Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: Trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói chung và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường học nói riêng. Vấn đề này đã được đề cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. Đặc biệt văn bản số 242-TB/TW ngày 15/04/2009 thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020 chỉ rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian giảng lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh và giáo viên; gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống”. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tích cực hóa họat động học tập của học sinh. Đó là quá trình làm cho người học trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ. Phương pháp dạy học tích cực có mầm móng từ xa xưa. Ngày nay, do những yêu cầu đổi mới giáo dục, đáp ứng sự phát triển kinh tề – xã hội của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, PPDH tích cực cần được quan tâm thực hiện và trở thành phổ biến trong nhà trường của chúng ta. Để phát huy tính tích cực của học sinh cần tạo điều kiện để học sinh được suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, được phát biểu quan niện của mình, được đưa ra những nhận xét về vấn đề đang bàn luận,… được tham gia vào quá trình học tập để chiếm lĩnh tri thức. Trong thời đại ngày nay, do sự bùng nổ của tri thức khoa học và công nghệ, sự gia tăng tốc độ, khối lượng tri thức, học sinh ngày càng tiếp cận với nhiều nguồn tri thức khác nhau, kiến thức đa dạng hơn, phong phú hơn và được cập nhật liên tục. Nếu ta không nắm được xu thế đó thì sẽ bị tụt hậu. Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng, bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát triển ý thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát tiển tối ưu của giáo dục. Cũng như học tập các bộ môn khác, học Vật lí lại càng phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của học sinh để không phải chỉ biết mà 4 còn phải hiểu để giải thích hiện tượng Vật lí cũng như áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng đồng. Qua thực tế giảng dạy môn Vật lí ở trường THCS Nghĩa Minh trong nhiều năm, tôi nhận thấy một số học sinh chưa chú ý đến môn học, coi môn Vật lí chỉ là môn phụ, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dạy và học. Cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học chung của ngành giáo dục, đồng thời bản thân cũng tự kiểm tra, tổng kết tình hình dạy học Vật lí, tôi thấy điều quan trọng nhất trong dạy học là phải làm cho học sinh yêu thích, hào hứng với môn học. Từ đó tôi tìm cách vận dụng vào quá trình giảng dạy, tôi thấy có hiệu quả so với trước đây, chất lượng học sinh được nâng cao rõ rệt. Xuất phát từ lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Biện pháp giúp học sinh yêu thích phần cơ học môn Vật lí.” nhằm giúp học sinh hứng thú với môn Vật lí, đặc biệt là phần cơ học. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở môn Vật lí của nhà trường. II. Mô tả giải pháp kỹ thuật II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến II.1.1. Đối với giáo viên: a. Thuận lợi: Được sự quan tâm của nhà trường, phân công giảng dạy đúng chuyên môn, được tham gia các lớp tập huấn chuyên môn do Phòng và Sở GDĐT tổ chức để nâng cao trình độ chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy. Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng. Về cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hóa. Trường, lớp khang trang, thoáng mát, có phòng học bộ môn tạo điều kiện tốt cho việc học tập bộ môn Vật lí. b. Khó khăn: Do nhiều lý do nên giáo viên vẫn còn dạy theo lối truyền thống, truyền thụ kiến thức theo lối một chiều, chưa mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Một số giáo viên không tích cực đầu tư trong tiết dạy cũng như trong công tác soạn giảng, dạy lý thuyết ít liên hệ với thực tiễn nên không gây được hứng thú cho học sinh. Tuy nhà trường đã có phòng học bộ môn nhưng đối với môn Vật lí đồ dùng thí nghiệm bộ môn một phần quá cũ kỹ, một phần hư hỏng nên cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy môn Vật lí. II.1.2. Đối với học sinh: a. Thuận lợi : 5 Học sinh ở lứa tuổi thiếu niên, các em rất thích tìm tòi và khám phá những kiến thức khoa học tự nhiên, ta phải tận dụng đặc điểm này để kích thích các em có hứng thú học tập, tạo cho các em khả năng chủ động, sáng tạo khi học tập. Do sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin nên việc tham khảo, tra cứu, trao đổi kiến thức của học sinh cũng được thuận tiện hơn. b. Khó khăn: Trên thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy nhiều học sinh học tập môn Vật lí một cách thụ động, chỉ ghi nhớ kiến thức một cách máy móc mà không chịu tự rèn luyện giải bài tập để nâng cao tư duy sáng tạo. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: Thường thì các em không thích cái gì là không tự tin khi làm nó. Đối với môn Vật lí cũng vậy, rất nhiều em không thích học môn này nên chỉ học mang tính đối phó chứ không có đam mê tìm tòi, không chịu vận dụng kiến thức ứng dụng vào các hiện tượng trong thực tế và để làm bài tập. Thứ hai: Bản thân học sinh còn lơ là, nhiều học sinh không học bài cũ, không chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp, chưa tập trung nghe giảng nên tiếp thu kiến thức chưa đầy đủ. Thứ ba: Qua thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy tinh thần đọc sách, tìm kiếm tài liệu liên quan đến môn Vật lý ở học sinh hầu như rất ít. Khi chưa áp dụng SKKN vào trong công tác giảng dạy bộ môn vật lí ở khối 6, 8 tôi tiến hành khảo sát thực trạng tại đơn vị như sau: * Sự ham học bộ môn vật lý của học sinh khối 6, 8: Từ kết quả khảo sát tôi nhận thấy số em không yêu thích môn Vật lý là rất lớn chiếm 50%, số em xem đó như một môn học khô khan là 28,5% và số em thật sự yêu thích môn Vật lí là rất ít chiếm 21,5% Từ thực trạng trên, muốn khắc phục được lối dạy học truyền thụ một chiều, đặt học sinh vào thế thụ động, không chịu suy nghĩ, sáng tạo, cũng như có thể giúp học sinh yêu thích môn Vật lí , đặc biệt là phần cơ học, đó chính là lí do tôi nghiên cứu đề tài này.
Tổng số học sinh
Kết quả
Số em không yêu thích môn học
Số em xem đó như một môn học khô khan, khó tiếp thu
Số em yêu thích môn học
SL
%
SL
%
SL
%
144
72
50
41
28.5
31
21.5
6 * Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề xuất nội dung các biện pháp đối với giáo viên và học sinh để giúp học sinh yêu thích phần cơ học môn Vật lí, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lí ở trường THCS Nghĩa Minh. II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến II.2.1 . Xây dựng cho học sinh lòng yêu thích môn Vật lí Để xây dựng cho học sinh lòng yêu thích môn Vật lí thì tôi áp dụng các biện pháp sau đây : 2.1.1. Tạo cho học sinh sự hứng thú, thú vị trong học tập môn Vật lí Có hứng thú trong học tập thì mới có lòng yêu thích môn học. Đây là một trong những yếu tố rất cần thiết để học tốt môn này. Bằng cách nào? Trước khi vào học môn này ở phần mở đầu của chương trình học tôi thường nêu ý nghĩa môn học này. Nêu các câu hỏi “ tại sao” rất gần gũi với cuộc sống thực tế của các em ở đầu mỗi bài học. Ví dụ: – Khi học bài Lực – Hai lực cân bằng ( Bài 6 – Vật lí 6) tôi đặt câu hỏi rất gần gũi như như: Tại sao phải có gió thì diều mới bay được ? 7 – Khi học bài Sự nổi (Bài 12 – Vật lí 8) tôi đưa tình huống: Con tàu bằng thép nặng hơn hòn bi thép, thế tại sao con tàu bằng thép lại nổi còn hòn bi thép thì chìm? – Hay khi học bài Đối lưu- Bức xạ nhiệt ( Bài 23- Vật lí 8) tôi đặt câu hỏi như – Tại sao máy bay thường sơn màu trắng mà không sơn màu đỏ hoặc màu đen ? Những câu hỏi “ Tại sao” trước những vấn đề, những tình huống như vậy dù là đơn giản để từ đó khơi gợi tính tò mò, đòi hỏi phải được lý giải, và như vậy dần dần các em sẽ tìm thấy những cái hay, yêu thích hơn môn học này. 8 Bên cạnh đó, các tiết thực hành tôi chia nhóm học sinh, rồi cho các nhóm học sinh được tự chủ trong việc phân công người đi lấy dụng cụ thí nghiệm, người tiến hành thí nghiệm, người đọc kết quả, người ghi chép, nhóm nào làm xong trước thì cộng điểm nên các em tiến hành thí nghiệm rất nghiêm túc và hiệu quả. Các em học sinh trong tiết thực hành: Nghiệm lại lực đẩy Ác – si – mét. (Vật lí 8) 9 Các em học sinh hào hứng trong tiết học: Ròng rọc. (Vật lí 6) khi tự tay lắp ráp được thí nghiệm. – Mặt khác, qua từng tiết học, tôi hướng dẫn các em làm các thí nghiệm vui để rút ra các kết luận của bài học, từ đó các em sẽ yêu thích môn học, cảm thấy thú vị với môn học hơn. Ví dụ: Khi học bài áp suất khí quyển ( Vật lí 8) tôi chọn một thí nghiệm vui từ quả trứng gà: Dụng cụ là 1 quả trứng gà đã luộc chín bóc vỏ, đặt lên miệng chai, làm thế nào để quả trứng lọt vào trong chai mà không bị vỡ nát, học sinh nghe sẽ rất hứng thú. Tiến hành thí nghiệm, ta đốt một mẩu giấy bỏ vào trong chai, khi đốt nóng không khí trong chai, áp suất tăng lên. Sau khi oxi bị đốt hết, lửa tắt, nhiệt độ trong chai hạ xuống, áp suất giảm. Bây giờ áp suất ngoài chai đã lớn hơn áp suất trong chai, vậy nên nó đẩy quả trứng tuột vào trong chai, qua thí nghiệm này học sinh hiểu được mọi vật đều chịu tác dụng của áp suất theo mọi phương một cách thật thú vị. 10 Thêm nữa, tôi đưa ra yêu cầu cho học sinh để học sinh tự tìm tòi cách làm thí nghiệm: Bằng các dụng cụ sau, hãy làm thí nghiệm chứng tỏ rằng bằng “ sức mạnh của không khí ” có thể nâng được chiếc đĩa lên.Giải thích cách làm đó. Sau đó gọi học sinh lên làm thử, học sinh rất hào hứng thể hiện, tìm tòi cách chinh phục thử thách, sau tiết học các em rất vui vẻ và thích thú. 11 – Ngoài ra, tôi củng cố bài học cho học sinh thông qua việc yêu cầu học sinh tự làm dụng cụ thay thế các dụng cụ trong phòng thí nghiệm. Ví dụ như: Tự làm bình chia độ bằng cách dán băng giấy trắng dọc theo chai nhựa ( hoặc cốc), dùng bơm tiêm bơm 5cm3 nước vào bình chia độ, đánh dấu mực nước và ghi 5cm3 vào băng giấy. Tiếp tục làm như vậy và ghi 10cm3, 15cm3… cho đến khi nước đầy bình chia độ. – Khi dạy đến bài 8: Áp suất chất lỏng – Bình thông nhau (Vật lí 8).Sau khi dạy xong phần máy nén thuỷ lực, tôi giao cho các nhóm học sinh về làm mô 12 hình sản phẩm: Cầu nâng ô tô, bàn nâng xe máy, máy xúc cần cẩu, xe cần cẩu móc…Tiết sau các nhóm mang sản phẩm đến để trình diễn và thuyết trình. Các em tự chia nhau mua hoặc mượn nguyên liệu và dụng cụ như các ống tiêm loại 10ml, ống tiêm loại 5ml( mới), các miếng gỗ có kích thước khác nhau, tấm tôn mỏng, bìa giấy;ống nhựa truyền dịch( mới), súng bắn keo, vít, bu lông đai ốc, kéo, dây rít… Sau đó giáo viên chọn những sản phẩm đẹp để các em mang đi trưng bày sản phẩm STEM ở hội thi Khoa học kĩ thuật và ngày hội STEM cụm 1. Các em được đứng trên sân khấu thuyết trình về sản phẩm, nâng cao các kĩ năng mềm và hào hứng hơn đối với môn học. 13 Như vậy, với ý tưởng thiết kế bài dạy của tôi tuy là đơn giản nhưng xuyên suốt bài học từ phần đặt vấn đề, tìm các thí nghiệm vui để hướng học sinh đi đến kết luận tìm ra kiến thức mới hay ý tưởng củng cố bài học như trên đã xóa bỏ đi quan niệm của học sinh về môn Vật lí là môn học khô khan mà ngược lại các em thấy thú vị, thích thú và đầy tính hấp dẫn, từ đó các em sẽ hứng thú hơn với những kiến thức Vật lí. 2.1.2. Hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị một tiết học Vật lí. Bất cứ việc gì chuẩn bị trước thì cơ hội thành công cũng sẽ cao hơn, việc học tập cũng không ngoại lệ. Chuẩn bị bài trước khi đi học không chỉ giúp xây dựng những khái niệm ban đầu về nội dung cần học mà còn có thể tìm ra những nghi vấn và chỗ khó trước, sau đó tới hỏi giáo viên, ngoài ra còn hình thành mạch tư duy hoàn chỉnh khi lên lớp tìm ra những chỗ thiếu bổ sung, củng cố, tăng cường sự hiểu biết. Như vậy, từ việc chuẩn bị bài trước ở nhà sẽ giúp học sinh nắm sơ bộ kiến thức, khi giáo viên giảng học sinh sẽ nhanh hiểu bài, một khi học sinh đã hiểu bài thì sẽ rất hứng thú trong học tập Hoạt động hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà được tôi thực hiện cuối mỗi tiết học. Tôi giao nhiệm vụ càng cụ thể, chi tiết nên hoạt động trước tiết học của HS càng đạt kết quả, việc chuẩn bị cho tiết học càng chu đáo, đảm bảo sự thành công ở mức cao. Tôi hướng dẫn cho học sinh một số bước chuẩn bị trước chi tiết học như : Hướng dẫn học sinh dành thời gian đọc bài mới một lượt, sau đó học sinh đánh dấu vào những kiến thức trọng tâm, ghi những thắc mắc, khó hiểu để khi lên lớp có thể lắng nghe giáo viên kĩ hơn và sẵn sàng đưa ra những câu hỏi để được cô giải đáp. Đọc và nghiên cứu trước bài học trong SGK ở nhà tạo cho học sinh tiếp thu nhanh hơn và nắm bài kỹ hơn. Nhưng điều này không phải học sinh nào cũng nghiêm túc thực hiện được vì nó đòi hỏi học sinh phải có thói quen chuẩn bị trước bài học và xem đó là việc làm cần thiết, và điều này tôi phải hình thành cho các em ngay từ lớp sáu hoặc ngay đầu năm học. Ngoài ra, tôi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà thông qua việc yêu cầu học sinh tự làm dụng cụ thay thế các dụng cụ trong phòng thí nghiệm. -Trước khi dạy bài 8: Áp suất chất lỏng – Bình thông nhau (Vật lí 8). Tôi yêu cầu các em tự làm bình thông nhau ở nhà trước khi tiết học diễn ra. Các em đã hoàn thành tốt yêu cầu của giáo viên và mang đến lớp những sản phẩm rất đẹp mắt. 14 Trước khi học bài áp suất khí quyển ( Vật lí 8) tôi yêu cầu các em chuẩn bị một số vật dụng mang đến lớp để phục vụ cho tiết học như vỏ hộp sữa tươi, bình xịt nước, miếng hít tường, ống thuốc bổ bằng thuỷ tinh… – Miếng hít tường. Ống thuốc bổ. 15 2.1.3. Giới thiệu cho học sinh sách báo, tài liệu có liên quan hoặc giới thiệu về các nhàVật lí nổi tiếng liên quan đến bài học. Tôi nghiên cứu trước và giới thiệu cho học sinh cách tìm hiểu sách tham khảo, các tài liệu có liên quan, nếu em nào không có điều kiện mua thì có thể mượn thư viện nhà trường như: Bộ sách bổ trợ kiến thức Chìa khóa vàng Vật lí của tác giả Dương Quốc Anh, Bộ sách Vật lí vui ( quyển 1, quyển 2) của tác giả Phan Tất Đắc, Sổ tay Toán – Lí – Hóa Trung học Cơ sở của Phan Thanh Quang, Bộ bài tập trắc nghiệm Vật lí 6,7,8,9 của Ngô Phước Đức… Đồng thời có thể khuyến khích học sinh nào tìm và giải thích được một số hiện tượng liên quan đến bài học trình bày trước lớp có phần thưởng hoặc cho điểm trước lớp. Tôi tìm hiểu thêm về cuộc đời nghiên cứu của các nhà bác học có liên quan đến kiến thức trong bài và kể cho học sinh nghe trong những tiết học có liên quan đến nhà bác học đó. Ví dụ như : – Ở lớp 6 khi dạy bài “ Đòn bẩy”, tôi giới thiệu sơ nét về Ac-si-met và câu nói nổi tiếng của ông “ Hãy cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng bổng Trái Đất lên”; hoặc khi dạy bài: “ Trọng lượng”, tôi kể thông tin về Newton, về chuyện quả táo rớt trúng đầu ông… – Ở lớp 8 khi dạy bài “ Áp suất khí quyển”, tôi kể về To-ri-xen-li và việc chế tạo khí áp kế liên quan đến việc dự báo thời tiết trong cuộc sống. – Hoặc khi dạy bài Lực đẩy Ac-si-met, tôi cho học sinh chơi trò chơi để lật bức tranh nhà bác học Ac-si-met và kể câu chuyện của ông về việc phát hiện ra lực đẩy của chất lỏng lên các vật nhúng chìm trong đó khi ông đang nằm trong bồn tắm với câu nói nổi tiếng: Ơ-rê-ca! Ơ-rê-ca! 3 1 3 2 4 4 5 6 1 2 56 Tôi đã thực hiện biện pháp này và nhận thấy rằng sau khi kết thúc mỗi câu chuyện học sinh rất thích thú, vui vẻ và rất có hứng thú với kiến thức Vật lí. 16 2.1.4. Liên hệ thực tế – Trong từng phần kiến thức tôi liên hệ và đưa ra một số hiện tượng trong thực tế yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để giải thích như: + Trong bài: Lực ma sát tôi đưa ra các hiện tượng như: * Vì sao khi nền nhà mới lau, ta đi dễ bị trượt ngã? * Vì sao giày, dép ta mang đi mãi đế sẽ bị mòn? * Vì sao ôtô đi vào chỗ bùn lầy, có khi bánh xe quay tít m
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
SKKN Đổi mới phương pháp dạy học, tích hợp liên môn Vật lý với các môn học (Hóa học, Sinh học, và các môn học khác) để nâng cao chất lượng môn Vật lý hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của ban chấp hành trung ương khóa VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ ―Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Đặc biệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của BCH trung ương Đảng khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát đó là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lí tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lí, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Thực hiện Thông tư số: 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục về việc “Ban hành chương trình giáo dục phổ thông”; theo thông tư thì lộ trình từ năm học 2021-2022, nhóm môn khoa học tự nhiên gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học sẽ được tích hợp vào một để dạy ở lớp 6; các khối lớp 7, 8, 9 sẽ được thực hiện dần từ những năm tiếp theo. Cùng với sự đổi mới phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam có những biến đổi sâu sắc về mục tiêu, nội dung sách giáo khoa và cả phương pháp giáo dục, một trong những đổi mới cơ bản hiện nay là đổi mới mục tiêu dạy học ở trường phổ thông THCS. Ngành giáo dục đã tiến hành cải cách sách giáo khoa ở các bậc học. Sách giáo khoa mới được biên soạn trên hình thức đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở lấy học sinh làm trung tâm. Nhìn chung, giáo viên và học sinh đã quen dần với nội dung và phương pháp mới của sách giáo khoa mới. Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý theo chương trình đổi mới sách giáo khoa thì học sinh phải chủ động tiếp thu kiến thức, đào sâu kiến thức bài học thông qua sự hướng dẫn của giáo viên, chủ yếu là thực nghiệm hơn thuyết giảng, nhằm giúp các em tự giác học tập, độc lập suy nghĩ và tích cực học tập trên lớp và ở nhà để giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu những kiến thức đã được thầy cô giảng dạy. Vật lý cũng như các môn học khác, có vai trò tác động tích cực đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: ―ĐỨC-TRÍ-THỂ-MĨ‖ với những mức độ khác nhau. Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, nhưng hiện nay việc dạy học vật lý chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh chưa hứng thú với môn học vật lý, sợ học môn vật lý. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học vật lý phải ghi nhớ quá nhiều kiến thức khô khan, không chịu vận dụng vào thực tế. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân, song cơ bản không phải do bản thân môn vật lý mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy vật lý chưa phát huy được thế mạnh của môn học, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ môn khoa học, cần phải nghiên cứu nghiêm túc, có sự so sánh vận dụng linh hoạt, gắn kết liên môn với các môn học khác và vận dụng càng nhiều với thực tế thì càng dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ sâu được kiến thức. Giáo viên chưa tích cực thay đổi phương pháp dạy học trong giờ học nên học sinh dễ rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập tẻ nhạt, giờ học trở nên khô khan, nặng nề. Từ thực trạng của vấn đề trên, tôi chọn giải pháp “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, tích hợp liên môn môn vật lý với các môn học (hóa học, sinh học và các môn học khác) để nâng cao chất lượng học tập môn vật lý và hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh trong những năm học tới”. Giúp giáo viên vật lý có thể áp dụng vào giảng dạy môn vật lý một cách sinh động và giúp cho học sinh hứng thú hơn, nâng cao chất lượng học tập môn vật lý trong chương trình cấp THCS. Học sinh có được những kiến thức thực tế để vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, nâng cao được kỹ nâng sống và ý thức bảo vệ môi trường… II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Cơ sở lí luận – Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học vật lý nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. – Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với môn vật lý, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau ―Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này‖ Từ năm học 2012 – 2013, bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng. – Theo Thông tư số: 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục về việc “Ban hành chương trình giáo dục phổ thông”; từ năm học 2021-2022, nhóm môn khoa học tự nhiên gồm Vật lí, Hoá học, Sinh học sẽ được tích hợp vào một để dạy ở lớp 6; các khối lớp 7, 8, 9 sẽ được thực hiện dần từ những năm tiếp theo. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.1. Về phía học sinh Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. 2.2. Về phía giáo viên Giáo viên luôn có tinh thần sáng tạo, tìm tòi giải pháp cho học sinh thí nghiệm thực hành để các em làm quen dần với khoa học, qua đó nhằm rèn thêm kĩ năng và thao tác trên dụng cụ. Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do: + Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó; + Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học. Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm. 2.3. Những thuận lợi và khó khăn trƣớc khi áp dụng sáng kiến a) Những thuận lợi trƣớc khi áp dụng sáng kiến Việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã và đang được áp dụng trong nhà trường giúp học sinh phát huy được vai trò chủ động của mình trong việc lĩnh hội kiến thức, kích thích khả năng sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Cùng với việc đổi mới về phương pháp, một số phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại cũng đã được áp dụng vào quá trình giảng dạy của giáo viên trên lớp giúp giờ học sinh động và mang lại hiệu quả cho giờ học. Các em học sinh đang trong lứa tuổi thích khám phá, thích tham gia vào các hoạt động sáng tạo như tự tạo đồ dùng thí nghiệm đơn giản hoặc tìm kiếm ở xung quanh cuộc sống hằng ngày. Từ nhiều năm nay, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo tích hợp nhiều nội dung giáo dục vào quá trình dạy học các môn học trong trường phổ thông như: giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục pháp luật; giáo dục phòng chống tham nhũng; giáo dục chủ quyền quốc gia, tài nguyên và môi trường về biên giới, biển, đảo; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai; giáo dục an toàn giao thông…đó là cơ sở để việc thực hiện đề tài được tốt hơn. Trường THCS TT Xuân Trường có một giáo viên giảng dạy bộ môn Vật lý với trình độ đạt chuẩn, đó là điều kiện để chúng tôi thường xuyên thực hiện các chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng bộ môn. Bản thân là một giáo viên có nhiều năm tham gia giảng dạy môn Vật lý nên nắm bắt rất rõ đặc điểm của môn học, mục đích, yêu cầu của chương trình và nắm bắt rất rõ những khó khăn trong học tập mà các em gặp phải khi lĩnh hội kiến thức Vật lý. b) Những khó khăn trƣớc khi áp dụng sáng kiến Thứ nhất: Các trang thiết bị phục vụ dạy học môn vật lý vẫn còn thiếu, nhiều trang bị đã bị xuống cấp. Thứ hai: Đa số các em chưa biết khai thác các kênh thông tin để nâng cao hiệu quả lĩnh hội kiến thức Vật lý và áp dụng vào trong thực tiễn . Thứ ba: Để vận dụng tốt đề tài này vào dạy học Vật lý đòi hỏi giáo viên giảng dạy phải am hiểu nhiều môn học như hóa học, sinh học, lịch sử, văn học… Thứ tư: Học sinh Trường THCS TT Xuân Trường đa số các em đều ngoan, nhưng nhận thức còn hạn chế, được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách bài tập nhưng thư viện còn thiếu các đầu sách để các em tham khảo. 3. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu – Đối tượng là giáo viên và học sinh khối lớp 6, 7, 8, 9 trường THCS TT Xuân Trường – Xuân Trường – Nam Định. – Thời gian tiến hành trong năm học 2019-2020 và năm học 2020-2021. Đến tháng 3 năm 2021 nghiệm thu, đánh giá đề tài và có kết luận thực nghiệm áp dụng giảng dạy trong năm học 2020-2021 và những năm học tiếp theo. 3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, tích hợp liên môn môn vật lý với các môn học (hóa học, sinh học và các môn học khác) để nâng cao chất lượng học tập môn vật lý và hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh trong những năm học tới” tôi áp dụng các phương pháp sau: – Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS và dạy học tích hợp của Sở GD&ĐT, Bộ GD&ĐT. Văn bản chỉ đạo nhiệm vụ năm học của Bộ GD&ĐT; của Sở GD&ĐT Nam Định; phòng GD&ĐT Xuân Trường. – Phƣơng pháp điều tra: Điều tra những thuận lợi, khó khăn của giáo viên, học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập môn Vật lý, sinh hoạt chuyên môn của giáo viên. Chất lượng giảng dạy môn Vật lý của giáo viên như thế nào, đạt hiệu quả ra sao? Tìm hiểu kĩ việc sử dụng yếu tố tích hợp liên môn trong dạy học môn Vật lý ở nhà trường, đặc biệt là dạy học vật lý lớp 9. – Phƣơng pháp phỏng vấn: Trao đổi với giáo viên dạy bộ môn, đặt câu hỏi với đồng nghiệp cùng dạy, học sinh học tập để có những câu trả lời, giải pháp tốt nhất trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài. – Phƣơng pháp tổng hợp: Đây là khâu cuối cùng thu lượm tất cả các vấn đề, các ý kiến tham gia của giáo viên, học sinh tổng hợp lại. Nghiên cứu và đưa ra kết luận về đề tài nghiên cứu khoa học “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, tích hợp liên môn môn vật lý với các môn học (hóa học, sinh học và các môn học khác) để nâng cao chất lượng học tập môn vật lý và hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh trong những năm học tới”. 4. Mô tả giải pháp thực hiện sáng kiến 4.1. Những vấn đề chung * Khái niệm dạy học tích hợp: Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hòa nhập, sự kết hợp. Đó là sự hợp nhất hay nhất thể hóa các bộ phận khác nhau để đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất dựa trên những nét bản chất của các thành phần đối tượng chứ không phải là phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần đấy. Dạy học tích hợp là hành động liên kết một cách hữu cơ, có hệ thống các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực nào đó hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học nhằm hình thành ở học sinh các năng lực cần thiết. Trong dạy học tích hợp, học sinh dưới sự chỉ đạo của giáo viên thực hiện việc chuyển đổi liên tiếp các thông tin từ ngôn ngữ của môn học này sang ngôn ngữ các môn học khác; Học sinh học cách sử dụng phối hợp những kiến thức kĩ năng và thao tác để giải quyết một tình huống phức hợp – thường là gắn với thực tiễn. Chính nhờ quá trình đó học sinh nắm vững kiến thức hình thành khái niệm, phát triển năng lực và các phẩm chất cá nhân. Có nhiều lí do để dạy học tích hợp bao gồm: – Phát triển năng lực người học; – Tận dụng vốn kinh nghiệm của người học; – Thiết lập mối quan hệ giữa các kiến thức, kĩ năng và phương pháp của các môn học; – Tinh giảm kiến thức, tránh sự lặp lại các nội dung ở các môn học; * Mục tiêu của dạy học tích hợp: Dạy học tích hợp được bắt đầu với việc xác định một chủ đề cần huy động kiến thức, kĩ năng, phương pháp của nhiều môn học để giải quyết vấn đề. Lựa chọn được một chủ đề mang tính thách thức và kích thích được người học dấn thân vào các hoạt động là điều cần thiết trong dạy học tích hợp thể hiện ở ba mức độ dạy học sau. – Lồng ghép/Liên hệ đó là đưa các yếu tố nội dung gắn với thực tiến, gắn với xã hội, gắn với các môn học khác vào dòng chảy chủ đạo của một nội dung bài học của một môn học. Ở mức độ lồng ghép, các môn học vẫn dạy riêng rẽ. Tuy nhiên, giáo viên có thể tìm thấy mối quan hệ giữa các kiến thức môn học mình đảm nhận với nội dung của các môn học khác và thực hiện các kiến thức đó ở những thời điểm thích hợp. – Dạy học tích hợp ở mức độ lồng ghép có thể thực hiện thuận lợi ở nhiều thời điểm trong tiến trình dạy học. Các chủ đề gắn với thực tiễn, gắn với nhu cầu của người học sẽ có nhiều cơ hội để tổ chức dạy học lồng ghép. – Vận dụng kến thức liên môn: Ở mức độ này, hoạt động học diễn ra xung quanh các chủ đề, ở đó người học cần vận dụng các kiến thức của nhiều môn học để giải quyết vấn đề đặt ra. Các chủ đề khi đó được gọi là chủ đề hội tụ. Việc liên kết kiến thức các môn học để giải quyết các tình huống cũng có nghĩa là các kiến thức được tích hợp ở mức độ liên môn học theo hai cách. * Cách một: Các môn học vẫn được dạy riêng rẽ nhưng đến cuối học kì, cuối năm, cuối cấp giúp học sinh xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức đã được lĩnh hội. * Cách hai: Những ứng dụng chung cho các môn học khác nhau thực hiện ở những thời điểm đều đặn trong năm học. Nói cách khác, sẽ bố trí xen kẽ một số nội dung tích hợp liên môn vào thời điểm thích hợp nhằm làm cho học sinh quen dần với việc sử dụng kiến của những môn học gần gũi với nhau. – Hòa trộn: Đây là mức độ cao nhất của dạy học tích hợp. Ở mức độ này, tiến trình dạy học là tiến trình ―Không môn học‖, nghĩa là nội dung kiến thức trong bài học không thuộc riêng về môn học đang dạy mà thuộc nhiều môn học khác nhau. – Tránh trùng lặp về nội dung thuộc các môn học khác nhau. – Tạo mối quan hệ giữa các môn học với nhau và kiến thức thực tiễn. – Tạo cơ hội để hình thành và phát triển năng lực, đặc biệt là năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn. 4.2. Tổ chức dạy học tích hợp Việc tổ chức dạy học tích hợp cần được tổ chức một cách linh hoạt thường có các bước sau: Bước một: Xác định mục tiêu và sản phẩm đầu ra của học sinh khi kết thúc chủ đề; Bước hai: Lựa chọn chủ đề/Tình huống tích hợp; Bước ba: Xác định các yếu tố khác của quá trình dạy học; Bước bốn: Thiết kế các hoạt động dạy theo cách tiếp cận năng lực; Bước năm: Xây dựng công cụ đánh giá; Bước sáu: Tổ chức dạy học; Bước bảy: Đánh giá và điều chỉnh kế hoạch dạy học. * Mục tiêu: – Biết được các nguyên tắc lựa chọn bài học tích hợp. – Xác định được một số năng lực cần hình thành cho học sinh trong mỗi bài học tích hợp. * Những nguyên tắc lựa chọn nội dung tích hợp: – Đảm bảo mục tiêu giáo dục, hình thành và phát triển các năng lực cần thiết cho người học. – Đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, mang tính thiết thực, có ý nghĩa với người học. – Đảm bảo tính khoa học và tiếp cận những thành tựu của khoa học kĩ thuật, đồng thời vừa sức với học sinh. – Đảm bảo tính giáo dục và giáo dục vì sự phát triển bền vững. – Tăng tính hành dụng, tính thực tiễn; quan tâm tới những vấn đề mang tính xã hội của địa phương. – Việc xây dựng các bài học chủ đề tích hợp dựa trên chương trình hiện hành. * Các năng lực chung: – Năng lực tự học; – Năng lực giải quyết vấn đề; – Năng lực sáng tạo; – Năng lực tự quản lý; – Năng lực giao tiếp; – Năng lực hợp tác; – Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; – Năng lực sử dụng ngôn ngữ; – Năng lực tính toán. 4.3. Nội dung cụ thể “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, tích hợp liên môn môn vật lý với các môn học (hóa học, sinh học và các môn học khác) để nâng cao chất lượng học tập môn vật lý và hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh trong những năm học tới”. Như ta đã biết: Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học có mối quan hệ mật thiết với nhau. Toán học, Hóa học, Sinh học bổ trợ cho Vật lý ngược lại Vật lý bổ trợ cho Toán học, Hóa học, Sinh học… MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC VẬT LÝ THEO NỘI DUNG TÍCH HỢP 4.3.1. Giải pháp 1: Khai thác kiến thức vật lý từ chính những sở thích của các em học sinh như thích xem phim họat hình, đọc truyện tranh….
Ví dụ 1: Trong tập truyện dài Doraemon mang tên: ―Lạc vào xứ quỷ‖ nhóm bạn Nobita không may lạc vào một khu rừng có chân, vì cây cối liên tục di chuyển nên nhóm bạn không thể đánh dấu được điểm xuất phát và cứ chạy vòng quanh, không thể nào ra khỏi khu rừng. Lúc đó Doremon đã nghĩ ra một cách hết sức đơn giản và thông minh đó là: Dùng một đèn pha cỡ lớn chiếu lên trời và bay theo đường truyền ánh sáng đó để thoát ra khỏi khu rừng. Theo em Doremon đã áp dụng định luật gì trong quang học. Và chúng ta ngầm hiểu rằng môi trường không khí ở xứ quỷ là môi trường như thế nào?
Hướng dẫn giải: Định luật truyền thẳng ánh sáng. Môi trường đó là môi trường trong suốt và đồng tính. Ví dụ 2: Trong truyện Đôrêmon có một chi tiết như sau: Nobita thường hay ngủ dậy muộn. Một hôm gần đến giờ đi học rồi Nobita mới ngủ dậy. Sợ rằng không kịp đến trường đúng giờ, Nobita mới nghĩ ra một cách là dùng: ―Thuốc đông cứng âm thanh‖ để đông cứng âm thanh từ miệng mình hét ra ngay sau đó túm chặt lấy âm thanh đông cứng ấy và bay đến trường. Quả nhiên Nobita đến trường trước khi giờ học bắt đầu. Em có biết vận tốc âm thanh trong không khí là bao nhiêu mà Nobita tự tin đi đến trường bằng cách đó? Hướng dẫn giải: Vận tốc âm thanh trong không khí là 340 m/s.
Ví dụ 3: Trong phim hoạt hình ―những cậu bé rau‖ có đoạn như sau: Một hôm lính canh ở vương quốc rau củ phát hiện ở phía trước không xa kinh thành có một chiến thuyền lơ lửng trên bầu trời. Nghi là thuyền địch nhà vua ra lệnh tấn công bằng
pháo vào chiến thuyền đó nhưng chiếc thuyền vẫn không hề nhúc nhích. Quốc vương hết sức kinh ngạc cho gọi cận thần tướng sĩ đến bàn bạc kế sách. Cuối cùng phái ba dũng sĩ rau củ dũng cảm nhất đến tận nơi thám thính để tìm cách đánh bại chiến thuyền ấy. Nhưng khi đến nơi họ càng kinh ngạc hơn nữa vì không thấy chiến thuyền đó đâu. May sao lúc ấy giáo sư rau củ đi nghỉ mát trở về và cho biết rằng đó chỉ là hiện tượng ảo ảnh. Em hãy giúp giáo sư giải thích cho các bạn rau củ biết vì sao có hiện tượng ảo ảnh đó. 4.3.2. Giải pháp 2: Đặt câu hỏi bằng các câu chuyện nhẹ nhàng, có ý nghĩa nhằm mục đích vừa giảng dạy vật lý đồng thời tác động đến đạo đức thái độ của các em học sinh nhằm thu hút sự chú ý và nâng cao hứng thú cho các em, đồng thời giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh. Ví dụ 4: Ngày xửa ngày xưa, có một gã trọc phú ở trong một ngôi nhà rất to đẹp. Nhưng vì sợ người khác nhòm ngó của cải nên căn nhà chỉ có duy nhất một cửa ra vào mà không hề có cửa sổ. Mọi sinh hoạt trong nhà đều dưới ánh đèn nến. Mặc dù ăn ngon mặc đẹp nhưng hắn và vợ con ngày một xanh xao vàng vọt, đến cả những cây trong nhà cũng ủ rũ thiếu sức sống. Nghĩ rằng nhà bị ma ám, ông ta đã mời nhiều đạo sĩ đến nhà để lễ bái nhưng người nhà vẫn ngày một yếu dần. Đến một hôm, trọc phú tìm đến hỏi một nhà thông thái. Nhà thông thái nghe xong câu chuyện liền nói với trọc phú: ―ông hãy về đục thật nhiều cửa sổ‖. Trọc phú về nhà lập tức làm theo lời khuyên, quả nhiên, sau một thời gian hắn và người nhà đã mạnh khỏe tràn đầy sức sống. Theo em nhà thông thái đã ngầm nói đến tác dụng gì của ánh sáng? Em hãy làm rõ hơn lời khuyên của nhà thông thái dành cho người trọc phú? Em rút ra bài học kinh nghiệm gì qua câu chuyện vừa rồi? Hướng dẫn giải: Nhà thông thái đã nói đến tác dụng sinh học của ánh sáng. Ví dụ 5: Bạn Hiếu rất thích đọc truyện tranh. Bố mẹ sợ Hiếu sẽ sao nhãng học tập nên cấm Hiếu đọc truyện. Tuy nhiên để dấu bố mẹ, buổi tối trước khi đi ngủ Hiếu trùm kín chăn, rồi soi đèn pin để đọc. Rồi đến một ngày Hiếu không nhìn rõ chữ trên bảng, kết quả học tập cũng sút kém. Bố mẹ đưa Hiếu đi khám. Bác sĩ nói rằng mắt Hiếu chỉ còn nhìn rõ vật xa mắt nhất là 50 cm. Theo em mắt Hiếu bị tật gì? Phải đeo kính loại gì để khắc phục tật này. Thấu kính đó có tiêu cự bằng bao nhiêu? Hướng dẫn giải: Hiếu bị cận thị. Để khắc phục tật cận thị thì Hiếu phải đeo kính cận. Kính cận thích hợp có tiêu điểm trùng với điểm cực viễn của mắt. Vì vậy kính cận của Hiếu có tiêu cự bằng 50 cm. Ví dụ 6: Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi Trong một thị trấn nhỏ ven biển có 2 ông cháu, người ông mắc tật lão thị còn người cháu mắc tật cận thị. Họ đều đeo kính bên mình, một buổi chiều 2 ông cháu đi chơi trên một chiếc thuyền không may gặp hôm gió bão thuyền bị đánh dạt vào một hoang đảo. Qua một đêm mưa gió, mặt trời lên cao, ánh nắng chói chang. Hai ông cháu rất mệt và đói, họ cố gắng bắt được mấy con cá nhưng tiếc là không mang theo bật lửa để nhóm lửa. Trong lúc tuyệt vọng, người cháu bỗng reo lên: – Kính… kính của ông có thể dùng để nhóm lửa. Người ông ngạc nhiên không hiểu tại sao kính của mình lại có thể dùng để nhóm lửa. Em hãy dùng kiến thức vật lý để giải thích cách nhóm lửa của người cháu cho ông hiểu? 4.3.3. Giải pháp 3: Tích hợp kiến thức văn thơ vào dạy học vật lý Cách 1: Cho học sinh ghi nhớ các kết luận thông qua các câu thơ lục bát Ví dụ 7: Điện năng truyền tải đi xa, Ắt có hao phí tỏa ra môi trường; Giảm hao, U hãy tăng cường Chớ nên giảm trở (R) trên đường dây đi. Ví dụ 8: Mắt cận, cực viễn lại gần Mắt lão, cực cận lại lần ra xa. Ví dụ 9: Không gian mà có từ trường, Thì kim thử lệch hướng thường Bắc Nam. Ví dụ 10: Thủy tinh thể trong mắt ta, Là kính hội tụ khác xa kính thường; Cơ vòng khiến nó xẹp trương, Làm cho tiêu cự cũng thường đổi thay. Cách 2: Trả lời một số hiện tượng vật lý thực tế bằng thơ lục bát Ví dụ 11: Đôi khi ta quan sát được những luồng ánh nắng chiếu vào nhà qua những lỗ thủng tôn chẳng hạn, ta thấy có rất nhiều hạt bụi chuyển động hỗn độn. Có phải những hạt bụi đó biết bay hay không? Hãy giải thích. Hạt bụi nào có biết bay Là phân tử khí đẩy lay không ngừng. Ví dụ 12: Tình cờ bay qua cửa sổ vào trong nhà, con dơi thường rơi sà xuống đầu người. Tại sao? Hướng dẫn giải: Tóc đã hấp thụ mất sóng siêu âm của dơi, vì thế do không thể nhận được các sóng phản xạ, không thấy được các chướng ngại vật, nên dơi bay sà xuống đầu người. Tóc người hấp thụ sóng âm, Sóng không phản xạ dơi đâm vào đầu. Ví dụ 13: Tại sao người ta thường nói là thính như tai chó và thường hay nuôi chó để trông nhà. Một tai thì vểnh lên trời, Một tai áp đất đồng thời lắng nghe. Âm qua đất rắn trên hè, Âm qua không khí đều nghe rõ ràng. Ví dụ 14: Tại sao mùa đông chim chóc hay đứng xù lông vào mùa đông? Lạnh trời chim chóc xù lông, Tạo lớp áo khí, nhiệt không mất nhiều. Ví dụ 15: Vì sao trong một số nhà máy người ta thường xây những ống khói rất cao? Liên hệ thực tế và quan sát xem nhà máy điện gần trường em có ống khói hay không? Ống khói cao vút giữa trời, Đối lưu hiệu quả khói rời ra nhanh. Khói bay đến tận mây xanh, Tránh ô nhiễm tới xung quanh phố phường. Ví dụ 16: Tại sao người ta thường khuyên chúng ta nên mặc áo trắng hoặc sáng màu vào mùa hạ mà không nên mặc áo sẫm màu? Mùa hạ mang áo sẫm màu, Thu nhiều tia nhiệt hồi lâu nóng người. Mặc áo trắng sáng xinh tươi, Hạn chế thụ nhiệt nụ cười mát trong. Ví dụ 17: Vì sao các nhà khoa học khuyên chúng ta nên kê giường và nằm dọc theo hướng Bắc Nam mà không nên nằm theo hướng Đông Tây? Kê giường dọc hướng Tây Đông Ngủ hay mơ ác giấc không vẹn toàn Chuyển sang nằm hướng Bắc Nam Thuận trường Trái Đất, ngủ ngoan mộng lành Ví dụ 18: Nếu trong tay em có một thanh sắt mềm, em hãy đề xuất một phương án kiểm tra xem thanh sắt đó bị nhiễm từ hay chưa? Bẻ đôi đưa chúng lại gần, Nếu chúng tương tác ắt thân nhiễm từ. Ví dụ 19: Lúc chạy để tránh con chó săn đuổi bắt, con thỏ thường thoát thân bằng cách bất thình lình rẽ ngoặt sang hướng khác, đúng vào lúc con chó định ngoạm cắn nó. Tại sao làm như vậy chó lại khó bắt được thỏ? Chó săn mạnh hơn thỏ nhiều, Nên thỏ khôn khéo chẳng liều chạy đua. Đôi lúc thỏ đổi khúc cua, Chó săn lỡ trớn, khó lùa thỏ kia Ví dụ 20: Bong bóng xà phòng khi mới thổi phồng thì bay lên cao, sau đó một thời gian lại bay xuống thấp, và nếu giữa chừng không bị vỡ thì sẽ hạ xuống mặt đất. Giải thích điều này như thế nào? Bong bóng nhận khí nóng vào, Nhẹ hơn không khí bay cao lên trời. Lúc sau khí lạnh mất rồi, Giữa chừng chẳng vỡ lại rơi xuống nền. Cách 3: Sử dụng thơ lục bát để đặt câu hỏi khi kiểm tra bài cũ, kiểm tra định kì, dẫn dắt bài học…. Ví dụ 21: Em hãy đọc và nêu giải thích ý nghĩa vật lý của bài thơ sau: Điện năng truyền tải đi xa, Ắt có hao phí tỏa ra môi trường. Giảm hao, U hãy tăng cường Chớ nên giảm trở (R) trên đường dây đi. Ví dụ 22: – Giáo viên: Em hãy nhận xét về chỗ tiếp giáp giữa hai thanh ray Học sinh: chỗ tiếp giáp giữa hai thanh ray có một khe hở nhỏ – Giáo viên: Em hãy nhận xét về mặt đường bê tông Học sinh: mặt đường bê tông có xẻ những rãnh nhỏ – Giáo viên: Em hãy so sánh đường dây điện mùa đông và đường dây điện vào mùa hè Học sinh: dây điện mùa hè chùng hơn so với dây điện mùa đông – Giáo viên: Em hãy cho thầy biết người nha sĩ trong bức hình thứ tư đang khuyên em bé điều gì? Học sinh: Người nha sĩ khuyên em bé không nên ăn đồ ăn quá nóng thường xuyên vì có thể làm hỏng hàm răng Chắc hẳn trong đầu chúng ta đang xuất hiện những câu hỏi tại sao – Tại sao chỗ tiếp nối giữa hai đầu thanh ray lại có một khe hở ? – Tại sao mặt đường bê tông lại được xẻ thành những rãnh nhỏ? – Tại sao về mùa hè dây điện thường chùng hơn so với mùa đông? – Tại sao ăn đồ quá nóng thường xuyên lại có thể bị hỏng rang? Tất cả những câu hỏi tại sao ấy được thầy tổng hợp trong một bài thơ lục bát sau: Khoảng hở giữa những thanh ray Mặt đường xẻ rãnh chẳng hay ích gì? Hạ về: dây điện chùng đi? Ăn đồ quá nóng cớ chi hỏng hàm (răng)? Một em đọc bài thơ này cho các bạn cùng nghe nào. Bài học ngày hôm nay sẽ giúp chúng ta trả lời các câu hỏi đặt ra trong các câu thơ trên. Các em ghi bài mới Cách 4: Tích hợp với môn Ngữ Văn vào trong môn Vật lý * Trong bài 48. MẮT, SGK Vật lý 9, giáo viên có thể tích hợp với môn Ngữ văn ngay trong phần mở đầu bài: Giáo viên nói trong văn học và cuộc sống hàng ngày, các em thường được nghe nói ―mắt là cửa sổ tâm hồn‖, hay ―giàu hai con mắt khó đôi bàn tay‖ đã thể hiện vai trò cực kì quan trọng của Mắt. Vậy trong môn vật lý, mắt còn được xem như một thấu kính hội tụ nhưng có những điểm rất đặc biệt, đó là gì? Cô và các em sẽ cùng nghiên cứu bài học hôm nay bài 48 – MẮT. Khi giáo viên giảng xong phần I-Cấu tạo của mắt, để thay đổi không khí học tập, tạo nên những cảm xúc mới lạ và ghi nhớ kiến thức của bài học một cách hết sức tự nhiên mà vẫn sâu sắc, góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh. Giáo viên có thể vận dụng một số câu thơ của nhà thơ Quang Dũng có hình tượng đôi mắt để thay đổi không khí học tập thú vị hơn,bớt khô khan máy móc,chẳng hạn như. Giáo viên nói: Các em vừa tìm hiểu xong phần I.cấu tạo của mắt,biết được hai bộ phận quan trọng nhất của mắt là thuỷ tinh thể và màng lưới nhưng các em có biết hình tượng đôi mắt còn đi vào trong thơ văn với rất nhiều biểu cảm, sắc thái khác nhau,khiến cho người đọc nhớ mãi ,như trong bài thơ ―Tây Tiến‖:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùng Mắt trừng gởi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Sang phần II – Sự điều tiết của mắt, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ ở bài “Mắt người Sơn Tây” tích hợp thêm: Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương?…
Như vậy, cứ xen kẽ một cách nhẹ nhàng, tự nhiên học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng nhận xét được khi liên tưởng đến những sự vật hiện tượng đang học bằng hình ảnh miêu tả của các bài thơ. Mà chúng ta đều đã biết thơ văn dễ đi vào trí nhớ và tình cảm của con người nên kiến thức bài học cũng tự nhiên ngấm sâu vào các em. * Trong bài 55: Màu sắc các vật dƣới ánh sáng trắng và ánh sáng màu. Ở phần mở đầu bài giáo viên có thể tích hợp và đọc đoạn thơ: Em hỏi tôi yêu màu xanh hay tím? Tôi biết nói sao yêu màu tím hay xanh. Khi hoa xuân về đua nở đầy cành Muôn sắc, muôn hương, muôn màu rực rỡ. Giáo viên: Các em có biết màu xanh hay tím trong đoạn trên do đâu mà có không? Khi nào chúng ta nhìn thấy vật có màu sắc như nó vốn có hoặc màu sắc khác? Có phải là do ánh sáng chiếu vào nó? Bài học hôm nay sẽ giúp chúng ta trả lời câu hỏi đó trong bài 55. Màu sắc các vật dƣới ánh sáng trắng và ánh sáng màu. Như vậy ta thấy rằng: Sử dụng tích hợp kiến thức văn học trong giảng dạy Vật lý không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ lâu bài học mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học, tạo điều kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình. 4.3.4. Giải pháp 4: Tích hợp kiến thức sinh học vào dạy học vật lý
Ví dụ 23: Tại sao chim đậu trên dây điện trần mà không bị giật? Hướng dẫn giải: Chim đậu trên dây cao thế có thể xem như một vật dẫn song song và hai điểm gần nhau của dây. Vì điện trở của cơ thể chim lớn còn điện trở của dây dẫn nhỏ nên dòng điện đi qua cơ thể chim rất nhỏ không gây nguy hiểm cho chim
Ví dụ 24: Vì sao trần nhà trong buồng sơn màu trắng, còn bốn bức tường tốt nhất không sơn màu trắng? Hướng dẫn giải: Vách tường trong buồng quét vôi thành màu gì hoặc hoa văn ra sao chẳng những vì mỹ quan, mà còn phải cân nhắc đến vấn đề ánh sáng nữa. Vật thể màu trắng phản quang rất mạnh. Sơn trần nhà thành màu trắng, ban ngày nó sẽ phản quang ánh Mặt Trời xuống dưới, còn ban đêm có thể phản xạ ánh đèn xuống, làm cho gian buồng thêm sáng sủa, mà không ảnh hưởng gì tới mắt người cả, vì người chẳng mấy khi ngửa cổ nhìn lâu trên trần nhà. Thế thì tại sao bốn mặt vách tường tốt nhất không sơn thành màu trắng nhỉ? Đó là vì bốn bức tường nằm trong trường nhìn thấy của chúng ta. Bất cứ bạn ngồi hay đứng, nhìn trái, nhìn phải hoặc nhìn trước nhìn ra sau, mắt đều gặp phải bức tường. Nếu bốn bức tường cũng lại sơn thành màu trắng, thế thì ánh Mặt Trời hoặc ánh đèn chiếu lên vách tường trắng sẽ sinh ra phản quang rất mạnh, và trực tiếp rọi vào mắt người, làm cho mắt cảm thấy rất khó chịu. Điều đó không có lợi đối với con mắt. Mọi người đều có thể nghiệm này: Đọc sách báo dưới ánh Mặt Trời tương đối chói chang thì mắt sẽ cảm thấy rất mệt mỏi chính là vì lẽ đó. Vì vậy, vách tường xung quanh phòng tốt nhất là sơn thành màu xanh nhạt, màu vàng lúa hoặc màu lam nhạt. Ánh sáng phản xạ của chúng tương đối dịu, sẽ không làm cho mắt bị kích thích. Ví dụ 25: Vì sao người ta hay huấn luyện chim bồ câu để đưa thư? Hướng dẫn giải: Loài chim bồ câu có một khả năng đặc biệt, đó là có thể xác định được phương hướng chính xác trong không gian. Sở dĩ như vậy bởi vì trong bộ não của chim bồ câu có các hệ thống như la bàn, chúng được định hướng theo từ trường Trái Đất. Sự định hướng này có thể bị đảo lộn nếu trong môi trường có quá nhiều nguồn phát sóng điện từ. Vì vậy, bảo vệ môi trường tránh ảnh hưởng tiêu cực của sóng điện từ là góp phần bảo vệ thiên nhiên. Ví dụ 26: Do đâu mà các chỗ chai cứng ở chân lại bị đau trước khi trời mưa? Hướng dẫn giải: Trước khi trời mưa, áp suất khí quyển thường giảm xuống. Sự giảm áp suất bên ngoài làm cho các tế bào ở chân giãn nở chút ít, chỗ chai cứng lại không thể giãn nở như các phần mềm khác của cơ thể nên đã tạo ra sự kích thích thần kinh và có cảm giác đau. Ví dụ 27: Tại sao khi ở nơi có áp suất thấp, ví dụ trên núi cao, ta thường thấy đau trong tai và thậm chí đau khắp toàn thân? Hướng dẫn giải: Điều này được giải thích là trong cơ thể người có một số chỗ chứa không khí, ví dụ như dạ dày, tai giữa, hộp sọ và những chỗ lõm của xương hàm trên. Áp suất không khí trong các chỗ đó cân bằng với áp suất khí quyển. Khi áp suất bên ngoài ép lên cơ thể giảm đi nhanh chóng, không khí có ở bên trong cơ thể nở ra, gây nên sự đè ép lên các bộ phận khác nhau và làm cho đau đớn. Ví dụ 28: Con voi lợi dụng áp suất không khí như thế nào để uống nước? Hướng dẫn giải: Cổ voi ngắn và nó không thể cúi xuống mặt nước như nhiều động vật khác. Voi đã thò vòi xuống và hít không khí vào, khi đó nhờ áp suất của không khí bên ngoài mà nước chảy vào được vòi. Khi vòi đã đầy nước, voi ngẩng lên và dốc nước vào miệng. Tất nhiên, voi không hề biết đến áp suất không khí nhưng nó đã vận dụng như vậy mỗi khi uống nước. Ví dụ 29: Tại sao những con dơi đang bay, ngay cả trong đêm tối dày đặc, cũng không hề va đập vào các chướng ngại vật? Hướng dẫn giải: Con dơi phát ra những âm khác nhau, song hầu hết những âm này đều nằm trong dải tần ngoài giới hạn nghe được của người. Trong khi bay, con dơi liên tục phát ra đằng trước các xung lượng siêu âm. Nếu trên đường đi, sóng siêu âm gặp một vật nào đó thì từ vật đó sẽ sinh ra sóng phản xạ – tín hiệu dội – tín hiệu này được con vật tiếp nhận. Nhờ có tín hiệu dội nên con dơi phát hiện được các vật nhỏ bé đang chuyển động mà thị giác của con dơi không thấy được. Dơi không những sử dụng tín hiệu dội để định hướng mà còn dùng để tìm kiếm thức ăn. Máy đo độ sâu và các máy dò khuyết tật khác hoạt động theo nguyên tắc cơ quan định vị siêu âm của dơi. Ví dụ 30: Tại sao khi lạnh người ta lại run lên cầm cập? Hướng dẫn giải: Run là một trong những hình thức tự vệ của cơ thể để chống lạnh. Lúc cơ thể rét run, các cơ co lại, công của cơ được biến đổi thành nhiệt trong cơ thể. Ví dụ 31: Tại sao lá nhiều loài cây cuộn lại khi gặp hạn? Hướng dẫn giải: Mặt dưới lá cây có nhiều lỗ khí. Để giảm bớt sự thoát hơi nước, lá phải quăn lại. Mặt dưới lá mặt trời bị đốt nóng ít hơn nên thoát hơi nước yếu hơn. Ví dụ 32: Tại sao nhiều cây sống ở sa mạc lá lại được thay bằng gai? Hướng dẫn giải: Ở nhiều cây, gai thay thế cho lá là nhằm giúp cho cây tiết kiệm được nhiều hơn lượng nước hao phí, vì gai này bị mặt trời đốt nóng ít hơn là lá cây, do đó sự thoát hơi nước cũng yếu đi nhiều. Ví dụ 33: Tại sao khi trời nóng chó hay thè lưỡi? Hướng dẫn giải: Sự bay hơi mồ hôi trên cơ thể động vật tạo điều kiện cho sự trao đổi nhiệt, nhưng các tuyến mồ hôi ở con chó chỉ nằm ở các đệm của ngón chân, vì vậy để làm cho cơ thể được dịu mát trong ngày nóng bức, con chó há rộng mõm và thè lưỡi ra, quá trình bay hơi của nước bọt ở khoang miệng và lưỡi làm cho nhiệt độ cơ thể chó hạ xuống. Ví dụ 34: Ở người và động vật, không khí thở ra bao giờ cũng có hơi nước. Nhưng tại sao chỉ nhận ra hơi nước vào những lúc trời lạnh? Hướng dẫn giải: Lúc trời lạnh, đã xảy ra sự ngưng tụ hơi nước thở ra. Những giọt nước nhỏ li ti được tạo ra đó làm tán xạ các tia nắng mặt trời và nhờ đó thấy rõ được. Ví dụ 34: Tại sao vào những ngày nóng nực chim lại xù lông
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến. Vật lí là một bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lí ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt buộc, mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong những tác dụng của thí nghiệm vật lí là tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt học sinh và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của thí nghiệm trong dạy học vật lí còn được quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của HS dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thí nghiệm vật lí hiểu theo nghĩa rộng còn là một trong những phương pháp dạy học vật lí ở trường phổ thông. Đó là cách thức hoạt động của thầy và trò, giúp cho trò tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng, kĩ xảo, đặc biệt là kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Thêm vào đó, thí nghiệm còn có tác dụng giúp cho việc dạy học vật lí tránh được tính chất giáo điều, hình thức đang phổ biến trong dạy học hiện nay. Ngoài ra, thí nghiệm vật lí còn góp phần giúp cho HS củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho HS. Tuy nhiên, chương trình Vật lý hiện nay vẫn còn nặng về mặt kiến thức. Cơ sở vật chất dành cho phòng học bộ môn Vật lý ở nhiều trường còn hạn chế nên thực hiện các thí nghiệm cũng gặp nhiều khó khăn, giáo viên đa số vẫn dạy theo phương pháp truyền thống. Học sinh ít có điều kiện tiếp xúc với thí nghiệm thực hành cùng với lối học thụ động nên việc tự chủ xây dựng kiến thức cũng nhưng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của HS chưa cao. Một trong các cách tiếp cận để xây dựng phương tiện dạy học mới là tìm cách sử dụng những thiết bị kĩ thuật mới, những vật liệu mới để tiến hành những thí nghiệm Vật lý quen thuộc. Nếu tận dụng được các ưu thế của chúng một cách phù hợp, thì ta có thể thực hiện được những thí nghiệm mà thiết bị kĩ thuật truyền thống chưa tiến hành được hoặc tiến hành rất phức tạp. Khắc phục được tình trạng thiếu trang thiết bị thí nghiệm ở các trường học phổ thông. Việc 2 tiến hành thí nghiệm hay học tập không chỉ giới hạn trong trường học mà HS có thể tự nghiên cứu, tìm tòi ở nhà. Một trong những thiết bị kĩ thuật mới tuy mới ra đời nhưng ngày nay không còn xa lạ với chúng ta chính là điện thoại thông minh. Cuộc sống hiện đại đã khiến điện thoại thông minh trở nên phổ biến, tiện dụng và trở thành xu hướng. Điện thoại thông minh không chỉ là một công cụ dùng để trao đổi thông tin thông qua đàm thoại mà còn được tích hợp nhiều tính năng mới như: quay phim, chụp ảnh, nghe nhạc, chạy các phần mềm, trong đó có các phần mềm dạy học như các phần mềm mô phỏng hay các phòng thí nghiệm ảo hay các phần mềm phân tích video vật lí. Các phần mềm với đồ họa đẹp mắt, sinh động sẽ giúp học sinh dễ dàng hình dung các hiện tượng Vật lí. Ngoài ra, các phần mềm sẽ giúp cho việc thu thập số liệu, tính toán các đại lượng trung gian và vẽ các đồ thị thực nghiệm một cách nhanh chóng. Từ đó, tạo điều kiện để học sinh căn cứ vào dữ liệu đưa ra các dự đoán, giả thuyết. Điện thoại và các phần mềm dạy học sẽ tạo điều kiện cho việc dạy học các quá trình vật lí biến đổi nhanh theo hướng tăng cường hoạt động tự chủ giải quyết vấn đề của học sinh. Theo kết quả khảo sát của Sở Y tế và Đại học Y Dược TP.HCM công bố vào tháng 1/ 2014, Việt Nam là nước có HS sử dụng ĐTDĐ thuộc hàng cao nhất thế giới. Đến 950/1.000 HS THCS được khảo sát có dùng ĐTDĐ, riêng tại TP.HCM có 8% học sinh “nghiện” ĐTDĐ, cao gần gấp ba lần so với Hàn Quốc. Với đời sống kinh tế càng nâng cao, và chi phí của điện thoại thông minh ngày càng giảm xuống, thì việc HS sở hữu một cái điện thoại thông minh không còn gì xa lạ. Tuy nhiên hầu hết các HS đều mới chỉ sử dụng điện thoại thông minh như một phương tiện giải trí (lướt web, xem phim, lướt facebook,..) mà chưa biết cách sử dụng điện thoại thông minh vào học tập sao cho hiệu quả. Xuất phát từ những lí do trên, tôi xét thấy cần phải vận dụng những tính năng của điện thoại thông minh để hỗ trợ cho việc học tập, đặc biết đối với môn học gắn liền với nhiều thực tiễn như Vật lý. Từ đó, tôi đã mạnh dạn lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả các hoạt động thí nghiệm môn vật lý THCS nhờ hỗ trợ của điện thoại thông minh”. 3 II. Mô tả giải pháp kĩ thuật. II.1. Mô tả giải pháp kĩ thuật trƣớc khi tạo ra sáng kiến. Để tìm hiểu các hoạt động thí nghiệm Vật lí và việc sử dụng điện thoại thông minh của HS THCS tôi tiến hành điều tra nhƣ sau: II.1.1. Mục đích điều tra. – Tìm hiểu thực tế việc dạy và học môn Vật lý ở THCS, cụ thể: + Thực trạng tổ chức các hoạt động thí nghiệm vật lí ở trường THCS. + Việc khai thác và sử dụng thí nghiệm của GV trong quá trình dạy học. + Việc khai thác và sử dụng các phương tiện dạy học kĩ thuật số trong việc dạy học của GV cũng như việc học tập của HS. + Hoạt động của HS trong giờ học. Sự tích cực, sáng tạo, hứng thú tham gia xây dựng bài học của HS. + Hoạt động tự học ở nhà của HS. – Tìm hiểu việc sử dụng điện thoại thông minh của HS, cụ thể: + Số lượng HS đã sử dụng điện thoại thông minh. + Khả năng sử dụng điện thoại thông minh để hỗ trợ học tập của HS, đặc biệt là trong bộ môn Vật lý. II.1. 2. Phương pháp điều tra. Để thực hiện các mục đích trên, tôi đã tiến hành: – Điều tra trên HS thông qua các phiếu điều tra (Phụ lục 1) và qua trao đổi trực tiếp. – Tìm hiểu khảo sát cơ sở vật chất, thiết bị dạy học như các dụng cụ thí nghiệm, máy vi tính,… – Phân tích kết quả điều tra. II.1. 3. Kết quả điều tra. Tôi đã tiến hành điều tra với HS ở trường THCS Lê Đức Thọ, thành phố Nam Định thông qua 100 phiếu điều tra và trao đổi trực tiếp với 20 HS. Trên cơ sở phân tích kết quả điều tra, tôi đi đến những nhận định sau: II.1.3.1. Về tình trạng cơ sở vật chất. – Thuận lợi: 4 + Trường đã được trang bị các phương tiện đồ dùng dạy học ở cả bốn khối lớp theo danh mục các thiết bị đồ dùng dạy học tối thiểu được cung cấp cho các trường THCS. + Nhà trường đã mua bổ sung các dụng cụ thí nghiệm thay thế cho các thiết bị đã hỏng hoặc không sử dụng được. + GV và HS tổ chức tự làm dụng cụ thí nghiệm bổ sung cho nhà trường. – Khó khăn: + Một số bộ thí nghiệm sử dụng không hiệu quả, tốn nhiều thời gian. + Các dụng cụ thí nghiệm được cấp về trong thời gian khá lâu nên một số dụng cụ đã xuống cấp nên khi tiến hành thí nghiệm hiện tượng không rõ rệt; độ chính xác chưa cao… + Tuy đã được nhà trường mua và bổ sung thêm các dụng cụ thí nghiệm hằng năm, nhưng do kinh phí còn hạn hẹp nên còn thiếu nhiều loại dụng cụ thí nghiệm. + Có những thí nghiệm biểu diễn, chứng minh về chất lượng và số lượng chưa đủ để đảm bảo tốt (thời lượng, hiệu quả…) trong quá trình dạy học. + Có các hiện tượng Vật Lí trừu tượng, chưa thể thực hiện thí nghiệm để quan sát thấy, ví dụ như: thí nghiệm về số đường sức từ xuyên qua tiết diện của cuộn dây dẫn, giải thích nguyên lý hoạt động của máy biến thế. II.1.3.2. Về việc thực hiện thí nghiệm của GV khi dạy học – Thuận lợi: + Nhiều giáo viên tâm huyết với nghề, được đào tạo chuyên môn vật lí bài bản. luôn có ý thức đưa thí nghiệm vào trong quá trình giảng dạy vật lí. + Trường có nhân viên phụ trách thiết bị bài bản. – Hạn chế: Một số GV không tiến hành đầy đủ thí nghiệm theo yêu cầu của chương trình khi dạy học. Nhìn chung GV chỉ mô tả thí nghiệm theo hình vẽ trong SGK để qua đó HS thu nhận kiến thức. GV có tâm lí ngại làm thí nghiệm là do: + Trường còn thiếu giáo viên được đào tạo môn Vật lí. GV dạy kiêm nhiệm nên trình độ thực hành yếu, dẫn đến ngại làm thí nghiệm. 5 + GV sợ không đảm bảo về mặt thời gian, sự thành công khi tiến hành dạy học. Mặt khác, khi tiến hành TN, hiện tượng diễn ra không rõ ràng và khó quan sát, HS ở dưới lớp hầu như không quan sát được hiện tượng. + Chế độ thi cử còn nặng nề về lí thuyết, chưa quan tâm đúng mức đến thực hành. II.1.3.3.Về tình hình học tập vật lí của HS. – Thuận lợi: + Trường có nhiều HS giỏi, ham học, tích cực tìm tòi nghiên cứu kiến thức mới. + Trong quá trình làm thí nghiệm, HS tích cực hoạt động nhóm, hợp tác cùng nhau tìm ra kiến thức mới. – Hạn chế: + Các bộ thí nghiệm dùng chung cho HS trong phòng thực hành còn hạn chế về số lượng, dẫn đến nhiều HS ít có cơ hội thao tác nhiều, gây giới hạn về hứng thú học tập cho các em. +Ngoài các thí nghiệm HS được thao tác ngay trên lớp, thì cũng có khá nhiều thí nghiệm đòi hỏi trí tưởng tượng của các em. Điều đó dẫn đến việc các em không hiểu hay hiểu sai vấn đề giáo viên muốn truyền đạt. II.1.3.4. Về việc sử dụng điện thoại để hỗ trợ học tập của HS. Việc sử dụng điện thoại di động khá phổ biến ở HS. Theo kết quả điều tra, 96% HS được điều tra có sử dụng điện thoại di động, trong đó 60% HS sử dụng điện thoại thông minh. Thời gian HS sử dụng điện thoại khá nhiều. Tuy nhiên HS chủ yếu sử dụng điện thoại để nghe gọi, nhắn tin, nghe nhạc, lên facebook,… Một số rất ít HS sử dụng điện thoại để tìm hiểu lời giải các bài tập chưa biết làm. Tuy nhiên, không có HS nào biết sử dụng điện thoại để thu thập dữ liệu; sử dụng các phần mềm mô phỏng vật lí, phòng thí nghiệm ảo vật lí, phân tích video để xây dựng kiến thức, hay kiểm nghiệm kiến thức vật lí để tự học hay ôn tập Vật lí. Từ những thực trạng trên, tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp sẽ dùng điện thoại thông minh để hỗ trợ cho các hoạt động thí nghiệm Vật lí: Sử dụng điện thoại 6 thông minh để thu thập dữ liệu, thông qua phần mềm của điện thoại để phân tích hiện tượng vật lí; Tự tiến hành các thí nghiệm ảo; hoặc quan sát các thí nghiệm vật lí ảo khi các thí nghiệm đó khó thực hiện được trong điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. Từ đó học sinh được học Vật lí một cách trực quan, sinh động hơn, nâng cao hiệu quả học tập bộ môn Vật lí. II.2. Mô tả giải pháp kĩ thuật sau khi có sáng kiến. II.2.1. Vai trò của thí nghiệm trọng dạy học vật lí ở trường THCS. – Thí nghiệm có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy học. Thí nghiệm Vật lí có thể được sử dụng trong tất cả các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy học như đề xuất vấn đề nghiên cứu, giải quyết vấn đề (hình thành kiến thức, kĩ năng mới…), củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng, kĩ xảo của HS. – Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh. Việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học góp phần quan trong vào việc hoàn thiện những phẩm chất và năng lực của HS, đưa đến sự phát triển toàn diện cho người học. Trước hết, thí nghiệm là phương tiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo Vật lí cho HS. Nhờ thí nghiệm HS có thể hiểu sâu hơn bản chất Vật lí của các hiện tượng, định luật, quá trình… được nghiên cứu và do đó có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của HS sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn. Truyền thụ cho HS những kiến thức phổ thông cơ bản là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động dạy học. Để làm được điều đó, GV cần nhận thức rõ việc xây dựng cho HS một tiềm lực, một bản lĩnh, thể hiện trong cách suy nghĩ, thao tác tư duy và làm việc để họ tiếp cận với các vấn đề của thực tiễn. Thông qua thí nghiệm, bản thân HS cần phải tư duy cao mới có thể khám phá ra được những điều cần nghiên cứu. Thực tế cho thấy, trong dạy học Vật lí, đối với các bài giảng có sử dụng thí nghiệm, thì HS lĩnh hội kiến thức rộng hơn và nhanh hơn, HS quan sát và đưa ra những dự đoán, những ý tưởng mới, nhờ đó 7 hoạt động nhận thức của HS sẽ được tích cực và tư duy của các em sẽ được phát triển tốt hơn. – Thí nghiệm là phương tiện góp phần quan trọng vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh. Thông qua việc tiến hành thí nghiệm, HS có cơ hội trong việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành, góp phần thiết thực vào việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho HS. Thí nghiệm còn là điều kiện để HS rèn luyện những phẩm chất của người lao động mới, như: đức tính cẩn thận, kiên trì, trung thực… Xét trên phương diện thao tác kĩ thuật, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của thí nghiệm đối với việc rèn luyện sự khéo léo tay chân của HS. Hoạt động dạy học không chỉ dừng lại ở chỗ truyền thụ cho HS những kiến thức phổ thông cơ bản đơn thuần mà điều không kém phần quan trọng ở đây là làm thế nào phải tạo điều kiện cho HS tiếp cận với hoạt động thực tiễn bằng những thao tác của chính bản thân họ. Trong dạy học Vật lí, đối với những bài giảng có thí nghiệm thì GV cần phải biết hướng HS vào việc cho họ tự tiến hành thí nghiệm, có như vậy kiến thức các em thu nhận được sẽ vững vàng hơn, rèn luyện được cho các em sự khéo léo chân tay, khả năng quan sát tinh tế, tỉ mỉ hơn và chính xác hơn. Có như thế, khả năng hoạt động thực tiễn của HS sẽ được nâng cao. – Thí nghiệm là phương tiện kích thích hứng thú học tập của học sinh Thí nghiệm là phương tiện gây hứng thú, là yếu tố kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của HS học tập, nhờ đó làm cho các em tích cực và sáng tạo hơn trong quá trình nhận thức. Chính nhờ thí nghiệm và thông qua thí nghiệm mà ở đó HS tự tay tiến hành các thí nghiệm, các em sẽ thực hiện các thao tác thí nghiệm một cách thuần thục, khơi dậy ở các em sự say sưa, tò mò để khám phá ra những điều mới, những điều bí ẩn từ thí nghiệm và cao hơn là hình thành nên những ý tưởng cho những thí nghiệm mới. Đó cũng chính là những tác động cơ bản, giúp cho quá trình hoạt động nhận thức của HS được tích cực hơn. 8 Thông qua thí nghiệm, nhờ vào sự tập trung chú ý, quan sát sự vật, hiện tượng có thể tạo cho HS sự ham thích tìm hiểu những đặc tính, quy luật diễn biến của hiện tượng đang quan sát. Khi giác quan của HS bị tác động mạnh, HS phải tư duy cao độ từ sự quan sát thí nghiệm, chú ý kĩ thí nghiệm để có những kết luận, những nhận xét phù hợp. – Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức hoạt động của học sinh Thí nghiệm là phương tiện tổ chức các hình thức làm việc độc lập hoặc tập thể qua đó góp phần bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức của HS. Qua thí nghiệm đòi hỏi HS phải làm việc tự lực hoặc phối hợp tập thể, nhờ đó có thể phát huy vai trò cá nhân hoặc tính cộng đồng trách nhiệm trong công việc của các em. – Thí nghiệm vật lý góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng và quá trình vật lý Thí nghiệm Vật lí góp phần đơn giản hoá hiện tượng, tạo trực quan sinh động nhằm hỗ trợ cho tư duy trừu tượng của HS, giúp cho HS tư duy trên những đối tượng cụ thể, những hiện tượng và quá trình đang diễn ra trước mắt họ. Các hiện tượng trong tự nhiên xảy ra vô cùng phức tạp, có mối quan hệ chằng chịt lấy nhau, do đó không thể cùng một lúc phân biệt những tính chất đặc trưng của từng hiện tượng riêng lẻ, cũng như không thể cùng một lúc phân biệt được ảnh hưởng của tính chất này lên tính chất khác. Chính nhờ thí nghiệm Vật lí đã góp phần làm đơn giản hoá các hiện tượng, làm nổi bật những khía cạnh cần nghiên cứu của từng hiện tượng và quá trình Vật lí giúp cho HS dễ quan sát, dễ theo dõi và dễ tiếp thu bài. II.2.2. Sử dụng điện thoại thông minh nâng cao hiệu quả các hoạt động thí nghiệm Vật lí THCS. – Điện thoại thông minh là khái niệm để chỉ loại điện thoại tích hợp một nền tảng hệ điều hành di động với nhiều tính năng hỗ trợ tiên tiến về điện toán và kết nối dựa trên nền tảng cơ bản của điện thoại di động thông thường. – Ngày nay, điện thoại thông minh đã trở thành một vật dụng quen thuộc trong cuộc sống của chúng ta. Cùng với sự phát triển của công nghệ, điện thoại thông minh không chỉ là một công cụ dùng để trao đổi thông tin thông qua đàm 9 thoại mà còn được tích hợp nhiều tính năng như: quay phim, chụp ảnh, nghe nhạc, chạy các phần mềm… – Trong dạy học vật lí, ta có các tính năng sau của điện thoại thông minh: + Tính năng chụp ảnh quay phim, truy cập dữ liệu mạng : Dùng để thu thập tư liệu. + Tính năng chạy phần mềm: Dùng chạy các phần mềm dạy học vật lí: phần mềm mô phỏng vật lí, phần mềm phân tích băng hình, phần mềm tiến hành thí nghiệm vật lí ảo. II.2.3. Sử dụng điện thoại thông minh để thu thập tư liệu Vật lí. – Với tính năng chụp ảnh, quay phim, học sinh có thể sử dụng điện thoại thông minh để ghi lại các hiện tượng tự nhiên, các ứng dụng kĩ thuật Vật lí trong cuộc sống hoặc ghi lại các thí nghiệm trong quá trình học tập… Giúp học sinh có thể xem lại các tư liệu vật lí, trên cơ sở đó phân tích dữ liệu, hình thành hoặc kiểm nghiệm lại các hiện tượng hay kiến thức vật lí một cách chính xác, cẩn thận. Ví dụ về sử dụng điện thoại thông minh ghi lại thí nghiệm tác dụng hóa học của dòng điện:
Trước khi cho dòng điện chạy qua dung dịch muối đồng
Sau khi cho dòng điện chạy qua dung dịch muối đồng.
– Ngoài ra, học sinh có thể sử dụng tính năng truy cập mạng để tìm kiếm dữ liệu điện tử vật lí lưu trữ dưới dạng văn bản, âm thanh, ảnh chụp, ảnh động, video. Việc sử dụng tài liệu điện tử cho phép trình bày các hình ảnh đẹp, trực quan, cho phép quan sát các hiện tượng vật lí hay các thí nghiệm vật lí không có 10 điều kiện thực hiện trên lớp học. Việc sử dụng các tài liệu điện tử như vậy giúp HS hiểu sâu sắc hơn các hiện tượng vật lí, tiếp thu nhanh chóng kiến thức vật lí. Ví dụ về sử dụng dữ liệu điện tử vật lí:
Hình ảnh về cầu vồng kép
Video: Nguyên lí hoạt động của động cơ điện một chiều.
II.2.4. Sử dụng điện thoại thông minh chạy phần mềm dạy học Vật lí để phân tích băng hình, chạy các phần mềm mô phỏng vật lý, tiến hành các thí nghiệm vật lí ảo. II.2.4.1. Phần mềm dạy học. – Phần mềm dạy học + Là phần mềm được thiết kế nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình dạy của giáo viên và quá trình học tập của học sinh bám sát mục tiêu, chương trình SGK. + Phần mềm dạy học được xây dựng dựa trên: Đối tượng sử dụng; Nội dung môn học; Mục đích lý luận dạy học. + Phần mềm dạy học là phương tiện dạy học hiện đại có tính năng ưu việt hơn so với các loại phương tiện thông dụng, là một chương trình được lập trình sẵn, có thể mang lượng thông tin lớn, chọn lọc ở mức cần và đủ theo nhu cầu của nhiều đối tượng. + Phần mềm dạy học góp phần đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tố chức dạy học. Có khả năng trình bày một cách trực quan,tinh giản, dễ hiểu, giúp HS nắm nội dung của chương trình 11 + Phần mềm dạy học là một thiết bị dạy học tổng hợp giúp giáo viên và học sinh làm việc một cách dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm nhiều thời gian. – Phần mềm dạy học Vật lí. + Là một phần mềm dạy học được các chuyên gia tin học viết dựa trên cơ sở các kiến thức Vật lí, các hiểu biết hợp lý được các nhà sư phạm, nhà vật lí soạn sẵn, có thể được giáo viên và học sinh dùng vào việc dạy và học kiến thức Vật lí thông qua máy tính hoặt điện thoại thông minh. + Một phần mềm dạy học Vật lí có chất lượng phải đảm bảo tiêu chuẩn của một phần mềm dạy học. Trước hết phải đáp ứng một cách đầy đủ các yêu cầu sư phạm về nội dung,hình thức và phương pháp, ngoài ra phần mềm phải có lợi ích và phù hợp với nội dung chương trình học. + Nội dung phần mềm dạy học vật lí phải đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, tính thiết thực, tính cập nhật của những kiến thức, kỹ năng theo mức độ quy định trong chương trình vật lí, phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức của từng học sinh và tính hoa học trong từng thao tác. – Phân loại phần mềm hỗ trợ các hoạt động thí nghiệm Vật lí: + Phần mềm phân tích video nghiên cứu các quá trình Vật lí biến đổi nhanh. + Phần mềm mô phỏng các quá trình, hiện tượng Vật lí. + Phần mềm thí nghiệm ảo Vật lí. II.2.4.2. Sử dụng ĐTDĐ để phân tích video Vật lí bằng phần mềm Video Physics. – Trong nghiên cứu vật lí, có những quá trình xảy ra quá nhanh hoặc trong không gian rộng khó quan sát, khó đo đạc bằng các phương tiện, thiết bị hiện có trong phòng thí nghiệm. Ví dụ: Chuyển động quả bóng rơi hay chuyển động của con lắc đơn trong bài Cơ năng và sự chuyển hóa năng lượng – Vật lí 8. Đây là khó khăn trong nghiên cứu ở trường phổ thông, trong SGK đã sử dụng phương pháp chụp ảnh hoạt nghiệm. Về nguyên tắc thì trong phương pháp này ta cần ghi 12 và đo trên băng giấy hay trên phim ảnh các quãng đường đi được trong những khoảng thời gian cố định bằng nhau trong quá trình vật chuyển động. Việc sử dụng phương pháp này chỉ giới hạn trong nghiên cứu ở phòng thí nghiệm. Hơn nữa, khi sử dụng phương pháp này, việc thu thập số liệu đo (bao gồm việc xác định toạ độ của vật cũng như các quãng đường trên băng giấy hay phim ảnh) là khó chính xác, mất thời gian. Thêm vào đó, từ các số liệu đo được, để phân tích, xử lí nó (tính toán, lập bảng, biểu diễn các mối quan hệ trên đồ thị…) cũng đòi hỏi khá nhiều thời gian. Chính vì lí do đó, trong thực tế dạy học phổ thông hiện nay khi sử dụng các phương pháp này thì các thí nghiệm thường được tiến hành dưới dạng thí nghiệm minh hoạ. Để khắc phục các hạn chế kể trên, một trong các phương pháp mới được đưa ra là: Phương pháp phân tích video nhờ phần mềm trên máy tính và điện thoại thông minh. Gần đây đã có một số phần mềm phân tích băng hình lập trình cho ĐTDĐ, tiêu biểu là phần mềm Video Physics. Nguyên tắc chung của phương pháp này là: Video quá trình vật lí thực dưới dạng Analog được chuyển thành các tín hiệu số nhờ quá trình số hóa. Nhờ các phần mềm đọc các số liệu đã số hóa, hiển thị lại quá trình vật lí trên màn hình, thu thập, sử lí số liệu. Phần mềm này cho phép phân tích các đoạn phim quay bằng chính ĐTDĐ để rút ra quy luật chuyển động của các vật. * Ví dụ: sử dụng phần mềm phân tích video Video Physics nghiên cứu thí nghiệm quả bóng rơi\SGK\Vật lí 8\Bài 17. – Vấn đề: Để nghiên cứu sự chuyển hóa của các dạng cơ năng, SGK Vật lí 8 đã đưa ra thí nghiệm quả bóng rơi thể hiện ở hình 17.1 ghi lại vị trí của quả bóng đang rơi sau những khoảng thời gian bằng nhau. Từ đó yêu cầu HS đưa ra nhận xét về sự thay đổi của độ cao và vận tốc của quả bóng trong thời gian quả bóng rơi. Từ đó, đưa ra kết luận về sự thay đổi động năng và thế năng của quả bóng trong quá trình quả bóng rơi. Tuy nhiên, khi HS nhận xét về sự thay đổi vận tốc của quả bóng lại không phải từ tư duy logic mà từ ước lượng và kiến thức trong thực tế của HS. Điều này là áp đặt và không mang tính trực quan cho HS. 13 – Giải pháp: Sử dụng phần mềm Video Physics nghiên cứu quá trình quả bóng rơi có thể dễ dàng đánh dấu lại những vị trí của quả bóng sau những khoảng thời gian bằng nhau mà không cần dùng đến phương pháp thực nghiệm phức tạp trong phòng thí nghiệm. – Thực hiện: + Mở chương trình Video physics. + Lựa chọn Video cần phần tích theo nội dung bài học. Người dùng có thể chọn video có sẵn trong phần mềm hoặc sử dụng chức năng quay quá trình chuyển động của vật. Lưu ý khi sử dụng chức năng quay quá trình chuyển động của vật: đặt ĐTDĐ đủ xa vật và phương của điện thoại song song với mặ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: Theo nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục thì giáo dục cấp THCS nằm trong giai đoạn giáo dục cơ bản. Quá trình dạy học cần đổi mới từ dạy học tiếp cận nội dung sang dạy học tiếp cận năng lực. Việc dạy học Vật lý không những giúp người học phát triển các năng lực chung mà còn phát triển các năng lực chuyên biệt. Năng lực chuyên biệt cần phát triển khi dạy học Vật lý là năng lực nghiên cứu khoa học và năng lực thực nghiệm. Mà con đường ngắn nhất giúp phát triển 2 năng lực này chính là để người học tiếp cận nhiều nhất với thực nghiệm trong dạy học đặc biệt là qua hình thức sinh hoạt câu lạc bộ STEM. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của giáo dục là cần đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, học đi đôi với hành, nhằm phát huy phẩm chất, phát triển năng lực cho người học, tạo ra hứng thú, khơi gợi đam mê nghiên cứu khoa học, hướng dẫn học sinh tập làm quen với phương pháp làm các sản phẩm khoa học. Vật lý là môn Khoa học thực nghiệm, gắn bó chặt chẽ với đời sống của con người, dựa trên những hiểu biết về các hiện tượng Vật lý, học sinh có thể chế tạo các sản phẩm phục vụ hữu ích cho đời sống, đồng thời Vật lý cũng gắn bó với các môn học khác như Toán học, Công nghệ, Hóa học , Sinh học, Văn học…nên có thể sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học Vật lý.
II.
MÔ TẢ GIẢI PHÁP: 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
Đối với học sinh lớp 7, theo chương trình phổ thông, đây là năm thứ 2 các con được làm quen với môn Vật lý, các con được học các kiến thức quang học về định luật truyền thẳng ánh sáng, định luật phản xạ ánh sáng, sự tạo ảnh của vật qua gương phẳng, qua hệ gương phẳng; học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết nhu cầu thực tiễn là cần quan sát các vật xung quanh khi có chướng 4 ngại vật hay bị ngăn cản, ví dụ người dưới tàu, thuyền cần quan sát trên mặt biển, người dưới đường ngầm cần quan sát trên mặt đất… Để thực hiện được buổi sinh hoạt câu lạc bộ STEM, giáo viên khuyến khích học sinh thảo luận, đưa ra ý tưởng, sau một số ngày suy nghĩ các con cho biết những ý tưởng của mình hầu như đều bị trùng lặp với các ý tưởng đã có trên mạng internet. Từ đó, đặt ra cho giáo viên suy nghĩ cần phải có sự sáng tạo, làm sao tổ chức cho các con hoạt động trải nghiệm thực tế vừa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và nhận thức của các con, vừa đem lại sự thiết thực, bổ ích cho đời sống của chính các con và gia đình. Vì vậy, giáo viên đã gợi ý cho các con 2 ý tưởng (1)Làm kính tiềm vọng đơn giản (2)Làm túi ủ từ muối, ngải cứu và cám gạo. Những ý tưởng này khi đưa ra được học sinh ủng hộ nhiệt tình, các con hăng hái tham gia. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Trước đây, học sinh khi học về các hiện tượng phản xạ ánh sáng, thường được học lý thuyết, sau đó làm thí nghiệm với gương phẳng và các vật sáng. Điều này làm cho học sinh có nhận biết được kiến thức mới nhưng chưa áp dụng được vào thực tiễn đời sống. Vì vậy cần thiết phải tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ STEM cho học sinh lớp 7 để các con áp dụng được kiến thức vào làm các sản phẩm thực tế. Hai tuần trước ngày sinh hoạt câu lạc bộ, giáo viên đã cung cấp thêm tài liệu cho học sinh những kiến thức có liên quan, một số địa chỉ link để học sinh tham khảo trên mạng internet. Sau đó, giáo viên cung cấp cho mỗi nhóm học sinh một khoản kinh phí nhỏ để hỗ trợ các con thực hiện. 5 Khi tiến hành phân nhóm học sinh, giáo viên chú ý đến số lượng học sinh, và tỉ lệ nam – nữ, các con nhóm trưởng là những gương mặt được tín nhiệm và tích cực, đồng thời học tập tốt. Dựa trên nền tảng các nhóm trưởng, giáo viên hướng dẫn nhóm trưởng phân công công việc cho các thành viên trong nhóm theo tiêu chí : an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, hiểu biết, thiết thực. Hầu hết các con đều có ý thức tự giác, mỗi bạn một nhiệm vụ , tranh thủ giờ ra chơi, các con cùng nhau làm thử sản phẩm, các con phân công: bạn mua nguyên vật liệu, bạn làm sản phẩm, bạn ghi hình, bạn thuyết trình…về sản phẩm của nhóm mình. Cuối cùng, những sản phẩm tiêu biểu nhất được lựa chọn để tham dự trong buổi sinh hoạt câu lạc bộ. Để thực hiện tốt buổi sinh hoạt này, giáo viên đã phối hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp, phối hợp với giáo viên các bộ môn trong Tổ khoa học thực nghiệm, tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm về khâu tổ chức, hướng dẫn học sinh; thông báo trước về thời gian , địa điểm tổ chức để học sinh chủ động báo gia đình, tạo điều kiện để buổi sinh hoạt câu lạc bộ thành công. Điều kiện thực hiện : Có 60 học sinh khối lớp 7 tham gia buổi sinh hoạt câu lạc bộ, bao gồm: 33 học sinh lớp 7A5, 18 học sinh lớp 7A4, 2 học sinh lớp 7A3, 7 học sinh lớp 7A6. Giáo viên chia làm 8 nhóm, mỗi nhóm đều có thành viên của các lớp khác nhau, có 4 nhóm 8 học sinh, 4 nhóm 7 học sinh, tên nhóm được đặt theo tên của 8 hành tinh trong hệ Mặt trời : Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương. Qua đó các em hiểu được ý nghĩa mình chính là một phần của tự nhiên, tuy có sự vận động độc lập nhưng lại gắn kết với nhau trong một khối thống nhất. 6 Giáo viên xếp bàn ghế cho học sinh ngồi trong nhóm theo vị trí như sau:
Ghế Ngồi Của Giáo Viên Dự Giờ
Bàn GV (máy tính, mic )
Màn Hình Bảng Đã trang trí
Sao Thổ
Sao Thiên Vương
Sao Hải Vương
Sao Mộc
Bàn trưng bày sản phẩm
Sao Hỏa
Trái Đất
Sao Kim
Sao Thủy
Cửa lớp
Cửa lớp
Các phương tiện dạy học cần chuẩn bị : 2 máy tính, 1 màn hình máy chiếu, 1 máy chiếu, 1 bảng đã được học sinh vẽ trang trí, 2 micro, 1 bếp điện, 1 chảo, 1 muôi, 1 đôi đũa, 3 sản phẩm kính tiềm vọng, 2 túi vải, ngải cứu 200g, cám gạo 200g, muối hạt sạch 200g, 8 phiếu đánh giá sản phẩm có in kèm tiêu chí đánh giá cho điểm, quà thưởng cho học sinh. Giáo viên phân công các giáo viên bộ môn khác hỗ trợ các nhóm, đồng thời ghi hình, chụp ảnh, quay video, viết bài cho website của nhà trường. Buổi sinh hoạt câu lạc bộ STEM dự kiến tổ chức trong thời gian 2 tiết từ 9h35 đến 11h10 tiết 4,5 ngày thứ 7 (03/04/2021), với 2 hoạt động , tiến trình tổ chức các hoạt động cụ thể như sau: 7 * Hoạt động 1: Làm kính tiềm vọng -Học sinh ngồi theo nhóm theo sơ đồ và sự phân công từ trước của giáo viên. -Nhóm trưởng điểm danh học sinh trong nhóm và báo cáo. – Giáo viên giới thiệu đại biểu và thành phần tham dự -Học sinh biểu diễn văn nghệ khởi động. -Giáo viên đặt vấn đề: Để hỗ trợ trong việc quan sát các vật xung quanh khi có chướng ngại vật hay bị ngăn cản, ở tàu ngầm thường sử dụng 1 dụng cụ rất quan trọng, em hãy cho biết tên dụng cụ này ? – Học sinh trả lời : Kính tiềm vọng. Như cô đã chia sẻ tài liệu và phân công các nhóm tìm hiểu và chế tạo loại kính tiềm vọng đơn giản, hôm nay chúng ta cùng nhau lắng nghe các bạn trình bày cách làm của mình và đánh giá sản phẩm thực tế mà các nhóm đã làm. Một học sinh lên bảng treo khổ giấy A1 vẽ tranh mô tả nguyên lý hoạt động của kính tiềm vọng. Học sinh trình bày, chỉ rõ trên hình, dựa vào hiện tượng phản xạ ánh sáng qua hệ gương. Lưu ý: Hai gương phẳng phải đặt song song, có mặt phản xạ quay vào nhau và đặt nghiêng góc 450. Đại diện nhóm Sao Thủy lên trình bày quy trình làm kính tiềm vọng: +Bước 1: Tìm hiểu tài liệu, sách vở, mạng internet. +Bước 2: Thiết kế bản vẽ mô hình kính tiềm vọng. +Bước 3: Dự trù kinh phí, mua sắm nguyên vật liệu. +Bước 4: Tiến hành chế tạo. +Bước 5: Thử nghiệm và điều chỉnh. Sau khi trình bày khái quát 5 bước, học sinh thuyết trình kỹ hơn ở bước 4: tiến hành chế tạo. 8 Học sinh lên bảng chiếu video ghi lại quá trình thực hiện, bắt đầu từ khâu chọn gương phẳng, là loại gương hình vuông, 2 gương giống nhau, có khả năng phản xạ tốt ánh sáng, sau đó chọn bìa cát- tông từ vỏ thùng sữa tươi, là những miếng bìa cứng, dùng bút bi và thước kẻ, đo các kích thước trên miếng bìa phù 9 hợp với kích thước của gương, sau đó, dùng kéo, cắt các kích thước. Dùng keo sữa, hoặc keo 502, gắn các miếng bìa cát- tông, tiếp tục gắn các gương phẳng, chú ý để các miếng bìa khô ráo và phẳng, khi gắn gương phải điều chỉnh để đảm bảo 2 gương phẳng song song với nhau và nghiêng góc 450. Cuối cùng trang trí bên ngoài kính tiềm vọng, ghi tên nhóm. 10 11 12 Học sinh các nhóm khác đặt câu hỏi: + Bạn làm mất thời gian bao lâu ? + Nhóm bạn gặp khó khăn gì ? + Các bạn mua gương ở đâu ? + Giá thành sản phẩm là bao nhiêu ? Sau đó nhóm Sao Thủy đưa kính tiềm vọng lên bàn trưng bày sản phẩm. Đại diện nhóm Trái Đất chia sẻ về quá trình làm việc của nhóm mình theo 5 bước trên, tuy nhiên ở bước 4 các bạn đã có cách làm khác. Học sinh chiếu video ghi lại quá trình chế tạo sản phẩm kính tiềm vọng từ ống nhựa, các ống nhựa được tận dụng từ ống nước không sử dụng nữa của gia đình. 13 14 Quan trọng nhất là phải chọn ống có kích cỡ bằng với đường kính gương phẳng, gương dạng tròn, phản xạ tốt ánh sáng, khi đặt gương vào ống phải nghiêng 450 và dùng súng bắn keo để gắn gương cho chắc chắn. Sau đó đại diện nhóm đưa sản phẩm lên bàn trưng bày. 15 Học sinh các nhóm khác đặt câu hỏi: thời gian nhóm bạn thực hiện xong sản phẩm là bao lâu? Kinh phí thực hiện bao nhiêu ? Cuối cùng, đại diện nhóm Sao Thiên Vương trình bày cụ thể thao tác mà nhóm đã làm với gương phẳng hình tròn và ống nhựa, để quan sát được phạm vi rộng hơn thì nhóm đã thiết kế ống dài hơn, có thể thu gọn lại hoặc kéo dài kính tiềm vọng ra, đồng thời có thể xoay 3600 cho phù hợp với nhu
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Bản đồ có một vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người như: giúp điều tra thể tổng hợp lãnh thổ; đánh giá nguồn lực tự nhiên, kinh tế – xã hội của mỗi một quốc gia, khu vực, một châu lục giúp cho các nhà quy hoạch quản lí đưa ra những chính sách, dự án sử dụng và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, vùng lãnh thổ. Việc sử dụng bản đồ là rất cần thiết trong nghiên cứu Địa lí nói chung và giảng dạy Địa lí nói riêng. Với môn học Địa lí ở nhà trường phổ thông thì bản đồ là cuốn sách giáo khoa thứ hai giúp cho giáo viên giảng dạy tốt hơn đồng thời giúp học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo trong suy nghĩ, kích thích sự tò mò, ham hiểu biết; khoa học Địa lí góp phần vào sự thành công của phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong những năm gần đây, với việc thực hiện đổi mới dạy học theo hướng tích cực thì vai trò của bản đồ giáo khoa càng được nâng cao hơn khi được giáo viên tăng cường sử dụng trong quá trình giảng dạy. Bên cạnh đó, trong giảng dạy Địa lí địa phương, hệ thống bản đồ của Địa lí địa phương cũng rất cần thiết để giúp học sinh nắm được những kiến thức Địa lí địa phương một cách đầy đủ và chính xác. Trong điều kiện hệ thống tài liệu, tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy và học tập Địa lí địa phương còn hạn chế thì hệ thống bản đồ địa phương càng có ý nghĩa đặc biệt hơn. Do đó, việc thành lập Atlat Địa lí của một tỉnh là rất cần thiết. Bằng việc ứng dụng phần mềm MapInfo, Atlat được thành lập với mục đích chính là phục vụ cho việc học tập và giảng dạy Địa lí trong nhà trường, ngoài ra còn giúp ích cho các ngành khác, đặc biệt cho việc hoạch định chiến lược phát triển của tỉnh một cách toàn diện, tổng thể. Việc học tập Địa lí địa phương sẽ giúp cho các em có những kiến thức cơ bản, khái quát về thiên nhiên, con người và các hoạt động kinh tế – xã hội diễn ra ở địa phương mình. Qua đó, các em sẽ có khả năng nhận biết, phân tích một số hiện tượng thiên nhiên xung quanh, thấy được mối quan hệ giữa khai thác tài nguyên với bảo vệ môi trường. Những kiến thức về Địa lí tỉnh Nam Định cũng sẽ phần nào giúp các em vận dụng vào lao động sản xuất tại địa phương mình. 2 Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã đưa ra giải pháp “Thành lập và hướng dẫn khai thác Atlat Địa lí địa phương tỉnh Nam Định cho học sinh THCS”. Sáng kiến kinh nghiệm này sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống bản đồ giáo khoa để giảng dạy môn Địa lí ở các trường trung học cơ sở. Atlat tỉnh Nam Định được thành lập trên cơ sở chiết xuất các thông tin từ cơ sở dữ liệu và được biên tập, trình bày, chế in ra giấy, sẽ là một ấn phẩm khoa học phản ánh điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, thành tựu xây dựng và phát triển kinh tế, dự báo quy hoạch phát triển trong những năm tiếp theo. Ngoài ra, sáng kiến này giúp chúng tôi có những kiến thức sâu hơn, nâng cao trình độ về các vấn đề tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh. Giới hạn nghiên cứu sáng kiến: – Về không gian: Lãnh thổ thành lập Atlat là toàn bộ lãnh thổ tỉnh Nam Định bao gồm 10 huyện, có sự so sánh, liên kết với các tỉnh lân cận và toàn vùng ĐBSH. – Về thời gian: sáng kiến kinh nghiệm này chủ yếu khai thác các vấn đề về tự nhiên và kinh tế xã hội trong giai đoạn 2000 – 2014, song về cơ bản là các số liệu năm 2014. – Về nội dung: sáng kiến chỉ tập trung thành lập 14/30 trang Atlat và trang bìa của tập Atlat, trong đó có 8/23 bản đồ. Sáng kiến thành lập và hướng dẫn khai thác Atlat Địa lí địa phương cho HS phạm vi thuộc tỉnh Nam Định với ba nội dung chính: – Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Nam Định – Dân cư và lao động của tỉnh Nam Định – Kinh tế của tỉnh Nam Định Khả năng áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm: – Chủ yếu dành cho học sinh khối lớp 9 bậc trung học cơ sở trong quá trình giảng dạy và tìm hiểu ở nhà. – Giới thiệu trong chương trình Địa lí Việt Nam lớp 8 và là tài liệu tham khảo trong học tập và giảng dạy lớp 6 và 7. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa Địa lí địa phương vào chương trình Địa lí ở nhà trường phổ thông nhằm bổ sung cho học sinh những hiểu biết về quê hương đất nước. Số lượng và nội dung các tiết học Địa lí địa phương 3 được bố trí hợp lí và phù hợp với học sinh từng cấp học. Đặc biệt ở cấp học THCS, Địa lí địa phương được học ở lớp 9 gồm 4 bài được đặt ở cuối chương trình. Ngoài ra trong quá trình giảng dạy môn Địa lí, chúng tôi cũng lồng ghép Địa lí địa phương vào hầu hết các bài học lớp 6, 7, 8. Chương trình Địa lí địa phương tỉnh Nam Định áp dụng đối với lớp 6 – Bài 3: Tỉ lệ bản đồ + Mục 1: Ý nghĩa tỉ lệ bản đồ + Mục 2: Đo tính khoảng cách thực địa dựa vào tỉ lệ thước hoặc tỉ lệ số – Bài 4: Phương hướng trên bản đồ. Kinh độ, vĩ độ và tọa độ địa lí. + Mục 1: Phương hướng trên bản đồ + Mục 2: Kinh độ, vĩ độ. Tọa độ địa lí – Bài 5: Kí hiệu bản đồ. Cách biểu hiện địa hình trên bản đồ mục 1 – Các loại kí hiệu – Bài 15: Các mỏ khoáng sản Mục 1 – Các loại khoáng sản – Bài 23: Sông và hồ Mục 1 – Sông – Bài 26: Đất. Các nhân tố hình thành đất phần Luyện tập – Bài 27: Lớp vỏ sinh vật. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố thực, động vật trên Trái Đất phần Luyện tập. Chương trình Địa lí địa phương tỉnh Nam Định áp dụng đối với lớp 7 – Bài 1: Dân số mục 1 – Dân số, nguồn lao động – Bài 4: Thực hành: Phân tích lược đồ dân số và tháp tuổi Học sinh tự học, tự nghiên cứu về tháp tuổi và dân số tỉnh Nam Định Chương trình Địa lí địa phương tỉnh Nam Định áp dụng đối với lớp 8 – Bài 28: Đặc điểm địa hình Việt Nam Giới thiệu về địa hình đồng bằng của tỉnh Nam Định trong vùng Đồng bằng sông Hồng. – Bài 31: Đặc điểm khí hậu Việt Nam và bài 32: Các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta. Phân tích biểu đồ nhiệt độ, lượng mưa của tỉnh Nam Định – Bài 33: Đặc điểm sông ngòi Việt Nam mục 3 – Khai thác kinh tế và bảo vệ sự trong sạch của các dòng sông – Bài 36: Đặc điểm đất Việt Nam + Mục 1b: nước ta có 3 nhóm đất chính 4 + Mục 2: Vấn đề sử dụng và cải tạo đất ở Việt Nam – Bài 37: Đặc điểm sinh vật Việt Nam mục 3 – Sự đa dạng về hệ sinh thái – Bài 44: Thực hành: Tìm hiểu địa phương Chương trình Địa lí địa phương tỉnh Nam Định áp dụng đối với lớp 9
Bài học
Nội dung kiến thức
Kiến thức bản đồ
Bản đồ sử dụng
Bài 20 + 21: Vùng đồng bằng sông Hồng
– Vị trí của tỉnh trong vùng – Đất, khí hậu, sinh vật – Một số hoạt động kinh tế trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ
– Vùng đồng bằng sông Hồng – Kinh tế đồng bằng sông Hồng
Bài 41
– Xác định vị trí các đơn vị hành chính của tỉnh. – Các đặc điểm tự nhiên: + Địa hình + Khí hậu + Mạng lưới sông ngòi + Thổ nhưỡng + Sinh vật + Khoáng sản
– Phương pháp kí hiệu – Phương pháp đường đẳng trị kết hợp phân tầng màu – Phương pháp nền chất lượng và vùng phân bố
– Hành chính – Hình thể – Khí hậu – Sông ngòi – Tài nguyên đất – Thực vật, động vật – Khoáng sản
Bài 42
– Đặc điểm dân cư và lao động + Gia tăng dân số + Kết cấu dân số + Phân bố dân cư + Tình hình phát triển văn hóa, giáo dục, y tế – Kinh tế: đặc điểm chung
– Phương pháp đồ giải – Phương pháp bản đồ biểu đồ
– Dân cư – Giáo dục – Y tế – Kinh tế chung
Bài 43
– Các ngành kinh tế + Công nghiệp + Nông nghiệp + Dịch vụ: GTVT, thương mại, du lịch – Sự phân hóa kinh tế theo
– Phương pháp kí hiệu – Phương pháp vùng phân bố – Phương pháp bản đồ biểu đồ
– Nông nghiệp chung và các bản đồ nông nghiệp thành phần – Công nghiệp chung và các bản
5
Bài học
Nội dung kiến thức
Kiến thức bản đồ
Bản đồ sử dụng
lãnh thổ – Bảo vệ tài nguyên và môi trường – Phương hướng phát triển kinh tế
đồ công nghiệp thành phần – Dịch vụ: + Giao thông vận tải + Thông tin liên lạc + Thương mại + Du lịch
Bài 44
Thực hành: Phân tích mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên. Vẽ và phân tích biểu đồ cơ cấu của địa phương
– Phân tích số liệu và kết hợp các bản đồ – Kĩ năng vẽ biểu đồ
Trong nhà trường phổ thông, giảng dạy Địa lí địa phương đã trở thành một phần quan trọng trong bài học của môn Địa lí. Việc học tập Địa lí địa phương sẽ giúp cho HS có những kiến thức cơ bản, khái quát về thiên nhiên, con người và tình hình kinh tế – xã hội đang diễn ra ở địa phương mình, thấy được mối quan hệ giữa con người với các thành phần tự nhiên, mối quan hệ giữa việc khai thác tài nguyên với việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, việc học tập Địa lí địa phương cũng sẽ phần nào nâng cao nhận thức, cung cấp các kĩ năng và thái độ học tập, có được phương pháp tư duy khoa học. phương pháp lao động khoa học và giúp cho học sinh có thể vận dụng vào lao động sản xuất tại địa phương mình, hình thành định hướng tương lai. Tuy vậy, môn Địa lí THCS không đi sâu vào một tỉnh (thành phố) mà chỉ nói chung một vùng, miền nên học sinh không hiểu biết kĩ về chính nơi mình đang sống. Khi dạy giáo viên phải tổng hợp tư liệu của địa phương từ nhiều nguồn thông tin khác nhau sẽ rất mất thời gian . Đặc biệt rong tình hình dịch bệnh Covid vừa kết hợp học trực tiếp với trực tuyến, học sinh cũng gặp khó khăn khi cần xem bài trước, các em ít được tìm hiểu thực tế về địa phương, việc làm này khó tổ chức và khá tốn kém. Với một tập Atlat Địa lí địa phương thì đây sẽ là một công cụ rất hữu ích trong công tác giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh và giúp học sinh có được những tri thức Địa lí chung, rèn luyện phong cách nghiên cứu khoa học. Đây cũng là cơ hội để chúng tôi vận dụng những kiến thức đã nghiên cứu vào phục vụ cho quá trình giảng dạy sau này, 6 cung cấp thêm phương tiện dạy học Địa lí địa phương, làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu phát triển và giúp cho HS có cái nhìn bao quát, định hướng nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh. Từ những lí do nêu trên chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trên. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Thành lập Atlat Địa lí địa phương tỉnh Nam Định 2.1.1. Những vấn đề chính – Tên Atlat: “Atlat Địa lí tỉnh Nam Định dành cho học sinh Trung học cơ sở”. – Thể loại: Bản đồ giáo khoa – Kích thước: Tập Atlat tỉnh Nam Định có kích thước hình chữ nhật, kích thước 21× 29,7 cm, dày khoảng 25 – 30 trang. – Lãnh thổ thành lập Lãnh thổ biên vẽ là toàn bộ lãnh thổ tỉnh Nam Định với diện tích 1652,3km2 và 72km đường biển; nằm trong giới hạn từ: 19020’B – 19053’B và 105055’Đ – 106o7’Đ. Nam Định nằm ở phía đông nam của ĐBSH: + Phía Tây Bắc giáp tỉnh Hà Nam + Phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái Bình + Phía Tây Nam giáp tỉnh Ninh Bình + Phía Đông Nam giáp biển Đông – Phần mềm thiết kế: MapInfo 9.0, Google Map kết hợp xử lí ảnh viễn thám bằng phần mềm ENVI, ArcGIS. 7 2.1.2. Nội dung của Atlat Tập Atlat Địa lí tỉnh Nam Định được thành lập gồm có 4 phần chính: – Phần giới thiệu chung về hình ảnh phong cảnh đặc thù, con người của tỉnh Nam Định; vị trí nhìn từ vũ trụ, hệ thống hành chính của tỉnh. – Phần Địa lí tự nhiên về của tỉnh, địa chất – khoáng sản, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật. – Phần dân cư và lao động về dân số, lao động – việc làm. – Phần kinh tế về nền kinh tế chung, các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng, giao thông vận tải, thương mại, du lịch… 2.1.3. Bố cục và cơ sở toán học Các thông tin thể hiện trên Atlat hoàn toàn được chiết xuất từ nội dung của CSDL tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, do tỉ lệ các trang bản đồ trong Atlat nhỏ hơn tỉ lệ cơ bản của CSDL, nên nội dung của Atlat được thể hiện ở mức độ khái quát hơn và sự sắp xếp bố cục, biên tập, trình bày phù hợp với các quy chuẩn của bản đồ in trên giấy. Atlat Địa lí tỉnh Nam Định được thành lập với các yêu cầu cơ bản sau: – Cơ sở toán học: toàn bộ các trang bản đồ đều sử dụng phép chiếu UTM (Universal Tranverse Mercato) do Tổng cục địa chính ban hành quy định thành lập bản đồ chuyên đề theo hệ toạ độ VN 2000. Lưới chiếu UTM – Elipsoid WGS 84, là phép chiếu hình trụ ngang giữ góc, nghĩa là góc độ ở ngoài thực địa là bao nhiêu thì khi chiếu hình lên bản đồ cũng đảm bản giữ được góc độ bấy nhiêu. Phép chiếu này cho phép việc trình bày các yếu tố nội dung đạt độ chính xác cao. Mật độ lưới chiếu như sau: + Các vĩ tuyến: 20000’B, 20015’B, 20030’B (∆μ = 150) + Các kinh tuyến: 106000’B, 106015’B, 106030’B (∆λ = 150)
–
Tỉ lệ của các trang bản đồ Các bản đồ được thiết kế theo bố cục dọc (cùng chiều với tập Atlat).
+ Bản đồ hành chính tỉnh thể hiện trọn vẹn các yếu tố cơ bản của lãnh thổ, có tỉ lệ 1: 250 000. + Các bản đồ dành cho các chủ đề cơ bản nhất có tỷ lệ 1: 400 000. + Bản đồ thành phần của các chủ đề gồm 2 – 3 bản đồ đồng nhất về kích thước, tỉ lệ được thể hiện trong cùng một trang Atlat có tỷ lệ 1: 600 000 và 1: 800 000. + Bản đồ phụ có tỉ lệ 1: 2 400 000 và 1: 2 200 000. 8
–
Bố cục của tập Atlat Nội dung của Atlat được thể hiện bằng các trang bản đồ, các hình ảnh
minh họa, các thông tin thuyết minh. Tập Atlat được sắp xếp theo các trang cụ thể với tỷ lệ như sau: Bảng 2: Cấu trúc Atlat Địa lí tỉnh Nam Định
Nội dung
Tỷ lệ
Trang
– Bìa trước mặt ngoài (bìa 1): ảnh hoặc biểu tượng của tỉnh Nam Định và tiêu đề
– Bìa trước mặt trong (bìa 1): để trắng (hoặc trang trí hoa văn)
– Bìa sau mặt ngoài (bìa 2): một số hình ảnh phong cảnh đặc trưng tỉnh Nam Định
– Bìa sau mặt trong (bìa 2): để trắng
Phần ruột
– Trang lót trước: tiêu đề, mục đích sử dụng, tên tác giả
1
– Mặt sau trang lót: để trắng
2
– Lời nói đầu
3
– Mục lục
4
– Kí hiệu chung
5
Phần Giới thiệu chung
– Một số hình ảnh phong cảnh và con người đặc thù của tỉnh
6
– Vị trí nhìn từ vũ trụ của tỉnh Nam Định
7
– Bản đồ Hành chính tỉnh Nam Định
1: 250 000
8 – 9
Phần Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
– Bản đồ Hình thể
1: 400 000
10
– Bản đồ Địa chất – khoáng sản
1: 400 000
11
– Bản đồ Khí hậu
1: 400 000
12
– Bản đồ Thủy văn
1: 400 000
13
– Bản đồ Tài nguyên đất
1: 400 000
14
– Bản đồ Sinh vật
1: 400 000
15
Phần Dân cư và lao động
– Bản đồ Dân số
1: 400 000
16
– Bản đồ Lao động – việc làm
1: 400 000
17
Phần Kinh tế
– Bản đồ Kinh tế chung
1: 400 000
18
9
Nội dung
Tỷ lệ
Trang
– Bản đồ Công nghiệp chung
1: 400 000
19
– Bản đồ Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm – Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng (2 bản đồ)
1: 600 000
20
– Bản đồ Nông nghiệp chung
1: 400 000
21
– Bản đồ Lúa – Chăn nuôi – Thủy sản (3 bản đồ)
1: 800 000
22
– Bản đồ Giao thông vận tải
1: 400 000
23
– Bản đồ Thông tin và truyền thông
1: 400 000
24
– Bản đồ Thương mại
1: 400 000
25
– Bản đồ Du lịch
1: 400 000
26
– Bản đồ Giáo dục và đào tạo
1: 400 000
27
– Bản đồ Y tế và sức khỏe cộng đồng
1: 400 000
28
– Trang lót sau: thông tin về cơ quan chủ quyền, cơ quan thực hiện tập Atlat
10 2.1.4. Quy trình và các yêu cầu quy định kĩ thuật thành lập Atlat Quy trình xây dựng CSDL và thành lập Atlat tỉnh Nam Định được tiến hành trình tự theo các bước như trong sơ đồ dưới đây: Xây dựng đề cương tổng thể Thu thập, đánh giá, chọn phương án sử dụng tư liệu
Bổ sung, hiệu chỉnh các nội dung từ các tài liệu bản đồ lên bản đồ nền cơ sở thống nhất Chuyển đổi dữ liệu sang khuôn dạng GIS (phần mềm MapInfo) Khởi tạo CSDL theo mô hình đã thiết kế Chuẩn hoá hình học các yếu tố nội dung của bản đồ nền cơ sở
Nhập thông tin thuộc tính theo các tài liệu đã thu thập
Biên tập chế in, in offset Atlat
Biên tập hiển thị trực quan CSDL theo các chuyên đề
Nghiệm thu bàn giao sản phẩm
Kiểm tra, sửa chữa, duyệt bản tác giả
Thiết kế, biên tập, khái quát nội dung thành lập bản tác giả Atlat
Lựa chọn chiết xuất thông tin từ CSDL phục vụ thành lập Atlat
– Xây dựng các tiện ích khai thác sử dụng CSDL – Chuyển giao và đào tạo
Kiểm tra sửa chữa, duyệt từng bước thực hiện
Thu thập, cập nhật bổ sung các yếu tố không gian và các thông tin thuộc tính
Xác định danh mục đối tượng, xây dựng cấu trúc nội dung và cấu trúc thông tin thuộc tính của đối tượng, hoàn thiện thiết kế mô hình cơ sở dữ liệu
Lập thiết kế kỹ thuật, kế hoạch biên tập các chuyên đề của CSDL, các trang chuyên đề của Atlat 11 ❖ Các yêu cầu quy định kĩ thuật a) Thu thập, đánh giá và chọn phương án sử dụng tài liệu Ngoài những tài liệu đã thu thập và có phương án sử dụng cụ thể, việc thu thập các tài liệu còn lại phải được tiến hành theo những định hướng sử dụng đã nêu để tránh việc thu thập thiếu sót hoặc dư thừa, sai lạc mục đích. Các tài liệu thu thập phải đảm bảo hợp pháp: phải là những tài liệu đã được xuất bản, đối với các tài liệu, báo cáo chuyên ngành phải được cơ quan cung cấp đóng dấn xác nhận. Thời điểm thông tin phải đảm bảo đến hết năm 2014 đối với các tài liệu hiện trạng. Các tài liệu sau khi thu thập về phải được xem xét đánh giá kĩ và phân loại thoe nhóm và xác định phương án sử dụng: – Đối với các tài liệu bản đồ: căn cứ vào dạng tài liệu (giấy/file số), lưới chiếu bản đồ, độ phức tạp của các nội dung cần hiện chỉnh… để quyết định phương án sử dụng (nắn chuyển véc tơ/quét, nắn, số hoá lại/chuyển vẽ tương quan…) – Đối với các tài liệu dạng văn bản, số liệu: phân loại theo chuyên ngành hoặc để dùng chung (với các tài liệu tổng hợp như Niên giám thống kê) b) Thiết kế mô hình cơ sở dữ liệu, lập kế hoạch biên tập các chuyên đề và thiết kế kí hiệu – Đối với mô hình cơ sở dữ liệu: để đảm bảo tối ưu sự phù hợp và tính hiệu quả trong quá trình thực hiện dự án cũng như khai thác sử dụng sản phẩm của dự án tại địa phương sau này, CSDL tỉnh Nam Định được xây dựng, lưu trữ, quản lí và khai thác trong môi trường GIS của phần mềm MapInfo phiên bản 9.0. Trong mỗi chuyên đề, các đối tượng không gian địa lí được phân tách theo dạng hình học: điểm/đường/vùng/chữ và được lưu trữ trên các lớp (Tab.) khác nhau. Các thông tin thuộc tính của đối tượng được gắn với chính đối tượng bằng các trường thông tin. Ngoài ra trong mỗi chuyên ngành, các thông tin về những thành tựu/kết quả hoạt động theo các tiêu chí đặc trưng, nổi bật của chuyên ngành trên từng đơn vị hành chính huyện/xã (VD: mật độ dân số các xã của tỉnh; diện tích và sản lượng lúa các huyện…) sẽ được nhập tin vào vùng lãnh thổ của đơn vị hành chính đó. Các thông tin này được thể hiện ở các mốc thời gian: năm 2014 (hiện trạng kết quả) và từ năm 2000 đến năm 2014 (diễn biến). Cấu trúc thông tin thuộc tính của các lớp đối tượng về cơ bản được xây dựng trong phần thiết kế kĩ thuật. Tuy nhiên, sau khi thu thập được đầy đủ các tài liệu cấu trúc 12 này sẽ được điều chỉnh và bổ sung chi tiết để đảm bảo CSDL lưu giữ được những thông tin cơ bản, quan trọng nhất đối với mỗi chuyên ngành. Hiển thị cho các chuyên ngành được tổ chức theo nguyên tắc: Mỗi chuyên ngành của CSDL được trình bày hiển thị trên một Workspace bao gồm toàn bộ nội dung của chuyên ngành đó cùng một số yếu tố không gian Địa lí cơ bản của lãnh thổ: thuỷ văn, địa hình, đường giao thông, phân chia hành chính, dân cư và địa danh. – Lập kế hoạch biên tập các chuyên đề CSDL và biên tập trang Atlat: + Đối với kế hoạch biên tập cho các chuyên đề của CSDL cần đề cập đến: • Danh mục nội dung và phân lớp của chuyên đề: khi xây dựng bảng danh mục nội dung và phân lớp, cần lưu ý các chuyên đề được phân chia lớp nội dung theo dạng hình học của đối tượng: điểm, đường, vùng, chữ; tên các lớp nội dung được đặt theo nguyên tắc: NDinh_…_diem, NDinh_…_duong, NDinh_…_vung, NDinh_…_chu; phân nhóm/loại các đối tượng Địa lí không gian trong mỗi lớp áp dụng. • Cấu trúc thông tin của chuyên đề, cần chỉ rõ: tên, kiểu, kích thước của các trường thông tin và mô tả ý nghĩa của mỗi trường • Nguồn tài liệu để lấy nội dung và các thông tin thuộc tính • Phương án hiển thị (Workspace) của chuyên đề: thứ tự sắp xếp các lớp nội dung chuyên đề và nội dung nền trong Workspace + Đối với kế hoạch biên tập cho các bản đồ của Atlat cần nêu rõ: bố cục; tỉ lệ bản đồ (đối với bản đồ hành chính); nội dung chuyên môn và phương pháp thể hiện của trang bản đồ; nội dung nền cơ sở Địa lí sẽ sử dụng (lấy loại nền nào: tự nhiên/kinh tế xã hội, trong đó những yếu tố gì được lược bỏ bớt …) – Thiết kế bộ ký hiệu cho CSDL và Atltat: trên cơ sở danh mục nội dung và phương pháp thể hiện của các chuyên đề. + Bộ kí hiệu cho cơ sở dữ liệu: trong môi trường Mapinfo, đơn giản, nhưng đảm bảo phân biệt rõ các yếu tố nội dung và có tính liên tưởng trực quan với yếu tố được thể hiện và sử dụng tối thiểu số thư viện ký hiệu lưu giữ ký hiệu. + Bộ ký hiệu cho Atlat: trong môi trường Mapinfo (để phục vụ cho thành lập bản gốc tác giả); có tính tương đồng và kế thừa bộ ký hiệu của CSDL; phải đảm bảo cho phép chuyển đổi thuận tiện và tương đương sang phần mềm biên tập chế in. c) Xây dựng cơ sở dữ liệu 13 – Bổ sung, hiệu chỉnh và chuẩn hóa hình học các yếu tố nội dung trên dữ liệu bản đồ nền cơ sở – Nhập thông tin thuộc tính: + Nhập tin từ tổng thể đến chi tiết: các thông tin chung cho các nhóm đối tượng (VD: mã loại, tên loại, cấp hành chính…) được nhập trước, các thông tin riêng biệt của từng đối tượng được nhập sau. + Thông tin là tên riêng được viết hoa theo nguyên tắc viết danh từ riêng. + Thông tin là danh từ chung và viết đầy đủ thì viết chữ thường. + Hạn chế việc viết tắt đối với các thông tin được nhập. Trong trường hợp thông tin quá dài và có tính phổ biến có thể quy định viết tắt đồng nhất trong toàn bộ CSDL và phải được giải thích rõ trong hồ sơ của CSDL. – Kiểm tra, sử chữa và bổ sung nội dung CSDL 2.1.5. Thành lập bản gốc Atlat Dựa trên bố cục nội dung của tập Atlat Địa lí tỉnh Nam Định đã được xác định, các trang hình ảnh, thuyết minh và bản đồ trong phần Giới thiệu chung sẽ được thiết kế riêng do tính chất độc lập của nó. Trong phần này chỉ đề cập đến việc thành lập các trang bản đồ chuyên đề của tập Atlat. Các trang bản đồ được thành lập trên cơ sở các nội dung được chiết xuất từ CSDL đã được chuẩn hóa hình học. Tuy nhiên, do tỉ lệ các trang bản đồ của Atlat nhỏ hơn nhiều so với tỉ lệ cơ bản của CSDL và được trình bày phục chế in trên giấy nên việc thành lập được tiến hành theo các bước sau: a. Chiết xuất dữ liệu, tổng hợp nội dung, thành lập nền cơ sở Địa lí Có 3 loại nền cơ sở Địa lí cần được thành lập cho 3 nhóm bản đồ: – Nền cơ sở Địa lí tỉ lệ 1: 250 000 cho bản đồ hành chính của chuyên đề về tự nhiên trong phần Địa lí tự nhiên. – Nền cơ sở Địa lí tỉ lệ 1: 400 000 cho các bản đồ còn lại trong phần Địa lí tự nhiên và cho nhóm các bản đồ chính chuyên đề Kinh tế và Dân cư lao động. – Nền cơ sở Địa lí tỉ lệ 1: 600 000 và 1: 800 000 cho các bản đồ thành phần và bản đồ phụ trong các trang chuyên đề. Trước hết từ CSDL tiến hành lựa chọn chiết xuất các yếu tố Địa lí không gian cho bản nền tổng hợp của tỉ lệ 1: 250 000. Các yếu tố được lựa chọn theo những tiêu chuẩn cơ bản dưới đây (các chỉ tiêu về kích thước tính theo tỉ lệ bản đồ 1: 250 000): 14 + Cơ sở toán học: Khung trong bản đồ có kích thước (25,72 x 36,76)cm; lưới kinh vĩ tuyến mật độ (15 x 15) phút. + Nội dung bên trong lãnh thổ tỉnh Nam Định: Hệ thống thuỷ văn: thể hiện tất cả các sông chính chảy qua địa phận tỉnh Nam Định có chiều dài trên 5km; ký hiệu hướng dòng chảy ở những đoạn sông khó xác định hướng chảy. Ghi chú tên riêng cho các đối tượng, tên các cửa sông được thể hiện (nếu có). Mạng lưới đường giao thông: thể hiện các trục đường quốc lộ, đường liên tỉnh, đường sắt chạy qua. Ghi chú số đường quốc lộ, tỉnh lộ. Hành chính: Thể hiện phân vùng hành chính, địa giới hành chính, trung tâm hành chính và tên hành chính đến cấp xã. Dân cư: Thể hiện 1 – 2 khu dân cư chính trong mỗi huyện và ghi chú tên riêng (chỉ mang tính định hướng) + Nội dung bên ngoài lãnh thổ: chỉ thể hiện ranh giới hành chính giữa các tỉnh tiếp giáp với tỉnh Nam Định. Từ bản nền CSDL được chiết xuất, tiến hành biên tập, tổng hợp thành các loại nền nêu trên theo các quy định cụ thể trong kế hoạch biên tập bản đồ nền cơ sở Địa lí. b. Thành lập các bản đồ chuyên đề ❖ Kích thước, bố cục trang bản đồ Từ quy định về kích thước chung của tập Atlat, kích thước các trang bản đồ chính được thiết kế như sau: – Kích thước lề giấy (tính từ mép giấy đến khung bản đồ): Lề phía trên và dưới: 2,43 cm Lề phía bên trái và phải: 1,27 cm
–
Kích thước khung: 18,46 x 24,84 cm Tùy theo nội dung, các trang bản đồ chuyên đề được sắp xếp như sau:
– Bản đồ chính (có tỉ lệ 1: 250 000) thể hiện trọn vẹn mỗi bản đồ trong một trang của tập Atlat được thành lập. – Bản đồ thành phần (có tỉ lệ 1: 400 000): gồm 2 – 3 bản đồ đồng nhất về kích thước, tỉ lệ được thể hiện trong cùng một khung bản đồ chính. – Bản đồ phụ (có tỉ lệ 1: 3 400 000): kích thước khung khoảng (7,6 x 5,8) cm, được đặt ở góc Đông Bắc của khung bản đồ chính. ❖ Nội dung các trang bản đồ 15 Toàn tập Atlat bao gồm 23 bản đồ chuyên đề. Các thông tin cơ bản, đặc trưng trong mỗi chuyên ngành của CSDL được chiết xuất để thể hiện trên trang bản đồ chuyên đề. Yêu cầu các trang chuyên đề phải phản ánh được những tiêu chí nội dung: ❖ Phần ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN 1/ Trang Hành chính – Phân vùng màu hành chính cấp huyện, địa giới giới hành chính giữa các tỉnh, các huyện và các xã – Thông tin về diện tích, dân số của các huyện trong tỉnh – Các khu dân cư chính của huyện, mạng lưới giao thông đến các điểm dân cư. – Ghi chú tên riêng cho các đối tượng – Vị trí của tỉnh nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng 2/ Trang Hình thể – Nội dung cơ bản của bản trang là địa hình tỉnh Nam Định. Bề mặt địa hình được thể hiện bằng hình thức phân tầng độ cao và vờn bóng theo kết quả của mô hình số độ cao, kết hợp với hệ thống đường bình độ. – Trong bản đồ còn thể hiện một số mặt cắt đặc trưng của địa hình trong huyện. 3/ Trang Sông ngòi Nội dung chính của bản đồ là mạng lưới thuỷ văn bề mặt và phân vùng lưu vực của các sông chính trên địa bàn huyện. Các thông tin về dòng chảy tại các điểm quan trắc: độ rộng, độ sâu, chất liệu đáy, tốc độ dòng chảy, hướng dòng chảy… 4/ Trang Địa chất – Khoáng sản – Các tầng địa chất – Mặt cắt địa chất – Điểm khoáng sản và các thông tin liên quan về loại khoáng sản, trữ lượng, tình trạng khai thác… 5/ Trang Thổ nhưỡng Thể hiện khoanh vùng phân bố các loại đất theo đặc tính lí hoá 6/ Trang Khí hậu: Bản đồ cần nêu bật được các đặc trưng nổi bật của khí hậu địa phương, đặc biệt hai yếu tố: nhiệt độ và lượng mưa cần được ưu tiên thể hiện chi tiết do tính ảnh hưởng quan trọng của nó đến đời sống – xã hội. 16 7/ Trang Sinh vật: Bản đồ cần nêu được thảm thực vật hiện có, các loài động vật và các khu dự trữ sinh quyển và vườn quốc gia trên địa bàn tỉnh. Phần DÂN CƯ VÀ LAO ĐỘNG 1/ Trang Dân số – Trên bản đồ này dân cư được thể hiện dưới các khía cạnh phân bố và mật độ dân số theo đơn vị hành chính cấp xã. – Quy mô của các điểm dân cư đô thị – Bản đồ phụ về mật độ dân số các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng – Một số biểu đồ so sánh như: tổng dân số qua các năm phân theo thành thị và nông thôn; cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính 2/ Trang Lao động – việc làm – Mật độ lao động theo đơn vị huyện – Quy mô và cơ cấu lao động đang làm việc trong các khu vực kinh tế – Số lao động thất nghiệp – Một số biểu đồ so sánh như: tổng số lao động của tỉnh qua các năm, cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn, lao động phân theo nhóm tuổi và giới tinh,… ❖ Phần KINH TẾ 1/ Trang Kinh tế chung – Bản đồ phản ánh tổng quan tình hình kinh tế của tỉnh và trong từng huyện. – Quy mô và cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế của các ngành kinh tế thành phần trong nền kinh tế của từng huyện. – Các biểu đồ về: GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm; cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế của tỉnh. 2/ Trang Công nghiệp chung – Giá trị sản xuất công nghiệp của các huyện so với cả tỉnh. – Quy mô và cơ cấu của các trung tâm CN, cụm CN, điểm CN. – Kết quả kinh tế về cơ cấu giá trị sản xuất CN của cả tỉnh phân theo thành phần kinh tế; giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm; cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước phân theo nhóm ngành. 3/ Trang CN chế biến lương thực, thực phẩm – CN sản xuất hàng tiêu dùng Nội dung cơ bản của 2 bản đồ trên trang này gồm: – Bản đồ CN chế biến lương thực, thực phẩm 17 + Quy mô và cơ cấu của các trung tâm CN, điểm CN, cụm CN: lớn, vừa, nhỏ + Các ngành chế biến chính là gì. + Kết quả kinh tế đạt được về giá trị sản xuất của CN chế biến lương thực, thực phẩm qua các năm; tỉ trọng giá trị sản xuất của CN chế biến lương thực, thực phẩm so vói toàn ngành CN. – Bản đồ CN sản xuất hàng tiêu dùng + Quy mô và cơ cấu của các trung tâm CN, điểm CN, cụm CN: lớn, vừa, nhỏ. + Các ngành sản xuất chính là gì. + Kết quả kinh tế đạt được về giá trị sản xuất của CN sản xuất hàng tiêu dùng qua các năm; tỉ trọng giá trị sản xuất của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng so vói toàn ngành công nghiệp. 4/ Trang Nông nghiệp chung – Phân bố các vùng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh – Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của từng huyện – Kí hiệu các cây trồng, vật nuôi chính trên bản đồ – Kết quả kinh tế ngành nông nghiệp về giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất của các ngành trong nông nghiệp của tỉnh qua các năm; nông nghiệp của tỉnh Nam Định trong vùng đồng bằng sông Hồng như thế nào – Các hình ảnh minh họa cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của tỉnh 5/ Trang Lúa – Chăn nuôi – Thủy sản Nội dung cơ bản của 3 bản đồ trên trang này gồm: – Bản đồ Lúa (năm 2014) + Diện tích và sản lượng lúa của các huyện; + Diện tích trồng lúa so với diện tích trồng cây lương thực của các huyện; + Kết quả kinh tế về tình hình sản xuất lúa của tỉnh qua các năm về diện tích và sản lượng; giá trị sản xuất cây lương thực trong tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt – Bản đồ Chăn nuôi (2014) + Số lượng gia súc và gia cầm của các huyện: trâu, bò, lợn, gia cầm + Số thịt hơi xuất chuồng của các huyện tính theo đầu người (kg/người) + Kết quả kinh tế của tỉnh về giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp; cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi qua các năm – Bản đồ Thủy sản (2014) 18 + Giá trị sản xuất ngành thủy sản trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản của các huyện + Diện tích nuôi trồng và sản lượng thủy sản phân theo huyện + Vùng nuôi tôm, nuôi ngao, bãi cá hay các cảng cá hiện có trên địa bàn tỉnh + Kết quả kinh tế về diện tích nuôi trồng và sản lượng thủy sản (khai thác và nuôi trồng) của tỉnh qua các năm 6/ Bản đồ Giao Thông vận tải – Mạng lưới đường giao thông với các thông tin về cấp quản lí, chất liệu bề mặt và độ rộng đường – Các công trình/cơ sở liên quan: cầu, bến bãi, cảng sông, cảng biển – Các hoạt động vận tải, vận chuyển hàng hoá hành khách… – Cơ sở vật chất của ngành giao thông vận tải: số lượng, chất lượng các phương tiện vận tải; – Các kết quả của ngành vận tải: Khối lượng, trọng lượng vận tải. Giá trị sản xuất ngành giao thông vận tải. 7/ Trang Thông tin và truyền thông Bản đồ phản ánh các hoạt động thông tin và truyền thông của các huyện với các nội dung chính như sau: – Các đài/trạm thu phát thông tin, mạng lưới đường dây thông tin, mạng truyền dẫn viễn thông. Vùng phủ sóng các đài phát thanh, truyền hình trung ương/địa phương. Các đài phát thanh huyện, xã,… – Phân bố các bưu cục, trạm điện thoại công cộng. – Kết quả các hoạt động thông tin và truyền thông: Tỉ lệ số hộ gia đình có ti vi, đài thu thanh; Số lượng thư báo được chuyển qua các bưu cục; Số thuê bao điện thoại cố định/di động, tỉ lệ so với tổng dân số trong toàn huyệ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Tích hợp là một trong những xu thế của dạy học hiện đại đang đƣợc quan tâm, nghiên cứu và áp dụng rộng vào nhà trƣờng. Dạy học tích hợp lầ cách tìm tòi sáng tạo và vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau.Tức là đạy cho học sịnh biết cách vận dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống cụ thể nhằm hình thành và phát triển năng lực của học sinh. Đồng thời xác lập mối quan hệ giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau cảu các môn học hay các phân môn khác nhau để đảm bảo học sinh có thể huy động hiệu quả kiến thức và năng lực của mình để giải quyết các tình huống. Việc sử dụng phƣơng pháp tích hợp trong giáo dục và dạy học sẽ giúp giải quyết các vấn đề phức tạp và làm cho việc học có ý nghĩa hơn so với việc thực hiện các môn học riêng lẻ.Góp phần nâng cao năng lực của ngƣời học giúp đào tạo những con ngƣời có phẩm chất năng lực để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hiện đại. Bộ môn địa lí có vai trò quan trọng trong chƣơng trình đào tạo, trong những năm gần đây chƣơng trình giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục Địa lí nói riêng đã chuyển hƣớng từ chƣơng trình định hƣớng nội dung dạy học sang định hƣớng năng lực và quan điểm dạy học tích hợp là một trong những định hƣớng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là một bƣớc chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực nhằm tạo ra những con ngƣời có tri thức mới, năng động, sáng tạo khi giải quyết các vấn đề trong thực tiễn đời sống. Trong bộ môn Địa lí, phần Địa lí đại cƣơng không chỉ giúp học sinh hiểu đƣợc các khái niệm, thuật ngữ cơ bản trong Địa lí mà còn giúp các em có những vốn hiểu biết về tự nhiên, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán của các nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên với đặc thù riêng của Địa lí đại cƣơng, những nội dung chứa đựng những tƣ duy, khái niệm trừu tƣợng là những khó khăn lớn với những ngƣời học nội dung này. Từ thực tế đó đòi hỏi giáo viên bộ môn Địa 6 lí cần phải lựa chọn phƣơng pháp, phƣơng tiện phù hợp nhằm tổ chức định hƣớng giúp học sinh thu thập thông tin, lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả. Bài 2 : DÂN SỐ VÀ GIA TĂNG DÂN SỐ trong chƣơng trình Địa lí lớp 9 là bài học không chỉ giúp học sinh có những kiến thức, nhận thức đúng đắn về vấn đề đời sống, ủng hộ, tuyên truyền, vận động mọi ngƣời thực hiện tốt chính sách dân số của quốc gia, địa phƣơng. Với những lí do trên tôi đã chọn đề tài “ Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học bài “ Dân số và gia tăng dân số” Đại lí lớp 9” . 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là bài 2 “ Dân số và gia tăng dân số” trong chƣơng trình Địa lí lớp 9. 2.2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu là nội dung trong bài 2 “ Dân số và gia tăng dân số” trong chƣơng trình sách giáo khoa Địa lí lớp 9. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1 Mục đích Vận dụng phƣơng pháp dạy học tích hợp với bộ môn GDCD dạy bài “ Dân số và gia tăng dân số” nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học phát triển tƣ duy, năng lực vận dụng kiến thức các môn học trong nhà trƣờng của học sinh trong giải quyết các tình huống cụ thể ở từng môn học có liên quan. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học theo chủ đề tích hợp , liên môn trong dạy học Địa lí lớp 9. Tìm hiểu thực trạng dạy theo chủ đề tích hợp liên môn trong dạy học Địa lí lớp 9. Vận dụng phƣơng pháp dạy học theo chủ đề “ Dân số và gia tăng dân số” 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận, quan sát các tiết thao giảng và thực nghiệm sƣ phạm. 7 5. GIẢ THIẾT KHOA HỌC Nếu đề tài đƣợc nghiên cứu thành công sẽ cho thấy hiệu quả của việc dạy học theo chủ đề tich hợp, liên môn trong chƣơng trình dạy học Địa lí lớp 9. Từ đó góp phần nâng cao chất lƣợng giảng dạy và học tập môn Địa lí ở trƣờng THCS nói chung và môn Địa lí nói riêng. 6. BỐ CỤC ĐỀ TÀI Gồm 3 phần : – Phần 1: ĐiỀU kiện hoàn. cảnh tạo ra sáng kiến – Phần 2: Mô tả giải pháp. – Phần 3: Hiệu quả do sáng kiến đem lại. MÔ TẢ GIẢI PHÁP – Mô tả giải pháp của sáng kiến: – Đƣa ra các giải pháp để giúp học sinh tiếp cận , tìm hiểu khai thác thông tin, bài “ Dân số và gia tăng dân số” bằng việc vận dụng, tích hợp kiến thức liên môn cấp THCS . Nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học phát triển tƣ duy, năng lực vận dụng kiến thức các môn học trong nhà trƣờng của học sinh trong giải quyết các tình huống cụ thể ở từng môn học có liên quan. – Những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 9, qua các buổi học trên lớp, học ngoại khóa – Đánh giá lợi ích thu đƣợc hoặc dự kiến có thể thu đƣợc do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: + Đối với học sinh : Dạy học tích hợp sẽ phát huy đƣợc tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, buộc học sinh phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa theo sự hƣớng dẫn của giáo viên. + Đối với giáo viên : Dạy học theo chủ đề tích hợp, liên môn đã phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lƣợng giáo dục làm cho học sinh nhận thức đƣợc mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục đƣợc tình trạng tản mạn, rời rạc trong việc tiếp nhận kiến thức. 8 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC TÍCH HỢP, LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ. 1.1 Cơ sở lí luận 1.1.1 Vị trí của môn Địa lí trong trƣờng THCS Cùng với các bộ môn khác, môn Địa lí góp phần cung cấp cho học sinh những tri thức về tự nhiên, khoa học xã hội và những kĩ năng, kĩ xảo.Địa lí còn là môn học nghiên cứu những vấn đề tổng hợp về không gian, lãnh thổ trong đó các yếu tố, thành phần gắn bó tác dộng chặt chẽ với nhau, vì vậy trong quá trình học tập, môn Địa lí bồi dƣỡng cho học sinh thế giới quan khoa học và những quan điểm nhận thức đúng đắn. 1.1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của môn Địa lí trong trƣờng THCS Môn Địa lí là môn học thuộc nhóm KHXH điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tƣ tƣởng , tình cảm cho học sinh. Môn Địa lí còn thuộc nhóm công cụ: Điều đó nói lên mối quan hệ giữa môn Địa lí và các môn học khác. Học Địa lí sẽ tác động tích cực đến kết quả học tập của các môn học khác và các môn khác cũng góp phần giúp học tốt môn Địa lí.Vì vậy môn Địa lí có vai trò đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trƣờng học, góp phần chuẩn bị thêm hành trang để học sinh tiếp tục chinh phục tri thức và có năng lực vận dụng , thực hành kiến thức Địa lí vào thực tế cuộc sống. 1.1.3 Phƣơng pháp dạy học tích cực. Những năm học gần đây, toàn ngành giáo dục – đào tạo đang tiếp tục nỗ lực đổi mới phƣơng pháp dạy học để tạo ra những conn ngƣời năng động sớm thích ứng với đời sống, xã hội trong quá trình hội nhập và phát triển. Trƣớc tình hình đó đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải không ngừng đổi mới, cải tiến nội dung và phƣơng pháp soạn giảng để trong mỗi tiết học học sinh sẽ đƣợc hoạt động nhiều hơn và chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức. Mỗi giáo viên phải thực hiện nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính tích cực tự giác và sáng tạo của học sinh. Và phƣơng pháp dạy học theo chủ tích hợp đƣợc hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ có hệ thống ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ 9 năng có mối quan hệ gần gũi với nhau trong thực tiễn từ đó chúng tác động, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng, vững chắc. Việc thực hiện các phƣơng pháp tích hợp trong giáo dục, dạy học sẽ giúp phát triển năng lực cho học sinh giải quyết những vấn đề phức tạp làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn so với việc học tập các môn học riêng rẽ. 1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1 Thực trạng việc dạy – học Địa lí Trong thời gian gần đây đa số học sinh chƣa có nhận thức đúng đắn, không chú ý đến môn Địa lí vì vậy những tiết học này qua đi trong mệt mỏi, chán nẳn cho cả thầy và trò. Trong khi đó môn này lại có vai trò vô cùng quan trọng trong việc trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học và kiến thức thực tế. Việc đổi mới chƣơng trình dạy học ở bậc THCS luôn chú ý đào tạo kĩ năng toàn diện cho học sinh. Từ tực tế quan sát tôi thấy rất nhiều học sinh có tâm lí chán học, thờ ơ với bộ môn. 1.2.2 Nguyên nhân Phƣơng pháp giảng dạy chƣa phù hợp với đại đa số học sinh . Do nhiều nguyên nhân nên việc sử dụng các thiết bị dạy học của bộ môn còn hạn chế. Một số giáo viên chƣa thực sự tâm huyết với nghề, chƣa khơi gợi đƣợc đam mê cho học sinh Do đặc thù của nhà trƣờng THCS nên đội ngũ giáo viên bộ môn ít, chủ yếu là các giáo viên kiêm nghiệm. Đối với học sinh: Một số học sinh chán học, lƣời học nên chuẩn bị không tốt tâm thế cho giờ học môn Địa lí. Đời sống tinh thần đƣợc nâng cao, mạng xã hội, Internet… khiến học sinh sao nhãng việc học. Đứng trƣớc tình hình đó, đổi mới phƣơng pháp để nâng cao chất lƣợng dạy học là một vấn đề mà các cấp lãnh đạo, nhà trƣờng , giáo viên quan tâm và dạy học theo chủ đề tích hợp, liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lƣợng giáo dục làm cho học sinh 10 nhận thức đƣợc mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục đƣợc tình trạng tản mạn, rời rạc trong việc tiếp nhận kiến thức. Nhƣ vậy, để học sinh tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập thì tất yếu phải đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, mà dạy học theo hƣớng tích hợp là một phƣơng pháp tiêu biểu. 2. DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN QUA BÀI SỐ 2 “DÂN SỐ VÀ GIA TĂNG DÂN SỐ ” ĐỊA LÍ LỚP 9. 2.1 Về phƣơng pháp tích hợp Tích hợp là một trong những phƣơng pháp dạy học hiện đại đang đƣợc áp dụng rộng rãi trong các nhà trƣờng . Dạy học tích hợp sẽ phát huy đƣợc tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, buộc học sinh phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa theo sự hƣớng dẫn của giáo viên. Về phƣơng pháp dạy học tích hợp trong môn Địa lí có các phƣơng pháp sau: Tích hợp dọc: Là tích hợp các bài đã học Tích hợp liên môn : Là tích hợp kiến thức từ các môn học khác hoặc lĩnh vực khác nhƣ Toán, Sinh, Giáo dục công dân, Tự nhiên xã hội,… Có thể áp dụng tích hợp trong các trƣờng hợp sau: Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, thông qua các phƣơng tiện dạy học, tranh ảnh, tƣ liệu, qua các thiết bị công nghệ thông tin. Tích hợp qua từng nội dung bài học ( qua hệ thống bài tâp) Tích hợp thông qua các hình thức kiểm tra đánh giá. Tích hợp gắn với đời sống xã hội, rèn kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh. Tóm lại để dạy học theo hƣớng tích hợp trong môn Địa lí đạt hiệu quả cao giáo viên đứng lớp phải nắm vững nguyên tắc tích hợp, bám sát vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với đặc điểm lớp học, đối tƣợng học sinh. 2.2 DẠY HỌC BÀI DÂN SỐ VÀ GIA TĂNG DÂN SỐ – ĐỊA LÍ LỚP 9 THEO HƢỚNG TÍCH HỢP LIÊN MÔN 11 2.2.1. Các bài học Địa lí và kiến thức liên môn cần vận dụng để giải quyết vấn đề của bài học a. Đối với kiến thức môn Địa lí – Học sinh đã học và nắm vững kiến thức ở lớp dƣới, hiểu và trình bày đƣợc đặc điểm dân số, quá trình phát triển và tình hình gia tăng dân số thế giới, nguyên nhân, hậu quả của bùng nổ dân số. – Học sinh trình bày đƣợc đặc điểm dân số nƣớc ta : số dân đông, gia tăng tự nhiên nhanh , có sự thay đổi cơ cấu dân số theo giới, theo nhóm tuổi. Nguyên nhân, hậu quả của dân số đông, gia tăng dân số nhanh. b. Thái độ đối với vấn đề tài nguyên thiên nhiên khi dân số đông. – Sức ép dân số đối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên( đất, than, rừng, dầu khí, sinh vật…). Từ đó học sinh ý thức đƣợc việc sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên đặc biệt đối với những nguồn tài nguyên không phục hồi. Tham gia tích cực vào các chƣơng trình bảo vệ Trái đất, hƣởng ứng chƣơng trình chống biến đổi khí hậu, giờ trái đất…và một số việc làm thiết thực, cụ thể . c. Kiến thức môn Sinh Học – Hiểu đƣợc khái niệm sinh đẻ có kế hoạch – Hiểu đƣợc cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai. – Hiểu đƣợc một số biện pháp điều khiển giới tính . Thông qua đó học sinh biết cách chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên nhƣ thế nào ( học sinh đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách, trong độ tuổi vị thành niên) nên việc hiểu vấn đề này là rất cần thiết trang bị kiến thức cho bản thân. d. Kiến thức môn Giáo dục Công dân – Nêu đƣợc tình hình dân số và những việc làm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của nhà nƣớc để giải quyết vấn đề dân số và việc làm. – Nêu đƣợc hậu quả của việc gia tăng dân số ảnh hƣởng đến tài nguyên, môi trƣờng…, từ đó có ý thức, biện pháp cơ bản để bảo về tài nguyên, bảo vệ môi trƣờng sống. 12 – Hiểu đƣợc trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện chính sách, đƣờng lối của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc trong việc thực hiện chính sách dân số. Từ đó, học sinh rút ra bài học cho bản thân, trách nhiệm của mình đối với đất nƣớc, biết xử lí mối quan hệ chung, riêng, gia đình, nhà trƣờng, xã hội ….Từ đó góp phần giáo dục nhân cách, ý thức trách nhiệm của cá nhân trong bối cảnh xã hội hiện nay. e. Đối với môn Toán – Học sinh vận dụng khiến thức Toán học, công thức Toán học để tính tỉ lệ gia tăng tự nhiên, tính đƣợc số liệu về tình hình gia tăng dân số… của nƣớc ta trong từng giai đoạn , so sánh giữa các vùng miền trong cả nƣớc và làm bài tập số 3 sách giáo khoa trang 10. g. Đối với môn Lịch sử – Học sinh vận dụng đƣợc các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nƣớc ta ảnh hƣởng tới sự gia tăng dân số ở từng giai đoạn. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và Cách mạng Tháng Tám 1945, hiểu hậu quả của nạn đói năm 1945. Cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954, kháng chiến chống Mĩ 1945 – 1975. Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Đổi mới nền kinh tế đất nƣớc 1986…. h.Kiến thức văn hóa, xã hội – Hiểu những kiến thức về văn hóa xã hội, phong tục tập quán của từng vùng miền, từng dân tộc trên cả nƣớc…từ đó liên hệ với thế giới. 2.2.2 Dạy học bài Dân số và gia tăng dân số – Địa lí lớp 9. Ngày nay các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với một số vấn đề chung có tính toàn cầu mà việc ngăn chặn và khắc phục những hậu quả nghiêm trọng cần có sự hợp tác chung toàn cầu nhƣ vấn đề dân số, môi trƣờng… Nƣớc ta là nƣớc đông dân, tháng 7 năm 2016 dân số trên 95 triệu ngƣời , đứng thứ 14 trên thế giới, thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Cách đây 10 năm, tỉ lệ giới tính ở Việt Nam ngang bằng với thế giới 100/105 – 107, nhƣng những năm gần đây khi chúng ta thực chính sách dân số “ Dừng lại ở 1-2 con để nuôi dạy cho tốt” góp phần giảm tỉ lệ sinh nhƣng lại làm cho các gia đình phải cân 13 nhắc lựa chọn giới tính thai nhi để sinh đƣợc con trai. Hệ quả là khoảng cách giới tính 114/100 ( năm 2003) vì vậy ý nghĩa của bài học luôn mang tính thời sự. Từ những nội dung đó, tôi xin xây dựng chuyên đề này giúp học sinh nắm vững kiến thức bài học “ Dân số và gia tăng dân số” lớp 9. Sau đó những vấn đề đƣợc gợi ra trong bài, học sinh có những nhận thức đúng đắn về vấn đề dân số , ủng hộ, tuyên truyền, vận động mọi ngƣời thực hiện các biện pháp, chính sách dân số của nhà nƣớc, địa phƣơng. 2.2.3 KẾ HOẠCH BÀI HỌC MINH HỌA TIẾN TRÌNH BÀI HỌC BÀI 2 DÂN SỐ VÀ GIA TĂNG DÂN SỐ A. Mục tiêu bài học 1. Kiến thức: Học sinh – Biết đƣợc quy mô dân số, tình hình biến động dân số thế giới, nguyên nhân chính là do sinh đẻ và tử vong. – Phân tích đƣợc hậu quả của gia tăng dân số không hợp lí. – Biết tính tỉ suất sinh, tỉ suất tử, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên, gia tăng dân số cơ học và tỉ suất gia tăng dân số. 2. Kĩ năng. – Rèn kí năng tính toán, nhận xét, phân tích biểu đồ, bảng số liệu. – Kĩ năng thảo luận, hợp tác nhóm, nhận định đánh giá một số vấn đề liên quan đến thực tế. 3. Thái độ. – Có nhận thƣc đúng đắn về vấn đề dân số, tuyên truyền, vận động mọi ngƣời thực hiện các biện pháp, chính sách dân số quốc gia, địa phƣơng. 4. Hình thành và phát triển năng lực. – Năng lực chung : tƣ duy tổng hợp, phát hiện giải quyết vấn đề, hợp tác, thảo luận nhóm và tự quản lí. 14 – Năng lực chuyên biệt : tính toán, sử dụng bảng số liệu, biểu đồ, phân tích, tổng hợp. B. Chuẩn bị : 1. Giáo viên : Sách giáo khoa Địa lí 9, Sách giáo viên, Chuẩn kiến thức kĩ năng, một số tài liệu tham khảo , thiết kế kế hoạch dạy học, chuyên đề, tƣ liệu, tranh ảnh minh họa. 2. Học sinh: Đọc trƣớc bài ở nhà, chuẩn bị đồ dùng, sách vở và các tài liệu liên quan đến nội dung bài học . C. Tiến trình lên lớp: 1. Ổn dịnh lớp: Kiểm tra sĩ số, nề nếp lớp học 2. Kiểm tra bài cũ: Kết hợp trong quá trình tìm hiểu bài mới. Hoạt động 1: KHỞI ĐỘNG , KHÁM PHÁ Phƣơng pháp : Thuyết trình Bài mới: Giới thiệu bài mới : Dân số, tình hình gia tăng dân số và những hậu quả của dân số trở thành mối quan tâm không chỉ của mỗi quốc gia mà cả cộng đồng quốc tế. Ở mỗi quốc gia chính sách dân số luôn có vị trí xứng đáng trong chính sách của nhà nƣớc. Sớm nhận rõ vấn đề này Đảng và nhà nƣớc ta đã đề ra mục tiêu dân số và ban hành hàng loạt các chính sách, để đạt đƣợc mục tiêu này. Để tìm hiểu về vấn đề dân số, gia tăng dân số và cơ cấu dân số nƣớc ta có đặc điểm gì, trong tiết học ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề này. Hoạt động 2 : HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI – Phƣơng pháp, kĩ thuật dạy học : Đặt câu hỏi, hợp tác vấn đáp, thuyết trình, sử dụng bản đồ, biểu đồ, giải quyết vấn đề. – Hình thức tổ chức dạy học : Trong lớp, cá nhân, cặp – nhóm
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung chính
Kiến thức thích hợp , liên môn
HĐ1.Số dân Tổ chức cho HS làm việc cá nhân, theo trình tự sau:
I.Số dân – Số dân nƣớc ta một số năm gần đây:
– Tích hợp dọc: với bộ môn Địa lí lớp 7, lớp 8.để
15
Bước 1: HS Dựa vào sgk, kết hợp các thông tin thu đƣợc trên các kênh tƣ liệu khác, để trả lời câu hỏi: – Cho biết số dân của nƣớc ta trong 3 mốc thời gian gần đây (2002, 2002, 2005) – Nhận xét thứ bậc xếp loại về quy mô dân số nƣớc ta trên TG, ở Châu Á và khu vực ĐNÁ. Bước 2: + HS trả lời, hs khác bổ xung → GV chuẩn kiến thức. HĐ2: Tìm hiểu về tình hình gia tăng dân số của nƣớc ta – Biết đƣợc dân số nƣớc ta tăng nhanh (bùng nổ vào giữa thể kỉ XX); Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số có sự khác nhau giữa các vùng lãnh thổ. – Nêu đƣợc nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc phục tình trạng gia tăng dân số của nƣớc ta. – Biết phân tích biểu đồ, bảng số liệu thống kê và vẽ biểu đồ kết hợp thể hiện số dân và tỉ lệ gia tăng dân số của nƣớc ta qua một số năm. Phần 1: – GV giới thiệu biểu đồ (H.2.1) và nêu cách vẽ biểu
Năm 2003 2007 2009Số dân (tr ngƣời)80,985,1 785,8- Việt nam là 1 trong những nƣớc có quy mô dân số lớn (đứng thứ 14 trên thế giới, thứ 8 ở Châu Á, đứng thứ 3 trong khu vực ĐNÁ) II. Gia tăng dân số :
nêu đƣợc diện tích, dân số của nƣớc ta so với thế giới, khu vực. – Vận dụng kiến thức liên môn: Toán, lịch sử để so sánh dân số, Diện tích của Việt Nam so với thế giới. Gia tăng dân số: * Vận dụng với kiến thức môn Toán – HS quan sát biểu đồ, nhận xét về tình hình gia tăng dân số nƣớc ta từ 1954 – 2003 – Sử dụng năng lực tính toán để tính + Từ 1954 – 1960 + Từ 1979 – 1989 + Từ 1989 – 1999 dân số nƣớc ta tăng bao nhiêu triệu ngƣời, trung bình tăng bao nhiêu triệu
16
đồ thể hiện số dân và tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của nƣớc ta qua một số năm – GV cho HS quan sát tranh ảnh về mối quan hệ giữa dân số với việc làm, với chất lƣợng cuộc sống và môi trƣờng; cuộc sống của một số dân tộc vùng cao. Phần 2: GV tổ chức cho HS làm việc theo nhóm (2 bàn/ 1nhóm). Điền phiếu học tập a) Bước1: HS trả lời các câu hỏi đƣợc ghi trong phiếu học tập số 1. (Phụ lục) (mỗi nhóm có thể chia làm 3 nhóm nhỏ, mỗi nhóm nhỏ trả lời 2 câu rồi gộp lại và thống nhất trong toàn nhóm). b)Bước 2: + HS đại diện các nhóm trình bày (mỗi nhóm chỉ cần trình bày từ 1-2 vấn đề), HS bổ sung. + GV chuẩn kiến thức. Lưu ý: – Gia tăng tự nhiên là hiệu số của tỉ suất sinh và tỉ suất tử nên tỉ lệ tăng tự nhiên khác nhau giữa các vùng là do sự tác động của hàng loạt các nhân tố có liên quan đến tỉ lệ
– Dân số Việt Nam liên tục tăng (tăng nhanh dẫn đến bùng nổ dân số từ sau 1954 đến 1989). – Từ 1960 – 2003 tỉ lệ gia tăng tự nhiên giảm chậm (từ 3,9% xuống dƣới 1,5%), quy mô dân số nƣớc ta lớn nên số dân vẫn không ngừng tăng nhanh. – Tỉ lệ gia tăng tự nhiên có sự khác nhau giữa các vùng: Khu vực thành thị, các vùng đồng bằng thấp hơn nhiều so với nông thôn và miền núi. (Do hoàn cảnh kinh tế, mức sống dân cư, điều kiện dịch vụ y tế, tâm lí xã hội, văn hoá giáo dục, hiệu quả của chính sách dân số, KHHGĐ… ở các vùng có
ngƣời/ năm. => Rút ra kết luận về tình hình gia tăng dân số. – Tính tỉ lệ gia tăng tự nhiêncũng theo từng giai đoạn để rút ra kết luận về tỉ lệ gia tăng tự nhiên ở nƣớc ta từ1954- 2003, dẫn đến hậu quả bùng nổ dan số vào những năm 50 của thế kỉ XX. – Học sinh theo dõi bảng số liệu 2.1 SGK/8 để nhận biết số liệu về tỉ lệ gia tăng tự nhiên có sự chênh lệch giữa các vùng miền trên cả nƣớc. * Vận dụng kiến thức môn Lịch sử để giải thích về tình hình gia tăng dân số . – Năm 1945 nạn đói xảy ra đã cƣớp đi hơn 1 triệu ngƣời của
17
sinh và tỉ lệ tử. – Vùng miền núi đặc biệt vùng sâu vùng xa kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ gia tăng tự nhiên cao sẽ làm cho vùng càng khó khăn hơn.) Vì vậy nâng cao dân trí, nâng cao mức sống trên mọi vùng lãnh thổ, nhằm phát triển một quy mô dân số hợp lý là rất cần thiết .
sự nhau). * Dân đông và tăng nhanh + Thuận lợi: Cung cấp nguồn lao động dồi dào, tạo thị trƣờng tiêu thụ trong nƣớc rộng lớn + Khó khăn: Gây sức ép về nhiều mặt (việc làm, chất lƣợng cuộc sống, bảo vệ môi trƣờng…). + BP khắc phục: Cần đẩy mạnh công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình nhằm giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên, điều chỉnh tốc độ tăng dân số cho phù hợp với tốc độ tăng trƣởng kinh tế – xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho ngƣời dân.
nƣớc ta, đồng thời do chiến tranh liên miên khiến tỉ lệ tử vong cao làm cho số dân tụt giảm đi nhanh chóng. Đứng trƣớc tình hình đó nhà nƣớc đã khuyến khích sinh đẻ để gia tăng dân số. Nhƣng từ 1954 dân số tăng rất nhanh dẫn đến bùng nổ dân số. * Vận dụng kiến thức môn Văn hóa, xã hội. – Dân số đông có những thuận lợi và khó khăn đối với KT- XH, Tài nguyên, môi trƣờng. – Thuận lợi; Dân số đông tạo ra nguồn lao động dồi dào đặc biệt là lao động trẻ, thu hút đƣợc sự đầu tƣ của nƣớc ngoài vào phát triển KTXH
18
– Khó khăn: + Dân số đông tạo nên sức ép dân số đặc biệt là sức ép dân số tới các đô thị lớn.Năm 2003 mật độ dân số ở Hà Nội 2830 ngƣời/km², TPHCM là 2664 ngƣời/ km² Thiếu công ăn việc làm: Tỉ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt ở các đô thị lớn tỉ lệ thất nghiệp khoảng 6%, nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Thiếu nhà ở : Xuất hiện những khu nhà ổ chuột ở ven các đô thị gây mất mĩ quan đô thị . Dân số đông ở các đô thị dẫn đến tình trạng kẹt xe, khói bụi các phƣơng tiện giao thông, sinh hoạt, rác thải …gây ô
19
nhiễm môi trƣờng sống, đặc biệt là môi trừơng không khí.Chẳng hạn nhƣ ở Hà Nội Tỷ lệ số ngày trong tháng 1-3/2019 có giá trị trung bình 24 giờ của PM2.5 vượt QCVN tại các trạm quan trắc trên địa bàn Hà Nội (Nguồn: Tổng cục Môi trường) Dân số đông phải khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ nhu cầu đời sống của con ngƣời, khai thác quá mức phục hồi và sử dụng không hợp lí dẫn đến nguồn tài nguyên bị cạn kiệt nhanh chóng .Từ năm 1943- 1995 diện tích rừng tự nhiên nƣớc ta giảm đi nhanh chóng từ
20
HĐ3: Tìm hiểu về cơ cấu dân số nƣớc ta. Biết đƣợc cơ cấu dân số nƣớc ta trẻ (nhóm tuổi 0-14 chiếm tỉ lệ cao); tỉ số giới tính mất cân đối. – Trình bày và giải thích đƣợc về sự thay đổi cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính ở nƣớc ta hiện nay. – Biết phân tích bảng số liệu và vẽ biểu đồ cơ cấu dân số theo nhóm tuổi, theo giới. Tổ chức cho HS làm việc cá nhân theo trình tự sau đây: a) Bước 1: Dựa bảng 2.2 để thực hiện các yêu cầu sau: – Nhận xét tỉ lệ 2 nhóm dân số nam và nữ (tổng số) và xu hƣớng thay đổi từ 1979-1999. Giải thích? – Hoàn chỉnh bảng số liệu sau đây rồi rút ra nhận xét về cơ cấu dân số và sự thay đổi cơ
III. Cơ cấu dân số – Tỉ lệ nữ > tỉ lệ nam, tỉ số giới tính thấp (mất cân bằng) * Nguyên nhân: + Nam giới có mức tử vong trội hơn và chịu ảnh hƣởng nặng nề của chiến tranh. + Ở các địa phƣơng còn do tác động của hiện tƣợng chuyển cƣ (nơi xuất cư tỉ số giới tính thấp, nơi nhập cư tỉ số giới tính cao) – Xu hƣớng thay đổi: Tăng tỉ lệ
43% còn 28,2% Trƣớc thực trạng đó chúng ta cần phải có những biện pháp để giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên * Vận dụng kiến thức môn GDCD – Giáo dục giới tính cho học sinh ở các trƣờng phổ thông. – Tuyên truyền vận động về chính sách dân số thể hiện qua luật hôn nhân và gia đình năm 2000, điều chỉnh chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình của nhà nƣớc + Không kết hôn sớm + Không sinh con ở tuổi vị thành niên. + Mỗi gia đình chỉ nên có từ 1 đến 2 con. + Nhà nƣớc, xã hội không thừa
21
cấu dân số theo nhóm tuổi của nƣớc ta. Nhóm tuổi1979 1989 19990-14 42,5 39,0 33,515-59 50,4 53,8 58,460 trở lên7,1 7,2 8,1(42,5… số liệu hs tính toán) – Đặc điểm về cơ cấu dân số theo nhóm tuổi ở nƣớc ta có thuận lợi, khó khăn gì tới phát triển KT-XH b) Bước 2: HS trình bày GV chuẩn kiến thức ( Lưu ý: – GV cần cho HS phân biệt tỉ lệ nam, tỉ lệ nữ với tỉ số giới tính, từ đó biết cách tính tỉ số giới tính Tỉ số giới tính = X 100 – Cơ cấu theo giới ảnh hưởng đến phân bố sản xuất, tổ chức đời sống xã hội và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Lưu ý: – Có thể phân biệt dân số trẻ và dân số già theo bảng sau:
nữ, giảm tỉ lệ nam → tỉ số giới tính cân bằng hơn ( ảnh hưởng của chiến tranh giảm dần , tỉ số giới tính khi sinh tăng nhanh trong những năm gần đây) – Việt nam là nƣớc có cơ cấu dân sổ trẻ: + Nhóm 0-14 tuổi chiếm tỉ lệ cao, hơn 30% tổng số dân ( > 1/3 dân số cả nƣớc) + Nhóm 15-59 tuổi chiếm hơn 50% (> 1 nửa số dân) + Nhóm 60 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ thấp (dƣới 9 %) – Xu hƣớng thay đổi: Tỉ lệ nhóm dƣới tuổi lao động giảm, trong và trên tuổi lao đông tăng (dân số nƣớc ta đang già đi). – Dân số Việt Nam trẻ tạo nguồn lao động dồi dào, nguồn lao động dự trữ lớn song khó khăn về giải quyết việc làm, tỉ lệ phụ thuộc cao → chậm cải thiện chất lƣợng cuộc sống (chất lƣợng cuộc sống còn thấp).
nhận sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái…Đẩy lùi tƣ tƣởng trọng nam, khinh nữ… Tuyên truyền xóa bỏ phong tục tập quán cũ, lạc hậu trong việc thực hiện chính sách dân số của nhà nƣớc. Vận động gia đình và mọi ngƣời xung quanh thực hiện tốt chính sách dân số và luật hôn nhân gia đình. Nhờ vậy tỉ lệ gia tăng tự nhiên có xu hƣớng giảm. * Vận dụng kiến thức môn Sinh học. – Học sinh hiểu đƣợc các kiến thức về sức khỏe sinh sản, … – Đời sống ngày càng phát triển làm cho chất
Số nam Số nữ
22
Nhóm tuổi Dân số già(%)Dân số trẻ (%)0 – 14 < 25 > 3515 – 59 60 5560 trở lên > 15 < 10(Tài liệu: sgk lớp 10 XB 2007)
lƣợng cuộc sống ngày càng nâng cao. – Trong lĩnh vực y học đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe con ngƣời => tuổi thọ tăng 73,4 tuổi năm 2016( theo Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình), đặc biệt giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, hiện nay là 18,39 ‰. Vì thế tuy tỉ lệ gia tăng tự nhiên có xu hƣớng giảm ( 1,43% năm 1999) bằng với mức trung bình của thế giới nhƣng dân số vẫn đông. *Vận dụng kiến thức môn Toán – Cơ cấu dân số theo giới: Vận dụng kiến thức toán học tính toán, so sánh để
23
nhận biết giai đoạn từ 1979 trở về trƣớc tỉ lệ nữ nhiều hơn tỉ lệ nam, giai đoạn sau từ 1989 trở về sau tỉ lệ nam nhiều hơn. * Vận dụng kiến thức Lịch sử để giải thích nguyên nhân này: Do chiến tranh, do quá trình di dân đi vào khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ xây dựng vùng kinh tế mới. * Vận dụng kiến thức Sinh học : Do thực hiện chính sách dân số nên việc lựa chọn giới tính thai nhi đƣợc các gia đình chú trọng hơn nên giai đoạn sau tỉ lệ nam cao hơn tỉ lệ nữ. * Vận dụng kiến thức môn GDCD và Văn hóa- Xã hội: cho thực
24
hiện tốt cuộc vận động, tuyên truyền chính sách dân số, do phong tục tập quán vùng miền khác nhau nên tỉ lệ giới tính cũng có sự thay đổi. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội với chủ trƣơng khai hoang vùng kinh tế mới, ra khơi bám biển phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo nên những vùng nhập cƣ tỉ lệ nam thƣờng cao hơn tỉ lệ nữ ( các tỉnh ở ĐBSH nơi nhiều năm liên tục có các luồng đi cƣ nông nghiệp tới các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ…nên tỉ số giới tinh cao rõ rệt. Trong giai đoạn hiện nay tỉ lệ nam
25
nhiều hơn nữ 114/103 ( 2003) dẫn đến mất cân bằng giới tính, vì vậy nhiều địa phƣơng đã có những biện pháp thích hợp nhƣ tuyên truyền, tặng giấy khen, hỗ trợ kinh phí cho những gia đình sinh 2 con gái…đã và đang đạt đƣợc kết quả ban đầu. – Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi: HS dựa vào bảng số liệu 2.2 SGK/9,hình 5.1 SGK/18và vận dụng kiến thức các môn học khác để tìm hiểu cơ cấu dân số theo nhóm tuổi. * Vận dụng kiến thức môn Toán: Nhận biết, tính toán và so sánh cơ cấu dân số theo nhóm tuổi dƣới, trong và
26
trên độ tuổi lao động ở từng giai đoạn và rút ra nhận xét về sự thay đổi cơ cấu dân số theo nhóm tuổi đang có sự thay đổi giảm tỉ lệ ngƣời dƣới độ tuổi lao động, tăng tỉ lệ ngƣời trong và trên độ tuổi lao động => dân số nƣớc ta là dân số trẻ. * Vận dụng kiến thức Văn hóa – Xã hội: Nêu đƣợc những thuận lợi và khó khăn của cơ cấu dân số trẻ ảnh hƣởng tới sự phát triển kinhh tế xã hội, tài nguyên môi trƣờng của đất nƣớc và có những dự đoán xa về cơ cấu dân số trẻ và việc giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số nƣớc ta và nguy cơ già hóa dân số.
27 C. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH Phương pháp và kĩ thuật dạy học : Vấn đáp và hƣớng dẫn học sinh tự học Bài tập 1+ 2 sgk/10 1- Quan sát hình 2.1 sgk/ tr7, rút ra nhận xét: – Sự thay đổi về số dân thời kì 1954 – 2003: Số dân nƣớc ta liên tục tăng (tăng 57,1 triệu ngƣời, gấp 3,4 lần) – Sự thay đổi về tỉ lệ tăng tự nhiên (tốc độ gia tăng tăng dân số): + Tỉ lệ tăng tự nhiên cao:(>2%): Từ sau 1954 đến 1989 + Tỉ lệ tăng tự nhiên giảm: Từ 1960 đến 2003, trung bình giảm 0,06 % /năm * Hƣớng dẫn học sinh vận dụng kiến thức Toán học để nhận biết, tính toán về sự thay đổi cơ cấu dân số nƣớc ta từ 1954- 2003. Vân dụng kiến thức môn Sinh học, GDCD và Văn hóa – Xã hội để giải thích vì sao tỉ lệ gia tăng dân số giảm nhƣng dân số vẫn tăng nhanh, những thuận lợi và khó khăn của việc gia tăng dân số nhanh ảnh hƣởng tời KT- XH và tài nguyên môi trƣờng. 2- Vì sao tỉ lệ tăng dân số giảm nhƣng dân số vẫn tăng nhanh? Vì: Tỉ lệ tăng tự nhiên giảm nhưng giảm không đáng kể, quy mô dân số nước ta lớn. 3- Dân số đông và tăng nhanh: – Thuận lợi: Tạo thị trƣờng tiêu thụ trong nƣớc rộng lớn, nguồn lao động dồi dào. – Khó khăn: + Giải quyết việc làm. + Đáp ứng nhu cầu lƣơng thực-thực phẩm, nâng cao chất lƣợng cuộc sống. + Bảo vệ tài nguyên, môi trƣờng 4-Lợi ích của việc giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số ở nƣớc ta Điều chỉnh tốc độ tăng dân số cho phù hợp với tốc độ tăng trƣởng kinh tế – xã hội, nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống, giảm sức ép dân số lên các vấn đề xã hội và môi trƣờng. 28 5- Quan sát bảng 2.1 sgk tr8 → trả lời câu hỏi cuối bảng rồi rút ra kết luận về tình hình tăng dân số giữa các địa phƣơng. Giải thích? – Tỉ lệ gia tăng tự nhiên có sự khác nhau giữa các vùng: Khu vực thành thị, các vùng đồng bằng thấp hơn nhiều so với nông thôn và miền núi. – Nguyên nhân: Do hoàn cảnh kinh tế, mức sống dân cƣ, điều kiện dịch vụ y tế, tâm lí xã hội, văn hoá giáo dục, hiệu quả của chính sách dân số, KHHGĐ… ở các vùng có sự nhau. D. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG Phương pháp và kĩ thuật dạy học: Vấn đáp, và định hƣớng học sinh tự học – Hƣớng dẫn học sinh giải bài tập 3 trg 10 * Vận dụng kiến thức môn Toán để tính tỉ lệ, và vẽ biểu đồ phù hợp. Tỉ suất sinh – Tỉ suất tử (%0) Tỉ lệ gia tăng tự nhiên(%) = 10 Có 2 cách vẽ: Cách1. Vẽ biểu đồ đƣờng : 1 đƣờng thể hiện tỉ suất sinh, 1 đƣờng thể hiện tỉ suất tử, khoảng cách giữa 2 đƣờng thể hiện tỉ lệ gia tăng tự nhiên Cách2. Vẽ biểu miền (2 miền cùng xuất phát từ gốc tọa độ) E. HOẠT ĐỘNG BỔ SUNG Phương pháp và kĩ thuật dạy học: Vấn đáp,học theo nhóm và định hƣớng học sinh tự học. Hƣớng dẫn Cách2. Vẽ biểu miền (2 miền cùng xuất phát từ gốc tọa độ) (Bài tập 3/10) TỔNG KẾT VÀ HƢỚNG DẪN HỌC TẬP 1 .Tổng kết – Biểu đồ thích hợp thể hiện cơ cấu dân số theo nhóm tuổi năm 1989 và 1999 là: a) Đƣờng biểu diễn b) Biểu đồ cột c) Biểu đồ hình tròn d) Biểu đồ thanh ngang – Xu hƣớng thay đổi cơ cấu dân số theo nhóm tuổi thời kì 1989 và 1999? Nguyên nhân và ảnh hƣởng của sự thay đổi đó đến phát triển KT-XH. 29 2. Hƣớng dẫn học tập – Làm BT trong tập bản đồ 4. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 4.1 Thực nghiệm sƣ phạm 4.1.1 Mục đích thực nghiệm Tiến hành giảng dạy theo kế hoạch trong đó tập trung vào nghiên cứu tính khả thi của việc dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong bài “ Dân số và gia tăng dân số” – Địa lí lớp 9 phần Dân cƣ. 4.1.2 Nhiệm vụ thực nghiệm và kiểm tra đánh giá theo kế hoạch , xử lí, phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực nghiệm. 4.1.3 Nội dung và đối tƣợng thực nghiệm. Thực nghiệm đƣợ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Một trong những điểm mới của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 là mục tiêu giáo dục dạy học phát triển năng lực, phẩm chất tức là giáo dục con người chứ không phải giáo dục nội dung. Môn Lịch sử cấp THCS góp phần cùng các môn học và hoạt động giáo dục khác hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung, tạo tiền đề cho học sinh tiếp tục học lên THPT, học nghề hoặc tham gia đời sống lao động, trở thành những công dân có ích cho xã hội và đất nước. Môn Lịch sử trong trường THCS là môn học có ý nghĩa và vị trí quan trọng đối với việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục đã được Nhà nước xác định, giúp học sinh hiểu được những kiến thức cơ bản về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc làm cơ sở bước đầu cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, tin vào lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Hơn nữa, học sinh biết tự hào về truyền thống dựng nước, giữ nước và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, biết quan tâm đến những vấn đề có ảnh hưởng tới quốc gia, khu vực và toàn cầu. Trên nền tảng kiến thức đã học môn Lịch sử còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội, chủ yếu đáp ứng yêu cầu của sự phát triển con người Việt Nam XHCN trong công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Nhưng trong những năm gần đây dư luận xã hội đặc biệt quan tâm về vấn đề thực trạng dạy và học môn Lịch sử, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng cũng phản ánh rất nhiều, nhất là học sinh phổ thông ít chịu học Lịch sử, hiểu ít về Lịch sử dân tộc. Điều đó cũng thể hiện rõ ngay trong các bài làm thi khảo sát, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì, thi tốt nghiệp, hầu hết học sinh chưa nắm bắt được phương pháp làm bài Lịch sử. Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 vừa qua môn Lịch sử tiếp tục ở vị trí “đội sổ” là môn có điểm thi thấp nhất. Số thí sinh có điểm thi dưới 5 chiếm tỉ lệ cao, trong số đó, số bài có số điểm từ 0 – 2 điểm không phải là ít. Đây thực sự là thực trạng đáng báo động trong việc dạy và học môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này. Hơn nữa học sinh không thích học Lịch sử, không phải do môn Lịch sử gây ra mà chính là do quan niệm và phương pháp dạy học của chúng ta chưa thật sự phù hợp. Đã có nhiều cuộc hội thảo ở nhiều cấp bàn bạc về vấn đề trên, nhưng thực tế vẫn chưa mang lại kết quả như mong đợi. Việc nghiên cứu tìm ra biện pháp cải thiện tình trạng hiện tại là hết sức cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, bản thân tôi nhận thấy cần phải góp tiếng nói của mình để cùng đồng nghiệp trong trường, trong tỉnh tìm ra được giải pháp phù hợp với thực tiễn hiện nay để cải thiện tình hình. Mỗi giáo viên chúng ta 6 phải hiểu rằng việc dạy học là việc làm đầy sáng tạo. Theo bản thân tôi nghĩ, mỗi giáo viên muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học của mình phải có kiến thức rộng, biết đổi mới phương pháp dạy học tích cực, dạy học phải gắn liền với thực tiễn, biết tích hợp những kiến thức của môn học khác vào dạy môn Lịch sử,… có như thế mới gây hứng thú cho học sinh. Trong thực tế, có nhiều giáo viên cũng đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Nay tôi trình bày một vài kinh nghiệm về “đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát triển năng lực học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy trong môn Lịch sử”, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường phổ thông và từng bước đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay đồng thời giúp HS yêu thích và học tốt môn Lịch sử hơn. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA SÁNG KIẾN. II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: a) Hiện trạng về giáo dục và chất lượng giảng dạy ngày nay: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học…” Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới. Xuất phát từ mục tiêu chung về giáo dục và đào tạo, bộ môn Lịch sử có nhiệm vụ “cung cấp kiến thức cơ bản, có hệ thống về Lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội loài người, trên cơ sở đó, giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, rèn luyện năng lực tư duy và thực hành”. Thực chất của việc đổi mới phương pháp dạy học là phát huy cao độ tính tích cực, chủ động của người học, đặc biệt phát triển năng lực tự học, tự chủ; năng lực vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống … cho HS. Mặc dù những năm gần đây, ngành giáo dục nước ta đã có nhiều cố gắng, song hiệu quả còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu giáo dục đặt ra. Đảng ta đã chỉ rõ tình trạng yếu kém đó là: “chậm đổi mới về cơ cấu, hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp, chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lí của nhà nước”. Mà “yếu kém chủ yếu nhất của giáo dục hiện nay là chậm chuyển biến về thích ứng với nền kinh tế đang đổi mới. Tình trạng lạc hậu của giáo dục thể hiện từ cơ cấu, hệ thống đến mục tiêu, chương trình và nội dung, phương pháp”… Chất lượng 7 giáo dục trong những năm gần đây đã có những bước tiến rõ rệt, song kết quả chưa thật đồng đều, trong đó kết quả môn Lịch sử qua các kì thi còn thấp. b) Một số giải pháp đã biết: Trong lĩnh vực giáo dục nói chung, lĩnh vực bộ môn Lịch sử nói riêng đã có một số giải pháp nhằm giúp học sinh học tập tốt hơn bộ môn, tránh tâm lý e ngại, “sợ” học Lịch sử, coi đây là một bộ môn khô khan khó học, khó nhớ làm các em không có hứng thú khi học tập, điều khiến cho chất lượng giáo dục của bộ môn Lịch sử vẫn chưa được nâng cao. Một số giải pháp trước đây đã được các nhà quản lý giáo dục, các đồng chí giáo viên tâm huyết làm để giải quyết những khó khăn trên cho bộ môn Lịch sử và người học như: 1. Giải pháp: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học lịch sử của đồng chí Nguyễn Thị Yên, giáo viên trường THCS & THPT Khánh An – U Minh – Cà Mau. Ưu điểm: của giải pháp trên là đã chỉ ra được một số phương pháp cơ bản giúp học sinh đọc lược đồ lịch sử, miêu tả tường thuật các vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự; Cách khai thác nội dung kiến thức trong trong bộ đồ dùng bộ môn lịch sử do Bộ giáo dục cấp cho các trường phổ thông như: các hòm công cụ phục chế, tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ… Nhược điểm: Giải pháp chưa chú trọng đến việc giúp học sinh củng cố, ghi nhớ các kiến thức đã học, học sinh chưa phát huy được kỹ năng khái quát, so sánh các sự kiện, nhân vật lịch sử nên chưa thực sự phát huy hết vai trò của bộ môn trong quá trình giáo dục. 2. Giải pháp: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Lịch sử của đồng chí Nguyễn Đình Lưu trường THCS Hợp Hưng – Vụ Bản. Ưu điểm: Giải pháp đã hấp dẫn học sinh vào các giờ học nhờ việc sử dụng máy tính, máy chiếu với hệ thống phim ảnh phong phú sinh động, tạo cho học sinh những biểu tượng sinh động trong một số bài học, tranh được cho học sinh việc ghi chép và ghi nhớ nhiều, giờ học trở nên nhẹ nhàng, tránh nhàm chán. 8 Nhược điểm: Giải pháp lại nhấn mạnh đến kỹ năng sử dụng máy tính, kết nối mạng khai thác tài liệu nên dễ làm cho học sinh xa rời mục đích chính của bộ môn Lịch sử mà lại thiên về môn Tin học. Bên cạnh đó một số trường vùng nông thôn, vùng sâu, vùng khó khăn chưa có điều kiện trang bị đầy đủ hệ thống máy tính, kết nối mạng, học sinh không có điều kiện tiếp cận nhiều với tin học nên khó có thể áp dụng một cách rộng rãi trên toàn quốc, điều này cũng đã làm giảm đi tính ứng dụng thực tiễn của giải pháp. 3. Giải pháp: Tổ chức cho học sinh tham quan thực tế các di tích lịch sử, văn hóa và làng nghề để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử địa phương của đồng chí Lê Thị Hoa, giáo viên trường THCS Giao Thanh. Ưu điểm: Với giải pháp trên, học sinh được tạo điều kiện đến tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, làng nghề trên địa phương để được trải nghiệm và học tập tại thực địa. Giáo viên hướng dẫn, thuyết minh cho học sinh các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, các cổ vật có thật, sinh động, các em được xem tận mắt các sản phẩm thủ công mỹ nghệ gắn với nội dung bài học trên lớp. Nhược điểm: Hình thức dạy học trên đòi hỏi phải có sự chuẩn bị công phu cả về thời gian, kinh phí và việc đảm bảo an toàn cho học sinh trong mỗi chuyến đi thực tế rất quan trọng, bên cạnh đó giáo viên phải lên kế hoạch cụ thể, tham mưu với ban giám hiệu và địa phương nơi học sinh đến tham quan để được tạo điều kiện học tập. Hơn nữa với phương pháp này sẽ không tổ chức được thường xuyên và không phải học sinh nào cũng có điều kiện tham gia dẫn đến hiệu quả giáo dục không cao. Xuất phát từ những lý do chủ yếu nêu trên, tôi viết sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát triển năng lực học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy trong môn Lịch sử” để phần nào khắc phục nhược điểm của những giải pháp cũ nêu trên. II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến (Các giải pháp thực hiện sáng kiến): Trong nhiều năm qua tôi đã tiến hành thực hiện một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong môn Lịch sử tại trường tôi công tác, đồng thời góp phần định hướng các năng lực và phẩm chất cho học sinh theo mục tiêu đổi mới giáo dục. Sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát triển 9 năng lực học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy trong môn Lịch sử” bao gồm các biện pháp nhỏ sau: *Biện pháp 1. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, theo tôi trước hết phải khiến học sinh yêu thích bộ môn đó. Môn Lịch sử vốn được xem là môn học khô khan, khó học, khó nhớ, để học sinh yêu thích môn Lịch sử đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật dạy học. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học là một trong những nghệ thuật trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Nhưng không có một phương pháp dạy học nào là toàn năng, phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Trong quá trình dạy học, tôi đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, nên có những bài tôi sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, kể chuyện, dự án,…. kết hợp các kĩ thuật dạy học phù hợp với từng hoạt động để nâng cao hiệu quả tiết học như kĩ thuật khăn trải bàn, phòng tranh, sơ đồ tư duy, KWL…. Ngoài ra, phương pháp và kĩ thuật dạy học còn mang tính chủ quan của mỗi giáo viên. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình sau khi xác định đúng mục tiêu bài học cần có cách lựa chọn phương pháp và kĩ thuật dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với môi trường giáo dục và cơ sở vật chất của đơn vị mình công tác. Ví dụ: Khi dạy chủ đề “Thời nguyên thủy” (Lịch sử lớp 6) Trước khi bắt đầu bài mới, tôi phát cho mỗi HS một bảng KWL in sẵn. Sau đó yêu cầu HS hoàn thành cột K và cột W (trong thời gian 5 phút). 10
K
W
L
Liệt kê những điều em đã biết về Thời nguyên thủy.
Liệt kê những điều em muốn biết về Thời nguyên thủy.
Liệt kê những điều em đã học được về Thời nguyên thủy.
Sau khi học song chủ đề, tôi yêu cầu HS hoàn thành tiếp cột L. Thông qua việc vận dụng kĩ thuật KWL trong ví dụ trên, HS sẽ hình thành được năng lực nhận thức và tư duy lịch sử; năng lực tự chủ và tự học. Ví dụ: (Sử 8 ) Khi dạy bài 12. Nhật Bản giữa thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX; Mục I. Cuộc Duy tân Minh Trị Bước 1: giao nhiệm vụ cho học sinh tự đọc tư liệu trong SGK, tôi chia lớp thành 4 nhóm với nhiệm vụ. + Nhóm 1,3: Tại sao cuộc duy tân Minh Trị được gọi là cuộc cách mạng tư sản? + Nhóm 2,4: Cuộc cách mạng tư sản ở Nhật Bản có điểm gì khác với các cuộc cách mạng tư sản ở Âu, Mĩ chúng ta đã học ở các tiết trước?. Bước 2. Các nhóm thảo luận trong thời gian 5 phút Bước 3. Trong thời gian 5 phút, các nhóm thảo luận song sau đó đại diện các nhóm lên bảng trình bày phần nội dung, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Bước 4. Giáo viên nhận xét quá trình làm việc và kết quả của các nhóm. Trong ví dụ trên tôi đã sử dụng phương pháp dạy học hợp tác, giải quyết vấn đề kết hợp kĩ thuật chia nhóm, học sinh sẽ hình thành được năng lực giao tiếp, hợp tác, năng lực tìm hiểu lịch sử, năng lực nhận thức và tư duy lịch sử. Hình ảnh minh họa học sinh thảo luận nhóm 11 Hình ảnh minh họa học sinh thảo luận nhóm Hình ảnh minh họa học sinh trình bày kết quả thảo luận nhóm 12 * Biện pháp 2. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, giáo viên không thể bỏ qua vai trò của các đồ dùng, phương tiện dạy học như tranh, ảnh, lược đồ, mô hình, sa bàn, máy chiếu… Việc lựa chọn được những đồ dùng phù hợp và có chất lượng không chỉ làm tăng hiệu quả của việc khai thác, phát hiện kiến thức mà còn tạo ra sự thích thú cho học sinh. Ngay từ khâu soạn bài, tôi đã phải nghiên cứu nội dung bài học này sẽ cần sử dụng đến những thiết bị dạy học nào, kết hợp với việc sử dụng quyển “Kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy học” và quyển “Đăng kí mượn, trả thiết bị dạy học”. Từ kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy học, tôi phải kiểm tra trên thực tế tại phòng đồ dùng của nhà trường xem các đồ dùng đó có đủ để đáp ứng về số lượng và chất lượng hay không, nếu không thì phải có phương án khác thay thế. Việc vận dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học vào trong bài học là cần thiết để giúp học sinh có cái nhìn trực quan về lịch sử, hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu về lịch sử. Có như vậy các em mới nắm vững kiến thức về lịch sử. Tuy nhiên việc vận dụng các thiết bị dạy học đó cũng cần khéo léo, linh hoạt nếu không sẽ làm cho bài học khuôn mẫu, cứng nhắc hoặc không thích hợp. Việc vận dụng các phương tiện dạy học phải đảm bảo nâng cao chất lượng giảng dạy. Cùng với việc sử dụng các phương tiện dạy học thì tôi cũng thường xuyên sử dụng đến công nghệ thông tin vào các tiết dạy. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác dạy và học được nhiều nước trên thế giới chú trọng. Đây được xem là xu hướng tất yếu của thời đại, khi mà công nghệ thông tin phát triển vượt bậc. Nó mang lại nhiều lợi ích thiết thực và mở ra triển vọng to lớn cho nền giáo dục nước nhà. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể thực hiện trong giờ lên lớp hoặc học sinh có thể tự học trực tuyến ngay tại nhà. Giáo viên có thể sử dụng tích hợp các công cụ đa phương tiện như hình ảnh, âm thanh, video,… vào nội dung bài giảng, để tăng sự phong phú, hấp dẫn. Điều này còn giúp kích thích tư duy và tính sáng tạo của học sinh, và tăng mức độ tương tác giữa giáo viên và học sinh. Một bài giảng của giáo viên khi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin thì khả năng truyền tải ý tưởng của giáo viên cũng dễ dàng và phong phú hơn. Để có thể sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học, tôi phải đầu tư thời gian để học tập, nghiên cứu cho thành thạo cách thiết kế bài giảng, cách khai thác các ứng dụng khác. Đồng thời, tôi cũng phải nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để thiết kế những hoạt động dạy học phù hợp, có kế hoạch sắp xếp và khai thác hợp lí các tranh, ảnh, băng 13 hình,… sưu tầm được theo trật tự nhất định phù hợp với nội dung kiến thức từng phần. Với biện pháp này tôi cũng như nhiều giáo viên khác đang sử dụng rất phổ biến trong các tiết dạy vì nó đem lại hiệu quả rất cao: học sinh rất hứng thú khi được xem nhiều hình ảnh mới lạ, không nhiều chữ như SGK, phát huy được khả năng quan sát góp phần hình thành năng lực nhận thức và tư duy lịch sử. Ví dụ: Khi dạy bài 23. Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các thế kỉ VII -IX; Mục 2. Khởi nghĩa Mai thúc Loan (Lịch sử 6) Bước 1. Tôi yêu cầu học sinh đọc thông tin trong SGK tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa và lên bảng trình bày diễn biến cuộc khởi nghĩa trên lược đồ. Bước 2. Học sinh thực hiện nhiệm vụ Bước 3. Học sinh hoàn thành câu trả lời vào vở viết, một học sinh lên bảng tường thuật diễn biến khởi nghĩa Mai Thúc Loan trên lược đồ. Học sinh khác nhận xét Bước 4. Giáo viên nhận xét và bổ sung. Trong ví dụ trên tôi đã sử dụng phương tiện dạy học là lược đồ khởi nghĩa Mai Thúc Loan Hình ảnh minh họa học sinh trình bày khởi nghĩa Mai Thúc Loan trên lược đồ 14 Hoặc khi dạy bài 22. Sự phát triển của kĩ thuật, khoa học, văn học và nghệ thuật thế kỉ XVIII-XIX (sử 8) tôi cũng sử dụng phương tiện dạy học là tranh giới thiệu về thành tựu KHKT thế kỉ XVIII-XIX Hình ảnh minh họa giáo viên đang tường thuật về diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên lược đồ Cùng với việc sử dụng lược đồ, tranh ảnh sẵn có trong thư viện đồ dùng của trường, có những bài tôi sử dụng công nghệ thông tin là máy chiếu 15 Hình ảnh minh họa học sinh đang trình bày cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1258 trên máy chiếu Trong thời gian nghỉ dịch covit 19 năm học 2019-2020, tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin dạy học qua zoom các khối lớp, để vẫn đảm bảo kiến thức cho học sinh và đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong thời đại mới. 16 Hình ảnh minh họa giáo viên dạy học trên zoom 17 * Biện pháp 3. Dạy học phải gắn kiến thức với thực tiễn cuộc sống Một trong những điểm mới của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 là dạy học phát triển năng lực, phẩm chất tức là giáo dục con người chứ không phải giáo dục nội dung kiến thức. Chính vì thế dạy học gắn kiến thức với thực tiễn cuộc sống càng trở nên rất cần thiết. Môn Lịch sử là môn học có vai trò quan trọng đối với việc hình thành, phát triển cho học sinh các phẩm chất chủ yếu đó là tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống dân tộc, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ các di tích lịch sử, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc… Sự kết hợp của kiến thức lí thuyết với thực tế giúp học sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ đã trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.Trong quá trình dạy học, ngay từ khâu soạn bài, tôi đã phải luôn đặt cho mình câu hỏi: Mỗi nội dung kiến thức có trong bài được gắn với những vấn đề nào trong cuộc sống? Làm thế nào để học sinh nhận thấy sự liên quan đó? Với bài dạy cụ thể trên lớp, tôi luôn tìm cách để cho học sinh kết nối kiến thức vừa tìm hiểu với chính thực tiễn cuộc sống, nhờ đó một lần nữa khắc sâu kiến thức của bài học. Với biện pháp này, tôi đã góp phần giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường ở trường học, gia đình và địa phương; ý thức bảo vệ các di tích lịch sử và đặc biệt học sinh biết làm các sản phẩm học tập qua các bài học lịch sử. Trong đó có sản phẩm đã dự thi ngày hội STEM do huyện tổ chức tháng 11/2020 đạt thứ 8/15 sản phẩm dự thi (có minh chứng kèm theo). Ví dụ: khi dạy Bài 12. Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật từ năm 1945 đến nay (Sử 9); Mục II. Ý nghĩa và tác động của cuộc cách mạng KHKT. Tôi đã tích hợp với nội dung bảo vệ môi trường. Bước 1. Giao nhiệm vụ cho học sinh với câu hỏi “Để hạn chế những tác động xấu đến môi trường, các em đã làm gì để góp phần bảo vệ môi trường ở trường học và địa phương em? Bước 2. Học sinh làm việc cá nhân Bước 3. Học sinh trả lời (HS đều trả lời được là trồng cây xanh, giữ gìn vệ sinh môi trường ở trường học, gia đình, nơi công cộng… và tích cực tham gia các phong trào vệ sinh đường làng ngõ xóm Bước 4. Giáo viên nhận xét và bổ sung Quan trọng nhất là sau khi học xong bài học, các em đã có ý thức hơn, có trách nhiệm hơn với môi trường, với cộng đồng xã hội và đất nước thể hiện qua hành động của các em ở trường học, địa phương và gia đình. 18 Hình ảnh minh họa các em học sinh Mỹ Tiến đang tích cực tham gia quét dọn đường làng, ngõ xóm góp phần bảo vệ môi trường Hình ảnh minh họa các em học sinh Mỹ Tiến đang quét dọn nghĩa trang liệt sĩ xã Mỹ Tiến góp phần bảo vệ môi trường Với biện pháp dạy học này, tôi đã giúp học sinh hình thành được các phẩm chất yêu nước, chăm chỉ, trách nhiệm (bảo vệ đi tích lịch sử, tự hào về các anh hùng dân 19 tộc, giữ gìn vệ sinh môi trường), hình thành năng lực giao tiếp, hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo… * Biện pháp 4: Đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá Quá trình dạy học dù tốt đến đâu cũng khổng thể đánh giá chính xác lực học hay sự tiếp thu bài của học sinh nếu không tiến hành kiểm tra. Việc đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá có vai trò quan trọng trong việc đánh giá khách quan khả năng nhận thức và các năng lực của học sinh trong thời đại mới. Để kiểm tra, đánh giá có hiệu quả, tôi đã thực hiện nghiêm túc việc xây dựng đề kiểm tra 1 tiết, cuối học kì, cuối năm học theo ma trận gồm các câu hỏi, bài tập (tự luận hoặc trắc nghiệm) theo 4 mức độ yêu cầu nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao. Kết hợp một cách hợp lí giữa hình thức tự luận với trắc nghiệm khách quan. Ngoài các bài kiểm tra theo quy định, tôi còn đánh giá học sinh qua các hoạt động trên lớp: đánh giá qua sản phẩm học tập, vở học tập; đánh giá qua việc học sinh báo cáo kết quả thực hiện một dự án học tập, đánh giá qua bài thuyết trình (bài viết, bài trình chiếu, video…), hay sưu tầm tư liệu lịch sử… . Với các hình thức kiểm tra, đánh giá này tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giao tiếp, hợp tác, linh hoạt vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tiễn, giúp cho học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập. Kiểm tra, đánh giá, kết hợp với việc theo dõi thường xuyên giúp cho tôi biết được một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và trình độ của mỗi học sinh trong lớp. Từ đó rút kinh nghiệm, điều chỉnh lại phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Sau đây là ví dụ một đề kiểm tra Lịch sử lớp 9 năm học 2020-2021, mà tôi đã kết hợp hình thức trắc nghiệm và tự luận, đảm bảo 4 mức độ để đánh giá nhận thức của học sinh qua một học kì. MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA HỌC KÌ I I. Hình thức trắc nghiệm (80%)
Chủ đề
Mức độ nhận thức
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng
Vận dụng cao
1. Liên Xô và các nước Đông Âu sau CTTG II.
3
2
2. Các nước Á, Phi, Mĩ Latinh (1945 – nay).
8
2
1
1
3. Mĩ , Tây Âu , Nhật Bản (1945 – nay).
2
1
1
1
4. Quan hệ quốc tế (1945 – nay).
2
2
2
5. Cách mạng KH – KT (1945 – nay).
1
2
1
20
Số câu:
16
8
4
4
Tổng số câu:
32
Số điểm: 8 = 80%
80%
Lưu ý: Mỗi câu trắc nghiệm là: 0,25 điểm Bảng mô tả ma trận bài kiểm tra TNKQ và TL
Chủ đề
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng
Vận dụng cao
Cộng
TNKQ
TL
TNKQ
TL
TNKQ
TL
TNK Q
TL
Liên Xô và các nước Đông Âu sau CTTG II.
Nêu được hậu quả của chiến tranh tg II đối với Liên Xô (C1). – Nêu được phương hướng phát triển kinh tế của LX sau CT (C2). – Trình bày được cuộc khủng hoảng của LX và hậu quả của nó (C3).
Lí giải được sự khác nhau trong việc sử dụng vũ khí nguyên tử giữa Liên Xô (C17).
Phân tích được hậu quả cuộc cải cách của Liên Xô (C26).
Số câu Số điểm Tỉ lệ
Số câu 3 Số điểm 0,75 Tỉ lệ 7,5%
Số câu 1 Số điểm 0,25 Tỉ lệ 2,5%
Số câu 1 Số điểm 0,25 Tỉ lệ 2,5%
Số câu 5 S ố điểm 1,25 Tỉ lệ 12,5%
Nêu được
Phân biệt
Phân tích
21
Các nước Á, Phi, Mĩ Latinh (1945 – nay).
một số nét chính về quá trình giành độc lập ở các nứơc Á, Phi, MLT sau chiến tranh TG2 (C4,5,6,7, 8,9,10). – Nêu được những thành tựu của Trung Quốc Thời kì đổi mới (C11).
được Điểm khác biệt của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu phi với Mĩ La Tinh (C18). – Giải thích được nguyên nhân bùng nổ phong trào GPDT ở Châu Phi (C20).
được ý nghĩa của phong trào GPDT ở Á, Phi, MLT sau chiến tranh (C25). Phân tích được nguyên nhân phát triển của phong trào GPDT ở Châu Phi sau chiến tranh (C26).
Số câu Số điểm Tỉ lệ
Số câu 8 Số điểm 2 Tỉ lệ 20%
Số câu 2 Số điểm 0,5 Tỉ lệ 5%
Số câu 2 Số điểm 0,5 Tỉ lệ 5%
Số câu 12 Số điểm 3 Tỉ lệ 30%
Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – nay).
– Trình bày được những thành tựu KHKT của Mĩ sau chiến tranh (C12). – Trình bày được sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản
Lý giải được nguyên nhân làm cho nền kinh tế Mĩ suy giảm trong những thập niên cuối thế kỉ XX (C19).
Phân tích được nguyên nhân chung sự phát triển kinh tế Mĩ, Nhật sau chiến tranh (C27).
Liên hệ được chính sách ngoại giao của Mĩ sau chiến tranh với cuộc chiến tranh
22
sau chiến tranh (C13).
của Mĩ tại Việt Nam (C29).
Số câu Số điểm Tỉ lệ
Số câu 2 Số điểm 0,5 Tỉ lệ 5%
Số câu 1 Số điểm 0,25 Tỉ lệ 2,5%
Số câu 1 Số điểm 0,25 Tỉ lệ 2,5%
Số câu 1 Số điểm 0,25 Tỉ lệ 2,5%
Số câu 5 S ố điểm 1,25 Tỉ lệ 12,5%
Quan hệ quốc tế (1945 – nay).
Nêu được sự hình thành trật tự thế giới mơi – trật tự 2 cực Ianta sau chiến tranh (C14,15).
Trình bày được những quyết định của Hội nghị Ianta (2 – 1945).
Lí giải được xu thế phát triển của các nước hiện nay (C21) Khái quát được đặc điểm lịch sử thế giới sau năm 1945 (C24).
– Liên hệ được Việt Nam vận dụng nguyê n tắc của Liên Hợp Quốc trong việc giải quyêt vấn đề biển Đông( C29). – Liên hệ được Xu thế của thế giới ảnh
– Liên hệ được Quyết định của hội nghị Ianta ảnh hưởng
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: I.1. Cơ khoa học: – Nhà giáo dục học T.A.I.Lina nhấn mạnh: “Ngày nay không có một khoa học nào đƣợc giảng dạy mà lại không sử dụng những số liệu của các khoa học tiếp cận khác, những tài liệu, những sự kiện và những thí dụ lấy từ trong cuộc sống hàng ngày và từ các lĩnh vực tri thức khác nhau [1, tr. 245]. Trong phần nhiệm vụ của việc giảng dạy kĩ thuật tổng hợp tác giả cho rằng: “Việc xác lập mối liên hệ giữa các bộ môn nhằm vạch ra cho học sinh thấy mối liên hệ qua lại của các khoa học” [1, tr. 153]. Nhà giáo dục học I.A. Cai – Rốp, N.K. Gôn – Sa – Rốp – B.P.Ét – SiPốp, L.V. Dan – Cốp nêu ra những yêu cầu đối với trình độ của giáo sƣ trong đó các ông nhấn mạnh: “Giáo sƣ không chỉ có tri thức phong phú về chuyên môn nghiệp vụ của mình mà phải chú ý đến sự phát triển của những môn khoa học gần gũi với môn chuyên nghiệp chủ yếu của mình” [2, tr. 87]. Nhà giáo dục học N.U.Savin nêu rõ: Nền học vấn phổ thông phán ánh đầy đủ và chính xác nhất tri thức khoa học và thực tiễn của nhân loại và nó thực sự là toàn diện. “Ở đó đã kết hợp một cách hữu cơ các tri thức về tự nhiên, xã hội và tƣ duy con ngƣời đã đạt đƣợc sự hài hòa giữa học vấn về nhân văn và về tự nhiên…” [3, tr. 99]. Trong cuốn “Tám đổi mới để trở thành ngƣời giáo viên gi i” của Giselle O. Martin – Kniep có đề cập đến quy trình xây dựng các đơn vị bài học tích hợp là gì có nêu: Tích hợp chƣơng trình có nhiều hình thức khác nhau. “Tích 7 hợp nội dung là hình thức kết nối nội dung trong nội bộ môn học và giữa các môn học với nhau” [4, tr. 27]. – Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học” nêu một cách khái quát nhất và tƣơng đối đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến thức liên môn: “Tiềm năng giáo dục thế giới quan cho học sinh đặc biệt đƣợc khai thác trong mối liên hệ giữa các môn học. Các mối liên hệ giữa các môn học, phản ánh bản chất biện chứng của nhận thức khoa học, giúp xem xét một sự vật hay một hiện tƣợng từ nhiều quan điểm khác nhau [5, tr. 123]. Đặng Thành Hƣng cho rằng: “Trong khoa học giáo dục còn có những bộ môn, chuyên ngành, liên 4 môn lấy những liên hệ qua lại làm đối tƣợng [6, tr. 15]. Trần Bá Hoành trong “Đổi mới phƣơng pháp dạy học, chƣơng trình và sách giáo khoa” nhấn mạnh phƣơng pháp tích cực trong đó đề cập vấn đề giáo dục theo mục tiêu với nội dung “liên môn” và “xuyên môn”. Ngoài ra, vấn đề trên còn đƣợc đề cập đến trong các bài báo, tạp chí giáo dục nhƣ bài viết của Nguyễn Quang Vinh “Dạy học các môn học theo quan điểm liên môn” trên tạp chí NCGD số 10 1986 , Trần Đức Minh “Vận dụng quan điểm liên môn – một yếu tố nâng cao tính tích cực học tập của học sinh” trên tạp chí NCGD 8 số 4 1999 . M i bài viết tuy chỉ nghiên cứu sâu một khía cạnh của vấn đề, nhƣng đều kh ng định sự cần thiết và nêu rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học nhằm nâng cao chất lƣợng bộ môn – Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng, đây đƣợc coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lƣợng giáo dục. – Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với môn Lịch sử, những khái niệm, tƣ tƣởng chung giữa các môn học, tức là con đƣờng tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau “Từ những năm 60 của thế kỉ XX, ngƣời ta đã đƣa vào giáo dục ý tƣởng tích hợp trong việc xây dựng chƣơng trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng nhƣ quá trình dẫn đến trạng thái này” – Từ năm học 2012 – 2013, bộ GD&ĐT đã đƣa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy trong các trƣờng phổ thông. Chƣơng trình Giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành ngày 26 tháng 12 năm 2018 theo định hƣớng phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh từ việc gắn kết kiến thức với thực tiễn cuộc sống đến cách tổ chức hoạt động học của các em học sinh tiếp tục kh ng định phƣơng pháp tích hợp liên môn trong giảng dạy lịch sử là một phƣơng pháp hiệu quả cần tích cực vận dụng để nâng cao chất lƣợng dạy và học 5 môn Lịch sử, góp phần hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực học sinh cần có trong cuộc sống. I.2. Cơ sở thực tiễn: Môn Lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con ngƣời. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong nhà trƣờng phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung chƣơng trình thiết kế nặng, chƣa liên thông giữa các môn học, cấp học, dẫn đến sự trùng lặp một số kiến thức; nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chƣa xen kẽ với văn học và các khoa học khác nên chƣa tạo đƣợc sự hứng thú học Sử đối với học sinh. Đôi khi giáo viên còn coi nặng việc truyền thụ kiến thức có trong sách giáo khoa để học sinh học kiểm tra, thi; chƣa chú ý nhiều đến vận dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp giáo dục hƣớng học sinh sử dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tiễn nên một số tiết dạy học Lịch sử còn khô khan, kém hấp dẫn, nặng nề cung cấp kiến thức, liệt kê sự kiện. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, máy móc, không nắm đƣợc mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn nên không yêu thích môn học. Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tƣơng lai đặt cho giáo viên Lịch sử nhiệm vụ làm thế nào nâng cao chất lƣợng dạy và học Lịch sử, kích thích sự hứng thú học Sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi h i giáo viên dạy Sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn Lịch sử mà còn phải tìm hiểu, tự học tập nghiên cứu để có thêm những hiểu biết vững chắc về các bộ môn Địa lý, Ngữ văn, Mĩ thuật, Giáo dục công dân, Âm nhạc, Tin học, Toán học…để vận dụng vào bài giảng Lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng nhằm thu hút, tạo hứng thú cho học sinh. Từ đó từng bƣớc góp phần tạo nên sự gắn kết kiến thức của các môn học, giữa nội dung học tập với thực tiễn cuộc sống, làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn đối với học sinh; góp phần nâng cao năng lực của ngƣời học, giúp đào tạo những con ngƣời có đủ phẩm chất, năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. 6 II. Mô tả giải pháp II.1. Mô tả hiện trạng trước khi áp dụng sáng kiến: Lịch sử cũng nhƣ các môn học khác, có vai trò tác động đến con ngƣời không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tƣ tƣởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây dựng con ngƣời phát triển hoàn thiện về: “đức-trí-thể-mĩ”ở những mức độ khác nhau. Nếu Văn học giúp học sinh thấy đƣợc cái hay, cái đẹp trong thơ ca để càng yêu quý hơn con ngƣời, dân tộc Việt Nam thì thông qua Lịch sử, các em không chỉ thấy đƣợc quá trình phát triển của đất nƣớc, một dân tộc mà rộng hơn là cả một xã hội loài ngƣời. Ngoài ra nó còn góp phần quan trọng trong việc hình thành, bồi dƣỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Nhƣ vậy, so với các môn học khác thì môn Lịch sử có nhiều ƣu thế trong việc giáo dục tƣ tƣởng, tình cảm đối với thế hệ trẻ. Những kiến thức Lịch sử không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động mà còn góp phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống. Bởi “ Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ thuật”. Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ nhƣng hiện nay việc dạy học Lịch sử chƣa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em có suy nghĩ và nhận thức sai lầm : cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên xong cơ bản không phải do bản thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phƣơng pháp dạy học đôi khi chƣa phù hợp, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chƣa phát huy đƣợc thế mạnh của bộ môn, chƣa chỉ ra cho các em nhận thức đƣợc đây là bộ môn khoa học, cần phải có sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chƣa tái hiện đƣợc không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi 7 vào tình trạng thụ động, chƣa phát huy đƣợc tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt m i, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề. Từ thực trạng của vấn đề trên, tôi chọn giải pháp “Tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử lớp 7″ để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về việc vận dụng phƣơng pháp trên để giải quyết một vấn đề, bài học lịch sử cụ thể để có thể áp dụng vào giảng dạy môn Lịch sử một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong chƣơng trình lịch sử cấp THCS, cụ thể là Lịch sử lớp 7 II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến II.2.1 Thời gian, địa điểm: – Năm học 2020 – 2021. – Địa điểm: Trƣờng THCS Mỹ Xá II.2.2 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 7 C,D,E,G,H Năm học 2020-2021 trƣờng THCS Mỹ Xá II.2.3 Phương pháp nghiên cứu: – Phƣơng pháp sƣu tầm sử liệu – Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, khái quát. – Dạy thử nghiệm trên lớp. II.2.4. Một số nội dung tích hợp kiến thức liên môn vận dụng trong giảng dạy Lịch sử 7: 4.1 Tích hợp kiến thức môn Ngữ Văn trong dạy học Lịch sử 7: Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, ngƣời giáo viên cần làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức trong sách giáo khoa thì rất khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết để thu hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế giới. Để tạo nên những cảm xúc thực sự trƣớc những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức Văn học vào giảng dạy Lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh. Bởi những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ này không chỉ thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm của 8 ngƣời viết mà còn phản ánh những “chất liệu sống” vô cùng sinh động của m i thời kì lịch sử từ các sự kiện lịch sử đến tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa Văn học và Lịch sử có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ h trợ cho môn kia, Văn học sẽ cung cấp cho ta những tƣ liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng. Cụ thể trong chƣơng trình Lịch sử 7 có thể vận dụng liên hệ những kiến thức Văn học sau:
Nội dung kiến thức
Bài học lịch sử vận dụng kiến thức
Giải pháp vận dụng
Khái quát về các nhà, thơ tiêu biểu trong phong trào văn hóa Phục hƣng
-Bài 3: “ Cuộc đấu tranh của giai cấp tƣ sản chống phong kiến hậu kỳ trung đại ở Châu Âu” – Phần 1: “ Phong trào văn hóa Phục hƣng”
– GV giới thiệu khái quát nêu tên một số nhà văn, thơ với các tác phẩm nổi tiếng của họ và phân tích đánh giá những đặc sắc về nội dung, tƣ tƣởng, nghệ thuật của họ tiêu biểu nhƣ “Romeo và Juliet” của William Shakespeare, “Đôn Ki- hô- tê” của Xec-van-téc…..
Chiếu dời đô – Lí Công Uẩn–sgk Ngữ văn lớp 8
Bài 10: Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nƣớc Phần 1. Sự thành lập nhà Lý
Gv chiếu tƣ liệu cho học sinh đọc và nêu cảm nghĩ của em về nội dung bài chiếu? Chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trƣớc, khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mƣu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trƣờng kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật đƣợc vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
9
hóa của quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các nhà Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, nhà Lê trung hƣng và đang là thủ đô của nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của đế vƣơng muôn đời”
Bài thơ Nam quốc sơn hà bài thơ Thần – Lý Thƣờng Kiệt Sgk Ngữ văn 7
– Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc Tống 1075 – 1077 phần 2: Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Nhƣ Nguyệt
Giáo viên cho học sinh dựa vào kiến thức văn học đọc bài thơ và nêu ý nghĩa của bài thơ nhƣ một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc Việt Nam đã có tác dụng một phần làm cho quân giặc càng thêm hoang mang lo sợ, mặt khác còn động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ .
Những câu ca dao than thân sgk Ngữ văn 7
– Bài 13 phần 1. Nhà Lý sụp đổ – Bài 16 phần II.2 tình hình xã hội – Bài 22 phần I.2 phong trào khởi nghĩa nông dân đầu thế kỉ XVI – Bài 24 phần I.Tình hình chính trị
Gv cho HS nhớ lại, đọc minh họa kết hợp với phân tích , bình giảng để nêu bật những vất vả, khổ cực, của giai cấp bị trị đặc biệt là ngƣời nông dân, ngƣời phụ nữ khi bị áp bức, bóc lột nặng nề dƣới thời kì phong kiến nhất vào giai đoạn các triều đại phong kiến suy yếu. M i một câu ca dao, một câu hát than thân chính là một lời tự than, tự thƣơng cho chính số phận của mình và cũng là lời xót thƣơng cho n i đau khổ của đồng loại.
10
Hịch tƣớng sĩ – Trần Hƣng Đạo – sgk Ngữ văn lớp 8
– Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lƣợc Mông Nguyên thế kỉ XIII
GV trích đọc 1 đoạn tiêu biểu để nêu bật mục đích và ý nghĩa: Bài hịch nhằm khích lệ lòng yêu nƣớc, tinh thần trung nghĩa với chủ tƣớng của các tƣớng sĩ, khích lệ tinh thần trọng danh dự ở họ, từ đó củng cố ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh giặc của toàn quân khi kẻ thù xâm lƣợc đã ngấp nghé ngay cửa ngõ đất nƣớc.Còn mục đích cụ thể của bài hịch là yêu cầu các tƣớng sĩ ra sức luyện tập võ nghệ, nghiêm túc học tập sách Binh thƣ yếu lƣợc của chính Trần Quốc Tuấn soạn ra. Sử sách đã ghi nhận bài hịch của Trần Hƣng Đạo đã có sức cổ vũ, khích lệ rất lớn với toàn quân, rất nhiều tƣớng sĩ đã thích vào cánh tay hai chữ “sát thát” để bày t quyết tâm chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù.
Tụng giá hoàn kinh sƣ- Trần Quang Khải- sgk Ngữ văn 7
– Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lƣợc Mông Nguyên thế kỉ XIII
GV h i gợi HS nhớ tới một bài thơ đƣợc một vị tƣớng sáng tác ngay fsau chiến thắng quân Nguyên lần thứ 2 là bài thơ nào? Ý nghĩa của bài thơ? Bài thơ làm ngay sau khi quân ta giành chiến thắng, lúc đó Trần Quang Khải đi đón và hộ giá Thái thƣợng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về kinh thành Thăng Long. Bởi vậy bài thơ ra đời trong âm
11
vang chiến thắng hào hùng của chiến thắng Chƣơng Dƣơng, Hàm Tử do đích thân Trần Quang Khải chỉ huy chiến đấu.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:
– Bài 19: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 1418-1427)
GV Vận dụng các đoạn thơ để giảng dạy minh họa cho các giai đoạn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Sự tích Hồ Gƣơm – sgk Ngữ Văn 6
– Bài 19: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 1418-1427)
– GV gợi ý học sinh nhớ lại và nêu ý nghĩa của chi tiết kì ảo gƣơm thần để ca ngợi tính chất chính nghĩa, đoàn kết thống nhất của nghĩa quân Lam Sơn.
Hoàng Lê nhất thống chí -sgk Ngữ văn lớp 9
Bài 25 Phong trào Tây Sơn- phần IV. Tây Sơn đánh tan quân Thanh
Giáo viên có thể sử dụng nội dung một phần kiến thức ở bài đó để làm nổi bật nên tinh thần chiến đấu quật cƣờng của nghĩa quân Tây Sơn .Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê Chiêu Thống….ca ngợi công lao to lớn của Quang Trung –Nguyễn Huệ ngƣời anh hùng áo vải
Các tác phẩm văn học tiêu biểu của Nguyễn Trãi Côn Sơn ca , Lê Thánh Tông
– Phần III, IV bài 20- Văn hóa, danh nhân thời Lê sơ
Gv đọc hoặc gọi học sinh đọc lại những câu thơ tiêu biểu để minh họa cho những giá trị nội dung, nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc + Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du làm rạng rỡ nền văn học dân tộc phản ánh những bất công và tội ác trong xã hội phong kiến, ca ngợi cuộc đấu tranh giai cấp chống áp bức của
+ Bánh trôi nƣớc –Hồ Xuân Hƣơng Ngữ văn 7 + Qua Đèo
phần I. Bài 28 sự phát triển văn học nghệ thuật cuối thế kỉ XVIII- nửa
12
Ngang- bà Huyện Thanh Quan Ngữ văn 7 + Sau phút chia li – Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm (Ngữ văn 7 + Truyện Kiều Nguyễn Du Ngữ Văn lớp 9
đầu thế kỉ XIX
nông dân. +Thơ Nôm của Hồ Xuân Hƣơng đả kích sâu cay vua quan phong kiến, bênh vực quyền sống của ngƣời phụ nữ
Tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta- sgk Ngữ Văn 7
– Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lƣợc Mông Nguyên thế kỉ XIII – Bài 25: Phong trào Tây Sơn
– GV trích dẫn những câu văn ca ngợi sức mạnh của tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta để minh họa cho nguyên nhân quan trọng làm nên chiến thắng của các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến chống ngoại xâm.
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng Văn học trong giảng dạy bộ môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử 7 nói riêng. Giáo viên có thể đƣa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay một trích đoạn nhằm giúp học sinh có thể nêu ra một kết luận khái quát cụ thể hóa một vấn đề hay một sự kiện lịch sử đã đƣợc học. Ngoài ra giáo viên dựa trên kiến thức tập làm văn mà học sinh đã đƣợc học về văn tự sự, văn miêu tả, văn biểu cảm, làm thơ 4 chữ, 5 chữ, thơ lục bát có thể giao thêm cho cá nhân, nhóm thực hiện hoạt động vận dụng, củng cố kiến thức với các nhiệm vụ sáng tác truyện, thơ về nhân vật, sự kiện lịch sử….Nhƣ vậy có thể thấy rằng sử dụng tích hợp kiến thức Ngữ văn trong giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ lâu bài học mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức Ngữ văn, tạo điều kiện cho học sinh hình thành phƣơng 13 pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình, từng bƣớc phát triển năng lực, phẩm chất của bản thân. Cụ thể Bài 14- Ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên, tôi đã tích hợp kiến thức Ngữ Văn kĩ năng viết văn tự sự, miêu tả, biểu cảm trong hoạt động Vận dụng, mở rộng. Hoạt động vận dụng, mở rộng – Mục tiêu: Nhằm vận dụng kiến thức HS vừa đƣợc lĩnh hội về quá trình kháng chiến oanh liệt của quân dân nhà Trần chống quân Mông Nguyên để nhận xét, đánh giá về công lao của những vị tƣớng tài góp phần bảo vệ non sông gấm vóc. Từ đó bồi dƣỡng lòng tự hào, biết ơn đối với những ngƣời có công với đất nƣớc, rút ra đƣợc bài học kinh nghiệm trong cuộc sống. – Phương pháp: dạy học tích hợp, giải quyết vấn đề. – Kĩ thuật: đặt câu h i, giao nhiệm vụ Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ Câu h i: Em hãy phát biểu cảm nghĩ hoặc sáng tác truyện, thơ, kịch về một ngƣời anh hùng thời Trần. Bước 2: HS tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ ở nhà Bước 3 : Báo cáo sản phẩm và Bước 4: Nhận xét, đánh giá trong tiết 34, 35: Ôn tập * Sản phẩm của học sinh: 14 Học sinh khối 7 trường THCS Mỹ Xá diễn tập kịch bản : “Thiếu niên anh hùng” do học sinh Đặng Thùy Linh lớp 7D sáng tác. Còn trong Bài 25: Phong trào Tây Sơn, hoạt động hình thành kiến thức phần I. Nguyên nhân khởi nghĩa nông dân Tây Sơn bùng nổ, tôi đã sử dụng phƣơng pháp dạy học tích hợp liên môn với môn Ngữ văn và kết hợp với các phƣơng pháp dạy học tích cực khác giúp học sinh cảm nhận sâu sắc hơn nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa. Hoạt động hình thành kiến thức: I. Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn bùng nổ – Mục tiêu: + Kiến thức: HS biết đƣợc tình hình xã hội Đàng Trong nửa sau thế kỉ XVIII là nguyên nhân dẫn đến bùng nổ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. + Kĩ năng: Tìm hiểu sgk, tƣ liệu, giải thích, đánh giá, nhận xét sự kiện lịch sử. – Phương pháp: dạy học tích hợp, thảo luận nhóm, giải quyết vấn đề – Kĩ thuật: Chia nhóm, đặt câu h i, giao nhiệm vụ, động não, tóm tắt nội dung tƣ liệu, thuyết trình Bước 1. Chuyển giao nhiệm vụ học tập Gv chuyển giao nhiệm vụ yêu cầu học sinh các nhóm đọc kĩ kiến thức phần 1. Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa (sgk trang 119,120 và thảo luận trả lời các câu h i : 15 1.Từ giữa thế kỉ XVIII, tình hình chính quyền họ Nguyễn thế nào?Em hãy nêu cụ thể những biểu hiện của sự suy yếu đó? 2. Đọc tƣ liệu, nghe GV kể câu chuyện về Trƣơng Thúc Loan hãy nêu nhận xét về bọn quan lại thống trị? 3. Trong bối cảnh đó đời sống nhân dân ra sao? 4. Tích hợp bộ môn Ngữ văn: Những n i vất vả, nhọc nhằn, đau khổ ấy đã đƣợc những ngƣời nông dân gửi gắm trong những câu ca dao than thân mà các em đã học trong chƣơng trình Ngữ văn 7, bạn nào nhớ lại và đọc cho cả lớp nghe 1 bài tiêu biểu 5. Theo em những n i thống khổ của ngƣời dân là do đâu mà ra? Thái độ của nhân dân với chính quyền họ Nguyễn? Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ học tập: HS đọc SGK và thực hiện yêu cầu Bước 3. Báo cáo kết quả hoạt động :HS đại diện các nhóm lên trình bày trƣớc lớp. Bước 4. Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – HS phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả của các nhóm. – GV bổ sung phần phân tích nhận xét, đánh giá, kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Chính xác hóa các kiến thức đã hình thành cho học sinh. *Dự kiến sản phẩm: HS nắm đƣợc: – Bộ máy chính quyền phức tạp, cồng kềnh, nặng nề, vô dụng, rối loạn – Quan lại tham lam, độc ác, có cuộc sống sung sƣớng, xa hoa. – Nhân dân bị cƣớp ruộng, nộp nhiều thứ thuế, sản vật – Nhân dân oán giận, bất bình, ngƣời dân nổi dậy đấu tranh. * Những câu hát than thân: + Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thách, xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ? 16 + Cơm cha áo mẹ đã từng, Con đi làm mướn kiếm cơm lưng người Cơm người khổ lắm mẹ ơi! Chả như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn. + Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa thì quét lá đa Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa. + Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non Cò về nuối cái cùng con Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng. + Thương thay thân phận con tằm Kiếm ăn được mấy mà nằm nhả tơ Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. +Thân em vất vả trăm bề, Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng cau. Có lược chẳng kịp trải đầu, Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn. – Những câu ca dao, những câu hát than thân khắc họa sinh động nhất hình ảnh thân phận của con ngƣời, của phụ nữ Việt Nam trong những ngày xã hội còn cơ cực. M i một câu ca dao, một câu hát than thân chính là một lời tự than, tự thƣơng cho chính số phận của mình và cũng là lời xót thƣơng cho n i đau khổ 17 của đồng loại. Từ đấy, ca dao trở thành một nét đẹp trong tâm hồn và văn hóa của con ngƣời Việt Nam. Gv nhấn mạnh: Từ trên xuống dƣới, những giƣờng cột quốc gia, những cha mẹ dân ch ng lo việc nƣớc chỉ chăm chăm vét cho đầy túi tham, h i sao triều đình không mục ru ng? “Con giun xéo lắm cũng quằn”, tức nƣớc vỡ bờ những ngƣời nông dân hiền lành nhƣ cục đất cũng đã vùng lên đấu tranh đòi quyền sống. Nhƣ cuộc khởi nghĩa của chàng Lành -1695 ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa Lý Văn Quang -1747 ở Gia Định, và tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa chàng Lía. Nhƣng các cuộc khởi nghĩa này đã thất bại. Ai là ngƣời lãnh đạo sáng suốt đƣa cuộc đấu tranh của nhân dân đến thắng lợi, chúng ta tìm hiểu tiếp bài học. Nhƣ vậy qua việc huy động kiến thức Văn học của học sinh đã học trong chƣơng trình Ngữ văn những câu hát than thân của chƣơng trình Ngữ Văn 7, Giáo viên đã khơi gợi giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bao n i nhọc nhằn, khổ cực mà ngƣời dân phải gánh chịu dƣới chính quyền họ Nguyễn từ nửa sau thế kỉ XVIII. Đồng thời cũng khơi gợi trong các em những cảm xúc tích cực mang tính nhân văn nhƣ lòng thƣơng, đồng cảm với hoàn cảnh khó khăn, bất bình trƣớc những cái xấu, những bất công ngang trái trong xã hội phong kiến. Từ đó các em thêm hiểu và trân trọng hơn cuộc sống công bằng , xã hội dân chủ, văn minh hiện nay. 4.2 Tích hợp kiến thức môn Mĩ thuật trong dạy học Lịch sử 7: Không những môn Lịch sử chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức với môn Ngữ văn mà còn có nhiều nội dung liên quan đến kiến thức môn Mĩ thuật. Là môn học thuộc lĩnh vực nghệ thuật thị giác, mỹ thuật có vai trò chủ yếu trong việc bồi dƣỡng giáo dục thẩm mỹ nên những kiến thức cơ bản của môn học Mĩ thuật là những hình ảnh trực quan sinh động, sáng tạo đƣợc kết hợp trong các tiết dạy học Lịch sử sẽ giúp học sinh tăng hứng thú phát triển toàn diện về mọi mặt. Tôi thƣờng tích hợp với môn Mĩ thuật vào giảng các bài tìm hiểu về văn hóa xã hội các thời kỳ lịch sử. Cụ thể nhƣ sau: 18
Nội dung kiến thức
Bài học lịch sử vận dụng kiến thức
Giải pháp vận dụng
Sử dụng hình ảnh minh họa các bức họa nổi tiếng của các danh họa
-Bài 3: “ Cuộc đấu tranh của giai cấp tƣ sản chống phong kiến hậu kỳ trung đại ở Châu Âu” – Phần 1: “ Phong trào văn hóa Phục hƣng”
Giáo viên có thể h i học sinh: Qua các tác phẩm của mình, các tác giả thời Phục hƣng muốn nói lên điều gì?… -Yêu cầu học sinh tìm hiểu và thuyết minh về “Ngƣời khổng lồ nhất trong những ngƣời khổng lồ”- Lê-ô-na-đơ Vanh- xi tác phẩm tiêu biểu nhất là bức tranh chân dung của Mô-na-li-da)
-Các hình ảnh: Đền tháp Bô –đo- bu – đua In-đô- nê-xi-a ; Chùa tháp Pa Gan (Mi-an-ma ; Đền tháp Ăng co vát Căm pu chia ; Thạt Luổng Lào
– Bài 6: “Các quốc gia cổ đại phong kiến Đông Nam Á”
Gv thuyết trình minh họa trên power poi để học sinh thấy đƣợc trình độ kiến trúc thế kỷ X – XVIII. Qua đó thấy đƣợc lịch sử phát triển của các triều đại phong kiến thời đó.
– Bài Thƣờng thức mĩ thuật thời Lý – mĩ thuật lớp 6, bài Thƣờng thức Mĩ thuật- Sơ lƣợc về Mĩ thuật thời Trần 1226 – 1400 , Thƣờng thức Mĩ thuật – Một số công trình
– Bài 12 Đời sống kinh tế, văn hóa – Bài 15 Sự phát triển kinh tế, văn hóa thời Trần – Bài 20 Nƣớc Đại Việt thời Lê- sơ 1428-1527)
Gv thuyết trình minh họa trên powerpoi các bức tranh, ảnh chụp các đền, chùa, tƣợng phật, đồ gốm cổ Hình ảnh chùa Một Cột, hình rồng thời Lý, tƣợng phật ai-di-đà ở
19
mỹ thuật thời Trần 1226 – 1400 Mĩ thuật 7 , Thƣờng thức mĩ thụât – Sơ lƣợc về mĩ thuật thời Lê từ thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XVIII , Thƣờng thức mĩ thụât – Một số công trình tiêu biểu của mỹ thuật thời Lê Mĩ thuật 8
– Bài 28 Sự phát triển văn học nghệ thuật cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX
chùa phật Tích, Bắc Ninh, tháp Phổ Minh, tƣợng Voi chầu bằng đá,chùa Tây Phƣơng, cố đô Huế yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã học để các em tự phân tích thấy những nét kiến trúc, nét hoa văn khác nhau qua các thời kỳ để các em hiểu đƣợc quá trình phát triển của lịch sử đất nƣớc và hiểu đƣợc giá trị của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
– Bài thƣờng thức mĩ thuật tranh dân gian Việt Nam + Thƣờng thức mĩ thụât – Sơ lƣợc về mĩ thuật thời Nguyễn 1802- 1945 Mĩ thuật 9)
Bài 28: Sự phát triển văn học nghệ thuật cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX
Gv cho Học sinh quan sát tranh và phân tích để cho học sinh hiểu đƣợc những nét độc đáo của tranh dân gian Việt Nam
Bên cạnh đó giáo viên còn có thể giao nhiệm vụ cho cá nhân hoặc nhóm học sinh dựa vào những kiến thức và kĩ thuật vẽ cơ bản về màu sắc, hình khối, các sự vật….đã đƣợc học ở Tiểu học và lớp 6 cùng với trí tƣởng tƣợng sáng tạo của học sinh để vẽ các sơ đồ tƣ duy khái quát, hệ thống các đơn vị kiến thức một cách ngắn gọn, mạch lạc, khoa học giúp học sinh có thể hiểu và nhớ đƣợc nội dung kiến thức trọng tâm dễ dàng hơn. Với các hoạt động vận dụng và mở rộng, giáo viên có thể khuyến khích các em có năng khiếu hội họa “Tập làm họa sĩ” sáng tác các phẩm tranh vẽ, truyện 20 tranh lịch sử minh họa cho một nội dung kiến thức lịch sử em ấn tƣợng, thích nhất trong chƣơng trình học. Cụ thể trong Bài 15 Sự phát triển Kinh tế Văn hóa thời Trần, phần II. Sự phát triển văn hóa tôi đã tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung kiến thức trong hoạt động hình thành kiến thức và hoạt động vận dụng, mở rộng theo phƣơng pháp tích hợp liên môn kết hợp cùng các phƣơng pháp dạy học tích cực khác để phát huy năng lực chủ động, sáng tạo của học sinh nhƣ sau: Hoạt động hình thành kiến thức: Sự phát triển văn hóa – Mục tiêu: + Kiến thức: Biết đƣợc một số thành tựu phản ánh sự phát triển của văn hoá – giáo dục – khoa học – kỹ thuật thời Trần đạt đến trình độ cao, có nhiều công trình nghệ thuật tiêu biểu. Đời sống văn hoá tinh thần rất phong phú và đa dạng. Có một nền văn học phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc, làm rạng rỡ cho nền văn hóa Đại Việt. + Kĩ năng: Tìm hiểu tài liệu, quan sát, giải thích, tổng hợp kiến thức vẽ sơ đồ tƣ duy – Phương pháp: dạy học tích hợp, thảo luận nhóm, nghiên cứu tình huống, giải quyết vấn đề – Kĩ thuật: Chia nhóm, đặt câu h i, giao nhiệm vụ, động não, tóm tắt nội dung theo nhóm, thuyết trình Bước 1. Chuyển giao nhiệm vụ học tập Gv chuyển giao nhiệm vụ yêu cầu học sinh các nhóm đọc kĩ kiến thức phần II. Sự phát triển văn hóa sgk trang 71,72,73 và thảo luận trả lời các câu h i : 1. Sinh hoạt văn hóa thời Trần đƣợc thể hiện nhƣ thế nào? 2. Trình bày và nhận xét những nét nổi bật về tình hình giáo dục và khoa học, kĩ thuật thời Trần? 3. Hãy giới thiệu những nét độc đáo của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Trần. So sánh hình tƣợng Rồng của thời Trần với thời Lý? 4. Hãy vẽ lƣợc đồ khái quát sự phát triển văn hóa thời Trần. 21 Với nhiệm vụ thứ 3, 4 (tích hợp môn Mĩ thuật), Giáo viên cần hƣớng dẫn học sinh nhớ lại, vận dụng các kiến thức về Mĩ thuật: Bài Thƣờng thức mĩ thuật thời Lý – mĩ thuật lớp 6, bài Thƣờng thức Mĩ thuật- Sơ lƣợc về Mĩ thuật thời Trần (1226 – 1400 , Thƣờng thức Mĩ thuật – Một số công trình mỹ thuật thời Trần (1226 – 1400 Mĩ thuật 7 để so sánh trong câu 3. Câu 4 Học sinh cần vận dụng kiến thức vẽ các nét cơ bản, chia bố cục, tỉ lệ giữa các nội dung kết hợp với phối hợp màu sắc sao cho cân đối, khoa học, hợp lí, mạch lạc. Nội dung các nhánh kiến thức phải cô đọng, trọng tâm Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ học tập: HS đọc SGK và thực hiện yêu cầu. GV khuyến khích học sinh hợp tác với nhau khi thực khi thực hiện nhiệm vụ học tập trả lời các câu h i, vẽ sơ đồ. Bước 3. Báo cáo kết quả hoạt động :HS đại diện các nhóm lên trình bày trƣớc lớp. Bước 4. Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập – HS phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả của các nhóm. – GV bổ sung phần phân tích nhận xét, đánh giá, kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Chính xác hóa các kiến thức đã hình thành cho học sinh. *Dự kiến sản phẩm: HS nắm đƣợc: – Văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật thời Trần phát triển + Tín ngƣỡng: thờ cúng; tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo; văn hóa dân gian: ca hát, nhảy múa, chèo tuồng + Văn học: Chữ Hán và chữ Nôm mang đâm bản sắc dân tộc, có nhiều tác giả – tác phẩm nổi tiếng + Giáo dục: nhiều trƣờng học, các kì thi đƣợc tổ chức thƣờng xuyên, quy củ. + Khoa học kỹ thuật: Sử học, quân sự, Y học, Thiên văn học, kỹ thuật đóng tàu lớn + Kiến trúc: tháp Phổ Minh, thành Tây Đô; điêu khắc: tƣợng hổ, sƣ tử, hình rồng – HS so sánh, Gv bổ sung cho HS thấy đƣợc sự khác nhau của hình tƣợng rồng: 22 + Thời Lý đầu nh , mình thon mềm mại, uốn khúc nhịp hình sin tắt dần, đuôi ngoắt lên, vẩy mờ, chân chỉ có ba móng, không có sừng, tai rất nh , bờm bay ngƣợc nhƣ cờ đuôi nheo gặp gió. Trong miệng có một viên ngọc, xung quanh đầu cũng có những viên ngọc biểu tƣợng sự sang trọng, quý phái của triều đại Lý. Giữa trán có hình chữ S ngƣợc – chữ lôi = mƣa gió sấm chớp, biểu tƣợng của mƣa thuận, gió hòa. Rồng Lý mang biểu trƣng văn hóa nông nghiệp lúa nƣớc, cầu mùa màng . + Thời Trần: Chủ yếu vẫn là dáng dấp rồng Lý nhƣng mình uốn khúc doãng hơn, uốn lƣợn tự do hơn, đầu có con có sừng có con không, sừng chỉ nhú lên một chút nhƣ sừng hƣơu, nó chính là hình chữ S ngƣợc biến thành, mình vẩy rõ hơn, thân to, mập, kh e khoắn, chân thay đổi có khi có bốn móng. Bờm, râu, móng chân rồng Trần ngắn hơn rồng Lý. Rồng thời Trần xuất hiện với ý nghĩa biểu tƣợ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN. Đã từ rất lâu Tiếng Anh có vai trò quan trọng trong đời sống con người ở mọi quốc gia trên thế giới. Nó chính là cầu nối của con người với con người, quốc gia với quốc gia dù khác màu da, khác nền văn hóa, tiếng nói, quốc tịch…Tiếng Anh giúp con người xích lại gần nhau hơn. Nhờ Tiếng Anh các quốc gia có điều kiện giao lưu phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay – thế kỷ 21 với sự phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ, giao lưu và hội nhập thì vai trò của Tiếng Anh càng trở nên quan trọng. Tiếng Anh là ngôn ngữ của toàn cầu, là ngôn ngữ chính thức của 53 quốc gia, lãnh thổ. Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ kinh doanh, thương mại và kỹ thuật và là ngôn ngữ chung của truyền thông. Tiếng Anh có thể giúp con người có thể cập nhật nguồn kiến thức về mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trên thế giới, hiện nay có khoảng 1 tỷ trang web bằng Tiếng Anh, các phần mềm ứng dụng, nhiều cổng thông tin, nhiều tạp chí và tờ báo nổi tiếng được viết bằng Tiếng Anh…Vì thế việc hiểu biết Tiếng Anh là điều cần thiết trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin hiện nay. Đối với Việt Nam, nước ta đang trên con đường hội nhập với thế giới thì Tiếng Anh cũng trở thành yếu tố vô cùng và cần thiết. Đảng và nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về việc dạy và học Tiếng Anh. Đất nước đang chuyển mình trong nền kinh tế thị trường. Tiếng Anh là cầu nối Việt Nam với các quốc gia phát triển, giúp chúng ta tiếp cận với những thành tựu mới nhất của con người về khoa học kỹ thuật, văn hóa, xã hội, hiểu biết nhau, giúp đỡ nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Để làm được điều đó đòi hỏi Việt Nam phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ trực tiếp trong công việc, tạo mối quan hệ tốt đẹp và làm thay đổi chất lượng cuộc sống con người. Nguồn nhân lực đó ngoài việc được đào tạo về chuyên môn có chất lượng cao còn phải đáp ứng yêu cầu giao tiếp quốc tế. Chính vì thế, hiện nay Tiếng Anh trở thành một môn học bắt buộc đối với học sinh trong nhà trường, trong đó có việc nghe – nói Tiếng Anh của người học Tiếng Anh nói chung và học sinh trong các nhà trường nói riêng. Tuy nhiên thực trạng học Tiếng Anh của học sinh Việt Nam vẫn còn là vấn đề đau đầu của các thầy cô giáo và cha mẹ học sinh. Đặc biệt là khả năng học Tiếng Anh của học sinh nông thôn không có điều kiện và thời gian như học sinh thành thị. Đối với học sinh nông thôn, Tiếng Anh được coi là một “môn học mới” về một ngôn ngữ của một đất nước với nền văn hoá, phong tục, tập quán hoàn toàn xa lạ. Vì vậy, để các em tiếp cận và học tốt môn Tiếng Anh đòi hỏi người thầy phải tích cực đổi mới 2 phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Vậy làm thế nào để học sinh học tập tốt môn Tiếng Anh. Làm thế nào để học sinh có cơ hội giao tiếp Tiếng Anh một cách tự tin, mạnh dạn. Đó là câu hỏi nhất định cần phải có giải đáp cụ thể . Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang triển khai chương trình GDPT 2018, chương trình Tiếng Anh phổ thông đã thể hiện được mong muốn của những nhà làm giáo dục đối với học sinh với nhiều đổi mới đáp ứng được với nhu cầu của xã hội, của toàn cầu. Chương trình môn họcTiếng Anh đã được nghiên cứu biên soạn và ban hành theo thông tư số 32/2008 TT – BGD ĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo. Theo đó, chương trình Tiếng Anh được biên soạn theo định hướng giao tiếp giúp học sinh sử dụng ngữ liệu ( ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) để phát triển năng lực giao tiếp bằng Tiếng Anh thông qua 4 kỹ năng (nghe – nói- đọc – viết), ưu tiên phát triển kỹ năng nghe- nói; lấy hoạt động học là trung tâm, học sinh là chủ thể của quá trình dạy học. Trong đó, tâm lý lứa tuổi học sinh THCS, các đặc điểm văn hóa của Việt Nam và các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước nói Tiếng Anh được coi trọng. Để thực hiện được mục tiêu trên đòi hỏi giáo viên phải có sự linh hoạt trong việc sử dụng phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học tích cực, hiện đại phù hợp với trình độ, phầm chất, năng lực học sinh và các em phải thực sự chủ động lĩnh hội để phát triển các năng lực, phẩm chất của mình; đặc biệt là năng lực giao tiếp Tiếng Anh. Để phát huy được năng lực giao tiếp trong Tiếng Anh, với 4 kỹ năng cơ bản nghe- nói- đọc- viết thì kỹ năng nghe là cực kỳ quan trọng nhưng lại vô cùng khó đối với học sinh. Giáo viên dạy ngôn ngữ nào cũng phải thừa nhận rằng giao tiếp không thành công nếu thiếu kỹ năng nghe Tiếng Anh bởi vì nó giúp học sinh làm quen từ giọng nói đến cách đọc, cách viết (đi từ âm thanh đến âm hình). Đây cũng là kỹ năng mà học sinh yếu nhất. Vì vậy kết quả học tập của học sinh cũng còn hạn chế. Tuy nhiên, để cải thiện kỹ năng nghe Tiếng Anh của học sinh đòi hỏi có sự phối kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng từ nhiều phía: giáo viên, học sinh, phụ huynh và nhiều yếu tố khách quan khác. Việc rèn cho học sinh kỹ năng nghe giáo viên gặp không ít những khó khăn. Học sinh phải nghe, phải hiểu được người khác đang nói gì và dùng từ ngữ nào để giao tiếp cho phù hợp, đạt hiệu quả. Học sinh thường nói rằng có nhiều từ Tiếng Anh đã học nhưng khi nghe thì không phát hiện ra được. Học sinh không tự tin khi thực hành nghe Tiếng Anh…Mặt khác điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường phục vụ cho giảng dạy như máy chiếu, đài, máy tính và các thiết bị dạy học hiện đại khác vẫn chưa được trang bị đầy đủ ở từng lớp. Bên cạnh đó, đôi lúc việc dạy kỹ năng nghe Tiếng Anh còn bị xem nhẹ. 3 Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh 24 năm tại trường THCS Thịnh Long, tôi nhận thấy kỹ năng nghe Tiếng Anh của học sinh THCS Thịnh Long nói chung, học sinh lớp 6 của nhà trường nói riêng còn yếu. Tôi đã đi sâu nghiên cứu thực trạng nghe Tiếng Anh của các em, tìm hiểu nguyên nhân và mạnh dạn đưa ra các giải pháp khắc phục thực trạng này. Đây là lý do để tôi chọn đề tài viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng nghe Tiếng Anh cho học sinh lớp 6 ở trường THCS.” II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1. Thực trạng chung Như chúng ta đã biết, Nghe là một phản xạ tự nhiên và còn được hiểu là một động từ thể hiện hành động cảm nhận, nhận biết bằng thính giác (cảm nhận bằng tai) nhưng cũng là một kỹ năng. Nghe chính là một kỹ năng để giải quyết vấn đề mà mình tiếp nhận được (nghe được), hiểu được. Người nghe phải kết hợp giữa việc tiếp nhận, phân biệt các âm, nắm được quy tắc phát âm, trọng âm, hiểu được từ vựng, cấu trúc ngữ pháp…Đồng thời người nghe phải có sự phân tích, xác định được ý định của người nói trong ngữ cảnh cụ thể phù hợp với đặc điểm văn hoá, xã hội… Nghe là chìa khóa dẫn đến thành công của việc học một ngôn ngữ. Như chúng ta biết một đứa trẻ trước khi học nói, biết nói thì trẻ đó phải biết nghe những người xung quanh nói, hiểu ý nghĩa của các từ ngữ và cuối cùng mới có thể bắt chước rồi tự mình nói. Khi học Tiếng Anh, chúng ta cũng cần học cách nghe người khác nói trước khi biết nói Tiếng Anh Người có kỹ năng nghe tốt sẽ nắm bắt được nội dung vấn đề, thu thập được nhiều thông tin, đánh giá được thông tin và tương tác trong quá trình diễn đạt. Bên cạnh đó, “Nghe” sẽ tạo sự liên kết giữa con người với con người, tạo mối quan hệ tốt đẹp, giải quyết được vấn đề và đem lại chất lượng cho công việc và cuộc sống của con người. Như đã nói ở trên, kỹ năng nghe Tiếng Anh là một trong những kỹ năng khó đối với người học nói chung, học sinh THCS nói riêng. Trong việc học nghe, các em gặp nhiều khó khăn. Kết luận này là có cơ sở khi tôi tiến hành khảo sát lấy ý kiến học sinh. Dưới đây là kết quả khảo sát học sinh khối 6 trong năm học 2019-2020. Qua kết qủa khảo sát tôi tổng hợp được thì 6 khó khăn phổ biến nhất trong học nghe Tiếng Anh đối với học sinh lớp 6 là: 1. Vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế. 2. Học sinh không nhận ra âm tiếng Anh 3. Học sinh khó có thể nắm bắt được ý chính của bài nghe, không dự đoán được điều sắp nghe. 4 4. Học sinh thường cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh 5. Học sinh không theo kịp tốc độ của người nói khi nghe Tiếng Anh 6. Học sinh thiếu tập trung khi nghe và không kiểm soát được điều sẽ nghe. Bên cạnh đó, cũng còn có một số yếu tố khách quan khác như: trong giờ nghe lớp học đòi hỏi im lặng nên học sinh cảm thấy căng thẳng nhưng một số học sinh không nghe được làm việc riêng, mất trật tự làm ảnh hưởng đến những học sinh khác và không gian bên ngoài lớp học ồn ào… Dưới đây là kết quả khảo sát mà tôi đã thực hiện: PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 1 PHIẾU ĐIỀU TRA KHÓ KHĂN CỦA HỌC SINH LỚP 6 TRONG QUÁ TRÌNH HỌC NGHE TIẾNG ANH Năm học: 2019- 2020 Họ và tên học sinh:……………………… Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Việc học nghe Tiếng Anh của em còn gặp nhiều khó khăn. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến:
Các khó khăn
Đồng ý
Không đồng ý
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế
2. Học sinh không nhận ra âm tiếng Anh
3. Học sinh khó có thể nắm bắt được ý chính của bài ngnghe, không dự đoán được điều sắp nghe.
4. Học sinh cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh
5. Học sinh không theo kịp tốc độ của người nói khi nghe Tiếng Anh
6. Thiếu tập trung khi nghe và không kiểm soát được điều sẽ nghe
5 Thống kê sau cuộc khảo sát là:
Các khó khăn
Đồng ý
Không đồng ý
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế,
81%
19%
2. Học sinh không nhận ra âm tiếng Anh
86%
14%
3. Học sinh khó có thể nắm bắt được ý chính của bài nghe, không dự đoán được điều sắp nghe.
77%
23%
4. Học sinh cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh
64%
36%
5. Học sinh không theo kịp tốc độ của người nói khi nghe Tiếng Anh
60%
40%
6. Thiếu tập trung khi nghe và không kiểm soát được điều sẽ nghe
42%
58%
Từ kết quả khảo sát trên tôi nhận thấy: + Tiếng Anh là ngôn ngữ nước ngoài học sinh khó hiểu, khó học, các em hay tư duy bằng Tiếng Việt. Học sinh không thể nghe Tiếng Anh được là do các em thiếu kiến thức về từ vựng. Học sinh thường cố dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh. + Tiếng Việt có hệ thống thanh điệu khác so với các ngôn ngữ khác. Người Việt phải sử dụng cơ miệng theo một cách khác để nói Tiếng Việt. Vì thế khi học phát âm Tiếng Anh, nhiều học sinh bị ảnh hưởng bởi tiếng mẹ đẻ. Cho nên các em không nhận ra âm Tiếng Anh, phát âm không chuẩn dẫn đến việc nghe- nói Tiếng Anh gặp nhiều bất lợi. Chính điều này tạo nên áp lực cho học sinh làm các em không hứng thú, tâm lý chán nản khi học nghe Tiếng Anh . + Hơn nữa do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh lớp 6 (11 tuổi) hiếu động nên nhiều khi học sinh không tập trung nghe và vì thế các em cũng không theo kịp được tốc độ của người nói. + Nhiều học sinh không nhận ra rằng mỗi ngôn ngữ có quy tắc và luật riêng nên không thể áp dụng việc học từ ngôn ngữ này sang việc học ngôn ngữ kia được. + Đây là năm thứ 3 học sinh được tiếp cận với SGK Tiếng Anh 6 của Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam. Một bộ sách được biên soạn theo hướng giao tiếp giúp học sinh sử dụng ngữ liệu (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) theo định hướng phát triển các năng lực đặc biệt là năng lực giao tiếp. Đồng thời lấy việc học làm trung tâm nhằm phát huy toàn diện các kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết). Năng lực giao tiếp Tiếng Anh của học sinh được phát triển thông qua hoạt động học tập 6 tích cực, chủ động và sáng tạo. Trong SGK Tiếng Anh 6, tất cả các bài nghe kể cả phát âm, trọng âm của từ Tiếng Anh đều được ghi lại vào đĩa bằng giọng của người bản địa với những chủ đề gần gũi trong thực tế cuộc sống. Trong khi trước đây, với chương trình cũ, giáo viên thường ưu tiên dạy đọc, dạy viết, dạy ngữ pháp và còn mang tính hàn lâm. Trong phần nghe giáo viên thường hay đọc cho học sinh nghe hoặc học sinh nghe băng cũng chỉ là hình thức, chiếu lệ bởi lẽ trong các bài kiểm tra định kỳ không có phần bài tập nghe. Tuy nhiên để thay đổi cách dạy và cách học từ chương trình cũ sang chương trình mới là hoàn toàn không dễ và nhanh chóng được. Vì vậy đòi hỏi cả người dạy và người học cùng cố gắng tìm ra các nguyên nhân của những thực trạng trên để tìm ra các giải pháp thiết thực đối với những vấn đề trên. 1.2. Nguyên nhân của những hạn chế Từ thực tế dạy – học của giáo viên và học sinh, khi dạy phần nghe Tiếng Anh trong SGK Tiếng Anh lớp 6, tôi rút ra một số nguyên nhân của những hạn chế nói trên như sau: *Về phía người dạy + Một số giáo viên chưa dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị bài trước khi lên lớp dẫn đến việc giải quyết các tình huống có vấn đề trong tiết học bị thụ động. Giáo viên còn ngại tổ chức các hoạt động nhóm để học sinh cùng tham gia. Giáo viên chưa tạo được một sân chơi bổ ích mà học sinh là những người chơi, giao tiếp, trò chuyện với nhau bằng Tiếng Anh để học sinh cảm thấy học mà chơi, chơi mà học. + Năng lực giáo viên còn hạn chế. Một bộ phận nhỏ giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng bởi cách dạy cũ. Đó là thiên về dạy ngữ pháp, từ vựng và viết. Trong tiết học, người hoạt động chủ yếu là giáo viên còn học sinh chỉ thụ động lắng nghe, chưa chủ động tiếp thu kiến thức. + Phương pháp dạy còn chưa phù hợp, chưa linh hoạt với từng đối tượng học sinh. Giáo viên ngại áp dụng phương pháp dạy học mới, ngại xây dựng thêm những bài tập củng cố khắc sâu nội dung nghe cần đạt của mục tiêu tiết dạy. + Hình thức tổ chức dạy học chưa phát huy được năng lực của học sinh, chưa tổ chức được các hoạt động như Warm up với các trò chơi hoặc các hoạt động gợi mở, kích thích tính tò mò, ham học hỏi của học sinh đối với phần nghe, và học sinh chưa biết nghe chủ động. + Thời gian tiết học 45 phút không nhiều, giáo viên sợ thiếu thời gian nên có khuynh hướng tập trung cung cấp ngữ liệu mới mà ít quan tâm đến rèn kỹ năng nghe cho học sinh. Ngoài ra nhiều giáo viên không kiên trì hướng dẫn các thủ thuật nghe phù hợp với từng đối tượng học sinh và đôi lúc còn áp đặt. 7 + Giáo viên còn chưa tin tưởng vào khả năng của học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đồng đều đến mọi đối tượng học sinh mà mới chỉ tập trung vào những học sinh khá- giỏi có khả năng nghe nổi trội. Giáo viên chưa biết kết nối các học sinh lại với nhau, chưa tạo cơ hội cho các em tự học hỏi nhau khi không hiểu bài, không biết cách làm. + Giáo viên thực sự chưa gần gũi, thân thiện với học sinh, chưa hiểu hết được những băn khoăn của học sinh. Học sinh ngại không dám hỏi hay chia sẻ những điều băn khoăn, thắc mắc của các em với giáo viên. Chính vì thế đã tạo nên khoảng cách giữa thầy và trò. + Việc sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng trực quan của giáo viên trên từng giờ lên lớp chưa linh hoạt, chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến việc tiếp thu bài của học sinh còn hạn chế. *Về phía học sinh Học sinh lớp 6 là lớp học đầu cấp của bậc THCS. Đó là giai đoạn chuyển giao từ trẻ em thành vị thành niên. Các em ở độ tuổi dậy thì, tâm sinh lý, thể chất thay đổi. Các em luôn muốn tự khẳng định mình, muốn thể hiện cái tôi của mình. Lên lớp 6 ở bậc THCS, các em được tiếp xúc với nhiều điều mới mẻ như môi trường mới, bạn bè mới, nội dung học tập mới và chương trình học mới. Các em tiếp xúc với nhiều môn học mới được đảm nhiệm bởi các thầy cô giáo khác nhau cùng với phương pháp dạy đặc trưng của mỗi môn khác nhau. Đặc biệt đa phần các em rất ngỡ ngàng, lo lắng, tự ti khi học môn Tiếng Anh. Bởi lẽ Tiếng Anh ở Tiểu học chỉ dừng ở những câu cơ bản, đơn giản nhưng ở bậc THCS thì các em sẽ phải học từ vựng với phát âm chuẩn cùng với cấu trúc câu đi kèm…Đặc biệt các em phải biết sử dụng các từ vựng, cấu trúc câu… vào việc thực hành nghe, nói, đọc, viết. Chính những điều trên đã ảnh hưởng đến tâm lý của các em, khiến nhiều khi các em căng thẳng, lúng túng và thiếu tự tin. Đặc biệt khi học nghe và nói Tiếng Anh, các em không thể tập trung khi nghe, không nhận ra các âm Tiếng Anh và không thể nắm bắt được ý chính của bài nghe… Từ kết quả khảo sát đã có, tôi tiếp tục tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến các khó khăn mà học sinh gặp phải trong quá trình khi nghe (5 phiếu khảo sát) cụ thể như sau: 1, Nguyên nhân khiến vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế. Khảo sát về nguyên nhân vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế, tôi có tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, của học sinh và thu thập được một số nguyên nhân cụ thể và tiến hành phát phiếu khảo sát toàn bộ số học sinh khối 6 đang học tại trường THCS Thịnh Long 8 PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 2 PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC VỐN TỪ VỰNG TIẾNG ANH CỦA HỌC SINH CÒN HẠN CHẾ Năm học: 2019 – 2020 Họ và tên học sinh: Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định Các em hay gặp những khó khăn trong việc làm phong phú vốn từ vựng Tiếng Anh. Nguyên nhân gây ra khó khăn này là gì? Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Lười học từ vựng.
2. Không xác định được động cơ, mục đích học tập đúng đắn
3. Cho Tiếng Anh là khó, không hiểu, không muốn học
4. Chưa có kĩ năng, phương pháp học tập Tiếng Anh phù hợp
5. Học từ vựng không gắn với chủ đề cụ thể, ngữ cảnh cụ thể
6. Học quá nhiều từ mới một lúc
7. Thụ động, không hứng thú học
Thống kê sau cuộc khảo sát là:
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Lười học từ vựng
89%
11%
2. Không xác định được động cơ mục đích học tập đúng đắn
73%
27%
3.Cho Tiếng Anh là khó, không hiểu, không muốn học
69%
31%
4. Chưa có kĩ năng, phương pháp học tập Tiếng Anh phù hợp
58%
42%
5. Học từ vựng không gắn với chủ đề cụ thể, ngữ cảnh cụ thể
62%
38%
6. Học quá nhiều từ mới một lúc
65%
35%
7. Thụ động, không hứng thú học.
60%
40%
9 Trên thực tế theo kết quả khảo sát học sinh khối 6, nguyên nhân của việc vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh còn hạn chế là do: Học sinh lười học từ vựng, chưa có động cơ học tập đúng đắn. Đa phần các em cho rằng học Tiếng Anh khó, không hiểu và ngại học. Đặc biệt khi không nghe được, không nói được, không hiểu bài được nên các em sẽ chán nản, từ bỏ và không kiên trì học tiếp. Các em cũng chưa có phương pháp, kỹ năng học tập. Nhiều em còn bị ảnh hưởng bởi phương pháp truyền thống là thiên về học ngữ pháp và học từ vựng dưới hình thức chép đi, chép lại từ ra giấy, chưa biết gắn học từ vựng với chủ đề, ngữ cảnh cụ thể. Nhiều học sinh còn học từ mới một cách thụ động và học quá nhiều từ mới một lúc. Vì thế sau một thời gian ngắn các em không nhớ được những từ vựng đó nữa. 2, Nguyên nhân học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi nghe Trong quá trình giảng dạy, một vấn đề làm người dạy nói chung, bản thân tôi nói riêng rất trăn trở, đó là việc dạy phát âm cho học sinh; đặc biệt là tình trạng học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi nghe Tiếng Anh. Cho nên việc tôi làm đầu tiên khi bước vào năm học mới là khảo sát những nguyên nhân của việc học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi thực hiện hoạt động nghe Tiếng Anh. Tôi đã tiến hành điều tra với một số gợi ý cụ thể: PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 3 PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦAVIỆCHỌC SINH KHÔNG NHẬN RA ÂM TIẾNG ANH KHI NGHE Năm học: 2019 – 2020 Họ và tên học sinh:……………………………………….. Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định Các em hay gặp khó khăn trong việc nhận ra âm Tiếng Anh khi thực hiện hoạt động nghe Tiếng Anh. Nguyên nhân gây ra khó khăn này là gì ? Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Các nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1.Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế
2. Ảnh hưởng về phát âm chuỗi trong lời nói Tiếng Anh. (hiện tượng nuốt âm, hiện tượng nối âm, hiện tượng đồng hóa âm vị, hiện tượng rút gọn của từ…)
10
3. Không phân biệt được các từ đồng âm và các từ có cách phát âm gần giống nhau.
4. Nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và phủ định.
5. Các nguyên nhân khác.
Thống kê được sau cuộc khảo sát là:
Các nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế
83 %
17%
2. Ảnh hưởng về phát âm chuỗi trong lời nói Tiếng Anh. (hiện tượng nuốt âm, hiện tượng nối âm, hiện tượng đồng hóa âm vị, hiện tượng rút gọn của từ…)
87 %
13%
3. Không phân biệt được các từ đồng âm và các từ có cách phát âm gần giống nhau.
78 %
22%
4. Nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và phủ định.
59 %
41%
5. Các nguyên nhân khác.
9 %
91%
Như vậy qua các cuộc khảo sát việc học sinh không nhận ra âm trong Tiếng Anh cho thấy: + 83 % học sinh cho rằng khó khăn của các em là do vốn từ vựng Tiếng Anh còn hạn chế. + 87 % học sinh cho ý kiến khó khăn của các em là do một số ảnh hưởng về phát âm chuỗi trong lời nói Tiếng Anh + 78 % học sinh gặp khó khăn không phân biệt được các từ đồng âm và các từ có cách phát âm gần giống nhau + 59 % học sinh nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và phủ định. 3, Nguyên nhân của việc học sinh khó nắm bắt được ý chính của bài nghe, không dự đoán được điều sắp nghe Ngoài việc khảo sát về nguyên nhân học sinh không nhận ra âm Tiếng Anh khi nghe Tiếng Anh, tôi tiếp tục khảo sát những nguyên nhân của việc học sinh khó nắm bắt được ý chính của bài nghe Tiếng Anh và không dự đoán được điều sắp nghe . 11 PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 4 PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC HỌC SINH KHÓ NẮM BẮT ĐƯỢC Ý CHÍNH CỦA BÀI NGHE VÀ KHÔNG DỰ ĐOÁN ĐƯỢC ĐIỀU SẮP NGHE Năm học : 2019 – 2020 Họ và tên học sinh:……………………… Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Các em gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt được ý chính của bài nghe Tiếng Anh và dự đoán được điều sắp nghe. Những nguyên nhân gây ra những khó khăn là gì ? Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Các nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Không phân biệt được thông tin chính cần nghe với các thông tin còn lại.
2. Không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng
3. Cả hai nguyên nhân trên.
Các nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Không phân biệt được thông tin chính cần nghe với các thông tin còn lại.
58 %
42%
2. Không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng
66%
34%
3.Cả hai nguyên nhân trên.
76 %
24%
Những số liệu trên cho thấy nguyên nhân của việc khó nắm bắt nội dung chính của bài nghe là: + 58 % học sinh không phân biệt được thông tin chính cần nghe với các thông tin còn lại. Thông tin các em nắm được khi nghe còn mơ hồ, không cụ thể, không chính xác, + 66 % học sinh không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng. Bao giờ cũng vậy ý chính của bài nghe thường được diễn đạt qua một 12 số từ ngữ quan trọng hay còn gọi là từ khóa (key words), nhưng các em không nắm được những từ khóa này. + 76 % học sinh cho rằng nguyên nhân của việc khó nắm bắt nội dung bài nghe là do cả hai nguyên nhân: các em không phân biệt được thông tin chính cần nghe và không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ quan trọng. + Bên cạnh đó hoạt động nghe của học sinh còn rập khuôn, máy móc, chưa biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các tình huống thực tế trong cuộc sống. 4, Nguyên nhân học sinh cố gắng dịch sang Tiếng Việt trong khi nghe Tiếng Anh Trong thực tế, có nhiều học sinh khi nghe Tiếng Anh thường hay cố gắng dịch sang Tiếng Việt. Những nguyên nhân gây ra vấn đề này là gì ? Chúng ta biết: khi tiếp nhận thông tin người ta phải hiểu người nói, người viết muốn nói điều gì, nói về ai, muốn gửi gắm thông điệp nào…Vì vậy khi nghe Tiếng Anh học sinh cũng mang theo thói quen đó. Tuy nhiên khi học Tiếng Anh, đặc biệt là việc nghe Tiếng Anh cũng cần có cách nghe phù hợp với đặc trưng môn học. Đi sâu tìm hiểu và qua thực tiễn giảng dạy tại trường THCS Thịnh Long tôi thu thập được một số nguyên nhân chủ yếu. Đồng thời để kết luận của mình có căn cứ xác thực tôi tiếp tục sử dụng phiếu khảo sát đối với học sinh trong nhà trường. PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 5 PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC HỌC SINH CỐ GẮNG DỊCH SANG TIẾNG VIỆT KHI NGHE TIẾNG ANH Năm học: 2019 – 2020 Họ và tên học sinh:…………………………….. Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Các em thường hay cố gắng dịch sang Tiếng Việt khi nghe Tiếng Anh Những nguyên nhân gây ra việc này là gì. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Phương pháp học tập Tiếng Anh chưa phù hợp với đặc trưng môn học
2. Áp dụng thói quen tư duy Tiếng Việt
13
3. Muốn nhanh chóng nắm bắt mọi vấn đề trong bài nghe
4. Chưa hiểu rõ yêu cầu của bài nghe
Thống kê được sau cuộc khảo sát là:
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Phương pháp học tập Tiếng Anh chưa phù hợp với đặc trưng môn học
69 %
31 %
2. Áp dụng thói quen tư duy Tiếng Việt
61 %
39%
3. Muốn nhanh chóng nắm bắt mọi vấn đề trong bài nghe
58 %
42 %
4. Chưa hiểu rõ yêu cầu của bài nghe
34 %
66 %
Dựa vào thống kê sau cuộc khảo sát trên cho thấy, học sinh thường hay cố dịch sang Tiếng Việt khi nghe Tiếng Anh là do: Học sinh chưa có phương pháp học Tiếng Anh phù hợp cho bản thân và chưa hiểu rõ yêu cầu của bài nghe. Học sinh còn có thói quen tư duy bằng Tiếng Việt và muốn nắm bắt mọi vấn đề trong bài nghe. Chính những thói quen đó đã gây trở ngại cho các em trong việc nghe Tiếng Anh. 5, Nguyên nhân của việc học sinh thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe Các em gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung khi nghe, kiểm soát được điều sẽ nghe. Những nguyên nhân gây ra những khó khăn là gì? Qua khảo sát có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn đến việc học sinh thiếu tập trung khi nghe, tôi tiếp tục khảo sát ý kiến của học sinh, có cả nguyên nhân chủ quan từ phía học sinh và nguyên nhân khách quan tác động. PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 6 PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC HỌC SINH THIẾU TẬP TRUNG KHI NGHE KHÔNG KIỂM SOÁT ĐƯỢC ĐIỀU SẼ NGHE Năm học 2019 – 2020 Họ và tên học sinh:…………………………… Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. 14 Các em gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung khi nghe Tiếng Anh và kiểm soát được điều sẽ nghe. Những nguyên nhân gây ra những khó khăn này là gì. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1.Thiếu kinh nghiệm khi nghe.
2. Không có thói quen nghe thường xuyên.
3. Nghe không hiểu nên sợ nghe.
4. Sức khỏe không tốt
5. Không có hứng thú nghe
6. Tốc độ của bài nghe quá nhanh
7. Không gian nghe không yên tĩnh
Thống kê sau cuộc khảo sát:
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1. Thiếu kinh nghiệm khi nghe.
72 %
28%
2. Không có thói quen nghe thường xuyên.
61%
39%
3. Nghe không hiểu nên sợ nghe.
53%
47%
4. Sức khỏe không tốt
22%
78%
5. Không có hứng thú nghe
36%
64%
6. Tốc độ của bài nghe quá nhanh
47%
53%
7. Không gian nghe không yên tĩnh
49%
51%
– Nguyên nhân chủ quan từ phía học sinh là: + 72 % học sinh thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe là do các em thiếu kinh nghiệm khi nghe + 61 % học sinh không có thói quen nghe thường xuyên nên dẫn đến các em thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe + 53 % học sinh nghe không hiểu nên sợ nghe + Chỉ có 22 % học sinh ý kiến sức khỏe không tốt + 36 % học sinh không có hứng thú nghe – Nguyên nhân khách quan: 15 + 47 % học sinh thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe là do các em thấy tốc độ của bài nghe quá nhanh + 49 % học sinh cho rằng không gian nghe không yên tĩnh đã ảnh hưởng đến việc tập trung nghe của các em. Từ kết quả khảo sát trên cho thấy: Do việc thiếu kinh nghiệm khi nghe, không biết cần nghe thông tin chính là gì và học sinh cố gắng nghe hết mọi thông tin trong bài nghe nên học sinh mất tập trung khi nghe. Bên cạnh đó, tốc độ của bài nghe quá nhanh đã dẫn đến học sinh mất tập trung khi nghe, nghe được phần này thì bài nghe đã sang phần khác. Như vậy học sinh sẽ không nghe được phần khác nữa. Từ đó học sinh sẽ bối rối, mất tập trung, đến khi tâm trí quay trở lại với bài nghe thì nội dung đã đi quá xa và học sinh không hiểu đang nghe cái gì, không biết đang nghe đến đâu và không kiểm soát được điều sẽ nghe. Ngoài ra, học sinh không có thói quen nghe, không có hứng thú nghe cùng với sức khỏe không tốt và không gian nghe không yên tĩnh cũng làm các em thiếu tập trung khi nghe, không kiểm soát được điều sẽ nghe. 6, Nguyên nhân học sinh không theo kịp tốc độ của người nói Qua thực tế tìm hiểu tôi thấy được hạn chế trong kỹ năng nghe Tiếng Anh là do học sinh không theo kịp tốc độ của người nói . Để tìm hiểu rõ nguyên nhân này tôi đã khảo sát ý kiến của học sinh. PHIẾU ĐIỀU TRA SỐ 7 PHIẾU ĐIỀU TRA NGUYÊN NHÂNCỦA VIỆC HỌC SINH KHÔNG THEO KỊP TỐC ĐỘ CỦA NGƯỜI NÓI. Năm học : 2019 – 2020 Họ và tên học sinh: Lớp: ….. Trường THCS Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Các em gặp nhiều khó khăn trong việc theo kịp tốc độ của người nói. Những nguyên nhân gây ra những khó khăn là gì. Em hãy vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào ô ý kiến.
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1.Thiếu vốn từ vựng Tiếng Anh cần thiết
2. Thiếu kĩ năng, phương pháp học tập môn học
3. Không nắm chắc quy tắc âm, nghĩa của từ Tiếng Anh
16
4. Thiếu tập trung khi nghe
5. Quen với cách phát âm, dùng từ mang sắc thái địa phương( nói chậm, nói ngọng…)
Thống kê sau cuộc khảo sát là:
Nguyên nhân
Đồng ý
Không đồng ý
1.Thiếu vốn từ vựng Tiếng Anh cần thiết
73%
27%
2. Thiếu kĩ năng, phương pháp học tập môn học
57%
43%
3. Không nắm chắc quy tắc âm, nghĩa của từ Tiếng Anh
56%
44%
4. Thiếu tập trung khi nghe
54%
46%
5. Quen với cách phát âm, dùng từ mang sắc thái địaphương( nói chậm, nói ngọng…)
33%
67%
Nhìn vào kết quả khảo sát ta thấy: + 73% học sinh đồng ý với ý kiến thiếu vốn từ vựng Tiếng Anh là nguyên nhân dẫn đến việc học sinh gặp khó khăn khi nghe và không theo kịp tốc độ của người nói. + 57% học sinh cho rằng việc thiếu kỹ năng và phương pháp học tập bộ môn + 56% học sinh đồng ý với ý kiến việc chưa nắm chắc quy tắc về âm, nghĩa của từ Tiếng Anh làm các em không theo kịp tốc độ của người nói. + 54% thiếu tập trung khi nghe của học sinh cũng là nguyên nhân không nhỏ làm các em không theo kịp tốc độ của người nói . + Một phần nhỏ học sinh quen với cách phát âm, dùng từ mang sắc thái địa phương( nói chậm, nói ngọng…) Chính những khó khăn trên đã làm cho học sinh không theo kịp được tốc độ của người nói và dẫn đến kỹ năng nghe hiểu của học sinh chưa đạt hiệu quả cao. 1.2.3. Nguyên nhân khác. + Thị trấn Thịnh Long là khu du lịch với nhiều dịch vụ vui chơi và giải trí thu hút sự tò mò, mải chơi của học sinh và có thể dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội. + Các em chưa có điều kiện được tiếp xúc với người nói Tiếng Anh bản địa nên các hoạt động của các em còn mang tính gượng ép, chưa tự nhiên đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nghe Tiếng Anh của các em. Khi không nghe được thì các em cũng sẽ không đáp ứng được mục đích giao tiếp. Từ đó sẽ càng ngại nghe, ngại nói Tiếng Anh. 17 + Phát âm của học sinh còn bị ảnh hưởng nhiều bởi tiếng Việt đặc biệt là tiếng địa phương. Sự ảnh hưởng của môi trường sống, của văn hóa vùng miền tác động không nhỏ tới học sinh.Việc phát âm của người Hải Hậu nói chung, Thịnh Long nói riêng mang đặc điểm vùng miền khá rõ. Học sinh Thịnh Long bị ảnh hưởng bởi điều này. Học sinh nói ngọng, nói nặng, âm hay kéo dài cuối câu, phát âm chưa chuẩn… Đặc biệt học sinh hay nhầm lẫn các âm: /n/ và /l/; /r/ và /d/… + Các thiết bị dạy học tuy đã được trang bị nhưng chưa đầy đủ và chưa bố trí cho các khối, lớp trong tiết học Tiếng Anh. + Nhận thức của một số ít phụ huynh về môn học Tiếng Anh còn hạn chế. Họ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh, chưa tạo điều kiện cho con em mình học tập Tiếng Anh. Họ chưa quản lý được giờ giấc học tập của con em ở nhà. Họ quan niệm học Tiếng Việt chưa sõi thì sao học được Tiếng Anh và dẫn đến việc xem nhẹ môn học. Vì những lý do trên đã làm học sinh còn nhiều hạn chế trong việc nghe. Cho nên việc giúp học sinh phát triển kỹ năng nghe là việc cần thiết và cấp bách đối với người dạy, phù hợp với xu thế chung, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới và mục tiêu đào tạo của nền giáo dục là tăng cường kỹ năng ứng dụng thực hành, hoàn thiện kỹ năng nghe- nói – đọc – viết cho học sinh. Vậy để đạt được mục tiêu và yêu cầu của kỹ năng nghe hiểu Tiếng Anh cho học sinh lớp 6 cần có sự kết hợp nhịp nhàng từ người dạy, người học và nhiều yếu tố khách quan khác. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Qua ba năm học triển khai giảng dạy chương trình Tiếng Anh hệ 10 năm cho lớp 6 tại trường THCS Thịnh Long, tôi thấy để khắc phục những tình trạng trên và triển khai tốt việc dạy kỹ năng nghe thì giáo viên cần thực hiện tốt các giải pháp sau: 2.1.Giải pháp thứ nhất: Củng cố và làm giàu thêm vốn từ vựng Tiếng Anh của học sinh. Từ vựng được coi là sự bắt đầu của tất cả việc học ngôn ngữ. Từ vựng quyết định sự thành công của học sinh trong quá trình học tập. Không có từ vựng thì không có thông tin nào có thể được truyền đạt. (Without vocabulary, nothing can be conveyed). Từ vựng là nền tảng cho các kỹ năng phát triển ngôn ngữ trong giao tiếp trong đó có kỹ năng nghe. Nếu có vốn từ vựng đa dạng, phong phú sẽ giúp học sinh hiểu được nội dung người nói, người viết truyền đạt. Khi hiểu được nội dung truyền đạt học sinh sẽ biết mình phải làm gì, phải thực hiện những nhiệm vụ nào để đem lại hiệu quả học tập và từ đó học sinh sẽ phát triển và hoàn thiện các kỹ năng cơ bản nghe- nói- đọc- viết. Đặc biệt quá trình nghe- nói cuả học sinh ngày càng thành thạo, trôi chảy. Vì vậy việc củng cố và làm giàu thêm vốn từ 18 vựng Tiếng Anh của học sinh là rất quan trọng. Giáo viên cần định hướng và khuyến khích học sinh kiên trì, chăm chỉ học từ mới, tìm ra phương pháp học từ một cách hiệu quả phù hợp với khả năng của từng học sinh. Bác Hồ kính yêu của chúng ta chính là một tấm gương sáng cho mỗi học sinh với các phương pháp học nâng cao vốn từ vựng Tiếng Anh rất hiệu quả của Bác. Phương pháp học từ vựng của Bác đã được cả thế giới biết đến và truyền tụng. 2.1.1.Cần kiên trì học từ mới hằng ngày Để có vốn từ vựng học sinh phải thường xuyên kiên trì, có tinh thần tự học và phân bố thời gian hợp lý. Các em không nhất thiết phải học suốt ngày, học suốt đêm hay lúc nào cũng phải ngồi vào bàn học; mà chỉ cần học mỗi ngày. Có thể là: sau khi thức dậy, trước khi đi ngủ, trước hoặc sau bữa ăn, trên đường đi học hay tan học về thậm chí khi làm việc nhà…hoặc bất cứ nơi nào. Học sinh học từ vựng Tiếng Anh ở lớp, ở trường, ở nhà, ở ngoài đường, ngoài công viên, học với bạn bè, với thầy cô, anh chị em… Các em cần duy trì việc học từ mới thành một thói quen. Thói quen học từ mới phải thực hiện như cơm ăn, nước uống hằng ngày. Học sinh cần kết hợp giữa việc học từ mới với ôn lại những từ đã học. Có như thế học sinh sẽ nhớ được từ Tiếng Anh lâu hơn, hiệu quả hơn. Số lượng từ vựng mà học sinh học được mỗi ngày tùy thuộc vào khả năng trình độ và phương pháp học của mỗi em. Học sinh cần đặt ra mục tiêu về số lượng từ mới cần học mỗi ngày cho riêng mình và quyết tâm thực hiện Với việc chăm chỉ, kiên trì, học tập chắc chắn kiến thức từ vựng của học sinh sẽ ngày càng được củng cố và phong phú hơn. 2.1.2. Có phương pháp học từ vựng hiệu quả. – Học từ vựng của một ngôn ngữ nói chung hay của Tiếng Anh nói riêng trước hết là bắt chước làm quen với âm thanh, biết nghĩa của từ và cách sử dụng của từ đó.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education