nguồn kiến thức duy nhất. Với phương pháp giảng dạy một chiều như hiện nay thì kiến thức, kỹ năng học sinh lĩnh hội được là tương đối chuẩn mực, đảm bảo được các chuẩn kỹ năng, kiến thức của bộ môn. Song nhược điểm của cách dạy truyền thống là học sinh dễ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, ít phát triển tư duy một cách độc lập và sáng tạo, giờ học cũng buồn tẻ và kiến thức chỉ thiên về lý thuyết. 3 Bởi vì không có nhiều cơ hội thực hành, nên học sinh khó có thể áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Vậy phương pháp truyền thống này chỉ áp dụng được đối với nhiều môn học lý thuyết, còn đối với môn ngoại ngữ như Tiếng anh thì cần phải thực hành nhuần nhuyễn và phải áp dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn. Số lượng giáo viên Tiếng anh ở một số nhà trường còn ít. Đa số giáo viên dạy tiếng Anh là người Việt, họ được đào tạo dưới nhiều hình thức trong nước, nên không có nhiều cơ hội để thực hành tiếng trong môi trường có người bản xứ. Kiến thức thực tế về đất nước, phong tục tập quán, văn hoá… của ngôn ngữ đó còn rất hạn chế. Khả năng tiếp thu, cập nhật kiến thức mới, phương pháp mới thông qua hệ thống mạng Internet cũng còn hạn chế. Vì vậy quá trình dạy ngoại ngữ trên lớp qua nhiều thế hệ hầu như không có sự đổi mới, không còn phù hợp. Số lượng học sinh nắm được phương pháp học tiếng Anh hiệu quả thì không nhiều, họ không biết làm thế nào để tăng cường vốn từ vựng, luyện nghe như thế nào để nghe hiểu được người Anh nói, cách sử dụng từ điển ra sao, … .Như vậy rõ ràng người học cần được chỉ rõ không những con đường đi mà còn cả cách đi nhằm đáp ứng mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chính vì điều kiện như thế mà việc tìm một giải pháp thuận lợi cho giáo viên và học sinh phát huy tối đa hiệu quả của các thiết bị hiện đại như máy tính, mạng internet, điện thoại thông minh, ti vi thông minh…vào việc dạy và học tiếng Anh là hết sức quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng dạy và học. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: – Sáng kiến này có thể không hoàn toàn mới đối với một số người dạy nhưng nó góp phần hạn chế việc truyền thụ kiến thức một chiều; giúp học sinh trở nên đam mê, hứng thú học Tiếng anh; giúp học sinh chủ động, tích cực lĩnh hội kiến thức, kỹ năng để từ đó học sinh hoàn toàn tự tin khi tham gia các kì thi kiểm tra đánh giá cũng như đáp ứng nhu cầu hành trang kiến thức cho tương lai. – Sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả giáo viên Tiếng anh và học sinh ở cả 3 cấp học TH, THCS, THPT. – Điều kiện cần thiết là các trường học, giáo viên và học sinh cần phải có các trang thiết bị tối thiểu như: máy tính hoặc điện thoại thông minh có kết nối mạng internet. Ngoài ra, giáo viên và học sinh phải có khả năng sử dụng máy 4 tính và Internet một cách cơ bản. Có điều kiện này thì sáng kiến mới được áp dụng một cách hiệu quả. 2.1. Sử dụng ứng dụng trên https://gev.neocities.org/Scramblinator.html giúp giáo viên tạo ra bài tập sắp xếp các từ thành câu hoàn chỉnh. Bước 1: Truy cập trang https://gev.neocities.org/Scramblinator.html trên google Bước 2: Nhập các câu bạn muốn xáo trộn, mỗi câu trên một dòng riêng trong hộp bên dưới. Các tùy chọn mặc định được hiển thị bên dưới hộp đó; Khi nhấp vào ‘Thay đổi tùy chọn” (Change options) sẽ cho phép bạn thay đổi một số tùy chọn như: đánh số thứ tự câu, dấu câu, viết hoa đầu dòng , ….. 5 Bước 3: Nhấp chuột vào scramblinatorize ta được kết quả như hình bên dưới. 2.2. Sử dụng ứng dụng trên https://mp3cut.net/vi/ giúp giáo viên cắt bài nghe theo ý tưởng của mình. Bước 1 : Truy cập địa chỉ https://mp3cut.net/vi/ trên google Bước 2 : Mở tập tin và lấy bài nghe mà bạn cần cắt , ghép từ máy tính. 6 Bước 3: Dùng chuột kéo thanh ngang màu xanh (như hình dưới) đến vị trí cần cắt Bước 4: Dùng chuột nhấp vào « save » và cuối cùng tải « download » bài nghe 2.3. Sử dụng ứng dụng trên https://www.duolingo.com/learn giúp giáo viên và học sinh bổ sung tư liệu dạy và học môn tiếng anh. https://www.duolingo.com/learn là một trang web rất hay, làm cho người học trải nghiệm Duolingo như đang học với gia sư riêng. 7 Duolingo là một website tuyệt vời giúp học ngữ pháp và từ vựng hiệu quả. Cách dạy tiếng anh online ở đây sẽ được xây dựng thông qua trò chơi và một số câu đố tương tác. Thuận tiện tại website này là bạn có thể học trực tuyến hoặc chọn học trên ứng dụng di động. Ở Duolingo, những bài học được phân chia theo nhiều chủ đề khác nhau. Các chủ đề cực kỳ thân quen với đời sống giúp học sinh thuận lợi tiếp thu như: Thực phẩm, quần áo, gia đình,… Để chuyển sang chủ đề khác, người học sẽ phải hoàn tất những bài rà soát một cách chính xác nhất thông qua việc học lặp đi lặp lại những từ vựng, cụm từ. Đây cũng là cách tạo cơ hội cho người học đặt ra tiêu chí của riêng mình và tự theo dõi được quá trình học tập của mình. Sử dụng trang web https://www.duolingo.com/learn học sinh như được luyện thi các kỹ năng nghe , viết. Điều kỳ diệu là các em làm bài xong thì biết luôn kết quả đúng sai. 8 2.4. Sử dụng ứng dụng trên https://loigiaihay.com hoặc https://vietjack.com : Có nhiều tính năng ứng dụng và hoàn toàn miễn phí. – Dễ dàng học tập với đầy đủ các lớp học từ lớp 1 đến lớp 12 và các môn học trong sách giáo khoa và sách bài tập. Ứng dụng được thiết kế với đầy đủ các lớp học từ lớp 1 đến 12, thuận tiện cho rất nhiều bạn học sinh sử dụng. Bạn có thể lựa chọn lớp học hiện tại của mình hoặc các lớp khác để ôn tập, mở rộng kiến thức khi cần thiết. Ngoài ra các thầy cô giáo hay thậm chí cả bậc phụ huynh cũng đều có thể sử dụng học tập, tham khảo dễ dàng bằng cách truy cập https://loigiaihay.com/ 9 – Bài tập với lời giải hay, chi tiết và dễ hiểu. Các bài tập trong sách giáo khoa được giải đầy đủ, chi tiết, chính xác và dễ hiểu nhất giúp người dùng dễ dàng học tập và tìm kiếm. – Đa dạng về từ vựng, lý thuyết và cả bài tập cũng như các đề kiểm tra cho học sinh lựa chọn. 10 Từ vựng Lý thuyết 11 Các đề kiểm tra 2.5. Sử dụng ứng dụng trên https://elllo.org giúp học sinh học từ vựng (vocabulary), học ngữ pháp từ cơ bản đến nâng cao (Grammar), và nghe (listening) để làm bài tập liên quan và hoàn toàn miễn phí. Ưu điểm của Elllo.org là đa dạng bài tập về từ vựng và ngữ pháp cũng như các bài nghe đều có nội dung nghe(Script) và các bài tập liên quan(Quiz) rất hữu ích cho người học. 12 – Giáo viên có thể truy cập https://www.elllo.org miễn phí để lấy tư liệu dạy học hoặc hướng dẫn học sinh truy cập để tự luyện nghe làm bài tập và học ngữ pháp. 13 2.6. Học ngữ pháp thông qua trò chơi. *Game 1: Verb smash and Grammar smash là sự lựa chọn tuyệt vời cho bạn nếu bạn muốn ôn về các động từ và các thì trong tiếng anh. Bước 1: Vào app CH PLAY hoặc APP STORE trên điện thoại, sau đó tìm từ khóa “VERB SMASH” hoặc “GRAMMAR SMASH” và nhấn vào Cài đặt tải ứng dụng về điện thoại. 14 Bước 2: Sau khi tải xong, vào app nhấn play và bắt đầu chơi. Khi chơi bạn vuốt chữ lên ô trống.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: Có lẽ cũng không cần phải nói quá nhiều về sự ảnh hưởng và tầm quan trọng của tiếng Anh trong cuộc sống hiện đại ngày nay.Tiếng Anh còn được ví như tấm vé thông hành, là cầu nối và là chìa khoá vạn năng để giúp bạn đi từ thành công này đến thành công khác. Học một ngoại ngữ đồng nghĩa với việc học thêm về một nền văn hóa. Nếu các em là người yêu thích khám phá thế giới xung quanh, việc học Tiếng Anh sẽ cung cấp cho các em nhiều điều mới mẻ về nền văn hóa của các nước như Anh, Mỹ, Australia,…Đây đều là những quốc gia đã phát triển với bề dày lịch sử cộng thêm nền văn hóa đa màu sắc, làm cho Tiếng Anh càng trở nên phong phú và thú vị. Như các thầy cô đã biết, Tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất trên thế giới.Cũng bởi lẽ đó, rất nhiều tài liệu học tập hay của các tổ chức giáo dục, các trường đại học lớn đều được viết bằng tiếng Anh. Quá nửa số lượng trang web trên Internet cũng được viết bằng tiếng Anh, chẳng hạn như các trang báo, các công cụ, các dịch vụ toàn cầu trên mạng. Chỉ cần biết được ngôn ngữ này thôi là bạn đã có thể tiếp cận với nguồn thông tin vô tận này rồi. Đây là một trong những lợi ích lớn nhất cho thấy việc học tiếng Anh quan trọng như thế nào. Trước sự hội nhập của thế giới cùng với việc xâm nhập vào thị trường Việt Nam của các công ty nước ngoài, tầm quan trọng của tiếng Anh lại càng được thể hiện rõ. Nếu biết tiếng Anh, các em sẽ rất dễ được sắp xếp để làm việc với các đối tác nước ngoài, các mảng về quốc tế sau khi các em ra trường. Tầm quan trọng của tiếng Anh còn được thể hiện ở trong các mối quan hệ của các em. Đương nhiên rồi, biết tiếng Anh sẽ giúp các em trò chuyện, kết bạn với những người bạn, thầy, cô là người nước ngoài. Với xu hướng hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực kể cả lĩnh vực giáo dục đã đưa tiếng Anh lên một vị trí hết sức quan trọng. Vì vậy việc học tiếng Anh ở cấp THCS được học sinh, phụ huynh học sinh, giáo viên ngành giáo dục và cả nước đặc biệt quan tâm. Tiếng Anh trở thành một trong các môn chính yếu trong chương trình học của các em. Việc học và sử dụng tiếng Anh đòi hỏi cả một quá trình luyện tập cần cù sáng tạo của cả người học lẫn người dạy. Đặc biệt trong tình hình cải cách giáo dục như hiện nay, dạy tiếng Anh theo quan điểm giao tiếp được nhiều người ủng hộ.Theo phương pháp này học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với bạn bè, với giáo viên để rèn luyện ngôn ngữ, chủ động tích cực tham gia vào các tình huống thực tế: Học đi đôi với thực hành. Chương trình tiếng Anh mới bậc THCS đã được triển khai thực hiện trên toàn quốc. Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình này là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết trên những chủ đề và tình huống hay nội dung giao tiếp có liên quan đến môi trường sống trong và ngoài nước. Sự thay đổi trên tạo điều kiện cho việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ thông trở thành việc dạy sinh ngữ thay vì là dạy từ ngữ như nhiều năm trước đây. Chúng ta đang nói nhiều đến thời đại công nghiệp 4.0 và những tác động mạnh mẽ của nó tới mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Giáo dục cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng rõ nét ấy. Giáo dục 4.0 là nền giáo dục được sinh ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu thị trường nền công nghiệp 4.0 và đổi mới là một yêu cầu tất yếu. Trong lộ trình thay đổi sách giáo khoa để phục vụ cho mục tiêu giáo dục trong thời đại mới, đổi mới nội dung và đặc biệt và phương pháp dạy học, cách tiếp cận bài giảng cũng là một trong những viên gạch nhỏ đặt nền móng vững chãi cho sự đổi mới ấy. Để đáp ứng được sự thay đổi của chương trình giáo dục mới, trong đó có môn tiếng Anh, bản thân mỗi giáo viên phải tự trau dồi chuyên môn và tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Khác với việc dạy học theo định hướng nội dung, dạy học theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học đòi hỏi các giáo viên phải khơi dậy sự hứng thú, say mê của mỗi học sinh trong từng tiết dạy để các em dần dần lĩnh hội kiến thức một cách tự nhiên nhất. Hoạt động khởi động trước khi vào bài là yếu tố đầu tiên dẫn các em vào “đường dây cảm xúc” của tiết học để các em say mê khám phá. Đây là hoạt động tuy chiếm thời lượng không nhiều nhưng đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp các em phấn chấn, thích thú, tập trung tối đa cho bài học. Trên thực tế, nếu làm tốt hoạt động khởi động sẽ cùng lúc thực hiện được nhiều mục đích khác nhau như ổn định lớp, kiểm tra bài cũ và sự chuẩn bị bài của học sinh và quan trọng hơn cả là tạo một tâm thế hứng khởi nhất để thầy và trò cùng chinh phục những tri thức trong bài học. Tuy vậy vẫn còn không ít giáo viên chưa thực sự thấy được ý nghĩa của hoạt động này và do áp lực thời gian nên thường bỏ qua hoặc thực hiện sơ sài. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động này tôi mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề này qua đề tài “Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học tiếng Anh cấp THCS”. Đây cũng là lý do tôi chọn đề tài này. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT: II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông từ lớp 3 đến lớp 12. Là một trong những môn học công cụ ở trường phổ thông, môn tiếng Anh không chỉ giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh mà còn góp phần hình thành và phát triển các năng lực chung, để sống và làm việc hiệu quả hơn, để học tập tốt các môn học khác cũng như để học tập suốt đời. Môn tiếng Anh cung cấp cho học sinh một công cụ giao tiếp quốc tế quan trọng, giúp các em trao đổi thông tin, tri thức khoa học và kỹ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hoá, qua đó góp phần tạo dựng sự hiểu biết giữa các dân tộc, hình thành ý thức công dân toàn cầu, góp phần vào việc phát triển phẩm chất và năng lực cá nhân. Thông qua việc học tiếng Anh và tìm hiểu các nền văn hóa khác nhau, học sinh có thể hiểu rõ hơn, thêm yêu ngôn ngữ và nền văn hóa của dân tộc mình. Những năm gần đây, chúng ta đã thực hiện thành công bước đầu việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như các đồng nghiệp trên địa bàn, tôi nhận thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động tiếp cận và phát triển các năng lực của học sinh còn nhiều chuyện tiếp tục phải suy nghĩ, trăn trở…Vì thế để có giờ dạy tiếng Anh tốt theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên phải vất vả hơn nhiều trong việc thiết kế và tổ chức giờ dạy. Mỗi giáo viên chúng ta không ai muốn mình chỉ có một giờ dạy tốt, mà ai cũng muốn rằng tất cả các giờ lên lớp của mình đều thành công và đó là một sự cố gắng rất lớn. Chính giáo viên phải thực sự chủ động, sáng tạo thì mới có thể khơi dậy được sự hoạt động tích cực, sáng tạo của mọi học sinh trong lớp. Bởi vì mỗi bài học được lựa chọn đưa vào chương trình học đều thể hiện mục tiêu chung của bộ môn, thể hiện được ý đồ người biên soạn. Mỗi cá nhân học sinh lại là một chủ thể tiếp nhận cá biệt. Hoạt động dạyhọc tiếng Anh không chỉ là hoạt động lĩnh hội kiến thức mà còn rèn luyện kiến thức ngôn ngữ và kỹ năng ngôn ngữ cho các em. Các em biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tế sinh động; phát triển các năng lực chung và các năng lực đặc thù của bộ môn. Những năng lực này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới theo 5 bước: Khởi động, Hình thành kiến thức, Luyện tập, Vận dụng, Tìm tòi mở rộng. Trong đó hoạt động khởi động đóng vai trò quan trọng trong giờ học. Nó là hoạt động khởi đầu nên có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết học. Nếu tổ chức tốt hoạt động này sẽ tạo ra một tâm lý hưng phấn, tự nhiên để lôi kéo học sinh vào giờ học. Hơn nữa, nếu càng đa dạng thì sẽ luôn tạo nên những bất ngờ thú vị cho học sinh. Vì thế người học sẽ không còn cảm giác mệt mỏi, nhàm chán, nặng nề, lo lắng như khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Các em sẽ được thoải mái tham gia vào hoạt động học tập mà không hề hay biết. Nó như phần nhạc dạo của một ca khúc góp phần định hướng thái độ hát như: nhiệt tình sôi nổi hay sâu lắng thiết tha vì thế giờ học cũng bớt sự căng thẳng khô khan. …Nhưng thực tế dạy học lại cho thấy rất nhiều giáo viên khó kiếm tìm được một cách khởi động để cho tiết học sinh động, hấp dẫn hoặc có tổ chức nhưng hiệu quả không cao do hình thức tổ chức nhàm chán, rời rạc, năng về kiến thức… Bởi thế tôi đã rất trăn trở để tìm ra những hình thức tổ chức hoạt động này có hiệu quả nhất, thiết thực, gần gũi nhất với nội dung bài học và mạnh dạn nêu lên: “Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học tiếng Anh cấp THCS” Trong nhiều năm qua, tôi được Ban giám hiệu phân công trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh từ khối 6 đến khối 9, xuyên suốt từ chương trình cũ đến chương trình mới nên có nhiều thuận lợi cho việc thực hiện đề tài “Một số hình thức của Hoạt động khởi động trong dạy học tiếng Anh cấp THCS” cho học sinh tại nhà trường. Bên cạnh đó, môn tiếng Anh cũng được nhà trường, phụ huynh học sinh quan tâm đầu tư về cơ sở hạ tầng. Có phòng học tiếng Anh riêng biệt, với đầy đủ các thiết bị hiện đại phục vụ cho các hoạt động dạy và học như: máy chiếu, ti vi, máy tính có kết nối Internet và hệ thống âm thanh chất lượng. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi giúp tôi thực hiện được đề tài này. Với những năm thực tế giảng dạy, từ những lớp học sinh đã qua tôi nhận thấy rằng: KHỞI ĐỘNG BẮT ĐẦU GIỜ HỌC – HÃY LÀM ĐIỀU GÌ ĐÓ KHÁC ĐI “Nếu bạn đánh mất học sinh trong 5 phút đầu tiên, thì 40 phút còn lại bạn chỉ làm một việc là kéo chúng lại” Bạn thường bắt đầu giờ học của mình như thế nào? Bạn đứng trước lớp và khép hai chân hình chữ V, tay trái đặt lên lòng bàn tay phải, nở một nụ cười và bắt đầu một bài giảng theo cách thông thường với cách đặt vấn đề theo cách của bạn. Đúng, bạn chẳng có gì sai cả, và điều bạn làm là đúng. Nhưng tôi nghĩ rằng, điều đó còn chưa đủ, vì chặng hành trình của công việc học tập này còn phải hướng đến một đối tượng quan trọng khác là học sinh. Khi bạn làm như vậy, bạn giới thiệu bài học theo logic của bạn, nhưng học sinh thì không cảm nhận được điều đó. Chúng cảm thấy chán nản ngay từ những giây phút đầu tiên, hoặc có nhiều học sinh không dám phản ứng và tỏ thái độ nhưng tâm trí chúng thì đã vượt ra ngoài không gian lớp học để ngao du đến một miền tưởng tượng nào xa xăm. Và thế là, mặc dù học sinh có mặt cùng chúng ta trong lớp học nhưng chúng không hề “hiện diện trọn vẹn” rằng “thân thể ở trong lao nhưng mà tinh thần ở ngoài lao”. Và chẳng nói thì thầy cô cũng hiểu rằng, việc học chỉ là cuộc đối thoại nhàm tẻ giữa giáo viên và chính họ, đó là một cuộc đối thoại nội tâm, là một chương trình phát thanh mà khán giả chẳng muốn để tâm. Thế nên hoạt động khởi động xuất hiện trong giáo án của các thầy cô chính là vì những lí do như vậy đó. II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay tiếng Anh ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực. Vì vậy nhu cầu học tiếng Anh đang không ngừng gia tăng, nhưng nó vẫn là một trong những môn học khó đối với học sinh, đặc biệt đối với học sinh vùng khó khăn. Mục tiêu của môn tiếng Anh là nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những kiến thức kỹ năng cơ bản về tiếng Anh và những phẩm chất trí tuệ cần thiết để tiếp tục học lên cao hoặc có thể áp dụng được vào cuộc sống. Tuy nhiên, đa số học sinh rất ngại khi học bởi vì hầu hết các em không có môi trường giao tiếp, kiến thức và vốn từ còn hạn chế. Các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết còn chậm. Trước đây các em học theo kiểu thụ động, chủ yếu tập trung vào những điểm ngữ pháp, cấu trúc câu. Đa số các em còn phụ thuộc vào đáp án có sẵn trong sách giải hoặc chờ giáo viên viết sẵn để chép vào vở. Các em chưa thực sự tập trung hết sức mình để viết bài. Do đó tiết học viết trở nên nhàm chán, hiệu quả kém. Vậy làm thế nào để gây hứng thú học tập cho các em đối với một tiết học tiếng Anh ngay từ những phút đầu tiên? Đó là câu hỏi luôn trăn trở đặt ra trong suy nghĩ của mỗi khi soạn bài, tiến hành các bước lên lớp. Qua nhiều năm giảng dạy, nghiên cứu tài liệu, dự giờ, học tập kinh nghiệm của các đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng việc gây hứng thú tích cực học tập cho các em phần lớn phụ thuộc vào các thủ thuật, phương pháp dạy học cũng như cách thức tổ chức các hoạt động lên lớp của giáo viên. Trong hoạt động dạy học, phần khởi động “Warm up” đóng vai trò vô cùng quan trọng, mặc dù nó chỉ chiếm một thời gian rất ngắn so với toàn bộ một tiết học. Nhưng hoạt động này thường bị giáo viên bỏ qua, cho là không quan trọng, không cần thiết, hoặc có một số giáo viên không biết cách đổi mới hình thức “Warm up” sao cho hấp dẫn, cuốn hút học sinh, giúp học sinh chuẩn bị tâm lí, kiến thức cho bài mới. Warm-up cho giờ học tiếng Anh hiệu quả sẽ giúp các bạn bước vào bài học tiếng Anh một cách thoải mái, tự nhiên và tràn đầy háo hức nhất. Học tiếng Anh với niềm yêu thích và vui vẻ, giúp hiểu sâu nội dung bài học cũng như tăng thêm hứng thú lâu dài khi học ngôn ngữ này. Một giờ học tiếng Anh sẽ thực sự hiệu quả nếu giáo viên biết cách làm cho bài học trở nên sinh động, thú vị và lôi cuốn được học viên, học sinh của mình, đặc biệt là với các học sinh hiếu động tiểu học. Một trong những điều đầu tiên người giáo viên có thể làm là chuấn bị thật tốt cho hoạt động “warmup” (khởi động). Trên thực tế, một giờ học có thực sự hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn vào việc người học đã được “warm-up” như thế nào. Trong thời gian và phạm vi giới hạn, tôi mong muốn đề tài thể hiện rõ một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động trong dạy học tiếng Anh có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy bộ môn tiếng Anh trong nhà trường THCS. Cũng qua đề tài này, tôi muốn cụ thể hoá một số hình thức tổ chức khởi động cho từng bài học như sau: 1. Xác định mục tiêu khởi động Việc thay đổi hình thức khởi động từ việc chỉ dùng một vài câu để dẫn dắt vào bài thay bằng việc tổ chức khởi động thành một hoạt động để học sinh được tham gia trực tiếp giải quyết vấn đề khởi động; Hoạt động khởi động phải xác định rõ mục tiêu cần đạt, phương pháp và kỹ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao cho học sinh trong hoạt động khởi động cần kiểm kê lại kiến thức của học sinh (xem học sinh đã có được kiến thức gì liên quan đến bài học), tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh vào phần hình thành kiến thức mới. 2. Kỹ thuật cơ bản xây dựng hoạt động khởi động Với phương pháp dạy học truyền thống, khởi động chỉ bằng một vài câu dẫn nhập nên không mất nhiều thời gian. Với phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, khởi động cần tổ chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều hơn. Vì vậy khi xây dựng kịch bản cho hoạt động khởi động, giáo viên cần lưu ý không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội dung mang tính chất minh họa mà cần cụ thể: sử dụng nội dung bài học để khởi động, sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp giáo viên biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết. Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được. Khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có hứng thú tìm hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu học tập một cách chủ động và tích cực của các em. Khi áp dụng tổ chức hoạt động Khởi động cho tất cả các tiết học ở các lớp thì người giáo viên nên lưu ý: Kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng 1 tình huống cố định dùng chung cho tất cả các lớp trong cùng một khối. Phương án xây dựng tình huống khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm chán cho học sinh khi tiết học nào cũng tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn lại lên” với các bước tuần tự như nhau. 3. Một số hình thức tổ chức hoạt động Khởi động cụ thể Trong tiến trình lên lớp của phương pháp dạy học truyền thống: trước khi bắt đầu một bài giảng, giáo viên sẽ làm một việc quen thuộc là hỏi bài cũ để từ đó xâu nối kiến thức bài trước với bài sau hoặc để tạo không khí thân thiện, cởi mở đơn giản là việc hỏi thăm sức khỏe một cách dí dỏm, kể một câu chuyện hài hước ngắn gọn…chung quy là cần làm được một việc: cười!… Làm thế sẽ giảm phần nào những áp lực học tập, kéo học sinh tập trung vào bài học một cách linh hoạt. Đến phương pháp dạy học phát triển năng lực, phẩm chất học sinh, mỗi giờ dạy của giáo viên không còn nặng về trang bị kiến thức, kĩ năng cho học sinh mà hướng đến mục tiêu dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động Khởi động bằng trò chơi có những thuận lợi: Phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn, gây hứng thú cho học sinh, giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới, giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau. Trò chơi còn là hoạt động được các học sinh thích thú tham gia. Vì vậy nó có khả năng lôi kéo sự chú ý và khơi dậy được hứng thú học tập. Rất nhiều trò chơi ngoài mục đích đó còn có thể ôn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trò chơi giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực tâm lý do tiết học trước gây ra. Theo Tiến sĩ Ngô Thị Thu DungGiám đốc điều hành Trung tâm nghiên cứu phát triển giáo dục cộng đồng (Trường ĐH GD-ĐHQG Hà Nội): “Trò chơi là một hình thức giao tiếp bạn bè, phát triển tốt các năng lực giao tiếp, trò chơi đồng thời là một phương tiện mà thông qua đó học sinh có thể giao tiếp với nhau một cách tự nhiên và dễ dàng hơn”” Mục đích của việc tổ chức trò chơi là nhằm lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục một cách tự nhiên và tăng cường tính trách nhiệm; hình thành cho học sinh tác phong nhanh nhẹn, phát huy tính sáng tạo cũng như tăng cường sự thân thiện, hòa đồng giữa các học sinh, tạo hứng thú xua tan căng thẳng mệt mỏi trong quá trình học tập và giúp cho việc học tập trở nên nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, hàn lâm, nhàm chán… Một số trò chơi quen thuộc có thể sử dụng trong hoạt động Khởi động 3.1.Trò chơi 1: Sử dụng video clips Sử dụng âm thanh, hình ảnh kết hợp với các dạng bài tập như trắc nghiệm, trả lời câu hỏi, .….. cho các hình ảnh có trong clips tạo hiệu quả rất cao trong việc dẫn dắt vào một bài dạy. Cách này kích thích sự sáng tạo của học sinh và sự tập trung của học sinh, các em học sinh sẽ có tâm thế tốt để bước vào một tiết học mà không thấy nhàm chán và căng thẳng. Ví dụ: Unit 3: Peoples of Việt Nam – Reading/ English 9 Cho học sinh xem một Video về dân tộc Thái và trả lời một số câu hỏi sau: 1. Where do the Thai people live? 2. What is their population? 3. What do they do for their living?
3.2. Trò chơi 2: Sử dụng game: “Lucky number” Đây là một phương tiện trợ giúp học sinh giải trí, tạo không khí vui vẻ, tâm lý thoải mái, sảng khoái, bớt phần căng thẳng, giúp học sinh có những phút giây thư giãn. Ngoài ra còn giúp học sinh mở rộng vốn từ vựng, củng cố ngữ pháp và rèn luyện các kỹ năng thông qua các hoạt động ngôn ngữ một cách phong phú và hiệu quả. Ví dụ: Unit 8: Sports and Games – Acloser look 2/ English 6 (Tìm dạng quá khứ của một số động từ) Number 2,7,10, 13 are Lucky number Các ô khác là một số động từ. Học sinh phải đưa ra đúng dạng quá khứ đơn của các động từ ấy. 1. go – ……. 3. see – …….. 4. eat – …………… 5. visit – ………………. 6. do- ……….. 8. be – …………….. 9. have -………. 11. play – ………….. 12. watch – ……………. 3.3. Trò chơi 3: Trò chơi: “Đuổi hình bắt chữ” Đây là một trò chơi vô cùng thú vị đối với các em học sinh nhất là với các em học sinh lớp 6. Các em được xem các đoạn video ngắn hoặc những bức tranh sau nói ra được những nội dung có liên quan. Hoạt động này sẽ lôi cuốn được các em vào các hoạt động học tập một cách say mê và tập trung cao độ. Ví dụ: Unit 7: Television- getting started/ English 7 Cho học sinh xem những đoạn video ngắn về một số chương trình truyền hình. Các em xem và đưa đúng tên của các chương trình đó. What programme is it? (The Voice kids) Cartoon (Tom and Jerry) The Lion King (animated film) ( News) (Films) 3.4.Trò chơi 4: Who’s faster? Sử dụng tranh ảnh. Trong tiếng Anh có câu “a picture is worth as a thousand words” (Một bức tranh đáng giá bằng ngàn lời nói) cho ta thấy được tầm quan trọng và hiệu quả truyền tải thông điệp của các bức tranh. Vậy nên, bạn hãy tận dụng triệt để điểm mạnh đó, bởi tranh ảnh sẽ làm cho bài học của bạn trở nên sinh động hơn, giúp cho học viên tham gia bài học một cách say sưa, thích thú hơn. Phương pháp trực quan không phải là phương pháp mới trong dạy học nhưng nó vô cùng quan trọng. Nó góp phần vào sự thành công của giáo viên trong một giờ dạy. Trong giáo cụ trực quan thì hình ảnh không thể thiếu đặc biệt trong lớp học ngoại ngữ. Hình ảnh minh hoạ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách rõ ràng và khắc sâu trong trí nhớ của các em. Ví dụ: Unit 5: Natural wonders of Viet Nam – getting started/ English 6 Các em xem tranh và nhanh tay đoán xem: What naturat wonder is it?
( Một số cảnh đẹp ở Việt Nam) 3.5.Trò chơi 5: Phương pháp Brainstorming Phương pháp này giúp người học thoát khỏi tư duy theo lối mòn và tạo ra các ý tưởng và sau đó có thể lựa chọn. Phương pháp này giúp người học chuyển từ trạng thái thụ động sang chủ động, từ việc nghe giảng sang hoạt động tư duy, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm và kích thích khả năng sáng tạo của các em. Ví dụ: Unit 1: My school- Getting started/ English 6 3.6.Trò chơi 6: Chain Fairytale Đây là trò chơi dùng để rèn luyện kĩ năng viết. Mỗi người chuẩn bị một tờ giấy trong đó có ghi sẵn 1 hoặc 2 câu mở đầu cho 1 câu chuyện cổ tích. Ví dụ: Unitt 6: Folk Tales – Skills 2/ English 8 Continue the story: “Once upon a time there was a little girl called Little Red. She lived in a wood. One day she went to visit her grandmother…..” Sau đó tờ giấy này sẽ được chuyển đến người tiếp theo để phát triển câu chuyện. Mỗi người có 1 phút để hoàn thành. Sau 5 phút, chúng ta sẽ có nhiều câu chuyện rất thú vị. Giáo viên sẽ đọc lần lượt một số câu chuyện cho cả lớp nghe. Chắc chắn sẽ có những câu chuyện cổ tích phi logic và vì thế mang tính hài hước rất cao. Đây cũng là cơ hội cho giáo viên sửa các lỗi về ngữ pháp và chính tả cho học sinh của mình. 3.7. Trò chơi 7: Who am I? Ví dụ: Unit: Unit 12: My future career- Acloser look 1/ English 9 Ở trò chơi này, giáo viên sẽ chuẩn bị một cơ số thẻ tương ứng với số học sinh trong lớp. Trên mỗi thẻ sẽ ghi tên một tên nghề nghiệp. Giáo viên sẽ dán lần lượt từng thẻ này vào lưng của mỗi học sinh. Các học sinh sẽ phải đi xung quanh lớp để hỏi các thông tin liên quan đến mình, dựa vào đó để đoán xem mình là làm nghề gì ? Khi đã biết mình là ai, học sinh được phép bóc thẻ ghi tên mình ở lưng và dán lại vào ngực mình. Sau đó học sinh tiếp tục cuộc nói cho đến khi tất cả dán được thẻ ghi tên nghề nghiêp vào trước ngực. 3.8. Trò chơi 8: Broken Telephone Đây là trò chơi rèn luyện kĩ năng nghe và phát âm. Giáo viên sẽ phải viết ra một câu hoặc một cụm từ nào đó rồi gọi một học viên nhí lên và cho xem. Sau đó học viên này sẽ về và nói thầm với người bên cạnh mình câu đó hoặc cụm từ đó. Trong quá trình nói, mỗi người chơi chỉ được phép 1 lần đề nghị bạn chơi nhắc lại câu hoặc cụm từ vừa nói ra. Cứ thế cho đến người cuối cùng, người này có nhiệm vụ nói to câu đó lên. Kết thúc trò chơi câu nói ban đầu sẽ bị “tam sao thất bản” rất thú vị. Ví dụ: (Unit 10: My houses in the future – A closer look 2/ English 6) Nếu câu nói đầu tiên là “My future house will be on the ocean. It will be surrounded by the blue sea”, sau nhiều vòng thầm thì sẽ bị tam sao thành rất nhiều các thông tin khác nhau. 3.9.Trò chơi 9: Đọc truyện Các mẩu chuyện, nếu có nội dung thú vị và được kể lại một cách chuyên nghiệp, sẽ thu hút được sự chăm chú của phần lớn học sinh. Do vậy, trước khi cho học sinh bước vào bài học, bạn nên đọc thật chậm cho học sinh của mình nghe một mẩu chuyện ngắn có nội dung đơn giản, dễ hiểu. Sau đó, bạn có thể đặt ra một vài câu hỏi liên quan tới nội dung mẩu chuyện để học sinh trả lời. Hoặc bạn có thể chỉ kể một phần của câu chuyện thôi, sau đó để học sinh của bạn thảo luận và tự đưa ra phần kết của mẩu chuyện. Điều này sẽ làm cho học sinh của bạn cảm thấy rất hứng thú với bài học vì họ được nêu lên ý kiến của riêng họ. Đặc biệt là với những học sinh hơi yếu kém trong việc sử dụng tiếng Anh, họ sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên và vui sướng vì họ có thể hiểu được một câu chuyện bằng tiếng Anh. Từ đó, các em sẽ có động lực hơn để cố gắng học tập. Ví dụ: Unit 6: Folk Tales – Getting started/ English 8 ? Listen to the story and guess? What happened to the end of the story? What is the moral of it? “Once a farmer lived a comfortable life with his family. His chickens laid many eggs which the farmer used to buy food and clothing for his family. One day, he went to collect the eggs and discovered one of the chickens laid a gold egg. He shouted excitedly to his wife, “We are rich! We are rich!” His wife ran to him and they both looked at the egg in amazement. The wife wanted more, so her husband decided to cut open all the chickens and find more gold eggs. …………………………………………..” And the end: All of their chickens were dead. And no more gold eggs. And the moral of it: Don’t be greetdy! 3.10. Trò chơi 10: “Remembering pictures” Giáo viên chia học sinh thành 3 hoặc 4 đội để chơi. Giáo viên lựa chọn một vài bức tranh liên quan đến các từ vựng đã học; sau đó, giáo viên đưa lần lượt các bức tranh này lên cho các nhóm xem trong khoảng 4-5 giây. Từng thành viên trong mỗi đội phải chạy lên bục để viết ra những từ vựng này. (Lưu ý, mỗi thành viên chỉ được viết 1 từ vựng). => Đội nào có nhiều câu trả lời chính xác nhất và thời gian hoàn thành nhanh hơn sẽ là đội chiến thắng. Ví dụ: Unit 5: Food and drink – Acloser look 1 / English 7 (Global success) 3.11.Trò chơi 11: “Hot Seat” Giáo viên chia học sinh thành 3 hoặc 4 đội để chơi. Giáo viên chọn 1 thành viên trong mỗi đội để ngồi lên ghế nóng và quay mặt về dưới lớp, trong lúc đó giáo viên sẽ viết một từ vựng lên bảng. Các thành viên trong đội đang ngồi phía bên dưới phải cố gắng diễn tả sao cho đồng đội của mình biết đó là từ gì, mà không nói, đánh vần hay ra ký hiệu. => Các thành viên trong từng đội sẽ lần lượt thay phiên nhau để ngồi vào chiếc ghế nóng, đội nào đoán đúng được nhiều từ nhất sẽ là đội chiến thắng. Ví dụ: Unit 6: Visit to a Schoool – Skills 2 / English 7 (Global success) ? What outdoor activities do they take part in? 3.12. Trò chơi 12: “Warm up song” Ví dụ: Unit 2: My house- Acloser look 2/ English 6 (Global success) Cho học sinh nghe bài hát về giới từ và yêu cầu học sinh tìm các giới từ có trong bài hát. Sau đó giáo viên giới thiệu thêm một số giới từ mà các em chưa biết, chưa phát hiện ra. Làm như vậy học sinh sẽ rất hứng thú để bắt đầu bài học mới và chắc chắn hiệu quả của tiết học sẽ tốt hơn rất nhiều. 3.13.Trò chơi 13: “Simon says” Giáo viên đứng trước lớp và đóng vai Simon. Giáo viên nói “Simon says” kèm theo một hành động mô tả câu nói này. Tuy nhiên, giáo viên có thể làm hành động khác với điều mình nói. Học sinh lắng nghe và diễn tả lại hành động giáo viên mà “nói” chứ không phải hành động giáo viên “mô tả”. Học sinh nào diễn tả sai sẽ là người thua cuộc. Ví dụ: Unit 3: My friends – Getting started/ English 6 (Global success) Để giúp học sinh nhớ được các từ vựng về “ Body parts” giáo viên cho học sinh chơi trò này để lôi cuốn các em vào bài học một cách hấp dẫn nhẹ nhàng. “ DO AS I SAY, NOT DO AS I DO” 3.14. Trò chơi 14: “Jumping games” Học sinh đứng thành một hàng ngang ở trên bục giảng. Giáo viên là sẽ đọc danh sách các câu, từ liên quan đến những cấu trúc ngữ pháp đã dạy trước đó. Học sinh quyết định câu, từ giáo viên vừa đọc là đúng để nhảy lên phía trước hoặc sai để nhảy ngược về phía sau. Học sinh nào nhảy sai sẽ bị loại ra khỏi hàng. Ví dụ: Unit 7: Trafic- Acloser look 1/ English 7 (Global seccess) Right or Wrong? – Drive a car – Ride a boat – Sail a bike – Go on foot – Travel by air 3.15. Trò chơi 15: “Facing game” Học sinh sẽ ngồi thành hình vòng tròn và giáo viên sẽ đưa ra một chủ đề cụ thể. Học sinh có vài giây để đọc to một từ hay cụm từ liên quan đến chủ đề này. Nếu học sinh nào không thể đưa ra câu trả lời của mình, bạn đó sẽ bị loại và trò chơi sẽ tiếp tục. => Người chiến thắng sẽ là học sinh duy nhất còn lại. Ví dụ: Unit 1: Hobbies – Acloser look 2/ English 7 (Global success) Giáo viên đưa ra chủ đề: The present simple Yêu cầu học sinh đưa ra các thông tin họăc các câu liên quan đến chủ đề. Sts 1: I go to school everyday Sts 2: I, you, we, they, danh từ số nhiều -> Vinf Sts 3: She, he, it, danh từ số ít -> Vs/Ves Sts 4: always, usually, often, sometimes, never… Sts 5: with verds ending in “o, ch, s, x, gh…” -> Ves Sts 6: She doesn’t have brother. Sts 7: talk about the present habits Sts 8: ………………………………………………………………. 3.16. Trò chơi 16: Chơi với hoạt động thể chất. Học sinh sẽ rất thích các hoạt động tướng tác bằng thể chất. Vì thế, giáo viên hoàn toàn có thể tổ chức các hoạt động khởi động của lớp mình với hoạt động như tập thể dục, hát và nhảy theo nhạc để vừa khuyến khích học sinh thực hiện các chuyển động theo mẫu, vừa khuấy động tinh thần trước giờ học. Ví
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Lý do chọn đề tài Trong thời kỳ hội nhập và với xu thế toàn cầu hóa hiện nay, tiếng Anh được xem là ngôn ngữ sử dụng phổ biến nhất thế giới khi mà có gần 60 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng mẹ đẻ và gần 100 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Chính vì vậy, các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng luôn quan tâm chú trọng đầu tư cho lĩnh vực này. Tiếng Anh chính là một trong những công cụ hữu hiệu, đóng vai trò to lớn trong việc giúp bạn bè năm châu hiểu được tiếng nói của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Hiện nay tiếng Anh đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong các nhà trường từ cấp tiểu học trở đi.Trên thực tế các em đều yêu thích môn học, tự giác tích cực học tập tốt môn tiếng Anh. Mặc dù Tiếng Anh là môn học mới lạ dễ thu hút sự chú ý của học sinh dựa trên hệ thống chủ điểm (themes) và chủ đề (topics) thú vị, hấp dẫn và gần gũi với đời sống hàng ngày của các em. Tuy nhiên ở lứa tuổi học sinh, năng lực nhận thức của các em được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở tư duy cụ thể.Các em chưa có khả năng nắm bắt ngôn ngữ một cách hệ thống và phân tích ngôn ngữ một cách có ý thức, các em không có được sự tập trung lâu, dễ bị nhàm chán. Do vậy, phương pháp giảng dạy của giáo viên là yếu tố quyết định, là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Để có một tiết học Tiếng Anh có chất lượng tốt, tạo cho học trò một sự hứng khởi khi tiếp thu bài học thì người giáo viên giảng dạy phải thực sự có những phương pháp độc đáo, hấp dẫn. Phương pháp dạy học là một trong những thành tố quan trọng nhất của quá trình dạy học. Cùng với việc đổi mới chương trình và SGK, nếu không có một PPDH phù hợp thì việc đổi mới sẽ khó có thể đồng bộ để phát huy năng lực, khả năng chủ động và xu thế phát triển toàn diện người học trong nhà trường. Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhu cầu thiết thực đang được đặt ra. Việc đổi mới phương pháp dạy học có liên quan chặt chẽ tới việc tạo ra động lực học cho học sinh.Động lực học tiếng Anh rõ ràng có vai trò đáng kể dẫn đến thành công hay thất bại của người học. Khi nói về động lực (motivation), chúng ta thường hiểu là một điều gì đó lớn lao? Không hẳn như vậy. Động lực có thể đến từ một thứ gì đó vô cùng nhỏ bé, nhưng lại tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ bên trong mỗi con người, có thể không giống nhau ở những lứa tuổi khác nhau. 3 Đối với giáo viên, khi đã hiểu được động lực học tiếng Anh, giáo viên có thể tận dụng tốt các cơ hội để khơi dậy, khuyến khích, động viên hay tạo áp lực hợp lý để thúc đẩy người học, giúp họ đạt được mục tiêu học tập.Theo Zoltan Dorney (1998), “nếu không có đủ động lực, những cá nhân dù có năng lực nổi bật nhất cũng không thể hoàn thành một mục tiêu dài hạn, và dù việc giảng dạy hay chương trình có tốt đến đâu cũng không thể giúp học sinh đó đạt được mục tiêu cuối cùng”. – Có hai loại động lực là nội động lực và ngoại động lực: + Nội động lực (intrinsic motivation) đề cập đến các hành vi ứng xử được thúc đẩy bởi khao khát bên trong mỗi con người. Đó có thể là mong muốn chinh phụ thử thách ngôn ngữ, đó có thể là sự yêu mến tiếng Anh, đó có thể là công việc – làm việc cho các công ty nước ngoài với mức lương cao, là học bổng du học, … + Trong khi đó ngoại động lực (extrinsic motivation) là áp lực từ bên ngoài. Chẳng hạn từ các kỳ thi, thầy cô giáo, từ cha mẹ, … Nếu xét về tầm quan trọng cũng như mức độ ảnh hưởng của hai loại động lực nêu trên, nội động lực có sức tác động mạnh mẽ hơn nhiều so với ngoại động lực.Với nội động lực, một người sẽ liên tục được thôi thúc hành động với nỗ lực lớn để hoàn thành mục tiêu, bất kể thời gian hay khó khăn và thử thách.Trong khi ngoại động lực, nếu không sử dụng một cách hợp lý, có thể dẫn tới hành động chống đối và hiển nhiên kết quả sẽ không thực sự như mong đợi.Mặc dù vậy, sử dụng ngoại động lực một cách vừa phải và hợp lý chắc chắn cũng sẽ có tác động tích cực nhất định đến quá trình học tập. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn tiếng Anh, tôi nhận thấy để có thể góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung thì người giáo viên cần có những phương pháp dạy học linh hoạt, đa dạng giúp tạo động lực, niềm say mê tiếng Anh cho chính người học. Đó chính là lý do mà tôi đã chọn đề tài “Một số phương pháp gây hứng thú cho học sinh trong tiết học tiếng Anh 6 – Global Success”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài này chính là nhằm cung cấp một số giải pháp mà bản thân tôi đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy giúp thay đổi không khí trong tiết học, làm cho các bài học bớt căng thẳng và dễ hiểu hơn, giúp người học dễ nhớ và tiếp thu kiến thức một cách sâu sắc và đặc biệt góp phần vào hoàn thành mục tiêu chung là nâng cao chất lượng giáo dục. Đồng thời tôi cũng mong nhận được 4 sự đóng góp, ý kiến xây dựng của các đồng nghiệp để tôi có thể trau dồi cho mình những phương pháp hiệu quả nhất giúp góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn tiếng Anh. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối6 Trường THCS Phúc Thắng. Học sinh khối 6 trường THCS Nghĩa Lợi. Học sinh khối 6 trường THCS Nam Giang 4. Phạm vi nghiên cứu Năm học: 2021- 2022 Phạm vi nghiên cứu: học sinh khối 6 trường THCS Phúc Thắng, trường THCS Nghĩa Lợi và trường THCS Nam Giang. 5. Cơ sở nghiên cứu Tôi nghiên cứu đề tài này dựa trên những cơ sở sau: – Kiến thức học được từ các lớp bồi dưỡng và nâng cao phương pháp giảng dạy do SGD và ĐT phối hợp với Hội đồng Anh tại Việt Nam tổ chức. – Đọc tài liệu: Nghiên cứu thu thập các tài liệu có liên quan đến phương pháp gây hứng thú cho học sinh trong mỗi tiết học tiếng Anh. – Điều tra: + Dự giờ: dự giờ các giáo viên trong trường và theo cụm trường. + Thực nghiệm: thực nghiệm qua các bài dạy trên lớp, áp dụng một số thủ thuật trong mỗi tiết dạy, tự đánh giá hiệu quả của các thủ thuật đó và rút kinh nghiệm. – Đàm thoại: thảo luận, đóng góp ý kiến cùng với các đồng nghiệp về những khó khăn gặp phải trong quá trình giảng dạy. – Kiểm tra: qua kết quả kiểm tra chất lượng định kì của trường, phòng và sở để đánh giá hiệu quả của các phương pháp giảng dạy và điều chỉnh cho phù hợp. – Kinh nghiệm thực tế qua các năm giảng dạy. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: THỰC TRẠNG: Những thuận lợi: 5 – Cùng với xu hướng phát triển chung của thời đại, Tiếng Anh đã trở thành một môn học không thể thiếu trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập. Với trường THCS Phúc Thắng, môn học Tiếng Anh luôn được nhà trường quan tâm, tạo điều kiện học tập tốt nhất.Các bậc phụ huynh và các em học sinh cũng rất đầu tư và coi trọng môn học.Chính vì vậy, các em luôn có thái độ học tập tích cực đối với môn học. – Sở GDĐT và PGDĐT luôn quan tâm và thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn, hội thảo, lớp học bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ sư phạm, phương pháp giảng dạy cho giáo viên tiếng Anh trong toàn tỉnh nên giáo viên luôn được cập nhập những phương pháp dạy học mới, tích cực góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Những khó khăn: Các phương pháp dạy học ngày nay không ngừng thay đổi nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, xem học sinh là chủ thể của quá trình dạy học và giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động học của học sinh. Tuy nhiên qua quan sát và tìm hiểu việc áp dụng những đổi mới về phương pháp dạy học, bản thân tôi nhận thấy những tồn tại có từ 2 phía giáo viên và học sinh như sau: – Về phía giáo viên: + Một số giáo viên chưa hiểu rõ các vấn đề liên quan đến phương pháp dạy học, và tầm quan trọng của việc sử dụng các phương pháp để tạo hứng thú học tập cho học sinh, cũng như ưu và nhược điểm của từng phương pháp dạy học. + Phần lớn giáo viên có hứng thú với các phương pháp dạy học tích cực nhưng chỉ sử dụng các phương pháp dạy học này mang tính hình thức, chủ yếu là trong các tiết thao giảng, thi giáo viên giỏi. + Giáo viên vẫn còn lúng túng khi sử dụng, kết hợp chưa nhuần nhuyễn, hợp lí, khoa học các phương pháp dạy học tích cực. + Phân phối chương trình với quỹ thời gian có hạn nên giáo viên ít có điều kiện mở rộng bài học cũng như tiến hành các trò chơi để tạo không khí sôi động. + Khả năng tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học của giáo viên còn nhiều hạn chế. – Về phía học sinh: 6 + Các em học sinh lớp 6 mới thay đổi cấp học nên còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè, đang tập thích nghi với môi trường, hình thức học tập ở môi trường cấp 2. + Một số học sinh chưa thật sự yêu thích môn học, cũng như chưa nắm được mục đích đúng đắn của việc học Tiếng Anh và học với hình thức đối phó. + Học sinh chưa mạnh dạn ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp hàng ngày. + Điều kiện học tập, tài liệu, phương tiện tự học còn thiếu thốn. + Môi trường giao tiếp, thực hành tiếng Anh đối với cả giáo viên và học sinh hầu như không có. Từ những vấn đề trên, tôi đã tiến hành khảo sát để tìm hiểu rõ thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học, cũng như sẽ đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các phương pháp dạy học để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Anh. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Trong quá trình học, học sinh sẽ đạt được kết quả cao nếu như các em xác định được động cơ học tập của mình.Đối với học sinh THCS, động cơ học tập sẽ có được khi các em cảm thấy có hứng thú đối với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình qua mỗi tiết học.Khi ấy, trách nhiệm của người giáo viên là rất lớn, họ phải có nhiều tâm huyết với nghề mới có thể đáp ứng được nhu cầu chính đáng của học sinh.Sau đây, tôi sẽ trình bày một vài phương pháp gây hứng thú cho học sinh trong tiết học Tiếng Anh 6 (Global Success) mà tôi tâm đắc và thường hay áp dụng. 2.1. Phương pháp gây hứng thú cho học sinh thông qua giáo cụ trực quan. Giáo cụ trực quan là công cụ đa năng được áp dụng trong hầu hết các môn học.Riêng với môn tiếng Anh, sử dụng giáo cụ trực quan sẽ làm cho giờ học trở nên sôi động, hấp dẫn và thú vị hơn, giúp học sinh tiếp thu kiến thức dễ dàng và nhanh chóng. Khác với phương pháp giảng dạy truyền thống, phương pháp giảng này giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian viết bảng, đồng nghĩa với việc có nhiều thời gian để giảng bài hơn, học sinh có thời gian để đưa ra câu hỏi, thực hành hoặc thảo luận. 7 Khi giáo cụ trực quan được đưa vào giờ học, học sinh sẽ có nhiều cách tiếp cận với kiến thức và kỹ năng: Nghe – nhìn – tương tác. Đồng thời, giáo cụ trực quan cũng sẽ cung cấp những ví dụ minh họa cụ thể, sinh động nhất, giúp học sinh không chỉ nhớ bài nhanh hơn mà còn duy trì được việc ghi nhớ hình ảnh đó trong một thời gian dài. * Các loại giáo cụ trực quan Giáo cụ trực quan trong giảng dạy tiếng Anh có thể chia làm ba loại: 1. Giáo cụ trực quan thị giác (giáo cụ “nhìn”), bao gồm: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, động tác của giáo viên; bảng viết; các đồ vật cụ thể; tranh ảnh, hình vẽ minh họa; tài liệu, sách giáo khoa, sách bài tập; sơ đồ, biểu đồ, tranh ảnh lớn; thẻ từ (Flashcard). 2. Giáo cụ trực quan thính giác (giáo cụ “nghe”): Gồm có loa, đài, đầu đĩa, đĩa CD, máy ghi âm, … 3. Giáo cụ trực quan tổng hợp như: Máy chiếu, phim ảnh, tivi, camera, bảng thông minh, phòng thực nghiệm ngôn ngữ, … Ngoài các giáo cụ trực quan có sẵn hay do giáo viên chuẩn bị, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tự chuẩn bị các công cụ nhằm phục vụ cho nội dung bài học. Giáo cụ trực quan rất đa dạng, nếu biết khai thác sẽ trở nên rất đơn giản dễ chuẩn bị nhưng lại có hiệu quả cao.Có nhiều loại giáo cụ trực quan, trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến những loại đồ dùng trực quan mà trong suốt quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng. Trước tiên tôi xin đề cập đến những phương tiện trực quan vốn có của người thầy đó là lời nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt của giáo viên. Xét về góc độ nào đó có người nói rằng người thầy chính là nhạc trưởng, bản nhạc có du dương trầm bổng hay không đều tùy thuộc vào người nhạc trưởng đó.Thật vậy cũng một câu nói như nhau, có khi người nói ra thì cảm thấy bình thường, có người khi nói ra khiến cho người nghe cảm thấy thích thú, có ấn tượng. Chính vì vậy, trong tiết dạy khi đứng trước học sinh lời nói của giáo viên phải rõ ràng, mạch lạc, diễn cảm, dứt khoát, giáo viên phải đứng ở một vị trí nhất định để cho cả lớp có thể nghe rõ lời của mình. Lời nói phải chuẩn mực, đơn giản và hấp dẫn, tốc độ nói vừa phải phù hợp với từng cấp độ học sinh. 8 Bên cạnh đó giáo viên cũng có thể sử dụng những cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để diễn đạt nội dung ngôn ngữ. Ví dụ 1: đưa bàn tay lên vành tai để diễn đạt nghĩa của từ “listen” hoặc đưa bàn tay ra trước nâng lên, hạ xuống để diễn tả ý nghĩa của từ “stand up, sit down”, … Hình 1: Giáo viên đưa bàn tay lên vành tai để diễn đạt nghĩa của từ “listen”. Ví dụ 2: khi dạy các từ chỉ hoạt động hay cảm xúc, GV dùng cử chỉ, nét mặt của mình để mô tả. Hình 2: Giáo viên dùng tay gõ lên cửa lớp để diễn tả nghĩa của từ “knock” – Unit 1 – English 6 (Global Success) Ngoài ra chúng ta cũng có thể sử dụng các đồ vật thật để phục vụ vào quá trình giảng dạy. Ví dụ: Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 1: My new school – Lesson 1: Getting started, Listen and read. • Để giới thiệu các từ mới: compass, calculator, school bag… giáo viên có thể sử dụng đồ dùng học tập com-pa, máy tính, cặp sách… của học sinh để giới thiệu bằng tiếng Anh rồi yêu cầu học sinh quan sát và lĩnh hội. • Sau đó giáo viên có thể củng cố bài học, kiểm tra từ mới của học sinh qua hoạt động “Show me your …!” [Show me your calculator! Show me your compass! ,…] và yêu cầu cả lớp cùng giơ đồ vật mà giáo viên yêu cầu lên. • Phương pháp này cho các em hứng thú học tập và sự tập trung cao vì các từ vựng mà giáo viên giới thiệu là những từ rất gần gũi đối với các em. 9 * Lưu ý khi sử dụng giáo cụ trực quan – Học sinh ở lứa tuổi khác nhau sẽ có phương pháp tư duy khác nhau, khả năng tiếp thu cũng khác nhau. Ví dụ: đối với học sinh lớp 6,7 những giáo cụ trực quan cần được thiết kế đơn giản, rõ ràng hơn, hoạt động cũng cần diễn ra chậm hơn. Trong khi đó, đối với học sinh lớp 8,9 hình ảnh đưa ra có thể nhiều và phức tạp hơn. Do vậy giáo viên cần nắm vững đặc điểm, tâm lý và khả năng tiếp thu của học sinh ở mọi lứa tuổi để thiết kế bài giảng phù hợp và hiệu quả nhất cho học sinh. – Để đảm bảo tính hiệu quả và tích cực của giờ dạy, việc chọn lựa các công cụ trực quan để đưa vào bài giảng được xem là một trong những nội dung quan trọng mà giáo viên cần thường xuyên nghiên cứu. Chẳng hạn, trong giờ dạy ngữ pháp, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh, sơ đồ, để minh họa cho các cấu trúc ngữ pháp.Tuy nhiên, nếu sử dụng thẻ từ trong giờ học này có thể là không cần thiết và không đạt được hiệu quả cao nhất của nội dung bài học. – Khi chuẩn bị các giáo cụ trực quan phục vụ cho giảng dạy, giáo viên phải đảm bảo học sinh ở bất cứ vị trí nào trong lớp đều có thể dễ dàng quan sát được các công cụ đó. – Ngoài sử dụng hình ảnh rõ ràng, việc sử dụng các màu sắc hợp lý cũng giúp làm tăng hiệu quả của các giáo cụ trực quan. Ngoài hai màu cơ bản là trắng và đen, giáo viên có thể kết hợp nhiều màu sắc khác nhau nhằm làm tăng sức hấp dẫn, lôi cuốn của các giáo cụ. Thực tế cho thấy, dụng cụ trực quan không chỉ giúp học sinh hiểu, ghi nhớ nội dung bài học dễ dàng và nhanh chóng mà còn khiến tiết học sẽ trở nên gần gũi, sinh động và hấp dẫn hơn. Để khai thác triệt để các đặc điểm và ưu thế của công cụ trực quan, giáo viên cần đầu tư thời gian, công sức và tâm huyết để chuẩn bị được những thiết bị, đồ 10 dùng trực quan đảm bảo nội dung, phù hợp với bài giảng và đạt chất lượng tốt nhất. Bên cạnh đó, các thầy cô cũng cần thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm để cập nhật và đổi mới phương pháp giảng dạy, sao cho phù hợp với yêu cầu đổi mới tình hình dạy và học hiện nay ở Việt Nam. 2.2 Phương pháp thúc đẩy động cơ học tập của học sinh: Như chúng ta đã biết, học sinh chỉ có được động cơ học tập khi các em cảm thấy hứng thú đối với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình. Do vậy, giáo viên còn phải biết khích lệ, động viên, thúc đẩy các em trong học tập. Để giúp các em nhận thấy được sự tiến bộ trong học tập, giáo viên cần phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học, tránh không nên đưa ra những yêu cầu quá cao đối với học sinh. Ngoài ra, giáo viên cần khuyến khích học sinh học theo phương châm thử nghiệm và chấp nhận mắc lỗi trong quá trình thực hành. Thực tế cho thấy, có những học sinh biết nhưng không dám nói vì sợ bị mắc lỗi. Một số em khác ngại đưa tay phát biểu vì sợ nói sai bị các bạn cười. Theo tôi, đây chính là yếu tố tâm lý mà giáo viên dạy ngoại ngữ cần phải xem xét để giúp các em có được hứng thú học tập hay ít ra là tích cực hơn trong các giờ học. Trong quá trình dạy, giáo viên không nên quá khắt khe với những lỗi mà học sinh mắc phải (Ví dụ: lỗi phát âm, lỗi chính tả, thậm chí là lỗi ngữ pháp) để tránh cho các em tâm lý sợ mắc lỗi khi thực hành. Ví dụ: Trong khi thực hành, học sinh nói: He play football hoặc I has a rubber, … Chúng ta không nên vội ngắt lời khi các em mắc lỗi, giáo viên có thể để cho học sinh trả lời xong, giáo viên khích lệ hay cổ vũ các em bằng những câu như: “Very good”, “Thank you” hoặc “Not bad”, Sau đó giáo viên gọi học sinh khác nhận xét và sửa lỗi cho bạn hoặc giáo viên sửa lỗi để tránh làm cho các em nhụt chí hay mất hứng thú luyện tập. 2.3. Phương pháp gây hứng thú cho học sinh thông qua các trò chơi. Qua quá trình thực tế dạy và học, tôi nhận thấy rằng việc lồng ghép trò chơi ngôn ngữ vào một tiết học ngoại ngữ là rất cần thiết.Một giờ ngoại ngữ sẽ rất khô khan nếu như chúng ta không biết làm mềm hóa giờ học đó. Người học sẽ cảm thấy mệt mỏi, khó tiếp thu nếu giáo viên không biết tổ chức giờ học một 11 cách sôi động, linh hoạt. Những trò chơi ngôn ngữ được lồng ghép vào các giai đoạn dạy học trong một tiết học đúng lúc, đúng chỗ, đúng mục đích thì sự tiếp thu của người học sẽ tăng hiệu quả gấp nhiều lần, sẽ giúp cho tiết học thành công hơn. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh rất hứng thú với các trò chơi ngôn ngữ mà tôi đưa ra. Những trò chơi ở đây không phải là trò chơi đơn giản mang tính chất giải trí mà còn là một sân chơi bổ ích thu hút được tất cả các đối tượng mà ở đó học sinh có cơ hội sử dụng ngôn ngữ một cách tự nhiên, không phải gò ép, nặng nề. Như vậy, điều đó hoàn toàn không phải là những trò chơi tốn thời gian vô ích mà ngược lại, sân chơi đó tạo điều kiện để học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học rèn luyện như tổ chức những trò chơi ghi điểm, phân loại thắng thua trong các tổ, nhóm học sinh, tạo không khí thi đua lành mạnh, tạo lập thói quen và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ với sự hỗ trợ tích cực của ý thức, tránh tình trạng rèn luyện máy móc, xa thực tế. Muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả thì đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầusau: + Trò chơi phải thể hiện mục tiêu bài học hoặc một phần của mục tiêu bàihọc. + Các trò chơi phải giúp học sinh rèn luyện những kỹ năng Tiếng Anhnhằmphát huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo của học sinh. + Trò chơi phải phù hợp với quỹ thời gian sử dụng trong tiết học (từ 3- 5 – 7 phút thích hợp với môi trường học tập). + Trò chơi phải có sức hấp dẫn, đa dạng, thu hút được sự tham gia của họcsinh tạo không khí vui vẻ thoải mái. + Trò chơi phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh. + Hoạt động trò chơi được ứng dụng vào những lúc kiểm tra bài cũ, hoạtđộng học tập trong tiết học hoặc củng cố bài, củng cố từ và mẫu câu. Các bước thực hiện trò chơi học tập: Khi xây dựng trò chơi học tập đạt hiệu quả cần phải tuân thủ các bướcsau: Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi. Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau: – Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội tham gia(mấy đội chơi), quản trò, trọng tài. – Các dụng cụ dùng để chơi (giấy khổ to, quân bài, thẻ từ, cờ…) 12 – Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gianchơi, những điều người chơi không được làm… – Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi. Bước 3: Thực hiện trò chơi. Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi… Bước này bao gồm những việc làm sau: – Giáo viên hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi củatừng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm. + Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phầnthưởng cho đội đoạt giải. + Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thểhiện. Việc sử dụng các trò chơi trong giảng dạy ngoại ngữ nhằm tạo cho học sinh có hứng thú trong học tập đối với môn học. Vì vậy, giáo viên cần phải biết vận dụng các trò chơi trong các bài dạy nhằm giúp cho học sinh “học mà chơi, chơi mà học”, bảo đảm an toàn, đoàn kết, vui vẻ thật sự cho học sinh khi tham gia. Và giáo viên nên lưu ý: tùy vào từng nội dung bài học cụ thể mà giáo viên có thể chọn ra trò chơi phù hợp với mục đích của bài. Có nhiều trò chơi có thể được áp dụng trong giảng dạy nhưng ở đây tôi chỉ muốn giới thiệu vài trò đơn giản và dễ dàng thực hiện, đó là: a) Trò chơi: Pass the ball. – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, luyện ngữ pháp, cấu trúc câu và kỹ năng nói tiếng Anh. – Số lượng người tham gia: Cả lớp – Chuẩn bị: 1 quả bóng + loa + 1 bài hát. – Thời gian: 5 – 7 phút. Ví dụ: Khi dạy English 6 (Global Success): Unit 10: Our houses in the future – Lesson 3 – A closer look 2 – Grammar – Task 5– Thực hành cấu trúc với “Might + V – Might for future posibility” – “Think about what you might do or have in the future? Share your ideas with your classmates.” Giáo viên có thể lồng ghép trò chơi như sau: • Bước 1: Thực hành cấu trúc với “Might + V” – “Might for future posibility” – “Think about what you might do or have in the future? GV cho học sinh làm việc cá nhân để chuẩn bị trong khoảng thời gian 3 phút. 13 • Bước 2: GV yêu cầu học sinh “Share your ideas with your classmates.” bằng cách cho học sinh chơi trò chơi “Pass the ball”. Luật chơi:Khi giáo viên bắt đầu mở bài hát, học sinh bắt đầu truyền quả bóng đi. Khi nhạc dừng, học sinh nào đang giữ quả bóng sẽ phải đặt một câu sử dụng cấu trúc “might + V” để nói về những việc mà học sinh đó có thể làm hoặc cái mà những học sinh đó có thể có trong tương lai. Yêu cầu: nội dung không trùng lặp với các học sinh trước và ai làm quả bóng rơi khỏi đường truyền cũng phải đặt được một câu có “migh + V”.Học sinh thường rất hào hứng và tích cực chuẩn bị cho trò chơi này vì không khí lớp học sẽ rất sôi nổi và không thể dự đoán trước ai sẽ là người sẽ đứng lên đọc bài vì thế giáo viên có thể kiểm tra bao quát cả lớp. b) Trò chơi “Guessing games”: – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, luyện ngữ pháp, cấu trúc câu và kỹ năng nói tiếng Anh, khả năng quan sát. – Số lượng người tham gia: Cả lớp – Chuẩn bị: Tranh, ảnh (nếu cần) – Thời gian: 5 – 7 phút. Ví dụ: Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 3 – “My friends” – Lesson 1 – Getting started – Listen and Read, Task 5 – giáo viên có thể lồng ghép trò chơi hỏi đoán như sau: Sau khi học sinh được học cách mô tả hình dáng bên ngoài của các nhân vật, giáo viên mời một học sinh lên bảng và ghi tên của một bạn trong lớp (hoặc có thể trong tranh, ảnh) mà em học sinh này muốn miêu tả vào một mảnh giấy mà không cho các bạn ngồi dưới biết. Sau đó, giáo viên cho học sinh tả bằng tiếng Anh và yêu cầu các học sinh ngồi dưới đoán xem bạn đó là ai. Ví dụ:This girl is tall and thin. She has a round face. She has long black hair. Who’s she? Các em đưa tay phát biểu ý kiến, nếu em nào đoán đúng thì được vinh dự lên thay thế bạn trên bảng và được giáo viên khuyến khích bằng cách cộng điểm thi đua … c) Trò chơi “Whisper” – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, luyện trí nhớ, khả năng nghe và phát âm. 14 – Số lượng người tham gia: Cả lớp – Chuẩn bị: các mẫu câu hoặc cụm từ. – Thời gian: 5 – 7 phút. – Các bước thực hiện chung: • Học sinh được chia thành các nhóm khoảng 5-10 em xếp thành hàng dọc, • Đại diện mỗi nhóm sẽ nhận được một mẫu giấy có chứa mẫu câu cần thực hành và tiến hành nói thầm câu cho những người tiếp theo. Cứ như thế lần lượt chuyền mẫu câu đó cho đến người cuối cùng sẽ nhanh chóng chạy lên bảng và viết lại mẫu câu. • Đội nào có đáp án trả lời chính xác nhất sẽ là đội chiến thắng. • Trò chơi lại tiếp tục với những câu khác cho đến khi hết số câu mà giáo viên cần kiểm tra hoặc hết thời gian mà giáo viên quy định thì trò chơi dừng lại. • Giáo viên tổng kết điểm và thông báo nhóm thắng cuộc. Ví dụ:Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 10 – “Our houses in the future” – Lesson 1 – Getting started – Listen and Read – Task 4 ➢ Giáo viên có thể lồng ghép trò chơi “Whisper” để giúp học sinh lưu ý vềcác giới từ “in, on, at đi kèm các địa điểm” được sử dụng nhiều trong Unit 10 như sau: – GV chuẩn bị một số mẫu câu cần kiểm tra: • My house won’t be in space in the future. • Phong’s house will be in the sea. • Her future house will be in the moutains. • Nick might have a villa on the Moon in the future. • Will your future house be in the sky? – GV chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm gồm 5 em đứng thành một hàng dọc và lần lượt thực hiện theo các bước như trên. d) Trò chơi: Tongue Twisters – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, luyện trí nhớ, khả năng nghe và phát âm. – Số lượng người tham gia: Cả lớp. – Thời gian: 5 – 7 phút. – Các bước thực hiện chung: 15 • Trò chơi này thường được áp dụng vào bài luyện âm, gọi là câu “trẹo lưỡi”. • Giáo viên chuẩn bị một cụm từ, hoặc một đến hai câu tiếng Anh trong đó có hầu hết các từ chứa âm cần luyện trong bài học (có thể sắp xếp theo mức độ từ đơn giản đến khó hơn để cho học sinh thực hành) • Nên viết lại cụm hoặc câu đó lên bảng hoặc trình chiếu trên màn hình ti vi/ máy chiếu cho học sinh thấy. • Giáo viên đọc mẫu câu đó hoặc mở băng (nếu có thể) cho học sinh nghe mẫu. • Đại diện các nhóm sẽ đứng lên đọc lại câu “trẹo lưỡi” đó. Nhóm nào nhắc lại chính xác nhất sẽ thắng. Ví dụ:Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 6 – Our Tet Holiday – A closer look 1 pronunciation – Phân biệt 2 âm /s/ và /ʃ/ ➢ Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc bài Tongue Twisters dưới đây. Chắc chắn bài Tongue Twisters này sẽ mang lại nhiều tiếng cười cho các em học sinh và đồng thời cũng tạo một thử thách nhỏ giúp các em có động lực chinh phục bài Tongue Twisters này: “She sells seashells on the seashore The shells she sells are seashells, I’m sure So if she sells seashells on the seashore Then I’m sure she sells seashore shells.” e) Trò chơi: Kim’s game – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, luyện trí nhớ, khả năng quan sát. – Số lượng người tham gia: Cả lớp. – Thời gian: 5 – 7 phút. – Các bước thực hiện chung: • Chia lớp ra thành các nhóm. • Cho học sinh xem xét các đồ vật, tranh vẽ, hoặc các từ trong một khoảng thời gian ngắn. Yêu cầu học sinh không viết mà chỉ ghi nhớ. • Cất các đồ vật, tranh vẽ, tắt màn hình máy chiếu/ Ti vihoặc xóa từ đi. • Học sinh thảo luận để viết lại tên các đồ vật, tranh vẽ hoặc các từ vừa xem. 16 • Gọi đại diện các nhóm lên bảng viết lại tên các đồ vật, tranh vẽ hoặc các từ vừa xem. Nhóm nào nhớ được nhiều nhất thì thắng. Ví dụ: Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 2: My house – Looking back– Vocabulary –phần Warm-up ➢ Giáo viên có thể cho học sinh chơi trò chơi Kim’s Gameđể kiểm tra từvựng mà học sinh đã học ở bài học trước như sau: – Chia học sinh thành 4 nhóm. – Yêu cầu: học sinh quan sát tranh trên màn hình ti vi/ máy chiếu trong 20 giây/ 30 giây (không được sử dụng giấy, bút để viết)và liệt kê tên các đồ vật xuất hiện trên màn hình. Sau đó các nhóm sẽ có 3 phút để thảo luận và lên bảng ghi lại kết quả của mình. Nhóm nào có nhiều đáp án đúng sẽ là đội chiến thắng. Hình 3: Ảnh chụp màn hình Powerpoint trình chiếu cho học sinh trong phần Warm-up của tiết Looking back – Unit 2: My house. f, Trò chơi: Pronunciation Jouney Đây là một trò chơi rất hấp dẫn và hiệu quả, thường xuyên được sử dụng trong các tiết học về phát âm của tôi, học sinh rất hào hứng với trò chơi này. – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, khả năng nghe, nhìn, luyện phát âm (học sinh sẽ nghe thấy sự khác biệt giữa hai âm –> phát âm được hai âm phân biệt chính xác –> nhận diện được từng âm riêng biệt) – Số lượng người tham gia: Cả lớp, theo nhóm/ theo cặp – Thời gian: 7 – 10 phút. – Các bước thực hiện chung: 17 • Chỉnh sửa ô bên trái/ phải của bản đồ bên dưới để phù hợp với các âm đang dạy trong bài học. Hình 4: Pronunciation Map (Nguồn: Google Images) Lưu ý:Giáo viên nên chọn ” minimal pairs” – những cặp từ chỉ khác nhau một yếu tố âm vị học, có thể là nguyên âm/ phụ âm. Học sinh/ những người học tiếng Anh thường hay nhầm lẫn khi phát âm các cặp từ này vì chúng có cách phát âm tương đối giống nhau. Ví dụ:light – right, pen – pan • Trình chiếu bản đồ đã chỉnh sửa cho học sinh qua ti vi/ máy chiếu hoặc phát bản photo. • Hướng sự chú ý của học sinh đến 2 ô bên dưới cùng, hỏi học sinh những gì họ có thể nhìn thấy trong 2 ô, khơi gợi học sinh đó là những cặp “minimal pairs”. Giáo viên đọc các từ lần lượt trong từng ô và yêu cầu học sinh chú ý lắng nghe. Shangha
i nan 4 3
Chongqing
Guangzhou
Shenzhen
Tianjin
Xi’
an 4
Nanjing
Hangzhou
4
Chengdu
Harbin 4
Changsha Shenyang Ji’ Kunming Hainan Beijing 4
4 3
4
4 3 3 2 2 1 Left: ①fever ②feel ③see ④week Right: ①favor ②fail ③say ④wake Pronunciation Map Wuha n 18 • Giáo viên dẫn dắt học sinh ” Would you like to go on a journey?” và nói với học sinh rằng chúng ta sẽ đến một thành phố bí mật và học sinh sẽ đến đó bằng cách sử dụng các từ cho bên trái và bên phải. • Tại mỗi điểm trong số 4 bước ngoặt, học sinh cần rẽ trái/ phải tùy thuộc vào từ nào trong số 2 từ mà học sinh nghe được. • Giáo viên làm mẫu hoạt động trước lớp: Ví dụ: Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 8: Sports and Games – A closer look 1– Pronunciation – phần Pratice sounds /e/ and /æ/, giáo viên có thể làm mẫu cho học sinh như sau: Hình 5:Pronunciation Journey được sử dụng trong Unit 8: Sports and Games – A closer look 1– Pronunciation – phần Pratice sounds /e/ and /æ/ “Ok. Everybody, you’re in Nam Dinh. Can you see it? Now, I’m going to guide you to my secret city. Are you ready?” Number 1: – man, man Which way will you have to turn? [right] Number 2: end, end Number 3: guess, guess Number 4: bad, bad => SA PA 19 – Đối với học sinh khá, giỏi, GV có thể chỉ cần làm mẫu 1 hoặc 2 ví dụ.Tuy nhiên, đối với học sinh đại trà, yếu kém thì GV cần lấy nhiều ví dụ hơn để giúp học sinh hiểu trò chơi.Lần đầu giáo viên có thể phải dành nhiều thời gian để hướng dẫn học sinh nhưng chắc chắn sau khi hiểu luật chơi, học sinh có thể tham gia trò chơi một cách dễ dàng. g, Trò chơi: Đối mặt – Facing Game – Mục đích: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt, luyện ngữ pháp, cấu trúc câu và kỹ năng nói tiếng Anh. – Số lượng người tham gia: Cả lớp. – Thời gian: 5 – 7 phút. – Các bước thực hiện chung: • Trò chơi này dựa trên gameshow truyền hình. Học sinh đứng theo vòng tròn. • Giáo viên chọn một chủ đề nhất định và mỗi học sinh sẽ có vài giây để đọc to một từ hay cụm từ liên quan đến chủ đề đã chọn. • Nếu em nào không thể đưa ra câu trả lời của mình, em đó sẽ bị loại và trò chơi sẽ tiếp tục. • Người thắng cuộc sẽ là em học sinh duy nhất còn lại. ➢ Trò chơi này phù hợp để sử dụng trong giảng dạy từ vựng. Ví dụ: Khi dạy English 6 (Global Success) – Unit 7: Television – A closer look 1– phần Vocabulary, giáo viên có thể cho học sinh tham gia trò chơi Facing Gamevới chủ đề “Name the different TV programmes”. * Lưu ý khi áp dụng những trò chơi vào giảng dạy tiếng Anh: – Trong quá trình áp dụng với các trò chơi quen thuộc, cần có những biện pháp thay đổi hay cải biên phù hợp với từng bài học và với từng đối tượng học sinh để tránh nhàm chán. – Giáo viên cần chú trọng việc lựa chọn những trò chơi phù hợp với trình độ học sinh. Trò chơi sẽ trở nên khó thực hiện nếu những yêu cầu, hay chủ đề của nó không phù hợp hoặc nằm ngoài khả năng của học sinh và tạo sự chán nản.Khi đó những trò chơi sẽ không mang lại lợi ích cho cả người dạy lẫn người học.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN 1. Lý do chọn sáng kiến Trong những năm gần đây giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển lớn từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Vì thế, đổi mới về nội dung, chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh được Bộ Giáo dục – Đào tạo xem là giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục trong giai đoạn tới. Năm học 2017- 2018 là giai đoạn quan trọng khởi đầu của lộ trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục. Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho rằng việc đổi mới về giáo dục phù hợp với quy luật nhận thức của loài người, quy luật phát triển của khoa học và sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Đây là thời điểm tạo nên động lực, điều kiện để mỗi giáo viên tích cực tự học, tự bồi dưỡng, nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng với mục tiêu Giáo dục nhằm hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh theo yêu cầu của xã hội trong thời đại mới. Từ nhiều năm qua, nhiều trường học đã đưa nội dung hoạt động trải nghiệm vào giảng dạy cho học sinh dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh ở môi trường trung học cơ sở, đáp ứng được mục tiêu giáo dục cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của học sinh, các trường trung học cơ sở đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột giáo dục của UNESCO thế kỉ XXI, đó là: “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh đã được xác định là một trong những nội dung cơ bản của Nhà trường và được đội ngũ giáo viên lồng ghép tích hợp vào các môn học trong đó có bộ môn Mĩ thuật. Trên tinh thần đó, việc dạy học không chỉ phải thực hiện nhiệm vụ, trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết về môn dạy, mà điều có ý nghĩa to lớn còn ở chỗ dần dần hình thành và rèn luyện cho học sinh tính tích cực, độc lập 2 sáng tạo trong quá trình học tập, để học sinh có thể chủ động, tự lực, tự đào tạo, tự hoàn thiện tri thức trong các hoạt động thực tiễn, hoạt động trải nghiệm sau này. Do đó, việc thiết kế những nội dung dạy học cụ thể, nhằm tạo môi trường để tư duy nhận thức của học sinh được hoạt động tích cực là rất cần thiết, từ đó phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh. Hoạt động trải nghiệm Mĩ thuật có vai trò hết sức quan trọng, cần thiết và góp phần vào việc hình thành, phát triển năng lực thẩm mỹ và các năng lực khác cho mỗi học sinh. Thực tiễn cho thấy, hoạt động trải nghiệm Mĩ thuật đề cao những hoạt động của cá nhân trên cơ sở hợp tác tập thể, bên cạnh sự thúc đẩy, hỗ trợ của giáo viên; từ đó hướng đến sự hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực cho học sinh. Nghiên cứu xây dựng mô hình hoạt động trải nghiệm Mĩ thuật nhằm đáp ứng mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục thẩm mỹ nói riêng. Ý nghĩa to lớn là vậy nhưng vẫn còn một số tồn tại như môn học vẫn chưa được đặt đúng vị trí của bộ môn. Chưa thực hiện đúng như yêu cầu hoặc có những khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất… Là một giáo viên Mĩ thuật nhiều năm giảng dạy bậc THCS, tôi nhận thấy tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cũng như thực tiễn của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm Mĩ thuật sẽ hỗ trợ các em học các môn khác tốt hơn,dễ dàng hơn, giúp các em gần gũi, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, tự hào những truyền thống của quê hương và từ đó có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường xung quanh. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy sự cần thiết phải xây dựng hoạt động trải nghiệm Mĩ thuật, hoạt động trải nghiệm giúp cho học sinh phát triển một cách toàn diện nhằm khơi gợi niềm đam mê, hứng thú cho học sinh không chỉ với bộ môn Mĩ thuật và góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhận thức thẩm mỹ cho học sinh thông qua đề tài: “Phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học môn Mĩ thuật cho học sinh THCS thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo” từ đó định hướng cho các em hình thành 5 phẩm chất và phát triển 10 năng lực cốt lõi trong chương trình giáo dục tổng thể. 3 2. Mục đích nghiên cứu Nhằm thay đổi cách tổ chức dạy học truyền thống từ các phương pháp cũ sang hình thức tổ chức mới nhằm phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú trong mỗi tiết học. Tìm ra các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp mô hình dạy học môn mĩ thuật bậc trung học cơ sở: Giúp học sinh tiếp tục hình thành, phát triển năng lực mĩ thuật dựa trên nền tảng kiến thức, kĩ năng mĩ thuật thông qua các hoạt động thảo luận, thực hành, trải nghiệm; phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; có ý thức kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá, nghệ thuật truyền thống dân tộc, tiếp cận giá trị thẩm mĩ của thời đại, làm nền tảng cho việc phát triển các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; có hiểu biết về mối quan hệ giữa mĩ thuật với đời sống, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ và tình yêu nghệ thuật, phát triển năng lực tự chủ và tự học, có ý thức định hướng nghề nghiệp sau khi kết thúc cấp học. Sáng kiến “Phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học môn Mĩ thuật cho học sinh thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo” góp phần nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên và học sinh. Với giáo viên sẽ sử dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học đặc biệt, giúp xây dựng một môi trường học tập thoải mái, hứng thú cho học sinh. Với học sinh sẽ hứng thú khi được trải nghiệm thực tế qua hình thức tổ chức ở trên lớp, ở ngoài không gian lớp học, từ đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, tích cực, tiếp thu nhanh và ghi nhớ lâu hơn, sản phẩm sẽ chất lượng hơn… Chất lượng bộ môn Mĩ thuật nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung được nâng cao. Đồng thời đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu: “Phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học môn Mĩ thuật cho học sinh THCS thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo” – Nghiên cứu về sự đổi mới phương pháp dạy học mỹ thuật phổ thông trong giai đoạn hiện nay. 4 – Phạm vi nghiên cứu: Sáng kiến được nghiên cứu đối với học sinh lớp 6 và áp dụng đối với học sinh lớp 6,7,8,9 bậc THCS tại trường THCS Hải Anh, huyện Hải Hậu. – Thời gian nghiên cứu: 02 năm từ tháng 9/2020 đến tháng 5/2022 4. Phương pháp nghiên cứu Là một sáng kiến thuộc phạm trù khoa học giáo dục tôi lựa chọn các phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Tôi sử dụng phương pháp này vào việc nghiên cứu toàn bộ các tài liệu liên quan đến sáng kiến, tìm kiếm tư liệu, sưu tầm tư liệu, tổng hợp tư liệu. Nghiên cứu những thành tựu lí thuyết đã có làm cơ sở lí luận. Phương pháp quan sát sư phạm: Phương pháp này được vận dụng để quan sát trực tiếp quá trình làm việc của học sinh, đánh giá sản phẩm học tập của học sinh trong tiết dạy hoặc trong các đợt kiểm tra. Phương pháp điều tra, khảo sát: Phương pháp này được sử dụng để điều tra thực trạng trong việc học tập môn Mĩ Thuật khối 6 trường THCS Hải Anh. Phương pháp thực nghiệm: Dùng để trải nghiệm thực tế không gian ngoài lớp học, trải nghiệm việc sử dụng Video clip trong dạy học Mĩ thuật ngay tại lớp học, trải nghiệm ngoài không gian lớp học, câu lạc bộ, các hình thức vẽ tranh tập thể, triển lãm tranh với các phương pháp dạy học và hình thức học tập khác nhau ở các lớp từ đó thống kê, tổng hợp và rút ra hiệu quả trong dạy học. Phương pháp thống kê, tổng hợp: Dùng để phân tích số liệu, so sánh kết quả trước khi áp dụng và sau khi áp dụng sáng kiến. Phương pháp so sánh minh chứng: So sánh kết quả trước và sau khi tiến hành thực nghiệm áp dụng các giải pháp đã đề ra. Minh chứng một số giải pháp đưa ra áp dụng nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn mĩ thuật ở học sinh THCS đã thành công. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: 1.1. Thuận lợi: 5 – Trường THCS Hải Anh đã đạt trường chuẩn Quốc gia, chuẩn xanh – sạch – đẹp – an toàn nên cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đã có các phòng học bộ môn, đã có thiết bị hỗ trợ trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học. – Nhà trường luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và các phong trào hoạt động trải nghiệm mĩ thuật cho học sinh thông qua các giờ học và qua các ngày kỉ niệm lớn của Đất nước các em được thỏa sức thể hiện thế mạnh, đam mê, sáng tạo, sở trường của mình. – Bản thân là giáo viên trẻ tràn đầy nhiệt huyết có năng lực chuyên môn và tâm huyết với nghề, luôn có lòng say mê nghiên cứu và học hỏi tìm tòi các giải pháp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục. – Đây là môn học có nhiều kiến thức gắn liền với thực tiễn cuộc sống nên đa số học sinh hứng thú, tìm tòi, nghiên cứu các kiến thức liên quan đến môn học. – Việc đổi mới phương pháp dạy học đã được nhà trường áp dụng rộng rãi trong cấp học, môn học là tiền đề thực hiện các yêu cầu giáo dục. 1.2. Khó khăn: * Khách quan: – Cơ sở vật chất của nhà trường: Một số thiết bị dạy học bộ môn chưa đa dạng. * Chủ quan: Với những năm đầu chỉ dạy nội dung sách giáo khoa và một số tiết học còn áp dụng phương pháp cũ như: Thực hành, thuyết trình, đàm thoại, giải quyết vấn đề thì các em cũng rất nhàm chán và có những hạn chế : – Không phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh – Tiếp thu kiến thức thụ động khuân mẫu – Kiến thức trên lớp học sinh không biết áp dụng vào thực tế – Khi học học sinh không tập trung dẫn đến khó hiểu bài gây chán nản dẫn đến chất lượng môn học thấp 6 Thông qua các bài thực hành kết quả khảo sát năm học 2020-2021. Hai khối lớp tương đương về trình độ và ý thức học tập thu được kết quả là:
LỚP
NỘI DUNG
KẾT QUẢ
ĐÁNH GIÁ
Đạt (Đ)
Chưa đạt (CĐ)
6A (sĩ số 36)
Vẽ tranh: Đề tài quê hương em
22
14
– 4/36 tỉ lệ 6% bài vẽ đạt ở mức 1 – 15/36 tỉ lệ 41% bài vẽ đạt ở mức 2 – 15/36 tỉ lệ 41% bài vẽ đạt ở mức 3 – 2/36 tỉ lệ 11% bài vẽ đạt mức 4
6B (sĩ số 35)
Vẽ tranh: Đề tài quê hương em
25
20
– 5/35 tỉ lệ 6% bài vẽ đạt ở mức 1 – 15/35 tỉ lệ 37% bài vẽ đạt ở mức 2 – 13/35 tỉ lệ 43% bài vẽ đạt ở mức 3 – 2/35 tỉ lệ 14% bài vẽ đạt mức 4
(Đánh giá kết quả chất lượng bài thực hành từ mức 1 thấp đến mức 4 cao) – Kết quả trên không đạt các chỉ tiêu của nhà trường: Không có bài xuất sắc, ý tưởng không sáng tạo, về hình và màu còn nhiều hạn chế. Các bài mức độ khá thể hiện được nội dung nhưng hình và màu còn chưa sáng tạo. Bài yếu chưa thể hiện rõ nội dung hình và màu không sáng tạo. Nguyên nhân: * Từ học sinh: + Học sinh thường có thói quen làm cho xong bài tập không có hứng thú khi làm bài, không quan tâm đến chất lượng, lười suy nghĩ, ít sáng tạo,… + Với học sinh trung bình, yếu không tự giác suy nghĩ, chưa biết đưa hình ảnh thực tế vào bài thực hành, nghèo nàn hình ảnh, màu sắc ít sáng tạo. + Với học sinh khá, giỏi chưa có thói quen sáng tạo và đưa những hình ảnh thực tế vào tranh, hay sử dụng những hình ảnh sao chép từ sách báo, … *Từ giáo viên: 7 + Các trang thiết bị dạy học hiện đại đã đưa vào giảng dạy nhưng chưa thường xuyên áp dụng nhưng chỉ có hiệu quả tốt khi có giáo viên hướng dẫn, một số học sinh chưa khai thác hiệu quả công nghệ thông tin khi ở nhà. – Với kết quả này ngay sau đó tôi đã tự rút kinh nghiệm đồng thời tìm tòi tài liệu, tham khảo đồng nghiệp từ đó tìm ra những giải pháp giảng dạy phù hợp. Tôi nhận ra rằng nếu vận dụng kiến thức thực tiễn hợp lí đưa vào trong mỗi bài sẽ giúp các em chủ động, tích cực tìm tòi kiến thức ngoài thực tế áp dụng vào bài học và đưa bài học đó ứng dụng vào trong cuộc sống từ đó gây hứng thú học tập cho học sinh. 2. Sự cần thiết của việc đề xuất giải pháp mới Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04 tháng 01 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Nội dung cụ thể như sau: Xác định mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phát triển cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân. Phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức trí, thể, mĩ thay vì chỉ trang bị kiến thức; kết hợp hài hòa dạy người, dạy chữ, dạy nghề. – Mĩ Thuật là một bộ môn cần có nhiều sự sáng tạo, đặc biệt khi các em được tham gia hoạt động trải nghệm sẽ giúp các em vận dụng và sáng tạo, trong phân môn vẽ tranh đề tài ở lớp 8, 9 và rất hợp trong chương trình mĩ thuật mới ở lớp 6,7. Với học sinh Trường THCS Hải Anh thì sự tìm tòi sáng tạo chưa có nhiều, các em luôn dựa dẫm vào những gì có sẵn. Khi vẽ về một đề tài nào đó các em luôn sao chép lại những bài vẽ minh họa, mẫu trong sách giáo khoa môn mĩ thuật, trong sách ngữ văn, tiếng anh mà không biết khai thác chính cảnh đẹp trên quê hương Hải Hậu mình nơi có nhiều địa danh nổi tiếng như chùa Lương, cầu ngói chùa Lương, Nhà thờ Hưng Nghĩa, biển Hải Thịnh, cánh đồng muối Hải Hậu, nhà thờ đổ Hải Lý,…dù đây là những hình ảnh thực tế địa phương mà các em đã được nhìn thấy thường xuyên hoặc có thể được đi thăm quan rồi. Qua nhiều năm giảng dạy mĩ thuật ở bậc THCS và qua nhiều trường trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy: 8 Cùng với sự chuyển biến bước đầu về chất lượng giáo dục, hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học đang từng bước được ghi nhận. Tuy nhiên về phương pháp dạy học còn nhiều vấn đề cần bàn. Một bộ phận không nhỏ học sinh thụ động học tập do không được làm việc hoặc không chịu làm việc trong các giờ học. Trong hầu hết các giờ lên lớp, thực tập, thao giảng và cả thi giáo viên dạy giỏi… Vì giới hạn thời gian tiết học nên giáo viên chỉ làm việc với một số học sinh khá, giỏi để hoàn thành bài dạy, số học sinh còn lại im lặng, nghe giảng và ghi chép. Thực chất đó là những bài độc diễn của giáo viên có sự hỗ trợ của những học sinh khá giỏi. Xét về nhận thức và hành động, bản thân không thể chuyển hóa được mục tiêu tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh vào việc thiết kế và thi công bài dạy. Trước đây, trong mỗi giờ học Mĩ thuật đều diễn ra theo một quy trình: Tôi thường cho học sinh xem tranh hoặc quan sát các hoạt động trên máy chiếu và hoạt động theo hướng dẫn của sách giáo khoa. Nếu là vẽ tranh về phong cảnh, tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi khai thác tìm hiểu nội dung, sau đó tôi yêu cầu học sinh nhắc lại để thuộc, nhớ các bước vẽ và kiến thức trong bài. Sau khi học sinh đã nắm được các bước vẽ (theo một chủ đề nào đó) học sinh sẽ xem tranh mẫu trong sgk, máy chiếu… thực hành vận dụng vào bài vẽ cụ thể. Việc học sinh thể hiện trên bài vẽ của mình miễn sao hoàn thành được bài vẽ theo yêu cầu là được, đa số học sinh sẽ thụ động chép theo tranh mẫu có sẵn. Tiếp theo giáo viên củng cố kiến thức bài học bằng cách đặt ra các câu hỏi và học sinh trả lời. Thời gian học của học sinh chỉ trong phòng, quan sát tranh ảnh, máy chiếu, nghe cô hỏi, trả lời, thực hành… nên đôi khi trong một số giờ học sẽ khiến học sinh nhàm chán, trầm, dập khuôn, không khơi gợi được niềm đam mê hội họa cho các em. Từ những vấn đề hạn chế trên tôi đã rất trăn trở và mạnh dạn đưa ra giải pháp nhằm “Phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học môn Mĩ thuật cho học sinhTHCS thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo”. 9 3. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến. Mĩ thuật là một môn học nghệ thuật hội tụ đầy đủ các yếu tố: Sáng tạo, tưởng tượng, logic, quan sát (thị giác), vận động (thực hành), liên kết, trải nghiệm, thể hiện nội tâm, khả năng sáng tạo của mình… Môn Mĩ thuật ở trường THCS trang bị cho học sinh những kiến thức ban đầu, cơ bản nhất góp phần từng bước hình thành khả năng cảm thụ cái đẹp, biết vận dụng cái đẹp vào cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Với phương pháp tổ chức một số giờ học có sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học, thông qua các hoạt động trải nghiệm cho học sinh để nâng cao hứng thú và khả năng sáng tạo nghệ thuật, học sinh như được giải phóng khỏi khuôn mẫu, học sinh được “Học mà chơi, chơi mà học”. Các em thỏa sức sáng tạo, không bị gò bó, không sợ mình không biết vẽ mà tự do thể hiện sự sáng tạo của bản thân, góp phần đạt được mục tiêu giáo dục. Vì vậy tôi đã áp dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học sẵn có bổ sung và đổi mới trong các giờ dạy để nâng cao hứng thú và khả năng sáng tạo nghệ thuật cho học sinh. Một trong những phương pháp đó chính là cho học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế, Phương pháp này có thể kích thích ở mức cao nhất tính tích cực học tập của học sinh, không chỉ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mà còn rèn luyện được kĩ năng nhận thức, kĩ năng tiếp cận, phát hiện và giải quyết vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau, kĩ năng giao tiếp, tính toán, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, tính sáng tạo và niềm đam mê, hứng thú với môn học… Nó tạo điều kiện cho học sinh chủ động điều chỉnh nhận thức, kĩ năng, hành vi và có mối liên hệ khăng khít với thiên nhiên, hòa nhập với thực tế cuộc sống và xã hội. Vậy để tổ chức được các hoạt động trải nghiệm cho học sinh tôi phải hình dung mình phải tổ chức các hoạt động của học sinh như thế nào, phải suy nghĩ công phu về những khả năng diễn biến các hoạt động đề ra cho học sinh, tổ chức, khai thác vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng học sinh và tập thể lớp, tăng cường mối liên hệ ngược trò – thầy và mối liên hệ ngang trò – trò, mối liên hệ trò với thiên nhiên, xã hội… 10 Mục đích bài học là học sinh tự lực chiếm lĩnh tri thức mới trong nội dung bài học, đồng thời thúc đẩy tốt nhất điều kiện phát triển năng lực của học sinh: năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực tính toán, năng lực hợp tác, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực thực hành sáng tạo… thông qua các hoạt động dạy học. Thay vì việc học sinh chỉ nắm kiến thức và thực hành theo một quy trình cứng một cách máy móc không có sự sáng tạo gây nhàm chán, không hứng thú trong các tiết học Mĩ thuật. Nay, tôi tổ chức học sinh được tiếp cận kiến thức mới cũng thông qua các hoạt động học tập “mới” và “lạ” từ các hoạt động trải nghiệm ở mỗi phần, mỗi chủ đề khiến giờ học được “đổi gió”. Mỗi giờ học, mỗi chủ đề là một sự mới lạ cần được khám phá với học sinh, ở mỗi phần, mỗi hoạt động không chỉ diễn ra trong nhóm, trong lớp, mà còn diễn ra ngoài không gian lớp học với nhiều hình thức khác nhau. Không khí học tập tự nhiên, lớp học sôi nổi, vui tươi hơn lên rất nhiều. Học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn. Kiến thức học sinh nắm được áp dụng không chỉ với tiết học, môn học mà còn giúp các em vận dụng sáng tạo vào cuộc sống. Qúa trình dạy học việc rèn luyện tư duy sáng tạo và khơi gợi hứng thú cho học sinh là công việc được làm thường xuyên. Trong đề tài này tôi chủ yếu đề cập đến việc: Phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học môn Mĩ thuật cho học sinh THCS thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, thể hiện qua các nội dung sau: Phần thứ I: Hoạt động trải nghiệm thực hiện ngay trên lớp học qua màn hình, video. Phần thứ II: Hoạt động trải nghiệm ngoài không gian lớp học. Phần thứ III: Hoạt động trải nghiệm dưới hình thức câu lạc bộ, các hoạt động vẽ tập thể, triển lãm tranh. Sau đây tôi xin trình bày một số kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy. 11 3.1. Phần thứ I: Hoạt động trải nghiệm thực hiện ngay trên lớp học qua màn hình, video. * Thực trạng dạy học theo giải pháp cũ: Học sinh không biết vẽ gì, bắt đầu vẽ như thế nào, khó tìm được ý tưởng của cá nhân để vẽ, mất nhiều thời gian cho việc tìm nội dung, chỉ chú trọng các môn cơ bản không có hứng thú sáng tạo. Các sản phẩm đa số là sản phẩm 2D, rất hiếm có những sản phẩm 3D mang tính sáng tạo. Hình ảnh lớp học theo phương pháp cũ (Lớp học không sôi nổi- Học sinh hoạt động cá nhân) * Giải pháp: Áp dụng giải pháp mới: Đầu tư xây dựng kế hoạch bài dạy có sử dụng video clip – Theo quan điểm dạy học hiện đại: quá trình dạy học không chỉ đơn thuần giúp cho HS có được một số kiến thức, kĩ năng nhất định mà điều quan trọng hơn là phải tổ chức quá trình dạy học sao cho học sinh phát huy đến mức tối đa tính tích cực chủ động, qua đó phát triển được năng lực sáng tạo, nhân cách của người lao động mới, đáp ứng được những yêu cầu đa dạng và ngày càng tăng của xã hội. Vì vậy, vai trò của video trong dạy học không chỉ được sử dụng như một phương tiện trực quan, 12 minh hoạ bài giảng mà cần sử dụng ở mức độ cao hơn nhằm góp phần tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập thông qua việc tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh. – Trong giải pháp này tôi nghiên cứu tìm hiểu các video ứng với nội dung bài học một cách thu hút, dễ hiểu, dễ tìm kiếm, xây dựng video để phục vụ cho việc dạy học, với những đặc điểm và yêu cầu riêng. Nội dung của video gắn liền với nội dung của môn học, bài học, phương pháp dạy học và đảm bảo những yêu cầu sư phạm cần thiết. Tôi nhận thấy với nhiều tính năng ưu việt, video có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học nếu áp dụng video có kiến thức liên quan vào bài học thì sẽ phát huy được rất nhiều tác dụng thu hút sự tập trung, chú ý của học sinh, học sinh sẽ rất thích thú và tiếp thu bài hiệu quả. Học sinh xem video hướng dẫn cách tạo ta sản phẩm sáng tạo3D rất thu hút https://www.youtube.com/watch?v=6jYWx4DND24 – Video giúp cho học sinh thông hiểu, nắm vững kiến thức Mĩ thuật. Video có khả năng trình bày nội dung có tính chất tưởng tượng dưới hình thức 13 ảnh thực tế, giúp học sinh hình dung đối tượng cần tìm hiểu rõ ràng và thích thú hơn. – Kết hợp hình ảnh với âm nhạc càng làm cho tâm hồn các em được thư thái, thoải mái và vui vẻ do đó có hứng thú học tập, tiếp thu bài tốt hơn, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật mang sắc thái vui tươi nhờ đó học sinh có thể tự mình hiểu được những nguyên tắc và khái niệm cơ bản, nắm vững được kiến thức một cách nhẹ nhàng thoải mái. – Video tác động trực tiếp đồng thời vào thị giác và thính giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức sẽ giúp cho học sinh ghi nhớ kiến thức lâu bền hơn. – Tôi sử dụng video phù hợp đã góp phần làm gia tăng, khắc sâu những kinh nghbiệm trực tiếp giúp cho việc học tập của học sinh thêm phong phú và sâu rộng hơn. Muốn nhận thức được bản chất của một đối tượng nào đó, trước hết cần phải có những kinh nghiệm trực tiếp. Trong trường hợp này, video có thể bổ sung cho sự thiếu hụt của kinh nghiệm trực tiếp đó bằng kinh nghiệm gián tiếp. – Tôi nhận thấy video góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, phát huy tác dụng trong mọi hình thức dạy học. Với thời lượng nhất định, video trình bày nội dung kiến thức một cách tối ưu thông qua những hình ảnh, với các cảnh thật người thật. Video không những ghi lại các đối tượng nghiên cứu một cách trung thực, sống động bằng hình ảnh và âm thanh phối hợp với đặc trưng từng môn học mà còn kèm theo những lời thuyết minh, giải thích, bình luận, hướng sự tập trung chú ý của học sinh vào những vấn đề trọng tâm của nội dung bài học, do đó, video có thể phát huy tác dụng trong nhiều hình thức và phương pháp dạy học khác nhau như hình thức dạy học cả lớp, hình thức học tập nhóm, hình thức học tập cá nhân. – Nhờ video, học sinh có thể quan sát gián tiếp được phong cảnh không thể quan sát được do điều kiện khoảng cách địa lý, thời gian, kinh tế… học sinh có thể tiếp cận được với những đối tượng, hình ảnh, phong cảnh ở những vùng lãnh thổ xa xôi, không thể đi đến được… 14 – Ví dụ đối với bài vẽ tranh Hội xuân quê hương lớp 6 (Sách chân trời sáng tạo), phong cảnh quê hương ở các lớp 7.8. 9 tôi cho các em quan sát trải nghiệm thăm quan cảnh đẹp của địa phương và một số cảnh đẹp của đất nước bằng những đoạn video ngắn ngay trên màn hình tivi hoặc máy chiếu. https://www.youtube.com/watch?v=JzJnVcQoOMI – Ở đầu mỗi tiết học để tăng sự hứng thú, sẵn sàng tiếp thu bài mới tôi sử dụng video kết hợp với chơi trò chơi, thực hành thực tế, hát hoặc nhảy theo nhạc có sử dụng màn hình tivi trong phần Khởi động Hình thức này tạo không khí sôi nổi thích thú cho học sinh ngay từ khi bắt đầu tiết học cũng là cơ sở để tạo lên sự thành công bài vẽ của các em – Lưu ý nhỏ khi sử dụng phim video phối hợp với các phương tiện dạy học khác: video không phải là vạn năng. Việc sử dụng một loại phương tiện dạy học trong một khoảng thời gian kéo dài liên tục sẽ ảnh hưởng nhiều đến sự tiếp thu của học sinh. Tôi biết rằng mục đích yêu cầu của các khâu trong quá trình dạy học có khác nhau. Vì vậy tôi không lạm dụng phim video trong quá trình dạy học, do đó tôi luôn cân nhắc lựa chọn các phương tiện dạy học phù hợp với mục tiêu sư phạm và nội dung kiến thức cần truyền đạt, sử dụng phối hợp với nhau một cách linh hoạt để mang lại hiệu quả cao nhất. t Chơi trò chơi hát, nhảy theo nhạc trong phần Khởi động.(Lớp học sôi nổi) 15 * Kết quả sau khi áp dụng giải pháp mới: – Hoạt động này đã tạo được tâm thế hứng thú, vui vẻ cho học sinh các em từng bước làm quen bài học, sẵn sàng tiếp thu kiến thức với một tâm lí vui vẻ, bài vẽ sẽ có nhiều sáng tạo hơn kết quả tiết học sẽ tốt hơn. Qua đó đã hình thành cho các em được những năng lực như: Tự chủ tự học, giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mĩ,… – Dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt, thúc đẩy, hoạt động này tôi đã động viên học sinh tạo ra được những sản phẩm mĩ thuật mang tính sáng tạo 3D. Đại dương em yêu(Hoàng Trang- 6A) Những sản phẩm 3D mang tính sáng tạo của học sinh 16 Sau khi hoàn thành chương trình môn học, tôi điều tra về việc sử dụng video clip trong dạy học Mĩ thuật 6 và thu được kết quả như sau: Kết quả phiếu điều tra năm học 2021 – 2022 1. Về mức độ hứng thú:
Hứng thú
Không hứng thú
199/199 (Chiếm tỉ lệ 100%)
0/199 (Chiếm tỉ lệ 0 %)
2.Về mức độ tham gia:
Mức độ 1: Không tập trung/ Không tích cực/ Không hiệu quả
Mức dộ 2: Tập trung/ Tích cực/ Hiệu quả
Mức độ 3: Rất tập trung/ Rất tích cực/ Rất hiệu quả
163/199 (Chiếm tỉ lệ 82%)
36/199 (Chiếm tỉ lệ 18%)
0 (Chiếm tỉ lệ 0 %)
3.Về mức độ vận dụng kiến thức:
Nội dung
Kết quả
Áp dụng kiến thức đã tạo ra sản phẩm chất lượng tốt (Mức 4-5)
161/199 (Chiếm tỉ lệ 80,9%)
Áp dụng kiến thức đã tạo ra sản phẩm chất lượng khá (Mức 3)
30/199 (Chiếm tỉ lệ 15.1%)
Áp dụng kiến thức đã tạo ra sản phẩm chất lượng trung bình (Mức 2)
8/199 (Chiếm tỉ lệ 4%)
Áp dụng kiến thức đã tạo ra sản phẩm chất lượng kém (Mức1)
0/199 (Chiếm tỉ lệ 0%)
– Có 199/199 (Chiếm tỉ lệ 100%) học sinh cho rằng việc sử dụng video clip, trong dạy học môn Mĩ thuật là cần thiết. – Có 199/199 (Chiếm tỉ lệ 100%) học sinh mong muốn được học môn Mĩ thuật có sử dụng video clip. Tính mới: – Học sinh được tiếp cận kiến thức mới thông qua các hoạt động học tập “mới” và “lạ” từ các hoạt động trải nghiệm khiến giờ học được “đổi gió”. Tạo cho các em những tiết “Học mà chơi, chơi mà học- Học đi đôi với hành”. 17 Hình ảnh lớp học khi áp dung sáng kiến (Học sinh học tập hứng thú, sôi nổi – Học sinh làm việc theo đội nhóm) Tính sáng tạo: – Tạo sự hứng thú và niềm đam mê cho học sinh góp phần bồi dưỡng tâm hồn cho các em … Những hình thức trải nghiệm sáng tạo qua màn hình, video mỗi tiết học đều phù hợp với các chủ đề, là những quy trình yêu cầu học sinh phải nhớ trong các bước thực hiện vẽ hình và gắn liền với nội dung phần sau của giờ học để khi chuyển nội dung phải thật tự nhiên nhẹ nhàng. Việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm ngay từ đầu tiết học như vậy sẽ giúp không khí lớp học sôi nổi lên rất nhiều. Học sinh được vừa tự tìm tòi khám phá, được chơi, tự mình trải nghiệm, tâm lý học sẽ thoải mái, hứng thú, dễ chịu khi chuẩn bị tiếp thu kiến thức bài mới. Như vậy thông qua kết quả trên tôi nhận thấy hoạt động trải nghiệm qua màn hình, video là rất hiệu quả trong giảng dạy môn Mĩ thuật và đã thu được kết quả tốt, hoạt động trải nghiệm này đã giúp các em chủ động lĩnh hội kiến 18 thức một cách dễ dàng và thích thú giúp các em phát triển các năng lực vận động, năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực thẩm mĩ. Ngoài ra còn có nhiều hoạt động khác cũng mang tính phát triển năng lực và khơi gợi sự hứng thú không kém như hoạt động trải nghiệm ngoài không gian lớp học. 3.2. Phần thứ II: Hoạt động trải nghiệm ngoài không gian lớp học * Thực trạng dạy học theo giải pháp cũ: Học sinh ít có cơ hội đi đi trải nghiệm thực tế vì trong trương trình sách giáo khoa mĩ thuật không thiết kế riêng cho tiết trải nghiệm mĩ thuật chỉ có chương trình sách giáo khoa mĩ thuật 7 có một bài vẽ theo mẫu kí họa ngoài trời là các em được vẽ ở không gian ngoài lớp học. * Giải pháp: Áp dụng giải pháp mới. Khi xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn phân môn Mĩ thuật tôi tham mưu đề xuất nhiều hoạt động vừa có tính linh hoạt vừa có tính thực tiễn phù hợp với học sinh và điều kiện nhà trường, xin chỉ đạo của ban giám hiệu và tham mưu với ban giám hiệu có thể dồn tiết, phối kết hợp với tổng phụ trách Đội, giáo viên chủ nhiệm, Đoàn thanh niên, giáo viên bộ môn tổ chức cho học sinh đi trải nghiệm thực tế ngay tại địa phương phù hợp với chương trình. Tôi nhận được sự ủng hộ rất cao vì nội dung kế hoạch tôi đưa ra cụ thể, đầyđủ, chi tiết. Được sự ủng hộ về kế hoạch tôi xin ý kiến Ban giám hiệu và tổ chuyên môn về cách tổ chức và kinh phí tổ chức tôi đã xây dựng đội giáo viên giúp đỡ, phù hợp với năng lực, sở trường của từng thành viên trong nhà trường, giáo viên phụ trách đảm bảo tốt những vai trò: + Tổ chức hoạt động + Hướng dẫn học sinh + Nêu vấn đề, đưa ra thách thức + Gợi mở vấn đề + Định hướng học sinh + Dẫn dắt, cùng tham gia 19 + Xử lí tình huống sư phạm Từ đó hỗ trợ các em thực hiện đầy đủ các bước cơ bản: Bước 1. Xây dựng ý tưởng; Bước 2. Xây dựng kế hoạch; Bước 3. Công tác chuẩn bị thực hiện; Bước 4. Tổ chức thực hiện; Bước 5. Đánh giá kết quả thực hiện. + Trải nghiệm vẽ dưới sân trường áp dụng trong bài vẽ tranh đề tài tự chọn hoặc bài vẽ phong cảnh Tôi tổ chức cho học sinh xuống sân trường, hướng dẫn học sinh quan sát các hình ảnh, các hoạt động của học sinh dưới sân, của cây cỏ, hoa lá, màu sắc của thiên nhiên … sau đó các em sẽ nhận xét và chia sẻ cảm nhận cho các bạn và cô giáo, từ đó sẽ cùng nhau vẽ trực tiếp theo những gì nhìn thấy và cảm nhận. Dưới sự hưóng dẫn, gợi ý thêm trong quá trình làm bài đã góp phần tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Hoạt động này giúp thúc đẩy sự tìm tòi, đam mê trong học tập của các em. Các em vừa vẽ vừa thư giãn, vừa nói chuyện với nhau, có thể đi lại tự do khiến tinh thần và thể trạng đều thoải mái và thư thái sau những giờ học các môn khác căng thẳng và mệt mỏi. Mục đích của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức cho các em, khám phá môn học dưới dạng trải nghiệm thực tế. Qua đó tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kỹ năng như: phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo. Giúp các em phát triển thể chất và năng lực vận động. Một số hình ảnh học sinh trải nghiệm ngay sân trường: 20 Học sinh say mê, thoải mái khi được ra sân vẽ Hình ảnh học sinh trải nghiệm vẽ tranh ở sân trường 21 Một số sản phẩm sau buổi trải nghiệm vẽ ngoài sân trường: Sáng sớm trường em (Nguyễn Ngọc Diệu – 7C1) Sân trường trong giờ ra chơi (Nguyễn Thị Thảo My – 7C1) 22 + Trải nghiệm quan sát các đoạn đường giao thông, phong cảnh đẹp của địa phương đưa hình ảnh thực tế vào các bài vẽ tranh đề tài Ở trải nghiệm này sẽ giúp các em tự hào, yêu và gần gũi với quê hương mình sau đó có những hành động việc làm cụ thể như chăm sóc và giữ gìn cảnh đẹp quê hương từ đó vận dụng được những kến thức, trải nghiệm thực tế này vào việc vẽ các bức tranh đề tài. Ở trải nghiệm này các em nhớ lại các bước vẽ tranh đề tài sau đó từng bước tôi sẽ hướng dẫn cụ thể bằng trực quan thực tế: Học sinh quan sát các đoạn đường giao thông Quan sát cảnh đẹp quê hương (cảnh Chùa Lương) 23 Quan sát cảnh đẹp quê hương (cảnh Chùa Lương) * Hướng dẫn học sinh vẽ tranh a. Quan sát nhận xét: Quan sát các đoạn đường giao thông, phong cảnh đẹp của địa tôi gợi ý cho học sinh quan sát những danh lam thắng cảnh, các công trình văn hóa của địa phương hay những cảnh mà em yêu thích nhất như bờ tre, bến nước, cây đa, sân đình. Tôi hướng dẫn cho các em quan sát từ tổng thể đến chi tiết. Tức là từ hình dáng khái quát đến các đặc điểm chi tiết. Tôi có thể đàm thoại với học sinh về đề tài tự chọn. Các em quan sát cảnh thực tế đang trải nghiệm sau đó thể hiện chúng trên bài vẽ của mình với nét vẽ độc đáo riêng biệt của từng em. Như vậy tranh vẽ của học sinh sẽ phong phú sinh động hơn là bắt chước tranh mẫu hoặc tranh vẽ các bạn. Từ đó các em nhận ra được cái hay cái đẹp và cái chưa đẹp trong tranh của mình. Việc quan sát nhận xét thường xuyên sẽ giúp các em dần dần hình thành các năng lực: nhận thức thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ… Giúp cho các em rút ra được kinh nghiệm cho bản thân và học tập được cái hay cái đẹp của các bạn. Như vậy khi vẽ tranh các em sẽ phát huy những mặt tốt, hạn chế trong cách sắp xếp bố cục và sử dụng màu sắc. Sau khi học sinh quan sát tôi 24 hướng dẫn phân tích cách sắp xếp bố cục trong tranh đâu là hình ảnh chính, đâu là hình ảnh phụ. Qua đó thể hiện nội dung của chủ đề như thế nào, cách sử dụng màu sắc ra sao…Sự phân tích của giáo viên sẽ củng cố thêm những kiến thức về cách vẽ. Quan sát cảnh đẹp quê hương (cảnh cầu ngói Hải Anh) * Tìm bố cục: Tôi hướng dẫn cho học sinh thấy được tranh đề tài cần xác định hình ảnh chính, hình ảnh phụ. Hình ảnh chính nói lên đề tài nên bố cục thường được đặt ở trọng tâm bức tranh. Có nhiều kiểu bố cục, có thể hình ảnh chính nằm trong hình tròn, chữ nhật hoặc tam giác… * Hướng dẫn học sinh vẽ chi tiết: – Trong tranh đề tài, hình ảnh nói lên được nội dung đề tài nên hình vẽ là một phần rất quan trọng trong tranh đề tài. Qua bài kí họa phong cảnh, kí họa dáng học sinh đã biết thực hiện ghi chép lại từ cuộc sống để áp dụng vào trong bài vẽ tranh đề tài. Những trải nghiệm đa dạng từ những lần thực tế tại địa phương đó chính là phương pháp quan sát. Cần lưu ý học sinh cách chọn hình ảnh chính, hình ảnh phụ và cách sắp xếp các hình ảnh đó sao cho hợp lí, cân đối, 25 có trọng tâm, rõ nội dung. Tùy theo từng bài mà chọn hình ảnh và sắp xếp bố cục cho phù hợp, tránh rườm rà hay sơ lược đơn điệu. Dựa trên mảng hình đã phác để vẽ các hình dáng cụ thể (con người, cảnh vật) vào các mảng hình đó. Giáo viên hướng dẫn học sinh nên chọn những hình dáng các nhân vật sinh động, đặc trưng và có sự khác nhau, có dáng tĩnh, dáng động, các động tác phải ăn ý hợp lý, thể hiện rõ nội dung đề tài. Có thể kết hợp mảng và nét (có nét đậm, nét nhạt tạo sự phong phú). Tôi nhắc học sinh vẽ phác hình nhẹ tay, không nên đè mạnh tay để bài vẽ không có vết hằn, khi chỉnh sửa dễ tẩy xóa và không làm rách giấy, lúc vẽ màu tranh sẽ đẹp hơn. Ở từng bước vẽ, tôi minh họa và đặt câu hỏi để học sinh nhớ cách vẽ * Hướng dẫn học sinh vẽ màu. Màu sắc được coi là một thứ ngôn ngữ quan trọng của hội họa, truyền tải tâm tư tình cảm và tính cách của người vẽ. Do đó màu sắc đóng góp lớn vào sự thành công của bài vẽ. Màu sắc không thể và không bao giờ tách khỏi môi trường sống của con người. Chính vì vậy, khi được trải nghiệm thực tế quan sát đoạn đường giao thông, phong cảnh đẹp của địa phương các em đã biết biến đổi cuộc sống đa dạng màu sắc vào tranh. Để học sinh vẽ màu tự do theo ý thích, chắc chắn các em sẽ phát huy được năng lực của bản thân và bộc lộ rõ cá tính của mình. Song nếu không có sự quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên thì nhiều học sinh sẽ bị lúng túng, vẽ màu sẽ bị quá lòe loẹt hoặc tối xỉn hay sử dụng những màu không ăn nhập với nhau. Từ các quy trình trên đã hình thành cho học sinh các năng lực nhận thức thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ, sáng tạo thẩm mỹ, năng lực giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực tự chủ và tự học… là tiền đề để góp phần hình thành các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm cho các em. Một số sản phẩm sau buổi trải nghiệm vẽ cảnh đẹp của địa phương: 26 Cầu Ngói (Mai Khanh lớp 9A) Cảnh hồ sen Chùa Lương (Vũ Tấn Hoàng Lớp 9A) 27 + Trải nghiệm đi vẽ thực tế tại các ngõ xóm, khu dân cư, làng nghề,.. Tôi lên kế hoạch chi tiết xin chỉ đạo của ban giám hiệu kết hợp giáo viên môn hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp, tổng phụ trách Đội, Đoàn thanh niên tổ chức, hướng dẫn học sinh tham quan trải nghiệm, quan sát những hình ảnh đẹp thực tế tại các ngõ xóm, khu dân cư, làng nghề và ghi chép lại hình ảnh đó làm tư liệu cho các bài vẽ tranh đề tài. Ngoài ra tham quan, dã ngoại còn là hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi qua sát, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà máy hoặc một địa danh nổi tiếng của đất nước ở xa hay ngay tại địa phương nơi các em đang sống, học tập… Từ đó giúp các em có được những kinh nghiệm từ thực tế, từ các mô hình, cách làm hay và hiệu quả trong một lĩnh vực nào đó, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em. Qua đây giáo dục định hướng nghề cho các em trong tương lai. Một số hình ảnh học sinh trải nghiệm thăm quan làng nghề tại địa phương: Một số hình ảnh học sinh trải nghiệm tham quan xưởng mộc 28 Một số hình ảnh học sinh trải nghiệm tham quan xưởng may Các chuyến tham quan, dã ngoại di tích như khu di tích cầu ngói chợ Lương ngay tại nơi các em sinh ra. Cầu ngói chợ Lương (xã Hải Anh, huyện Hải Hậu) là một trong những cây cầu mái cổ xưa, nổi tiếng của tỉnh Nam Định nói riêng và của cả nước nói chung Cầu được xây dựng vào đời Hồng Thuận (1509- 1515). Cầu được công nhận di tích lịch sử văn hóa Quốc Gia. Do nằm ở vị trí đặc biệt, giao thông đi lại thuận lợi nên nhiều năm qua, cầu ngói chợ Lương là điểm dừng chân lý tưởng của nhiều du khách trong và ngoài tỉnh. Vì cầu Ngói nằm gần với chợ Lương nên qua mỗi phiên chợ một lượng rác thải lớn của một số người chưa có ý thức đã xả thải bừa bãi không đúng nơi quy định làm mất đi tính mĩ quan ở khu di tích. Qua hoạt động trải nghiệm này các em sẽ hiểu hơn về danh lam thắng cảnh ngay tại nơi quê hương của mình, từ đó có hành động cụ thể để tuyên truyền, bảo tồn và giữ gìn nét văn hóa ngay tại quê nhà bằng những việc làm cụ thể như: vẽ tranh, gây quỹ ủng hộ môi trường xã. 29 Đấu giá sản phẩm Tre làng (Phạm Tâm Đan 9B) gây quỹ ủng hộ môi trường xã 1.000.000đ – Những hoạt động ý nghĩa sau buổi trải nghiệm Qua chuyến trải nghiệm các em đã hiểu sự cần thiết phải bảo vệ khu di tích lịch sử của xã nhà, ngay từ buổi trải nghiệm đó bằng những việc làm cụ thể và bắt tay hành động ngay là một buổi vệ sinh quanh khu vực di tích lịch sử, sau buổi thăm quan các em được tăng cường cơ hội được giao lưu, chia sẻ và thể hiện những khả năng vốn có của mình, đồng thời giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương đất nước, hiểu được các giá trị truyền thống và hiện đại. Từ đó các em có kế hoạch tuyên truyền bằng các hoạt động vẽ tranh và giữ gìn bằng các hoạt động vệ sinh môi trường, bảo tồn khu di tích, qua đó giáo dục các em có ý thức trong việc giữ gìn, phát huy, bảo tồn những truyền thống tốt đẹp đáng tự hào của quê hương. Tương tự như khi vẽ phong cảnh quê hương của học sinh từ lớp 6, lớp 7, lớp 8 đến lớp 9, các em đã có thể tự hình thành được ý tưởng, bố cục của tranh vẽ và bắt đầu vẽ tranh theo những gì các em hiểu biết. 30
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến Sau 30 năm đổi mới, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sư mệnh “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ngành giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra “Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu và thiếu thực chất…Đội ngũ nhà giáo…bất cập về chất lượng”. Như vậy, Đảng ta đã đánh giá “phương pháp giáo dục” của nước ta còn “ lạc hậu”. Sự “lạc hậu” về “phương pháp giáo dục” biểu hiện ở mọi bậc học và các môn học trong đó có môn Lịch sử. Lịch sử là một nghành khoa học rất quan trọng trong nền khoa học xã hội và nhân văn, cũng là một trong những môn học cơ bản trong hệ thống giáo dục phổ thông có vai trò quan trọng đối với việc phát triển năng lực, đặc biệt là các phẩm chất “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào” của người học. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Lịch sử không chỉ trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và thế giới mà còn giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước, các giá trị truyền thống và cách mạng, góp phần xây dựng nhân cách, bản lĩnh con người, giữ gìn bản sắc dân tộc…”. Lịch sử thế giới đã bước vào kỉ nguyên thông tin và trí thưc với xu hướng toàn cầu hóa rất mạnh. Trong bối cảnh chung của thời đại và khi đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thế giới, môn Lịch sử càng cần được coi trọng và cần phát huy chưc năng giáo dục để chuẩn bị cho thế hệ trẻ làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ công dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như trong giao lưu với các nền văn hóa khác để tiếp nhận các thành tựu của văn minh nhân loại mà vẫn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và sự đa dạng của văn hóa thế giới. Xuất phát từ sự nhận thưc được vị trí, tầm quan trọng của bộ môn Lịch sử trong nhà trường, cho nên các cấp các nghành nói chung cũng như đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử nói riêng đã đổi mới các phương pháp, hình thưc dạy học theo đúng như quan điểm của Đảng ta đã nêu ra: “Chuyển mạnh quá trình 2 giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả”. Từ đó, giáo viên phấn đấu chuyển tải và hướng dẫn những chuẩn mực kiến thưc, kĩ năng và thái độ tư tưởng đối với học sinh nhằm khơi dậy niềm tin về lịch sử dân tộc với truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông, hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện. Đặc biệt trong quá trình giảng dạy, tôi luôn cố gắng hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu kiến thưc, rèn luyện kĩ năng ghi nhớ sự kiện lịch sử, đánh giá bản chất sự kiện lịch sử đúng, để từ đó các em vận dụng trong viết bài và làm bài lịch sử có hiệu quả và có ý thưc bảo vệ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trải qua các thời kì lịch sử, hiểu và yêu thích trong học lịch sử ở THCS. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử, giáo viên dạy sử vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Một mặt, do xu thế chung của xã hội là chú trọng học tập các môn khoa học tự nhiên còn các môn khoa học xã hội thì rất ít em say mê, hưng thú. Hơn nữa, bộ môn Lịch sử và người dạy sử không được coi trọng, môn sử bị coi là môn phụ và là môn học được coi là khó nhớ, bởi nhiều sự kiện lịch sử nó gắn kết với mốc thời gian dài, nhiều và đòi hỏi học sinh phải nhớ, mà cách nhớ phải lô gích để viết bài theo từng giai đoạn lịch sử, có móc xích và liên kết, giọng văn trôi chảy. Mặt khác có quan niệm không đúng về bộ môn lịch sử còn chi phối cả cha mẹ học sinh, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế thị trường các môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ tỏ ra đắc dụng hơn. Với những lí do đó, đưa đến học sinh chán học môn lịch sử, khi học lại không nhớ hết các sự kiện lịch sử, lẫn lộn sự kiện và nhân vật, thời gian… và điều quan trọng là không tạo ra được chút cảm xúc nào trước những trang sử của dân tộc. Để đáp ưng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Lịch sử và Địa lí nói chung và phân môn Lịch sử 6 nói riêng thì việc sử dụng tư liệu và thiết bị dạy học là vô cùng quan trọng. Trong đó hệ thống tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ… sử dụng trong giờ dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh khai thác và ghi nhớ kiến thưc sâu hơn. Bởi đối với phân môn Lịch sử do đặc trưng bộ môn này là tái hiện những gì đã diễn ra trong quá khư, nên mỗi đồ dùng đều có niên đại thời gian tương đối chính xác, tuy nhiên các loại đồ dùng không phải dễ tìm, có loại chỉ được trưng bày trong viện bảo tàng nên chỉ được thấy nó qua tranh vẽ, có loại bằng mẫu vật nhưng chỉ được mô phỏng bằng các chất liệu hiện đại để làm ví dụ, để diễn tả các cuộc khởi nghĩa kháng chiến với các trận đánh lớn, chỉ có thể được mô tả qua các tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ trong sách giáo khoa hoặc thiết bị được cung cấp. 3 Vì thế việc đưa ra các dạng kênh hình, các bước hướng dẫn học sinh chủ động khai thác kiến thưc, bổ sung và khắc sâu kênh chữ là vô cùng cần thiết nhằm khơi dậy niềm đam mê, yêu thích học tập lịch sử và sự sáng tạo của học sinh. Từ đó các em tích lũy dần tri thưc lịch sử dân tộc và nhân loại, các em biết tự hào về truyền thống dân tộc anh hùng, thêm yêu quê hương đất nước và sống có trách nhiệm hơn. Năm học 2021-2022 là năm học thực hiện đổi mới dạy học theo chương trình GDPT 2018 của Bộ GD&ĐT đối với lớp 6. SGK Lịch sử và Địa lí 6 – Bộ sách KNTT giúp học sinh hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc, thái độ tôn trọng sự đa dạng của lịch sử thế giới và văn hoá nhân loại, ước muốn khám phá thế giới xung quanh, kĩ năng vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống… Trong đó Sách giáo khoa Lịch sử và Địa Lý lớp 6 nói chung và phân môn Lịch sử nói riêng có hệ thống kênh hình khá phong phú. Hơn nữa nói đến lịch sử là nói đến những gì đã diễn ra trong quá khư, là những kiến thưc đã diễn ra cách xa thời đại các em đang sống, nhất là phần lịch sử lớp 6 lại là những phần xa xôi nhất, trừu tượng nhất. Điều này gây khó khăn cho giáo viên khi truyền tải và học sinh khi tiếp nhận kiến thưc, dẫn đến các tiết học khô khan, học sinh khó hiểu và không yêu thích môn học. Hệ thống được các dạng kênh hình và các bước khai thác, mục đích khai thác trong từng đơn vị kiến thưc. Từ đó giúp giáo viên linh hoạt xây dựng hệ thống câu hỏi, tổ chưc các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh, giúp các em học sinh biết cách khai thác kiến thưc từ kênh hình. Trước một hình ảnh hay lược đồ lịch sử, các em không chỉ nhận biết được hình ảnh bề mặt mà đường nét thể hiện còn hiểu sâu, nói lưu loát được nội dung mà kênh hình biểu đạt. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện thành công các tiết học, tránh được tình trạng nặng về thầy thuyết trình, trò ghi nhiều. Một số ít học sinh bước đầu biết quan sát và sử dụng kênh hình nhưng chưa biết cách khai thác kiến thưc minh họa cho kênh chữ, chưa biết các quy tắc sử dụng. Khi khai thác kênh hình khó các em không hiểu được nội dung trong đó. Đặc biệt các em học sinh lớp 6 mới làm quen cách học của cấp THCS nên còn nhiều bỡ ngỡ, ghi chép còn chậm, chưa quen phương pháp tự học. Chính vì vậy, giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng hệ thống kênh hình hợp lý hiệu quả sẽ góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, giúp các em hình dung và có biểu tượng cụ thể, sinh động trong quá trình học lịch sử nói chung và bộ môn Lịch sử 6 nói riêng, tạo cho học sinh có hưng thú và yêu thích khi học tập bộ môn, 4 tôi mạnh dạn chia sẻ với đồng nghiệp “Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác kênh hình trong môn Lịch sử – Địa lí lớp 6 (phân môn Lịch sử) sách Kết nối tri thức với cuộc sống” mà tôi đang áp dụng trong năm học 2021 – 2022. II. Mô tả giải pháp. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. Trong năm học 2021 – 2022, do tình hình dịch bệnh diễn biến phưc tạp nên Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng Giáo dục tổ chưc nhiều đợt tập huấn trực tuyến về sự đổi mới của chương trình GDPT 2018. Đặc biệt đối với phân môn Lịch sử, giáo viên đã được tiếp thu các văn bản hướng dẫn chỉ đạothực hiện xây dựng kế hoạch dạy học. Được tham gia đóng góp ý kiến vào các bản dự thảo của Bộ khi xây dựng kiến thưc chương trình học. Với hình thưc tiếp thu đó, viên cũng có điều kiện chia sẻ, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau giải quyết các chủ đề khó và mới trong chuyên môn. Chương trình lịch sử lớp 6 bao gồm phần lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc ở thời kì xa xôi nhất, trừu tượng nhất. Hệ thống kênh hình và câu hỏi ít, khiến học sinh thụ động, lúng túng trong tiếp cận kiến thưc, nhiều khi giáo viên phải trả lời thay học sinh, tiết học trở nên khô khan, nhàm chán. Một số thầy cô giáo vẫn chưa linh hoạt trong phương pháp dạy học mới theo định hướng phát huy năng lực và phẩm chất người học, vẫn nặng về thầy đọc – trò chép, thuyết trình một chiều. Bên cạnh đó việc giáo viên chưa làm tốt việc khai thác và sử dụng hiệu quả kênh hình đã làm giảm khả năng tư duy và khả năng nhận thưc của học sinh. Một số học sinh vẫn còn lười học, không yêu thích môn Lịch sử nên khả năng ghi nhớ sự kiện, nhân vật còn hạn chế. Đa số các em khi trả lời câu hỏi chưa biết chắt lọc ý và trình bày theo ý hiểu mà chỉ dừng lại ở việc đọc sách giáo khoa. *Thực trạng Trước tình hình đó đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát, thăm dò ý kiến học sinh để kịp thời phát hiện ra những hạn chế từ phía giáo viên và học sinh để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN 1. Trong các giờ học phân môn Lịch sử, em có hưng thú với môn học không? Đánh dấu (X) vào ô trống tương ưng. Có Không 2. Khi khai thác kiến thưc lịch sử qua các dạng kênh hình như tranh ảnh, lược
5
đồ, sơ đồ…. em thường gặp những khó khăn, vướng mắc nào? …………….…………………………………………………..……………… ……..……………………………………………………………………………
Kết quả khảo sát bằng phiếu thăm dò khi chưa áp dụng giải pháp này là:
Thăm dò ý kiến Tổng số học sinh
Hứng thú học tập môn Lịch sử
Khả năng biết khai thác kiến thức qua kênh hình
90
Có
Không
Có
Không
50/90 = 56%
40/90 = 44%
50/90 = 56%
40/90 = 44%
Kết quả bài kiểm tra khi chưa áp dụng giải pháp là
Điểm Số lượng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
90
5
5,5
19
21,2
45
50
21
23,3
Từ kết quả thu được qua phiếu khảo sát và bài kiểm tra, tôi nhận thấy thực trạng khai thác kênh hình của giáo viên và học sinh còn nhiều hạn chế. Điều đó được thể hiện ở một số nội dung cụ thể như sau: – Thư nhất: Hệ thống kênh hình, tranh ảnh của bộ SGK lớp 6 mới chưa được trang cấp đầy đủ. – Thư hai: Giáo viên chỉ trú trọng sử dụng kênh hình để khai thác kiến thưc ở hoạt động khám phá ( hoạt động hình thành kiến thưc) mà chưa khai thác triệt để tranh ảnh, kênh hình trong các hoạt động khác. – Thư ba: Học sinh không có hưng thú với môn học vì cho rằng đó là môn học phụ và kiến thưc khô khan khó ghi nhớ. – Thư tư: Học sinh còn lúng túng trong việc khai thác kiến thưc từ kênh hình cũng như tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ… Chính vì thực trạng như trên nên tôi mạnh dạn đưa ra một số “Một số giải pháp khai thác hiệu quả kênh hình trong môn Lịch sử – Địa lí lớp 6 (phân môn Lịch sử) sách Kết nối tri thức với cuộc sống” 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến. 2.1. Bản chất của giải pháp 6 Trong những năm qua, Phòng Giáo dục tổ chưc nhiều đợt tập huấn, sinh hoạt chuyên đề theo cụm trường nên giáo viên có điều kiện chia sẻ, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau giải quyết các chủ đề khó và mới trong chuyên môn. Giáo viên giảng dạy môn Lịch sử tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, tìm tòi các thông tin, tranh ảnh, cập nhật vấn đề mang tính thời sự để tạo nên những tiết học hay, bổ ích. Đa số các em học sinh thích học hỏi, say mê khám phá và tìm hiểu tri thưc qua tranh ảnh, bản đồ, lược đồ… Tuy nhiên chương trình Lịch sử lớp 6 bao gồm phần lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc ở thời kì xa xôi nhất, trừu tượng nhất. Hệ thống kênh hình và câu hỏi ít, khiến học sinh thụ động, lúng túng trong tiếp cận kiến thưc, nhiều khi giáo viên phải trả lời thay học sinh. Tiết học trở nên khô khan, nhàm chán. Một số thầy cô giáo vẫn chưa linh hoạt trong phương pháp, vẫn nặng về thầy đọc – trò chép, thuyết trình một chiều. Bên cạnh đó việc giáo viên chưa làm tốt việc khai thác và sử dụng hiệu quả kênh hình đã làm giảm khả năng tư duy và khả năng nhận thưc của học sinh. Một số học sinh vẫn còn lười học, không yêu thích môn Lịch sử nên khả năng ghi nhớ sự kiện, nhân vật còn hạn chế. Đa số các em khi trả lời câu hỏi chưa biết chắt lọc ý và trình bày theo ý hiểu mà chỉ dừng lại ở việc đọc sách giáo khoa. 2.2. Nội dung của giải pháp Chương trình Lịch sử lớp 6 bao gồm phần lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc ở thời kì xa xôi nhất, trừu tượng nhất. Hệ thống kênh hình và câu hỏi ít, khiến học sinh thụ động, lúng túng trong tiếp cận kiến thưc, nhiều khi giáo viên phải trả lời thay học sinh, tiết học trở nên khô khan, nhàm chán. Từ đó, GV cần có kiến thưc về kĩ năng khai thác kênh hình, có sự chuẩn bị chu đáo, cẩn thận, nghiên cưu kĩ nội dung bài học và kênh hình liên quan; nắm chắc nguyên tắc và phương pháp sử dụng mỗi loại kênh hình: dùng đúng lúc, đúng mục đích, đúng cường độ. GV biết khái quát kênh hình thành các dạng và hướng dẫn học sinh tìm hiểu khai thác theo các dạng đó. GV khuyến khích học sinh khai thác kênh hình có thể do các em tự sưu tầm hoặc GV chuẩn bị. Thầy cô giáo đóng vai trò hướng dẫn chỉ đạo học sinh tự quan sát và rút ra kiến thưc, giúp các em học sinh biết cách khai thác kiến thưc từ kênh hình. Trước một hình ảnh hay lược đồ lịch sử, các em không chỉ nhận biết được hình ảnh bề mặt mà đường nét thể hiện còn hiểu sâu, nói lưu loát được nội dung mà kênh hình biểu đạt. 7 Giáo viên và học sinh có thể thực hiện thành công các tiết học, tránh được tình trạng nặng về thầy thuyết trình, trò ghi nhiều mà qua mỗi dạng kênh hình, giáo viên sẽ phát huy được các năng lực, phẩm chất giúp các em học tập bộ môn được tốt hơn. 2.2.1 Lựa chọn sử dụng và khai thác kênh hình trong các hoạt động dạy học. Trong dạy học Lịch sử, sử dụng đồ dùng trực quan, khai thác triệt để kênh hình trong sách giáo khoa giúp học sinh hiểu sâu bản chất các sự kiện lịch sử, thông qua đó là phương tiện hình thành các khái niệm Lịch sử, giúp học sinh nắm vững quy luật phát triển của xã hội. Bên cạnh đó giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Để sử dụng đồ dùng trực quan, khai thác triệt để kênh hình trong sách giáo khoa đạt kết quả tốt giáo viên cần quan tâm tới chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh, băng video… phương pháp, kĩ năng sử dụng đồ dùng của giáo viên và khả năng nhận thưc của học sinh ở từng lớp. Đặc biệt giáo viên cần chú ý tới thời gian sử dụng khai thác kênh hình trong các hoạt động học nhằm khai thác triệt để nhất nội dung kênh hình trong sách giáo khoa. Không phải kênh hình nào cũng sử dụng trong hoạt động hình thành kiến thưc mới mà có thể sử dụng các kênh hình trong hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kến thưc mới, hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng mở rộng. Mục tiêu giáo dục hiện nay chuyển từ nền giáo dục nặng về truyền thục kiến thưc sang phát triển phẩm chất năng lực học sinh, sau khi học song chương trình học sinh không chỉ đơn thuần là biết được gì mà học sinh làm được những gì sau khi học song chương trình. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên ngoài có kiến thưc, phương pháp đòi hỏi người giáo viên cần có kĩ năng sử dụng khai thác kênh hình. Kênh hình không chỉ đơn thuần cho học sinh quan sát xem hình ảnh đẹp hay xấu mà học sinh cần thực hành và rèn các kĩ năng khai thác tranh ảnh, lược đồ; kĩ năng tường thuật, miêu tả, nhận xét đánh giá, phân tích, đối chiếu so sánh được nội dung mà kênh hình đưa ra. 2.2.2. Sử dụng kênh hình trong hoạt động khởi động. Mục tiêu nhằm tạo tình huống học tập nhằm tạo ra mâu thuẫn nhận thưc giữa những kiến thưc đã biết và chưa biết tạo hưng thú cho học sinh, giúp HS có những ấn tượng ban đầu về nội dung chuẩn bị tìm hiểu mối liên hệ nội dung lịch sử sắp học trong bài. *Ví dụ minh hoạ: Khi dạy bài 14: Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, trong hoạt động khởi động, GV cho HS quan sát Hình 1. Lễ hội Đền Hùng (Phú Thọ) trong 8 SGK trang 60 nhằm gợi mở cho học sinh đến những thành tựu, giá trị văn hóa truyền thống của Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc đã để lại từ buổi đầu dựng nước. Nhằm kích thích HS hưng thú với bài học, GV đặt ra các câu hỏi sau: ?Em biết gì về Lễ hội Đền Hùng? Em đã từng nghe truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” chưa? Hãy kể lại vắn tắt nội dung truyền thuyết này. Truyền thuyết này nói lên điều gì? GV chốt kiến thưc và dẫn dắt vào bài mới: Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn nhằm tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm” Theo truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng còn được gọi là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hà năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội đã diễn ra với nhiều hoạt động văn hoá dân gian và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương tại Đền Thượng. 9 Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng còn là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” bày lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một di sản vô cùng giá trị, độc đáođã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài, là ngày để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước / Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 2.2.3. Sử dụng và khai thác kênh hình trong hoạt động khám phá. Đa số các kênh hình sử dụng nhiều trong hoạt động khám phá (hình thành kiến thưc mới), có những kênh hình giáo viên có thể giới thiệu minh họa để bài học phong phú, có những kênh hình giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác giúp học sinh hiểu được những thành tựu tiêu biểu về kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật, diễn biến trong quá trình đấu tranh của nhân dân các dân tộc trên thế giới cũng như Việt Nam. *Ví dụ minh hoạ: Khi dạy Bài 7: Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, phần 3 – Những thành tựu văn hóa chủ yếu, để khai thác các kênh hình hiệu quả, GV tiến hành như sau GV: Hướng dẫn học sinh khai thác tranh ảnh về thành tựu văn hóa Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, đọc tài liệu (kênh chữ SGK) để trả lời câu hỏi và lĩnh hội kiến thưc mới. 10 HS đọc SGK trang 32, 33; quan sát hình 5, hình 6, hình 7; thảo luận nhóm trong vòng 15 phút, hoàn thiện các phiếu học tập sau với nội dung sau. 1. Tìm hiểu về thành tựu của Ai Cập cổ đại (thiên văn, chữ viết, toán học …) 2. Tìm hiểu về thành tựu của Lưỡng Hà cổ đại (thiên văn, chữ viết, toán học). GV chia lớp thành 6 nhóm, các nhóm 1, 3, 5 tìm hiểu nhiệm vụ thư nhất Các nhóm 2, 4, 6 sẽ tìm hiểu nhiệm vụ thư hai. 11 Phiếu thảo luận
Ai Cập
Lưỡng Hà
Thiên văn
Chữ viết
Toán học
Kiến trúc
Thành tựu khác
– Gợi ý sản phẩm (GV tổng hợp thành phiếu sau)
Ai Cập
Lưỡng Hà
Thiên văn
Đặt ra lịch Ai Cập (1 năm có 12 tháng, 1 tháng có 30 ngày)
Đặt ra lịch âm lịch (1 năm có 12 tháng, 6 tháng đủ và 6 tháng thiếu)
Chữ viết
Chữ tượng hình viết trên giấy Papyrut
Chữ hình nêm viết trên đất sét nung khô
Toán học
Biết đếm theo cơ số 10 Tìm ra số Pi=3,14 Biết đến phép cộng, trừ
Biết đếm theo cơ số 60 Tìm ra số Pi=3 Biết đến phép cộng, trừ, nhân, chia
Kiến trúc
Kim Tự Tháp Tượng Xphanh (nhân sư)
Thành Bibilon, vườn treo babilon
Thành tựu khác
Y học: Dùng phẫu thuật để chữa bệnh, am hiểu cơ thể người (tục ướp xác)
-Luật pháp: bộ luật Hamurabi (bộ luật đầu tiên), phát minh ra bánh xe, xe kéo, lưỡi cày
* GV giải thích thêm về một số thành tựu của Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại.- Hình 6: Vườn treo Ba-bi-lon là một công trình kiến trúc được liệt vào hàng kiệt tác của nhân loại, luôn luôn gắn liền với tên của một phụ nữ, hay còn gọi là vườn Se-mi-ra-mit. Vườn Ba-bi-lon do vua Ne-bu-chat-ne-da II xây dựng nên từ khoảng năm 600 TCN là món quà ông tặng cho người vợ yêu quý nhất của mình. Vườn treo hình vuông, có bậc dẫn đến lối vào cửa tiếp theo, đặt sân nọ trên sân kia thành một quần thể kiến trúc độc đáo theo nền dốc bậc. Các hiên phẳng được đỡ bởi cột nâng lên, chịu được tất cả sức nặng của cây cối. Cột cao nhất 23,1 m tường được xây vững chắc, rất tốn kém. Chiều dài của tường là 6,8 m khoảng cách giữa các bậc là 3,08 m dài 4,95 m rộng 1,23 m. Các khối đá được phủ bằng một lớp lau sậy trộn nhựa đường, bên trên là hai lớp gạch nung tráng nhựa đường, giữa các lớp gạch lại được che phủ bởi những tấm chì lá để chống thấm. Trên mỗi tầng trồng nhiều loại cây cổ thụ khác nhau. Để đưa nước tưới cho cây cối, người 12 ta phải dùng một loại máy có chuỗi gầu quay liên tục do người điều khiển. Đứng trên vườn treo, người ta có thể nhìn bao quát cả thành Ba-bi-lon. Vườn treo là một khoảng xanh tươi mát, là niềm hi vọng và điểm định hướng cho những đoàn lạc đà hành trình trên sa mạc mênh mông và nóng bỏng. Vườn treo Ba-bi-lon được biết đến như một công trình bí ẩn nhất trong số bảy kì quan thế giới nhưng các nhà khảo cổ không tìm thấy được bằng chứng nào liên quan đến sự tồn tại của công trình này. – Hình 7: Kim tự tháp thực chất là những lăng mộ của các vua chúa Ai Cập (các Pha-ra-ông). Thời Ai Cập cổ đại, vua được xem là một sức mạnh tuyệt đối để điều khiển muôn người. Các Pha-ra-ông đã xây dựng những ngôi nhà mồ vĩ đại, kiên cố để giữ xác của họ sau khi chết. Đây là một trong những công trình kiến trúc làm cho con người phải kinh ngạc về quy mô hùng vĩ và cách thức xây dựng. Là một trong bảy kì quan thế giới cổ đại, còn gọi là kim tự tháp Ghi-za hay Kuphu. Người Ai Cập đã chọn vật liệu đá để xây dựng các Kim tự tháp.Đây là những vật liệu có sẵn, dễ kiếm ở Ai Cập, phù hợp với việc tạo ra những công trình chịu đựng được sự thử thách của thời gian, tạo nên những hình tượng bất tử. Các khối đá thạch cao tuyết hoa có trọng lượng từ 2, 3 đến 4 tấn, được ghè đẽo theo kích thước đã định, mài nhẵn bề mặt rồi xếp chồng lên nhau tới độ cao 146,5m (trải qua năm tháng đến hiện nay còn 138,8m).Chúng được làm hoàn hảo tới mức ngay cả một sợi tóc, một lưỡi dao hay một tờ giấy mỏng cũng không thể lọt được vào khe giữa hai khối đá. Tuy vậy, nó vẫn được tính toán để chịu được sự giãn nở nhiệt và thậm chí cả những trận động đất. Bên cạnh Kim tự tháp là bức tượng Nhân sư huyền bí, là bức tượng nguyên khối lớn nhất hiện nay, tượng trưng cho trí tuệ và sức mạnh quyền lực của các Pha-ra-ông Ai Cập. Cho đến ngày nay, trải qua nhiều biến động thăng trầm của thời gian và lịch sử, trên những bãi cát trắng
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education