Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài nhằm nâng cao hiệu quả dạy đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn THPT

    SKKN Một số biện pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài nhằm nâng cao hiệu quả dạy đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn THPT

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Dạy và học ở trường phổ thông là công việc quan trọng hàng đầu diễn ra
    trong các hoạt động sư phạm. Hoạt động này hướng tới chất lượng của người thầy
    cũng như của trò. Vì vậy, người thầy phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi giải
    pháp hữu hiệu nhằm tăng hiệu quả giảng dạy của mình.
    Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học là
    nhu cầu thiết yếu đặt ra đối với những người đang làm nhiệm vụ giảng dạy. Vậy,
    làm thế nào để học sinh ngày nay có tình yêu bộ môn xã hội và đặc biệt có thể học
    tốt Ngữ Văn? Đó là vấn đề khiến nhiều giáo viên dạy Ngữ Văn trăn trở. Với quan
    điểm cá nhân, tôi nhận thấy đa số học sinh chưa hứng thú trong học tập, các em
    chuẩn bị bài mới chưa thật chu đáo.
    Đa số các em còn thụ động trong việc chuẩn bị bài mới. Các em coi đó là
    nhiệm vụ bắt buộc khi lên lớp, thậm chí nhiều HS khi đến lớp không chuẩn bị bài
    (không đọc trước văn bản và trả lời câu hỏi trong phần Hướng dẫn chuẩn bị bài).
    Một số em khi kiểm tra vở soạn thì rất đầy đủ, sạch đẹp, trình bày khoa học nhưng
    thực chất là những bài sao chép trong sách để học tốt Ngữ văn. Điều này tôi đã gặp
    ở nhiều năm, nhiều lớp học sinh.
    Để khắc phục điều này trước hết phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới
    ở nhà để tiết học có hiệu quả cao. Chính vì thế tôi đã áp dụng biện pháp này với
    mong muốn giúp các em biết cách chuẩn bị bài đọc hiểu văn bản văn học có hiệu
    quả nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học.
    Việc hướng dẫn HS chuẩn bị bài một cách hệ thống, khoa học sáng tạo là
    vấn đề vô cùng quan trọng, cần thiết. Một giờ Đọc văn thành công hay không,
    không khí giờ học như thế nào và chất lượng, hiệu quả giờ học Văn ra sao xét cho
    cùng phụ thuộc vào niềm say mê nghề, năng khiếu sư phạm và nghệ thuật tổ chức,
    hướng dẫn của GV và ý thức của học sinh. Và dĩ nhiên, hướng dẫn HS chuẩn bị bài
    là một trong những yếu tố làm nên chất lượng dạy học Ngữ văn trong nhà trường
    Trung học phổ thông hiện nay.
    Phạm vi trình bày của tôi chủ yếu chú trọng phân môn đọc văn bởi lẽ hai
    phân môn Làm văn và Tiếng Việt sách giáo khoa đã có những câu hỏi hướng dẫn
    học sinh chuẩn bị bài thật chi tiết và cụ thể.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    5
    1.1. Thực trạng của việc hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà.
    1.1.1. Ưu điểm:
    – Về phía GV:
    Giáo viên đã cập nhật và đổi mới phương pháp theo hướng dạy học tích cực
    từ truyền thụ kiến thức một chiều sang việc tổ chức các hoạt động học cho HS để
    HS chủ động tiếp nhận, lĩnh hội kiến thức.
    GV đã chú trọng đến việc hướng dẫn HS tự học và chuẩn bị bài ở nhà qua hệ
    thống câu hỏi và bài tập cụ thể gắn với từng hoạt động học.
    GV cũng đã đổi mới và đa dạng hóa các hình thức kiểm tra đánh giá học
    sinh: Từ kiểm tra định kì sang đánh giá quá trình.
    GV đã tích cực sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học và giao bài tập cho
    HS tự học.
    – Về phía HS:
    Một số em đã có ý thức chuẩn bị bài ỏ nhà trước khi đến lớp. Có ý thức tự
    đọc tham khảo những tài liệu trong sách tham khảo và tài liệu trên mạng internet.
    Có nhiều học sinh tích cực hợp tác để giải quyết những bài tập khó, những
    dự án mà giáo viên yêu cầu.
    1.1.2. Hạn chế.
    – Về phía GV:
    Ở một số giờ học, do phân phối thời gian chưa hợp lí nên phần hướng dẫn
    học sinh học bài và chuẩn bị bài còn chung chung, qua loa đại khái. Hoặc có
    hướng dẫn cho học sinh nhưng còn sơ sài ví dụ như GV chỉ nhắc HS soạn bài theo
    câu hỏi sách giáo khoa hoặc xem bài tiếp theo…
    Việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới, tham khảo tài liệu ở nhà chưa cụ
    thể, chưa định hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ
    lược.
    – Về phía HS:
    Do tâm lí học lệch, học tủ, chỉ chú trọng các môn học trong tổ hợp xét tuyển
    đại học (với HS lớp 12), nên nhiều Hs đã không dành thời gian đọc văn bản và
    chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ đọc văn các em tiếp cận văn bản trong tâm thế hoàn
    toàn bị động. Học sinh về nhà có chuẩn bài nhưng không hiệu quả, không biết chỗ
    nào là quan trọng. Vì vậy các em khó nắm bắt kiến thức một cách cụ thể, trọng
    tâm, có trình tự, việc học văn càng trở nên nặng nề, không chủ động tìm tòi kiến
    thức mới, không học bài cũ, luôn ỷ lại và chờ đợi vào bài giảng của giáo viên để
    chép. Ở nhà không chuẩn bị bài, trên lớp bài giảng với lượng kiến thức nhiều, cô
    6
    nói điều gì trò cũng cảm thấy mới lạ cho nên có em thì cắm cúi chép bài mà không
    nghe giảng, có em không hứng thú, thiếu tập trung, không ghi bài thậm chí làm
    việc riêng trong giờ. Kết quả không cao đã đành, các em càng ngày càng thấy chán
    học môn Văn.
    Còn nhiều HS chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười
    suy nghĩ, chỉ biết suy nghĩ bằng những ý vay mượn, những lời có sẵn, lệ thuộc quá
    nhiều vào sách vở vào sách để học tốt hoặc kiến thức tham khảo từ các trang mạng,
    như vậy HS chưa làm chủ được tri thức.
    1.2. Yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn
    Qua việc khảo sát yêu cầu Chương trình Ngữ văn, tôi nhận thấy chương
    trình giáo dục phổ thông xác định mục tiêu chung của việc dạy học Đọc hiểu văn
    bản như sau:
    – Có những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ thống về những tác
    phẩm tiêu biểu cho các thể loại cơ bản của văn học Việt Nam và một số tác phẩm,
    đoạn trích của văn học nước ngoài.
    – Hình thành và phát triển các năng lực cơ bản với yêu cầu cao hơn cấp
    Trung học cơ sở, bao gồm: năng lực sử dụng tiến Việt thể hiện ở bốn kĩ năng cơ
    bản (đọc, viết, nghe, nói), năng lực tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực
    tự học và năng lực thực hành, ứng dụng.
    – Có tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình yêu gia đình, thiên nhiên;
    lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; tinh thần dân chủ, nhân văn ; nâng cao
    ý thức trách nhiệm công dân; ý thức tôn trọng, phát huy các giá trị văn hóa của dân
    tộc và nhân loại.
    Chúng tôi đã tiến hành khảo sát hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài của tất
    cả các văn bản Đọc hiểu trong chương trình Ngữ văn THPT. Dưới đây là một số ví
    dụ được chọn ngẫu nhiên từ các bài Đọc hiểu văn bản.
    Bảng: Hệ thống câu hỏi trong mục hướng dẫn học bài

    Đọc Tiểu Thanh
    kí (Nguyễn Du)
    Vội vàng (Xuân
    Diệu)
    Người lái đò Sông
    Đà (Trích) – Nguyễn
    Tuân
    Vợ chồng A phủ
    (Tô Hoài)
    Câu 1: Theo anh
    (chị) vì sao
    Nguyễn Du lại
    đồng cảm với số
    phận của nàng
    Tiểu Thanh?
    Câu 2: Câu Nỗi
    hờn kim cổ trời
    khôn hỏi có
    Câu 1: Bài thơ có
    thể chia làm mấy
    đoạn? Nêu ý
    chính của từng
    đoạn.
    Câu 2: Xuân
    Diệu cảm nhận
    về thời gian như
    Câu 1: Chứng minh
    rằng Nguyễn Tuân
    đã quan sát công phu
    và tìm hiểu kĩ càng
    khi viết về sông Đà
    và người lái đò Sông
    Đà.
    Câu 2: Trong thiên
    Câu 1: Tìm hiểu số
    phận, tính cách
    nhân vật Mị qua:
    – Cảnh ngộ bị bắt
    về làm dâu gạt nợ
    nhà thống lí Pá
    Tra.
    – Diễn biến tâm
    trạng và hành

    7

    nghĩa gì? Nỗi
    hờn (hận) ở đây
    là gì? Tại sao tác
    giả cho là không
    thể hỏi trời được?
    Câu 3: Nguyễn
    Du thương xót
    và đồng cảm với
    người phụ nữ có
    tài văn chương
    mà bất hạnh.
    Điều đó nói gì
    về tấm lòng của
    nhà thơ?
    Câu 4: Phân tích
    vai trò của mỗi
    đoạn thơ (đề,
    thực, luận kết) đối
    với chủ đề toàn
    bài.
    thế nào? Vì sao
    nhà thơ có tâm
    trạng vội vàng,
    cuống quýt trước
    sự trôi chảy,
    nhanh chóng của
    thời gian?
    Câu 3: Hình ảnh
    thiên nhiên, sự
    sống, quen thuộc
    được tác giả cảm
    nhận và diễn tả
    như thế nào? Hãy
    chỉ ra những nét
    mới trong quan
    niệm của Xuân
    Diệu về cuộc
    sống, tuổi trẻ và
    hạnh phúc.
    Câu 4: Hãy nhận
    xét về đặc điểm
    của hình ảnh,
    ngôn từ nhịp điệu
    trong đoạn thơ
    cuối của bài thơ.
    Nhà thơ đã sáng
    tạo được những
    hình ảnh nào mà
    anh (chị) cho là
    mới mẻ, độc đáo
    nhất?
    tuỳ bút, tác giả đã
    dùng những biện
    pháp nghệ thuật nào
    để khắc hoạ được
    một cách ấn tượng
    hình ảnh của một
    con sông Đà hung
    bạo?
    Câu 3: Cách viết của
    nhà văn đã thay đổi
    như thế nào khi biểu
    hiện sông Đà như
    một dòng chảy trữ
    tình?
    Câu 4: Phân tích
    hình tượng người lái
    đò sông Đà trong
    cuộc chiến đấu với
    con sông hung dữ.
    Từ đó hãy cắt nghĩa
    vì sao, trong con mắt
    cảu Nguyễn Tuân,
    thiên nhiên Tây Bắc
    quý như vàng,
    nhưng con người
    Tây Bắc mới thật
    xứng đáng là vàng
    mười của đất nước
    ta.
    Câu 5: Chọn phân
    tích một số câu văn
    thể hiện rõ nét nhất
    tài hoa về bút pháp
    trong cách sử dụng
    ngôn ngữ của
    Nguyễn Tuân.
    động. (Chú ý phân
    tích diễn biến tâm
    trạng Mị tròn đêm
    mùa xuân về, kí ức
    tuổi thanh xuân,
    nhãng đêm cô đơn
    dậy sớm sưởi lửa,
    khi chứng kiến
    cảnh A phủ bị trói
    đứng, hành động
    cắt dây cứu A phủ
    và cùng A phủ trốn
    khỏi Hồng Ngài…)
    Câu 2: Ấn tượng
    của anh (chị) về
    tính cách của nhân
    vật A Phủ (qua
    hành động đánh
    nhau với A Sử, lúc
    bị xử kiện và khi
    về làm công gạt nợ
    nhà thống lí Pá
    Tra). Bút pháp của
    nhà văn khi miêu
    tả nhân vật Mị và
    nhân vật A Phủ có
    gì khác nhau?
    Câu 3: Những nét
    độc đáo trong quan
    sát và diễn tả của
    tác giả về đề tài
    miền núi (nếp sinh
    hoạt, phong tục,
    thiên nhiên, con
    người, xây dựng
    tình huống, cốt
    truyện, nghệ thuật
    dẫn truyện, …)
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Đọc đoạn thơ sau
    đây trong Truyện
    Kiều (từ câu 107
    đến 110) và chỉ ra
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Trong Nhà văn
    hiện đại, nhà phê
    bình, nghiên cứu
    văn học Vũ Ngọc
    Câu hỏi phần luyện
    tập:
    Câu 1: tìm đọc trọn
    vẹn tuỳ bút Người
    lái đò sông Đà.
    Câu 2: Phân tích và
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Qua số phận hai
    nhân vật Mị và A
    Phủ, hãy phát biểu
    ý kiến của anh

    8

    điểm tương đồng
    với bài Đọc Tiểu
    Thanh kí:
    Rằng: Hồng nhan
    tự thuở xưa
    Cái điều bạc mệnh
    có chừa ai đâu
    Nỗi niềm nghĩ đến
    mà đau
    Thấy người nằm
    đó biết sau thế
    nào?
    Phan đã viết:
    “Với những
    nguồn cảm hứng
    mới: yêu đương
    và tuổi xuân, dù
    lúc vui hay lúc
    buồn, Xuân Diệu
    cũng ru thanh
    niên bằng giọng
    yêu đời, thấm
    thía” Qua phân
    tích bài thơ Vội
    vàng, anh (chị)
    hãy làm sáng tỏ
    nhận định trên.
    phát biểu cảm nghĩ
    của em về một đoạn
    văn khiến anh (chị)
    yêu thích, say mê
    nhất trong thiên tuỳ
    bút.
    (chị) về giá trị
    nhân đạo cảu tác
    phẩm.

    Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy: Hệ thống câu hỏi Hướng dẫn học bài và
    Luyện tập chủ yếu hướng tới nội dung kiến thức mà chưa chú ý đến việc đặt ra
    những tình huống có vấn đề để học sinh sáng tạo. Hệ thống câu hỏi, bài tập chưa
    đa dạng, cũng không có nhiều gợi mở cho học sinh. Do vậy, giáo viên rất vất vả để
    tổ chức hoạt động học cho Hs trong giờ học Đọc hiểu văn bản nhằm hướng tới
    mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất người học theo định hướng đổi mới
    giáo dục. Bên cạnh đó, ở nhiều bài học, các câu hỏi mang tính định hướng khái
    quát, trong khi để đọc hiểu văn bản cần đi sâu khai thác các chi tiết nghệ thuật,
    điều đó khiến HS không khỏi lúng túng khi GV chuyển giao nhiệm học tập. Ở một
    số bài học nội dung trong các câu hỏi không hoàn toàn trùng khớp với hệ thống
    kiến thức mà GV khai thác và thiết kế trong Kế hoạch bài học, bởi vậy HS dễ bị
    rối khi tiếp cận văn bản. Trước thực trạng đó, tôi cho rằng trước khi lên lớp, Gv
    cần có những hướng dẫn chuẩn bị bài cụ thể cho Hs, để thầy và trò phối hợp nhịp
    nhàng giải quyết nhiệm vụ học tập, tạo cho HS tâm thế chủ động khi tiếp cận văn
    bản. Chỉ có như vậy mới phát huy được sự tích cực và hợp tác của HS, đặc biệt là
    đối tượng HS trung bình, yếu kém.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Thời điểm và hình thức hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà.
    Việc giao nhiệm vụ học tập cho học sinh được thực hiện ở hai thời điểm: ở
    nhà và trên lớp. Đây là việc làm quan trọng, phải được thực hiện thường xuyên sau
    mỗi bài học. Để HS thực hiện tốt nhiệm vụ học tập trên lớp thì giao nhiệm vụ ở
    nhà đóng vai trò quyết định. Đối với việc giao nhiệm vụ học tập ở nhà: Bên cạnh
    việc yêu cầu học sinh soạn bài theo các câu hỏi SGK, giáo viên cần có thêm những
    câu hỏi hoặc giao nhiệm vụ cho từng cá nhân/nhóm. Nhiệm vụ được giao cần đa
    9
    dạng về hình thức, phù hợp với đặc trưng, nội dung và mục tiêu của mỗi bài học.
    Với việc giao nhiệm vụ cụ thể như vậy, học sinh sẽ phải đọc kỹ văn bản, nhớ nội
    dung chính, tìm hiểu các tư liệu trên mạng, hợp tác, trao đổi với nhau để hoàn
    thành nhiệm vụ. Qua đó phát huy được một số năng lực như: năng lực tự học, năng
    lực hợp tác, năng lực giao tiếp… đồng thời rèn luyện cho HS các năng lực đọc,
    viết, nói và nghe.
    Như chúng ta đã biết, kế hoạch bài dạy được thiết kế với 5 hoạt động: Khởi
    động – Hình thành kiến thức mới – Luyện tập – Vận dụng – Tìm tòi mở rộng, tuy
    nhiên hướng dẫn HS chuẩn bị bài là việc làm cần thiết và phải được dành một thời
    gian nhất định để thực hiện. Theo chúng tôi, việc làm này có thể thực hiện trực tiếp
    hoặc gián tiếp bằng việc chuyển giao những nhiệm vụ cụ thể để HS thực hiện ở
    nhà trước khi học bài mới (đọc hiểu văn bản).
    Giao nhiệm vụ trực tiếp trên lớp trong thời gian từ 3-5 phút sau khi hoàn
    thành bài học, hoặc giao nhiệm vụ gián tiếp trong nhóm Meesenger hoặc trên trang
    Facebook của lớp. Khi giao nhiệm vụ, GV cần có những chỉ dẫn cụ thể cho từng
    đối tượng HS. Các nhiệm vụ được giao cần gắn với Kế hoạch bài học đã được thiết
    kế, có nhiệm vụ cho cá nhân và nhiệm vụ cho nhóm học tập để các em cùng hợp
    tác thực hiện. Các nhiệm vụ được giao cũng phải phù hợp với từng đối tượng và
    năng lực của các em. Chẳng hạn, các em có năng khiếu văn nghệ có thể lập nhóm
    thực hiện Sân khấu hoá, diễn kịch, hát, ngâm thơ… Hs có khiếu hội hoạ thì giao
    cho vẽ tranh, Hs thành thạo công nghệ thông tin thì thiết kế video, powerpoint…
    Tuỳ vào từng bài học mà Gv linh hoạt trong hình thức giao nhiệm vụ bởi các
    nhiệm vụ được giao chuẩn bị ở nhà sẽ được chuyển hoá thành các hoạt động học
    tập trên lớp.
    2.2. Biện pháp hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
    2.2.1. Hướng dẫn HS đọc văn bản và đặt trong mối liên hệ với hoàn cảnh
    lịch sử, thời đại.
    Văn học là tấm gương phản ánh thời đại, để chiếm lĩnh một tác phẩm văn
    học, ngay từ khâu chuẩn bị bài, HS đọc văn bản phải xác định được văn bản tác
    phẩm thuộc giai đoạn, thời kỳ văn học nào. Trên cơ sở nắm vững kiến thức văn
    học sử về giai đoạn, thời kì văn học, HS bước đầu nhận diện được nội dung tư
    tưởng tác phẩm. Để làm được điều đó, khi dạy bài văn học sử khái quát về thời kì
    văn học tôi cố gắng dạy thật kĩ, nhấn mạnh vào sự chi phối của bối cảnh lịch sử,
    thời đại đối với sự vận động của văn học.
    Chẳng hạn, ở chương trình Ngữ văn lớp 10, khi dạy bài Khái quát văn học
    Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX cần phải cho HS thấy được ở giai đoạn thứ
    10
    nhất từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV văn học phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc
    biệt: dân tộc ta giành được quyền độc lập tự chủ, lập nhiều kì tích trong các cuộc
    kháng chiến chống xâm lược. Đó là bối cảnh tạo nên dòng tư tưởng yêu nước
    mang âm hưởng hào hùng. Khi đó, đọc các bài thơ thời Lí, Trần học sinh bước đầu
    nhận diện được tư tưởng yêu nước là nội dung chủ đạo của tác phẩm. Đến giai
    đoạn thứ hai, khi chế độ phong kiến có những biểu hiện khủng hoảng, đạo đức xã
    hội suy thoái, đó là lí do vì sao thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, văn xuôi Nguyễn Dữ lại
    mang cảm hứng thế sự, tác phẩm phản ánh bức tranh đời sống và tình trạng đạo
    đức xã hội…
    Từ sự định hướng ở trên, trước khi được GV hướng dẫn đọc hiểu văn bản
    trên lớp, HS đã có thể nắm được tinh thần của tác phẩm, đó là căn cứ để soi chiếu
    vào các chi tiết nghệ thuật trong văn bản. Như vậy việc đọc hiểu một văn bản
    không chỉ giúp HS nhìn cây, thấy lá mà còn thấy cả rừng cây.
    Với nội dung này, tôi hình thành một số câu hỏi, nhiệm vụ sau đây để Hs
    thực hiện ở nhà khi tìm hiểu về tác phẩm.
    – Theo em, yếu tố nào trong bối cảnh lịch sử, thời đại đã khơi nguồn cảm
    hứng sáng tác của nhà văn? (Hs làm việc cá nhân)
    – Dấu ấn của con người, thời đại chi phối như thế nào đến hình tượng nghệ
    thuật? (Hs làm việc cá nhân)
    – Sưu tầm hình ảnh, phim tư liệu, làm video giới thiệu về hoàn cảnh lịch sử,
    thời đại. (Hs làm việc nhóm)
    2.2.2. Hướng dẫn HS tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác của văn bản tác phẩm.
    Có một thực tế là khi chuẩn bị bài HS thường chỉ đọc văn bản tác phẩm,
    đoạn trích và trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài, ít khi các em đọc
    phần tiểu dẫn, việc chuẩn bị bài mang tính hình thức, thậm chí là chống đối. Trong
    khi đó, phần tiểu dẫn lại có rất nhiều thông tin quan trọng là căn cứ để hiểu tác
    phẩm. Vì vậy, khi hướng dẫn HS chuẩn bị bài tôi luôn yêu cầu các em đọc kĩ phần
    này. Trong giờ dạy đọc hiểu văn bản nhất thiết phải kiểm tra việc nắm bắt những
    thông tin đó của Hs bằng các câu hỏi ngắn. Ví dụ như: Hoàn cảnh sáng tác giúp
    em hiểu được gì về hình tượng/ nội dung của tác phẩm. Ngoài ra, có thể giao
    nhiệm vụ Hs viết bài thuyết minh ngắn về tác phẩm, như vậy Gv có thể biết được
    các em chuẩn bị bài đến đâu, đã hiểu được gì về tác phẩm. Những việc làm nói trên
    giúp các em rèn luyện kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, đặc biệt khi tạo lập văn bản
    nghị luận văn học, những kiến thức đó là yêu cầu bắt buộc HS phải đưa vào bài
    làm.
    Ví dụ, khi chuẩn bị bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngoài việc đặt tác phẩm
    trong bối cảnh lịch sử thời đại để thấy được nội dung yêu nước mang âm hưởng bi
    tráng là tư tưởng chủ đạo của tác phẩm, Hs dựa vào hoàn cảnh sáng tác để hiểu
    11
    được hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm. Đó không phải là hình
    tượng hư cấu mà là những người nông dân có thật, từ đồng ruộng xông thẳng vào
    đồn giặc và đi vào trang văn Nguyễn Đình Chiểu hết sức chân thực. Phẩm chất,
    tính cách của họ mang đậm chất Nam Bộ, yêu ghét rõ ràng, bộc trực thẳng thắn,
    đầy nghĩa khí…
    Khi chuẩn bị bài Chiếc thuyền ngoài xa, Một người Hà Nội, bước đầu HS có
    thể thấy được tác phẩm ra đời những năm 80, đất nước trở lại hòa bình, cuộc sống
    xã hội có nhiều thay đổi nên văn học cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ từ đề
    tài, cảm hứng đến cách tiếp cận con người và hiện thực đời sống… Hai tác phẩm là
    minh chứng cho cuộc chuyển mình đó của văn học. Tương tự như thế, khi hướng
    dẫn HS chuẩn bị đoạn trích kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt tôi đã định hướng
    cho HS đặt tác phẩm trong mối liên hệ với hoàn cảnh sáng tác. Qua quá trình tìm
    hiểu đọc văn bản trong sách giáo khoa và tư liệu tham khảo HS có thể thấy được
    tác phẩm được viết năm 1981 và ra mắt công chúng năm 1984, trong những năm
    80 của thế kỉ XX công cuộc đổi mới đất nước đã làm thay đổi thay đổi đời sống xã
    hội và đời sống văn học. Ngọn gió của không khí đổi mới tư duy và ý thức dân chủ
    trong xã hội đã ùa vào văn học. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khám
    phá, thể hiện đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Văn học phải tham gia trực tiếp vào cuộc
    đối thoại trong bầu không khí dân chủ với công chúng về những vấn đề nóng bỏng
    của đời sống. Đấu tranh chống tiêu cực trở thành cảm hứng nhiệt thành của khá
    nhiều cây bút. Không khí đổi mới đất nước đã tạo điều kiện thuận lợi để phát huy
    tài năng sáng tạo của Lưu Quang Vũ. Khát vọng về cái đẹp, cái thiện, khát vọng về
    sự hoàn thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân vừa là nhiệt hứng sáng
    tạo của Lưu Quang Vũ. Lúc ấy viết kịch với Lưu Quang Vũ chính là sự tham dự,
    góp phần vào công cuộc đổi mới nhanh nhạy và có hiệu quả.
    Như vậy, khi chuẩn bị bài việc tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác một khâu không
    thể bỏ qua trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm, bởi đó là một trong những cơ sở
    giúp HS hiểu tác phẩm đó.
    Với nội dung này, tôi hình thành một số câu hỏi, nhiệm vụ sau đây để Hs
    thực hiện ở nhà:
    – Hãy xác định thời điểm và hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm? (Hs làm
    việc cá nhân)
    – Hoàn cảnh ra đời tác phẩm chi phối như thế nào đến hình tượng nghệ
    thuật? (Hs làm việc cá nhân)
    2.2.3. Hướng dẫn Hs tìm hiểu tiểu sử nhà văn với các yếu tố chi phối
    văn bản tác phẩm
    12
    Về các nhà văn, nhà thơ, nhất là các tác giả lớn có rất nhiều tư liệu về cuộc
    đời và sự nghiệp văn học. Nội dung này thường được tóm tắt trong sách giáo khoa,
    đây là một trong những cơ sở quan trọng để hiểu tác phẩm. Ngay từ khâu chuẩn bị
    bài, tôi yêu cầu HS phải nắm được những nét chính về tiểu sử tác giả, nhận định về
    vị trí của tác giả trong nền văn học, phong cách nghệ thuật. Có thể giao nhiệm vụ
    Hs viết bài thuyết trình ngắn về tác giả để trình bày trước lớp. Cũng có thể kiểm tra
    việc chuẩn bị bài này bằng những câu hỏi ngắn: Sau khi đọc phần tiểu dẫn, em có
    ấn tượng gì về tác giả? hoặc Từ những thông tin trong phần tiểu dẫn, em hãy nêu
    nhận định của bản thân về tác giả? Những câu hỏi này nhắm giúp HS biết chọn
    lọc thông tin, phân tích lí giải, đồng thời còn đưa ra những quan điểm, đánh giá của
    bản thân về tác giả.
    Ví dụ, ở bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Hs cần lưu ý thông tin sau: Thuở
    nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, vậy nên
    thế giới nghệ thuật trong tác phẩm in đậm dấu ấn tuổi thơ của nhà văn. Hai đứa trẻ
    gắn với một kỉ niệm tuổi thơ của nhà văn thuở thiếu thời: Ngày ấy cha Thạch Lam
    bị mất việc, mẹ phải đưa các con từ Hà nội về quê ngoại thuê một gian ở gần ga
    bán hàng tạp hóa để sinh sống. Vì bận làm hàng xáo, mẹ giao cho hai chị em
    Thạch Lam (cô chị mới tám tuổi còn cậu em thì lên sáu) trông coi cửa hàng.
    Đường sắt đi ngay trước mặt phố huyện nên đêm nào hai chị em cũng cố thức đợi
    chuyến tàu từ Hà nội xuống rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ. Sau này, trong một hồi
    kí về gia đình, bà Nguyễn Thị Thế (chị của Thạch Lam) đã nhiều lần nhắc đến kỉ
    niệm này. Hai đứa trẻ tuy không phải là tự truyện nhưng với những cảm giác ngọt
    ngào được sống lại tuổi thơ, gần như đã dựng lại trung thành kỉ niệm ấy của nhà
    văn.
    Với bài thơ Tây Tiến, cảm hứng thơ lại bắt nguồn từ nỗi nhớ của nhà thơ về
    một thời binh lửa, đó là lí do vì sao mỗi đoạn thơ là một kỉ niệm về đồng chí, đồng
    đội và núi rừng miền Tây.
    Bên cạnh đó, để có thể xác định được điểm độc đáo trong cá tính cũng như
    phong cách nghệ thuật của nhà văn thì việc tham khảo các giai thoại về cuộc đời,
    sự nghiệp của nhà văn là cần thiết, giúp ta có cái nhìn toàn diện, thậm chí có thể lí
    giải những chi tiết, tư tưởng, quan điểm nào đó trong tác phẩm.
    Ví dụ muốn lí giải những bài thơ, những câu thơ chứa nhiều tâm tư của
    Nguyễn Trãi như “Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi” thì nên tìm đến giai thoại
    “Những câu chuyện về nhân cách và tài năng của Nguyễn Trãi” phần “Nguyễn
    Trãi – tướng đánh tâm công” kể về chuyện giữa Nguyễn Trãi với Lê Sát, Lê Vấn,
    Thúc Huệ đời Lê Thái Tông… Những chi tiết về xuất thân, cuộc đời của nhà văn
    Nam Cao là cơ sở để hiểu về cảnh ngộ, số phận của nhân vật trong tác phẩm của
    13
    ông. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, giới thiệu Hs đọc cuốn “Hồ Xuân Hương thơ và
    đời” để hiểu vì sao trong thơ bà luôn ẩn chứa nỗi niềm xót xa cho thân phận người
    phụ nữ, bởi cuộc đời bà hai lần lấy chồng đều làm lẽ, đoạn tuyệt với Tổng Cóc, rồi
    nên duyên với ông phủ Vĩnh Tường, chẳng bao lâu, ông mất, Hồ Xuân Hương cô
    độc giữa cuộc đời.
    Tuy nhiên, khi tham khảo các tài liệu về cuộc đời và sự ngiệp của nhà văn,
    giáo viên cũng cần lưu ý HS tránh việc máy móc, lấy chi tiết trong cuộc đời nhà
    văn để lí giải và gắn nghĩa cho tác phẩm, làm mất đi giá trị nghệ thuật của tác
    phẩm.
    Với nội dung này, tôi hình thành một số câu hỏi, nhiệm vụ sau đây để Hs
    thực hiện ở nhà:
    – Theo em, yếu tố nào trong cuộc đời, con người tác giả làm nên thành công
    của tác phẩm? (Hs làm việc cá nhân)
    – Sưu tầm tranh ảnh, phim tư liệu, làm video giới thiệu về tác giả. (HS làm
    việc nhóm)
    2.2.4. Hướng dẫn Hs bước đầu tiếp cận văn bản bằng phiếu học tập.
    Việc sử dụng phiếu học tập (PHT) trong dạy học Ngữ văn đã phát huy được
    vai trò chủ thể của HS trong hoạt động học, đặt ra những tình huống có vấn đề, gợi
    mở dẫn dắt định hướng HS giải quyết các nhiệm vụ học tập. Có một thực tế là khi
    chuẩn bị bài đọc hiểu văn bản văn học, hệ thống các câu hỏi hướng dẫn học bài
    trong sách giáo khoa không hoàn toàn trùng khớp với những câu hỏi, nhiệm vụ mà
    GV yêu cầu HS thực hiện trên lớp. Vì thế, khi hướng dẫn HS chuẩn bị bài đọc hiểu
    văn bản, tôi chủ động thiết kế PHT với các câu hỏi bám sát chuẩn kiến thức – kĩ
    năng, theo tiến trình trong Kế hoạch bài học, đưa ra những yêu cầu cụ thể với các
    cấp độ tư duy: nhận biết – thông hiểu – vận dụng để HS thực hiện trước ở nhà.
    Như vậy, quá trình dạy và học của GV và HS sẽ thuận lợi, hiệu quả.
    Giao nhiệm vụ bằng PHT ở nhà gắn với hoạt động trên lớp, nên việc thiết kế
    PHT cần phù hợp với nội dung và mục tiêu của từng bài học. Theo tôi, để hướng
    dẫn HS chuẩn bị bài, chỉ nên sử dụng 1-3 PHT, gắn với kiến thức trọng tâm bài
    học, nếu sử dụng quá nhiều sẽ gây cảm giác nhàm chán, nặng nề, giảm hứng thú
    cho HS. Từ ý tưởng xây dựng Kế hoạch bài học được cụ thể hoá thành các câu hỏi,
    nhiệm vụ trong PHT. Từ đó thiết kế bộ phiếu sao cho thích hợp nhất về mặt nội
    dung, lôgic, cấu trúc và hình thức. Bên cạnh đó, việc giao nhiệm vụ cần phải linh
    hoạt gắn với những đối tượng khác nhau: cá nhân, cặp đôi, nhóm theo bàn hoặc
    nhóm theo tổ. Tùy theo mức độ khó của nhiệm vụ mà giao cho đối tượng HS phù
    hợp. Nếu chỉ yêu cầu nhận biết có thể giao cho HS yếu, thêm yêu cầu thông hiểu
    14
    thì giao cho đối tượng HS trung bình, khá; yêu cầu vận dụng giao cho Hs khá, giỏi
    để đảm bào các em làm việc vừa sức, hiệu quả. Nếu giao cho nhóm làm việc, HS
    yếu, trung bình cần có sự hỗ trợ của các bạn khá, giỏi và giáo viên. Để thực hiện
    được nhiệm vụ này ở nhà, đòi hỏi HS phải đọc kĩ văn bản, tìm tòi các tư liệu, đọc
    và ghi chép tích lũy, biết phối hợp với nhau khi thực hiện. Với sự hỗ trợ của công
    nghệ thông tin, GV có thể nhắc nhở và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ ở nhà của
    các em, giúp đỡ kịp thời những khó khăn của HS. Mặt khác, Hs cũng có thể trao
    đổi hợp tác với nhau để hoàn thành PHT trước khi học bài mới.
    Trong hoạt động hình thành kiến thức mới trên lớp, GV chuyển hoá những
    yêu cầu trong PHT thành các hoạt động học tập cụ thể, tổ chức, hướng dẫn HS
    thực hiện nhiệm vụ học tập bằng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
    Cuối cùng, GV đóng vai trò chủ đạo trong việc chuẩn xác kiến thức để các em
    hoàn thiện phiếu học tập. Như vậy, chuẩn bị bài bằng phiếu học tập sẽ phát huy
    được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong việc chiếm lĩnh văn bản văn
    học, đồng thời rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu, hình thành các kĩ năng
    Đọc – Viết – Nói – Nghe.
    Dưới đây là PHT bài Tấm Cám mà tôi đã thiết kế giao nhiệm vụ cho HS
    thực hiện dựa vào các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài SGK:
    1. Phân tích diễn biến của truyện để thấy mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con
    Cám đã diễn ra như thế nào (lưu ý các đoạn về cái yếm đỏ, con bống, thử giày, cái
    chết của Tấm, chim vàng anh, chiếc khung cửi)?
    2. Phân tích từng hình thức biến hoá của Tấm. Qua quá trình biến hoá của
    Tấm nói lên ý nghĩa gì?
    3. Anh (chị) suy nghĩ gì về hành động trả thù của Tấm đối với Cám?
    4. Bản chất của mâu thuẫn và xung đột trong truyện (Tấm và mẹ con Cám
    đại diện cho các lực lượng đối lập nào, trong gia đình hay ngoài xã hội?)
    Từ định hướng ở trên, tôi đã cụ thể hoá thành các câu hỏi, nhiệm vụ trong
    PHT, mỗi nhiệm vụ gắn với một đơn vị kiến thức trọng tâm của Kế hoạch bài học.
    Việc biên soạn PHT như dưới đây sẽ giúp HS nắm vững cốt truyện, xác định được
    các chi tiết, sự việc tiêu biểu, các yếu tố thần kì là đặc trưng của truyện cổ tích.
    Hình thức sinh động của PHT cũng khơi gợi hứng thú cho các em khi tiếp cận văn
    bản.
    15
    PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
    Bài: Tấm Cám
    Họ và tên…………………….
    Nhiệm vụ ở nhà: Đọc và tóm tắt truyện Tấm Cám. (HS làm việc cá nhân)
    1. Em hãy tóm tắt truyện Tấm Cám bằng đoạn văn khoảng 150 chữ.
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    2. Dựa vào văn bản tóm tắt, hãy sắp xếp lại thứ tự các bức tranh theo cốt truyện.
    16
    PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
    Bài: Tấm Cám
    Họ và tên…………………………….. Nhóm 1
    Nhiệm vụ ở nhà: Phân tích mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám. (HS làm việc
    nhóm)
    1. Những chi tiết, sự việc nào cho thấy mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám
    trước khi Tấm trở thành Hoàng hậu? Ý nghĩa của các chi tiết, sự việc đó là
    gì?
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    2. Khi trở thành Hoàng hậu, Tấm bị mẹ con Cám hãm hại như thế nào? Từ
    đó phân tích bản chất của mâu thuẫn và xung đột trong truyện Tấm Cám?
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………..
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………..
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    17
    PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3
    Bài: Tấm Cám
    Họ và tên……………………. Nhóm 2
    Nhiệm vụ ở nhà: Tìm hiểu hình tượng nhân vật Tấm (HS làm việc nhóm).
    1. Quãng đời thứ
    nhất của Tấm
    1.3. Tấm phản ứng như
    thế nào sau mỗi lần bị
    mẹ con Cám hãm hại?
    ………………………………..
    ………………………………..
    ………………………………..
    ………………………………..
    ………………………. 1.4. Tấm đã đổi đời ra
    sao?
    ……………………………….
    ……………………………….
    ……………………………….
    ……………………………….
    …………………………….
    1.5. Sự thay đổi số
    phận của Tấm có ý
    nghĩa như thế nào?
    ……………………………..
    ……………………………..
    ……………………………..
    ……………………………..
    …………………….
    1.6. Qua chặng đời
    thứ nhất của Tấm tác
    giả dân gian gửi gắm
    thông điệp gì?
    ……………………………….
    ……………………………….
    ……………………………….
    ……………………………….
    ……….
    1.1. Hoàn cảnh, thân
    phận của Tấm như thế
    nào?
    ………………………………..
    ………………………………..
    ………………………………..
    ………………………………..
    …………………………….
    1.2. Tấm có những
    phẩm chất gì?
    …………………………………
    …………………………………
    …………………………………
    …………………………………
    …………………………………
    ………………..
    18
    2. Quãng đời thứ 2 của nhân vật Tấm
    2.1. Quá trình hoá thân của Tấm diễn ra như thế nào?
    2.3. Quá trình hoá thân của Tấm cho thấy sự thay đổi tính cách như thế nào?
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    2.4. Tác giả dân gian gửi gắm thông điệp gì từ quá trình đấu tranh của nhân vật Tấm?
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    2.5. Anh /chị suy nghĩ như thế nào về kết thúc của tác phẩm?
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    …..
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    …..
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    …..
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    ………………………………………………………………
    …..
    19
    2.2.5. Hướng dẫn HS vẽ tranh minh họa theo văn bản tác phẩm.
    Theo báo Văn nghệ số ra ngày 30/12/2019, tác giả Thân Thúy Hà trong bài
    viết Mỹ Thuật hoá tác phẩm Văn học – hiệu ứng tích cực trong dạy học bộ môn
    Ngữ Văn cho rằng: “Vẽ tranh minh hoạ được xem là một phương tiện hỗ trợ cho
    quá trình tiếp nhận văn bản ở học sinh. Thông qua những ưu điểm cụ thể như, có
    thể giúp diễn đạt một nội dung trừu tượng của văn bản hay giúp học sinh phát
    triển trí tưởng tượng khi tiếp nhận những thông điệp mà văn bản đề cập đến, từ
    đó có thể tạo ra một mối liên hệ đặc biệt – mối liên hệ cảm xúc – giữa văn bản
    với học sinh. Chưa kể, đối với những văn bản mang tính thời sự, những hình ảnh
    “đời thường” với sự xuất hiện của nhân vật còn có tác dụng “phản chiếu” ở chính
    mỗi học sinh, giúp các em tìm thấy một phần của chính mình”.
    Vẽ tranh minh họa theo văn bản tác phẩm là một nhiệm vụ gợi nhiều hứng
    thú cho học sinh. Để làm được điều này, yêu cầu các em phải đọc kĩ văn bản, có óc
    tưởng tượng và khiếu hội họa, Gv có thể giao việc nhóm hoặc cá nhân – mỗi HS là
    một họa sĩ, gợi ý các em cách chọn bối cảnh, nhân vật, màu sắc… dựa vào miêu tả
    của nhà văn, nhà thơ. Có rất nhiều văn bản văn học trong chương trình HS có thể
    minh họa thành tranh vẽ. Ở lớp 12, khi dạy bài Tây Tiến HS có thể vẽ bức tranh
    núi rừng miền Tây và đoàn quân Tây Tiến theo trí tưởng tượng của mình, hoặc bài
    Người lái đò Sông Đà, vẽ bức tranh thác đá Sông Đà và hình ảnh con đò vượt thác,
    hoặc bức tranh sông Hương theo thủy trình, minh họa cảnh người đàn bà hàng chài
    quỳ lạy thằng bé Phác trên bãi biển chắc chắn sẽ là bức tranh gợi niềm xúc động,
    trắc ẩn cho HS… Ở lớp 11, có thể vẽ bức tranh trong bài Câu cá mùa thu, vẽ lại
    cảnh chị em Liên chờ tàu, hoặc cảnh cho chữ… Lớp 10, phần thơ trung đại có thể
    2.6. Từ các chi tiết, sự việc trong tác phẩm, hãy làm rõ các đặc trưng của
    truyện cổ tích thần kì?
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………
    20
    vận dụng cho bài Thuật hoài (Tỏ lòng) bằng bức tranh người tráng sĩ và quân đội
    nhà Trần, hoặc tranh cảnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi, vẽ cảnh Thúy Kiều trao
    duyên cho Thúy Vân… Cũng theo bài báo trên, người viết còn cho rằng việc vẽ
    tranh minh họa đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong dạy học Ngữ văn: “Phát
    huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo ở học sinh; Bồi dưỡng phương pháp
    tự học; Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến tình
    cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Bốn định hướng này có liên
    quan chặt chẽ, trong đó định hướng đầu tiên là căn bản. Để học sinh lĩnh hội được
    tri thức một cách tốt nhất cần hướng học sinh vào “hoạt động tích cực”.
    HS lớp 11A2 (Trường THPT Nam Trực) báo cáo kết quả vẽ tranh minh họa bài
    Câu cá mùa thu.
    Tranh minh họa
    bài Chữ Người Tử
    tù (HS lớp 11A8 –
    Trường THPT
    Trần Hưng Đạo
    thực hiện)
    21
    2.2.6. Sân khấu hóa văn bản tác phẩm.
    Sân khấu hóa tác phẩm văn học là một trong nhiệm vụ khơi gợi nhiều hứng
    thú cho HS, thực tế những năm gần đây hoạt động này diễn ra phổ biến trong các
    trường học. Tuy nhiên, tôi nhận thấy phần lớn hoạt động sân khấu hóa thường
    được tổ chức trong các hoạt động ngoại khóa của nhà trường hoặc chuyên đề của
    bộ môn, tiết mục biểu diễn trên sân khấu lớn, kịch bản thường chuyển thể gần như
    trọn vẹn tác phẩm, thời gian một tiết mục tương đối dài. Ở đây tôi vận dụng hình
    thức sân khấu hóa với quy mô nhỏ, lồng ghép ngay trong tiết học trên lớp. Như thế
    việc sân khấu hóa sẽ được thực hiện thường xuyên hơn, góp phần quan trọng trong
    việc hình thành các năng lực tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo… Để làm được điều
    này GV phải đóng vai trò chủ đạo trong việc chuyển giao nhiệm vụ giao cho HS,
    tôi thực hiện các bước như sau:
    Bước 1: Từ nội dung chương trình, giáo viên lựa chọn bài dạy có thể vận
    dụng hình thức sân khấu hóa hiệu quả. Hình thức sân khấu ấy phải gắn liền với
    mục tiêu, kế hoạch dạy học. Ở bước này, giáo viên có thể bằng năng lực và sự trải
    nghiệm của bản thân để quyết định hình thức, và phạm vi (thời gian biểu diễn và
    dung lượng văn bản) sân khấu hóa từng bài dạy. Để phù hợp với thời gian hoạt
    động trên lớp, có thể chọn một phần văn bản để chuyển thể thành kịch bản sân
    khấu. Giáo viên có thể phát huy sự chủ động, sáng tạo của chính các em khi giao
    quyền lựa chọn hình thức biễu diễn và dung lượng tác phẩm để dàn dựng. Các em
    được lựa chọn, sáng tạo trang phục và đạo cụ phù hợp.
    Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh (hoạt động theo
    nhóm), sau đó tư vấn, hướng dẫn học sinh lựa chọn hình thức sân khấu hóa và
    dung lượng một cách phù hợp.
    Bước 3: Học sinh nghiên cứu bài học, xây dựng ý tưởng cách thức thực hiện
    và trao đổi với giáo viên về những khó khăn trong quá trình thực hiện. Giáo viên
    sửa chữa, góp ý, hướng dẫn học sinh tìm tòi và bổ sung ý tưởng.
    Bước 4: Học sinh hoàn thành ý tưởng đã thống nhất, dựng kịch bản, chọn
    vai diễn và tập luyện.
    Khi thực hiện trên lớp, có thể chọn 1 tiết mục gắn với đơn vị kiến thức được
    hình thành, những tiết mục khác (nếu có) biểu diễn vào sinh hoạt chuyên đề của tổ
    nhóm chuyên môn hoặc tiết học ngoại khóa.
    22
    HS lớp 10A7 (Trường THPT Lí Tự Trọng) sân khấu hoá văn bản Tấm Cám.
    2.2.7. Sưu tầm ý kiến của chuyên gia, nhà phê bình nhận xét, đánh giá về
    tác giả, văn bản văn học.
    Đây là nhiệm vụ giúp HS thu thập kinh nghiệm, kế thừa kết quả nghiên cứu
    của người đi trước. Những ý kiến đó nếu được lựa chọn khéo léo, phù hợp sẽ giúp
    các em chủ động khám phá các giá trị của văn bản văn học một cách có định
    hướng, có trọng tâm. Tham khảo nhiều ý kiến đánh giá có thể giúp HS thêm ý
    tưởng, phát hiện và đánh giá giá trị tác phẩm một cách sâu sắc. Tuy nhiên, ý kiến
    đánh giá, nhận xét thương rất phong phú và đa dạng nên ngay khi giao nhiệm vụ,
    GV cần định hướng cho Hs tìm ý kiến của ai, trong tài liệu nào, trong sách hay trên
    trang Web nào… Với một chiếc điện thoại thông minh, HS có thể tìm kiếm dễ
    dàng nên sự định hướng này là cần thiết, để HS phát huy tính tích cực, chủ động
    nhưng GV vẫn đóng vai trò chủ đạo dẫn dắt các em. Cần lưu ý HS lựa chọn tham
    khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu có uy tín, có thể có những ý kiến trái chiều,
    không đồng quan điểm để nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ, rèn luyện tư duy phản
    biện. Tuy nhiên dù là ý kiến thuận chiều hay trái chiều cũng cần lưu ý HS bám sát
    văn bản, phân tích từ ngữ liệu của văn bản. Những ý kiến đánh giá nêu được cái
    hay, cái đẹp, sự độc đáo của văn bản tác động đến nhu cầu tìm tòi khám phá của
    HS về văn bản, khơi dậy trí tò mò, ham hiểu biết, thôi thúc HS tìm hiểu văn bản.
    Đọc tham khảo giúp các em có cái nhìn nhiều chiều về văn bản, đồng thời biết trao
    đổi phản biện với các ý kiến đó để rèn kĩ năng tổng hợp nhận định, phản biện…
    Thực hiện nhiệm vụ này sẽ hình thành và rèn luyện kĩ năng tra cứu, sưu tầm thông
    tin, chọn lọc và sử dụng thông tin, kinh nghiệm sẵn có bổ trợ cho quá trình học tập
    và nghiên cứu. Trong giờ đọc văn GV có thể sử dụng linh hoạt nguồn tư liệu, ý
    kiến mà các em thu thập được: bình một câu thơ hay, một chi tiết đặc sắc trong văn
    bản, đánh giá về một hình tượng… thay vì lời bình của Gv, có thể cho HS nêu ý
    kiến, nhận định. Mặt khác, các ý kiến thu thập được còn là cơ sở lí luận vững chắc
    để các em nghị luận về các vấn đề đặt ra từ văn bản văn học, đưa các ý kiến vào
    bài văn nghị luận sẽ tăng sức thuyết phục cho lí lẽ bàn luận và chiều sâu cho bài
    23
    văn. Dưới đây là một số nhận định về tác giả và tác phẩm mà tôi đã hướng dẫn HS
    tìm đọc và sưu tầm.
    Nhận định về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ “Nhàn”
    Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong một bài phân tích cụ thể về phong cách
    thơ ca của Nguyễn Bỉnh Khiêm đăng trên Tạp chí Sông Hương (số 35, T.1&2-
    1989) đã nhận định:
    “…Ông là một ẩn sĩ nhưng không phải một ẩn sĩ Ấn Độ chạy vào núi sống
    để thờ thần linh, không phải một ẩn sĩ Trung Quốc quay lưng với chính trị, tự thổi
    phồng mình, tự tôn thờ mình. Thơ ông chẳng có gì là huênh hoang của thơ triết lý
    Trung Quốc. Ông quay về sống trong vòng tay của làng mạc họ hàng, dạy học trò,
    bình dị, khiêm tốn, như cha ông chúng ta… “
    “Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải loại thơ đọc để nhìn, để nghe.
    Ông là con người duy nhất của văn học ta chủ trương một đường lối nghệ thuật
    riêng: nghệ thuật là để giúp con người tìm lại được chính mình, chân thành với
    mình và với xã hội.”
    PGS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học) đã đánh giá: “Nguyễn Bỉnh Khiêm
    vẫn hiện diện như một nhân cách lịch sử chói sáng, một cây đại thụ văn hoá chính
    bởi sự kết tinh vốn kiến thức sâu rộng trên cơ sở một tấm lòng chính trực, gắn bó
    sâu sắc với cội nguồn văn hoá dân tộc. Ông là hiện thân của mĩ học phong kiến cả
    trên phương diện nhân văn lẫn mặt hạn chế của nó”
    Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn
    Đạt phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn
    Bỉnh Khiêm: “không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà
    có nhiều ý vị… như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy”.
    Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch
    chí nhận xét về thơ văn Trạng Trình: “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý
    thú tự nhiên”.
    “Bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm,
    trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm
    về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả
    một xã hội phong kiến trên con đường suy vong thối nát”
    Nhận định về tác giả Nguyễn Trãi
    Ở thế kỷ XX, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: “Nguyễn Trãi, người
    anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu
    dân, nội trị ngoại giao “mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu”; võ
    là quân sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh ít địch nhiều… thắng hung
    tàn bằng đại nghĩa”; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm
    24
    đao… Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta.”
    Lê Thánh Tông trong bài “Quân minh thần lương” của tập thơ “Quỳnh uyển
    cửu ca”) có câu: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (Tâm hồn Úc Trai trong
    sáng như sao Khuê buổi sớm).
    Nhận định về tác giả Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng.
    Về bài thơ Sóng:
    “Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm
    đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong
    tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở”. (GS.TS Trần Đăng
    Suyền).
    “Ở mỗi tập thơ của Xuân Quỳnh, những bài viết của tình yêu thường để lại
    nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu hết sức thơ hết sức tự nhiên, bài Sóng thể
    hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những
    gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng
    hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ xa”. (Nhà thơ Việt Nam hiện đại, G.S
    Phong Lê chủ biên, Viện Văn học, Nxb KHXH, 1984, tr.495).
    “Sóng là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách của
    Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, trên cơ sở sự tương đồng, hòa hợp giữ sóng và
    em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy,
    muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Bài thơ cho
    thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người”.
    (Ngữ văn 12-Chương trình Chuẩn)
    “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân
    trong nắng nôi dông bão của cuộc đời … Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương
    tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và
    biến hóa khôn cùng của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn
    báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình
    yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở
    lại, chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ,
    thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ
    dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và
    đại ngàn tối sẫm…” (Chu Văn Sơn)
    “Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất
    thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị quanh
    co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một
    tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị.
    Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh”. (Võ Văn Trực).
    2.2.8. Tiếp cận toàn bộ văn bản tác phẩm qua các loại hình nghệ thuật
    khác như phim ảnh, kịch
    Thông thường, các tác phẩm được chọn đưa chương trình SGK đều là những
    25
    tác phẩm nổi tiếng, thường được chuyển thể sang các loại hình nghệ thuật khác.
    Nhiều tác phẩm văn học Nga, phương Tây đều được chuyển thể và trở thành
    những tác phẩm điện ảnh, những vở kịch nổi tiếng. Văn học Việt Vam với các tác
    phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh
    kinh điển Làng Vũ Đại ngày ấy. Tương tự phim Chị Dậu chuyển thể từ tiểu thuyết
    Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Sau này phim Trò đời được chuyển thể từ Số đỏ và một
    số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Chuẩn bị bài Hạnh phúc một tang gia cũng nên
    tiếp cận toàn bộ tác phẩm từ góc nhìn điện ảnh. Vợ chồng A Phủ cũng được
    chuyển thể thành bộ phim cùng tên rất đặc sắc, trong đó tác phẩm điện ảnh khai
    thác chủ yếu phần hai của văn bản tác phẩm, tái hiện sự đổi đời của Mị và A Phủ
    và cuộc đấu tranh giải phóng quê hương, đó là ý đồ của nhà làm phim song cũng
    giúp cho HS nắm được cốt truyện phần hai của văn bản. Đồng thời, giúp HS hiểu
    rõ hơn sự đổi mới trong quá trình phản ánh hiện thực của nhà văn: không chỉ phản
    ánh hiện thực mà còn đưa ra giải pháp cải tạo hiện thực, nét mới của tư tưởng nhân
    đạo trong văn học Cách mạng cũng là ở đó. Ngoài phim ảnh, kịch cũng là loại hình
    nghệ thuật sân khấu quen thuộc với HS bởi chương trình ở bậc học nào cũng có
    văn bản kịch. Hai vở kịch Vũ Như Tô Và Hồn Trương Ba, da Hàng thịt được dàn
    dựng công phu và quy mô trong thời gian gần đây, Hs xem trọn vẹn sẽ rất bổ ích.
    Nhiệm vụ này tuy chỉ áp dụng cho số ít bài đọc văn trong chương trình, song
    lại là gia vị tăng thêm rất nhiều hứng thú cho HS. GV với vai trò là người chủ đạo
    phải giới thiệu bộ phim hoặc vở kịch, trang Web để Hs tìm kiếm. Trong giờ học,
    có thể chiếu một đoạn ngắn gắn với sự việc, tình huống đặc sắc trong văn bản tác
    phẩm. Tuy nhiên, do đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật, nội dung tác phẩm và
    ý đồ nghệ thuật có thể không hoàn toàn trùng khớp, vì vậy dù tham khảo tác phẩm
    nghệ thuật nào thì cũng không thể thay thế việc đọc văn bản và bám sát vào văn
    bản ngôn từ. Dưới đây là một số địa chỉ trang Web mà tôi đã giới thiệu cho HS.
    – Phim trò đời: https://www.vtvgiaitri.vn/video/tro-doi-tap-1-110-1513
    – Nhà hát truyền hình Vũ Như Tô
    https://www.youtube.com/watch?v=BrSaXvm5KhA
    – Phim truyện Việt Nam đặc sắc: Vợ chồng A Phủ
    https://www.youtube.com/watch?v=ZwZAbxWS6sY
    – Kịch: Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt – Nhà hát Kịch Việt Nam
    https://www.youtube.com/watch?v=K8OqodZA9F0
    – Làng Vũ Đại Ngày Ấy Full | Phim Việt Nam Cũ Hay
    https://www.youtube.com/watch?v=TGRF5NMI_Zc
    III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
    1. Hiệu quả về mặt xã hội
    26
    – Năm học 2019-2020, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm tại trường THPT
    Nam Trực: lớp thực nghiệm là 12A9, lớp đối chứng là 12A6.
    – Năm học 2020-2021, sau khi đạt được hiệu quả bước đầu chúng tôi tiếp tục
    áp dụng sáng kiến vào các lớp giảng dạy là 12A11, 11A2, 10A4 tại trường THPT
    Nam Trực.
    Được sự tín nhiệm của đồng nghiệp, sáng kiến đã được áp dụng ở một số
    trường THPT trong và ngoài tỉnh:
    – Trường THPT Trần Hưng Đạo: Lớp 10A11, 11A8.
    – Trường THPT Lí Tự Trọng: Lớp 12A3, 10A7.
    – Trường THPT Đoàn Văn Cừ, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương: Lớp
    10A1, 12D1.
    Nội dung và cách thức thực nghiệm.
    * Nội dung thực nghiệm
    Để đạt được mục đích thực nghiệm, chúng tôi tiến hành áp dụng các biện
    pháp đã đề xuất vào hai bài dạy cụ thể trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Đó là
    bài: Tấm Cám và Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Ở mỗi
    bài học, chúng tôi đã giao cho Hs các nhiệm vụ cụ thể khi chuẩn bị bài, ngoài PHT,
    Hs sưu tầm tranh, ảnh, làm video, vẽ tranh…
    * Cách thức thực nghiệm
    Hướng dẫn HS chuẩn bài bằng những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể, chú trọng
    vào các bài đọc hiểu văn bản chúng tôi đã tiến hành như sau:
    – Bước 1: Hình thành ý tưởng, xây dựng Kế hoạch bài dạy, định hướng
    nhiệm vụ cho HS.
    – Bước 2: Biên soạn hệ thống câu hỏi/ nhiệm vụ tương ứng với mục tiêu, nội
    dung kiến thức từng phần trong Kế hoạch bài học.
    – Bước 3: Giao nhiệm vụ phù hợp cho các đối tượng HS, theo dõi việc thực
    hiện ở nhà thông qua nhóm Messenger, trang Facebook của lớp, đôn đốc, nhắc nhở
    và hỗ trợ HS khi gặp khó khăn.
    – Bước 4: Tổ chức HS trình bày kết quả bằng cách chuyển giao các nhiệm vụ
    học tập trên lớp gắn với các hoạt động học.
    * Kế hoạch bài học thực nghiệm
    ĐỌC VĂN:
    Tiết 45:
    TẠI LẦU HOÀNG HẠC
    TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG
    27
    (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
    Lí Bạch
    A. Mục tiêu bài học:
    1. Kiến thức, kĩ năng: Giúp học sinh
    – Hiểu được tình cảm chân thành, trong sáng của Lí Bạch đối với Mạnh Hạo
    Nhiên.
    – Hiểu được một số đặc điểm nghệ thuật cơ bản của thơ Đường thể hiện ở
    bài thơ này: ý ở ngoài lời (ý tại ngôn ngoại) qua ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng,
    đa nghĩa; bút pháp tả cảnh ngụ tình.
    – Rèn luyện và bồi dưỡng kĩ năng, phương pháp đọc hiểu thơ Đường theo
    đặc trưng thể loại, biết vận dụng các hiểu biết đó để viết bài nghị luận về các tác
    phẩm.
    2. Năng lực:
    2.1. Năng lực chung:
    + Năng lực tự chủ và tự học, tự khám phá tri thức, thu thập thông tin.
    + Năng lực giao tiếp và hợp tác (phối hợp với các thành viên để giải quyết các
    câu hỏi, bài tập khó, sưu tầm tài liệu…).
    + Năng lực giải quyết vấn đề (giải quyết các câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ, yêu cầu
    mà giáo viên đề ra).
    + Năng lực sáng tạo.
    2.2. Năng lực chuyên biệt: Yêu cầu cần đạt các kĩ năng:
    * ĐỌC
    – Biết nhận xét nội dung bao quát của văn bản;
    – Biết phân tích các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh tiêu biểu.
    – Phân tích và đánh giá được đề tài, chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn
    gửi gắm.
    – Biết đọc bài thơ Đường theo đặc trưng thể loại.
    * VIẾT
    – Vận dụng kiến thức, kĩ năng phân tích thơ Đường luật để làm văn nghị luận văn
    học.
    – Viết được báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề có sử dụng trích dẫn, và các
    phương tiện hỗ trợ phù hợp.
    * NÓI – NGHE
    28
    – Trình bày được báo cáo về một kết quả nghiên cứu hay hoạt động trải nghiệm.
    – Biết giới thiệu đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học theo lựa
    chọn cá nhân.
    – Nghe và nắm bắt được nội dung thuyết trình, quan điểm của người nói.
    – Biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình.
    – Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau, đưa ra những căn cứ
    thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó, tôn trọng người đối thoại.
    3. Phẩm chất:
    + Bồi dưỡng và nâng cao cảm xúc thẩm mĩ, cảm nhận cái hay, cái đẹp của thơ
    Đường.
    + Bồi dưỡng tình yêu thương con người, đặc biệt là tình cảm bạn bè, sống có lý
    tưởng, có hoài bão và có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng.
    + Biết yêu cuộc sống, hướng tới những điều tốt đẹp để phấn đấu tu dưỡng học
    tập tốt hơn.
    B. Tiến trình bài học:
    I. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
    1. Chuẩn bị của giáo viên:
    – Đọc SGK, tài liệu tham khảo về thơ Đường.
    – Chuẩn bị phương tiện dạy học: Máy tính, máy chiếu, biên soạn phiếu học tập,
    bài tập thực hành.
    2. Chuẩn bị của học sinh:
    – Đọc và chuẩn bị bài ở nhà theo hướng dẫn học bài.
    – Xem các tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung bài học.
    – Thực hiện các nhiệm vụ học tập ở nhà theo hướng dẫn của giáo viên:
    + Tổ 1: Sưu tầm tranh ảnh và làm video về Tình bạn
    + Làm việc cá nhân: Tìm các tư liệu về tác giả Lí Bạch và bài thơ, về thời đại
    nhà Đường ở Trung Quốc.
    + Làm việc nhóm: Trả lời câu hỏi theo phiếu học tập.
    + Vẽ tranh minh hoạ cảnh đưa tiễn Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên.
    II. Phương pháp dạy học
    1. Phương pháp:
    – Phương pháp dạy học nêu vấn đề.
    29
    – Phương pháp dạy học hợp tác.
    – Phương pháp đàm thoại, gợi mở.
    – Phương pháp thuyết trình.
    2. Kỹ thuật dạy học:
    – Kỹ thuật đặt câu hỏi.
    – Kỹ thuật chia nhóm…
    III. Tiến trình dạy học:
    Hoạt động 1: Khởi động
    Mục tiêu: Tạo ra tình huống có vấn đề, HS phải đi tìm câu trả lời trong quá trình
    học bài mới, huy động kiến thức đời sống, tạo không khí cho giờ học.
    Phương pháp: Nêu và giải quyết vấn đề.
    Kĩ thuật: Đặt câu hỏi.

    Hoạt động của GV và HSYêu cầu cần đạt
    B1: GV giao nhiệm vụ: Mở đầu bài
    học hôm nay cô mời các em cùng
    hướng lên màn hình để xem đoạn video
    sau đây. (Phụ lục 1)
    Sau khi xem xong, các em hãy giúp cô
    trả lời câu hỏi:
    ? Em hãy cho biết đoạn video nói về
    điều gì?
    Vậy em hãy chia sẻ quan niệm của em
    về tình bạn?
    ? Tình bạn trong tôi là….?
    Vậy e có nhiều bạn thân không? Đã
    bao giờ em chia tay với một ng bạn
    thân chưa?
    Nếu hs trả lời chưa, gọi 1 hs khác
    ? Hãy chia sẻ cảm xúc của em khi chia
    tay một người bạn hoặc chứng kiến
    cuộc chia tay trong tình bạn?
    Các em ah! Từ xưa đến nay Tình bạn là
    tình cảm cao đẹp, thiêng liêng của con
    người trong cuộc sống. Từ xưa đến
    nay, có biết bao nhiêu tình bạn đẹp mà
    chúng ta biết đến như Bá Nha – Chung
    Tử Kì, Nguyễn Khuyến – Dương Khuê,
    – Tạo tình huống có vấn đề buộc HS trả
    lời theo định hướng của GV:
    + Video nói về tình bạn.
    + Tình bạn trong tôi là … (cao đẹp,
    trong sáng…)
    + Cảm xúc buồn nhớ, bâng khuâng, lưu
    luyến…

    30

    Mác – Ăng ghen, gần đây, có sức lan
    toả rát lớn là tình bạn Văn Hiếu – Tất
    Minh. Trong bài học hôm nay chúng ta
    ngược dòng thời gian về 13 thế kỉ trước
    để chứng kiến cuộc chia tay của một
    tình bạn đẹp giữa Thi Tiên Lí Bạch và
    Mạnh Hạo Nhiên.

    Hoạt động 2: Hình thành kiến thức
    Mục tiêu: Giúp Hs có kiến thức chung về tác giả Lí Bạch; hiểu giá trị nội dung và
    nghệ thuật của văn bản Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng.
    Phương pháp:
    – Phương pháp dạy học nêu vấn đề.
    – Phương pháp dạy học hợp tác.
    – Phương pháp đàm thoại, gợi mở.
    – Phương pháp thuyết trình.
    Kĩ thuật: Đặt câu hỏi, chia nhóm.

    Hoạt động của GV và HSYêu cầu cần đạt
    Thao tác 1: Giáo viên hướng dẫn học
    sinh tìm hiểu chung về tác giả.
    Thơ là tiếng nói tâm hồn của người
    nghệ sĩ, để hiểu bài thơ, trước hết
    chúng ta cùng tìm hiểu về tác giả.
    Trong chương trình THCS các em đã
    biết đến Lí Bạch qua bài thơ nào? Hãy
    kể tác phẩm đó và cho co biết điều em
    nhớ nhất về tác giả Lí Bạch là gì?
    HS: suy nghĩ, trình bày.
    GVnhận xét, chuẩn hóa kiến thức.
    GV giải thích: Lý Bạch được xem là
    một trong những nhà thơ danh tiếng
    nhất thời thịnh Đường nói riêng
    và Trung Hoa nói chung, được hậu bối
    tôn làm “Thi tiên”.
    + Học giả Lý Dương Băng trong “Thảo
    Đường tập tự” đã có câu nói bất hủ về
    thiên tài Lí Bạch “Thiên tải độc bộ,
    duy công nhất nhân” (Hàng ngàn
    năm chỉ có một mình ông mà thôi).
    GV chuyển ý
    Tai sao bài thơ: Tại lầu Hoàng Hạc
    tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
    I. Tiểu dẫn
    1. Con người Lí Bạch:
    – Lí Bạch (701-762), tự là Thái Bạch.
    – Quê: Lũng Tây – Trung Quốc.
    – Con người:
    + Thông minh, tài hoa, hào phóng, thích
    giao lưu bạn bè và ngao du thưởng ngoạn
    phong cảnh.
    + Có hoài bão lý tưởng, tích cực nhập thế
    nhưng gặp nhiều trở ngại trên đường đời.
    => Là nhà thơ vĩ đại của Trung Quốc
    thời Đường, được mệnh danh là “thi
    tiên”.
    2. Sự nghiệp văn học
    – Số lượng trên 1000 bài thơ.
    – Nội dung thơ rất phong phú: Ước mơ
    vươn tới lí tưởng cao cả, khát vọng giải
    phóng cá tính, thể hiện tình cảm phong
    phú mãnh liệt.
    – Phong cách thơ: hào phóng, bay bổng
    nhưng tự nhiên, tinh tế, giản dị, có sự
    thống nhất giữa cái cao cả và cái đẹp.

    31

    được xem là một trong những bài hay
    nhất của Thơ Đường và đời thơ Lí
    Bạch, sau đây cô cùng các em cùng đi
    tìm câu trả lời qua phần Đọc hiểu VB.
    Thao tác 2: Giáo viên hướng dẫn học
    sinh đọc hiểu khái quát văn bản
    GV hướng dẫn HS cách đọc: Bài thơ
    là nỗi niềm của thi nhân trong buổi
    chia li nên giọng đọc cần chậm rãi,
    trầm lắng để thể hiện tâm trạng thường
    thấy của con người khi phải chia tay
    bạn thân. Khi đọc bài thơ, em hãy
    tưởng tượng như mình đang phải chia
    tay một người bạn rất thân của mình,
    tiễn bạn đến một chân trời mới…
    (?) Em hãy tìm các từ trong phần
    nguyên tác mà bản dịch thơ dịch chưa
    sát nghĩa?
    HS: suy nghĩ, trả lời.
    GV: nhận xét, chuẩn hóa kiến thức.
    (?) Bài thơ được sáng tác theo thể thơ
    nào? Dựa vào nhan đề, cho biết đề tài
    và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?
    HS: suy nghĩ, trả lời.
    GV: nhận xét, chuẩn hóa kiến thức.
    (?) Theo em, có thể chia bố cục bài thơ
    theo những cách nào?
    HS: suy nghĩ, trả lời.
    (Nếu HS trả lời một cách thì GV gợi
    mở cách chia thứ hai)
    GV: nhận xét, chuẩn hóa kiến thức.
    GV yêu cầu HS nhận xét về nhan đề.
    (?) Dựa vào phần ghi chú cuối chân
    trang, hãy nêu hiểu biết của em về
    Mạnh Hạo Nhiên và 2 địa danh này?
    HS: suy nghĩ, trả lời.
    GV: nhận xét, chốt lại kiến thức cần
    II. Đọc hiểu văn bản
    1. Đọc hiểu khái quát
    * Đọc và so sánh bản nguyên tác với
    bản dịch thơ.
    – Câu 1:
    + Từ “cố nhân” được dịch là bạn chưa
    biểu đạt hết ý nghĩa của từ này.
    + Bản dịch bỏ qua chữ “tây” => phía tây.
    – Câu 2: Bản dịch bỏ qua từ “tam nguyệt”
    làm mất đi không khí xuân trong cuộc
    đưa tiễn.
    – Câu 3:
    + Bản dịch bỏ qua từ “cô” làm mất đi sự
    cô đơn, cô độc của Mạnh Hạo Nhiên.
    + Bản dịch bỏ qua từ “bích” từ chỉ màu
    sắc gợi sự nhớ nhung và không gian
    mênh mang.
    – Câu 4: Từ “duy kiến” được dịch là
    “trông theo” làm mất đi sắc độ trong ánh
    nhìn, giảm đi sắc thái biểu cảm.
    * Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường
    luật.
    * Đề tài: Tiễn biệt.
    * Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ
    được sáng tác khoảng năm 728 khi Lí
    Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên về Quảng
    Lăng – Dương Châu.
    * Bố cục:
    + Hai câu đầu: Khung cảnh chia li
    + Hai câu cuối: Tâm trạng của nhà thơ
    * Nhan đề:
    – Lầu Hoàng Hạc:
    + Là một địa danh ở bờ bắc Trường
    Giang, thuộc tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc).
    + Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh nổi

    32

    nhớ.
    GV liên hệ, mở rộng: có nhiều
    truyền thuyết về lầu Hoàng Hạc
    Tên gọi “Lầu Hoàng Hạc” bắt nguồn từ
    truyền thuyết dân gian. Tương truyền
    Phí Văn Vi, một tu sĩ đắc đạo thành
    tiên thường cưỡi hạc vàng ngao du sơn
    thủy. Một hôm, tiên và hạc bay ngang
    Vũ Hán và dừng chân lại trên “Đồi
    Rắn” để nhìn ngắm, một bên là cảnh
    đẹp hùng vĩ của Trường Giang và bên
    kia là Ngũ Hồ trong khói sương diễm
    lệ. Người đời sau đã từ nơi tiên cưỡi
    hạc vàng bay đi xây lên một tháp lầu
    đặt tên là Hoàng Hạc Lâu. => Hoàng
    Hạc Lâu được xem là một trong Tứ
    đại danh lâu của Trung Quốc và là
    ngôi lầu nổi tiếng được các thi nhân
    ca tụng.
    + Lí Bạch rất hâm mộ Mạnh Hạo
    Nhiên, ông đã từng viết trong một bài
    thơ “Ngô ái Mạnh phu Tử/ Phong
    lưu thiên hạ văn”
    (Ta yêu Mạnh phu Tử, nổi tiếng
    phong lưu khắp thiên hạ)
    GV trình chiếu 1 số hình ảnh về địa
    danh Dương Châu.
    Nhan đề bài thơ có điểm gì lạ? Nêu ý
    nghĩa?
    Gv chuyển ý
    Hình ảnh con người đẹp giữa không
    gian đẹp được gợi lên ở nhan đề thật
    vô cùng ấn tượng. Nhưng điều để lại
    dư âm sâu lắng trong lòng ng đọc và
    yêu thơ Lí Bạch chính là ở chiều sâu
    cảm xúc của nhân vật trữ tình. Để
    cảm nhận điều đó, cô cùng các e tìm
    hiểu chi tiết bài thơ.
    Thao tác 3: Giáo viên hướng dẫn học
    sinh đọc hiểu chi tiết văn bản
    tiếng.
    – Mạnh Hạo Nhiên: một nhà thơ nổi tiếng
    của TQ thời Đường, hơn Lí Bạch 12 tuổi
    nhưng họ là đôi bạn văn chương rất thân
    thiết.
    – Quảng Lăng (Dương Châu) – chốn đô
    thị phồn hoa vào bậc nhất thời Đường.
    – Nhan đề có đến 10 chữ mới biểu đạt
    được hình ảnh của con người đẹp giữa
    không gian đẹp.
    2. Đọc hiểu chi tiết văn bản
    a. Hai câu đầu: Khung cảnh chia tay

    33

    Cô có 2 phiếu học tập cho 2 dãy bàn
    các em làm việc cặp đôi và có thể chia
    sẻ với cặp đôi cùng trong bàn để để
    hoàn thiện câu trả lời.
    GV giao nhiệm vụ bằng phiếu học tập
    và tổ chức cho HS làm việc theo cặp
    đôi để tìm ra “Cặp đôi hoàn hảo”. (Phụ
    lục 1)
    Phiếu học tập số 1 (dãy ngoài)
    Câu 1. Tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh
    Hạo Nhiên được thể hiện qua từ ngữ
    nào? Em hãy chỉ ra giá trị biểu đạt của
    từ ngữ đó so với từ ngữ khác cùng ý
    nghĩa?
    Câu 2. Cuộc chia tay diễn ra ở địa
    điểm nào? Tại sao tác giả lại chọn địa
    điểm ấy?
    Phiếu học tập số 2 (dãy trong)
    Câu 1. Em hãy hình dung vẻ đẹp của
    khung cảnh thiên nhiên trong buổi chia
    tay qua cụm từ “yên hoa tam nguyệt”?
    Câu 2. Điạ điểm mà người bạn hướng
    đến có gì khác so với địa điểm chia
    tay?
    HS thảo luận theo cặp đôi.
    GV gọi cặp đôi nhanh nhất trình bày
    sản phẩm (sử dụng máy chiếu vật thể).
    Các cặp đôi khác quan sát, nhận xét và
    phản biện.
    GV đánh giá và chuẩn hóa kiến thức.
    GV diễn giảng: Hai chữ “cố nhân”
    đặt trang trọng ở đầu câu thơ, bài
    thơ như “nhãn tự” hút lấy tâm
    tưởng người ở lại là Lí Bạch. Bạn
    chưa rời xa mà đã gọi là “cố nhân”
    phải chăng trong lòng nhà thơ đã
    chất chưa bao tâm sự?
    Lí Bạch từng nói rằng:
    “Hoàng kim vạn lạng dung dị đắc
    Tri kỉ nhân gian tối nan tầm”
    (Ngàn vạn vàng kim còn có thể đạt
    * Hình ảnh người ra đi “Cố nhân”: người
    bạn cũ => gợi mối quan hệ gắn bó thân
    thiết, tri âm, tri kỉ => Tình bạn đẹp.

    34

    được
    Ở đời tìm một tri kỉ thật khó lắm
    thay).
    Hai chữ “yên hoa” ngoài ý nghĩa là
    hoa khói, nó còn mang hàm nghĩa “nơi
    phồn hoa đô hội”, ở đây chỉ Dương
    Châu.
    GV mở rộng: Người TQ xưa coi “giai
    thì, mĩ cảnh, thắng sự, lương bằng”
    (Thời tiết đẹp, cảnh đẹp, việc hay, bạn
    hiền) là tứ thú. NHưng ở đây, ta thấy
    “tứ thú” không trọn vẹn, bởi “thắng sự”
    là không: “sự” ở đây là biệt li. Như thế
    là tác giả đã dựng lên quan hệ giữa cái
    có và cái không. Mọi thứ tươi đẹp đều
    có nhưng con người li biệt.
    Nếu 2 câu đầu, ngoại cảnh cũng là
    tâm cảnh, đến 2 câu thơ sau, ta càng
    thấm thía hơn nỗi buồn chia li.
    GV giao nhiệm vụ: Chia lớp thành 4
    nhóm, phát giấy khổ A0 cho HS thảo
    luận (dùng kĩ thuật khăn trải bàn) (thời
    gian 5p).
    Câu 1. Tìm những từ ngữ, hình ảnh,
    biện pháp tu từ thể hiện tâm trạng của
    nhà thơ khi bạn đã đi xa?
    Câu 2. Đời Đường, việc buôn bán trên
    sông Trường Giang rất tấp nập, vì sao
    nhà thơ chỉ thấy cánh buồm lẻ loi của
    cố nhân và chiếc thuyền chở bạn mình
    * Không gian tiễn biệt:
    + Điểm xuất phát: “tây từ Hoàng Hạc
    lâu” (phía tây lầu Hoàng Hạc) => địa
    điểm chia tay đầy huyền thoại và chất
    thơ, như đưa bạn vào cảnh tiên.
    + Điểm đến: “Dương Châu” => một
    thắng cảnh phồn hoa đô hội nơi xứ người.
    + Nối liền lầu Hoàng Hạc với Dương
    Châu là sông Trường Giang: huyết mạch
    giao thông chính của miền Nam Trung
    Quốc.
    => Rộng lớn, khoáng đạt, mĩ lệ – Cảnh
    đẹp.
    – Thời gian tiễn biệt: “Yên hoa tam
    nguyệt” (tháng ba mùa hoa khói) – đó là
    khoảnh khắc tươi đẹp của mùa xuân, cảnh
    bị bao phủ bởi hơi nước sương mù tạo vẻ
    huyền ảo, thơ mộng cho khung cảnh chia
    tay => Thời tiết đẹp.
    – Quan hệ giữa không gian, thời gian và
    con người: thống nhất ở cái đẹp – cảnh
    đẹp, thời tiết đẹp và tình bạn đẹp >< con
    người chia li.
    => Nhà thơ sử dụng bút pháp tả cảnh
    ngụ tình. Cảnh đẹp nhưng lòng người
    ngậm ngùi, nỗi buồn trào dâng, nuối tiếc,
    trăn trở, lo âu.
    b. Hai câu sau: Tâm trạng của nhà thơ

    35

    đi xa?
    HS: làm việc nhóm.
    GV quan sát, lựa chọn một sản phẩm,
    yêu cầu đại diện nhóm lên thuyết trình.
    Các nhóm còn lại treo sản phẩm lên
    tường, nhóm trưởng theo dõi phần
    thuyết trình và bổ sung chỗ thiếu sót
    vào sản phẩm của nhóm mình.
    GV yêu cầu 1 nhóm đại nhận xét theo
    quy tắc 3-2-1 (3 lời khen, 2 lời góp ý, 1
    bài học) và đặt những câu hỏi phản
    biện.
    GV: nhận xét, chuẩn hóa kiến thức.
    GV bình giảng: Phép đối lập cực tả
    một hình ảnh giàu ấn tượng: khoảng
    không khổng lồ nuốt dần Và như
    đang nuốt chửng cánh buồm nhỏ bé
    nhỏ bé của bạn.bản dịch đánh mất
    chữ “cô” đã không nói hết được cái
    lẻ loi của người đi và sự cô đơn của
    người ở lại. Họ đang xa dần nhưng
    tâm tưởng vẫn hướng về nhau, dồng
    cảm và thấu hiểu.
    Câu thơ cuối chữ “duy kiến” bản
    dịch chưa nói hết sắc độ biểu cảm.
    Thời Đường, sông Trường Giang là
    huyết mạch giao thông chính, mùa
    xuân tấp nập thuyền bè xuôi ngược.
    Thế mà tác giả lại chỉ nhìn thấy cánh
    buồm lẻ loi, cô độc (cô phàm) của bạn.
    Phải chăng Cái nhìn của nhà thơ đã gạt
    mọi thuyền buồm đi lại và chỉ còn thấy
    duy nhất cánh buồm của bạn xa dần.
    Đây không còn là cái nhìn của lí trí mà
    là cái nhìn của tâm tưởng. Ở đây, tấm
    lòng đã định hướng cho đôi mắt.
    Trong thơ Nguyễn Bính bài Không
    đề có câu:
    Anh đi đấy, anh về đâu?
    Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu,
    – Biện pháp đối lập:
    + “Cô phàm”: Hình ảnh cánh buồm cô
    độc, lẻ loi => nhấn mạnh sự nhỏ nhoi cô
    độc của cánh buồm và người ra đi
    + “Bích không tận”: Không gian rợn
    ngợp xanh biếc vô tận => gợi tâm trạng
    hẫng hụt, cô đơn, trống vắng của người ở
    lại.
    – Câu thơ cuối: Hình ảnh dòng sông chảy
    ngang trời.
    + Mở ra không gian mênh mông, rộng lớn
    khẳng định hiện thực xa cách của người
    tri kỉ.
    + Gợi tâm trạng bơ vơ, cô đơn của người
    đưa tiễn.
    => Bút pháp tả cảnh ngụ tình: Cô đơn, lẻ
    loi, nỗi niềm biệt li trào dâng, mang kích
    thước vũ trụ.

    36

    cánh buồm…
    Cánh buồm tài hoa của Nguyễn Bính
    cũng xa dần xong còn là cánh buồm
    trông thấy. Cánh buồm trong thơ Lí
    Bạch mất hút đến thảng thốt vì biến
    mất giữa khoảng không rợn ngợp.
    Phải chăng đó là sự thống nhất giữa
    cái cao cả và cái đẹp trong thơ Lí
    Bạch.
    GV gợi mở: Câu thơ cuối là hình ảnh
    dòng sông chảy mạnh vào cõi trời mà
    bản dịch thơ chưa nói hết được điều đó.
    ? Em hãy phát hiện điều phi lí trong
    hướng chảy của dòng sông và lí giải vì
    sao?
    HS trả lời.
    GV nhận xét và bổ sung.
    Dòng Trường Giang như đang chảy
    ngược vào cõi trời, phải chăng đó là
    dòng sông tâm tưởng khi mà tình cảm
    nhớ thương và nỗi niềm biệt li cuộn
    xoáy trong lòng.
    Ảnh hưởng của thơ Đường luật, Thâm
    Tâm, một nhà thơ lãng mạn 1930-1945
    của nước ta đã viết:
    Đưa người ta không đưa qua sông
    Sao có tiếng sóng ở trong lòng
    Có lẽ hai nhà thơ, hai thời đại, hai đất
    nước đã gặp nhau ở chỗ cùng sử dụng
    thủ pháp “vô thanh”. Họ đã tắt hết mọi
    thanh âm của ngoại cảnh để lắng nghe
    tiếng lòng. Bởi vậy trong bài thơ của Lí
    Bạch bốn câu chỉ lặng lẽ tả cảnh, dồn
    âm vang vào chiểu sâu tâm tưởng, làm
    tăng thêm sự trĩu nặng của tình người.
    Các em ah, trong cuộc đời có những
    người bạn, họ luôn dành cho ta trái tim
    nồng ấm yêu thương, luôn mở lòng
    lắng nghe ta chia sẻ, là cõi đi về khi ta
    mềm yếu. Cô tin rằng trong số các em
    ngồi đây, sẽ dành cho nhau tình bạn

    37

    đẹp như thế.
    Để khái quát nội dung bài học hôm
    nay, cô có trò chơi nhỏ dành cho các
    em.
    Thao tác 4: Tổng kết
    GV hướng dẫn HS khái quát giá trị nội
    dung và nghệ thuật của bài thơ qua trò
    chơi ô chữ với các câu hỏi trả lời
    nhanh.
    Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học
    tập
    Câu 1: Thể thơ nào của Trung Quốc có
    ảnh hưởng lớn nhất đến thơ ca trung
    đại Việt Nam?
    Câu 2: Cùng với đề tài tiễn biệt, bài
    thơ còn có đề tài khác là gì?
    Câu 3: Nội dung bao trùm bài thơ là
    gì?
    A: Nỗi buồn nhân thế.
    B: Nỗi buồn li biệt.
    C: Nỗi buồn vô vọng.
    Câu 4: Đặc trưng nổi bật nhất về
    phương diện nghệ thuật của bài thơ này
    cũng như thơ Đường là?
    A: Hàm súc.
    B: Tả thực.
    C: Miêu tả.
    Câu 5: Bài thơ chủ yếu sử dụng bút
    pháp nghệ thuật gì?
    Câu 6: Từ ngữ nào trong bài thơ diễn
    tả đúng nhất mối quan hệ giữ Lí Bạch
    và Mạnh Hạo Nhiên?
    Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
    – Học sinh suy nghĩ
    Bước 3: Báo cáo kết quả thảo luận
    – Học sinh trả lời.
    – Học sinh khác thảo luận, nhận xét.
    Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện
    nhiệm vụ học tập
    III. Tổng kết.
    Câu 1: Thể thơ Đường luật.
    Câu 2: Đề tài tình bạn.
    Câu 3: Nỗi buồn li biệt.
    Câu 4: Đặc trưng nổi bật nhất về phương
    diện nghệ thuật của bài thơ này là: Hàm
    súc.
    Câu 5: Bút pháp nghệ thuật chủ yếu của
    bài thơ là: Tả cảnh ngụ tình.
    Câu 6: Từ ngữ trong bài thơ diễn tả đúng
    nhất mối quan hệ giữ Lí Bạch và Mạnh
    Hạo Nhiên là: Cố nhân.

    Hoạt động 3: Luyện tập
    Mục tiêu: Củng cố, khắc sâu kiến thức về tác phẩm, đặc trưng và cách đọc thơ
    38

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Đề xuất một số giải pháp kiểm tra, đánh giá học sinh theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, góp phần hạn chế tình trạng máy móc sao chép văn mẫu

    SKKN Đề xuất một số giải pháp kiểm tra, đánh giá học sinh theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, góp phần hạn chế tình trạng máy móc sao chép văn mẫu trong dạy học chuyên đề Thơ ca Cách mạng Việt Nam

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ thực tế cuộc sống
    Trong bức tranh đa màu của cuộc sống thực tế, ở mọi lĩnh vực, hoạt động
    kiểm tra, đánh giá là hoạt động thường xuyên diễn ra với mục đích thúc đẩy sự
    phát triển nhằm hướng tới một cuộc sống có chất lượng hơn, tốt đẹp hơn. Và
    lĩnh vực giáo dục với hoạt động kiểm tra đánh giá diễn ra hàng ngày không chỉ
    gắn với việc hình thành phẩm chất và nhân cách của tuổi trẻ học đường khi còn
    đang ngồi trên ghế nhà trường mà còn luôn có sự gắn bó song hành cùng cuộc
    sống. Kết quả của kiểm tra đánh giá và những lời nhận xét trong giáo dục có sự
    tác động lớn, thậm chí có thể làm thay đổi cuộc đời con người trong cuộc sống,
    có thể góp phần làm mất đi niềm tin, động lực phấn đấu của con người nhưng
    cũng có thể lại góp phần làm nên một con người có ích hoặc đôi khi còn góp
    phần làm nên một thiên tài của thế giới. Ý tưởng tìm hiểu sâu hơn về hoạt động
    kiểm tra đánh giá nói chung bắt đầu đến khi người nghiên cứu đọc được bài viết:
    “Ghi nhận xét học bạ, hãy thận trọng “bút sa gà chết”” của tác giả Đinh Thúy
    Hằng trên trang Giaoduc.net.vn ngày 17.5.2016. Lời nhận xét đánh giá “Còn vi
    phạm nội quy trường lớp, hay có những hành động bất thường” dù giáo viên
    chưa một lần gặp mặt phụ huynh vì những biểu hiện khác lạ trong bài báo ấy đã
    khiến người viết băn khoăn trăn trở về cách đánh giá học sinh nói chung, cách
    kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn nói riêng bởi không biết với lời nhận xét
    ấy trong cuốn học bạ song hành với các em trong hành trình thời gian dài rộng
    phía trước, cuộc sống của các em sẽ ra sao?
    Xin được giới thiệu một ví dụ điển hình khác: Thomas Alva Edison sinh
    ngày 11/2/1847, mất ngày 18/10/1931, sinh ra và lớn lên tại Mỹ, là một trong
    những nhà khoa học, nhà bác học lừng danh nhất lịch sử. Ông đã sáng chế ra rất
    nhiều thiết bị có ảnh hưởng tới cuộc sống con người, nổi tiếng nhất là bóng đèn,
    máy hát, máy ghi âm… Trước khi qua đời, Edison đã nắm giữ tổng cộng
    hơn 1.500 bằng sáng chế trên thế giới. Thế nhưng ít ai biết rằng, ông đã từng bị
    6
    đánh giá là đứa trẻ kém cỏi, thiểu năng. Chính lời nói dối của người mẹ đã
    giúp Edison có được thành công sau này và đó cũng là câu chuyện kinh điển khi
    nói về cách dạy dỗ và cách chúng ta đánh giá và sử dụng kết quả đánh giá và
    nhận xét trong đánh giá.
    Tuổi thơ của Edison không hề trôi qua suôn sẻ và bình thường như bao đứa
    trẻ khác. Cậu bé kháu khỉnh nhưng thường bị chê là ngu dốt, thậm chí là thiểu
    năng. Có một lần, thầy giáo của Edison phải than phiền: “Edison không chịu học
    hành hẳn hoi gì cả, chỉ toàn làm phiền người khác bằng những câu hỏi chẳng
    đâu vào đâu. Hôm qua cậu ta còn hỏi: Tại sao 2 cộng 2 lại bằng 4? 2 cộng 2 thì
    đương nhiên là bằng 4, lại còn hỏi vớ vẩn gì nữa. Cậu ta chỉ làm ảnh hưởng xấu
    đến các bạn khác mà thôi!”.
    Khi Edison khoảng 7 tuổi, cậu bé từ trường trở về và hào hứng đưa cho mẹ
    là bà Nancy Elliott một tờ giấy của giáo viên gửi về nhà. Edison nói với mẹ
    bằng giọng hồ hởi: “Mẹ ơi, thầy giáo bảo con đưa mẹ tờ giấy này”. Bà Nancy
    nhanh chóng mở ra xem nhưng vừa đọc dứt, nước mắt bà giàn giụa, bật khóc
    nức nở. Tò mò không biết bên trong lá thư viết gì, Edison đã gạn hỏi mẹ. Lúc
    này, bà Nancy mới lấy lại bình tĩnh, đọc cho con trai nghe: “Con trai của bà là
    một thiên tài. Ngôi trường này và giáo viên của chúng tôi không đủ khả năng để
    đào tạo cậu bé. Bà hãy tự dạy dỗ con trai mình”. Chính vì thế, Edison chỉ nhập
    học trường Port Huron, bang Michigan, Mỹ, được đúng 3 tháng thì được mẹ cho
    tự học ở nhà. Chính tay bà Nancy đã dạy dỗ con trai học hành, đồng thời dạy
    con rất nhiều bài học cuộc sống quý giá khác. Mọi chuyện cứ trôi qua như thế
    cho đến khi bà Nancy qua đời vào năm 1871, lúc này ông Edison cũng đã đạt
    được một số thành tựu đáng kể. Sự ra đi của người mẹ đã để lại nỗi mất mát lớn
    trong lòng ông nhưng điều đó vẫn chưa là gì so với việc ông Edison vô tình
    khám phá ra sự thật về lời nói dối của mẹ mình năm xưa: Trong lúc dọn dẹp lại
    những tài liệu cũ của mẹ mình, ông Edison đã tìm thấy một mẩu giấy cũ, xếp
    gọn trong ngăn tủ. Tò mò mở ra xem, Edison vô cùng bất ngờ khi phát hiện đó
    là những dòng chữ của người thầy năm xưa ở trường tiểu học, trong đó có ghi:
    “Con trai ông bà là đứa trẻ đần độn. Chúng tôi không chấp nhận cho cậu bé đến
    7
    trường nữa”. Lúc đó, Edison mới nhận ra những lời nói năm xưa của mẹ là nói
    dối – Đó là lời nói dối của người mẹ không muốn con bị tổn thương nhưng cũng
    chính là lời nói dối đầy tính nhân văn của một nhà giáo tuyệt vời khi trở thành
    người thầy của đứa con mình. Để làm lên một nhà phát minh vĩ đại Edison phải
    có rất nhiều yếu tố nhưng trong đó không thể không nói tới động lực được tạo
    lên từ lời nói của người mẹ khi cố tình đọc sai bức thư của người thầy “Con trai
    của bà là một thiên tài”. Nếu thực sự được biết những lời nhận xét đánh giá của
    người thầy năm ấy khi 7 tuổi, liệu Edison sẽ ra sao và thế giới có thể có được
    những phát minh vĩ đại mà chính chúng ta đang thụ hưởng? Tất nhiên đây chỉ là
    một trường hợp trong cuộc sống thực tế nhưng câu chuyện chắc chắn cũng sẽ
    gợi lên suy nghĩ của mỗi chúng ta về cách đánh giá và tầm quan trọng của việc
    đưa ra những nhận xét trong đánh giá. Đó là lý do người viết nghiên cứu đề tài
    này.
    2. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục
    Dạy học là một quá trình và kiểm tra, đánh giá là một khâu không thể thiếu
    trong quá trình giáo dục. Là người tham gia trực tiếp trong quá trình dạy học,
    người giáo viên càng cần phải ý thức một cách sâu sắc vai trò và tính thiết yếu
    của việc nắm vững phương pháp và hình thức kiểm tra, đánh giá học sinh.
    Trong lộ trình giảng dạy hiện nay, giáo viên đang dần tiếp cận với chương
    trình Giáo dục phổ thông mới: Nội dung chương trình thay đổi, phương pháp
    dạy học thay đổi nên kiểm tra, đánh giá cũng phải có sự đổi mới, bởi thế cần
    thiết phải tìm hiểu về kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng
    lực của học sinh.
    Hơn nữa, kiểm tra, đánh giá là yếu tố đặc biệt quan trọng trong việc đảm
    bảo tính hiệu quả của đổi mới dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy
    học nói riêng. Phương pháp dạy học mới thể hiện ở kết quả của kiểm tra, đánh
    giá và việc kiểm tra, đánh giá sẽ góp phần điều chỉnh những phương pháp dạy
    học mới sao cho hiệu quả và có tính thiết thực nhất. Khi tiến hành quá trình dạy
    học phải xác định rõ mục tiêu của bài học, nội dung và phương pháp cũng như
    kỹ thuật tổ chức quá trình dạy học. Muốn biết có hiệu quả hay không, người
    8
    giáo viên phải thu thập thông tin phản hồi từ học sinh để đánh giá và qua đó điều
    chỉnh phương pháp dạy, kỹ thuật dạy của mình và giúp học sinh điều chỉnh các
    phương pháp học. Như vậy, kiểm tra đánh giá là bộ phận không thể tách rời của
    quá trình dạy học và có thể nói kiểm tra, đánh giá là cơ sở và là động lực để thúc
    đẩy sự đổi mới phương pháp dạy học nói riêng, quá trình dạy và học nói chung,
    hướng tới đạt được mục tiêu giáo dục: Hình thành phẩm chất, năng lực cho học
    sinh. Chính điều này cũng góp phần không nhỏ hạn chế tình trạng đang là vấn
    đề gây nhức nhối gợi nhiều tranh luận hiện nay: Học sinh sao chép văn mẫu một
    cách máy móc dẫn tới triệt tiêu cảm xúc và sự sáng tạo của chính mình. Bởi vậy
    việc tìm hiểu và thực hiện tốt hoạt động kiểm tra đánh giá là cách thực hiện tốt
    nhất chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn, chiều
    ngày 12/8/2021 tại hội nghị trực tuyến Tổng kết năm học 2020-2021 và triển
    khai nhiệm vụ năm học 2021-2022: Chấm dứt văn mẫu trong học đường. Với
    một số lý do cơ bản trên, thiết nghĩ việc tìm hiểu và đưa ra một số giải pháp đề
    xuất cách kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh
    là điều cần thiết. Bởi thế người viết đã lựa chọn báo cáo sáng kiến “ĐỀ XUẤT
    MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ HỌC SINH THEO HƯỚNG
    PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC GÓP PHẦN HẠN CHẾ TÌNH
    TRẠNG MÁY MÓC SAO CHÉP VĂN MẪU TRONG DẠY HỌC CHUYÊN
    ĐỀ THƠ CA CÁCH MẠNG VIỆT NAM – NGỮ VĂN 11″. Từ cơ sở lý luận về
    nội dung vấn đề nghiên cứu là hoạt động kiểm tra, đánh giá theo hướng phát
    triển phẩm chất năng lực học sinh, người viết định hướng vận dụng vào một
    chuyên đề cụ thể: Chuyên đề Thơ ca Cách mạng Việt Nam trong chương trình
    Ngữ văn 11.
    ____________________________
    9
    PHẦN II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Người viết đã tiến hành tìm hiểu vài nét về thực trạng kiểm tra, đánh giá
    học sinh hiện nay, trên cơ sở đó thấy được sự cần thiết của việc đề xuất giải
    pháp về kiểm tra, đánh giá.
    Để có cái nhìn khách quan về vấn đề đang nghiên cứu, người nghiên cứu
    sáng kiến đã tiến hành khảo sát trên 2 đối tượng: Thứ nhất, toàn bộ các thầy cô
    dạy bộ môn Ngữ văn tại cơ sở đang công tác, Thứ 2 là học sinh của 3 lớp bất kì
    được chọn ngẫu nhiên trong nhà trường
    PHỤ LỤC 1

    Họ và tên: ………………………… Ngày …. tháng …. năm ……
    (Có thể ghi hoặc không)
    PHIẾU KHẢO SÁT GIÁO VIÊN
    Câu 1: Theo thầy (cô), việc kiểm tra đánh giá trong dạy học có quan trọng không?
    Rất quan trọng
    Quan trọng
    Bình thường
    Không quan trọng
    Câu 2: Trong thực tế giảng dạy hiện nay, thầy cô xác định mục đích cơ bản nhất của
    hoạt động kiểm tra đánh giá là gì?
    Kiểm tra kiến thức, kĩ năng của học sinh
    Kiểm tra để lấy điểm số để tổng kết cho học sinh
    Kiểm tra để rèn năng lực và phẩm chất của học sinh
    Cả 3 ý kiến trên
    Câu 3: Theo thầy (cô), mối quan hệ giữa hoạt động kiểm tra đánh giá và phương
    pháp dạy học có mối quan hệ với nhau như thế nào?
    Tách rời
    Song hành
    Tác động qua lại

    10

    Câu 4: Thầy (cô) có thể kể tên các hình thức kiểm tra cơ bản mà thầy (cô) đã sử dụng
    trong giảng dạy?
    ……………………………………………………….
    ……………………………………………………….
    ……………………………………………………….
    ……………………………………………………….
    Câu 5: Theo thầy (cô), để việc kiểm tra đánh giá trong dạy học đạt hiệu quả,
    người giáo viên cần ….?
    Xác định rõ mục đích của kiểm tra, đánh giá
    Lựa chọn hình thức kiểm tra, đánh giá phong phú
    Giải thích, phản hồi và xử lý kết quả đánh giá khách quan, khoa học và
    hiệu quả
    Cả 3 ý kiến trên
    Xin chân thành cảm ơn thầy (cô)!

    PHỤ LỤC 2

    Họ và tên: ………………………… Ngày …. tháng …. năm ……
    (Có thể ghi hoặc không)
    PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH
    Câu 1: Bạn tự đánh giá như thế nào về việc học tập bộ môn Ngữ văn của mình?
    Tốt
    Khá
    Đạt
    Chưa đạt
    Câu 2: Trong các hoạt động sau đây, hoạt động nào bạn cảm thấy khó khăn
    nhất trong quá trình học tập bộ môn Ngữ văn?
    Soạn bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp
    Không tự tin khi tham gia các hoạt động nhóm
    Không giỏi thuyết trình khi thực hiện các bài tập kiểm tra thường xuyên

    11

    Khó khăn trong kĩ năng viết khi phải làm những bài kiểm tra định kì
    Câu 3: Bạn có thích đọc những bài văn mẫu hay không?
    Rất thích
    Thích
    Bình thường
    Không
    Câu 4: Khi đọc một bài văn mẫu, bạn thường ….?
    Học thuộc lòng cả bài
    Học cách triển khai
    Học cách diễn đạt và sử dụng ngôn từ
    Chỉ học những điều mình cảm thấy thú vị
    Câu 5: Bạn có đồng tình với việc máy móc chép lại các bài văn mẫu?
    Đồng tình
    Không đồng tình
    Phê phán
    Tùy từng trường hợp
    Câu 6: Bạn có thích được tham gia trực tiếp vào việc đánh giá các bạn học khác
    và đánh giá chính mình?
    Rất thích
    Thích
    Bình thường
    Không
    Xin chân thành cảm ơn bạn!

    Từ việc thu thập thông tin và phân tích kết quả của phiếu khảo sát cùng
    với những quan sát và trải nghiệm trong thực tế giảng dạy, người nghiên cứu
    đưa ra một vài nhận xét về những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động kiểm tra,
    đánh giá như sau:
    1. Những ưu điểm
    Kiểm tra, đánh giá là việc làm thường xuyên đã và đang diễn ra trong quá
    trình hoạt động giáo dục hiện nay ở các nhà trường phổ thông nói chung và
    12
    trường THPT nơi tôi đang công tác giảng dạy nói riêng. Cập nhật cùng sự đổi
    mới của dạy và học, quá trình kiểm tra đánh giá cũng đang có sự thay đổi theo
    chuyển biến tích cực.
    Các giáo viên đã thấy được tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh giá
    (87% đánh giá đây là công việc quan trọng, thậm chí rất quan trọng); Có thầy
    cô bước đầu đã nắm được mục đích kiểm tra, đánh giá cơ bản (70%) và coi quá
    trình kiểm tra là một hoạt động học có tác động qua lại với phương pháp dạy
    học, quyết định sự thay đổi phương pháp dạy học (80%). Một số phương pháp
    đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất năng lực đã được chú ý như việc các
    giáo viên đã khá linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức đánh giá, đã chú ý
    tới đặc thù của bộ môn Ngữ văn để có hình thức kiểm tra đánh giá phù hợp
    nhằm không chỉ phát huy năng lực, phẩm chất chung mà còn phát huy năng lực
    của bộ môn, đặc biệt là phát huy năng lực ngôn ngữ – một đặc trưng của bộ môn
    Ngữ văn.
    Học sinh nhận thức khá rõ tầm quan trọng của kiểm tra, đánh giá trong
    quá trình học tập. Học sinh cũng bước đầu được tham gia vào quá trình đánh giá
    khi các em phải theo dõi, nhận xét, bổ sung cho các bạn trong các hoạt động học
    diễn ra trong giờ học và thích, thậm chí rất thích được trực tiếp tham gia vào
    việc đánh giá bạn học và đánh giá chính mình (87%).
    2. Những hạn chế còn tồn tại, đặc biệt tình trạng máy móc sao chép văn mẫu và
    một số nguyên nhân cơ bản
    Về phía giáo viên: Một vài yếu điểm của kiểm tra đánh giá học sinh trong
    giáo dục phổ thông hiện nay: Chưa xác định rõ triết lý đánh giá: đánh giá để
    làm gì, tại sao phải đánh giá, đánh giá nhằm thúc đẩy, hình thành khả năng gì ở
    học sinh?…
    Đánh giá trước hết phải vì sự tiến bộ của học sinh, giúp học sinh nhận ra
    mình đang ở đâu trên con đường đạt đến mục tiêu bài học/chuẩn kiến thức, kỹ
    năng… Đánh giá không làm học sinh lo sợ, bị thương tổn, mất tự tin. Đánh giá
    phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học, giúp học sinh liên tục được phản hồi
    để biết mình mắc lỗi, thiếu hoặc yếu ở điểm nào để cả giáo viên và học sinh
    13
    cùng điều chỉnh hoạt động dạy và học. Đánh giá phải tạo ra sự phát triển, phải
    nâng cao năng lực của người học, tức là giúp các em hình thành khả năng tự
    đánh giá, đánh giá lẫn nhau… để phát triển năng lực tự học. Hiện nay vẫn còn
    có giáo viên mới chỉ tập trung vào đánh giá kết quả học tập, để xếp loại học
    sinh…
    Vẫn còn đâu đó việc đánh giá chỉ là kiểm tra sự học thuộc bài (ghi nhớ),
    làm lại theo các kiểu, dạng bài mẫu đã cho… sẽ triệt tiêu sự phát triển, sự nỗ lực
    vươn lên ở người học.
    Hiện tại đâu đó vẫn còn tình trạng đánh giá (chấm điểm) mà không có sự
    phản hồi cho học sinh. Cô chấm bài kiểm tra, thường chỉ cho điểm hoặc chỉ phê
    “sai”, “làm lại” hay chỉ viết ký hiệu sai hay ký hiệu đúng chứ chưa giải thích
    được rõ cho học sinh biết tại sao sai, sai như thế nào. Một số GV chấm bài có sự
    phản hồi nhưng phản hồi không đủ, phản hồi tiêu cực, không mang tính xây
    dựng (Vi dụ, GV phê: làm sai, làm ẩu, không hiểu…làm học sinh mất niềm tin,
    không có động lực để sửa lỗi), làm cho người học chán nản… Khi phản hồi của
    GV đối với bài làm của HS mang sắc thái xúc cảm âm tính, tiêu cực, có thể làm
    học sinh xấu hổ, mất tự tin. Bên cạnh đó, nếu GV có phản hồi chung (chữa bài
    kiểm tra trên lớp) lại thường đưa ra lời giải đúng theo cách tư duy “áp đặt” của
    GV, mà ít đưa ra phân tích mổ xẻ những cách tư duy chưa phù hợp của học sinh
    dẫn đến sự sai sót. Đánh giá lại khuôn vào một số kiểu dạng bài văn, không
    nhằm bộc lộ năng lực suy nghĩ, sự trải nghiệm đa dạng, phong phú của người
    học, tức tập trung vào một số kiểu đề thi và chỉ để đáp ứng các kỳ thi, điều này
    làm cho quá trình dạy học bị bóp méo chỉ để phục vụ mục đích thi cử, nên dễ
    xảy ra hiện tượng học sinh học tủ và thi xong có lẽ không nhớ được nhiều hoặc
    chẳng còn nhớ gì hết.
    Một điểm nữa là hiện nay, có GV còn sử dụng nhiều hình thức kiểm tra
    cũ: Dựa vào viết luận, làm các bàì tập như kiểm tra 15 phút, 1 tiết… , và thông
    qua một số câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận mà chính giáo viên cũng không rõ
    mình định đánh giá kỹ năng hay năng lực gì ở học sinh (Tất nhiên không phải
    hoàn toàn nói không với hình thức kiểm tra, đánh giá cũ). Khi giáo viên chưa đa
    14
    dạng hóa các kiểu đánh giá sẽ làm cho hoạt động học tập trở nên nhàm chán, sẽ
    khó phát triển các năng lực bậc cao ở người học (như năng lực giải quyết vấn đề,
    năng lực tư duy sáng tạo…). Trong khi đó, yêu cầu của đổi mới kiểm tra đánh
    giá là phải áp dụng đa dạng các hình thức đánh giá: đánh giá bằng trắc nghiệm,
    bằng kiểm tra viết kiểu tự luận, vấn đáp… đánh giá thông qua sản phẩm, qua hồ
    sơ học sinh, qua thuyết trình/trình bày, thông qua tương tác nhóm, thông qua các
    sản phẩm của nhóm…, đánh giá bằng các tình huống bài tập, các hình thức tiểu
    luận, …, thì giáo viên chưa làm được vì nhiều lý do.
    Thực tế giáo viên thường kiểm tra đánh giá dựa trên những kinh nghiệm,
    họ soạn câu hỏi kiểm tra miệng, hay bài kiểm tra 15 phút, bài thi 1 tiết hoặc học
    kỳ phần lớn dựa trên kinh nghiệm. Giáo viên (để đảm bảo an toàn, không dám
    thay đổi và tránh sự tranh luận) chọn kiểu câu hỏi, cách thức ra đề thi đánh giá
    học sinh chủ yếu do bắt chước những đề mẫu, theo “sách”… mà ít khi để ý đến
    mục tiêu đo lường, đánh giá, ít khi suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc ra đề thi
    hay đề kiểm tra là nhằm kiểm tra kiến thức, kỹ năng gì, đặc biệt là kiểm tra năng
    lực gì trong đó, họ không định hình rõ ràng.
    Điểm nữa là, sau mỗi bài kiểm tra/ kỳ thi, có giáo viên còn quan tâm quá
    nhiều đến điểm số của học sinh để lên bảng điểm, xếp loại, đánh giá, chứ không
    nghĩ rằng cần phân tích đánh giá chất lượng các đề kiểm tra/thi để rút kinh
    nghiệm…đồng thời xem xét chúng giúp phát hiện những thiếu hụt gì ở học sinh,
    để điều chỉnh hoạt động dạy và học. Nhiều giáo viên chỉ quan tâm, kiểm tra
    đánh giá để có điểm, thực hiện yêu cầu theo quy chế…mà quên rằng kiểm tra
    đánh giá còn có nhiều chức năng khác…
    Một hạn chế đáng lưu tâm là: Kiểm tra, đánh giá vì sự tiến bộ nghĩa là quá
    trình kiểm tra, đánh giá phải cung cấp những thông tin phản hồi giúp HS biết
    mình tiến bộ đến đâu, những mảng kiến thức/kĩ năng nào có sự tiến bộ, mảng
    kiến thức/kĩ năng nào còn yếu để điều chỉnh quá trình dạy và học. Không chỉ
    GV biết cách thức, các kĩ thuật đánh giá HS mà quan trọng không kém là HS
    phải học được cách đánh giá của GV, phải biết đánh giá lẫn nhau và biết tự đánh
    giá kết quả học tập rèn luyện của chính mình. Có như vậy, HS mới tự phản hồi
    15
    với bản thân xem kết quả học tập, rèn luyện của mình đạt mức nào/đến đâu so
    với yêu cầu, tốt hay chưa tốt như thế nào. Với cách hiểu đánh giá ấy mới giúp
    hình thành năng lực của HS, tạo cơ hội cho HS phát triển kĩ năng tự đánh giá,
    giúp HS nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập.
    Nhưng thực tế có giáo viên chưa làm được điều này…
    Về phía học sinh:
    Rất ít em học sinh tự tin đánh giá mình học tập tốt bộ môn Ngữ văn (chỉ
    có khoảng 3%); còn có những em lúng túng trong học tập bộ môn này nên tự
    đánh giá mình chưa đạt; Hoạt động các em học sinh thấy khó khăn nhất trong
    học tập bộ môn Ngữ văn phần lớn nghiêng về kĩ năng viết luận khi làm các bài
    kiểm tra định kì và thói quen của các em khi đọc các bài văn mẫu là được học
    hỏi những điều thú vị (chiếm 67%), tuy nhiên vẫn có những học sinh kiên nhẫn
    học thuộc cả bài (6%)… Có lẽ những điều này cũng là một trong nhiều lý do dẫn
    tới một thực tế, có những bài văn của các em giống như 1 bản sao vì cùng xuất
    phát từ văn mẫu – một thực tế đang được tranh luận khá nhiều hiện nay. Bản
    thân bài văn mẫu không phải là vấn đề, phương pháp dạy học theo mẫu nếu
    được áp dụng một cách khoa học sẽ có nhiều hiệu quả. Nhưng việc sử dụng và
    khai thác các bài văn mẫu, đặc biệt thói quen máy móc sao chép y nguyên các
    bài văn mẫu mới thực sự là điều đáng để trăn trở. Theo ý kiến chủ quan của
    người viết và bằng những quan sát, phân tích từ thực tế giảng dạy, có thể nói
    nguyên nhân của việc sao chép văn mẫu máy móc có thể đến từ nhiều phía,
    trong đó có thể nhắc tới một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
    (1). Từ phía xã hội với quan niệm mà chúng ta đâu đó vẫn bắt gặp trong
    cuộc sống, quan niệm cho rằng Ngữ văn là môn học thuộc, không cần đến năng
    lực tư duy. Vậy nên, đôi lúc, có một thực tế khá chua chát: Học sinh không thể
    học khối A với các môn tự nhiên nên đành lựa chọn môn văn và các môn xã hội
    để … dễ học vì chỉ cần …học thuộc!
    (2). Từ thói quen của một thời kì vẫn còn rơi rớt đâu đó trong cuộc sống
    hiện tại: Thầy là chuẩn, học sinh luôn theo thầy. Thầy là người truyền tri thức,
    16
    học sinh là cái bình đựng tri thức. Vì vậy khi kiểm tra, phải theo mẫu của thầy
    cho … an toàn!
    (3). Từ người dạy: Đâu đó vẫn có giáo viên ngại đổi mới, “người dạy chỉ
    có một góc nhìn chung, đều đi theo một tiến trình cứng nhắc, đều chuyển tải một
    nội dung như thế từ năm này sang năm khác, từ thế hệ học sinh này sang thế hệ
    khác. Tự họ, cũng triệt tiêu trong mình nhu cầu khám phá cái mới của tác phẩm
    để trở thành “thợ dạy” đúng nghĩa” (Ý kiến của cô giáo Phạm Thái Lê trong
    bài viết “Chấm dứt vấn nạn văn mẫu: Trước hết cần thay đổi cách thi cử, đánh
    giá” của tác giả Trinh Phúc đăng trên trang https://congluan.vn/ngày 19.8.2021);
    Cũng có thể từ việc người dạy không tin tưởng vào khả năng của học sinh nên
    vẫn tồn tại hiện tượng cầm tay chỉ việc rồi làm hộ, từ căn bệnh thành tích vẫn
    tiềm ẩn đâu đó, từ cách ra đề, chấm điểm khiến các em thấy phải in hệt mẫu mới
    có cơ hội được điểm cao …
    (4). Từ học sinh: Từ chính sự lười tư duy học tập nên học sinh lấy cái của
    người khác thành của mình…
    ….
    Dù chỉ là một vài điểm nhưng những hạn chế trên đặt ra vấn đề cần
    nghiên cứu kĩ hơn về cách thức kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển
    phẩm chất năng lực học sinh để có làm giàu hơn tri thức của chính mình và để
    bắt đầu lộ trình đổi mới dần bắt kịp với những đổi thay của quá trình dạy học
    theo chương trình phổ thông mới.
    II. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    1. Tìm hiểu cơ sở lý luận chung về hoạt động kiểm tra, đánh giá trong
    dạy học
    1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá
    a) Khái niệm “Kiểm tra”?
    Kiểm tra là một cách tổ chức đánh giá (hoặc định giá), do đó nó có ý
    nghĩa như đánh giá (hoặc định giá). Việc kiểm tra chú ý nhiều đến việc xây
    dựng công cụ đánh giá như câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra. Các công cụ này được
    17
    xây dựng trên một căn cứ xác định, chẳng hạn như đường phát triển năng lực
    hoặc các rubic trình bày các tiêu chí đánh giá.
    b) Khái niệm “Đánh giá”?
    + Đánh giá trong giáo dục là một quá trình thu thập, tổng hợp và diễn giải
    thông tin về đối tượng cần đánh giá, qua đó hiểu biết và đưa ra được các quyết
    định cần thiết về đối tượng.
    + Đánh giá trong lớp học là quá trình thu thập, tổng hợp, diễn giải thông
    tin liên quan đến hoạt động học tập và trải nghiệm của học sinh nhằm xác định
    những gì HS biết hay chưa biết, hiểu hay chưa hiểu làm được hay chưa làm
    được. Từ đó đưa ra quyết định phù hợp tiếp theo trong quá trình giáo dục HS.
    + Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập thông tin về kết quả học
    tập của HS và được diễn giải bằng điểm số/chữ hoặc nhận biết của GV, từ đó
    biết được mức độ đạt được của HS trong biểu điểm đang sử dụng hoặc trong tiêu
    chí đánh giá trong nhận xét của GV.
    1.2. Kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực?
    * Những phẩm chất năng lực cần đạt trong dạy học bộ môn Ngữ văn là gì?
    18
    Nhìn vào bảng sơ đồ hóa trên, có thể thấy những phẩm chất và năng lực
    cần đạt trong bộ môn Ngữ văn là:
    + Phẩm chất: Yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm
    + Năng lực:
    ++ Năng lực chung: Năng lực tự chủ và tự học; Năng lực giao tiếp và hợp
    tác; Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    ++ Năng lực đặc thù: Năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học.
    Có thể làm rõ năng lực đặc thù của bộ môn Ngữ văn như sau:

    Yêu cầu của năng lực ngôn ngữYêu cầu của năng lực văn học
    + Phân biệt được các loại văn bản văn
    học, văn bản nghị luận và văn bản
    thông tin
    + Đọc hiểu được nội dung tường minh,
    hàm ẩn của các loại văn bản
    + Đọc hiểu với yêu cầu phát triển tư
    duy phản biện
    + Vận dụng được các kiến thức về đặc
    điểm ngôn từ văn học, các xu hướng,
    trào lưu văn học, phong cách tác giả,
    tác phẩm, các yếu tố bên trong, bên
    ngoài văn bản để hình thành năng lực
    đọc độc lập
    + Viết thành thạo kiểu văn bản nghị
    luận và thuyết minh tổng hợp, đúng
    quy trình, có chủ kiến, đảm bảo sự
    logic và có sức thuyết phục
    + Nói và nghe linh hoạt, biết tham gia
    và có chủ kiến, cá tính, có thái độ phù
    hợp trong tranh luận
    + Phân biệt các tác phẩm văn học và
    các tác phẩm thuộc loại hình nghệ
    thuật khác
    + Phân tích và nhận xét đặc điểm của
    ngôn ngữ văn học, phân biệt được cái
    biểu đạt và cái được biểu đạt trong văn
    học
    + Nhận biết và phân tích, cảm thụ tác
    phẩm văn học dựa vào đặc điểm phong
    cách văn học
    + Có trí tưởng tượng phong phú, biết
    thưởng thức, tiếp nhận và đánh giá văn
    học
    + Tạo ra được sản phẩm có tính văn
    học

    19
    * Thế nào là kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực?
    Quan điểm hiện đại về kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất,
    năng lực HS thể hiện như sau: Đánh giá vì học tập, đánh giá là học tập, đánh giá
    kết quả học tập.
    – Đánh giá vì học tập:
    Đánh giá cần diễn ra thường xuyên trong quá trình dạy học để GV phát
    hiện sự tiến bộ của HS từ đó hỗ trợ, điều chỉnh quá trình dạy học. Mục đích của
    đánh giá nhằm cung cấp thông tin để GV và Hs cải thiện chất lượng dạy học.
    Kết quả của đánh giá này không nhằm so sánh giữa các HS với nhau mà để làm
    nổi bật những điểm mạnh và điểm yếu của mỗi HS và cung cấp cho HS thông
    tin phản hồi để HS đó tiếp tục việc học của mình ở các giai đoạn tiếp theo. Với
    đánh giá này, GV giữ vai trò chủ đạo nhưng HS cũng được tham gia vào quá
    trình đánh giá . HS có thể tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau dưới sự hướng dẫn
    của GV, qua đó học tự đánh giá được khả năng học tập của mình để điều chỉnh
    hoạt động học tập được tốt hơn.
    – Đánh giá là học tập:
    Đánh giá cần diễn ra thường xuyên trong quá trình dạy học (đánh giá quá
    trình) trong đó GV tổ chức để HS tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng, coi đó là
    một hoạt động họctập để HS thấy được sự tiến bộ của mình so với yêu cầu cần
    đạt của bài học/môn học, từ đó HS điều chỉnh việc học. Với đánh giá này, HS
    giữ vai trò chủ đạo trong quá trình đánh giá, HS tự giám sát hoặc theo dõi quá
    trình học tập của mình theo những tiêu chí do GV cung cấp. Kết quả này không
    được ghi vào học bạ mà chỉ có vai trò như một nguồn thông tin phản hồi để
    người đọc tự ý thức khả năng học tập của mình ở mức độ nào từ đó thiết lập mục
    tiêu học tập cá nhân và lên kế hoạch học tập tiếp theo.
    – Đánh giá kết quả học tập: là đánh giá những gì HS đạt được tại thời điểm cuối
    một giai đoạn giáo dục và được đối chiếu với chuẩn đầu ra nhằm xác nhận kết
    quả đó so với yêu cầu cần đạt của bài/môn học/cấp học. GV là trung tâm trong
    quá trình đánh giá và người học không được tham gia vào các khâu của quá
    trình đánh giá.
    20
    Từ đó ta thấy quan điểm hiện đại về kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển
    phẩm chất, năng lực HS khác với quan điểm truyền thống về kiểm tra đánh giá
    về kĩ thuật đánh giá, quá trình và đối tượng tham gia đánh giá.
    1.3. Sự khác biệt giữa mục đích chủ yếu của đánh giá năng lực và đánh
    giá kiến thức, kĩ năng là gì?
    Về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá
    kiến thức kỹ năng, mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so
    với đánh giá kiến thức, kỹ năng. Để chứng minh HS có năng lực ở một mức độ
    nào đó, phải tạo cơ hội cho HS được giải quyết vấn đề trong tình huống mang
    tính thực tiễn. Khi đó HS vừa phải vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã được
    học ở nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ
    những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội). Như
    vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực,người ta có
    thể đồng thời đánh giá được cả kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và những
    giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn
    phải dựa vào chương trình giáo dục môn học như đánh giá kiến thức, kỹ năng,
    bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, giá trị,
    chuẩn mực đạo đức,…được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát
    triển tự nhiên về mặt xã hội củamột con người.Có thể tổng hợp một số dấu hiệu
    khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kỹ
    năng của người học như sau:
    Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực
    người học và đánh giá kiến thức, kỹ năng của người học như sau:

    Tiêu chí
    so sánh
    Đánh giá năng lựcĐánh giá kiến thức, kĩ năng
    1. Mục đích
    chủ yếu nhất
    – Đánh giá khả năng HS vận dụng
    các kiến thức, kỹ năng đã học vào
    – Xác định việc đạt kiến thức,
    kỹ năng theo mục tiêu của

    21

    giải quyết vấn đề thực tiễn của
    cuộc sống
    – Vì sự tiến bộ của người học so
    với chính họ.
    chương trình giáo dục.
    – Đánh giá, xếp hạng giữa
    những người học với nhau.
    2. Ngữ cảnh
    đánh giá
    Gắn với ngữ cảnh học tập và thực
    tiễn cuộc sống của HS.
    Gắn với nội dung học tập
    (những kiến thức, kỹ năng,
    thái độ) được học trong nhà
    trường.
    3. Nội dung
    đánh giá
    – Những kiến thức, kỹ năng, thái
    độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt
    động giáo dục và những trải
    nghiệm của bản thân HS trong
    cuộc sống xã hội (tập trung vào
    năng lực thực hiện).
    – Quy chuẩn theo các mức độ phát
    triển năng lực của người học.
    – Những kiến thức, kỹ năng,
    thái độ ở một môn học.
    – Quy chuẩn theo việc người
    học có đạt được hay không
    một nội dung đã được học.
    4. Công cụ
    đánh giá
    Nhiệm vụ, bài tập trong tình
    huống, bối cảnh thực.
    Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ
    trong tình huống hàn lâm
    hoặc tình huống thực.
    5. Thời điểm
    đánh giá
    Đánh giá mọi thời điểm của quá
    trình dạy học, chú trọng đến đánh
    giá trong khi học.
    Thường diễn ra ở những thời
    điểm nhất định trong quá
    trình dạy học, đặc biệt là
    trước và sau khi dạy.
    6. Kết quả
    đánh giá
    – Năng lực người học phụ thuộc
    vào độ khó của nhiệm vụ hoặc bài
    tập đã hoàn thành.
    – Thực hiện được nhiệm vụ càng
    khó, càng phức tạp hơn sẽ được
    – Năng lực người học phụ
    thuộc vào số lượng câu hỏi,
    nhiệm vụ hay bài tập đã hoàn
    thành.
    – Càng đạt được nhiều đơn vị

    22

    coi là có năng lực cao hơn.kiến thức, kỹ năng thì càng
    được coi là có năng lực cao
    hơn.

    2. Đề xuất một số giải pháp kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển
    phẩm chất năng lực, góp phần hạn chế tình trạng máy móc sao chép văn
    mẫu vẫn tồn tại đâu đó trong thực tế
    2.1. Giải pháp 1: Tác động tâm lý tới học sinh, khơi dậy trong học sinh
    sự tự tin khi giải quyết các nhiệm vụ học tập, trong đó có kiểm tra đánh giá.
    Để các em học sinh không còn quá phụ thuộc vào các bài văn mẫu và tự
    mình tự tin làm được, giải quyết được những vấn đề đặt ra để thực hiện nhiệm
    vụ học tập bằng năng lực và hiểu biết của chính mình, việc đầu tiên là người
    giáo viên phải khơi dậy được niềm tin, sự tự tin trong chính mình của các em.
    Cummings E.E – một nhà thơ, họa sĩ, nhà soạn kịch, nhà văn người Mỹ của
    thế kỷ XX – đã từng nói “Một khi chúng ta tin vào chính mình, chúng ta có thể
    mạo hiểm để tò mò, học hỏi, vui vẻ hoặc thực hiện bất kỳ trải nghiệm nào” –
    nghĩa là việc khơi dậy trong các em học sinh sự tự tin chính là khích lệ sự tò mò
    học hỏi trong các em, khiến hoạt động học được đón nhận trong sự vui vẻ và khi
    đó các kĩ năng và năng lực được hình thành một cách tự nhiên, không khiên
    cưỡng. Người nghiên cứu sáng kiến tham khảo khá nhiều từ những bài viết
    (“Văn mẫu đang làm chai lỳ cảm xúc và triệt tiêu sự sáng tạo của trẻ” – Tùng
    Dương, được đăng trên trang https://giaoduc.net.vn/ ngày 19/8/2021; “Công
    nghệ văn mẫu – căn bệnh kéo dài” được đăng trên trang https://tuoitre.vn/, Thứ
    3, ngày 24 tháng 8 năm 2021 và một số bài viết trên các trang mạng…), có một
    ví dụ vô cùng thú vị: Một con voi trong rạp xiếc bị cột chân. Nếu để ý một chút
    sẽ nhận ra con voi đó có đeo một cái vòng kim loại ở cổ chân, nối với một sợi
    dây xích nhỏ. Và sợi dây xích được gắn với một cái chốt gỗ được đóng xuống
    đất. Chú voi nặng mấy tấn có thể dễ dàng nhấc chân lên, cái chốt gỗ sẽ bật mở
    và chú voi có thể trốn thoát. Nhưng chú đã không làm như vậy. Bởi vì khi voi
    23
    còn nhỏ, cũng cái vòng, sợi xích và cái chốt đó đã được sử dụng để giữ voi đứng
    yên một chỗ. Khi ấy cái vòng đủ mạnh để giữ chân voi con dù nó cố gắng chạy.
    Vì mỗi lần chạy nó lại bị sợi xích cứa vào chân đau đớn. Và nó ngừng bỏ trốn.
    Khi voi lớn lên, nó không bao giờ quên trải nghiệm ấy. Vì thế khi bị xích, nó
    nghĩ rằng không thể thoát ra và nếu chạy sẽ bị đau. Nên nó cứ đứng đó với sợi
    dây mỏng manh. Nó không muốn nhấc chân và chạy, dù nó có thể làm được. Rõ
    ràng việc đầu tiên, chúng ta phải thay đổi suy nghĩ của chính mình và từ đó có
    sự tác động, thay đổi suy nghĩ của các em học sinh để chính chúng ta tin các em
    và khơi dậy trong chính các em niềm tin là mình sẽ làm được. Đừng giống chú
    voi kia, ám ảnh bởi suy nghĩ mình sẽ không thể dứt được sợi dây, các em học
    sinh cần tự tin khi trình bày những chính kiến của mình.
    Và để có được điều đó, người giáo viên trước khi tiến hành kiểm tra đánh
    giá phải tạo thói quen khích lệ học sinh và chấp nhận, tôn trọng những suy nghĩ,
    cảm xúc riêng của học sinh, chấp nhận những phản biện đi ngược lại “lối mòn”
    của thầy cô, nếu đó là phản biện đúng thì thầy cô phải chấp nhận, không được áp
    đặt. Nếu phản biện sai, thầy cô phải chỉ ra cho học sinh thấy những điểm này có
    thể tìm thêm những thông tin khác để ý kiến thuyết phục hơn và dẫn dắt các em
    đến hành trình tìm ra chân lý. Thực tế vẫn tồn tại đâu đó hiện tượng nếu các em
    học sinh nói khác, khai thác cách khác, người giáo viên lại cho đó là sự suy diễn.
    Tuy nhiên đôi khi những cách phát biểu, những bài làm với những phát kiến
    khác lối suy nghĩ thông thường bị áp đặt bởi tâm lý đám đông rất có thể lại tạo
    nên những thiên tài. Câu chuyện thực tế về nhà thơ thiên tài Puskin là một ví dụ:
    Trong một giờ văn, khi thầy giáo yêu cầu làm thơ tả cảnh mặt trời, một học sinh
    lúng túng đọc: “Mặt trời mọc ở đằng tây”. Cả lớp cười ồ lên vì câu thơ vô lý,
    nhưng phát biểu tưởng hết sức vô lý, trái với tự nhiên ấy lại mở đầu cho 1 bài
    thơ dí dỏm, đầy thú vị, ngộ nghĩnh, sau đó được đăng lên báo “Người đưa tin
    Châu Âu”, được dịch là:
    Mặt trời mọc ở đằng Tây
    Thiên hạ sống trên trái đất này
    Ngơ ngác nhìn nhau và tự hỏi
    24
    Thức dậy hay là ngủ tiếp đây?
    Rõ ràng phát ngôn tưởng như vô lý ấy lại hoàn toàn trở lên hợp lý khi nó là
    một giả định khơi mào cho ý thơ tiếp sau. Phát ngôn tưởng như vô lý lại góp
    phần làm nên tên tuổi của đại thi hào nước Nga thời gian sau đó.
    Một ví dụ thứ 2 cũng không kém phần thú vị để thấy người giáo viên giỏi
    và tâm huyết với nghề là người dẫn dắt và định hướng đúng, còn rất cần khích lệ
    những suy nghĩ, chính kiến của học sinh, bởi có thể, rất có thể những chính kiến
    mới mẻ của các em biết đâu lại báo hiệu những phát minh vĩ đại của tương lai
    như Galilei. Từ thời Hy Lạp cổ đại cho đến tận thế kỉ XVI, con người vẫn
    quan niệm rằng Trái Đất đứng yên, là trung tâm của Vũ Trụ, Mặt Trời, Mặt
    Trăng và các thiên thể khác quay quanh Trái Đất. Mãi cho đến thế kỉ XVI,
    Nicolaus Copernicus (1473-1543) là nhà thiên văn học người Ba Lan, ông đã
    đưa ra thuyết nhật tâm (ngược với thuyết địa tâm), cho rằng Mặt Trời là
    trung tâm của vũ trụ, các hành tinh quay xung quanh Mặt Trời, Trái Đất quay
    xung quanh trục của nó trong khi chuyển động quanh Mặt Trời. Học thuyết
    này đưa ra đã gây xôn xao dư luận lúc bấy giờ, nhiều cuộc tranh cãi đã diễn
    ra. Một trong những người dám đứng ra ủng hộ và bảo vệ học thuyết của
    Copernicus là Galileo Galilei. Thông qua việc quan sát các ngôi sao, Galileo
    phát hiện ra rằng Trái đất đang quay xung quanh Mặt Trời, cũng như các ngôi
    sao khác, chứ không phải trung tâm của vũ trụ. Tuy nhiên học thuyết ấy lại trái
    ngược với giáo lý của Giáo hội Công giáo La Mã, đang cai trị nước Ý lúc bấy
    giờ. Giáo hội cho rằng Trái đất là trung tâm của vạn vật chứ không phải Mặt
    Trời, do đó mọi học thuyết phản bác lại điều này đều bị coi là dị giáo. Sau khi
    Galileo bị đưa ra xét xử trước tòa án Giáo hội và tuyên án dị giáo, mọi tài liệu và
    ghi chép của ông cũng bị cấm lưu hành trong dân chúng. Mãi tới tận năm 1992,
    Vatican mới chính thức thừa nhận sai lầm của mình trong việc tuyên án Galileo.
    Và ngày hôm nay, Galileo được vinh danh như một trong những nhà khoa học
    có đóng góp rất lớn cho thiên văn học hiện đại từ chính phát ngôn đi ngược lại
    đám đông.
    25
    Bởi vậy, điều đầu tiên trong giải pháp của mình, người viết muốn nói tới là:
    Giáo viên cần phải thay đổi suy nghĩ về việc kiểm tra đánh giá phải theo 1
    khuôn mẫu nhất định, phải tin vào khả năng của học sinh và khơi dậy trong các
    em sự tự tin để các em có thể bày tỏ chính kiến của mình, phát huy sự sáng tạo
    của mình. Nghĩa là trong chính suy nghĩ, người giáo viên phải luôn ý thức: Mình
    là người dẫn dắt, khích lệ các em, là người đồng hành cùng các em trong hành
    trình khám phá, chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện năng lực phẩm chất của các
    em. Tất nhiên sự tự tin của các em, ngoài sự tác động và khích lệ của giáo viên,
    còn xuất phát từ chính các em với tri thức và năng lực của chính mình – những
    tri thức và năng lực được hình thành trong quá trình học tập. Đây cũng là nội
    dung người viết muốn nhắc tới trong giải pháp thứ 2.
    2.2. Giải pháp 2: Rèn năng lực đọc, viết, nói, nghe cho học sinh bằng
    việc lên kế hoạch cụ thể, sử dụng linh hoạt hình thức, phương pháp kiểm
    tra đánh giá ngay trong giờ học.
    Rõ ràng một trong những lý do khiến các em muốn lệ thuộc máy móc vào
    văn mẫu là do các em không tự tin vào năng lực của chính mình. Vậy cần phải
    cùng các em rèn luyện về năng lực, khi đã có năng lực và tự tin vào năng lực ấy,
    tất yếu tình trạng sao chép sẽ hạn chế dần. Nhưng làm thế nào để thực hiện được
    điều đó?
    Khổng Tử, người được tôn vinh là giảng sư, triết gia lỗi lạc nhất Á Đông,
    đã từng nói: “Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học không bằng
    vui mà học”. Lời của Khổng Tử cho thấy việc gợi được niềm yêu thích từ chính
    niềm vui và say mê của học sinh sẽ là yếu tố quyết định trong việc dạy học nói
    chung và dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng, đặc biệt là trong hoạt động kiểm
    tra đánh giá. Hình ảnh của người thầy giáo già giương mục kỉnh, rà ngòi bút từ
    đầu đến cuối cuốn sổ điểm kiểm tra đầu giờ khiến ai cũng thót tim đã trở thành
    kỉ niệm của nhiều thế hệ học trò thời xưa, đôi lúc là những kỉ niệm vui với
    những con số 8, 9 nhảy múa, đôi lúc cũng là những kỉ niệm cười ra nước mắt
    bởi đã học rồi nhưng áp lực tâm lý khiến con chữ bay hết, chỉ còn chiếc đầu
    trống rỗng. Bởi vậy rất cần linh hoạt ngay trong thời điểm kiểm tra, cần linh
    26
    hoạt trong cách thức và phương pháp kiểm tra theo hướng “vui hóa” giờ học như
    gợi ý của triết gia Khổng Tử trong câu nói trên (Ví dụ kiểm tra, đánh giá lồng
    ghép vào hình thức các trò chơi…). Khi đó, năng lực của học sinh sẽ dần tự hình
    thành.
    Để thực hiện được điều đó, giáo viên có thể tiến hành theo các bước sau:
    a) Nắm vững nguyên tắc kiểm tra, đánh giá và nên kế hoạch cụ thể
    Thứ nhất: Trước khi tiến hành kiểm tra, đánh giá, người giáo viên cần
    nắm vững các nguyên tắc kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất,
    năng lực học sinh. Và đây là gợi ý từ chương trình Etep:
    Cụ thể:
    – Đảm bảo tình toàn diện và tính linh hoạt: Đánh giá phẩm chất, năng lực của
    HS là đánh giá kiến thức, kĩ năng, thái độ và sự vận dụng chúng để giải quyết
    thành công các tình hướng thực tiễn. Do vậy cần sử dụng đa dạng, linh hoạt các
    phương pháp nhằm mục đích mô tả hoàn chỉnh, chính xác và toàn diện năng lực
    HS.
    – Đảm bảo tình phát triển: Nguyên tác này đòi hỏi trong quá trình kiểm tra, đánh
    giá, có thể phát hiện sự tiến bộ của HS, chỉ ra những điều kiện để cá nhân đạt kết
    27
    quả tốt hơn về phẩm chất vfa năng lực; phát huy khả năng tự cải thiện của HS
    trong hoạt động dạy học và giáo dục.
    – Đảm bảo đánh giá trong bối cảnh thực tiễn: Để chứng minh người học có phẩm
    chất và năng lực ở mức độ nào đó, phải tạo cơ hội để họ được qỉai quyết vấn đề
    trong tình huống, bối cảnh mang tính thực tiễn. Vì vậy, kiểm tra đánh giá theo
    hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS chú trọng xây dựng những tình huống,
    bối cảnh thực tiễn để HS được trải nghiệm và thể hiện mình.
    – Đảm bảo phù hợp với đặc thù môn học: Mỗi môn học đều có yêu cầu riêng về
    năng lực đặc thù được hình thành cho HS, vì vậy, việc kiểm tra đánh giá cũng
    phải đảm bảo tính đặc thù của môn học nhằm định hướng cho GV lựa chọn và
    sử dụng các phương pháp, công cụ đánh giá phù hợp với mục tiêu và yêu cầu
    cần đạt của môn học.
    Thứ hai: Trước khi tiến hành kiểm tra, đánh giá, người giáo viên cần xây
    dựng kế hoạch đánh giá trong dạy học bài học/chủ đề cụ thể, xác định rõ mục
    đích đánh giá, mục tiêu học tập sẽ đánh giá và những năng lực cần hình thành ở
    học sinh khi dạy học chuyên đề trong đường phát triển năng lực chung và năng
    lực đặc thù của bộ môn Ngữ văn
    Peter Mcintyre – một họa sĩ và tác giả người New Zealand – đã từng nói
    “Sự tự tin không đến từ việc luôn luôn làm đúng, mà từ việc không sợ bị sai”.
    Thiết nghĩ, trong nhiều nguyên nhân dẫn tới việc học sinh máy móc sao chép
    văn mẫu chính là vì việc luôn sợ sai. Bởi thế để các em “không sợ bị sai”, nghĩa
    là để học sinh tự tin vào chính mình, người giáo viên phải hình thành được năng
    lực trong các em. Muốn vậy trước khi tiến hành kiểm tra, đánh giá, người giáo
    viên cần xây dựng kế hoạch đánh giá trong dạy học bài học/chủ đề cụ thể, xác
    định rõ những năng lực cần hình thành ở học sinh khi dạy học chuyên đề trong
    đường phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù của bộ môn Ngữ văn và
    thực hiện nó trong quá trình tiến hành kiểm tra, đánh giá để rèn năng lực cho các
    em.
    Bước 1: Phân tích yêu cầu cần đạt của bài học/chủ đề, xác định mục tiêu
    dạy học bài học/chủ đề về phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực đặc
    28
    thù. Từ yêu cầu cần đạt, xây dựng mục tiêu dạy học cụ thể cho chủ đề, từ đó lập
    kế hoạch kiểm tra đánh giá. Đặc biệt chú ý năng lực đặc thù của bộ môn Ngữ
    văn: Phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học thông qua đọc, viết, nói
    nghe. Có thể hình thành mục tiêu dạy học nhằm phát triển năng lực đặc thù cho
    học sinh gắn với chủ đề như sau:

    HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐẶC THÙ
    ĐỌCĐọc hiểu các văn bản theo đặc trưng
    thể loại
    ….
    VIẾTViết được văn bản nghị luận về
    ….
    NÓI VÀ NGHEBiết lắng nghe, tham khảo một cách
    khoa học và biết trình bày ý kiến, đánh
    giá, bình luận một vấn đề

    Bước 2: Hình dung tổng quát về thời điểm đánh giá và dự kiến cụ thể công
    cụ đánh giá nhằm phát huy năng lực học sinh

    Năng lực cần
    đánh giá
    Dự kiến thời điểm đánh
    giá
    Dự kiến công cụ đánh giá
    Đọc– Đánh giá từng hoạt
    động đọc hiểu của học
    sinh với mỗi văn bản trên
    lớp
    – Đánh giá cả quá trình
    và các sản phẩm đọc của
    học sinh sau khi hoàn
    thành chủ đề
    – Câu hỏi, bài tập đọc hiểu
    – Bảng kiểm các kĩ năng đọc hiểu
    – Rubric đánh giá kĩ năng phân
    tích tác phẩm theo đặc trưng thể
    loại
    – Hồ sơ đọc
    – Thang đo kĩ năng đọc hiểu
    – Rubric đánh giá hồ sơ đọc
    – Bài kiểm tra đọc hiểu
    Viết– Đánh giá từng hoạt– Bài tập

    29

    động viết của học sinh
    – Đánh giá cả quá trình
    và các sản phẩm viết của
    học sinh sau khi hoàn
    thành chủ đề
    – Bảng kiểm các kĩ năng viết
    – Hồ sơ viết
    – Bài kiểm tra viết luận
    – Rubric đánh giá bài viết
    Nói và nghe– Đánh giá từng hoạt
    động nói và nghe trong
    quá trình học chủ đề
    – Bài trình bày
    – Phiếu đánh giá đồng đẳng
    – Bảng kiểm, thang đo kĩ năng
    trình bày
    – Rubric đánh giá cách trình bày

    b) Linh hoạt trong việc xác định nội dung, sử dụng công cụ và phương pháp
    kiểm tra đánh giá
    Trong phiếu khảo sát học sinh ở trên, ở câu hỏi: “Trong các hoạt động
    sau đây, hoạt động nào bạn cảm thấy khó khăn nhất trong quá trình học tập bộ
    môn Ngữ văn?”, phần lớn các em học sinh (78%) các em được khảo sát cho
    rằng điều khó khăn nhất với các em là thực hiện những bài kiểm tra định kì,
    nghĩa là nói tới từ kiểm tra, các em đã cảm thấy ít nhiều sự sợ hãi. Trong thực tế,
    có hiện tượng các em học sinh trả bài trong khoảng thời gian kiểm tra miệng,
    được hỏi đã chuẩn bị bài và học bài chưa, em trả lời rồi nhưng em vẫn không nói
    được, khi được hỏi tại sao, em thú thật: Thưa cô run quá, em không nhớ được gì
    và không biết phải làm gì. Bởi thế, người nghiên cứu sáng kiến thiết nghĩ để áp
    lực tâm lý gắn với 2 chữ kiểm tra được giảm bớt, người giáo viên ngoài việc
    giúp cho các em tự tin vào chính mình, chuẩn bị tốt nhất kiến thức để thực hiện
    nhiệm vụ học tập thì người giáo viên cũng rất cần linh hoạt trong việc xác định
    thời gian, xác định nội dung và linh hoạt trong việc lựa chọn các phương pháp,
    các công cụ kiểm tra đánh giá để rèn năng lực cho các em, nghĩa là phải luôn
    sinh động hóa cách thức kiểm tra đánh giá (lồng ghép vào các trò chơi như ai
    nhanh hơn, ai đúng hơn …) để hình thành trong các em thói quen, cũng như gợi
    trong các em sự hứng thú đồng thời hướng tới mục đích mô tả hoàn chỉnh, chính
    30
    xác và toàn diện năng lực HS. Từ thực tế giảng dạy của chính bản thân và từ
    việc tham khảo tài liệu của trường Đại học sư phạm Hà Nội, người nghiên cứu
    sáng kiến muốn đề cập tới việc giáo viên có thể tham khảo gợi ý về thời gian,
    nội dung, các phương pháp và các công cụ cơ bản sau đây và sử dụng một cách
    linh hoạt trong quá trình giảng dạy:
    (*). Thứ nhất: Về thời gian tiến hành kiểm tra, đánh giá
    Có 2 hình thức cơ bản:
    + Đánh giá thường xuyên (Đánh giá quá trình): Thực hiện linh hoạt,
    không bị giới hạn bởi số lần đánh giá. Mục đích chính là khuyến khích HS nỗ
    lực học tập, vì sự tiến bộ của người học
    + Đánh giá định kì: Đánh giá kết quả trong một giai đoạn học tập, rèn
    luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của học sinh so với
    yêu cầu cần đạt quy định trong chương trình giáo dục phổ thông và sự hình
    thành, phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Nó được tiến hành khi kết thúc
    một giai đoạn (giữa kì hoặc cuối kì)
    Thời gian đánh giá định kì thực hiện theo lịch chung của trường, của sở
    còn việc tiến hành kiểm tra, đánh giá thường xuyên cần được thực hiện một
    cách linh hoạt. Vậy kiểm tra đánh giá thường xuyên có thể lồng ghép trong mọi
    hoạt động của giờ học để giờ học sinh động hơn:
    (1). Có thể lồng ghép trong hoạt động khởi động với nội dung kiểm tra
    đánh giá là kiến thức của bài học cũ.
    (2). Có thể tích hợp trong hoạt động hình thành kiến thức mới bằng việc
    yêu cầu học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập và giáo viên tiến hành kiểm tra
    đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập;
    (3). Có thể thực hiện trong hoạt động thực hành luyện tập với những bài
    tập kiểm tra đánh giá theo thang đo năng lực được giáo viên chuẩn bị từ trước
    (4). Có thể thực hiện trong hoạt động vận dụng để đánh giá năng lực của
    các em khi giải quyết vấn đề gắn với tình huống thực tiễn
    (5). Có thể thực hiện trong hoạt động bổ sung với yêu cầu làm những bài
    tập dự án gợi sự hứng thú trong các em…

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp (Ngữ văn 12) nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong kì thi Tốt nghiệp THPT

    SKKN Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp (Ngữ văn 12) nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong kì thi Tốt nghiệp THPT

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ mục tiêu đổi mới giáo dục
    Thế giới đang bước vào thời đại 4.0, trong đó giáo dục đóng vai trò là động
    lực quan trọng thúc đẩy cuộc Cách mạng này đạt được mục tiêu lớn.Vì thế, tư duy
    giáo dục hiện đại cũng phải thay đổi cho phù hợp. Giáo dục hiện đại không chỉ có
    sứ mệnh cung cấp kiến thức mà quan trọng là phát triển năng lực và phẩm chất cho
    người học. Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế gới là xây
    dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ. Giáo dục phổ thông ở nước ta những năm
    gần đây cũng đang có bước chuyển mình từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung
    sang tiếp cận năng lực, rèn luyện phẩm chất người học, từ chỗ quan tâm học sinh
    học được cái gì sang chỗ vận dụng được cái gì qua việc học, từ chỗ người thầy là
    trung tâm sang chỗ học sinh đóng vai trò là trung tâm trong quá trình dạy học. Hơn
    bao giờ hết, các nhà giáo dục phải tìm tòi những cách thức, phương pháp, phương
    tiện, kĩ thuật dạy học phù hợp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của người
    học. Từ đó, hình thành và phát triển ở người học những phẩm chất, năng lực cần
    thiết, biết cách vận dụng nó để tự tin bước vào cuộc sống.
    2. Xuất phát từ đặc trưng của môn Ngữ văn
    Bên cạnh đó, đối với bộ môn Ngữ văn, quá trình học không chỉ hình thành ở
    người học những năng lực chung cần thiết mà còn hướng tới những năng lực đặc
    thù. Một trong số ấy là năng lực ngôn ngữ và năng lực thẩm mĩ. Người học không
    chỉ biết sử dụng ngôn ngữ thành thạo mà còn phải hướng đến những ngôn ngữ hay
    có cảm xúc, có màu sắc văn chương, không chỉ biết cảm nhận, phân tích một tác
    phẩm văn học đơn thuần mà còn hướng đến khả năng nhận biết, phân tích, đánh giá,
    tái tạo và sáng tạo theo yêu cầu thẩm mĩ.
    3. Xuất phát từ thực trạng viết nghị luận văn học của học sinh
    Đã từ lâu vẫn tồn tại trong trường phổ thông một thực trạng là học sinh coi
    nhẹ môn Ngữ văn. Chính vì vậy các em thiếu đi kiến thức và kĩ năng cần thiết để có
    thể viết một bài nghị luận văn học đảm bảo yêu cầu. Những vấn đề mà các em gặp
    phải thường là không nắm chắc được kiến thức cơ bản của bài học như: tác giả,
    hoàn cảnh sáng tác, nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Bên
    cạnh đó là vấn đề thiếu đi những kĩ năng cần thiết để viết một bài nghị luận văn
    học. Đọc một đề bài mà không biết sẽ giải quyết vấn đề từ đâu, bắt đầu như thế nào.
    Vì thế hầu như các em viết tùy tiện, nghĩ gì viết nấy…dẫn đến chỗ thừa vẫn thừa,
    chỗ thiếu vẫn thiếu, nội dung quan trọng lại sơ sài, nội dung cần lướt thì lan man.
    Do đó điểm số chưa đạt yêu cầu như kì vọng.
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 4
    Từ những lý do cơ bản đó, sáng kiến “Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình
    chống Pháp (Ngữ văn 12) nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong kì thi Tốt nghiệp
    THPT” sẽ giúp người học không chỉ biết viết một bài nghị luận văn học về thơ trữ
    tình đúng, đủ, đảm bảo kiến thức cơ bản mà còn cần phải hướng đến một bài văn
    hay, có giá trị văn chương, mang màu sắc sáng tạo riêng của người viết. Hơn thế,
    điểm cao trong phần Nghị luận văn học của đề thi Tốt nghiệp THPT sẽ góp phần
    lớn đến tổng điểm toàn bài, giúp HS có cơ hội đỗ vào các trường Đại học mình
    mong muốn.
    Như vậy, việc tạo nền tảng giúp HS nắm chắc được kiến thức cơ bản và có kĩ
    năng viết một bài Nghị luận văn học hay, đạt điểm cao trong các kì thi khảo sát, đặc
    biệt là thi TN THPT là điều rất cần thiết đáp ứng được mong mỏi và nhu cầu của
    người dạy và người học hiện nay, giúp học sinh có cơ hội lựa chọn được con đường
    đi tốt nhất, trường học yêu thích nhất trên ngưỡng cửa cuộc đời.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1.Về phía yêu cầu thời lượng và kiến thức chương trình thi tốt nghiệp THPT
    những năm gần đây.
    – Thời lượng và kiến thức
    + Thời gian: 120 phút gồm 2 phần: Đọc hiểu và Làm văn.
    + Kiến thức: Phần NLVH chủ yếu lớp 12.
    + Điểm phần NLVH : 5/10 điểm toàn bài ( chiếm 50% số điểm).
    – Xác định nội dung, kiến thức ôn tập
    Những năm gần đây Bộ giác dục và đào tạo thường công bố đề minh họa cho
    các môn thi. Đó là căn cứ quan trọng để giáo viên khái lược những kiến thức, dạng
    bài có thể xuất hiện trong đề thi, từ đó định hướng nội dung và hình thức ôn tập cho
    HS. Tính từ năm 2017 đến nay, đề thi môn Ngữ văn vẫn giữ nguyên cấu trúc hai
    phần Đọc hiểu và Làm văn với tổng thời gian thi là 120 phút.
    Đối với câu Nghị luận văn học, đề đảm bảo kiến thức cơ bản, vừa sức với học
    sinh trung bình và có mức độ phân loại với học sinh khá – giỏi. Năm 2017, phần
    Nghị luận văn học tập trung chủ yếu ở chương trình Ngữ văn 12. Năm 2018, phần
    này tập trung kiến thức chủ yếu ở chương tình Ngữ văn lớp 12, có tích hợp với kiến
    thức Ngữ văn lớp 11, chiếm khoảng 10% tổng số điểm của câu NLVH. Nhưng bắt
    đầu từ năm 2019 đến nay, nội dung kiến thức câu Nghị luận văn học tập trung chủ
    yếu trong chương trình Ngữ văn 12. Dạng đề thi cũng chủ yếu thiên về yêu cầu cảm
    nhận nên định hướng ôn tập cũng khá rõ ràng.
    Tuy nhiên năm 2020 và 2021 là những năm học đặc biệt khi các lớp học
    truyền thống phải chuyển sang lớp học online do ảnh hưởng của dịch Covid 19 trên
    toàn thế giới. Vì thế, đưa ra kế hoạch và phương pháp giúp học sinh ôn tập tốt phần
    Nghị luận văn học là rất cần thiết.
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 5
    1.2. Thực trạng của việc dạy học môn Ngữ văn trong trường THPT hiện nay.
    Ngữ Văn là một môn học quan trọng chiếm nhiều thời lượng trong chương
    trình dạy – học ở các nhà trường, là môn thi bắt buộc trong các kì thi định kì, học kì
    và thi tốt nghiệp THPTQG. Môn Ngữ văn không chỉ giúp các em hiểu được thế giới
    tự nhiên, đời sống xã hội xung quanh mình mà còn góp phần định hướng nhân cách,
    đạo đức, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão cho các em. Song thực tế đáng buồn hiện
    nay đa phần học sinh không đánh giá đúng vai trò của bộ môn Ngữ Văn trong nhà
    trường. Theo kết quả thống kê của Bộ Giáo Dục sau kì thi THPTQG năm học 2018
    – 2019 đã có tới 1265 học sinh bị điểm liệt môn Ngữ Văn, số điểm từ 8 trở lên chỉ
    đếm trên đầu ngón tay ở các trường học. Có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ trước đến
    nay môn Văn bị “mất mùa”, có số điểm liệt nhiều, số điểm cao lại quá ít như vậy.
    Con số ấy không khỏi khiến nhiều phụ huynh, học sinh hoang mang, lo lắng, các
    thầy cô dạy bộ môn Ngữ Văn băn khoăn, trăn trở. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến thực
    trạng trên?
    Có lẽ nguyên nhân đầu tiên phải nói đến là cái nhìn của xã hội đối với bộ
    môn này. Thực tế hiện nay đa phần phụ huynh định hướng cho con học các môn tự
    nhiên để chọn thi các ngành kinh tế, kĩ thuật. Chính vì lí do đó nên học sinh không
    còn tha thiết học bộ môn Ngữ Văn, chỉ coi môn Ngữ Văn là bộ môn thi tốt nghiệp.
    Các em học chống đối với quan niệm không cần phải học bộ môn này nhiều chỉ cần
    qua điểm liệt để đỗ tốt nghiệp.
    Nguyên nhân thứ hai là yếu tố tâm lí của học sinh với bộ môn này. Các em
    ngại học môn Ngữ Văn vì cho rằng đây là môn học phải ghi chép, đọc nhiều. Xuất
    phát từ tư tưởng “lười biếng” đó nên trong giờ học nhiều em không tập trung tìm
    hiểu, khai thác kiến thức trong các bài học, không chủ động tiếp cận bài học mà chỉ
    dựa vào thầy cô cung cấp cho mình được những gì, thậm chí không chú ý nghe
    giảng, nói chuyện riêng. Trong các giờ kiểm tra chỉ loay hoay tìm cách hỏi bài, chép
    “phao” vì không có kiến thức. Quan trọng là các em không có hứng thú với môn
    học, yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương, không tìm thấy được những giá trị
    mà môn học mang lại hoặc không tìm ra được phương pháp học tốt nhất để đạt
    điểm trung bình chứ chưa nói tới điểm cao.
    Thứ ba về phía thầy cô, có thể trong các giờ dạy chưa thu hút được sự yêu
    thích của học sinh. Có thể là do nội dung bài dạy phải dập khuôn theo sách hướng
    dẫn hoặc thiết kế. Nhiều thầy cô giáo dạy văn đã xuất hiện tâm lí chán nản, buông
    xuôi, không có động lực để trau dồi chuyên môn, tạo sức lớn trong tư duy đổi mới.
    Thực tế cho thấy bên cạnh năng lực chuyên môn, tình yêu văn chương và tâm huyết
    của các thầy cô có thể cảm hóa được học sinh, từ đó gieo vào các em niềm say mê
    khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm. Quan trọng nhất là các thầy cô vẫn chưa đưa ra
    được cách thức tốt nhất giúp các em ôn tập, hệ thống nội dung cơ bản để bài viết
    vừa đảm bảo kiến thức nền vừa có phần nâng cao, sáng tạo.
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 6
    Để có thêm cơ sở thực tiễn về vấn đề trên, tôi tiến hành điều tra, khảo sát thực
    trạng dạy học kiến thức và kĩ năng làm văn cho học sinh ở các trường THPT thuộc địa
    bàn tỉnh Nam Định thông qua hình thức sử dụng phiếu hỏi đối với giáo viên dạy khối
    12 của các huyện Ý Yên, Vụ Bản,; dùng phiếu thăm dò ý kiến đối với học sinh ở các
    trường THPT trong huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đó là THPT Đại An, THPT Mỹ
    Tho, THPT Lý Nhân Tông.
    a. Khảo sát tình hình giảng dạy chương trình Ngữ văn 12 của GV ở trường
    THPT
    – Số GV được phỏng vấn: 135.
    – Thời gian phỏng vấn: 15/10/2021
    – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực tế dạy học Đọc hiểu văn bản và Làm văn
    trong chương trình Ngữ văn 12 của giáo viên hiện nay ở các trường THPT trong địa
    bàn tỉnh Nam Định để làm cơ sở thực tiễn cho Báo cáo “Rèn kĩ năng nghị luận thơ
    trữ tình chống Pháp (Ngữ văn 12) nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong kì thi Tốt
    nghiệp THPT” của khối học này.
    – Nội dung khảo sát: (Phụ lục 3)
    – Kết quả khảo sát:
    Bảng kết quả khảo sát giáo viên ở câu hỏi từ 1- 7

    Câu
    hỏi
    Kết quả đánh giá của giáo viên
    ABCD
    SL%SL%SL%SL%
    1000012391,1128,9
    200004533,39066,7
    33525,94029,63828,12216,3
    4128,93525,95339,24029,6
    52014,850374029,62518,5
    6004331,88059,25128,9
    7128,96044,44331,92014,8

    Qua phân tích kết quả khảo sát thực trạng rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình
    Ngữ văn 12 của 135 giáo viên Ngữ văn trên địa bàn các huyện Ý Yên, Vụ Bản như
    trên, có thể đưa ra kết luận: Hầu hết giáo viên đều ý thức được tầm quan trọng của
    việc rèn luyện kỹ năng, tăng cường trải nghiệm cho học sinh thông qua hoạt động
    hình thành kiến thức, thực hành, vận dụng trong mỗi giờ Ngữ văn. Vấn đề này đã
    được các nhà trường chỉ đạo thực hiện song vẫn mang tính hình thức như chỉ thể
    hiện trên giáo án hoặc ở các tiết dạy thanh tra, hội giảng. Học sinh chưa được giáo
    viên thường xuyên chú trọng giao nhiệm vụ qua hoạt động thực hành, vận dụng. Vì
    vậy các em còn nhút nhát, thiếu tự tin. Khi gặp các tình huống phát sinh trong thi
    cử, đời sống hoặc tham gia các hoạt động tập thể, các em bộc lộ rất rõ điểm yếu
    này.
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 7
    b. Khảo sát tình hình học chương trình Ngữ văn 12 của học sinh ở trường
    THPT
    Tôi sử dụng 242 phiếu điều tra cho 06 lớp 12 ban Khoa học cơ bản của 03
    trường THPT trong huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đó là trường THPT Lý Nhân
    Tông, trường THPT Mỹ Tho, trường THPT Đại An, cụ thể như sau:
    Bảng đối tượng khảo sát học sinh

    TTTên trườngLớpSố học sinh
    1Trường THPT Lý Nhân Tông – Tỉnh
    Nam Định
    12A2
    12A6
    40
    39
    2Trường THPT Mỹ Tho – Tỉnh Nam Định12A4
    12A7
    40
    41
    3Trường THPT Đại An – Tỉnh Nam Định12A3
    12A8
    42
    40
    4Tổng6 lớp242

    – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực tế việc học rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ
    tình chống Pháp (Ngữ văn 12) của học sinh ở một số trường THPT hiện nay để làm
    cơ sở thực tiễn cho Sáng kiến.
    – Nội dung khảo sát: (Phụ lục 4)
    – Kết quả điều tra khảo sát:

    TTCâu hỏiKhôngThỉnh
    thoảng
    Thường
    xuyên
    1Em có nghe thấy thầy cô nhắc
    đến hoạt động rèn kĩ năng nghị
    luận khi xác định mục tiêu bài
    học không ?
    168
    (69,4%)
    52
    (21,5%)
    22
    (9,1%)
    2Trước khi vào các giờ học đọc
    hiểu các văn bản thơ trữ tình
    hoặc rèn kĩ năng làm văn nghị
    luận văn học về thơ trữ tình em
    có chuẩn bị bài ở nhà không?
    18
    (7,4%)
    150
    (62%)
    74
    (30,6%)
    3Khi chuẩn bị bài ở nhà, em có tìm
    thêm tài liệu tham khảo hoặc những
    đường link về bài học không?
    120
    (49,6%)
    92
    (38%)
    30
    (12,4%)
    4Khi học đọc hiểu các văn bản
    thơ trữ tình hoặc làm các bài
    nghị luận văn học về thơ trữ
    tình, thầy cô có hướng dẫn em
    22
    (9,1%)
    89
    (36,8%)
    131
    (54,1%)

    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 8

    làm các bài tập vận dụng không?
    5Trong quá trình tiếp cận kiến thức,
    thầy (cô) có thường đặt câu hỏi để
    khơi gợi cảm xúc và liên tưởng,
    tưởng tượng cho các em không?
    11
    (4,5%)
    151
    (62,4%)
    80
    (33%)
    6Trong quá trình học đọc hiểu
    văn bản thơ trữ tình, em có hay
    bình giá những hình ảnh, những
    chi tiết nghệ thuật hoặc các câu
    văn đặc sắc trong văn bản
    không?
    25
    (10,3%)
    137
    56,6%)
    88
    (36,4%)
    7Khi học đọc hiểu văn bản thơ trữ
    tình em có chú ý đến việc liên
    hệ, so sánh (liên văn bản), đối
    chiếu,… với các loại hình nghệ
    thuật khác không?
    13
    (5,4%)
    177
    (73,1)
    52
    (21,5%)
    8Sau giờ học đọc hiểu văn bản và
    rèn kĩ năng làm văn nghị luận, em
    có làm các bài tập vận dụng thầy
    (cô) giao về nhà không?
    67
    (27,7%)
    130
    (53,7%)
    45
    (18,6%)

    Có thể thấy, kết quả khảo sát đã phần nào phác hoạ được bức tranh học tập
    phần đọc hiểu văn bản thơ trữ tình chống Pháp và rèn kĩ năng làm bài nghị luận văn
    học (Ngữ văn 12), nhất là hoạt động thực hành, vận dụng của phân môn này ở nhà
    trường phổ thông. Đọc hiểu văn bản thơ trữ tình vừa cung cấp cho học sinh tri thức
    phong phú về mọi lĩnh vực của đời sống, vừa bồi dưỡng năng lực cảm thụ thẩm mĩ,
    đồng thời rèn luyện những kĩ năng viết cần thiết có thể áp dụng trong việc rèn kĩ
    năng làm văn ghị luận trong các bài kiểm tra hoặc giải quyết các vấn đề thực tiễn.
    Song, việc học phân môn này đang diễn ra một cách tự nhiên, không ý thức, chưa
    có tính mục đích rõ ràng, không tạo được hứng thú cho học sinh.
    Trước thực trạng trên, việc “Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp
    (Ngữ văn 12) nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong kì thi Tốt nghiệp THPT” là
    vấn đề mà người viết rất trăn trở, làm thế nào để các em yêu thích, làm thế nào để
    các em say mê bộ môn Ngữ văn và có thể viết được những bài văn có giá trị văn
    chương thực sự. Vì thế, tôi xin đưa ra một số giải pháp từ chính những kinh nghiệm
    từ thực tế dạy –học của mình để giúp các em yêu thích và đam mê Văn học, tìm ra
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 9
    cách học phù hợp, không chỉ biết cách viết một bài văn đúng mà còn hướng đến
    một bài văn hay như mong muốn.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    Việc giúp học sinh đạt điểm cao phần nghị luận văn học có ý nghĩa rất quan
    trọng. Vì vậy để giúp học sinh làm tốt được yêu cầu ấy trong các bài thi nói chung,
    đặc biệt là bài thi Tốt nghiệp THPT nói riêng, trước hết giáo viên cần xác định rõ
    mục tiêu, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để mang lại hiệu quả tốt nhất.
    2.1. Xác định rõ mục tiêu.
    Từ thực tế dạy học, tôi nhận thấy việc “Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình
    chống Pháp (Ngữ văn 12) nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong kì thi Tốt nghiệp
    THPT” có thể giúp học sinh:
    – Nắm vững kiến thức đã học, trên cơ sở đó học sinh vận dụng kiến thức để
    giải quyết những bài tập hoặc xây dựng kiến thức cho bài học mới; nắm vững kiến
    thức đã học, có khả năng liên hệ, liên kết các kiến thức bởi những vấn đề thực tiễn
    liên quan
    + Vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào trong học tập, trong cuộc sống giúp
    các em học đi đôi với hành. Từ đó giúp học sinh xây dựng thái độ học tập đúng đắn,
    phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, đặc
    biệt là năng lực tự học;…
    + Hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát, thu thập, phân tích và xử lý
    thông tin, hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học; hình thành và phát triển kĩ
    năng nghiên cứu thực tiễn; có tâm thế luôn luôn chủ động trong việc giải quyết
    những vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
    + Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về cuộc sống, những tác động
    tích cực cũng như tiêu cực đối với con người cũng như ảnh hưởng của con người
    đến cuộc sống.
    + Thông qua việc hiểu biết về thế giới quanh mình bằng việc vận dụng kiến
    thức đã học để tìm hiểu, các em sẽ ý thức được hoạt động của bản thân, có trách
    nhiệm với chính mình, với gia đình, nhà trường và xã hội ngay trong cuộc sống hiện
    tại cũng như tương lai sau này của các em.
    + Đem lại niềm vui, tạo hứng thú học tập cho học sinh, phát triển ở các em
    tính tích cực, tự lập, sáng tạo để vượt qua khó khăn trên con đường dẫn tới thành
    công.
    2.2. Xây dựng hệ thống kiến thức cơ bản đối với các tác phẩm thơ trong chương
    trình Ngữ văn 12.
    2.2.1. Đặc trưng của thể loại thơ
    a. Đặc trưng chung
    Thơ tiêu biểu cho thể loại trữ tình, là tấm gương phản chiếu của tâm hồn, là
    tiếng nói của tình cảm con người . Những rung động của trái tim trước cuộc đời đều
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 10
    qua thơ mà thể hiện. Vì thế Vonte nói rằng: “thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là
    những tâm hồn cao cả và đa cảm”, còn thi sĩ người Anh W.Worth khẳng định “ thơ
    ca là sự bộc phát của những tình cảm mãnh liệt” nhất.
    Thơ có đặc trưng riêng về nội dung và hình thức. Về nội dung thơ có các đặc
    trưng sau: thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức hoá; tính cá thể hoá
    của tình cảm trong thơ; chất thơ của thơ. Về hình thức, thơ có các đặc trưng sau: thơ
    biểu hiện bằng biểu tượng, ý tượng; ngôn từ thơ được cấu tạo đặc biệt. Các đặc
    trưng này vừa chi phối vừa là điểm tựa để xây dựng kế hoạch dạy học văn bản thơ.
    Tính trữ tình là đặc trưng nổi bật nhất của nội dung thơ. Trong Mĩ học
    Heghen viết: “Đối tượng của thơ không phải là mặt trời, núi non, phong cảnh, cũng
    không phải là hình dáng và các biểu hiện bên ngoài của con người máu thịt, thần
    kinh… Đối tượng của thơ là hứng thú tinh thần” ,“Nhiệm vụ chính của thơ là gợi lên
    cho ý thức nhận thấy sức mạnh của đời sống tinh thần và những gì lay động làm ta
    xúc cảm trong các dục vọng và tình cảm nhân tính”. Tình cảm trong thơ không bộc
    lộ một cách bản năng vô thức mà “lắng lọc qua cảm xúc, gắn liền với khoái cảm về
    sự tự ý thức về tình đời”. Thơ lấy điểm tựa là cuộc sống để thể hiện tình cảm.Theo
    tác giả Nguyễn Thanh Hùng: “Toàn bộ thế giới âm thanh và những ấn tượng có thể
    cảm nhận được bằng tai, bằng mắt đều được phản ánh trong nghệ thuật và tạo
    thành ngôn ngữ đặc trưng riêng biệt của nó”. Nhà thơ được ví như những con ong
    hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống cho nên bất cứ hiện thực nào đi vào
    trong thơ cũng nhằm biểu hiện tình cảm, gây xúc động với niềm vui, nỗi buồn, thú
    say mê, sự đau khổ, nỗi lo lắng, niềm an ủi. Lê Quý Đôn cũng đã nói: “ Mây gió cỏ
    hoa xinh tươi kì diệu đến đâu hết thảy đều từ lòng người mà ra…hãy xúc động cho
    ngọn bút có thần”.
    Nhưng chỉ có cảm xúc thì chưa thể có thơ, mà cảm xúc đó phải được thể hiện
    bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt, đó là ngôn ngữ của thơ trữ tình. Vậy ngôn ngữ của
    thơ trữ tình có những đặc trưng gì. Maiacôxki nói “Quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ
    ca cũng như người lọc quặng, lọc lấy tinh chất, tìm ra từ cái bề bộn của tấm quặng
    những từ đẹp, ánh sắc kim”. Nhà thơ Nga Nhêcraxôp cho rằng: “ Phép tắc cần theo
    một cách kiên trì là làm sao lời thơ chặt chẽ mà ý thơ mênh mông”. Tác giả Trần
    Thanh Đạm cũng đã nói: “Thơ là nghệ thuật của ý lớn, tình sâu trong lời hay, ý đẹp
    ..thơ tượng trưng cho những gì đẹp đẽ, tinh túy, lí tưởng trong cuộc sống và những
    gì cao quý đằm thắm, thiết tha nhất trong lòng người”…Tóm lại, ngôn ngữ thơ là
    ngôn ngữ mang tính hình tượng, đầy cảm xúc, giàu nhạc tính, hàm súc…
    Từ những tổng kết trên phương diện lí luận như trên cần rút ra kết luận có
    phương pháp luận khi dạy học thơ trữ tình là phải phân tích cảm xúc, nhân vật trữ
    tình và ngôn ngữ.
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 11
    b. Thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX
    Thơ giai đọạn này vừa kế tục những đổi mới theo hướng hiện đại của thơ ở giai
    đoạn 1930-1945, đồng thời cũng tìm về nhiều yếu tố của thơ ca dân gian, thơ cổ
    điển; mặt khác, lại có những tìm tòi, cách tân về phương thức nghệ thuật để phù hợp
    với thời đại mới, với tư tưởng, cảm xúc của con người thời đại.
    Thơ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở rộng phạm vi phản ánh hiện
    thực theo hướng tăng cường chất liệu đời sống, nhất là đời sống cách mạng và
    kháng chiến. Thơ đã ghi lại được nhiều hình ảnh chân thực, sinh động về con người,
    về đất nước, về nhân dân trong hai cuộc kháng chiến và công cuộc xây dưng sau
    chiến tranh. Đồng thời, thơ cũng là sự biểu hiện tập trung những tình cảm, cảm xúc
    tiêu biểu và bao trùm trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam trong một
    thời kì lịch sử đầy biến động ở chặng đường 1945-1975. Thơ tập trung thể hiện
    những tình cảm chung của dân tộc, nhân dân như tình quê hương, lòng yêu nước, ý
    chí chiến đấu giành độc lập tự do, tình đồng bào, đồng chí, tình cảm hậu phương
    với tiền tuyến, lòng kính yêu của nhân dân với lãnh tụ,… Những tình cảm riêng tư
    của con người như tình mẹ con, cha con, tình yêu đôi lứa, luôn được đặt trong sự
    thống nhất với tình cảm chung mang tính cộng đồng. Nền thơ cách mạng từ sau
    Cách mạng tháng Tám 1945 đề cao xu hướng tăng cường tính hiện thực của thơ,
    chủ trương “mở rộng cánh cửa cho cuộc sống vào thơ, cho thơ đi vào cuộc sống”
    (Xuân Diệu), đã tạo điều kiện đưa ngôn ngữ của đời sống hằng ngày, khẩu ngữ,
    ngôn ngữ sinh hoạt, làm ăn của quần chúng, cả ngôn ngữ chính trị, quân sự vào thơ.
    Mặt khác, do nhu cầu nâng cao sức khái quát, triết lí, suy tưởng nên ngôn ngữ thơ
    cũng gia tăng chất trí tuệ, sử dụng nhiều biểu tượng, tượng trưng.
    Từ sau năm 1975, nhất là từ thời kì đổi mới, thơ được mở rộng biên độ cả về
    chất liệu thi ca cũng như nội dung trữ tình, đề cập tới mọi phương diện của đời sống
    cá nhân và đời sống xã hội, thức tỉnh ý thức cá nhân, nhận thức lại nhiều vấn đề của
    quá khứ và hiện tại, hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản bền vững. Về hình
    thức nghệ thuật, thơ từ sau năm 1945 một mặt tiếp tục khai thác những hình thức
    quen thuộc trong truyền thống thơ ca dân tộc, nhất là thơ ca dân gian, đồng thời tiếp
    tục con đường hiện đại hoá về hình thức thơ của thơ mới 1932-1945. Xu hướng tự
    do hoá hình thức thơ đã được khởi phát từ thơ mới, đến sau năm 1945 và nhất là từ
    sau năm 1975 càng được đẩy mạnh.
    Quan sát tiến trình thơ có thể thấy sự biến đổi rất rõ của ngôn ngữ thơ trong sự
    biến đổi của các thời đại thi ca, trong các loại hình thơ. Trong thơ trung đại, do sự
    chi phối của cảm quan thời trung đại về vũ trụ và nhân sinh, do quan niệm mĩ học
    thiên về tính cân xứng, tính sùng cổ mà ngôn ngữ thơ đậm tính ước lệ, tượng trưng.
    Sự sáng tạo về ngôn ngữ của nhà thơ hướng vào việc lựa chọn từ ngữ cho đắt, sắp
    đặt câu thơ cho chỉnh với các quy định về niêm, luật. Thơ hiện đại giải phóng chủ
    thể trữ tình thoát khỏi những ràng buộc khắt khe, tạo điều kiện phát triển cái tôi cá
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 12
    nhân – cá thể, từ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc và mọi cảm giác. Phù hợp với điều
    đó, ngôn ngữ thơ cũng thoát khỏi tình trạng nặng nề tính trang nhã, ước lệ, dày đặc
    điển cố từ chương sách vở để gần gũi hơn với tình cảm, cảm xúc chân thực và tự
    nhiên của con người. Tổ chức ngôn ngữ của câu thơ cũng chuyển sang hướng gần
    với lời nói.
    2.2.2. Nguyên tắc sắp xếp các tác phẩm thơ trong SGK Ngữ văn 12
    Việc sắp xếp các văn bản văn học chủ yếu dựa vào hai tiêu chí: tiêu chí về thể
    loại và tiêu chí về lịch sử văn học. Ngoài việc nắm vững đặc trưng của từng thể loại,
    giáo viên còn phải nắm được các tác phẩm thơ trong sách Ngữ văn 12 được sắp xếp
    theo tiêu chí về lịch sử văn học.
    Việc nắm bắt được tiêu chí ấy sẽ giúp giáo viên hệ thống được kiến thức cơ
    bản chính xác và giúp học sinh nắm được đặc trưng thể loại của từng giai đoạn.
    2.2.3. Hệ thống kiến thức cơ bản của từng tác phẩm thơ trữ tình chống Pháp

    TTTác phẩmHoàn cảnh sáng tácNội dungNghệ thuật
    1Tây Tiến
    (Quang
    Dũng)
    – Bài thơ được viết
    năm 1948
    – Khi nhà thơ rời xa
    đợn vị cũ trong nỗi
    nhớ thiết tha. Lúc
    đầu bài thơ có tên là
    “Nhớ Tây Tiến”, sau
    đổi thành “Tây
    Tiến”
    – Được in trong tập
    “Mây đầu ô”
    – Khắc họa tuyệt đẹp
    bức tranh thiên nhiên
    Tây Bắc hùng vĩ dữ
    dội, thơ mộng trữ tình.
    – Xây dựng bức tượng
    đài bất tử về người
    lính Tây Tiến hào
    hùng, hào hoa và bi
    tráng.
    – Tất cả được đan dệt
    trong nỗi nhớ thương
    lưu luyến của nhà thơ
    về mảnh đất và con
    người một thời gắn
    bó. Từ đó, thể hiện
    tình cảm trân trọng,
    tự hào quá khứ, tình
    yêu sâu nặng với đông
    đội, với đất nước quê
    hương.
    – Thể thơ thất ngôn
    – Ngôn ngữ thơ có
    lúc gần gũi, giản
    dị, có lúc trang
    trọng cổ kính.
    – Hình ảnh thơ vừa
    lãng mạn vừa đậm
    chất hiện thực
    – Giọng điệu thơ
    thay đổi theo dòng
    xúc cảm.
    – Sử dụng bút pháp
    tả thực kết hợp với
    lãng mạn.
    – Phối hợp các biện
    pháp tu từ: điệp từ,
    ẩn dụ, đối lập
    tương phản, nhân
    hóa, nói giảm nói
    tránh…
    2Việt Bắc
    (Tố Hữu)
    – Tháng 10 – 1954,
    những người kháng
    chiến từ căn cứ
    miền núi về miền
    xuôi.
    – Khắc họa bức tranh
    tuyêt đẹp về thiên
    nhiên Việt Bắc vừa
    thơ mông trữ tình, vừa
    hùng vĩ dữ dội, bức
    – Thể thơ lục bát
    đậm đà tính dân
    tộc.
    – Bài thơ được viết
    theo lối kết cấu đối

    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 13

    – Trung ương Đảng
    quyết định rời chiến
    khu Việt Bắc về lại
    thủ đô.
    – Nhân sự kiện có
    tính chất lịch sử ấy,
    Tố Hữu sáng tác bài
    thơ Việt Bắc.
    – Bài thơ nằm trong
    tâp thơ Việt Bắc
    (1946- 1954)
    tranh về cuộc sống
    gian khổ thiếu thốn
    nhưng sâu đậm nghĩa
    tình.
    – Thể hiện tình cảm
    lưu luyến , bịn rịn của
    những người cán bộ
    Cách Mạng về xuôi
    với đồng bào Việt Bắc
    và đó cũng là tình cảm
    của người dân Việt
    Bắc với cán bộ Cách
    Mạng; thể hiện tình
    nghĩa thủy chung gắn
    bó, tình cảm uống
    nước nhớ nguồn làm
    dạt dào thêm tình yêu
    quê hương đất nước
    trong tâm hồn mỗi
    người dân Việt Nam.
    đáp thường gặp
    trong ca dao dân
    ca.
    – Ngôn ngữ thơ
    giản dị, mộc mạc,
    gần gũi đậm sắc
    thái dân gian.
    -Hình ảnh thơ chân
    thực nhưng đậm
    sắc thái thẩm mĩ,
    có khả khơi gợi
    nhiều xúc cảm.
    – Giọng thơ ngọt
    ngào sâu lắng thiết
    tha, có khi mạnh
    mẽ hào hùng.
    – Các biện pháp tu
    từ phong phú, linh
    hoạt: điệp từ, ngữ,
    so sánh quen thuộc
    của ca dao, đối
    lập….

    2.3. Xây dựng kiến thức, kĩ năng làm bài.
    2.3.1. Xác định dạng đề
    + Cảm nhận/ phân tích một đoạn thơ/ bài thơ không có định hướng
    + Cảm nhận/ phân tích một đoạn thơ/ bài thơ có định hướng
    + Cảm nhận/ phân tích một đoạn thơ/ bài thơ. Từ đó nhận xét một yếu tố
    thuộc về nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, phong cách của tác giả….
    – Cảm nhận đoạn thơ/ bài thơ để làm sáng tỏ một ý kiến, một nhận định.
    2.3.2. Các bước làm bài
    Gồm 3 bước
    – Bước 1: Tìm hiểu đề và lập dàn ý
    Đây là thao tác mà nhiều học sinh bỏ qua trong quá trình làm bài NLVH mà
    không ý thức được được nó đóng vai trò rất quan trọng giúp các em có thể xác định
    đúng kiểu bài, xác định đúng vấn đề nghị luận, xây dựng hệ thống luận điểm, phạm
    vi tư liệu dẫn chứng cũng như lựa chọn các thao tác lập luận cơ bản để hình thành
    cấu trúc bài viết một cách đầy đủ và khoa học nhất. Nên dành cho thao tác này
    khoảng 3– 5 phút.
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 14
    – Bước 2: Viết bài (Chính là phần trọng tâm của sáng kiến)
    – Bước 3: Đọc lại và sửa lỗi
    2.3.3. Kĩ năng làm bài
    2.3.3.1. Kĩ năng viết bài nghị luận về thơ.
    Văn bản thơ trước hết là một văn bản văn học cho nên cảm thụ, phân tích thơ
    cần tuân theo những yêu cầu, những phương pháp chung của kiểu bài cảm thụ,
    phân tích tác phẩm văn học: cần tìm hiểu, đánh giá về giá trị nội dung tư tưởng và
    giá trị nghệ thuật của bài thơ trong mối liên hệ với tác giả và thời đại. Khi phân tích
    có thể chia tách hoặc kết hợp hai mặt nội dung và nghệ thuật. Mặt khác, thơ thuộc
    loại hình tác phẩm trữ tình nên ngoài những đặc điểm chung của văn bản văn học
    còn có những đặc điểm riêng của thể loại. Do đó, phương pháp, kĩ năng làm bài
    cảm nhận, phân tích văn bản thơ cũng có những điểm khác biệt so với văn xuôi, kí
    và kịch.
    * Khi tìm hiểu, phân tích văn bản thơ, học sinh cần chú ý:
    – Học thuộc lòng văn bản thơ, vì việc thuộc lòng văn bản sẽ giúp học sinh
    nắm vững tác phẩm, lắng nghe được giọng điệu, nhịp điệu của tác phẩm, trên cơ sở
    đó có căn cứ khoa học, xác đáng và chủ động, dễ dàng hơn trong việc phân tích, lí
    giải.
    – Nắm vững xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của bài thơ bởi thơ không trực tiếp kể
    về những sự kiện nhưng mỗi bài thơ thường được gợi lên từ một sự kiện nào đó của
    cuộc sống. Bởi vậy, để hiểu sâu sắc về bài thơ cần đặt nó trong hoàn cảnh ra đời để
    thấy mối quan hệ giữa nội dung, ý nghĩa của nó với thời đại, để hiểu thông điệp
    thực sự mà tác giả muốn gửi tới người đọc.
    – Nắm bắt được cảm hứng chủ đạo của tác phẩm và sự thể hiện của cái tôi
    trữ tình (nhân vật trữ tình, chủ thể trữ tình) trong bài thơ.
    – Hiểu được vị trí, nội dung ý nghĩa của từng khổ thơ, đoạn thơđặt trong
    chỉnh thể tác phẩm.
    – Hiểu được những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ (đối với thơ chủ yếu là từ
    ngữ, hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, các biện pháp nghệ thuật, giọng điệu, nhịp
    điệu…)
    – Nắm được ảnh hưởng, tác dụng, ý nghĩa của bài thơ trong sự nghiệp sáng
    tác của tác giả và trong nền văn học nói chung.
    * Tìm hiểu các kiểu, dạng đề thi TN THPT về văn bản thơ, chúng tôi nhận
    thấy có thể chia thành bốn dạng bài như sau:
    – Một là: cảm thụ, phân tích một bài thơ hoặc một đoạn thơ thuần tuý (thông
    thường, không theo định hướng)
    – Hai là: cảm thụ, phân tích một bài thơ hoặc đoạn thơ theo định hướng
    – Ba là: cảm nhận/ phân tích một đoạn thơ/ bài thơ. Từ đó nhận xét một yếu
    tố thuộc về nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, phong cách của tác giả….
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 15
    – Bốn là: cảm nhận /phân tích một đoạn thơ/ bài thơ để làm sáng tỏ một ý
    kiến, một nhận định.
    Mỗi dạng bài này lại có phương pháp, kĩ năng làm bài riêng.
    2.3.3.2. Gợi ý hệ thống đề bài ở từng tác phẩm thơ trữ tình chống Pháp.
    a. Tây Tiến – Quang Dũng
    * Các dạng đề
    – Dạng 1: Cảm nhận/phân tích từng đoạn thơ trong bài thơ.
    – Dạng 2: Cảm nhận/phân tích từng đoạn thơ có định hướng. Đó có thể là:
    + Những vấn đề về phương diện nội dung như: vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây
    Bắc Bộ (hẹp hơn có thể là vẻ đẹp dữ dội, hiểm trở hoặc vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình);
    vẻ đẹp người lính Tây Tiến (hẹp hơn có thể là vẻ đẹp hào hung, hào hoa hoặc bi
    tráng); cảm hứng lãng mạn, tinh thần bi tráng;….
    + Những vấn đề về nghệ thuật: Nghệ thuật thể hiện tài hoa; bút pháp lãng
    mạn; ngôn ngữ thơ giàu chất họa, chất nhạc,…
    + Phong cách tác giả,…
    – Dạng 3: Cảm nhận/ phân tích đoạn thơ/ bài thơ. Từ đó nhận xét một yếu tố
    thuộc về nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, phong cách của tác
    giả….Phần nhận xét có thể là:
    + Những vấn đề thuộc nội dung, tư tưởng: đặc điểm của chiến trường Tây
    Bắc, vẻ đẹp của thiên nhiên, người lính Tây Tiến, tinh thần bi tráng, sự vận động
    của cảm xúc thơ…
    + Những vấn đề thuộc nghệ thuật: bút pháp xây dựng hình tượng, bút pháp
    hiện thực lãng mạn, cách sử dụng ngôn ngữ thơ, tính nhạc và tính họa trong thơ….
    + Những vấn đề thuộc phong cách nghệ thuật của nhà thơ: hồn thơ lãng mạn
    tài hoa, cách cảm nhận độc đáo, sáng tạo
    – Dạng 4: cảm nhận / phân tích một đoạn thơ/ bài thơ để làm sáng tỏ một ý
    kiến, một nhận định. Có thể làm rõ
    + Một phương diện nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm
    + Phong cách tác giả
    + Lí luận văn học.
    * Một số đề bài gợi ý:
    – Dạng 1:Cảm nhận/phân tích từng đoạn thơ trong bài thơ.
    Đề số 1: Cảm nhận 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến
    “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
    Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
    Mường Lát hoa về trong đêm hơi
    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thảm
    Heo hút cồn mây sung ngửi trời
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 16
    Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
    Nhà ai Pha Luôn mưa xa khơi
    Anh bạn dãi dầu không bước nữa
    Gục lên sung mũ bỏ quên đời
    Chiều chiều oai linh thác gầm thét
    Đêm đêm mường hịch cọp true người
    Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
    ( Tây Tiến- Quang Dũng – trích Ngữ văn 12- tập I)
    Đề số 2: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến
    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
    Quân xanh màu lá dữ oai hùm
    Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
    Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
    Áo bào thay chiếu anh về đất
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
    ( Tây Tiến- Quang Dũng – trích Ngữ văn 12- tập I)
    Đề số 3: Phân tích bài thơ Tây Tiến
    – Dạng 2: Cảm nhận/phân tích từng đoạn thơ có định hướng.
    Đề số 4: Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến của
    Quang Dũng ( Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2016).
    Đề số 5: Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến trong đoạn thơ
    sau:
    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
    Kìa em xiêm áo tự bao giờ
    Khèn lên man điệu nàng e ấp
    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
    Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
    Có nhớ dáng người trên độc mộc
    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
    ( Tây Tiến- Quang Dũng – trích Ngữ văn 12- tập I)
    Đề số 6: Phân tích chất nhạc và chất họa trong đoạn thơ sau (hoặc phân tích
    vẻ đẹp của thiên nhiên và con người):
    “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
    …………………………………
    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 17
    Đề số 7: Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lính trong đoạn thơ sau:
    “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
    …..
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
    Đề số 8: Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lính trong bài thơ Tây
    Tiến của Quang Dũng ( Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2016).
    Đề số 9: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ “Tây Tiến”
    của Quang Dũng.
    – Dạng 3: Cảm nhận/ phân tích đoạn thơ/ bài thơ. Từ đó nhận xét một yếu tố
    thuộc về nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, phong cách của tác giả
    Đề số 10: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
    “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
    ………………………………
    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
    Từ đó nhận xét về đặc điểm của chiến trường Tây Bắc đối với người lính Tây
    Tiến
    Đề số 11:Trong bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng viết:
    “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
    ……………………………………
    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

    “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    ………………………………..
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
    Phân tích hình tượng người lính trong hai đoạn thơ trên . Từ đó cảm nhận về
    bút pháp xây dựng hình tượng của tác giả
    Đề số 12: Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã hai lần nhắc đến sự hi
    sinh của người lính Tây Tiến
    “ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
    Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

    “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    ………………………………….
    Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
    Cảm nhận hình tượng người lính trong hai đoạn thơ trên.Từ đó nhận xét về tinh
    thần bi tráng của hình tượng.
    Đề số 13: Trong bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng viết
    “ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
    ………………………………………..
    Rèn kĩ năng nghị luận thơ trữ tình chống Pháp ( Ngữ văn 12) nhằm giúp HS đạt điểm cao trong kì thi TN THPT
    Trang 18
    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
    Trình bày cảm nhận của anh/ chị trong đoạn thơ trên, từ đó nhận xét cảm
    hứng lãng mạn của Quang Dũng trong đoạn thơ.
    – Dạng 4: cảm nhận/ phân tích một đoạn thơ/ bài thơ để làm sáng tỏ một ý kiến,
    một nhận định.
    Đề số 14: Có ý kiến cho rằng : “ Tây Tiến gợi nhớ một thời chiến đấu gian
    khổ nhưng giàu chất thơ của một đoàn quân đã đi vào huyền thoại” . Anh/ chị hãy
    làm sáng tỏ ý kiên trên qua đoạn thơ sau:
    “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
    ………………………………
    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
    (Trích Tây Tiến – Quang Dũng – SGK Ngữ Văn 12 tập 1)
    Đề số 15: Có ý kiến cho rằng: “Sáng tạo của người nghệ sĩ trong nghệ thuật
    là không lặp lại người khác, thậm chí không lặp lại chính mình”. Anh/chị hãy làm
    sáng tỏ ý kiến trên qua đoạn thơ sau:
    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
    Heo hút cồn mây súng ngửi trời
    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
    …….
    Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
    Có nhớ dáng người trên độc mộc
    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
    (Trích Tây Tiến – Quang Dũng – SGK Ngữ Văn 12 tập 1)
    Đề số 16: Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng,
    có ý kiến cho rằng :“người lính ở đây vừa có dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước
    vừa mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp hôm nay”.
    Bằng hiểu biết về hình tượng người lính trong bài thơ, anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý
    kiến trên.
    Đề số 17: Có ý kiến cho rằng ‘Thi phẩm Tây Tiến đã được chạm khắc bằng
    một thứ ngôn ngữ rất độc đáo và mang sức sống kì diệu của một thời binh lửa”.
    Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến đó qua đoạn thơ sau:
    “ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
    Heo hút cồn mây súng ngửi trời
    Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
    (Trích Tây Tiến – Quang Dũng – SGK Ngữ Văn 12 tập 1)

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà trường THPT theo hướng tiếp cận văn bản

    SKKN Dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà trường THPT theo hướng tiếp cận văn bản

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong những năm gần đây, thực tế dạy học Văn nhất là ở các trường trung
    học phổ thông, vai trò hành dụng của môn Ngữ văn với tư cách là môn học công
    cụ chưa phát huy đúng mức, khả năng vận dụng tri thức của học sinh còn nhiều
    hạn chế, chưa khơi dậy khả năng sáng tạo của học sinh.
    Điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn, học sinh tỏ ra thờ ơ với việc học
    văn, không nhận thấy tầm quan trọng của môn học này trong cuộc sống, đây là
    điều mà những nhà giáo dục không khỏi băn khoăn, trăn trở. Môn Ngữ văn vừa
    là một môn khoa học vừa là một môn nghệ thuật. Để cảm thụ và hiểu tác phẩm
    văn chương thì người đọc cần có những hiểu biết nhất định về văn hóa, văn học,
    khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đặc biệt tri thức văn hóa – tri thức nền tảng
    sẽ là cơ sở để người đọc tự mình khám phá tác phẩm, đến với hình tượng văn
    học, với thế giới nghệ thuật của nhà văn. Do vậy, việc cần thiết với mỗi nhà giáo
    dục hiện nay là cần cung cấp tri thức nền tảng, tri thức công cụ, tri thức phương
    pháp để các em có khả năng tự học, tự đọc, tự sáng tạo.
    Bước sang thế kỉ XX, đời sống văn học phương Tây trở nên phong phú đa
    dạng với nhiều trường phái lý thuyết. Sự ra đời của khái niệm về văn bản được
    đã làm thay đổi quan niệm của các nhà nghiên cứu về tác phẩm văn học, cấu
    trúc tác phẩm, về vị trí của tác giả văn học. Nửa cuối thế kỉ XX, khái niệm tính
    liên văn bản gắn với tên tuổi các nhà nghiên cứu F.Saussure, Bakhtin, đặc biệt là
    Julia Kristeva đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà lí luận trên thế giới.
    Việc nghiên cứu lý thuyết văn học phương Tây ở Việt Nam đã đạt được nhiều
    thành tựu đáng kể trong đó có lí thuyết liên văn bản. Các vấn đề lý luận mà
    trước thời kì đổi mới bị lãng quên nay được các nhà nghiên cứu xem xét lại một
    cách khách quan và khoa học. Tuy nhiên, những thành tựu đó lại chưa thật sự
    được vận dụng phổ biến vào dạy học Ngữ văn trong chương trình phổ thông.
    Nhiều giáo viên vận dụng lý thuyết liên văn bản một cách tự phát mà không biết
    mình đang vận dụng nên chưa phát huy hết hiệu quả của việc dạy học Ngữ văn
    4
    theo hướng tiếp cận liên văn bản. Trong khi đó, thực tế cho thấy người giáo viên
    Ngữ văn muốn học sinh yêu mến môn học của mình trước hết cần khơi gợi ở các
    em khát khao khám phá, sáng tạo, mở rộng tầm hiểu biết ở nhiều lĩnh vực, dạy
    học theo hướng tiếp cận liên văn bản sẽ là một trong những hướng khả thi nhất.
    Nguyễn Tuân là một tác giả văn học lớn được học trong chương trình phổ
    thông, tác phẩm của ông được học xuyên suốt từ lớp 11 đến lớp 12. Ông bước
    vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ và cũng là một nhà văn nổi tiếng
    bởi phong cách tài hoa uyên bác, đề cao tuyệt đối cái thật, cái đẹp trong cuộc
    sống. Tác phẩm của ông luôn hấp dẫn bạn đọc bởi cách kể chuyện, cách xây
    dựng hình tượng nghệ thuật, cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo. Đặc biệt, Nguyễn
    Tuân luôn có ý thức liên văn bản trong các sáng tác của mình, các tác phẩm của
    ông luôn thấm đẫm chất văn hóa, đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm
    mỹ, những tri thức uyên bác. Truyện ngắn Chữ người tử tù, tùy bút Người lái đò
    Sông Đà là hai trong những tác phẩm xuất sắc chứa nhiều tri thức văn hóa, liên
    văn bản tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng
    Tám năm 1945.
    Từ những lí do trên cùng với việc việc khảo sát sơ bộ các công trình
    nghiên cứu, bài viết của các tác giả về các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà
    trường, chúng tôi chúng tôi mạnh dạn khai thác đề tài: Dạy học các tác phẩm
    của Nguyễn Tuân trong chương trình Trung học phổ thông theo hướng tiếp
    cận liên văn bản, hi vọng đề tài góp phần phát huy tính tích cực và tạo hứng thú
    yêu thích môn Văn ở học sinh.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Yêu cầu cần dạy học văn theo hướng tiếp cận liên văn bản
    Thông thường khi tiếp nhận một tác phẩm văn học, chúng ta luôn cố gắng
    tìm hiểu cắt nghĩa tác phẩm và xem xét tác phẩm đó có hay, hấp dẫn hay không.
    Và một tâm lý mà đã trở thành thói quen là chỉ quan tâm đến ấn tượng về tác
    phẩm làm điểm xuất phát để lý giải vì sao tác phẩm hay, có ý nghĩa. Điều đó dẫn
    5
    tới việc người đọc khi đọc hiểu, phân tích tác phẩm thoát li văn bản và chỉ dựa
    vào ấn tượng ban đầu. Theo tác giả Trần Đình Sử ngôn ngữ của tác phẩm chi
    phối sự cảm thụ ý nghĩa tác phẩm tức là ý nghĩa tác phẩm do ngữ cảnh hạn định.
    Ngữ cảnh bao gồm các quy tắc ngôn ngữ của tác phẩm, bối cảnh văn hóa, xã hội
    của người đọc và tác giả, cùng mọi thứ liên quan tới tác phẩm, tác giả, người
    đọc. Cái khó chính là ở đây. Chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt được hết
    mọi ngữ cảnh và do đó không bao giờ có thể hiểu hết mọi cung bậc ý nghĩa tác
    phẩm. Do đó để hiểu tác phẩm chúng ta phải nắm được toàn bộ ngữ cảnh, nhưng
    ngữ cảnh trực tiếp đầu tiên là các quy tắc ngôn ngữ của văn bản mà tối thiểu
    phải hiểu ý nghĩa của các từ, các câu, đoạn và nghĩa của toàn bài. Mặt khác một
    tác phẩm hay cũng sẽ do ngôn từ gợi ra. Tuy nhiên khi đọc một tác phẩm người
    đọc bằng vốn văn hóa, hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống… của mình để cảm thụ
    tác phẩm, thậm chí “bởi vì người đọc tham gia vào việc hoàn thành tác phẩm,
    cho nên khi đọc văn bản tác phẩm họ không giản đơn là chỉ đọc văn bản, mà
    đọc cả sự cảm thụ của chính mình, họ thường phân tích cả sự cảm thụ của mình
    mà không biết” [22].
    Theo lí thuyết tiếp nhận, tác phẩm văn học luôn là một hệ thống mở. Điều
    đó có nghĩa là cùng một tác phẩm văn học nhưng mỗi người đọc khi tiếp nhận sẽ
    có những cảm nhận khác nhau tuỳ theo tâm trạng và nhận thức của họ. Học sinh
    cũng là một bạn đọc và do vậy các em cũng sẽ có những cảm nhận của riêng
    mình đối với tác phẩm được học. Nếu giáo viên cảm nhận thay hay gò ép các em
    theo cảm nhận chủ quan của mình thì vô tình đã triệt tiêu mất khả năng tư duy
    sáng tạo, khả năng tưởng tượng vô cùng phong phú ở các em.
    Kristeva cho rằng: “bất kì văn bản nào cũng được cấu trúc như là sự ghép
    mảnh của các trích dẫn; bất kì văn bản nào cũng là sự hấp thụ và chuyển đổi
    của các văn bản khác” [4, tr.19]. Theo R.Barthes “Mỗi văn bản là một liên văn
    bản; những văn bản khác có mặt trong nó ở những cấp độ khác nhau, giữa
    những hình thái ít nhiều nhận thấy được: những văn bản của văn hóa trước đó
    và những văn bản của văn hóa thực tại chung quanh. Mỗi văn bản đều như là
    6
    một tấm vải mới được dệt bằng những trích dẫn cũ. Những đoạn của các mã văn
    hóa, các định thức, các cấu trúc nhịp điệu, những mảnh vụn biệt ngữ xã hội …
    – tất cả đều bị văn bản ngốn nuốt và đều bị hòa trộn trong văn bản, bởi vì trước
    văn bản và xung quanh nó bao giờ cũng tồn tại ngôn ngữ” [12, tr.444 – 445].
    Dựa vào những khái niệm trên, có thể hiểu: Liên văn bản là sự đồng hiện của
    hai hay nhiều văn bản trong một văn bản ra đời trước đó hoặc cùng thời, được
    tác giả tạo lập bằng ý thức hoặc vô thức. Người đọc tiếp nhận trong thực tiễn
    giao tiếp nghệ thuật bằng vốn sống trải nghiệm và tri thức của bản thân họ, từ
    đó các giá trị văn hóa sẽ không ngừng nảy sinh từ văn bản.
    Liên văn bản là một lí thuyết có ý nghĩa như một phương pháp đọc văn
    bản, trọng tâm của nó chuyển tới chủ thể tiếp nhận. Thuật ngữ “liên văn bản”
    ngụ ý cả phương pháp đọc song hành văn bản để khám phá những điểm tương
    đồng và khác biệt cũng như tin rằng mọi văn bản và tư tưởng đều là một bộ phận
    và một phần trong tấm dệt các mối quan hệ văn bản, tư tưởng xã hội và lịch sử.
    Nhìn chung, liên văn bản đưa ra cú đột phá quan trọng vào những quan điểm
    trước đó về văn bản như một khối tự trị tách biệt về tư tưởng và lịch sử. Đọc liên
    văn bản vì vậy phải vượt qua rào cản cực đoan và thách thức sự bất khả xâm
    phạm từng được thừa nhận về thể loại bằng cách chứng minh rằng mọi văn bản
    và tư tưởng đều hấp thu từ những ngọn nguồn tư tưởng tương tự” [2, tr.23]. Việc
    tiếp cận văn bản theo hướng LVB tức là dạy các em biết cách đọc LVB là hướng
    đổi mới đã, đang và được áp dụng ở nhiều trường phổ thông.
    Trong bài viết Về việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học Ngữ
    văn ở trường phổ thông, tác giả Phan Huy Dũng đã chỉ rõ những ý nghĩa của
    việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy ngữ văn ở trường phổ thông: Đưa
    hoạt động dạy văn thoát khỏi tình trạng sơ cứng về phương pháp; Góp thêm cứ
    liệu cho việc xác định tính đặc thù của dạy học tích hợp ở môn Văn; Làm giàu
    kiến thức văn, văn hóa, và bồi đắp khả năng sáng tạo cho HS [28, tr.397-400-
    402]. Dạy học văn theo hướng tiếp cận LVB sẽ là một hướng đi đúng khi đọc
    hiểu văn bản GV xuất phát từ văn bản và khai thác triệt để vốn kinh nghiệm, vốn
    7
    sống, hiểu biết của HS. Và việc đầu tiên để học viên tiếp cận tác phẩm theo
    hướng liên văn bản không gì khác chính là phải hiểu bối cảnh, ngữ cảnh của tác
    phẩm, đặt tác phẩm trong mối quan hệ với các văn bản khác, các yếu tố khác
    theo chiều lịch đại hay đồng đại. Hay nói dễ hiểu hơn việc soạn văn ở nhà các
    em sẽ cần đọc nhiều tài liệu hơn, biết tự đánh giá, khái quát, có lẽ đó cũng là
    một con đường đổi mới học văn hiện nay. Học sinh được tự mình đối thoại với
    tác phẩm, với nhà văn theo cách riêng của mình. Như thế, cá tính sáng tạo của
    HS sẽ được khẳng định, được chắp cánh. Mối quan hệ giữa tác giả – văn bản –
    độc giả là một yêu cầu không thể thiếu trong dạy học văn, học sinh sẽ từng bước
    trở thành đồng sáng tạo của tác giả, nghĩa là phát huy tối đa khả năng sáng tạo,
    làm chủ của HS trong mỗi giờ học. Nghĩa là chúng ta đang đưa HS về vai trò
    người học là trung tâm của quá trình dạy học (một yêu cầu đổi mới trọng tâm
    hiện nay). Lý thuyết liên văn bản cho thấy việc “khai sinh ra người đọc” tạo nên
    tính đối thoại giữa tác giả – người đọc. Mỗi người đọc sẽ tạo ra cho mình một
    văn bản phái sinh. Văn bản giờ đây không chỉ đơn giản là một cuốn sách, một
    bài viết trên giấy mà có thể là một bức tranh, một bản nhạc, một tác phẩm điện
    ảnh, hay một đường link internet… Xem tác phẩm đang giảng dạy trong chuỗi
    liên văn bản mới sẽ góp phần mở rộng ý nghĩa văn bản cũng như trường liên
    tưởng cho người học, từ đó tạo hứng thú, yêu thích văn chương, phát triển năng
    lực cảm thụ, năng lực sáng tạo của HS.
    Dạy học văn theo hướng liên văn bản, giáo viên cần phải có một phông
    văn hóa, vốn kiến thức văn học sâu rộng, năng lực nắm bắt và giải mã các ký
    hiệu, những kiến thức thu nhận trong quá trình sống, trong môi trường văn hóa
    và khả năng liên tưởng mạnh mẽ để định hướng HS kiến giải tác phẩm theo
    quan điểm riêng của các em. Giáo viên còn cần có tầm bao quát rộng rãi đối với
    những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực, các loại hình sáng tác không thuộc phạm trù
    văn học như: điện ảnh, âm nhạc, hội họa,…Theo tác giả Phan Huy Dũng người
    giáo viên còn cần hiểu được những quyền lực văn hóa chi phối hoạt động sáng
    tạo của nhà văn, để từ đó có những vận dụng linh hoạt trong bài học [16, tr.408].
    8
    1.2. Khảo sát thực trạng dạy học văn nói chung và dạy tác phẩm Chữ người
    tử tù, Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân nói riêng
    1.2.1. Thực trạng dạy văn nói chung
    Ngữ văn vừa là môn học công cụ vừa là môn học nghệ thuật có đặc thù
    riêng, là lĩnh vực thẩm mĩ của sáng tạo cá nhân, mỗi tác phẩm văn chương không
    chỉ đem lại thông tin mà còn là một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ đòi hỏi sự khám phá,
    liên tưởng của người đọc. Trong những năm gần đây, mặc dù được sự quan tâm
    của xã hội, môn Ngữ văn luôn là một trong những môn học quan trọng ở nhà
    trường phổ thông, song học sinh lại không yêu mến môn môn Ngữ văn, ít lựa
    chọn khối thi có môn Văn, thậm chí là không muốn học môn Văn (nếu không
    phải do Bộ giáo dục quy định môn thi bắt buộc trong kì thi THPT Quốc gia thì
    có lẽ số lượng HS đăng kí môn học này sẽ rất ít). Học sinh không tự nghiên
    cứu, thậm chí không đọc tác phẩm để tìm hiểu, khám phá mà chủ yếu chép lại và
    dựa vào gợi ý hướng dẫn của các sách tham khảo, văn mẫu…Vậy đâu là nguyên
    nhân của tình trạng trên? Câu trả lời có lẽ mỗi chúng ta đều thấy rất rõ từ nhiều
    năm nay.
    – Có lẽ điều đầu tiên mà ai cũng nhận thấy đó chính là phương pháp dạy
    học còn nhiều hạn chế. Không phải ngẫu nhiên mà Bộ GD& ĐT luôn tập huấn
    công tác chuyên môn, yêu cầu mỗi GV phải tự học tập, tự bồi dưỡng, luôn luôn
    đổi mới phương pháp giảng dạy. Lâu nay, nhiều giáo viên đang còn dạy học
    theo cách cũ, vẫn là dạy TPVH chỉ bó hẹp trong phạm vi văn bản văn học, ít
    hướng dẫn cho HS thói quen, kĩ năng liên hệ, mở rộng sang những vấn đề khác
    có liên quan. Dường như người giáo viên chú trọng quá nhiều đến văn bản, mà
    quên mất nhu cầu tự khám phá, tự cảm thụ của HS. Vì thế, học sinh luôn là
    người “lắng nghe” chứ không phải là người “nhập cuộc”, dẫn tới HS gần như bị
    tê liệt về cảm xúc, về hứng thú học tập và trở nên thụ động, lười suy nghĩ. Giáo
    viên vẫn còn thuyết giảng nhiều dẫn đến tình trạng HS ít được làm việc, ít có cơ
    hội bày tỏ chính kiến của bản thân; những kiến thức ngoài văn bản, những cách
    hiểu riêng của cá nhân HS ít được GV quan tâm tới. Một số giáo viên lại lại dạy
    9
    văn như nhà nghiên cứu văn học: tập trung phân tích quá sâu về tâm lí, về kĩ
    thuật ngôn từ, về phương pháp sáng tác…như những sinh viên khoa Văn, nhiều
    HS chán nản nhất là những HS thi khối A, B, các em sợ phải học Văn.
    – Một hạn chế nữa của quá trình dạy học môn Ngữ Văn là cả giáo viên và
    học sinh đều tồn tại tâm lý học để thi, dẫn đến tình trạng học nhồi nhét, thậm chí
    HS chỉ học thuộc lòng các bài cô phân tích để an toàn khi đi thi. Quy trình kiểm
    tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh chưa được hợp lí, chưa vừa sức, chưa
    có tác dụng tạo động lực cho học sinh học tập. Thầy cô giáo chủ yếu kiểm tra trí
    nhớ của HS chưa chú trọng vào việc phát huy năng lực cho HS. Bên cạnh đó,
    việc chấm, sửa bài cho học sinh cũng còn nhiều thiếu sót. Giáo viên trả bài cho
    học sinh không đúng thời gian quy định, thường là lâu hơn quy định, sửa bài
    không cụ thể, chi tiết. Phần lớn điểm số cho bài làm của học sinh thường ở mức
    trung bình, khá, rất ít điểm giỏi. Mặc dù có nhiều đổi mới song việc kiểm tra
    đánh giá vẫn chưa đem lại hứng thú và động cơ học tập cho HS.
    – Theo lí thuyết kiến tạo, chúng ta hiểu rõ học sinh phải là chủ thể tích cực
    xây dựng nên kiến thức cho bản thân mình dựa trên những kiến thức hoặc kinh
    nghiệm đã có từ trước. Giáo viên chỉ là người tổ chức, điều khiển, HS tự biến
    kiến thức của thầy cung cấp, tài liệu đọc được để biến thành kiến thức của bản
    thân, có như thế HS mới nhớ lâu được bài học. Nếu chỉ học vẹt thì sẽ mau chóng
    quên luôn. Nhưng chính cách dạy như trên cũng dẫn đến hệ quả kéo theo là cách
    học của HS học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng đọc hiểu văn bản,
    không thể đọc hiểu những văn bản tương tự. Học sinh chưa biết vận dụng những
    kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, thiếu sáng tạo và không biết cách tự
    học, thiếu động cơ học tập.
    – Một nguyên nhân khách quan không thể không nhắc tới đó chính là
    chúng ta đang ở thế kỉ XXI, kỉ nguyên của công nghệ thông tin, kĩ thuật số…
    Học sinh thay vì đến thư viện đọc sách, các em có thể tự tìm tài liệu trên máy
    tính, điện thoại smarphone của mình. Nhưng có một hiện trạng các em lại online
    để lướt facebook, buôn chuyện trên zalo, hay các trang mạng xã hội khác… Học
    10
    sinh hình thành thói quen ỉ lại, lười đọc sách, chỉ chờ đợi thụ động bài giảng của
    GV, không có động cơ học tập. Hơn nữa, do sự hội nhập toàn cầu đại đa số HS
    chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế, điều này đã ảnh
    hưởng đến nhận thức của phụ huynh, của HS về những môn học thời thượng
    như: Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ, các môn học các em có thể đi du học thuận lợi,
    hoặc ra trường dễ xin việc.
    Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT liên tục đổi mới với mong muốn
    đào tạo những công dân toàn cầu, có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng những
    đòi hỏi của thời đại mới. Bộ và Sở giáo dục đã triển khai nhiều chương trình tập
    huấn cho GV, cán bộ cốt cán về đổi mới phương pháp dạy học nhưng chưa có
    nhiều GV đổi mới, chịu khó đầu tư mà phần lớn chỉ được thể hiện ở các tiết hội
    giảng, còn bình thường vẫn chưa đổi mới.
    1.2.2. Thực trạng dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân
    Ở chương trình Ngữ văn THPT chương trình chuẩn, HS được tiếp cận hai
    tác phẩm của Nguyễn Tuân: Truyện ngắn Chữ người tử tù (Trích Vang bóng
    một thời) ở lớp 11 và tùy bút Người lái đò sông Đà (trích Tùy bút Sông Đà) ở
    lớp 12. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế giảng dạy ở trường THPT Nguyễn Huệ
    (TP Nam Định), chúng tôi nhận thấy thực trạng sau:
    * Thực trạng hoạt động dạy- học truyện ngắn Chữ người tử tù
    Tác phẩm Chữ người tử tù là một tác phẩm hay nhưng khó cảm thụ.
    Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách tài hoa, uyên bác, để hiểu tác phẩm của
    ông không hề dễ, kiến thức trong tác phẩm khá rộng bao gồm nhiều lĩnh vực
    như: lịch sử, văn hóa, văn học, xã hội. Đặc biệt cách xây dựng nhân vật mang
    tính lí tưởng hóa, các từ Hán Việt xuất hiện với tần số lớn, không gian nghệ
    thuật của tác phẩm gợi về một thời xa xưa xa lạ với HS hiện nay. Tuỳ vào quan
    điểm, năng lực của giáo viên và của học sinh, giáo viên khai thác tác phẩm theo
    nhiều cách khác nhau, dưới đây là hai hướng khai thác tiêu biểu: Hướng thứ
    nhất: Giáo viên đã khai thác “bổ dọc”, phân tích theo trình tự: nhân vật Huấn
    Cao, nhân vật viên quản ngục, nghệ thuật đặc sắc của truyện. Hướng thứ hai:
    11
    khai thác theo hướng “bổ ngang”, tiến hành phân tích truyện theo trình tự ba
    đoạn truyện: Trước khi Huấn Cao đến nhà lao; Khi Huấn Cao bị giải đến nhà
    lao; Cảnh cho chữ – cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nhìn chung các em hiểu
    được những kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân, kiến thức tối thiểu về văn
    bản Chữ người tử tù: Ba vẻ đẹp của Huấn Cao, nghệ thuật đặc sắc của văn bản:
    Tình huống độc đáo, thủ pháp tương phản, đối lập, xây dựng nhân vật, ngôn
    ngữ…Đây mới chỉ là kiến thức ở dạng tái hiện, chưa thể hiện được nhiều những
    khám phá mang tính sáng tạo của bản thân, chưa cảm nhận tác phẩm một cách
    sâu sắc đúng bản chất.
    Một hiện trạng dễ nhận thấy trong nhiều giờ dạy giáo viên chỉ tập trung ở
    các nội dung chính như: Hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhân vật quản ngục
    hay cảnh cho chữ, (tầng hình tượng) tuy nhiên cũng tiếp cận một cách sơ sài
    mang tính chiếu lệ. Các kiến thức học sinh được trang bị chỉ mang tính đối phó
    với thi cử. Thậm chí chỉ đưa ra một vài ý cơ bản rồi thuyết trình nhưng không hề
    bám sát vào ngôn từ của văn bản. Có giáo viên cứ bay bổng với những lời bình
    sáo rỗng mà xa rời hoàn toàn hệ thống ngôn từ của văn bản. Bởi vậy rất nhiều
    các từ ngữ cổ giàu giá trị của tác phẩm mà HS không hề biết đến, thậm chí có
    nhiều em còn hiểu sai về mặt nghĩa của nó. Còn ở tầng tư tưởng ý vị nhân sinh
    của tác phẩm thì rất nhiều GV bỏ qua, nếu có thì vài câu nói qua loa như đưa
    vào phần tổng kết chứ chưa coi đó là một phần quan trọng khi khám phá tác
    phẩm.
    Còn khi tiếp nhận tác phẩm nhiều học sinh chỉ nói một cách sáo rỗng,
    không đưa ra được các câu văn để chứng minh cho từng nét đẹp của nhân vật.
    Thậm chí có những học sinh còn băn khoăn, nhầm lẫn việc trích dẫn những câu
    nói về nhân vật Huấn Cao và quản ngục ở đoạn văn trong phần đầu của tác
    phẩm. Nhất là các em thường bỏ luôn “cảnh cho chữ” không đưa vào khi cảm
    nhận về vẻ đẹp của hai nhân vật này…Và không ít học sinh còn hiểu sai các từ
    Hán Việt trong các câu văn khi nói về nhân vật. Chẳng hạn như: nhất sinh, chu
    tất, xin bái lĩnh, xin lĩnh ý… Đối với các em, quan niệm về cái đẹp và quan niệm
    12
    sống mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm qua hai nhân vật trên dường như quá xa lạ
    và không thể chỉ ra được.
    * Thực trạng hoạt động dạy- học tùy bút Người lái đò sông Đà
    Dạy tùy bút luôn là thách thức đối với giáo viên, nhất là dạy tác phẩm của
    bậc thầy ngôn từ Nguyễn Tuân thì càng khó khăn. Thực tế cho thấy cả thầy và
    trò đều rất ngại dạy và học tác phẩm Người lái đò Sông Đà – văn bản dài, ngôn
    từ rất khó hiểu. Đoạn trích Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân có dung
    lượng khá dài nhưng theo phân phối chương trình chỉ có hai tiết dạy học. Học
    sinh dường như rất khó hình dung hai bên bờ đá sông Đà, mặt ghềnh Hát lóng,
    cảnh thạch trận sông… Giáo viên rất khó khăn để bật lên được đặc trưng thể loại
    tùy bút, phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân qua nghệ
    thuật ngôn từ, quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp…
    Đa phần để phục vụ cho đi thi THPT quốc gia, học sinh đều nắm được hai
    nét tính cách nổi bật của dòng sông Đà: hung bạo và trữ tình, cũng như vẻ đẹp
    của ông lão lái đò: trí dũng, gan dạ và tài hoa song để thấy được đặc trưng riêng
    của thể kí Nguyễn Tuân thì các em chưa hiểu rõ. Trong khi đó đề thi THPT quốc
    gia có những đề so sánh hai đoạn văn
    Ví dụ : Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn văn sau:
    “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình … mỗi độ thu
    về” (Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB
    Giáo dục, 2009, tr.191)
    “Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn,…
    như người Huế thường miêu tả” (Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng
    Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 198)
    Học sinh vô cùng lúng túng khi làm những đề kiểu này, các em không có
    kiến thức nền để so sánh, bởi ở nhà các thầy cô chỉ dạy các em vẻ đẹp hình
    tượng sông Đà, sông Hương và chia theo luận điểm.
    Một bài kí với dung lượng kiến thức lớn, thời lượng chương trình ít,
    không dễ truyền tải đến HS nên nhiều GV dạy tác phẩm này qua cho xong trong
    13
    khi để giảng một bài kí đòi hỏi ở người giáo viên một sự chuẩn bị rất chu đáo,
    cẩn thận. Thể kí, với nghệ thuật chân chất, xác thực của nó, đòi hỏi người viết kí
    phải có một vốn sống phong phú và một trình độ kĩ thuật già dặn. Do đó, giảng
    một bài kí, giáo viên cần phải am hiểu nhiều mặt đời sống xã hội, có vốn sống,
    vốn hiểu biết rộng không thể chỉ nói chung chung. Giáo viên có tâm huyết thì
    mới truyền cảm hứng cho HS thực sự yêu thích những bài học này.
    1.2.3. Thực trạng dạy học văn theo hướng tiếp cận LVB hiện nay
    Trong những năm gần đây những định hướng đổi mới phương pháp, nội
    dung dạy học của Bộ GD&ĐT đã phần nào phát huy tác dụng. Đề án chương
    trình giáo dục phổ thông năm 2018 sẽ xây dựng nhằm lấy người học là trung
    tâm, giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn và tạo những tình huống có vấn
    đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Bằng
    sự tự nguyện chính học sinh sẽ tự khám phá, phát hiện năng lực của bản thân,
    rèn luyện khả năng tự học, phát huy những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được
    để phát triển. Do đó, dạy học văn theo hướng tiếp cận mới như hướng tiếp cận
    LVB được quan tâm. Những giáo viên Ngữ văn THPT tâm huyết với nghề đã
    lặng thầm và đổi mới cách dạy học văn, góp phần đổi thay mối quan hệ giữa
    người dạy và người học, góp phần đổi mới tư duy của học sinh về văn học và
    cuộc sống. Các thầy cô đã giúp cho HS học được cách tư duy tổng thể về thế
    giới, tìm ra mối tương quan đa chiều giữa mọi vấn đề của cuộc sống của văn học
    nghệ thuật, đặc biệt là sự góp mặt của nhiều tác phẩm đương đại Việt Nam và
    thế giới. Việc vận dụng lý thuyết liên văn bản khi dạy học văn đem lại những
    thành công bước đầu. Nhiều giáo viên đã ý thức vận dụng liên văn bản một cách
    tự giác, phát huy được tính tích cực, chủ động của HS trong giờ học. Giáo viên
    để HS liên hệ những kiến thức ngoài văn bản, thậm chí sân khấu hóa văn học,
    HS tỏ ra rất hào hứng với cách dạy mới.
    Ví dụ như: Dạy học tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao theo các
    thao tác liên tưởng, so sánh từ gần đến xa; Vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong
    14
    dạy bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Vận dụng kĩ thuật liên
    văn bản khi dạy bài Đàn ghi-ta của Lorca…
    Tuy nhiên, số giáo viên vận dụng được như trên chưa nhiều, đa phần giáo
    viên Ngữ văn THPT hiện đang sử dụng kỹ thuật liên văn bản trong dạy đọc hiểu
    văn bản văn học ở một cấp độ thấp
    – Do quan niệm cũ vẫn coi văn bản là một thể độc lập nên giáo viên mới
    chỉ liên văn bản một cách vô thức qua việc trích dẫn, thực hiện một thao tác so
    sánh, liên tưởng hay xếp chồng văn bản một manh mún, thiếu hệ thống. Ví dụ
    như khi dạy tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, các thầu cô liên hệ với
    bài thơ Ông đồ – Vũ Đình Liên khi nói đến nghệ thuật thi pháp và chỉ ra được
    một nét đẹp văn hóa đã bị mai một nhưng lại chưa đặt được thi pháp ấy trong hệ
    thống tác phẩm Vang bóng một thời thực trạng xã hội trước 1945…; Dạy đoạn
    trích Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), GV cũng ý thức liên hệ với những bài ca
    dao liên quan nhưng lại chỉ quan tâm riêng lẻ từng bài mà chưa đặt trong hệ
    thống…
    – Như đã nói ở phần thực trạng dạy học văn nói chung, quan điểm “lấy
    người học là trung tâm” của Bộ GD&ĐT chủ trương đề cao vai trò của người
    học, lấy HS làm trung tâm của mọi hoạt động. Tuy nhiên, chủ trương này vẫn
    chưa thực sự hiệu quả ở các bậc học. Giáo viên tuy có đổi mới (cho HS thảo
    luận, phát vấn…) nhưng vẫn trên tinh thần cô định hướng, cô giảng, trò ghi bài
    và học thuộc những điều cô cho ghi để đi thi. Học sinh xa rời văn bản mà chỉ
    tiếp xúc văn bản qua lời bình của thầy cô, vô hình chung giáo viên đã lấy mất đi
    quyền đồng sáng tạo của HS với tác giả.
    – Việc ứng dụng công nghệ thông tin nếu được coi như một trong những
    thao tác vận dụng kỹ thuật liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản văn học sẽ
    hiệu quả hơn. Qua thực tế chúng tôi nhận thấy trong quá trình giảng bài, đa phần
    GV ứng dụng công nghệ thông tin, tranh ảnh, videoclip phóng sự, nhạc… vào
    bài dạy nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân là do quan niệm chúng chỉ
    đơn thuần là phương tiện.
    15
    Ví dụ: Dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số Đỏ của Vũ
    Trọng Phụng, GV sẽ cho HS xem đoạn phim cảnh chuẩn bị đám tang hoặc cảnh
    hạ huyệt. Dạy Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, GV nào cũng trình chiếu clip
    bài hát phổ nhạc hoặc ngâm thơ Đây thôn Vĩ Dạ, nhưng GV cũng chỉ đưa ra
    nhằm mục đích minh họa sống động không hơn không kém… Nếu GV nắm
    chắc được lí thuyết liên văn bản chắc chắn việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ
    hiệu quả hơn rất nhiều.
    Qua cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài, chúng tôi nhận thấy việc
    dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT là hoàn toàn khả
    thi. Trong thời đại công nghệ thông tin, những lí thuyết nghiên cứu- phê bình
    văn học mới như thuyết kiến tạo, liên văn bản… Người giáo viên cần phải nắm
    vững để có những ứng dụng phù hợp hướng dẫn HS. Cách tiếp cận tác phẩm văn
    học theo hướng liên văn bản sẽ phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng, năng
    lực giải quyết vấn đề của cả GV và HS. Các em học sinh sẽ tự kiến tạo tri thức
    trong bộ não của mình. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất dạy các tác phẩm của
    Nguyễn Tuân trong chương trình THPT nói riêng và dạy các tác phẩm văn học
    nói chung theo hướng tiếp cận liên văn bản với mong muốn đạt hiệu quả tốt
    nhất.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Định hướng dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương
    trình THPT theo hướng tiếp cận liên văn bản
    2.1.1. Dạy học tác phẩm trong thể liên văn bản với thời đại, bối cảnh lịch sử,
    hoàn cảnh sáng tác
    Thời đại chính là cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên những tâm hồn lớn,
    những nhà văn, nhà thơ lớn. Mặt khác, nhà văn, nhà thơ phải biết đời sống xã
    hội của thời đại, phải sống, thấu hiểu những thăng trầm lịch sử, những biến cố
    để từ đó biến nó thành nguồn cảm hứng cho sáng tác của mình. Lịch sử với
    những biến thiên thăng trầm của nó sẽ còn đọng lại trong tâm hồn, lối sống,
    ngôn ngữ, cách ứng xử của mỗi cá nhân, chúng ta tiếp nhận nó một cách vô thức
    16
    và có ý thức. Để tiếp cận một tác phẩm văn học, người học cần nắm rõ những
    ảnh hưởng của thời đại, bối cảnh lịch sử và gần hơn là hoàn cảnh sáng tác của
    tác phẩm đó.
    Xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX, những giá trị truyền
    thống được định hình và phát triển trong xã hội phong kiến nay không còn là
    rường cột của xã hội, niềm tin của con người bị sụp đổ trước những ảnh hưởng
    của văn hóa phương Tây. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân
    đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng. Nếu
    như các nhà văn mới đi vào xu hướng trụy lạc, siêu thoát, thần bí, hình thức chủ
    nghĩa (Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, nhóm Xuân Thu nhã tập) thì Nguyễn Tuân
    tìm hướng đi riêng cho mình: tìm cái đẹp còn sót lại từ quá khứ với tập truyện Vang
    bóng một thời. Trước những cong vênh, lệch chuẩn đời sống, Nguyễn Tuân tìm
    về một thế giới thanh khiết, quá khứ trở thành cõi đời âm vọng của những giá trị
    tốt lành song cũng là một thế giới một đi không trở lại. Dạy tác phẩm Chữ người
    tử tù, người dạy nhất định phải gắn với bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác của
    văn bản này, mới có thể hiểu không khí cổ kính mà nhà văn cố tạo ra. Giữa cái
    xã hội “ối a ba phèng”, nhà văn vin vào hình tượng hào quang của người anh
    hùng lẫm liệt cầm đầu quân phiến loạn chống lại triều đình – Huấn Cao – như là
    một phương tiện để chống lại xã hội đương thời.
    Tùy bút Sông Đà là áng văn giúp ta nhận ra hình ảnh một Nguyễn Tuân
    đã trở nên mới hơn hẳn so với chính ông trước đó. Khi đã xấp xỉ ngũ tuần người
    nghệ sĩ này vẫn chưa nguội tắt lòng ham mê đi đến những chân trời mới lạ.
    Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, cùng hai cuộc kháng chiến chống
    Pháp, chống Mỹ đã tác động một cách sâu sắc đến tinh thần dân tộc vốn tồn tại
    mãnh liệt trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát
    động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao, biến những mảnh đất
    nơi đây thành miền đất hứa. Các văn nghệ sĩ lên các vùng xa xôi của tổ quốc để
    tìm cảm hứng sáng tác theo phong trào “văn nghệ sỹ – đi và viết”. Hàng loạt
    17
    thanh niên rời bỏ quê hương nô nức, phấn khởi lên Miền Tây nghèo khó với một
    tinh thần hăng hái, phấn chấn, tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
    “Ôi miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng
    Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
    Tuổi hai mươi khi hứng đời đã thấy
    Thì xa xôi mấy cũng lên đường”
    (Lên Miền Tây- Bùi Minh Quốc)
    Theo tác giả Trần Thiện Khanh, trong cuốn Chiều chiều, Tô Hoài kể sau
    1945 có một phong trào đi thực tế: “Tô Hoài về nông thôn dạy nông dân đấu địa
    chủ. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng… lên Điện Biên. Kim Lân vác xà beng
    đi đào sông bên Bắc Hưng Hải” [14]. Mỗi nhà văn tự tìm cho mình một hướng
    tiếp cận hiện thực để “phá hồn thơ”, để có cảm hứng sáng tác. Nhà văn Nguyễn
    Tuân cũng vác ba lô lên với Tây Bắc – mẹ của hồn thơ, đến với cội nguồn thơ ca
    nghệ thuật, tiếp nhận luồng gió mới thời đại để có những kiệt tác để đời. Tuy
    nhiên, có thể thấy, để hoàn thành tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã tích lũy vốn
    sống dồi dào, vốn kiến thức phong phú về Tây Bắc từ rất lâu. Nguyễn Tuân đặt
    chân lần đầu tiên lên Tây Bắc vào năm 1948, năm 1949 ông tiếp tục cùng Trung
    đoàn Thủ đô và đại đoàn 308 dự chiến dịch sông Thao mùa hè và chiến dịch
    đường 4 mùa đông, sau đó hàng năm Nguyễn Tuân lại đều đặn lên Tây Bắc, đến
    năm 1958, 1959 ông mới ở lại dài ngày với các địa danh như Điện Biên, Tuần
    Giáo, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu…Đến với Người lái đò Sông Đà, khi gắn bài
    học với thời đại, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, người đọc mới có
    thể thực sự cảm nhận được sự thay đổi trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Thế
    giới tinh thần của nhà văn tràn ngập niềm vui, niềm lạc quan về cuộc kháng
    chiến, xây dựng đất nước, về cuộc sống mới đang từng ngày, từng giờ đổi mới.
    2.1.2. Dạy học tác phẩm trong thể LVB với mã văn hóa trong tác phẩm
    Với kiến thức uyên bác về nhiều ngành nghệ thuật, tài năng đa dạng, tâm
    hồn nhạy cảm đặc biệt là tấm lòng tha thiết với đất nước, dân tộc, Nguyễn Tuân
    đã tạo nên một thế giới nghệ thuật thật độc đáo. Ở đó, thiên nhiên, con người,
    18
    tâm hồn dân tộc cùng hòa nhịp trong nhịp trầm sâu văn hóa. Dạy học tác phẩm
    của Nguyễn Tuân cần phải liên văn bản với lớp trầm tích văn hóa bao phủ quanh
    tác phẩm của ông là một trong những hướng khai thác tác phẩm hiệu quả.
    2.1.2.1. Truyền thống, lịch sử từ góc nhìn văn hóa
    Trong các trang viết của Nguyễn Tuân, chúng ta dễ dàng nhận thấy lịch
    sử được nhìn dưới lăng kính văn hóa, nhà văn dùng lịch sử để tái hiện hiện thực
    nhất là các sáng tác trước Cách mạng tháng Tám – 1945. Nhà văn đã làm sống
    dậy cả một bảo tàng về cái đẹp, một thế giới của những người tài tử, tài hoa, thế
    giới mà họ được quyền bộc lộ hết tài năng, nhân cách cao cả của mình. Tác giả
    Hoàng Như Mai đã nhận xét:“Mở cuốn Vang bóng một thời, người ta tưởng như
    mở hai cánh cửa bước vào một nhà bảo tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày
    những hiện vật của một thời xưa”. Tình yêu quốc hồn quốc túy dân tộc, cảm
    quan phương Đông cùng với cái tôi tài hoa nghệ sĩ khiến Nguyễn Tuân tạo dựng
    cả một môi trường văn hóa riêng, một thế giới lý tưởng với những giá trị cổ
    truyền được lưu giữ.
    Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù được lấy từ nguyên
    mẫu là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đất Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ
    trăm năm trước. Một người anh hùng có bản lĩnh, có khí phách, đã từng đứng về
    phía nhân dân, khởi nghĩa chống lại triều đình nhưng thất bại: Gặp lúc vùng Sơn
    Tây bị hạn nặng, lại có nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống
    người dân hết sức đói khổ. Phần thì phẫn chí, phần thì thương dân, khoảng cuối
    năm 1854, Cao Bá Quát tham gia lãnh đạo (tự lãnh chức Quốc sư) cuộc khởi
    nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), do Lê Duy Cự làm “Minh chủ”, nhưng do bị bại
    lộ, lực lượng mỏng nên thất bại, ông bị hi sinh, vua Tự Đức lệnh cho đem thủ
    cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống
    sông.
    Nhưng có thể thấy nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều
    đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt
    người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để
    19
    “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của tác giả: Tâm sự
    bất đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân phong kiến đương thời.
    Trong Chữ người tử tù, nhà văn còn thể hiện thái độ luyến tiếc một nhã
    thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây: nghệ thuật thư
    pháp. Nghệ thuật Thư pháp được thể hiện bằng chữ Hán (chữ Nho), sử dụng bút
    lông, mực tàu, giấy và nghiên mài mực hay còn gọi là “văn phong tứ bảo”. Ở
    Nhật Bản người ta gọi nghệ thuật viết chữ đẹp là Thư đạo, ở Hàn Quốc người ta
    gọi là Nghệ thư, ở Trung Quốc và Việt Nam gọi là Thư pháp. Nghệ thuật Thư
    pháp tiếng Việt được đánh dấu từ những năm 50 – 60 của thế kỷ XX. Chúng ta
    vẫn không quên hình ảnh ông Đồ trong mỗi độ tết đến xuân về. Hình ảnh ông
    Đồ xuất hiện để cho chữ mọi người – nét chữ sang trọng, có hồn và được treo
    gian giữa của ngôi nhà. Cái tài, cái tâm của ông Đồ già muốn gửi gắm.“Hoa tay
    thảo những nét. Như phượng múa rồng bay”(Vũ Đình Liên). Chỉ có những
    người có tâm sáng mới cho ra những nét bút tài hoa. Qua nét chữ, có thể đoán
    được tính cách của mỗi con người. Nên khi thể hiện chữ viết cũng cần sự tập
    trung để mỗi câu chữ là một lời tâm sự, sự trải lòng mình. Những nét chữ ấy
    được vẽ bằng trí tuệ và những rung động của trái tim. Mỗi chữ viết kết tụ tinh
    hoa và tâm huyết của người nghệ sĩ, thể hiện nhân cách và bản lĩnh khao khát
    của người viết. Viết chữ đẹp là một sáng tạo nghệ thuật, người viết chữ đẹp trở
    thành người nghệ sĩ. Một trong các danh sĩ Bắc Hà về thư pháp chính là Cao
    Chu Thuần (1808 – 1855) được suy tôn: “Thần Siêu, Thánh Quát” và “Văn như
    Siêu, Quát vô tiền Hán”. Một con người có nhân cách “Một đời chỉ cúi trước
    hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Người nghệ sĩ – anh hùng trong thực tế
    lịch sử và lung linh trong huyền thoại, là cơ sở để Nguyễn Tuân sáng tạo nên
    hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù. Tìm được một nguyên
    mẫu xứng đáng, ngòi bút lãng mạn của Nguyễn Tuân mặc sức tung hoành. Con
    người tài hoa ấy chẳng những có tài bẻ khóa, vượt ngục mà con có tài “viết chữ
    rất nhanh và đẹp” nổi tiếng cả tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản
    ngục đã từng ao ước “có được chữ của Huấn Cao mà treo là một báu vật trên
    20
    đời”. Thế nhưng không dễ gì xin được chữ của ông “Ta nhất sinh không vì vàng
    ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ…”[7, tr.113]. Xây dựng
    hình tượng Huấn Cao, nhà văn đã làm nổi bật lên một nhân cách cao vời vợi.
    Với Huấn Cao ông quan niệm hành vi cho chữ là một hoạt động sáng tạo nghệ
    thuật. Bởi thế cho nên chỉ khi hiểu được tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên
    quản ngục, ông mới quyết định cho chữ. Cảnh cho chữ phi thường diễn ra trong
    chốn ngục tù: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ
    trên trạm canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một
    buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân
    gián” [7, tr.113]. Trong cảnh tượng lạ lùng này, viên quản ngục – người nắm
    quyền uy, thì “Khúm núm”, tay “run run” bưng chậu mực. Còn Huấn Cao, tên
    tử tù sắp bị chém đầu thì “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” “đang đậm tô nét
    chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” ung dung, đĩnh đạc biết bao!
    Dường như trong giờ phút thiêng liêng ấy không còn là người tử tù lĩnh án chém
    mà là một người nghệ sĩ tài ba đang dồn hết tâm huyết vào từng nét chữ, sáng
    tạo cái đẹp. Động tác khoan thai, bình tĩnh “thay bút con, đề xong lạc khoản”.
    Ông lắng mình trong mùi thơm chậu mực “Thoi mực thầy mua ở đâu tốt và
    thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm của chậu mực bốc lên không”. Ông thả hoài
    bão trong những dòng chữ, nét chữ tươi tắn thể hiện cái chí của một đời ngang
    dọc. Mùi thơm của chậu mực hay chính là sự tinh khiết của thiên lương con
    người. Có thể thấy rằng người tù đã sống trọn vẹn với nghệ thuật cái đẹp bỏ qua
    cái tăm tối nhơ nhuốc, u ám của nhà tù. Và trong giây phút sinh thành cái đẹp,
    hình tượng người tù uy nghi đẹp đẽ chính là người sáng tạo ra cái đẹp.
    Tác giả xây dựng một ngục quan biết nung nấu sở nguyện hết sức thánh
    thiện, bản thân ông ta lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước
    thiên lương và thư pháp kiệt xuất của ông Huấn. Với hình tượng Huấn Cao, viên
    quan ngục, Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa
    truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá
    21
    cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa
    oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt.
    2.1.2.2. Thiên nhiên từ góc nhìn văn hóa
    Với Nguyễn Tuân thiên nhiên được coi là thế giới tinh thần, thể hiện cảm
    quan của mình. Trước năm 1945, những trang viết về thiên nhiên của Nguyễn
    Tuân không đơn thuần chỉ là tả cảnh mà ông viết về nó như một nhu cầu được
    khẳng định cái tôi của mình trong xã hội. Nguyễn Tuân coi thiên nhiên như chốn
    ẩn dật tinh thần, là sự thể hiện độc đáo lương tâm, trách nhiệm của người nghệ sĩ
    đối với các giá trị xã hội. Được sinh ra trong gia đình nhà Nho, những kiến thức
    cùng những quan niệm đạo đức của chế độ phong kiến chắc chắn có ảnh hưởng
    đến Nguyễn Tuân. Ông am hiểu sâu sắc lối sống an nhiên tự tại, tôn trọng tự
    nhiên của cha ông từ đó Nguyễn Tuân đã tạo cho mình một con đường riêng để
    ẩn dật tinh thần, một phương thức hữu hiệu để khẳng định nhân cách độc lập của
    bản ngã, bảo vệ văn hóa của riêng mình, khẳng định sự tồn tại của mình bằng sự
    đối lập với xã hội đương thời. “Nguyễn Tuân trở về với thiên nhiên là để thực
    hiện khao khát thoát khỏi những tầm thường, tủn mủn của cuộc đời hiện hữu
    trong khi những lệch vênh, biến dạng của các chuẩn mực trong bối cảnh văn
    hóa mới vẫn hiện ra trước mắt, cụ thể, nặng nề và nghiệt ngã. Nguyễn Tuân trốn
    vào thiên nhiên mà vẫn thấu nỗi đời”[11, tr.23]. Trong Vang bóng một thời,
    thiên nhiên còn như một nơi để ông bộc bạch thái độ day dứt, tiếc nuối, buồn
    đau của mình trước những giá trị đẹp đẽ của cuộc đời đang mất đi. Thiên nhiên
    hiện lên như một bức họa cổ đẹp, tao nhã, lãng mạn, nên thơ nhưng có màu sắc
    trầm, u mặc, trong và lạnh và buồn. Đó là vầng trăng trên sông “Vừng trăng
    mười bốn lúc chếch về đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông
    trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội” (Thả thơ) [23, tr.35]. Hình ảnh vầng
    trăng trên sông tỏa lan cùng tiếng ngâm thơ làm thành một sân khấu có sự hòa
    phối của âm thanh và ánh sáng đong đầy cảm xúc trong lòng người, dường như
    ẩn trong đó một sự tiếc nuối, hoài vọng. Đó còn là ánh nắng “Ánh nắng già dặn
    buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí
    22
    bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng
    loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc ấm đất) [24, tr.69],
    sư cụ chùa Đồi Mai gửi vào đó nỗi niềm tiếc thương cho một kiếp chúng sinh
    vướng phải vòng nghiệp chướng. Hình ảnh mùa mưa dầm tháng chín trong
    truyện Báo oán vừa tả thật cảnh vùng quê chiêm trũng, vừa gợi nỗi ai oán, buồn
    thương: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên than
    vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ”. Hay đó là tâm trạng của của kẻ
    cảm thấy bất an trước nguy cơ vườn Túy lan vắng chủ “Sau cái đêm dữ dội ấy,
    cây cỏ nơi Túy lan trang đều một loạt ủ rũ như để tang cho người thiên cổ. Tơ
    liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió, bóng tre lìa bụi, đều ngậm một cái tình buồn
    trước cái hương trời lăn lóc khoảnh vườn hoang” [24, tr.18-19]… Hay cảnh
    đêm trong Chữ người tử tù đầy sức ám ảnh “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã
    bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái
    quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua
    cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó
    cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền
    trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía
    chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng
    mõ canh nổi lên nhiều nhiều”[7, tr.109]. Cảnh thiên nhiên lạnh đến rùng mình.
    Đó chính là khoảng thời gian trong những ngày trước khi ông Huấn Cao – một
    con người tài hoa, khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng sắp phải từ biệt
    vũ trụ. Viết những dòng văn ấy, dường như nhà văn thấm vào mỗi câu chữ nỗi
    xót xa, tiếc nuối một anh hùng cái thế một thời. Nguyễn Tuân không bị tách ra
    khỏi không gian văn hóa của mình, song ông không thể hòa hợp cùng với xã hội
    đương thời, ông tìm cho mình một cõi sống khác. Sự hiện diện của thiên nhiên
    trong tâm thức văn hóa của Nguyễn Tuân giúp ông tìm được cõi để giãi bày, thể
    hiện tâm hồn, nhân cách của mình.
    Sau Cách mạng tháng 8/1945, thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân lại là
    môi trường sống vĩ đại, rất thực và cụ thể để ông bộc lộ tình yêu nồng nàn với
    23
    đất nước tráng lệ. Trong tâm thức văn hóa của Nguyễn Tuân, thiên nhiên là một
    công trình nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Thiên nhiên được quy chiếu trong cảm
    quan thời đại gắn với cái nhìn khám phá, chinh phục. Cuộc sống mới đang nở
    hoa nên những trang hoa của Nguyễn Tuân cũng dạt dào cảm xúc. Dù ở giữa
    lòng Hà Nội, mỏm Lũng Cú, hay vùng đất mũi Cà Mau, đến Cô Tô hay lên vùng
    Tây Bắc, Nguyễn Tuân đều xúc động khi khám phá được sự kì diệu của thiên
    nhiên. Đến với Tây Bắc nhà văn đưa đến cho người đọc những cảm nhận thú vị,
    độc đáo. Trong Người lái đò Sông Đà, sông Đà hiện lên như một sinh thể có tên
    tuổi, lai lịch, đặc điểm tính cách, với những nét hùng vũ, hoang dại, hung bạo,
    dữ dằn, là mối đe dọa với con người nhưng đồng thời lại hiện lên mềm mại, dịu
    dàng. Hình ảnh thiên nhiên trong cái nhìn khám phá, cách tạo hình đầy ấn
    tượng: cảnh đá bờ sông dựng thành vách, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, quãng
    Tà Mường Vát, thác nước….Ta còn bắt gặp ở đó dòng chảy văn hóa tính nữ của
    người Việt cùng cách cảm nhận tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ của văn hóa phương Tây
    kết hợp hài hòa trong ý thức văn hóa, trong tâm hồn nhà văn. “Con Sông Đà
    tuôn dài như một áng tóc trữ tình , đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
    Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương
    xuân”[6, tr.191]. Người đọc được chiêm ngưỡng một dòng sông êm ái, dịu
    dàng, hiền hoà, thơ mộng gợi bao cảm hứng trữ tình, cảm hứng thơ với các du
    khách. Con sông Đà đối với nhà văn đã trở thành người bạn rất đỗi thân thiết,
    trở thành cố nhân, nên khi đi xa lâu ngày gặp lại cảm thấy vui: “Chao ôi, trông
    con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
    đứt quãng”[6, tr.191]. Người bạn cố nhân ấy tính khí thất thường thoắt dịu dàng
    rồi bỗng chốc cáu bẳn tính…Yếu tố nữ tính ấy cũng hiện diện nhiều trong những
    trang viết khác của Nguyễn Tuân làm nên nét mềm mại, duyên dáng bên cạnh
    những nét vẽ gân guốc, cứng cỏi.
    2.1.2.3. Bài học nhân sinh từ văn hóa tiếp nhận tác phẩm
    Qua mỗi một tác phẩm nghệ thuật nhà văn luôn muốn gửi gắm đến bạn
    đọc một thông điệp cuộc sống. Càng là các nghệ sĩ lớn thì bài học nhân sinh
    24
    được truyền tải càng có ý nghĩa sâu xa.Với đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng
    hình tượng cảm quan sinh động và cụ thể, mang dấu ấn chủ quan của người
    nghệ sĩ, văn học là tấm gương phản chiếu xã hội, là sản phẩm của sự nhận thức
    thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật chỉ có giá trị khi nghệ sĩ
    dùng nó để miêu tả và bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến cảm xúc của
    công chúng, định hướng thẩm mỹ và định hướng nhân cách cho công chúng.
    Với ý nghĩa đó, văn học là một phương tiện quan trọng dùng ảnh hưởng của nó
    hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. Song để ảnh hưởng đến mức cao nhất,
    văn học không thể tác động một cách chung chung, trừu tượng mà cần tạo nên
    những kinh nghiệm, những tấm gương về tư cách người, những điển hình văn
    học bất hủ. Arixtốt đề cao sự thanh lọc hóa tâm hồn của con người, J.Locke nói
    đến sự phản tỉnh, Hêghen đề cập quá trình tự nhân đôi của con người qua tác
    động của thế giới nghệ thuật. Ở đề tài này tôi muốn đi sâu hơn vào quá trình con
    người tự làm mình tốt lên, hoàn thiện hơn dưới sự tác động của văn học. “Cái
    đẹp cứu rỗi nhân loại” (Đôxtôiépxki), văn học đã cứu rỗi con người.
    Độc giả dễ dàng nhận thấy những bài học nhân sinh mà mà tác giả gửi gắm
    ở tác phẩm Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân. Trong những giây phút thiêng liêng
    của cảnh cho chữ, ta thấy có một sự thay bậc đổi ngôi, người tù thì đường
    hoàng, ung dung, thanh thản trong khi viên quản ngục và thầy thơ lại đại diện
    cho công lý thì lại “khúm núm”, “run run bưng chậu mực”. Đó là những cử chỉ
    của sự ngưỡng vọng, thán phục , lòng kính mến, tôn thờ cái đẹp, tôn thờ người
    nghệ sĩ văn hóa. Không chỉ thế, người đọc còn nhận ra những giá trị văn hóa có
    sức cảm hóa khiến con người sống tốt đẹp hơn. Trong tự thuật Nhà Nguyễn,
    Nguyễn Tuân khẳng định: “Đứng trước một cái chân tài thì người khinh bạc đến
    đâu cũng trở nên trung hậu”. Huống chi người quản ngục, viên thơ lại – là
    những người có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí.
    Ông Huấn được ngợi ca ở cả cái tài và cái tâm. Cái tâm của ông Huấn rực
    rỡ, chiếu sáng lên toàn bộ cuộc đời ông, chi phối hành động lớn nhỏ của ông.
    Trong đời thường, trừ chỗ tri kỉ, ít khi ông cho chữ. Ông cho chữ viên quản ngục
    25
    không phải để trả ơn người đã biệt đãi mình, đã dâng rượu thịt cho mình trong
    những này ảm đạm cuối cùng. Ông cho chữ viên quản ngục vì cảm động và trân
    trọng một nhân cách cao quý: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các
    người…”[7, tr.113]. Với Huấn Cao việc phụ một tấm lòng trong thiên hạ là điều
    không thể tha thứ cho mình được. Ông đã đem tấm lòng tri âm để đáp lại một
    bậc tri kỉ. Một lẽ sống hiện ra: Sống là phải xứng đáng với những tấm lòng, phụ
    một tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ.
    Trong giây phút cuối của đời mình ông dành thời gian viết chữ tặng viên
    quan ngục. Ta xúc động trước những lời khuyên chân thành của Huấn Cao “ta
    khuyên thầy quản nên chuyển chốn ở đi, chỗ này không phải là nơi để treo một
    bức lụa trắng… cái đời lương thiện đi”[7, tr.114]. Lời khuyên ấy cùng với tấm
    lụa trắng, dòng chữ kia, ánh sáng từ thiên lương Huấn Cao đã có sức soi rọi, tỏa
    sáng, viên quản ngục, thấy thơ lại trong phút chốc bừng tỉnh, như được giáo hóa.
    Cái phần thiện, phần tốt đẹp, những thanh âm trong trẻo bấy lâu nay bị khuất
    lấp, trong giây phút đặc biệt này được khơi gợi, bừng sáng lên. Ta hiểu sau cái
    cúi đầu vái tạ và giọt nước mắt kia thì viên quản ngục và thầy thơ lại chắc chắn
    sẽ tìm được cái đời lương thiện. Cảnh cho chữ đâu phải là một cảnh cho chữ
    bình thường mà là một cuộc thọ giáo thiêng liêng, một cuộc chuyển giao nhân
    cách. Ánh sáng văn hóa, ánh sáng cái đẹp đã làm rung động, cải tạo những gì
    đang vươn tới nó.
    Huấn Cao là một hình tượng đẹp với bóng dáng lồng lộng, đầy khí phách
    và tài hoa trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn Cao – một
    người vừa có tài, vừa có tâm, hiên ngang bất khuất trước cái ác, cái xấu nhưng
    mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp, Nguyễn Tuân thể hiện quan điểm thẩm mĩ
    của nhà văn. Với ông, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau, một nhân
    cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài. Đây là một quan
    điểm thẩm mĩ tiến bộ.
    Một nhân vật hướng thiện không thể không nhắc đến chính là viên quản
    ngục. Tuy không là nghệ sĩ, không làm nghệ thuật, lại chọn nghề tiểu lại giữ tù
    26
    nhưng viên quản ngục là người có tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt ham mê thư pháp,
    biết quý trọng cái đẹp cái tài. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn
    sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có
    chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê
    cái đẹp. Sống trong cảnh đề lao – nơi ngự trị của bóng tối, cái ác, cái xấu, viên
    quản ngục vẫn ôm ấp trong lòng mình một sở nguyện “là có một ngày kia được
    treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Một nhân vật
    đáng quý được Nguyễn Tuân coi là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một
    bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Cùng với thầy thơ lại, viên quản
    ngục được xây dựng vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng, lung linh như huyền thoại của
    Huấn Cao vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người được cái thiện dẫn đường,
    mong muốn một hi vọng không lầm đường lạc lối. Qua nhân vật, nhà văn muốn
    gửi gắm quan niệm về con người và cái đẹp. Theo Nguyễn, trong mỗi con người
    đều có một người nghệ sĩ, đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài; mỗi con
    người đều có thiên lương và phần thiên thần. Nhà văn cũng cho rằng: Có khi, có
    lúc, cái đẹp tồn tại trong môi trường của cái ác, cái xấu, nhưng nó không vì thế
    mà lụi tàn, trái lại, nó càng mạnh mẽ và bền bỉ.
    Tùy bút Người lái đò sông Đà lại mang đến cho ta niềm tin về sức mạnh
    của người lao động, những con người bình dị mà Nguyễn Tuân gọi là “chất
    vàng mười đã qua thử lửa” của mảnh đất Tây Bắc. Ông đò hiện lên với vẻ đẹp
    trí dũng, thông minh, dũng cảm, tài ba, là một tay lái ra hoa trên dòng sông Đà.
    Con người có sức mạnh của ý chí, nghị lực phi thường có thể vượt qua những
    phong ba bão táp của cuộc đời. Hình ảnh ông đò trong trận chiến trên sông Đà
    đem đến cho người đọc cảm hứng yêu đời, tin yêu cuộc sống. Dù cuộc đời
    không bằng phẳng nhưng nếu có ý chí, chúng ta sẽ vượt qua một cách êm đẹp,
    chinh phục thử thách cũng chính là một cách để khẳng định mình. Sông Đà bài
    binh bố trận thử thách lòng người. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc
    nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra
    giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình
    27
    tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay
    cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy
    cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh
    đòn âm vào chỗ hiểm. Ông lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có
    đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ
    quái.
    Ông lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm
    thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao,
    kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên
    cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh hung bạo của thiên nhiên.
    Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc mà nhà văn
    Nguyễn Tuân kiếm tìm.
    2.1.3. Dạy học tác phẩm trong sự liên văn bản với văn bản văn học, văn bản
    thuộc các loại hình sáng tác khác
    Việc đọc liên văn bản luôn đòi hỏi, kích thích sự sáng tạo của độc giả,
    người GV cần tạo cho HS nhu cầu tìm hiểu tính liên văn bản bằng cách tự làm
    giàu vốn sống của mình. M.Foucault- một nhà lý thuyết gia từng nhấn mạnh:
    “Những biên giới của một cuốn sách không bao giờ rõ ràng[…] thực chất, cuốn
    sách bị trói chặt vào một mạng nhện các trích dẫn từ nhiều cuốn sách khác,
    những văn bản khác, hay những dòng văn lắng lại trong ký ức thu nhận được,
    trong nhiều quá trình đọc trước đây” (Dẫn theo Nguyễn Minh Quân) [20].Trong
    khi đó, theo lý thuyết liên văn bản quan niệm văn bản đã được mở rộng, không
    còn giới hạn trong sách vở mà được thể hiện dưới nhiều hình, nhiều loại hình
    khác nhau: hội họa, điện ảnh, điêu khắc, âm nhạc…Chúng ta thấy rõ ràng, mỗi
    văn bản tồn tại trong sự liên hệ với văn bản khác, có thể xuất hiện trước đó hoặc
    cùng thời và thực tế thì văn bản lệ thuộc vào những văn bản khác còn nhiều hơn
    vào chính người tạo ra nó.
    2.1.3.1. Liên văn bản với sự hiện diện một văn bản hay nhiều văn bản trong văn
    bản
    28
    Trong Người lái đò Sông Đà ở lời đề từ của tùy bút, nhà văn đã mượn câu
    thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang trào dâng mãnh liệt
    trong lòng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” (Wladyslaw BroniewskiBa Lan). Nguyễn Tuân muốn ca ngợi Sông Đà như một công trình nghệ thuật
    tuyệt vời của tạo hóa đã ban tặng cho con người. Và bài tùy bút này của ông
    cũng như một công trình nghệ thuật ngôn từ – một sáng tạo độc đáo tài hoa mà
    Nguyễn Tuân tặng lại cho đời. Đồng thời, cũng ngay từ đầu tác phẩm tác giả đã
    gợi dẫn lại hai câu thơ Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu. Đà
    giang độc Bắc lưu”. Khi tất cả dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng con
    sông Đà lại chảy về hướng Bắc. Nguyễn Tuân muốn bộc lộ sự uyên bác tài hoa
    của mình: dùng văn thơ nhìn con sông như một nhà địa lí để thấy được hướng
    chảy của nó. Một con sông đầy cá tính gặp một nhà văn phong cách cũng rất lạ
    mà Nguyễn Đăng Mạnh đã đóng đanh trong một chữ “ngông” và trên diễn đàn
    văn chương Việt Nam xuất hiện những áng văn tuyệt bút viết về sông nước.
    Nguyễn Tuân tìm về với dòng sông của câu đồng dao thần thoại “Núi cao sông
    hãy còn dài- Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Trong ánh mắt của mọi
    người từ xa xưa dòng sông Đà hung bạo dữ dằn, đời đời kiếp kiếp làm mình làm
    mẩy với con người Tây Bắc, phản ứng giận dữ vô cớ với người lái đò sông Đà.
    Nhưng dưới con mắt của người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân thì hung bạo dữ dội
    cũng là một nét đẹp riêng biệt của dòng Đà giang, của mảnh đất Tây Bắc bên
    cạnh vẻ thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp ấy gợi cho ta nhớ đến con đường hành quân
    Tây Tiến “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm- Ngàn thước lên cao, ngàn thước
    xuống” dữ dằn, đáng sợ, nguy hiểm nhưng lại cũng rất mềm mại, nên thơ “Nhà
    ai Pha Luông mưa xa khơi”(Tây Tiến- Quang Dũng).
    Đến với sông Đà trong văn Nguyễn Tuân, người đọc không thể nào
    quên được những hình ảnh hung bạo, dữ dội của sông Đà: cảnh đá bờ sông,
    dựng vách thành, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, những hút nước tại quãng Tà
    Mường Vát…Đặc biệt khi mô tả sông Đà với “diện mạo và tâm địa của kẻ thù số
    1” Nguyễn Tuân dành hẳn một đoạn văn dài tả mặt đá “nhăn nhúm ngỗ ngược”
    29
    cách bố trí trận địa “ba hàng” “tiền vệ” “hậu vệ” (như trong bóng đá) boongke
    pháo đài (quân sự). Nhà văn đã vận dụng những kiến thức về quân sự, võ thuật,
    địa lí, thậm chí cả điện ảnh… cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều
    thanh trắc để cuộc chiến của ông lái đò và thác dữ sông Đà hiện lên sống động
    trên trang sách. Liên tưởng về âm thanh cũng là nét độc đáo của Nguyễn Tuân
    khi gợi lên không khí của trận thủy chiến: Tác giả dùng tri thức về âm nhạc với
    bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Tiếng nước thác nghe như là oán
    trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
    nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
    rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”[6, tr.187]… Ta nghe như có ánh lửa bùng bùng
    như trận Xích Bích (trong Tam Quốc) hoặc gợi cách đánh của Khổng Minh –
    Mạnh Hoạch dùng hoả công tạo được một không gian nghệ thuật cho tác phẩm.
    Khi miêu tả trận chiến Nguyễn Tuân chia ra làm ba keo đấu giữa con người với
    dòng sông. Trước khi vào trận là màn xưng tên tuổi như kiểu giao chiến trong
    truyện Trung Hoa. Ta như đang xem trận đấu võ tự do xem đấu vật: có đá thúc
    gối vào bụng và hông có miếng hiểm độc của võ vật như “bóp hạ bộ” (đòn cấm
    trong võ vật) đòn tỉa đòn âm. Hoặc vòng thứ hai hình ảnh cưỡi lên ngọn sóng
    hùm beo của ông đò gợi ta liên tưởng đến hình ảnh Triệu Tử Long ở trận Đương
    Dương một mình xông trận cứu A Đẩu… Nguyễn Tuân nhìn thấy sự hung bạo
    của con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông
    còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa
    điệp trùng của núi rừng Tây Bắc. Miêu tả sự hung bạo của Sông Đà, cũng chính
    là thừa nhận đó là một dòng sông có nhiều tiềm lực mà con người có thể khai
    thác. Trong bài Bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu cũng đã viết:
    “Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
    Hỏi đâu thác nhảy cho điện xoay chiều”
    Hơn hai thập kỉ sau lúc tác giả viết kí Sông Đà thì dòng sông Đà đã dần
    bị chinh phục để có được ánh sáng rực rỡ hôm nay trên cả nước. Sông Đà hiện
    30
    lên là một sinh thể có tính cách và cả ngôn ngữ. Vẻ hung bạo ấy là nét riêng của
    sông Đà mà không dòng sông nào trên mảnh đất Việt Nam có được.
    Ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái vẻ đẹp lãng
    mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Một Đà
    giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình, vô
    cùng kiều diễm. Nguyễn Tuân cảm nhận con sông Đà như một áng tóc của
    người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài
    như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
    nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
    xuân”[6, tr.191]. Những câu văn khiến ta liên tưởng mái tóc chị Hoài (trước
    Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân từng có một tập tùy bút Tóc chị Hoài ông
    say sưa miêu tả mái tóc đẹp của người thiếu nữ: “Chị Hoài mỗi lúc vừa nằm
    xuống rất nhẹ nhàng thì cả một mớ tóc trần cuốn rất chắc ấy đổ tung xuống như
    một trận mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như một sải rưỡi ôm lấy gáy,
    ấp lấy bả vai”. [24, tr.93]. Ông ca ngợi mái tóc đẹp của một người phụ nữ đẹp
    như là tiêu chuẩn của cái đẹp). Vẻ đẹp mềm mại ấy nay được gắn với dòng sông
    Đà nó mới thân thương, gần gũi biết bao. Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến
    thức du lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như
    nhịp chèo khoan thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà. Có đến mười bốn câu văn
    Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm
    mại. “Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên
    hoa tam nguyệt há Dương Châu”[6, tr.192], gợi ta nhớ đến cuộc chia tay của Lý
    Bạch và Mạnh Hạo Nhiên giữa mùa hoa khói “Giữa màu hoa khói Châu Dương
    xuôi dòng” (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng) – Lý
    Bạch. Những áng thơ Đường thi được nhà văn trích dẫn đem đến cho người đọc
    cảm giác chìm đắm vào không khí cổ kính, Đường thi, nhưng không mang nỗi
    buồn của cảnh chia tay của những người bạn cố nhân, mà lại mang niềm thú vị
    tinh nghịch, câu văn như ngậm thơ, ngậm họa.
    31
    “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ…”[6,
    tr.191]. Rõ ràng ta có thể thấy đây chẳng khác nào những câu thơ rất đẹp viết
    bằng văn xuôi, cứ nhẹ nhàng, sâu lắng và cả một chút dư ba. Một không gian
    nghệ thuật “lặng tờ” như ru “ông khách Sông Đà” vào giấc mộng phiêu du. Cái
    ý “lặng tờ” được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn người
    mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn. Ngược thời gian một thiên niên
    kỉ về trước, hai tiếng “lặng tờ” dẫn người đọc trở về với “mấy trăm năm thấp
    thoáng mộng bình yên” ( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm). Đã có cái “phẳng
    lặng tờ” của con sông trong cổ thi: “Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” nên
    mới có cái “lặng tờ” êm như ru của sông Đà mà Nguyễn Tuân cảm mến. Nó đã
    làm tiền đề để từ trong sâu thẳm tâm hồn của mình, người nghệ sĩ tài ba Nguyễn
    Tuân xuất thần hai câu văn đẹp như một điệp khúc của thơ ca: “Bờ sông hoang
    dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích”.[6,
    tr.191]. Đó chính là những vần thơ rất đẹp mà Nguyễn Tuân đã đề lên sóng
    nước sông Đà. Ta có cảm giác như đoạn thơ như bài thơ trữ tình viết bằng văn
    xuôi. Ta ngỡ ngàng như gặp lại phong cách nghệ thuật này trước cách mạng ta
    chỉ có ở nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch
    tính, không gay cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
    Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương
    sông Đà, sống hết lòng với sông Đà: Câu thơ của Tản Đà “Dải sông Đà bọt
    nước lênh bênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “Một người tình nhân
    không quen biết”. Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất
    thơ. Chưa có thi sĩ nào viết nhiều và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyễn
    Khắc Hiếu. Nguyễn Tuân coi sông Đà là “cố nhân”, nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà
    mà ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng? Tản
    Đà có 3 bài thơ trường thiên cùng chung một giọng điệu: Thư đưa người tình
    nhân không quen biết (1918), Thư trách người tình nhân không quen biết
    (1921), Thư lại trách người tình nhân không quen biết (1926). Nguyễn Tuân chỉ
    trích 2 câu trong bài thơ thứ hai, trích 2 câu hay nhất, đích đáng nhất, lại vừa
    32
    hợp cảnh, hợp tình. Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý nghĩa “tri
    âm”. “Rượu ngon không có bạn hiền” để cùng nhau “đối tửu”, mơ màng tâm
    tình và thưởng ngoạn “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”. Nhờ vậy, đoạn văn
    bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Câu thơ ấy
    hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng
    nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thể có hồn, coi sông Đà
    như một bạn đồng hành? Thế là bao nhiêu những vần thơ của các bậc tao nhân
    mặc khách chợt ùa về trong tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân. Tình đã nồng
    cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, “lắng nghe
    những giọng nói êm êm”. Những câu văn đẹp như những vần thơ ấy cứ sống
    mãi trong tâm trí người đọc.
    Dạy truyện ngắn Chữ người tử tù, người dạy có thể dễ dàng nhận thấy
    một hệ thống từ Hán Việt, văn liệu cổ được sử dụng một cách nhuần nhị, hài
    hòa. Có lẽ trong nền văn học hiện đại Việt Nam, chúng ta sẽ còn rất khó khăn để
    tìm kiếm một nhà văn đặc biệt như Nguyễn Tuân, người biết sử dụng khéo léo
    vốn quí của dân tộc và nhân loại để tạo nên vẻ đẹp trang trọng và sự uyên bác
    cho ngôn ngữ nghệ thuật của mình. Khi dạy truyện ngắn này, ta có thể liên văn
    bản ngay đến bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên khi nói đến nghệ thuật thi pháp,
    nói đến tài viết chữ đẹp của Huấn Cao “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông
    lắm”. Người xưa nói trong văn có nhạc có họa, điều đó đúng với truyện ngắn
    này. Chính nhà văn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại khẳng định các cảnh
    tượng đất trời và đời sống trong Vang bóng một thời là: “Có thể làm đầu đề cho
    những họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc Việt Nam” [27, tr.384]. Ví như đoạn
    vào truyện: “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không.[…] Trong
    khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm
    tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không
    định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên
    nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối,
    nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”[7, tr.109]… Một đoạn
    33
    văn mà như “vẽ trước mắt người đọc một họa phẩm bay bướm tài hoa”, “mỗi
    câu văn như nốt nhạc trầm bổng trong một bản đàn, tạo nên âm hưởng u hoài,
    ngân vang trong lòng người đọc ” [27, tr.411]. Đặc biệt cảnh cho chữ được tạc
    dựng bằng nghệ thuật điện ảnh, hội họa, điêu khắc… Mỗi hình ảnh hiện lên sống
    động trong lòng người đọc. Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi
    liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Ống kính điện ảnh tài hoa đầu tiên từ
    bao quát toàn cảnh trại giam tỉnh Sơn đến cận cảnh là buồng giam ông Huấn, từ
    từ lướt qua cảnh chật chội, tối tăm, bẩn thỉu của buồng giam, một bó đuốc tẩm
    dầu rồi thu hẹp lại quay ba mái đầu chụm lại trên từng con chữ. Cuối cùng là
    quay cận cảnh từng người, từng chi tiết một. Thủ pháp điện ảnh đã góp phần đắc
    lực thể hiện “cái đẹp cứu rối thế giới”. Bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân
    vật kết hợp ngôn ngữ Hán Việt, hình ảnh cổ kính tạo không khí cổ xưa. Bút
    pháp dựng cảnh, dựng người, thủ pháp tương phản đạt đến độ điêu luyện, hình
    ảnh Huấn Cao hiện lên như khắc như tạc trước mắt người đọc.
    Hai chữ “thiên lương” dùng trong truyện ngắn giúp ta liên văn bản với các
    tác phẩm của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Cả Nguyễn Tuân và Tản Đà cùng
    quan niệm: cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiên lương. Con người được gọi là
    đẹp thì trước hết phải có thiên lương. Cái thiên lương ấy, cái lương thiện thiên
    phú ấy, vốn được tạo hóa ban cho cùng với hình hài sơ sinh của con người, và
    con người phải gìn giữ nuôi lớn nó. Trong Khối tình Tản Đà cho rằng “loài
    người hơn loài khác cái thiên lương”. Ông nhận xét về giá trị của thiên lương
    đối với con người một cách hóm hỉnh mà sâu sắc: “Thế giới mỗi ngày được tiến
    hoá là nhờ có thiên lương của những người hơn người; những người được hơn
    người là nhờ có thiên lương hơn người”. Với Nguyễn Tuân thiên lương là cái
    đáng quý trọng nhất của con người “Đối với Nguyễn Tuân, cho dù hình sắc có
    hoàn hảo đến đâu mà tâm hồn không sáng, thiên lương không lành vững thì
    cũng không thể coi là đẹp được”. Hai chữ thiên lương ấy hiện rõ ở hai nhân vật
    Huấn Cao, viên quản ngục (Chữ người tử tù). Hành động “vái tên tù một vái”
    của viên quản ngục là cái cúi đầu cao cả, làm nên nhân cách con người. Trân
    34
    trọng thiên lương, Nguyễn Tuân còn nhắc đến trong nhiều tác phẩm của mình
    như: Ông huyện Thạch Thành (Gỡ cái vạ vịt) và cụ Thượng (Đèn đêm thu) cũng
    là những con người đáng trọng. Ông viết về vẻ đẹp tâm hồn của họ với niềm vui,
    phấn khởi nhận ra con người với vẻ đẹp của thiên lương không thể bị vẩn đục vì
    hoàn cảnh tăm tối.
    Hình ảnh Huấn Cao trong cảnh cho chữ gợi ta nhớ đến Giăng Van-giăng
    trong Người cầm quyền khôi phục uy quyền – đoạn hay nhất của bộ tiểu thuyết
    Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. Trong đó kẻ có quyền bắt bớ, đánh
    đập, xúc phạm con người một cách không thương tiếc là thanh tra mật thám Giave đã bị khuất phục trước ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo, của ánh hào quang
    tỏa ra từ Giăng Van-giăng, người hắn truy tìm bao lâu nay. Một sự thay bậc đổi
    ngôi chưa từng thấy đã diễn ra trong nhà ngục tỉnh Sơn. Hai cảnh tượng giống
    nhau và khác ở bản chất của Gia-ve và quản ngục. Chúng ta thấy rõ trước ánh
    sáng của cái đẹp, cái cao cả, cường quyền cũng bị khuất phục, cái đẹp đăng
    quang và “cứu vớt con người” (Đôt-xtôi-ep-xki)
    2.1.3.2. Dạy học tác phẩm trong thể liên văn bản mở rộng trường liên tưởng
    cùng chủ đề văn bản
    Dạy truyện ngắn Chữ người tử tù người dạy có thể liên văn bản với đề tài
    người tài hoa nghệ sĩ trước cách mạng trong sáng tác của Nguyễn Tuân và các
    tác giả khác. Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu biểu cho tập truyện Vang bóng
    một thời – một tác phẩm viết về đề tài: Cái Đẹp đến nay chỉ còn “vang bóng”.
    Truyện ngắn có cùng chung mạch cảm hứng viết về những người tài hoa, nghệ
    sĩ, cái đẹp quá khứ. Văn Tâm đã rất có lí khi cho rằng: Nguyễn Tuân đã “làm cái
    việc của một người khơi lại đống tro tàn của dĩ vãng, tìm lại cái đẹp của ngày
    qua đã một thời vang bóng”.[25, tr.382]. Người ta có cảm tưởng Nguyễn Tuân
    đang vẽ lên một bức tranh thuỷ mặc về những con người đang đi lượm lặt những
    nhành hoa cuối mùa để chống lại xã hội Âu hoá, cái xã hội đang huỷ hoại nền
    văn hoá cổ truyền của dân tộc.
    35
    Nguyễn Tuân là một nhà văn có cái Tôi độc đáo, khác người. Ông chịu
    ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Về triết học, ông ảnh hưởng của
    triết học Niezsche về quan niệm con người siêu đẳng, về văn học, ông ảnh
    hưởng của nhà văn Pháp A.Gide khi đề cao vai trò của cá nhân với cộng đồng xã
    hội, trong quan điểm về cuộc đời và con người, Nguyễn Tuân tiếp cận tư tưởng
    Lão Trang một cách sâu sắc và ảnh hưởng từ người cha – cụ Tú kép Nguyễn An
    Lan xem cuộc đời như một cuộc chơi. Trước cách mạng, trước những biến cố
    thời cuộc, sóng gió cuộc đời, nhân vật chính trong các sáng tác của Nguyễn
    Tuân chủ yếu là các nhà nho cuối mùa, lớp người tài hoa tài tử nhưng “sinh lầm
    thế kỉ” lạc lõng giữa cuộc đời. Bên cạnh lớp nhà Nho sống thanh bạch nhàn nhã
    trầm tĩnh, ông quan tâm nhiều hơn đến lớp người tài hoa, nghệ sĩ – kiểu nhân vật
    này như tấm gương phản chiếu chính người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Biết
    yêu quý cái đẹp, luôn tìm cái đẹp trong mọi ngóc ngách của đời sống đã trở
    thành mục đích trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trong truyện Đánh
    thơ, ông kể về cuộc sống của Mộng Liên, Mộng Huyền, Mộng Thu: “Bằng cái
    sắc, bằng tiếng ca, bằng tài tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba
    người đàn bà đẹp đã thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời”[24, tr.47]. Những
    kẻ sống bằng tình yêu nghệ thuật đã tiêu tan cả cơ nghiệp, cả đời mình vào
    giọng hát, tiếng đàn, vào thanh sắc cuộc đời. Trong Chiếc lư đồng mắt cua,
    Nguyễn Tuân đã kể về cuộc sống của những kiếp tài tử, giang hồ như nhân vật
    Tôi, ông Thông Phu, cô Đào Tâm… Họ là những con người tài hoa, lỡ bước sa
    chân vào cuộc sống trụy lạc nhưng bản chất là những lương thiện và khao khát
    có một cuộc sống tốt đẹp. Những con người ấy có tài, trọng tài và trọng tình, yêu
    quý cái nếp thanh cao, đẹp đẽ của mình, những con người đã tạo ra “Cái đạo của
    người tài tử”, sống hết mình vì nghệ thuật. Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người
    tử tù hiện lên với cả ba vẻ đẹp của Tài, Dũng, Tâm.
    Cùng viết về đề tài người tài hoa có nhân cách, GV có thể liên văn bản
    với các văn bản văn học trong chương trình phổ thông như với hình tượng nhân
    vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức Phán Sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ) “Kẻ sẽ
    36
    không lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời”, dù bản thân
    có phải chịu thiệt thòi nhưng quyết làm theo lẽ phải, chiến đấu đến cùng bảo vệ
    quyền lợi cho người tốt, trừ hại cho dân. Cũng có thể liên văn bản với hình
    tượng Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Nguyễn Huy Tưởng), cả Vũ
    Như Tô và Huấn Cao đều là những người nghệ sĩ tài năng, tâm huyết, tạo ra cái
    đẹp, có khát vọng cống hiến cho đời, có khí phách, ngạo nghễ trước cường
    quyền. Họ đều có một số phận bi kịch không được trọng dụng tài năng trong
    một xã hội phong kiến thối nát. Qua nhân vật, mỗi nhà văn bộc lộ quan điểm của
    mình về cái đẹp, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Cùng đặt trong
    trường liên tưởng ấy, GV có thể dẫn dắt giới thiệu về nhân vật Lorca trong Đàn
    ghita của Lorca (Thanh Thảo) mà các em sẽ được học trong chương trình lớp
    12. Một nghệ sĩ tài năng, một chiến sĩ cách mạng vĩ đại của đất nước Tây Ban
    Nha đã anh dũng hi sinh trước âm mưu của bọn phản động phát xít Phrăngcô.
    Cũng có thể mở rộng liên văn bản cùng văn học giai đoạn này (1930- 1945) có
    nhiều nhà văn viết về lớp người cũ này bằng nhiều cách tiếp cận và thế giới
    quan đa dạng như: Nhà Nho (Chu Thiên), Thanh đạm (Nguyễn Công Hoan), đặc
    biệt là tiểu thuyết Lều chõng (Ngô Tất Tố). “Trong tác phẩm của mình, Ngô Tất
    Tố đứng trên lập trường của một nhà văn hiện thực phê phán đã ném ra một bức
    tranh màu xám với những đường nét tối sẫm về chế độ khoa cử mục nát dưới
    triều Nguyễn, đồng thời miêu tả tấn bi kịch đau xót của những nhà nho có tài
    trong xã hội phong kiến” [18, tr.55]. Nhưng rõ ràng nhà văn Nguyễn Tuân đã
    tạo dấu ấn độc đáo khi viết Chữ người tử tù, người đọc thực sự cảm thấy sống
    lại trong bảo tàng cái đẹp, ngưỡng mộ trước những con người có nhân, trí, dũng,
    trước những vẻ đẹp thời “vang bóng”.
    Khi dạy Người lái đò Sông Đà giáo viên có thể LVB với các tác phẩm có
    cùng chủ đề ngợi ca công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta dễ dàng
    nhận thấy một tình yêu quê hương xứ sở nồng nàn tha thiết, dù lúc sông Đà
    hung dữ hay lãng mạn. Ông đã kì công để chứng minh Đà giang không phải là
    sông đen như cái tên Tây láo lếu thực dân Pháp đặt cho dòng sông Đà “Mùa
    37
    xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại
    “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Ông nhìn sông Đà
    như một cố nhân, một người tình chưa quen biết. Tình yêu nồng nàn ấy ông gửi
    gắm vào vào thiên nhiên Tây Bắc giống như nhà thơ Chế Lan Viên
    “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
    Khi lòng ta đã hoá những con tàu
    Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
    Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”. (Tiếng hát con tàu)
    Tình yêu ấy ông dành trọn vẹn hơn cho con người Tây Bắc. Ông lái đò
    không phải là một tay lái đơn thuần mà còn là một tay lái ra hoa. Để chinh phục
    được con sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có
    tính cách phi thường như “chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng dữ”. Ông chỉ
    thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn thác dữ. Ông cũng đã từng tâm sự: “Lái
    thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại chân tay và rất
    dễ buồn ngủ”. Mười năm đối với đời của một con người không phải thời gian
    dài. Thế nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng phải cưỡi thác sông
    Đà như cưỡi hổ, phải đối mặt với những trùng vi thạch trận; ngày nào ở nơi ấy
    ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng vô cùng mỏng manh. Như vậy, một
    người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với gian khổ hi sinh, ông
    đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường, một trí nhớ siêu
    phàm, khỏe mạnh, khéo léo. Trong trận chiến trên sông Đà, ông lái đò hiện lên
    dũng mãnh như một dũng tướng thuở xưa. Cuộc chiến giữa ông đò và thạch trận
    Sông Đà không chỉ về sức mạnh mà quan trọng hơn đó còn là cuộc đấu trí nên
    đòi hỏi nắm chắc quy luật phục kích binh pháp để phá trận khiến người đọc có
    thể liên tưởng bát quái trận đồ Khổng Minh. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên
    sông nước. Lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa
    nhưng điều quan trọng mà ta cần phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp
    trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung chân thực nhất về
    vẻ đẹp của con người mới XHCN, những con người sống rất âm thầm, giản dị,
    38
    sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện
    cho tiền tuyến lớn ở miền Nam thành đồng Tổ quốc. Sau Cách mạng, Nguyễn
    Tuân tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ngay trong đời của những người dân bình
    thường thời hiện đại, ông viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích…
    Đó là những con người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người
    rất bình dị. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy – một con người bình
    thường như muôn nghìn người dân Tây Bắc khác. Nhân vật ông lái đò gợi cho ta
    liên tưởng tới anh thanh niên không tên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành
    Long. Nhân vật này chỉ hiện ra trong chốc lát ghi nhận lại một ấn tượng, một ký
    họa chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt
    ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa. Anh sống một mình trên núi cao hai
    nghìn sáu trăm mét, công việc của anh là đo đạc, theo dõi, làm các việc phục vụ
    cho dự báo thời tiết hằng ngày. Nhưng ở anh có những phẩm chất, lối sống, suy
    nghĩ đẹp đáng quý, đáng trân trọng. Họ rất bình dị nhưng cũng lại thầm lặng
    cống hiến cho đất nước mà như Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong Đất nước –
    Trích trường ca Mặt đường khát vọng
    “Họ đã sống và chết

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ Văn dựa trên phản hồi của học sinh

    SKKN Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ Văn dựa trên phản hồi của học sinh

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ mục tiêu đổi mới giáo dục
    Đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra đối với tất cả các ngành
    học, cấp học của hệ thống giáo dục hiện nay, đó là “chuyển mạnh quá trình giáo
    dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và
    phẩm chất người học”, “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo
    dục nhà trường kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội”, đáp ứng yêu cầu đào tạo
    nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp công
    nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Để thực hiện tư tưởng
    đó, cần “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;
    phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
    người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung
    dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật
    và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Những định hướng trên đặt ra
    cho các nhà quản lí, chỉ đạo giáo dục và đội ngũ GV một yêu cầu và nhiệm vụ quan
    trọng là cần có những chuyển biến về nhận thức và hành động trong quá trình quản
    lí và dạy học ngay từ bây giờ để chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho công cuộc
    đổi mới giáo dục, đặc biệt hướng tới việc triển khai Đề án thực hiện chương trình
    mới 2018. Một trong những yêu cầu đổi mới trong dạy học là cần chú trọng phát
    huy cao nhất tính tích cực, chủ động của HS trong học tập, để HS có thể trở thành
    chủ thể trong việc tiếp nhận tri thức và có năng lực vận dụng các kiến thức, kĩ năng
    tiếp nhận được trong học tập vào thực tiễn đời sống.
    2. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống
    Trong cuộc sống, mỗi con người luôn là một cá thể trong mối quan hệ với
    cộng đồng xã hội cũng như với rất nhiều sự vật, hiện tượng xung quanh. Để khám
    phá và thích ứng với môi trường, hoàn cảnh, con người luôn có nhu cầu giao tiếp,
    đối thoại và phản hồi. Mục tiêu giáo dục của chúng ta hiện nay đang tích cực rèn
    luyện kĩ năng sống, phát triển năng lực cho học sinh. Rời ghế nhà trường để bước
    vào đời, các em không phải chỉ là những người có trình độ, có kiến thức mà còn
    cần là người có kĩ năng sống, có năng lực giải quyết các vấn đề. Đó là “khả năng
    thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với
    nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” (WHO). Phản hồi là một hoạt
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 4
    động, nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học
    sinh cũng là một trong những yêu cầu, mục tiêu cần hướng tới của chương trình
    giáo dục phát triển năng lực.
    3. Xuất phát từ thực tế dạy học hiện nay ở bộ môn Ngữ văn.
    Thực hiện đổi mới Chương trình và SGK, trong đó có hoạt động dạy học
    Ngữ văn theo hướng hình thành và phát triển năng lực, các kĩ năng cho HS,
    phần dạy học Đọc – hiểu các văn bản trong Chương trình Ngữ văn sẽ góp phần
    hình thành và phát triển những năng lực, kĩ năng nào?
    Mục tiêu dạy học văn trong thời đại mới chú trọng ở tính thiết thực. Học sinh
    phải biết vận dụng kiến thức được học từ môn Ngữ văn vào giải quyết những vấn
    đề, những tình huống cụ thể, gần gũi trong cuộc sống. Mục tiêu đó được cụ thể hóa
    trong chương trình ở từng cấp học, bậc học. Các phương pháp dạy học Ngữ Văn
    truyền thống không đủ sức để giải quyết vấn đề này. Vì thế vấn đề đổi mới phương
    pháp dạy học Ngữ Văn được đặt ra và trở thành mối quan tâm của những người
    làm công tác giáo dục mà đặc biệt là những giáo viên (GV) dạy bộ môn Ngữ Văn.
    Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) không thể tùy tiện, nó phải
    dựa trên mục tiêu, nguyên tắc, chiến lược dạy học cũng như bám sát vào đặc trưng,
    bản chất của môn học. Quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm” là một
    quan điểm giáo dục hiện đại, giải phóng và phát triển năng lực sáng tạo cho người
    học. Quan điểm dạy học này là một định hướng dạy học tích cực, chi phối việc xác
    định mục tiêu dạy học, lựa chọn nội dung và PPDH.
    Xuất phát từ những lý do trên cùng mong muốn trong từng bài dạy, trong
    từng giờ học, học sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần
    nâng cao hiệu quả học đồng thời là tài liệu tham khảo cho các thầy cô giáo trong
    quá trình dạy học Ngữ Văn, tôi chọn phương pháp Nâng cao hiệu quả phương
    pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh với hi vọng mang đến một
    PPDH mới cho việc dạy Đọc – hiểu văn bản, góp thêm một giải pháp cho việc đổi
    mới phương pháp dạy học Ngữ Văn trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện
    nền giáo dục hiện nay.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn
    Qua việc khảo sát yêu cầu Chương trình Ngữ văn nói chung, tôi nhận thấy
    chương trình giáo dục phổ thông xác định mục tiêu chung của việc dạy học Ngữ
    văn như sau:
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 5
    – Có những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ thống về những tác
    phẩm tiêu biểu cho các thể loại cơ bản của văn học Việt Nam và một số tác phẩm,
    đoạn trích của văn học nước ngoài.
    – Hình thành và phát triển các năng lực cơ bản với yêu cầu cao hơn cấp
    Trung học cơ sở, bao gồm: năng lực sử dụng tiến Việt thể hiện ở bốn kĩ năng cơ
    bản (đọc, viết, nghe, nói), năng lực tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực
    tự học và năng lực thực hành, ứng dụng.
    – Có tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình yêu gia đình, thiên nhiên;
    lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; tinh thần dân chủ, nhân văn ; nâng cao ý
    thức trách nhiệm công dân; ý thức tôn trọng, phát huy các giá trị văn hóa của dân
    tộc và nhân loại.
    Tuy nhiên qua tìm hiểu tại một số trường học trên địa bàn, tôi nhận thấy việc
    thực hiện giáo dục dạy học phản hồi đã được đề cập tới trong đổi mới phương pháp
    và kĩ thuật dạy học ở một số trường THPT. Khi giảng dạy môn Ngữ văn ở trường
    THPT Mỹ Tho, tôi và các giáo viên dạy môn Ngữ văn đã áp dụng giải pháp: sử
    dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực: khăn trải bàn, thảo luận nhóm, dự
    án…đặc biệt đã sử dụng dạy học phản hồi kết hợp với công nghệ thông tin để tăng
    tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên chúng tôi vẫn nhận thấy:
    – Học sinh vẫn chưa thực sự hứng thú với môn Ngữ văn, chưa chủ động với
    việc chiếm lĩnh kiến thức. Trong các tiết đọc hiểu, học sinh chưa tích cực phản hồi.
    Việc cảm thụ tác phẩm của học sinh vẫn theo định hướng của giáo viên, học sinh ít
    sáng tạo, chất lượng học tập chưa cao.
    – Học sinh không vận dụng được những kiến thức liên môn đã học để tìm
    hiểu văn bản, thờ ơ và thấy rằng học những tác phẩm văn học là không cần thiết,
    không thể áp dụng vào thực tiễn cuộc sống vì thế chưa có những tình huống phản
    hồi hiệu quả.
    – Giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng công nghệ thông tin và áp dụng
    các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực trong tiết đọc hiểu văn học. Vì thế giờ
    học thường trôi qua nặng nề, học sinh chưa hứng thú và rút ra được những bài học
    cho riêng mình.
    1.2. Thực trạng của việc dạy học Ngữ văn trong trường THPT hiện nay
    Để có thêm cơ sở thực tiễn về việc nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ Văn theo
    định hướng phát triển năng lực cho học sinh thông qua phản hồi của học sinh, tôi tiến
    hành điều tra, khảo sát thực trạng dạy học Ngữ văn cho học sinh ở các trường THPT
    thuộc địa bàn tỉnh Nam Định thông qua hình thức sử dụng phiếu hỏi đối với giáo viên
    của các huyện Ý Yên, Vụ Bản; dùng phiếu thăm dò ý kiến đối với học sinh ở các
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 6
    trường THPT trong huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đó là THPT Đại An, THPT Mỹ
    Tho, THPT Lý Nhân Tông.
    a. Khảo sát tình hình giảng dạy chương trình Ngữ văn của GV ở trường THPT
    – Số GV được phỏng vấn: 135.
    – Thời gian phỏng vấn: 25/10/2020
    – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực tế dạy học Ngữ văn trong chương trình
    phổ thông của GV hiện nay ở các trường THPT trong địa bàn tỉnh Nam Định để
    làm cơ sở thực tiễn cho Báo cáo Nâng cao hiệu quả phương phápdạy học Ngữ văn
    dựa trên phản hồi của học sinhcủa khối học này.
    – Nội dung khảo sát:(Phụ lục 2)
    – Kết quả khảo sát:
    Bảng: 1.3. Kết quả khảo sát GV ở câu hỏi từ 1 – 7

    Câu
    hỏi
    Kết quả đánh giá của GV
    ABCD
    SL%SL%SL%SL%
    1000012391,1128,9
    200004533,39066,7
    33525,94029,63828,12216,3
    4128,93525,95339,24029,6
    52014,850374029,62518,5
    6004331,88059,25128,9
    7128,96044,44331,92014,8

    Qua phân tích kết quả khảo sát thực trạng dạy học Ngữ văn trên địa bàn các
    huyện Ý Yên, Vụ Bản như trên có thể đưa ra kết luận: hầu hết giáo viên đều ý thức
    được tầm quan trọng của việc phản hồi tích cực trong quá trình giảng dạy Ngữ văn
    ở trường phổ thông. Vấn đề này đã được các nhà trường chỉ đạo thực hiện song vẫn
    mang tính hình thức như chỉ thể hiện trên giáo án hoặc ở các tiết dạy thanh tra, hội
    giảng. Học sinh chưa được giáo viên thường xuyên chú trọng đến việc phản hồi
    tích cực. Vì vậy các em còn nhút nhát, thiếu tự tin. Khi gặp các tình huống phát
    sinh trong thi cử, đời sống hoặc tham gia các hoạt động tập thể, các em bộc lộ rất rõ
    điểm yếu này.
    b. Khảo sát tình hình học chương trình Ngữ văn qua việc phản hồi tích cực của
    học sinh ở trường THPT
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 7
    Tôi sử dụng 242 phiếu điều tra cho 06 lớp 10,11,12 ban khoa học cơ bản của
    03 trường THPT trong huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đó là trường THPT Lý Nhân
    Tông, trường THPT Mỹ Tho, trường THPT Đại An, cụ thể như sau:
    Bảng: 1.4. Đối tượng khảo sát học sinh

    STTTên trườngLớpSố học sinh
    1Trường THPT Lý Nhân Tông –
    Tỉnh
    Nam Định
    10 A2
    10 A6
    40
    39
    2Trường THPT Mỹ Tho – Tỉnh Nam
    Định
    11 A4
    11 A7
    40
    41
    3Trường THPT Đại An – Tỉnh Nam
    Định
    12 A3
    12 A8
    42
    40
    4Tổng6 lớp242

    – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực tế quá trình dạy học Ngữ văn qua việc
    phản hồi tích cực của học sinh ở một số trường THPT hiện nay để làm cơ sở thực
    tiễn cho Sáng kiến.
    – Nội dung khảo sát: (Phụ lục 3)
    – Kết quả điều tra khảo sát:

    Câu hỏiKhôngThỉnh thoảngThường
    xuyên
    1. Em có hiểu thế nào là
    “hoạt động phản hồi tích cực”
    và các hình thức thức tổ chức
    hoạt động phản hồi tích cực
    không?
    168
    (69,4%)
    52
    (21,5%)
    22
    (9,1%)
    2. Trước khi vào giờ học Ngữ
    văn (Ngữ văn 10), các em có
    được phản hồi tích cực
    không?
    18
    (7,4%)
    150
    (62%)
    74
    (30,6%)
    3. Khi chuẩn bị bài ở nhà
    (nếu có), em có tìm thêm tài
    liệu tham khảo hoặc những
    đường link về bài học không?
    120
    (49,6%)
    92
    (38%)
    30
    (12,4%)
    4. Khi học Ngữ văn, em có
    chú ý các đến kĩ năng giao
    22
    (9,1%)
    89
    (36,8%)
    131
    (54,1%)

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 8

    tiếp với thầy cô không?
    5. Trong quá trình tổ chức
    các hoạt động học, thầy (cô)
    có thường đặt các câu hỏi để
    khơi gợi cảm xúc và những
    liên tưởng, tưởng tượng hoặc
    đặt ra những tình huống có
    vấn đề cho các em không?
    11
    (4,5%)
    151
    (62,4%)
    80
    (33%)
    6. Trong quá trình học Ngữ
    văn, em có hay đưa ra nhận
    xét, đánh giá của cá nhân về
    những vấn đề, những thông
    điệp được thể hiện trong bài
    học không?
    25
    (10,3%)
    137
    56,6%)
    88
    (36,4%)
    7. Khi học Ngữ văn 10, em
    có được tham gia các hình
    thức như trải nghiệm thực tế
    hay diễn hoạt cảnh không?
    13
    (5,4%)
    177
    (73,1)
    52
    (21,5%)
    8. Khi học giờ Ngữ văn xong,
    em có làm các bài tập vận
    dụng trong SGK hoặc thầy
    (cô) giao về nhà và cón hững
    phản hồi tích cực với thầy cô
    không?
    67
    (27,7%)
    130
    (53,7%)
    45
    (18,6%)

    Có thể thấy, kết quả khảo sát đã phần nào phác hoạ được bức tranh học tập
    môn Ngữ văn, nhất là hoạt động phản hồi tích cực của phân môn này ở nhà trường
    phổ thông. Dạy học phản hồi tích cực vừa giúp HS tự tin trong giao tiếp, vừa giúp
    GV có thẻ nắm bắt được kiến thức của người học một cách tích cực đồng thời có
    thể chủ động điều chỉnh phương pháp của mình cho phù hợp. Song, việc học phân
    môn này đang diễn ra một cách tự nhiên, không ý thức, chưa có tính mục đích rõ
    ràng, không tạo được hứng thú cho học sinh. Do đó, tôi nhận thấy việc Nâng cao
    hiệu quả phương phápdạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh trong
    khuôn khổ thực hiện của sáng kiến là hoàn toàn có cơ sở thuyết phục về mặt thực
    tiễn. Điều này rất cần thiết trong việc hình thành cho các em những năng lực cơ
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 9
    bản, thái độ sống nhân văn, sâu sắc của một công dân trong xã hội hiện đại.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Xác định rõ mục tiêu
    Qua các tài liệu tập huấn, các lớp bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
    và thực tế dạy học tôi nhận thấy Nâng cao hiệu quả phương phápdạy học Ngữ văn
    dựa trên phản hồi của học sinhcó thể giúp cho học sinh:
    – Nắm vững kiến thức đã học, trên cơ sở đó học sinh vận dụng kiến thức để
    giải quyết những bài tập hoặc xây dựng kiến thức cho bài học mới; nắm vững kiến
    thức đã học, có khả năng liên hệ, liên kết các kiến thức bởi những vấn đề thực tiễn
    liên quan
    – Vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào trong học tập, trong cuộc sống giúp
    các em học đi đôi với hành. Giúp học sinh xây dựng thái độ học tập đúng đắn,
    phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết,
    đặc biệt là năng lực tự học;…
    – Hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát, thu thập, phân tích và xử lý
    thông tin, hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học; hình thành và phát triển kĩ
    năng nghiên cứu thực tiễn; có tâm thế luôn luôn chủ động trong việc giải quyết
    những vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
    – Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về cuộc sống, những tác động
    tích cực cũng như tiêu cực đối với con người cũng như ảnh hưởng của con người
    đến cuộc sống.
    – Thông qua việc hiểu biết về thế giới quanh mình bằng việc vận dụng kiến
    thức đã học để tìm hiểu, các em sẽ ý thức được hoạt động của bản thân, có trách
    nhiệm với chính mình, với gia đình, nhà trường và xã hội ngay trong cuộc sống
    hiện tại cũng như tương lai sau này của các em.
    – Đem lại niềm vui, tạo hứng thú học tập cho học sinh, phát triển ở các em
    tính tích cực, tự lập, sáng tạo, khả năng giao tiếp tốt để vượt qua khó khăn trên con
    đường dẫn tới thành công.
    2.2. Dạy học phản hồi trong môn Ngữ văn ở trường THPT
    2.2.1. Khái niệm
    Phản hồi là cách thức giao tiếp mà người ta sẽ đưa và nhận thông tin trong
    cách ứng xử. Là sự thông báo qua lại giữa học sinh (HS) và giáo viên (GV). Thông
    qua sự phản hồi từ HS đến GV, người GV có thể biết mức độ nắm vững kiến thức
    và kĩ năng của HS. Bên cạnh đó, GV cũng kiểm nghiệm lại phương pháp dạy học
    (PPDH) và hiệu quả dạy học của mình, từ đó kịp thời điều chỉnh PPDH, kế hoạch
    dạy học cho phù hợp.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 10
    Kỹ năng phản hồi được thể hiện qua 2 cách:
    + Phản hồi xây dựng (phản hồi tích cực): là đưa ra những thông tin cụ thể,
    trọng tâm vào vấn đề và dựa trên sự quan sát, nêu lên những điểm tích cực và
    những điểm cần cải thiện.
    + Phản hồi theo kiểu “khen và chê”: là những đánh giá mang tính cá nhân,
    chung chung, không rõ ràng, chú trọng vào con người và dựa trên quan điểm , cảm
    nhận của người đưa ý kiến phản hồi.
    Trong quá trình học tập, cũng có khi HS là người nhận phản hồi từ các thầy
    cô và bạn bè, nhưng cũng có khi HS chính là người đưa ra ý kiến phản hồi cho
    chính thầy cô hoặc bạn bè của mình. Nhưng dù ở vai trò nào, chúng ta hãy cố gắng
    để đừng bị rơi vào cái bẫy của kiểu phản hồi “khen và chê”. Trong phạm vi sáng
    kiến này, tôi đề cập đến Kỹ năng phản hồi xây dựng (phản hồi tích cực).
    2.2.2. Kỹ năng phản hồi tích cực
    Kỹ năng phản hồi tích cực là kỹ năng người giao tiếp sẽ đưa ra các thông tin
    cụ thể về vấn đề căn cứ trên sự quan sát tỉ mỉ, từ đó nêu lên những điểm tích cực và
    những điểm cần cải thiện. Phản hồi tích cực được biểu hiện qua việc lắng nghe tích
    cực, tóm tắt được những điểm chính trong giờ học, kết hợp hoàn hảo giữa phản hồi
    bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
    Các loại phản hồi tích cực
    – Khuyến khích là sự tác động đến tinh thần để gây phấn khởi, tin tưởng mà
    cố gắng hơn.
    – Trấn an là làm cho yên lòng, hết hoang mang lo sợ.
    – Động viên là tác động đến tinh thần làm cho phấn khởi vươn lên.
    – Ca ngợi là nêu lên để khen, để tỏ lòng yêu quý, khâm phục.
    Kỹ năng phản hồi là một phần rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày nói chung
    và trong môi trường học tập nói riêng. Khi một người nhận được những phản hồi
    mang tính xây dựng nó sẽ giúp cho họ sẵn sàng thay đổi để hoàn thiện mình hơn và
    tối đa hóa khả năng của mình.
    2.2.3. Các nguyên tắc khi đưa ý kiến phản hồi xây dựng
    – Chỉ nên đưa ý kiến phản hồi khi có sự chấp thuận của người nhận
    – Đưa ý kiến phản hồi càng sớm càng tốt, khi mà sự việc vẫn còn tươi mới
    trong đầu của cả người đưa và nhận phản hồi. Tuy nhiên, khi đưa ý kiến phản hồi
    những điểm cần cải thiện, cần lưu ý: Nếu ngay khi sự việc xảy ra, tâm trạng của
    người đưa hoặc người nhận phản hồi không tốt, hãy giành thời gian để cả hai phía
    bình tĩnh trở lại và người đưa phản hồi sắp xếp ý tưởng cho hợp lý, có được giọng
    nói, ngữ điệu phù hợp và đã “sẵn sàng” khi đó hãy tiến hành phản hồi.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 11
    – Chọn địa điểm thích hợp, đặc biệt là khi đưa ý kiến phản hồi những vấn đề
    cá nhân cần cải thiện nên chọn chỗ riêng tư.
    – Người đưa phản hồi cần dựa trên những hành vi cụ thể, những hiện tượng
    vừa quan sát và ghi chép được để phản hồi, không tự đánh giá, áp đặt hoặc suy
    diễn.
    – Hãy bắt đầu phản hồi bằng cách nêu bật những điểm tích cực trước; Nên
    đưa ra những điểm cần cải thiện, không nên xâu chuỗi những lỗi, khuyết điểm
    trong quá khứ, trừ trường hợp cần nhấn mạnh hành vi có tính chất hệ thống.
    – Không nên đưa ra đưa ra quá 4 điểm cần cải thiện trong một lần phản hồi.
    – Khi phản hồi về những điểm cần cải thiện nên chú trọng vào những hành vi
    có thể thay đổi, thảo luận giải pháp cải thiện một cách cụ thể.
    – Khuyến khích người nhận phản hồi tự đưa ra giải pháp, sử dụng những câu
    hỏi mở như: “Anh chị thấy việc này thế nào? Nếu lần sau làm lại việc này, anh/chị
    sẽ làm khác đi như thế nào?…
    – Phản hồi là vì người nhận, không vì người đưa phản hồi. Do vậy khi đưa
    phản hồi, bạn cần nhạy cảm với những tác động của những thông tin mà bạn đưa
    ra.
    Cần đặc biệt lưu ý: Người nhận phản hồi có sẵn sàng cải thiện hay không lại phụ
    thuộc nhiều vào cách thức bạn đưa ý kiến hơn là nội dung bạn phản hồi. Do vậy
    trong quá trình đưa phản hồi bạn nên:
    + Đi thẳng vào vấn đề, tránh vòng vo
    + Chân thành, tránh dùng cầu phức. Sự chân thành nói lên mối quan tâm, tôn
    trọng của bạn đối với người nhận phản hồi.
    + Chú ý đến giọng nói của bạn: Âm sắc trong giọng nói cũng truyền tải tầm
    quan trọng của vấn đề và sự quan tâm của người đưa phản hồi. Giọng nói cáu kỉnh,
    thất vọng sẽ dễ chuyển phản hồi tích cực, có tính chất xây dựng thành phê phán.
    Phản hồi tích cực thường được sử dụng như một công cụ hữu ích trong môi
    trường giáo dục. Trong quá trình học tại trường, bạn sẽ thường xuyên gặp các tình
    huống giảng viên đưa phản hồi cho sinh viên, sinh viên phản hồi cho nhau trong
    quá trình thực hành, thậm chí sinh viên cũng có thể đưa phản hồi cho giảng viên.
    Dù phản hồi được thực hiện trong dưới hình thức nào, nhưng nếu những nguyên tắc
    cơ bản trên được sử dụng thường xuyên và bạn nghiêm túc cân nhắc những phản
    hồi tích cực để cải thiện mình thì đó sẽ là con đường ngắn nhất đi đến đích hoàn
    thiện các kỹ năng của bản thân.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 12
    2.2.4. Dạy học phản hồi trong môn Ngữ văn
    Dạy học phản hồi trong môn Ngữ văn ở trường THPT là một chiến lược dạy
    học GV sử dụng để điều chỉnh những kinh nghiệm, kiến thức và những cách thức
    dạy học để trợ giúp sự phát triển tư duy cho HS. Mô hình dạy học này được hình
    thành từ lý thuyết dạy học văn dựa trên quan điểm của người học. Mô hình này
    cũng được xây dựng dựa trên tiến trình hiểu một tác phẩm văn chương. Ngoài việc
    người đọc hướng tới việc tạo nghĩa cho văn bản khi họ tham gia vào hoạt động đọc
    thì họ còn hướng tới những ý tưởng khác do họ sáng tạo ra. Những câu hỏi và sự
    suy đoán lần lượt xuất hiện và trở thành động cơ “trải nghiệm những kinh nghiệm”.
    Mô hình dạy đọc văn bản văn học trên cơ sở phản hồi của HS là một mô hình dạy
    học mở, đặt trọng tâm vào đối tượng người học, giải phóng tối đa năng lực tư duy
    sáng tạo của HS. Trước mắt người học không phải là những bài giảng, những kiến
    thức có sẵn, mà là những vấn đề, những tình huống, những mâu thuẫn được gợi ra
    từ văn bản mà người học cần vượt qua. Bản chất của mô hình dạy đọc văn bản văn
    học trên cơ sở phản hồi của HS là GV sử dụng những chiến lược dạy học để khơi
    gợi, khuyến khích HS suy ngẫm và khám phá những cách hiểu có thể về văn bản,
    từ đó giúp HS tham gia vào quá trình giải mã và tạo nghĩa cho văn bản.
    Trong giờ đọc hiểu văn bản, GV tổ chức những hoạt động như thảo luận
    nhóm, đóng vai, phỏng vấn, tranh luận … để hướng dẫn HS đọc và khám phá tác
    phẩm trên cơ sở tự giác, tích cực, sáng tạo. Giờ học được tổ chức xoay quanh
    những phản hồi của HS về văn bản, về ý kiến của bạn học. GV theo sát các ý
    tưởng, câu trả lời của HS và từ những ý tưởng, câu trả lời này GV tiếp tục khơi gợi
    để HS khám phá, trải nghiệm chân trời các cách hiểu có thể về văn bản.
    Sự phản hồi của HS rất đa dạng, có thể dưới dạng một câu trả lời, một câu
    hỏi hoặc một quan điểm, thậm chí đề xuất một cách hiểu hoàn toàn mới dựa trên sự
    hiểu biết, kinh nghiệm sống của các em. GV tổ chức cho HS xem xét và phân tích
    các quan điểm khác nhau của HS trong lớp học để giúp HS phát triển, mở rộng sự
    hiểu biết về văn bản, giúp họ hiểu bạn học và hiểu chính bản thân mình. Giờ học
    văn thật sự là một trải nghiệm đầy thú vị và bất ngờ của HS.
    Quá trình đọc và trải nghiệm, cho phép người đọc sử dụng các quan điểm
    khác, sự hiểu biết về những văn bản có liên quan, kiến thức nền, ngữ cảnh khi văn
    bản ra đời và thời điểm đọc, giải mã và tạo nghĩa cho văn bản. Mục đích giờ lên lớp
    của GV không phải là để truyền thụ những kiến thức đã được định sẵn trong giáo
    án mà đó là một giờ cùng HS trải nghiệm, thám hiểm những chân trời của những
    cách hiểu có thể về văn bản. Giờ đọc văn trên lớp được xem là thời điểm để phát
    triển sự hiểu biết vì HS đã có một quá trình trải nghiệm trước đó khi HS đọc văn
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 13
    bản một mình ở nhà. Giáo án trong mô hình dạy học trên cơ sở phản hồi của người
    học lúc này không phải là bản ghi chi tiết các bước lên lớp, những kiến thức cần
    phải truyền thụ cho HS mà là kế hoạch những hoạt động mà GV dự kiến sử dụng
    để giúp HS tự khám phá, phát huy vai trò chủ thể học tập. Trong dạy học văn hiện
    nay, GV thường chú trọng nhiều đến hai kĩ năng đọc – viết mà ít chú ý đến việc
    phát triển hai kỹ năng nghe – nói cho HS. Việc tổ chức giờ dạy học Ngữ Văn trên
    cơ sở phản hồi của HS sẽ phát triển song song bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho
    HS.
    Mô hình dạy đọc văn bản trên cơ sở phản hồi của người đọc – HS khác với
    mô hình dạy đọc văn bản truyền thống của Việt Nam. Đặc điểm mô hình dạy học
    Văn truyền thống của nước ta là GV tìm hiểu văn bản, xác định mục tiêu bài học,
    định trước những hoạt động, lựa chọn những đơn vị kiến thức, soạn giáo án và lên
    lớp truyềnthụkiến thức ấy cho HS. Giờ học lặp đi, lặp lại theo một quy trình định
    sẵ̃n, áp dụng với mọi giờ học. GV khi lên lớp phải thực hiện đầy đủ các bước từ ổn
    định lớp, kiểm tra sĩ số, kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới, giảng bài, củng cố và
    hướng dẫn chuẩn bị bài mới. Thiếu một bước coi như tiết học chưa hoàn thành.
    Mọi giờ học đều giống nhau, các bước lên lớp cứ lặp đi lặp lại nhàm chán, tẻ nhạt,
    không gây hứng thú đối với HS. SGK và SGV được xem là pháp lệnh. Đặc biệt khi
    kiểm tra đánh giá giờ dạy, GV thường bị đánh giá vào các tiêu chí là có thực hiện
    đầy đủ các bước lên lớp hay không, có bị “cháy” giáo án không, GV có truyền đạt
    đầy đủ kiến thức của bài học hay không. Vì thế, để thực hiện tốt điều này, GV
    thường chạy đua với thời gian, không tổ chức được những hoạt động để các em
    được trải nghiệm, được bày tỏ những ý kiến cá nhân về văn bản. GV là người nắm
    giữ kiến thức nên HS chỉ thụ động tiếp nhận từ GV và táihiện những kiến thức ấy
    trong những đợt kiểm tra, thi cử. Đôi lúc HS cũng có những cảm nhận riêng, những
    ý kiến sáng tạo nhưng chỉ dừng lại ở sự ghi nhận, tham khảo. Trong giờ học ít có sự
    tương tác, đối thoại giữa GV – HS, giữa HS – HS. HS ít đặt câu hỏi, thậm chí
    không biết đặt câu hỏi về bài học với GV và các bạn cùng lớp. Mối quan hệ giữa
    GV và HS xoay quanh trục: Thầy truyền đạt – trò tiếp nhận. Ta có thể so sánh một
    cách khái quát mô hình dạy đọc văn bản truyền thống và mô hình dạy đọc văn bản
    dựa trên sự phản hồi của người đọc – HS như sau:

    Mô hình dạy đọc văn bản
    truyền thống
    Mô hình dạy Ngữ Văn trên cơ sở
    phản hồi của HS
    – GV ở vị trí trung tâm, nắm giữ kiến– HS ở vị trí trung tâm, là chủ thể của hoạt động

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 14

    thức.tiếp nhận.
    – HS thụ động tiếp nhận kiến thức.– HS chủ động tìm kiếm kiến thức, ý kiến của
    HS được khuyến khích và tôn trọng
    – GV quyết định quy trình dạy học,
    áp đặt kiến thức cho HS
    – GV không áp đặt kiến thức cho HS mà tổ
    chức các hoạt động phát triển ý tưởng của HS
    – Mối quan hệ giữa GV – HS là mối
    quan hệ một chiều
    – Mối quan hệ đa chiều, có sự tương tác GV –
    HS, HS – HS.

    Bảng: Sự khác nhau giữa mô hình dạy học văn truyền thống và mô hình dạy Ngữ Văn
    trên cơ sở phản hồi của học sinh.
    Mô hình dạy học dựa trên phản hồi của người học là một mô hình mở, đặt
    trọng tâm vào đối tượng người học, cho phép giải phóng tối đa năng lực tư duy
    sáng tạo của HS. Trong giờ dạy học đọc hiểu, ngoài việc HS góp phần tạo nghĩa
    cho văn bản khi tham gia các hoạt động đọc thì họ còn hướng tới những ý tưởng
    khác do chính họ sáng tạo ra. Đó là quá trình thăm dò, khám phá những cảm xúc,
    những mối quan hệ, gợi nhớ lại những gì người đọc đã biết về nhân vật, tác phẩm
    và đặt những gợi nhớ đó trong những kinh nghiệm, trải nghiệm của người đọc về
    con người, cuộc sống,… Theo hướng dạy học này, bài học văn không dừng lại ở chỗ
    giờ học kết thúc vì giờ học kết thúc nhưng người đọc – người học vẫn tiếp tục suy
    ngẫm về những những cách giải thích, cắt nghĩa, về số phận, tính cách nhân vật, về
    cách kết thúc hay hàm nghĩa mà các vấn đề trong tác phẩm đặt ra… mở rộng thêm
    chân trời cho việc đọc hiểu văn bản.
    2.3. Cách thức thực hiện biện pháp
    2.3.1. Sử dụng câu hỏi để khơi gợi sự phản hồi của học sinh về văn bản trong
    tiến trình đọc hiểu.
    Ivan Hannel từng nói “Đặt câu hỏi hiệu quả cao là cách thức giúp HS tham
    giatích cực vào các hoạt động học tập”. Khi thiết kế câu hỏi trong dạy học và kiểm
    tra đánh giá mức độ nhận thức của HS, các nhà giáo dục thường dựa vào thang
    nhận thức của Bloom (1951). Thang nhận thức của Bloom gồm 6 bậc: nhớ, hiểu,
    vận dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Sau đó, thang nhận thức này được
    Anderson và Krathwohl (2001) chỉnh sửa lại gồm 6 bậc được sắp xếp theo mức độ
    từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất: nhớ, hiểu, vận dụng (mức độ tư duy bậc thấp)
    phân tích, đánh giá và sáng tạo (mức độ tư duy bậc cao). Thang nhận thức này được
    sử dụng phổ biến trong tất cả các môn học.
    Bản chất của mô hình dạy đọc văn bản dựa trên sự phản hồi của HS là dựa
    trên câu trả lời của HS; GV nêu câu hỏi tiếp theo để khơi gợi, phát triển sự hiểu biết
    của HS về văn bản. Việc sử dụng một hệ thống CH có chức năng kích hoạt kiến
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 15
    thức nền của HS, khơi gợi HS chia sẻ cách hiểu của họ về văn bản, giúp họ phát
    triển ý tưởng và cách lý giải về văn bản rất quan trọng. Từ thực tế giảng dạy của
    bản thân tôi xin đề xuất một số loại câu hỏi như: câu hỏi tái hiện kiến thức, câu hỏi
    giải thích minh họa, câu hỏi tìm tòi, câu hỏi tổng hợp khái quát,… để học sinh chủ
    động từng bước mở ra những ô kiến thức về tác giả, tác phẩm một cách hứng thú
    nhất. Trong các PPDH thì phương pháp đàm thoại – vấn đáp cùng với kĩ thuật đặt
    câu hỏi, đặc biệt là những câu hỏi mở và những câu hỏi có vấn đề để kích thích sự
    tương tác từ học sinh sẽ góp phần tạo nên một giờ học văn mở mang tính đối thoại
    cao

    Loại câu hỏiMục đích vận dụng vào mô hình dạy đọc
    văn bản dựa trên sự phản hồi của họ
    ̣
    c sinh
    – Cảm nhận đầu tiên của em khi đọc
    văn bản là gì?
    – Tựa đề văn bản gợi cho em nghĩ đến
    điều gì?
    – Khơi gợi kiến thức nền của HS, phát triển
    năng lực giải mã văn bản.
    – Tìm các chi tiết thể hiện tính cách, số
    phận, tâm trạng của nhân vật…
    – Đây là loại CH hướng dẫn HS tìm các chi
    tiết quan trọng, nhận biết thông tin, phát triển
    vai trò giải mã văn bản.
    – Tìm những câu thơ, hình ảnh thơ
    mới lạ của tác phẩm. Tìm các biện
    pháp nghệ thuật được sử dụng trong
    tác phẩm,…
    – Rèn kỹ năng phân tích, giải thích, so sánh,
    phát triển năng lực tạo nghĩa cho văn bản

    Bảng: Loại câu hỏi trong mô hình dạy đọc văn bản dựa trên sự phản hồi của HS.
    Ví dụ khi dạy văn bản Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, GV có thể sử
    dụng hệ thống câu hỏi để khơi gợi sự phản hồi của học sinh như sau:
    Câu 1: Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện
    tượng là đối tượng trần thuật của VB. Hãy xác định điểm nhìn trần thuật của tác giả
    trong VB.
    Câu 2: Tại sao tác giả lại đặt tên cho tuỳ bút là Người lái đò Sông Đà? Sông
    Đà hay người lái đò sông Đà là nhân vật chính của tuỳ bút?
    Câu 3: Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng sông Đà hiện lên với
    những vẻ đẹp nào?
    Câu 4: Tìm những câu văn miêu tả tính cách “hung bạo” và “trữ tình” của
    sông Đà. Nhận xét về bút pháp miêu tả của tác giả qua những câu văn ấy.
    Câu 5: Em hình dung như thế nào về vẻ đẹp “hung bạo” của sông Đà? Hãy tả
    lại cho các bạn cùng nghe.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 16
    Câu 6: Trong rất nhiều yếu tố làm nên nét tính cách hung bạo và trữ tình của
    sông đà, em ấn tượng nhất với yếu tố nào nhất? Tại sao?
    Câu 7: Hình tượng Người lái đò sông Đà được tác giả khắc họa bằng những
    ấn tượng tiêu biểu nào?
    Câu 8: Cảm xúc của em sau khi học xong tùy bút Người lái đò sông Đà của
    Nguyễn Tuân.
    Câu 9: Nêu một số ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu mà theo em là có
    giá trị khi tìm hiểu về tuỳ bút này. Ý kiến của riêng của em khi đọc Người lái đò
    sông Đà.
    Ngoài việc đặt câu hỏi để chờ sự hồi đáp tích cực của người học, giáo viên
    cần chủ động trao đổi, lắng nghe chia sẻ của học sinh về những vấn đề liên quan
    đến văn bản. Thường xuyên khích lệ, động viên các em mạnh dạn phản hồi quan
    điểm của mình. Thực tế, có nhiều học sinh trong lớp có năng lực Ngữ văn tốt
    nhưng bản tính nhút nhát, không thích thể hiện nên còn e ngại. Khi đó, người giáo
    viên tinh tế cần biết động viên, khích lệ kịp thời sẽ thúc đẩy tinh thần hăng hái, sự
    mạnh dạn trong các em (Ví dụ: Trong bài viết em luôn có những phát hiện rất sắc
    sảo, thầy muốn được nghe quan điểm của em về vấn đề này? Em cứ mạnh dạn bày
    tỏ ý kiến của mình cho thầy và cả lớp cùng nghe). Nếu ý kiến của học sinh tốt, giáo
    viên cần khen ngợi, nếu ý kiến chưa hợp lí, giáo viên không nên phủ đầu mà trân
    trọng lắng nghe học sinh trình bày trọn vẹn ý kiến, động viên học sinh cố gắng
    trong nhưng câu trả lời sau, đôi khi dùng những lời nhận xét pha chút dí dỏm, hài
    hước để học sinh vui vẻ, không rơi vào trạng thái tự ti. Thiết nghĩ, một giờ học
    thoải mái, thân thiện, nhân văn như thế sẽ khuyến khích học sinh dám nghĩ và dám
    phản hồi những suy nghĩ mới mẻ, riêng biệt.
    2.3.2. Các biện pháp sử dụng câu hỏi để khơi gợi sự phản hồi học sinh.
    Việc đặt câu hỏi đối với HS trong quá trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa
    làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói cách khác là mở ra tình huống “có vấn
    đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức.
    Như đã nói, sự phản hồi của HS về văn bản rất đa dạng nên GV cũng cần đa dạng,
    linh hoạt, sáng tạo trong việc thiết kế câu hỏi nhằm phát huy tối đa tính tích cực,
    chủ động của người học và mở rộng kênh phản hồi của HS về văn bản,khắc phục
    tối đa lối dạy học áp đặt một chiều vẫn còn tồn tại xưa nay.
    a. Phản hồi bằng hình thức trả lời miệng:
    Phản hồi bằng hình thức trả lời miệng là hình thức phản hồi trực tiếp ngay
    trong giờ đọc văn bản trên lớp. Có hai hình thức sử dụng câu hỏi cho kiểu phản hồi
    này: câu hỏi khơi gợi HS trả lời với tư cách cá nhân và câu hỏi dành cho việc tổ
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 17
    chức hoạt động thảo luận nhóm nhỏ. Trong giờ đọc văn bản, HS có thể phản hồi
    trực tiếp qua việc trao đổi đối thoại với GV và bạn học. Sử dụng hình thức câu hỏi
    này GV có thể năng kiểm tra và đánh giá được năng lực của cá nhân mà cụ thể là
    năng lực cảm thụ, phân tích, phản biện. Hình thức nêu CH này có thể vận dụng
    trong cả ba giai đoạn của mô hình dạy đọc văn bản trên cơ sở phản hồi của HS. CH
    khơi gợi sự trao đổi, đối thoại trực tiếp giữa GV – HS có thể thiết kế ở mức độ nhớ,
    hiểu, vận dụng. Vì lúc này không cho phép HS dừng lại quá lâu để suy nghĩ. Chẳng
    hạn, khi dạy bài Vội vàng – Xuân Diệu các câu hỏi sau có thể sử dụng để khơi gợi
    sự trao đổi đối thoại trực tiếp của cá nhân HS với GV:
    – Từ vội vàng gợi cho em suy nghĩ gì? Với nhan đề này, em có thể dự đoán
    xem bài thơ nói về đề tài gì?
    – Ngoài từ vội vàng, bài thơ còn những từ ngữ nào nói về thời gian nữa
    không?
    b. Phản hồi bằng hình thức thảo luận trong nhóm:
    Trong mô hình dạy đọc văn bản văn học trên cơ sở phản hồi của HS, sự phản
    hồi của HS giữ vai trò quan trọng trong giờ học và trở thành những lí do để giờ học
    tiếp tục. Tuy nhiên, không phải bất cứ phát biểu nào của HS về văn bản cũng được
    xem là một sự phản hồi tích cực và thuyết phục. Vì thế, tổ chức cho HS thảo luận
    nhóm dựa câu trả lời hoặc ý kiến của bạn về văn bản là một biện pháp khơi gợi sự
    phản hồi tiếp tục của tất cả các thành viên trong lớp học, làm sáng tỏ mọi hoài nghi
    của các cách hiểu, mài sắc thêm cách lí giải của HS về văn bản. Để thu hút sự quan
    tâm và khơi gợi hứng thú trao đổi, tranh luận của HS, vai trò của GV hết sức quan
    trọng. GV cần tinh nhạy nắm bắt những ý tưởng “có vấn đề” của HS để tổ chức cho
    HS “xem xét lại” chính những ý tưởng đó của các em như một cách phản hồi tích
    cực về văn bản ngay trong giờ học. Thảo luận trong giờ đọc văn bản, HS phải đồng
    thời thực hiện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết,… người học được tạo cơ hội trao
    đổi, chia sẻ những hiểu biết và trình bày quan điểm của mình. Theo đó năng lực
    giao tiếp và kỹ năng làm việc nhóm cũng phát triển.
    Sử dụng câu hỏi (CH) cho học sinh thảo luận nhóm GV có thể kiểm tra kỹ
    năng tương tác và làm việc tập thể của HS. Theo thang nhận thức của Bloom thì
    việc thiết kế những CH mở, có mức độ tư duy bậc cao (phân tích, đánh giá, sáng
    tạo) phù hợp để cho HS thảo luận nhóm. Những CH này có độ phức tạp cao, đòi
    hỏi học sinh phải dùng khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận để cùng nhau giải
    quyết vấn đề.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 18
    Ví dụ khi dạy đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy
    Tưởng, GV có thể đặt câu hỏi thảo luận để lắng nghe sự phản hồi của HS các
    nhóm:
    + Tại sao không để Vũ Như Tô còn sống và Cửu Trùng Đài “vẫn cao cả, huy
    hoàng giữa cõi trần lao lực”?Anh/chị hãy đề xuất cách nào đó để có thể giữ được
    cả cái đẹp,cả người tài?
    + Kết thúc truyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Vĩnh biệt Cửu
    Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng đều là cái chết của người nghệ sĩ. Theo em, đó
    có thể coi là những cái kết tương đồng, là “sự lặp lại người khác” của hai nhà
    văn?Tại sao?
    c. Phản hồi bằng hình thức viết:
    HS viết và sáng tạo bài viết, những bài viết này phải được chính tác giả đọc
    hoặc được chia sẻ rộng rãi với những người lớn khác như cha mẹ, thầy cô hoặc với
    bạn bè cùng trang lứa trong hoặc ngoài trường học. Nó tạo cơ hội cho HS một cơ
    sở vững chắc để khám phá ý tưởng, ghi lại những sự kiện quan trọng, giúp HS tham
    gia phản hồi với những gì đã đọc, kiểm tra kiến thức của chính họ và khả năng giải
    thích một quan điểm, tổng hợp những gì đã học, đặt vấn đề.
    Tinh thần chung của mô hình dạy học mới này là khuyến khích tư duy của
    HS. Sự thám hiểm, thăm dò chân trời của những cách hiểu là điểm cốt yếu của
    những trải nghiệm văn chương. Chân trời này là vô tận, luôn ở phía trước. Kết thúc
    giờ học tác phẩm nhưng không có nghĩa là mọi thứ đã chấm dứt. Hoạt động tư duy
    của HS về văn bản tiếp tục được khơi gợi khi GV để ngỏ một số vấn đề. GV cũng
    yêu cầu HS xem xét lại những quan điểm đã được trình bày nhưng chưa làm các
    em thỏa mãn hoặc các em có cách đánh giá, lí giải khác. Những yêu cầu này là một
    dạng câu hỏi và HS trả lời câu hỏi này bằng cách viết phản hồi sau giờ học. Những
    phản hồi này tiếp tục được GV xem xét và đem ra cho cả lớp thảo luận trong tiết
    học sau.
    Một số câu hỏi GV có thể sử dụng để gợi ý cho HS viết phản hồi sau giờ
    đọc văn bản: Theo em, những vấn đề nào của tác phẩm chưa được xem xét thỏa
    đáng? Em có thể đưa ra cách lý giải của mình? Ngoài những vấn đề mà tác giả
    phản ánh trong văn bản, em có nghĩ rằng văn bản còn hướng tớ́i điều gì khác nữa?
    Em thích/ không thích nhân vật nào trong tác phẩm? Tóm lại, vấn đề mà hầu hết
    GV dạy môn Ngữ văn luôn trăn trở là làm sao để khơi gợi sự hứng thú, yêu thích
    của HS đối với môn học này?. Bên cạnh đó, làm sao thông qua môn Ngữ văn để
    phát triển năng lực cho HS. Đó vừa là yêu cầu vừa là xu hướng của nền giáo dục
    hiện đại.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 19
    Bản chất của PPDH dựa trên phản hồi của người học được thể hiện ở chỗ:
    trong quá trình tổ chức, hướng dẫn HS tiếp nhận tác phẩm văn chương, GV sử
    dụng các biện pháp thích hợp để khơi gợi, khuyến khích HS mạnh dạn suy ngẫm và
    khám phá những cách hiểu có thể có về văn bản, từ đó giúp HS tham gia vào quá
    trình giải mã và tạo nghĩa cho văn bản. Hoạt động trong giờ học chủ yếu được tổ
    chức xoay quanh những phản hồi của HS về văn bản cũng như về những phản hồi
    khác của những HS khác; khi đó quá trình dạy học đọc hiểu văn bản trên lớp yêu
    cầu HS phải huy động tổng hợp kiến thức nền, kiến thức liên văn bản, kiến thức
    văn học sử, kĩ năng phát biểu, lập luận, … để giải mã và tạo nghĩa cho văn bản.
    Đồng thời, một cách tự nhiên, quá trình đó cũng sẽ trở thành quá trình HS so sánh,
    nhận thức và đánh giá lại những gì đã hiểu khi chuẩn bị bài học ở nhà để tầm đón
    nhận của mình phát triển toàn diện và sâu sắc hơn.
    2.3.3.Thực nghiệm Phương pháp dạy học Ngữ Văn dựa trên phản hồi của học
    sinh qua một số tác phẩm văn học chương trình Ngữ văn THPT.
    Trên cơ sở tìm hiểu về lí thuyết Phương pháp dạy học Ngữ Văn dựa trên phản
    hồi của học sinh, tôi nhận thấy đây là một phương pháp có thể sử dụng rộng rãi ở
    các môn- các kiểu bài học đặc biệt với môn Ngữ văn ở trường phổ thông. Bản thân
    tôi áp dụng phương pháp này thường xuyên và đã thu được kết quả tích cực, góp
    phần giúp các em có tình yêu đối với môn Văn và cải thiện được điểm số trong các
    kì thi, kiểm tra. Sau đây, tôi xin được minh họa lý thuyết trên bằng bài dạy cụ thể.
    CHÍ PHÈO
    (Nam Cao – tiết 1)
    I. MỤC TIÊU
    1.Về kiến thức
    – Khái quát hoàn cảnh ra đời, nhan đề truyện ngắn Chí Phèo.
    – Hình ảnh làng Vũ Đại, nhân vật Bá Kiến.
    – Hình tượng nhân vật Chí Phèo trước khi vào tù.
    – Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm.
    – Những nét đặc sắc trong nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao như điển hình hoá nhân
    vật, miêu tả tâm lí, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ nghệ thuật, …
    2. Các năng lực cần hình thành cho học sinh
    * Các năng lực đặc thù
    – Đọc
    + Đọc hiểu nắm được cốt truyện, hệ thống nhân vật, các chi tiết tiêu biểu.
    + Thấy được giá trị hiện thực sâu sắc của các tác phẩm.
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 20
    + Nhận biết và phân tích được các nhân vật.
    -Viết
    + Viết được một đoạn văn nghị luận về một vấn đề trong văn bản.
    + Viết bài văn nghị luận hoàn chỉnh.
    – Nói và Nghe
    + Biết sử dụng kết hợp ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ để trình bày ý
    kiến.
    + Tạo lập được đoạn văn về vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm hay nghị luận văn học
    về tác phẩm.
    * Các năng lực chung:
    – Năng lực thu thập thông tin liên quan đến tác giả, tác phẩm của Nam Cao.
    – Năng lực đọc – hiểu truyện ngắn Chí Phèo.
    – Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về tác giả, tác phẩm.
    – Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành công, hạn chế, những đóng góp
    nổi bật của nhà văn.
    – Năng lực phân tích, so sánh các đề tài trong sáng tác của Nam Cao.
    – Năng lực tạo lập văn bản nghị luận.
    – Năng lực giao tiếp, hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của
    văn bản.
    3. Phẩm chất: Nhân ái; trách nhiệm
    – Có tinh thần nhân ái, cảm thông với cuộc đời người nôn dân, trân trọng với khát
    vọng của con người,biết yêu thương đồng cảm với những cảnh ngộ khổ đau trong
    cuộc sống.
    -Sống có lí tưởng, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương, đất nước; biết
    đấu tranh chống lại các thế lực xấu trong xã hội.
    II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
    1. Giáo viên
    – SGK, giáo án word, giáo án powerpoint, tư liệu về bài học; Hướng dẫn thực
    hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng Ngữ văn 11; Định hướng tìm hiểu nội dung bài học
    qua hệ thống câu hỏi bài tập; Sưu tầm tranh, ảnh về Nam Cao, phim Làng Vũ Đại
    ngày ấy.
    – Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp;
    -Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà;
    – Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi…
    – Các phương tiện dạy học: máy tính, máy chiếu, giấy A0, bút màu…
    2. Học sinh: theo hướng dẫn của GV:
    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 21
    – Soạn bài theo hướng dẫn học bài Sách giáo khoa.
    – Hoàn thành phiếu học tập theo câu hỏi GV giao.
    – Chuẩn bị bài soạn hoạt động nhóm.
    III.TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

     1. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG (5 phút)
    a) Mục tiêu:Phản hồi bằng hình thức trả lời miệng
    – Tạo mâu thuẫn nhận thức và tâm thế để HS bắt đầu tiết học mới.
    – Đánh giá năng lực cảm nhận của học sinh khi phản hồi. Giúp học sinh nhận ra cái
    chưa biết là số phận khốn khổ của Chí Phèo và đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Tại
    sao Chí Phèo rơi vào bi kịch như vậy?
    b)Nội dung: GV cho HS xem đoạn video và phát vấn.
    c)Sản phẩm học tập: câu trả lời của HS
    d)Tổ chức thực hiện
    Bước 1:GV cho HS xem trích đoạn phim Làng Vũ đại ngày ấy.
    GV phát vấn:
    Nhân vật xuất hiện trong đoạn phim tên là gì? Em biết gì về nhân vật này?
    Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ:
    – HS xem đoạn video.
    – Trả lời được câu hỏi.
    Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:
    – Tập trung cao và hợp tác tốt để giải quyết nhiệm vụ.
    – Có thái độ tích cực, hứng thú.
    Bước 4: GV nhận xét, biểu dương; Giới thiệu bài: Mặc dù có những sáng tác
    đăng báo từ 1936 nhưng phải đến ChíPhèo Nam Cao mới thực sự nổi tiếng trên văn
    đàn. Trước Nam Cao đã có những nhà văn thành công khi viết về đề tài nông dân
    như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và cũng có những tác phẩm
    hấp dẫn viết về đề tài lưu manh hóa như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, đây thực sự là
    thử thách lớn với những cây bút đến sau, trong đó có Nam Cao. Bằng ý thức khơi
    những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có và bằng tài năng nghệ thật
    độc đáo của mình của mình, Nam Cao đã vượt qua thử thách và khiến cho Chí
    Phèo trở thành kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
     2. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC (32 phút)
    HOẠT ĐỘNG 1: TÌM HIỂU CHUNG
    a) Mục tiêu:

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 22

    Giúp hình thành trong học sinh những kiến thức cơ bản theo chuẩn kiến thức kỹ
    năng về tác phẩm Chí Phèo.
    b)Nội dung:GV giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh:
    – Dựa vào phần tiểu dẫn, tìm hiểu thêm từ tài liệu, internet hãy nêu hoàn cảnh ra đời
    của truyện ngắn.
    – Giải thích nhan đề của truyện ngắn.
    – Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo.
    – Chia bố cục.
    c) Sản phẩm: Câu trả lời, đóng kịch tại lớp, sơ đồ tư duy, bài chuẩn bị trên
    Powerpoint.
    d) Tổ chức thực hiện
    Hoạt động của GV và HSDự kiến sản phẩm
    Thao tác 1: Tìm hiểu chung về
    tác phẩm
    Bước 1: Giao nhiệm vụ
    GV giao nhiệm vụ:GV đặt ra các
    câu hỏi, học sinh làm việc nhóm
    đôi và phản hồi.
    – Học sinh làm việc theo nhóm
    đôi.
    – Từ những hiểu biết về Nam Cao
    và tác phẩm (Hoàn cảnh xuất thân,
    những yếu tố liên quan đến tác
    phẩm…) hãy tạo một Tình huống
    giả định về cuộc trò chuyện giữa
    một nhà văn trẻ và Nam Cao, qua
    đó vừa giới thiệu được các nhan
    đề tác phẩm.
    Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
    HS làm việc theo nhóm đôi, thời
    gian 5 phút.
    Bước 3: HS trao đổi, báo cáo kết
    quả
    – GV mời 02 Hs bất kỳ lên đóng
    vai: giả định
    I. Tìm hiểu chung
    1. Hoàn cảnh sáng tác
    – Ra đời năm 1939 – xã hội Việt Nam ngột
    ngạt hơn bao giờ hết, nảy sinh nhiều tấn bi
    kịch của cuộc đời.
    – Dựa vào những cảnh thật, người thật mà
    Nam Cao được chứng kiến và nghe kể về làng
    quê mình, có hư cấu.

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 23

    + Truyện ngắn đã mấy lần đổi
    tên, đó là những tên nào?
    + Phát biểu suy nghĩ của em về
    những lí do đặt tên, đổi tên và
    mức độ phù hợp của từng nhan đề
    cụ thể đối với chủ đề tư tưởng của
    tác phẩm?
    – GV yêu cầu các học sinh khác
    đánh giá việc nhập vai của các bạn
    và bày tỏ ý kiến của bản thân.
    Bước 4: GV chốt kiến thức bằng
    sơ đồ trên máy chiếu cho học
    sinh ghi bài.
    Vừa trình chiếu GV vừa mở rộng
    vấn đề, chốt kiến thức.
    * GV diễn giảng về các tên gọi
    của TP.
    – Đầu tiên, tác phẩm được đặt tên
    là Cái lò gạch cũ gắn với hình ảnh
    xuất hiện của Chí Phèo ở đầu
    truyện, nơi người ta nhặt được Chí
    trần truồng tím ngắt trong cái váy
    đụp vàở phần cuối khi Thị Nở
    nhìn xuống bụng mơ hồ lo lắng
    cho sự ra đời của Chí Phèo con →
    sự xuất hiện của Chí Phèo, sự
    quẩn quanh bế tắc (tức là hiện
    tượng Chí Phèo sẽ chưa hết nếu
    bọn cường hào địa chủ còn tác
    oai, tác quái trên đầu dân lành).
    Nhan đề vẫn chưa làm nổi bật giá
    trị của tác phẩm.
    – 1941, lúc in nhà xuất bản Đời
    mới tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng
    đôi. → nhấn mạnh mối tình Chí
    2. Nhan đề
    3. Tóm tắt tác phẩm

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 24

    Phèo – Thị Nở (bởi hơn 40 năm
    vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được
    thực sự sống vỏn vẹn như một con
    người trong năm, sáu ngày ngắn
    ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp
    Thị Nở là sự bù đắp cho Chí, bởi
    Thị không chỉ là người yêu, hơn
    thế còn là chị, là Mẹ) (Tiến sĩ
    Nguyễn Thành Thi). Nhưng với
    nhan đề này chưa làm bao quát
    được chủ đè của tác phẩm.
    – Sau cách mạng 1946, tác phẩm
    được tái bản và được đổi tên một
    lần nữa Chí Phèo, in trong tập
    Luống cày → nhấn mạnh nhân vật
    Chí Phèo (nhân vật chính của
    truyện, mọi tình tiết, sự kiện, đều
    xoay quanh số phận bi kịch của
    nhân vật này: bi kịch của một
    người bị tha hóa thành quỷ dữ, bi
    kịch của con người bị từ chối
    quyền làm người, bi kịch của một
    sự thức tỉnh quá muộn và phải trả
    giá bằngc ái chết). Khi đặt tên
    nhan đề, tác giả muốn người đọc
    tập trung vào nhân vật này chứ
    không phải nhân vật khác, và tất
    cả nội dung, chủ đề, giá trị của tác
    phẩm cũng đều toát lên ở chính
    nhân vật này chứ không phải nhân
    vật khác.
    GV yêu cầu HS tóm tắt tác
    phẩm Chí Phèo: (theo sự chuẩn
    bị bài đã chia nhóm, HS cử đại
    diện lên tóm tắt bằng sơ đồ).
    4. Bố cục: 3 phần
    – Phần 1: Từ đầu…không ai biết: Nhân vật Chí
    Phèo xuất hiện cùng với tiếng chửi.
    – Phần 2: Tiếp theo…mau lên:Quá trình tha
    hóa của Chí Phèo.
    – Phần 3: Còn lại: Quá trình thức tỉnh và bi
    kịch bị cự tuyệt quyền làm người của cuộc đời
    Chí Phèo.

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 25

    HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH ẢNH LÀNG VŨ ĐẠI, NHÂN VẬT BÁ KIẾN
    a) Mục tiêu:HS hiểu được hình ảnh làng Vũ Đại, nhân vật Bá Kiến.
    b) Nội dung:
    – Hình ảnh làng Vũ Đại.
    – Nhân vật Bá Kiến
    c) Sản phẩm:
    1. Hình ảnh làng Vũ Đại
    – Làng Vũ Đại – đó là không gian nghệ thuật của truyện, nơi các nhân vật sống và
    hoạt động.
    – Làng dân không quá hai nghìn, xa phủ, xa tỉnh.
    – Tôn ti trật tự trong làng:
    – Nơi mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt, âm thầm mà quyết liệt:
    2. Nhân vật Bá Kiến:
    – Tàn bạo, quỷ quyệt
    – Nhân cách bỉ ổi
    d) Tổ chức thực hiện:
    Hoạt động của GV và HSDự kiến sản phẩm
    – Thao tác2: Tìm hiểu hình ảnh
    làng Vũ Đại
    GV Chia nhóm cặp đôi, đặt câu
    hỏi trong từng nội dung và đánh
    gái quá trình phản hồi của HS.
    Bước 1: Giao nhiệm vụ
    GV giao nhiệm vụ: Thảo luận cặp
    đôi theo sự chuẩn bị bài ở nhà với
    câu hỏi đã được hướng dẫn:
    + Hình ảnh làng Vũ Đại được
    miêu tả như thế nào trong tác
    phẩm?
    + Trong làng tồn tại những mẫu
    thuẫn gì?
    Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
    HS làm việc theo nhóm đôi.
    Bước 3: HS trao đổi, báo cáo kết
    quả
    II. Đọc – hiểu văn bản
    1. Hình ảnh làng Vũ Đại
    – Làng Vũ Đại – đó là không gian nghệ thuật
    của truyện, nơi các nhân vật sống và hoạt
    động.
    – Làng dân không quá hai nghìn, xa phủ, xa
    tỉnh.
    – Tôn ti trật tự trong làng: đứng đầu là bá Kiến,
    tiếp đó là bọn kì hào (cánh ông Tư Đạm, Đội
    Tảo, Bát Tùng), cuối cùng là nông dân.
    – Nơi mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt, âm
    thầm mà quyết liệt:
    + Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị:
    bề ngoài thì tử tế với nhau nhưng bên trong lúc
    nào cũng mong cho nhau lụn bại, cho nhau ăn
    bùn.
    + Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ: người
    nông dân phải è cổ nuôi bọn địa chủ, phong

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 26

    HS cử đại diện nhóm lên trình bày
    về phần chuẩn bị.
    Bước 4: GV nhận xét, bổ sung
    và trình chiếu và đánh giá quá
    trình phản hồi của HS.
    – Làng Vũ Đại là nguyên mẫu làng
    Đại Hoàng, thôn Nhân Hậu, xã
    Hòa Hậu, Huyện Lý Nhân, tỉnh
    Hà Nam. Dân khoảng 2000, chủ
    yếu sống bằng nghề dệt vải, trồng
    chuối ngự và làm tá điền cho địa
    chủ.
    – Thao tác 3: Tìm hiểu nhân vật
    Bá Kiến
    Sử dụng phản hồi dứoi dạng trả
    lời câu hỏi trong trò chơi ô chữ:
    Bước 1: Giao nhiệm vụ
    + GV tổ chức trò chơi Ô chữ bí
    mật.
    + GV chia lớp thành 2 nhóm, lần
    lượt trả lời các câu hỏi sau:
    Hàng thứ 1: Từ ngữ chỉ sự độc ác
    và hung bạo. → TÀN BẠO
    Hàng thứ 2: Từ ngữ chỉ sự khéo
    léo để lừa đảo. → XẢO QUYỆT
    Hàng thứ 3: Kiểu nhà nước nào là
    kiểu nhà nước thứ hai trong lịch
    sử xã hội loài người? → PHONG
    KIẾN
    Hàng thứ 4: Điền từ còn thiếu
    trong câu thơ sau:
    Bề ngoài thơn thớt nói cười
    Mà trong … giết người không
    dao.
    → NHAM HIỂM
    kiến.
    → Làng Vũ Đại sống động, tăm tối, ngột ngạt,
    khép kín. Đây chính là hình ảnh thu nhỏ của
    nông thôn Việt Nam trước cách mạng.
    2. Nhân vật Bá Kiến
    – Tàn bạo, quỷ quyệt:
    + Phương sách thống trị dân lành: Trị không
    được thì dùng, “bám thằng có tóc ai bám thằng
    trọc đầu”,…
    + Cách thu phục Chí Phèo:
    • Khi Chí Phèo đến nhà Bá Kiến lần thứ nhất,
    Bá Kiến nhanh chóng tìm được kế sách thích
    hợp để đối phó với Chí Phèo: giải tán đám
    đông – động cơ kích thích, hậu thuẫn vững
    chắc cho Chí → quát đuổi vợ vào nhà,…
    • Tìm cách làm cho lũ đàn em hoặc đám dân
    làng sinh chuyện – tức là chém giết, đốt phá
    lẫn nhau để hắn có dịp mà ăn.
    – Nhân cách bỉ ổi:
    + Ghen tuông với Chí.
    + Gỡ gạc từ người đàn bà vắng chồng là vợ
    Binh Chức.
    + Suy nghĩ của Bá Kiến về người vợ thứ 4 trẻ
    đẹp: nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ. Khác
    gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết
    răng…

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 27

    Câu hỏi 5: Từ ngữ chỉ sự gian
    manh, lừa lọc. → ĐỂU CÁNG
    Câu hỏi 6: Từ ngữ chỉ cách hành
    động theo chiều hướng chuyển
    thiệt hại của người khác thành lợi
    ích của mình. → THỦ ĐOẠN
    → Từ ngữ ở ô chữ hàng dọc là:
    BÁ KIẾN
    Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
    HS làm việc theo nhóm.
    Bước 3: HS trao đổi, báo cáo kết
    quả
    HS cử đại diện nhóm lên trình bày
    về phần chuẩn bị.
    Bước 4: GV nhận xét, bổ sung
    và trình chiếu chốt kiến thức.
    HOẠT ĐỘNG 3: NHÂN VẬT CHÍ PHÈO
    a) Mục tiêu:HS hiểu được cuộc đời của nhân vật Chí Phèo trước khi bị đẩy vào tù.
    b) Nội dung:Trả lời câu hỏi để làm nổi bật lên cuộc đời của Chí Phèo trước khi vào
    tù.
    * Sản phẩm:Trước khi vào tù:Chí Phèo là một người nông dân lương thiện:
    – Chí là một người nông dân nghèo khổ, lương thiện
    – Chí cũng từng có một ước mơ giản dị
    – Chí còn là người biết tự trọng
    * Tiến trình thực hiện:
    Hoạt động của GV và HSDự kiến sản phẩm
    Thao tác 4: Tìm hiểu nhân vật
    Chí Phèo
    Phản hồi bằng việc trả lời câu
    hỏi
    Bước 1: Giao nhiệm vụ
    GV giao nhiệm vụ:
    – Học sinh làm việc cá nhân, trả
    lời câu hỏi:
    Trước khi vào tù, Chí Phèo là một
    3. Nhân vật Chí Phèo
    3.1 Trước khi vào tù:Chí Phèo là một người
    nông dân lương thiện:
    + Chí là một người nông dân nghèo khổ, lương
    thiện như nhiều nông dân khác. Chí nguyên là
    một đứa trẻ mồ côi, được người dân làng Vũ
    Đại đem về nuôi. Năm 20 tuổi, Chí làm canh
    điền khỏe mạnh cho nhà Lí Kiến. Khỏe mạnh
    nhưng hắn “hiền lành như đất”, thậm chí còn

    Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học Ngữ văn dựa trên phản hồi của học sinh
    Trang 2

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Những kinh nghiệm dạy lý luận văn học cho HSG môn Ngữ văn THPT

    SKKN Những kinh nghiệm dạy lý luận văn học cho HSG môn Ngữ văn THPT

    Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    Trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn THPT những năm gần đây,
    đề bài thường đề cập đến các vấn đề thuộc lĩnh vực Lí luận văn học để đánh giá
    kiến thức và kĩ năng của học sinh giỏi. Trường THPT Nguyễn Huệ mặc dù đứng
    trong tốp 10 trường THPT có điểm tuyển sinh vào lớp 10 cao nhất tỉnh nhưng
    thường không có mũi nhọn. Vì vậy các em được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi
    của nhà trường dự thi cấp tỉnh cũng chưa từng đi thi học sinh giỏi ở cấp dưới.
    Kiến thức Lí luận văn học của các em rất ít , chỉ được học qua một số bài trong
    sách giáo khoa:
    – Lớp 10 :
    + Văn bản văn học.
    + Nội dung và hình thức của văn bản văn học.
    – Lớp 11:
    + Một số thể loại văn học: Thơ, truyện
    + Một số thể loại văn học : Kịch, nghị luận
    – Lớp 12:
    + Quá trình văn học và phong cách văn học
    + Giá trị văn học và tiếp nhận văn học
    Với một lượng kiến thức lí luận văn học quá ít mà học sinh được học trong
    chương trình, giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn gặp nhất nhiều khó
    khăn trong quá trình giảng dạy cho các em trong đội tuyển. Giáo viên phải mất
    rất nhiều thời gian để trang bị cho các em những kiến thức lí luận văn học cơ bản.
    Sau đó, từ kiến thức lí luận phải luyện cho các em cách đưa những kiến thức ấy
    vào bài viết như thế nào cho hiệu quả…
    Xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh, lí do trên, tôi xin đưa ra “Những
    kinh nghiệm dạy Lí luận văn học trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn
    Ngữ văn- Trung học phổ thông” , nhằm tìm ra phương pháp hiệu quả nhất trong
    quá trình bồi dưỡng Học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ văn lớp 12.
    4
    II. Mô tả giải pháp
    1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    – Nhiều năm gần đây, đề thi học sinh giỏi cấp tỉnh thường bàn về vấn đề Lí
    luận văn học. Trước khi thực hiện đề tài này tôi thấy các em học sinh có tâm lí
    lúng túng, chưa có kỹ năng giải quyết các đề bài liên quan đến vấn đề Lí luận văn
    học. Các giáo viên được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi cũng khó khăn
    trong việc trang bị kiến thức và kĩ năng cho học sinh.
    – Đây là dạng đề yêu cầu học sinh phải có kiến thức Lí luận văn học và kĩ
    năng đưa Lí luận văn học vào bài viết. Dạng đề này cũng giúp phát hiện ra những
    học sinh thực sự có tố chất văn học và kĩ năng làm bài.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến:
    – Sáng kiến đã hệ thống đầy đủ và chi tiết các kiến thức lí luận văn học cơ
    bản cần cung cấp cho học sinh, kĩ năng đưa lí luận văn học vào bài viết, một số
    dạng đề về lí luận văn học thường gặp, một số đề tham khảo có hướng dẫn chi
    tiết…
    – Với việc hệ thống các kiến thức lí luận cơ bản, học sinh sẽ nắm được lí
    thuyết một cách dễ dàng, có kĩ năng xử lý những đề bài về lí luận văn học . Các
    em có thêm nguồn tài liệu tham khảo và rèn luyện.
    3. Những kinh nghiệm dạy Lí luận văn học trong công tác bồi dưỡng
    học sinh giỏi môn Ngữ văn- Trung học phổ thông.
    3.1.Các kiến thức Lí luận văn học cơ bản cần dạy cho học sinh
    3.1.1.TÁC PHẨM VĂN HỌC
    3.1.1.1.Khái niệm.
    – Tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay
    một tập thể sáng tạo nên nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người
    và biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng
    nghệ thuật.
    – Tác phẩm văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
    quan.
    – Tác phẩm văn học không phải là một sản phẩm cố định. Nó mang tính lịch
    5
    sử, đa nghĩa, nó có sự biến đổi về văn bản và có sự khác nhau trong cảm thụ của
    người đọc ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
    3.1.1.2.Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể
    – Tính chỉnh thể của tác phẩm văn học được xem xét chủ yếu trong mối quan
    hệ giữa nội dung và hình thức.
    – Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học có quan hệ mật thiết như tâm
    hồn và thể xác.
    – Nội dung bao gồm: đề tài, chủ đề, tư tưởng chủ đạo được biểu hiện qua nhân vật.
    – Hình thức: ngôn ngữ, kết cấu, thể loại.
    3.1.1.3.Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học
    3.1.1.3.1.Nội dung của tác phẩm văn học.
    *Khái niệm.
    – Nội dung của tác phẩm bắt nguồn từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực.
    Đó là mối quan hệ nhất định của con người đối với hiện tượng đời sống được phản
    ánh. Đó vừa là cuộc sống được ý thức, vừa là đánh giá – cảm xúc đối với cuộc
    sống đó.
    *Các khái niệm thuộc về nội dung.
    – Đề tài: Là phạm vi cuộc sống được nhà văn lựa chọn, khái quát, bình giá và
    thể hiện trong văn bản
    Ví dụ: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố viết về đề tài người nông dân.
    – Chủ đề: Là nội dung cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm.
    Ví dụ: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có chủ đề: Miêu tả nỗi thống khổ của người
    nông dân dưới chế độ sưu cao thuế nặng của bọn thực dân và phong kiến địa chủ.
    Đồng thời miêu tả mâu thuẫn giữa nông dân với bọn cường hào, quan lại.
    Chủ đề không lệ thuộc vào độ dài ngắn của văn bản và mỗi văn bản có thể có
    nhiều chủ đề.
    – Tư tưởng chủ đề: Là thái độ, tư tưởng, tình cảm của nhà văn đối với cuộc
    sống, con người được thể hiện trong tác phẩm.
    Ví dụ: “Tắt đèn” thể hiện sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc và gắn bó máu thịt
    với người nông dân của Ngô Tất Tố. Đồng thời tác phẩm thể hiện thái độ của nhà
    6
    văn với bọn quan lại, địa chủ.
    – Cảm hứng nghệ thuật: Là tình cảm chủ yếu của văn bản. Đó là những
    trạng thái tâm hồn, cảm xúc được thể hiện đậm đà, nhuần nhuyễn trong văn bản.
    Ví dụ: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có cảm hứng yêu thương, căm giận
    3.1.1.3.2. Hình thức tác phẩm.
    * Khái niệm.
    – Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung.
    – Hình thức được xây dựng dựa trên chất liệu là ngôn ngữ đời sống kết hợp
    với sự sáng tạo độc đáo của nhà văn.
    – Hình thức của tác phẩm văn học được xây dựng bằng sự tổng hợp sinh động
    của một hệ thống những phương tiện thể hiện nhằm diễn đạt cả về bên ngoài lẫn
    tổ chức bên trong của nội dung tác phẩm trong một quan hệ chỉnh thể thống nhất.
    * Các khái niệm về hình thức của tác phẩm văn học.
    – Ngôn từ: Là yếu tố thứ nhất của văn bản văn học. Nhờ ngôn từ tạo nên chi
    tiết, hình ảnh, nhân vật trong văn bản.
    Ngôn từ hiện diện trong câu, hình ảnh, giọng điệu và mang tính cá thể. Có
    ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân; trong sáng, tinh tế của Thạch Lam; chân quê
    của Nguyễn Bính…
    – Kết cấu: Là sắp xếp, tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị
    thống nhất, hoàn chỉnh, có ý nghĩa.
    Bất kể văn bản văn học nào cũng đều phải có một kết cấu nhất định. Kết cấu
    phải phù hợp với nội dung.
    + Có kết cấu hoành tráng của sử thi.
    + Có kết cấu đầy bất ngờ của truyện cười.
    + Có kết cấu mở theo dòng suy nghĩ của tùy bút, tạp văn.
    – Thể loại: Là quy tắc tổ chức hình thức văn bản sao cho phù hợp với nội
    dung văn bản.
    Ví dụ: Diễn tả cảm xúc có thể loại thơ; Kể diễn biến, mối quan hệ của cuộc
    sống, con người có thể loại truyện; Miêu tả xung đột gay gắt có thể loại kịch; Thể
    hiện suy nghĩ trước cuộc sống, con người có thể loại kí…
    7
    3.1.1.4.Ý nghĩa quan trọng của nội dung và hình thức tác phẩm văn học.
    – Văn bản văn học cần có sự thống nhất cao giữa nội dung và hình thức, nội
    dung tư tưởng cao đẹp và hình thức nghệ thuật hoàn mĩ. Đây là ý nghĩa vô cùng
    quan trọng và cũng là tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm.
    – Trong quá trình phân tích, ta không chỉ chú trọng nội dung mà bỏ rơi hình
    thức. Phân tích bao giờ cũng phải kết hợp giữa nội dung và hình thức.
    3.1.1.5. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức tác phẩm văn học
    – Nội dung và hình thức vốn là một phạm trù triết học có liên quan đến
    mọi hiện tượng trong đời sống. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội
    dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình
    thức. Không thể có cái này mà không có cái kia hoặc ngược lại. Tác phẩm nghệ
    thuật là một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm nghệ thuật có
    giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khắng khít với nhau.
    Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được biểu hiên ở 2 mặt: nội dung
    quyết định hình thức và hình thức phù hợp nội dung.
    Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức thể hiện ở mọi phương diện của tác
    phẩm văn học: ngữ âm, từ vựng, cú pháp, nhân vật, kết cấu, thể loại,…. (số từ trong
    văn Nam Cao, từ chỉ cảm giác trong văn Thạch Lam).
    Trong quan hệ nội dung – hình thức ở tác phẩm văn học thì nội dung bao giờ
    cũng quyết định hình thức, quyết định sự lựa chọn phương tiện, phương thức sáng
    tạo tác phẩm. Tất cả những yếu tố hình thức như ngôn ngữ kết cấu, thể loại,… đều
    nhằm phục vụ tốt nhất cho chức năng bộc lộ sinh động và sâu sắc của nội dung tác
    phẩm.
    Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập nhất định. Nó tác động trở lại với
    nội dung. Nó đòi hỏi nhà văn phải có sự tìm tòi, trăn trở để sáng tạo nên những gì
    có giá trị nghệ thuật cao nhất. Và một khi tìm được phương tiện và phương thức
    phù hợp nhất thì những phương tiện, phương thức này phát huy tối đa giá trị của
    chúng và mang lại giá trị vô giá cho tác phẩm.
    Sự sáng tạo trong văn chương không cho phép người nghê sĩ chân chính dẫm
    lên đường mòn hay đi theo con đường của người khác. Nam Cao đã từng nói “
    8
    Văn chương…chưa có”. “Văn học nằm ngoài những định luật của sự băng hoại. Chỉ
    mình nó không thừa nhận cái chết” (Sê đrin). Tác phẩm văn học đã ghi nhận những
    sáng tạo của người nghệ sĩ và khẳng định nó bằng những giá trị bất tử của mình.
    3.1.2 BẢN CHẤT CỦA VĂN HỌC.
    3.1.2.1.Văn chương bao giờ cũng phải bắt nguồn từ cuộc sống.
    Grandi từng khẳng định: “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Cuộc
    sống là nơi bắt đầu và là nơi đi tới của văn chương. Hơn bất cứ một loại hình nghệ
    thuật nào, văn học gắn chặt với hiện thực cuộc sống và hút mật ngọt từ nguồn sống
    dồi dào đó. Ai đó đã từng ví văn học và cuộc sống như thần Ăng Tê và Đất Mẹ.
    Thần trở nên vô địch khi đặt hai chân lên Đất Mẹ cũng như văn học chỉ cường
    tráng và dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực đời sống. Đầu tiên và trên hết, văn
    chương đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật chất hiện thực.
    Hiện thực xã hội là mảnh đất sống của văn chương, là chất mật làm nên tính
    chân thực, tính tự nhiên, tính đúng đắn, tính thực tế của tác phẩm văn học. Một tác
    phẩm có giá trị hiện thực baọ giờ cũng giúp người ta nhận thức được tính quy luật
    của hiện thực và chân lý đời sống.
    Những tác phẩm kinh điển bao giờ chở đi được những tư tưởng lớn của thời
    đại trên đôi cánh của hiện thực cuộc sống. Cánh diều văn học dù bay cao bay xa
    đến đâu vẫn gắn với mảnh đất cuộc sống bằng sợi dây hiện thực mỏng manh mà
    vô cùng bền chắc.
    Lê Quý Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt
    không có cảnh núi sông kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được” chính là
    khẳng định vai trò của hiện thực cuộc sống đối với thơ nói riêng vả văn học nói
    chung. Nếu văn chương tách rời khỏi dòng chảy cuộc đời sẽ không thể vươn tới
    giá trị đích thực của nó, không còn là nghệ thuật vị nhân sinh được nữa. Chế Lan
    Viên đã từng thấm thía vấn đề này: “Tôi đóng cửa phòng văn hì hục viết. Nắng
    trôi đi oan uổng biết bao ngày”
    Văn chương của người nghệ sĩ sẽ có gì nếu nó không mang dáng dấp cuộc
    đời? Có chăng chỉ là những dòng chữ rời rạc bị bẻ vụn mà thôi. Song có phải
    người nghệ sĩ phản ánh toàn bộ những biến đổi, những sự việc của nhân tình thế
    9
    thái vào tác phẩm thì tác phẩm sẽ trở thành kiệt tác? Thành tác phẩm chân chính
    giữa cuộc đời? Không phải như vậy.
    3.1.2.2.Văn chương cần phải có sự sáng tạo.
    Bởi sáng tạo là quy luật đặc thù của văn học, là điều kiện tiên quyết của
    văn học. Theo Tề Bạch Thạch: “Nghệ thuật vừa giống vừa không giống với
    cuộc đời. Nếu hoàn toàn giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật mị đời. Còn nếu
    hoàn toàn không giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật dối đời”. Nghệ thuật thường
    vừa hư vừa thực, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa bình thường vừa phi thường.
    Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhân vật, mỗi câu chữ trong tác phẩm phải tạo được
    sự bất ngờ, lý thú đối với người đọc.
    Tác phẩm văn học là tấm gương soi chiếu hiện thực cuộc sống nhưng phải
    qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Chính vì vậy, hiện thực trong tác phẩm
    còn thực hơn hiện thực ngoài đời sống vì nó đã được nhào nặn qua bàn tay nghệ
    thuật của người nghệ sĩ, được thổi vào đó không chỉ hơi thở của thời đại mà cả sức
    sống tư tưởng và tâm hồn người viết.
    Hiện thực đời sống không phải chỉ là những hiện tượng, những sự kiện nằm
    thẳng đơ trên trang giấy mà phải hòa tan vào trong câu chữ, trở thành máu thịt
    của tác phẩm. Chất hiện thực làm nên sức sống cho tác phẩm và chính tài năng
    người nghệ sĩ đã bất tử hóa sức sống ấy.
    *Chú ý: Trong sáng tạo văn học, nhà văn luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng
    bởi văn học không chỉ phản ánh đời sống mà còn biểu hiện thế giới quan của nhà
    văn: “Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Tất cả những gì
    hiện diện trong sáng tác của nhà văn dường như đều được lọc qua lăng kính chủ
    quan của họ.
    3.1.3 CHỨC NĂNG CỦA VĂN HỌC.
    Có rất nhiều tiêu chí phân biệt sự khác nhau giữa văn học và các môn khoa
    học khác. Nhưng có lẽ M. Gorki đã từng nói rất đứng đặc thù của bộ môn: “Văn
    học là nhân học”. Văn học là khoa học, khám phá thế giới tâm hồn, tính cách con
    người, văn học có chức năng riêng, biểu hiện trên ba mặt chính : nhận thức – giáo
    dục – thẩm mỹ.
    10
    3.1.3.1.Chức năng nhận thức.
    Văn học có chức năng khám phá những quy luật khách quan của đời sống
    xã hội và đời sống tâm hồn của con người. Nó có khả năng đáp ứng nhu cầu của
    con người muốn hiểu biết về thế giới xung quanh và chính bản thân mình. Không
    phải ngẫu nhiên đã có người cho rằng: “Văn học là cuốn sách giáo khoa của đời
    sống”. Chính cuốn sách ấy đã thể hiện một cách tinh tế và sắc sảo từng đổi thay,
    từng bước vận động của xã hội. Nó tựa như “chiếc chìa khoá vàng mở ra muôn
    cánh cửa bí ẩn, đưa con người tới ngưỡng cửa mới của sự hiểu biết thế giới xung
    quanh”
    3.1.3.2.Chức năng giáo dục.
    Nghệ thuật là hình thái đặc trưng, hình thành từ những tìm tòi, khám phá của
    người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Nghệ thuật mang đến cái nhìn toàn diện và
    đầy đủ hơn về xã hội, thể hiện những quan điểm của người nghệ sĩ, từ đó tác động
    mạnh mẽ đến nhận thức, tình cảm, cảm xúc của người tiếp nhận.
    Chính vì vậy, nghệ thuật luôn ẩn chứa sứ mệnh cao cả và thiêng liêng, góp
    phần làm đẹp cho cuộc đời. Tố Hữu đã từng phát biểu: “Nghệ thuật là câu trả lời
    đầy thẩm mĩ cho con người; thay đổi, cải thiện thế giới tinh thần của con người,
    nâng con người lên”. Còn Nguyên Ngọc thì khẳng định: “Nghệ thuật là sự vươn
    tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”
    3.1.3.3.Chức năng thẩm mĩ .
    Văn học đem đến cho con người những cảm nhận chân thực, sâu sắc và tinh
    tế nhất. Nghệ thuật sáng tạo trên nguyên tắc cái đẹp, vì thế không thể thoát khỏi
    quy luật của cái đẹp.
    Văn học luôn khai thác cái đẹp ở nhiều góc độ: thiên nhiên, đất nước, con
    người, dân tộc. Giá trị thẩm mĩ của tác phẩm ẩn chứa cả nội dung và hình thức
    nghệ thuật. Nó đem đến cho người đọc cảm nhận, rung cảm về những nét đẹp giản
    dị, gần gũi ở cả cuộc đời thường lẫn những nét đẹp tượng trưng, mới lạ. Cách thức
    xây dựng ngôn từ của mỗi nhà văn, nhà thơ cũng đem lại nét đẹp cho tác phẩm.
    3.1.3.4. Mối quan hệ giữa các chức năng văn học.
    Bên cạnh việc chuyển tải nội dung thẩm mĩ, tác phẩm nghệ thuật còn tác
    11
    động đến nhận thức của con người, đánh thức những tình cảm, cảm xúc, bản
    năng của con người, khơi dậy sức sống và niềm tin yêu, hi vọng vào thế giới ấy.
    => Một tác phẩm văn chương đích thực bao giờ cũng là sự hòa quyện của các
    chức năng. Chức năng thẩm mỹ là đặc trưng của nghệ thuật. Chức năng giáo dục
    là nhiệm vụ của nghệ thuật. Chức năng nhận thức là bản chất của văn chương.
    Ba chức năng của văn chương có quan hệ khăng khít và xuyên thấu vào nhau
    để cùng tác động vào con ngươi. Chức năng này đồng thời biểu hiện chức năng kia
    và ngược lại.
    3.1.4.CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC.
    3.1.4.1.Đối tượng phản ánh của văn học.
    3.1.4.1.1.Đối tượng trung tâm của văn học là con người.
    Theo M. Gorki, “văn học là nhân học” có nghĩa là: văn học là khoa học về
    con người. Trong bất kì thời đại nào, con người vẫn trở thành đối tượng trung tâm
    của văn học. Các Mác cũng đã từng nói: “Lấy con người làm đối tượng miêu tả
    chủ yếu, văn học có được một điểm tựa để nhìn ra toàn thế giới”.
    3.1.4.1.2.Những phương diện phản ánh con người trong văn học.
    *Con người tính cách.
    Con người trong văn học là con người được nhận thức với toàn bộ tính tổng
    hợp, toàn vẹn và sinh động trong các mối quan hệ đời sống phong phú, phức tạp
    nhất. Nó khác với con người sinh học, khác với con người tâm lý.
    Con người trong văn học là con người tính cách: cả con người cá nhân và con
    người xã hội, cả con người sinh lý và tâm lý, con người ý thức và vô thức.
    Ta bắt gặp một Lão Hạc tưởng như gàn dở nhưng lại sâu sắc biết bao; một
    Chí Phèo mất trí nhưng lại tỉnh táo nhất làng Vũ Đại; một anh Tràng ngật ngưỡng
    “thỉnh thoảng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch” nhưng đầy nhân hậu, yêu thương,
    quên sự sống đang bên bờ vực thẳm để đón nhận một con người… Tất cả điều đó
    khiến con người trong văn học trở nên vô cùng sinh động và hấp dẫn.
    *Con người tâm trạng.
    Điều đặc biệt, con người trong văn học có khả năng cảm nhận được những
    gì vô cùng tinh tế, phức tạp trong đời sống và trong thế giới tâm hồn, tư tưởng,
    12
    tình cảm của chính con người.
    Tiếng thở dài chua chát của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự tình” của
    Hồ Xuân Hương được cất lên là từ sự thấu cảm trước thân phận làm lẽ của kiếp
    người phụ nữ trong xã hội phong kiến; Tiếng thét đớn đau của Chí Phèo cuối
    truyện “Chí Phèo” là kết quả của bao đắng cay, bao uất hận ở người nông dân
    trước cách mạng bị tước đi quyền làm người; tiếng gọi “A Phủ cho tôi đi với!”
    của Mị trong “Vợ chồng A Phủ” là dấu chấm than chấm dứt bao năm tháng làm
    kiếp súc nô để mở đường đến chân trời mói của người nông dân miền núi…
    Tất cả những con người ấy trong văn học là biểu hiện cao nhất cho những
    nỗi đau, niềm khát khao và sự mạnh mẽ của con người trong cuộc sống. Bất chợt,
    ta tự hỏi, nếu không có những con người trong văn học ấy thì liệu nhân loại có
    tiên bộ như ngày nay chăng?
    3.1.4.2.Hình tượng văn học.
    Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, đại ý: Văn học bao giờ cũng phải
    trả lời câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Thực chất, mục đích cuối cùng của
    văn học là viết cho con người nhằm giúp con người nhận thức, khám phá đời sống,
    khái quát những vấn đề, những quy luật cơ bản của đời sống.
    Nhưng khác với các hình thái ý thức khác, tất cả những gì văn học cần khái
    quát đều phải thông qua việc mô tả, khắc họa những nhân vật điển hình:
    + Hình tượng Chí Phèo là điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân
    trước Cách mạng tháng Tám;+ Hình tượng nhân vật Hộ (Đời thừa), Điền (Trăng
    sáng) là điển hình cho gương mặt của người trí thức vật vã, đớn đau trước cảnh
    sống thừa của chính mình trong những năm 30 – 45;
    + Hình tượng nhân vật Mị (trong Vợ chồng A Phủ) là điển hình cho người
    lao động miền núi từ trong đau thương đã nhận thức, đấu tranh, giải phóng để đưa
    cuộc đời đến cánh đồng hoa,…
    Như vậy, hình tượng văn học là một phương thức đặc thù trong phản ánh của
    văn chương. Hình tượng văn học vừa mang đặc trưng cụ thể, cá biệt vừa mang
    tính khái quát, vừa phải có tính thẩm mỹ cao. Bởi Theo Bê- lin- xki: “Cái đẹp là
    điều kiện không thể thiếu của nghệ thuật. Nếu thiếu cái đẹp thì sẽ không có và
    13
    không thể có nghệ thuật”.
    Hình tượng lôi cuốn người đọc trước hết phải đẹp, phải mang tính thẩm mĩ
    thật sự. Và nó phải chứa đựng nhiều nội dung đời sống và ý nghĩa nhân sinh sâu
    sắc.
    Ý nghĩa mà hình tượng mang lại cho người đọc bao giờ cũng vượt ra ngoài
    những gì mà nó mô tả trực tiếp, vượt qua không gian, thời gian, thời đại,… Những
    hình tượng văn học tiêu biểu thường “không đáy” về ý nghĩa. Nó giống như “tảng
    băng trôi”, chỉ có 1 phần nổi, 7 phần chìm.
    Tóm lại, văn học luôn là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bởi nó hướng
    tới một đối tượng nhận thức riêng, mang nội dung nhận thức riêng và sử dụng một
    phương thức khám phá đời sống riêng. “Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo
    bằng ngôn từ, phản ánh đời sống xã hội và thể hiện sự nhận thức, sáng tạo của con
    người” (Từ điển thuật ngữ văn học).
    3.1.5.YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHỆ SĨ
    3.1.5.1.Yêu cầu thứ nhất: Người nghệ sĩ phải luôn sáng tạo, tìm tòi những
    đề tài mới, hình thức mới.
    Nam Cao đã từng khẳng định: “Văn chương không cần đến những người thợ
    khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được
    những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
    những cái gì chưa có”. Shê- khốp cũng cho rằng: “Nếu nhà văn không có một lối
    đi riêng của mình thì người đó chẳng bao giờ là nhà văn”
    Người nghệ sĩ trong hành trình sáng tạo phải là người trinh sát, với chiếc cần
    ăng ten nhanh nhạy để nhận mọi tín hiệu, mọi làn sóng; phải biết tổng hợp, đánh
    giá, phân tích để phát đi một tiếng nói duy nhất, đúng đắn, sâu sắc. Mỗi bài thơ,
    câu văn đều là kết quả quá trình sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ sau khi đã
    công phu chọn lựa và nhào nặn chất liệu hiện thực. Do vậy, khi một nhà văn mới
    xuất hiện, câu hỏi của chúng ta về anh ta là: Anh ta là thế nào? Liệu anh ta có thể
    đem lại cho chúng ta điều gì mới mẻ trong cách nhìn cuộc sống?
    => Như vậy sáng tạo là yếu tố then chốt quyết định sự sống còn của nhà văn
    trong quy luật phát triển chung của văn học.
    14
    3.1.5.2.Yêu cầu thứ hai: Người nghệ sĩ phải biết rung cảm trước cuộc
    đời.
    Tâm hồn nhạy cảm là sự thể hiện trái tim giàu tình cảm của nhà văn. Đó là
    lúc nhà văn thâm nhập vào đối tượng với một con tim nóng hổi, chuyển hóa cái
    đối tượng khách quan thành cái chủ quan đến mức “tưởng như chính mình sinh
    ra cái khách quan ấy”. Để từ đó, khi viết, họ dùng cái vốn bản thân sống sâu nhất
    để cảm nhận cuộc đời.
    Tình cảm là yếu tố quyết định sự sinh thành, giá trị và tầm cỡ của tác phẩm
    nghệ thuật. Khi Lê Quý Đôn khẳng định: “Thơ khởi phát từ trong lòng người”
    là có ý nói tình cảm quyết định đến sự sinh thành của thơ. Ngô Thì Nhậm thì
    nhấn mạnh: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”, nghĩa là tình cảm
    quyết định đến chất lượng thơ. Còn Nguyễn Đình Thi lại đúc kết: “Hình ảnh
    trong thơ phải là hình ảnh thực, nảy sinh trong tâm hồn ta khi ta đứng trước trước
    cảnh huống, một trạng thái nào đó”.
    => Như vậy, gốc của văn chương nói chung, tác phẩm nói riêng là tình cảm,
    nghĩa là người nghệ sĩ phải biết rung cảm trước hiện thực của đời sống thì mới
    sáng tạo nên nghệ thuật.
    3.1.5.3.Yêu cầu thứ 3: Nhà văn phải có phong cách riêng.
    Bởi đặc trưng của văn học là hoạt động sáng tạo có tính chất cá thể. Nếu cá
    tính nhà văn mờ nhạt, không tạo được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì đó
    là sự tự sát trong văn chương.
    Phong cách chính là nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học,
    đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới. Đặc biệt, nó phải có
    tính chất thẩm mĩ, nghĩa là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào.
    Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn mà khi đã nở
    rộ thì nó còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.
    Nhà văn Tuocghenhev khẳng định: “Cái quan trọng trong tài năng văn học
    là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy
    trong cổ họng của bất kì một người nào khác”.
    Nguyễn Tuân cũng từng nhấn mạnh: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo.
    15
    Vì vậy, nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng
    thể hiện trong tác phẩm của mình.”
    Cùng quan điểm ấy, nhà văn Lê- ô- nốp viết: “Không có tiếng nói riêng,
    không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường
    mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết ”
    Phong cách nghệ thuật có cội nguồn từ cá tính sáng tạo của nhà văn. Cá tính
    sáng tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lí, khí chất,
    cá tính sinh hoạt… Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời
    đại.
    Có thể nhận ra phong cách của nhà văn trong tác phẩm. Có bao nhiêu yếu
    tố trong tác phẩm thì có bấy nhiêu chỗ cho phong cách nhà văn thể hiện.
    Cụ thể:
    + Qua cái nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật, đối với cuộc
    đời.
    + Qua giọng điệu riêng, gắn liền với cảm hứng sáng tác.
    + Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lý đề tài, xác định chủ đề, xác định đối
    tượng miêu tả…
    + Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương
    tiện nghệ thuật.
    Các biểu hiện của phong cách văn học không tồn tại tách rời mà bao hàm
    lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau. Tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên
    suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học
    một tính chỉnh thể toàn vẹn.
    Thời gian cứ trôi đi lặng lẽ mà vô tình nhưng thời gian cũng chính là thứ
    nước rửa ảnh làm nổi bật lên những tác phẩm hay, độc đáo. Có một nữ văn sĩ
    từng nói đại ý rằng: “Sẽ không bao giờ chúng ta gặp lại mình như chiều nay”.
    Cũng như một triết gia từng đúc rút: “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng
    sông”. Mỗi khoảnh khắc trôi đi không bao giờ trở lại. Sẽ chẳng bao giờ ta gặp lại
    một Nam Cao, một Nguyễn Tuân, Xuân Diệu hay Thạch Lam,… thứ hai trên cõi
    đời này nữa. Bởi lẽ văn chương không bao giờ là sự lặp lại và mỗi nhà văn có
    16
    một tạng riêng, một phong, cách riêng:
    “Mỗi công dân có một dạng vân tay
    Mỗi nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
    Không trộn lẫn”
    (Lê Đạt)
    3.1.6. PHONG CÁCH SÁNG TÁC.
    3.1.6.1.Khái niệm phong cách sáng tác
    Phong cách sáng tác (phong cách nghệ thuật) là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ
    sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện
    biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn,
    trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. (Trong nghĩa
    rộng: Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ
    thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng
    điệu và một sắc thái thống nhất).(Từ điển thuật ngữ văn học – Lê Bá Hán – Trần
    Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên, NXB Giáo dục, 2004. Tr. 255, 256).
    3.1.6.2.Đặc điểm của phong cách nghệ thuật
    Đặc điểm 1:Phong cách chính là con người nhà văn.
    Nhà văn Pháp Buy phông nói: “Phong cách ấy là con người”. Nó hình
    thành từ thế giới quan, nhân sinh quan, chiều sâu và sự phong phú của tâm hồn,
    của vốn sống, sở thích, cá tính cũng như biệt tài trong sử dụng cách hình thức,
    phương tiện nghệ thuật của nhà văn
    Ví dụ: Nguyễn Tuân là người nhìn đời bằng nhãn quan của cái tôi kiêu bạc,
    đầy tự hào, tự tin, tự trọng, cùng với lòng ngưỡng mộ cái Đẹp trong đời. Nguyễn
    Tuân là người từng trải, đi nhiều, biết rộng, sống phóng khoáng, thích tự do, thích
    thú với những cảm giác mãnh liệt trong cuộc sống… Những yếu tố ấy trong con
    người nhà văn bộc lộ ra thành một phong cách nghệ thuật: Độc đáo, tài hoa và
    uyên bác. Nét phong cách này khá nhất quán trong cả hai giai đoạn sáng tác trước
    và sau cách mạng tháng Tám.
    Đặc điểm 2 : Phong cách nghệ thuật không đơn thuần chỉ là những
    nét lặp đi lặp lại thành quen thuộc của nhà văn. Đó phải là sự lặp lại một
    17
    cách hệ thống, thống nhất cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút
    pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy.
    Cho nên, không phải bất kỳ nhà văn nào cũng có phong cách, tạo được
    phong cách. Phong cách thường được tạo nên bởi một cây bút sâu sắc trên nhiều
    phương diện: thế giới quan, nhân sinh quan, vốn sống, kinh nghiệm… tài năng về
    nghệ thuật và có bản lĩnh.
    Cái nét riêng (ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp
    nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận) ấy thể hiện nổi bật, có giá trị và khá nhất
    quán trong hầu hết các tác phẩm của họ, lặp đi lặp lại làm cho người đọc nhận
    ra sự khác biệt với tác phẩm của các nhà văn khác.
    Chẳng hạn, giữa Nguyễn Công Hoan và Nam Cao, Xuân Diệu và Chế Lan
    Viên, Nguyễn Tuân và Nguyễn Minh Châu…
    Đặc điểm 3 : Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Phong cách là nét
    riêng không trùng lặp.
    Sự thật có thể là một, nhưng cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn
    phải có màu sắc khác nhau và độc đáo. L. Tônxtôi nói: “Khi ta đọc hoặc quan
    sát một tác phẩm văn học nghệ thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu
    nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: Nào, anh ta là con người
    thế nào đây nhỉ? Anh ta có gì khác với tất cả những người mà tôi đã biết, và
    anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc vần phải nhìn cuộc
    sống của chúng ta như thế nào?”(L. Tônxtôi toàn tập).
    Ví dụ:
    Cùng thể hiện khả năng trào phúng, hai nhà văn cùng thời Nguyễn Công
    Hoan và Vũ Trọng Phụng vẫn tạo được những phong cách khác nhau:
    + Nguyễn Công Hoan cười nhẹ nhàng, thâm thúy bằng cách dựng lên
    những tình huống trớ trêu, nghịch lý (kiểu Kép Tư Bền, Người ngựa, ngựa
    người…);
    + Vũ Trọng Phụng cười chua chát, sâu cay, quyết liệt, như muốn ném
    thẳng lời nguyền rủa vào mặt người ta (kiểu Số Đỏ).
    Đặc điểm 4 :
    18
    Phong cách nghệ thuật là sự ổn định, nhất quán (đương nhiên không phải
    tuyệt đối).
    Ví dụ: Nguyễn Tuân, trải qua hai thời kỳ sáng tác, có những chuyển biến
    về tư tưởng sáng tác khá rõ nét, nhưng vẫn giữ một phong cách độc đáo, tài hoa,
    uyên bác. Có khác:
    + Trước cách mạng, ông ưa viết theo cách ngông, nổi loạn chống lại
    cái tầm thường, phàm tục ở đời. Cái Đẹp nhiều khi phóng túng.
    + Còn sau cách mạng: ông ưa viết theo cách tự tin, tự hào, tự trọng về tài
    năng và bản lĩnh của mình. Cái Đẹp vẫn được đặt trong tư thế thử thách gai
    góc nhưng bình dị, chân thực hơn.
    Đặc điểm 5 :
    Phong cách nghệ thuật biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Điều này tùy
    thuộc vào tài năng, sở trường của mỗi nhà văn.
    – Có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài
    (có nhà văn chỉ thích đề tài nông thôn, có người lại ưa và chỉ chọn đề tài
    thành thị, có người thích những hiện thực mang tính chất nhẹ nhàng, giản dị,
    thâm trầm, cũng có người lại thích khai thác những chuyện dữ dội, đau đớn,
    ám ảnh mãnh liệt đối với con người…).
    – Có thể biểu hiện ở việc chọn thể loại
    (mỗi nhà văn chỉ viết thành công nhất ở một thể loại, thể loại ấy chính là
    phong cách của họ).
    – Có thể biểu hiện ở sự vận dụng ngôn ngữ
    (có nhà văn ưa dùng thứ văn nhẹ nhàng, êm đềm, sâu lắng, nhưng có người
    lại luôn tỉnh táo, sắc lạnh đến tàn nhẫn; có người ưa lối nói dí dỏm mà thâm
    thúy, người lại thích lối nói sắc sảo, dữ dội, sâu cay…).
    – Có thể biểu hiện ở giọng điệu
    (Có nhà văn thường tạo nên một giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, ân nghĩa;
    trong khi người khác lại thành công với giọng điệu thấm đẫm chất triết luận…).
    – Có thể biểu hiện ở cách xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm
    19
    (kiểu nhân vật chân dung – Nguyễn Tuân; kiểu nhân vật tâm lý – Nam
    Cao; kiểu nhân vật cảm giác – Thạch Lam, kiểu nhân vật đấu tranh – Nguyễn
    Minh Châu (trong sáng tác sau năm 1975), kiểu nhân vật CON – NGƯỜI –
    Nguyễn Huy Thiệp…).
    Đặc điểm 6 : Phong cách nghệ thuật là nét riêng, đậm tính cá thể, nhưng
    phải có liên hệ mật thiết với hệ thống chung các phong cách của một thời đại
    văn học.
    Ví dụ: Phong cách của các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…
    trước cách mạng tháng Tám đều nằm trong phong cách lãng mạn của trào lưu Thơ
    mới lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945.
    Đồng thời, phong cách nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó thực sự cống hiến cho
    sự tồn tại và phát triển phong phú, đa dạng của văn học dân tộc nói chung.
    Đặc điểm 7 : Phong cách sáng tác chịu ảnh hưởng của những phương
    diện tinh thần khác nhau như tâm lý, khí chất, cá tính của người sáng tác.
    Đồng thời, nó cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại.
    Mỗi một thời đại lịch sử và thời đại văn học tương ứng có thể tạo ra những
    phong cách sáng tác mang đặc trưng riêng:+ chẳng hạn phong cách Hồ Xuân
    Hương trong thời Trung đại còn nặng nề ý thức hệ phong kiến, văn học chịu ảnh
    hưởng sâu sắc của quan điểm phi ngã;
    + phong cách Nguyễn Tuân trong thời Pháp thuộc, phát triển một khuynh
    hướng văn học – văn học lãng mạn, bộc lộ đầy đủ, sâu sắc cái tôi nghệ sĩ tài hoa,
    phóng khoáng….
    3.1.7.THƠ
    3.1.7.1.Thơ là gì?
    Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con người. Thuộc
    phương thức trữ tình, thơ lấy điểm tựa là sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ,
    những rung động mãnh liệt của trái tim sĩ trước cuộc đời. Cảm xúc đóng vai trò
    quyết định, là nguồn cội của mọi sáng tạo nghệ thuật.
    3.1.7.2.Đặc trưng của thơ.
    Cũng như văn học, thơ phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Nhưng hình
    20
    tượng trong thơ không phải được xây dựng nên từ óc quan sát, chiều sâu nhận
    thức, tư duy lô gic của lý trí mà nó gắn với cảm xúc, với tâm hồn. Thơ sinh ra từ
    tình cảm: “Thơ là người thư ký trung thành của những trái tim” (Đuybray)
    3.1.7.2.1.Một tác phẩm thơ có giá trị
    Một tác phẩm thơ đích thực có giá trị phải đạt đến đỉnh cao cả nội dung lẫn
    hỉnh thức: cả lời (ngôn từ, hình thức nghệ thuật), cả tư tưởng, cảm xúc phải đạt
    đển độ chín muồi, đẹp đẽ nhất, mãnh liệt nhất (chín đỏ). Xuân Diệu cho rằng: “Thơ
    hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”
    => Như vậy, một tác phẩm thơ hay yêu cầu:
    + Lời thơ phải đẹp (giàu hình ảnh, tinh tuý, hàm súc, có âm thanh nhịp điệu
    rõ rệt…)
    + Lời thơ phải chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, cao đẹp, những suy ngẫm sâu
    sắc về con người cuộc đời.
    + Những lời đẹp đẽ ấy chính là sự thăng hoa cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ
    trước cuộc đời. Ngược lại, cảm xúc mãnh liệt, suy ngẫm sâu sắc phải được thể
    hiện qua lời đẹp. “Tài gia tình chi phát” (tài do tình mà ra). Chỉ khi cái đẹp của
    ngôn từ của hình thức nghệ thuật chứa đựng, thể hiện cảm xúc, suy ngẫm mãnh
    liệt sâu sắc của nhà thơ trước cuộc sống thì mới có thơ đích thực – thơ hay.
    3.1.7.2.2. Tình cảm trong thơ.
    Phải chăng, từ bao giờ người ta luôn bằng lòng với việc quan niệm: thi sĩ
    suốt đời đi tìm cái đẹp và chỉ đi tìm cái đẹp? Thơ luôn bắt nguồn từ một men
    say, một tia chớp lóe sáng, một mạch nước ngầm âm ỉ từ bao giờ? Vì thế thi sĩ
    Hàn Mặc Tử cũng từng tự nhận xét “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi mất trí. Tôi phát
    điên”. Với ai kia, thơ tôn sùng nghệ thuật trong sự thăng hoa của cảm xúc. Với
    ai kia, thơ là sự say đắm trong một thế giới vô thức – thế giới của thi sĩ.
    Sinh ra từ tâm hồn và trái tim con người, thơ đã trở thành tri âm của nhân
    loại từ bao thế kỷ qua. Thơ là một phần của thế giới nội tâm, của đời sống tâm
    linh con người. Yêu thơ và coi thơ như người bạn tri kỷ của mình, người ta đã
    tìm cho thơ nhiều cách lý giải, định nghĩa. Ai đó đã từng coi thơ là “rượu của
    quỷ sa tăng”, “thơ là địa hạt huyền bí và thần thánh”. Cũng có người cho rằng
    21
    “thơ là lửa”, “thơ là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt” (Ban zắc)
    Nói đến Thơ, người đọc không quên thơ là cảm xúc, là tâm hồn. Trong thơ,
    “tình là gốc” ( Bạch Cư Dị), thơ phải sinh ra từ sự thôi thúc mạnh mẽ của tâm
    hồn. Đồng thời, cảm xúc trong thơ ở dạng tính chất chọn lọc. Ngôn ngữ thơ hàm
    súc và đa nghĩa. “Thơ là rượu của thế gian” (Huy Trụ). Thơ thăng hoa và xuất
    thần từ đống tài liệu thực tế, như một thanh kim loại sáng bóng được gạn ra từ
    hàng tấn quặng ủ trong lòng đất bao nhiêu tháng năm…
    3.1.7.3.Thơ trong mối quan hệ hiện thực.
    Đặc trưng của thơ là gì ? Cũng như văn học, thơ ca phản ánh cuộc sống
    bằng hình tượng. Nhưng hình tượng trong thơ không phải được xây nên từ óc
    quan sát, chiều sâu nhận thức, tư duy lôgic của lý trí, mà nó gắn với cảm xúc, với
    tâm hồn.
    Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của tâm hồn
    người nghệ sĩ. Thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung bao giờ cũng đi ra từ
    cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực và rồi từ đó cánh diều nghệ thuật sẽ nhờ gió
    đời mà cất cánh bay cao. Sẽ “chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép” (Chế Lan
    Viên); “sẽ chẳng có thơ khi người làm thơ không tìm được sợi dây giao cảm
    đối với cuộc đời, không tìm đến những cánh đồng phì nhiêu để từ đấy hạt giống
    thơ ca được ươm trồng, nảy nở.” Lục Du đời Tống người đã viết hàng trăm câu
    thơ, lúc sắp mất đã tâm sự với con, lời tâm sự của một hồn thơ đi trọn cuộc đời
    mới hiểu cái lẽ “công phu của thơ là ở ngoài thơ”.
    Sức nặng của những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia.
    Nhà thơ phải đến đó để viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính cuộc sống.
    Gắn với cuộc sống, đấy là đặc trưng thẩm mĩ của văn học, của tác phẩm văn
    chương mà nhịp nối là nhà văn.
    Cuộc sống với những hiện tượng phong phú, phức tạp vừa là đối tượng
    hướng tới, vừa là nguồn mạch nuôi dưỡng văn học. Quay lưng lại với cuộc
    sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là
    kỹ xảo. Cuộc sống mênh mông vô tận sẽ là nơi cung cấp chất liệu cho Thơ.
    Cuộc sống với hơi thở ấm nóng sẽ tô điểm cho những câu thơ, cho nghệ thuật:
    22
    “Hãy nhặt lấy chữ đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên). Thơ ca khơi nguồn
    từ cuộc sống nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc đời, bóng dáng
    con người. Thơ mang trong mình những buồn vui đau khổ, rạo rực đắm say. Thơ
    nói riêng và văn chương nói chung sẽ làm nên nhịp cầu nối trái tim trở về với
    trái tim, đưa tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu. Thơ ca là cuộc đời nhưng
    thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn bóng hình cuộc sống
    3.1.7.4. Sáng tạo trong thơ.
    Sáng tạo là kết quả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, hun đúc, một
    tiến trình cọ xát dữ dội. Sáng tạo không có nghĩa là bịa đặt. Sáng tạo nghệ thuật
    giống như sáng tạo cuộc sống, cần có yếu tố thẩm mỹ, tính chân thực cao, có khả
    năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của người đọc.
    Bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, một sự lao động miệt mài
    không ngừng nghỉ. Văn chương sẽ ra sao nếu tác phẩm này là bản sao của tác
    phẩm kia? Nếu mỗi người nghệ sĩ đều bằng lòng với những điều có sẵn? Câu
    chữ mòn sáo, lời văn đơn điệu, quen nhàm? Ấy là cái chết của nghệ thuật, cái
    chết của người nghệ sĩ trong mỗi nhà văn. Bởi “Văn chương không cần đến
    những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương
    chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
    sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao)
    Khi tìm đến yêu cầu sáng tạo đối với nghệ thuật, đã có người băn khoăn tự
    hỏi: Văn học cùng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, vậy tại sao không có sự
    gặp gỡ, trùng lặp? Thật vậy, cuộc đời là lạch ngầm nơi dòng sông văn chương
    bắt nước. Thế nhưng hiện thực ấy được chảy qua bầu cảm xúc mãnh liệt của mỗi
    nhà thơ, nhà văn.
    Mỗi người nghệ sĩ là một tiểu vũ trụ, tác phẩm văn học là sự phản ánh tiểu
    vũ trụ ấy. Vì vậy, không có những tác phẩm “song sinh” dù tâm hồn anh cùng
    đồng điệu, tri kỷ với tâm hồn tôi.
    Mặt khác, người đọc tìm đến với văn học nói chung, thơ ca nói riêng để đắm
    mình trong vẻ đẹp của sự sáng tạo. Có ai yêu những áng thơ mòn cũ, quen nhàm;
    có ai nhớ những vần điệu nhạt nhẽo, sáo rỗng. Không đi theo con đường sáng
    23
    tạo, nhà thơ sẽ chỉ còn lại một mình giữa sự thờ ơ, quên lãng của người đọc.
    Như thế, cuộc đời cầm bút của anh trở nên vô nghĩa. Bởi “điều còn lại đối với
    mỗi nhà văn chính là cái giọng nói riêng của mình”. Yêu cầu về sáng tạo ấy
    gợi nhắc trong lòng người đọc nỗi nhớ khôn nguôi về những nhà thơ đã dành
    trọn cuộc đời mình cho văn chương, nghệ thuật.
    Như vậy, mỗi người nghệ sĩ trong quá trình cầm bút cần phải tạo được tiếng
    nói riêng, âm sắc riêng. Nó đòi hỏi anh phải miệt mài trên con đường sáng tạo,
    không ngừng nghỉ, không lùi bước. Một âm vang tha thiết, đặc sắc giữa cõi văn
    chương, ấy là sức sống của anh, là ấn tượng của anh trong lòng người đọc muôn
    đời.
    Để sáng tạo và lưu giữ một bài thơ hay.
    – Đối với nhà thơ: Để sáng tạo nên những vần thơ đích thực, để vươn tới
    đỉnh cao của nghệ thuật chân chính, người nghệ sĩ không những phải có tài mà
    cần phải có tâm, có tình cảm mãnh liệt, sống hết mình với cuộc đời, biết xúc động
    nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của con người. Đồng thời, nhà văn cũng
    phải biết làm lây lan tình cảm, gửi đến bạn đọc những thông điệp sâu sắc qua các
    phương tiện, hình thức nghệ thuật đẹp đẽ.
    – Đối với người đọc: Để đánh giá một tác phẩm, không chỉ chú ý đến hình
    thức ngôn từ mà phải khám phá ra chiều sâu tư tưởng, tình cảm mãnh liệt mà tác
    giả gửi gắm.
    – Đối với lịch sử văn học: Để đánh giá giá trị một tác phẩm thơ ca đích
    thực phải xem xét tác phẩm có sự hài hòa giữa nội dung và hình thức.
    3.1.8.TÍNH NHẠC, HỌA, ĐIỆN ẢNH, CHẠM KHẮC TRONG THƠ
    3.1.8.1.Tính nhạc.
    Văn là họa, bởi vậy đi vào thế giới văn chương cũng là đặt chân vào một thế
    giới tràn đầy đường nét, rực rỡ sắc màu, đẹp và sinh động như chính cuộc đời
    thực tại. Nhưng làm nên thơ văn không chỉ có họa mà còn là nhạc. Âm nhạc
    với những thanh âm, giai điệu, tiết tấu,… luôn có khả năng cuốn hút, gọi dậy
    những cảm xúc trong lòng người. Nhưng nhạc tính không chỉ thuộc quyền sở
    hữu của âm thanh mà còn ở trong thơ văn như một phần đặc biệt.
    24
    Đọc thơ, ta luôn cảm nhận được một sự réo rắt gọi lên từ câu chữ âm vần.
    Từ xưa đến nay, các nghệ sĩ đã khai thác các đặc tính này góp phần không nhỏ
    vào việc chuyển tải nhịp điệu của cảm xúc và ảnh hưởng trực tiếp đến thính giác
    độc giả. Thế giới âm thanh vì thế mà thả sức ùa vào khuôn khổ của câu từ chật
    hẹp. Thế giới âm thanh cũng là sự biểu đạt khá rõ nét thế giới tâm hồn và nhịp
    cảm xúc của chính người nghệ sĩ. “Thơ ca là nhạc của tâm hồn” (Vôn – te). Vậy
    thì tiếp cận thế giới tràn đầy âm thanh, khuôn nhạc trong mỗi tác phẩm văn
    chương cũng là một cách tiếp cận, nắm bắt những cảm xúc mà nhà thơ, nhà văn
    mang lại. Bên cạnh hội họa, âm nhạc vì thế mà đem một sức gợi, một linh hồn
    cho các tác phẩm văn chương. Văn có họa nhưng trong văn cũng đầy nét nhạc.
    “Thi trung hữu nhạc”.
    3.1.8.2.Tính họa.
    Người xưa thường nói “thi trung hữu họa”. Đó chính là khẳng định mối quan
    hệ giữa văn chương và hội họa. Hội họa lấy những đường nét thô sơ hay uyển
    chuyển, những gam màu đậm nhạt, sáng tối khác nhau để mô tả hiện thực đời
    sống. Bởi thế, nó có khả năng tác động mạnh mẽ đến thị giác người xem, mở
    được cửa sổ tâm hồn con người. Hội họa có ưu thế trong việc đem lại những cảm
    xúc thẩm mỹ mới mẻ, tinh tế. Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng,
    nó đòi hỏi phải tái hiện được bức tranh đời sống giàu có và sinh động. Nhưng
    ngôn ngữ văn chương lại mang tính phi vật thể. Vì vậy, muốn tác động trực quan
    đến người đọc, ngôn ngữ ấy phải giàu có về hình ảnh, phong phú về màu sắc,
    đường nét. Và những yếu tố trên đã tạo ra chất hội họa trong văn, làm hiển hiện
    trước mắt người đọc bức tranh tươi đẹp về cuộc sống. Những lúc ấy, nhà văn
    giống như người nghệ sĩ tài ba đem ngôn ngữ, những đường nét và gam màu tinh
    tế để vẽ nên những tuyệt tác bằng ngôn từ.
    Sự kết hợp giữa họa và văn đã làm thỏa mãn cả con mắt và cái tâm của
    người thưởng thức. Mới hay sự kết hợp ấy đôi khi nâng cả họa cả văn lên đến
    đỉnh cao. Chất họa đi vào văn chương qua bàn tay sáng tạo của người nghệ sĩ
    được thể hiện bằng những bút pháp riêng như chấm phá, phác họa, điểm nhãn,
    tả cảnh ngụ tình,… tạo nên sự sống động cho tác phẩm.
    25
    3.1.8.3. Điện ảnh.
    Người ta hay ví những nhà thơ, nhà văn như những nhà quay phim tài ba.
    Khéo léo nhất đó là khi họ chớp được những pha thần tình trong cảm xúc, hành
    động của nhân vật, ghi lại những sự kiện, cảnh huống nóng bỏng nhất của thời
    đại xã hội, những vấn đề đáng được đưa lên phim ảnh.
    Khi nguyễn Đình thi viết những câu kết lại bài “Đất nước”:
    “Súng nổ rung trời giận dữ
    Người lên như nước vỡ bờ
    Nước Việt nam từ máu lửa
    Rũ bùn đứng dậy sang lòa”
    Có thể thấy ông đã ghi lại những thước phim tư liệu chân thực về một thời
    oanh liệt đã qua. Bốn câu thơ có thể được coi là những cảnh quay hoành tráng,
    mang tầm vóc, quy mô lớn. Nó dựng lại được không khí ác liệt, hào hùng của
    cả một thời đại. Những cảnh quay lúc ra xa, lúc đưa về gần đã tái hiện lại bức
    tranh chiến trận khá toàn diện và sinh động. Giữa khung cảnh rộng lớn, có âm
    thanh tiếng súng, có hình ảnh người lên, có ánh sáng rực rỡ của lửa cháy,…. Tất
    cả đều ở trong thế vận động đi lên từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn tới niềm
    vui, từ nô lệ đến tự do, hạnh phúc. Có thể xem đó như cuộn phim ghi lại cả một
    quá trình chiến đấu và chiến thắng của dân tộc.
    3.1.8.4.Điêu khắc.
    Văn học tái hiện đời sống bằng hình tượng nhưng đó không phải là những
    hình tượng thực có khả năng tác động trực tiếp đến giác quan của người đọc.
    Do vậy, ngôn ngữ văn học phải có khả năng khắc tạc những hình tượng đậm nét,
    cụ thể để người đọc có thể hình dung, tưởng tượng ra nó một cách rõ nét. Nghệ
    thuật điêu khắc với những đặc trưng về mảng, hình khối dễ dàng kích thích trí
    tưởng tượng, óc sáng tạo của độc giả.
    3.1.9. VẺ ĐẸP CỦA NGÔN NGỮ THƠ CA
    Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện để biểu hiện mang tính đặc trưng của
    văn chương. M. Gorki từng viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ – công
    cụ chủ yếu của nó – và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống – là
    chất liệu của văn học”.
    26
    Đặc điểm chung của văn học là tính chính xác, tính hàm súc và tính hình
    tượng. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc
    thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi tác phẩm cũng có những vẻ đẹp riêng
    về ngôn ngữ.
    Ngôn ngữ thơ ca có thể xem là tiêu biểu cho ngôn ngữ văn học bởi các đặc
    điểm như tính chính xác, tính hàm súc, tính hình tượng được thể hiện một cách tập
    trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ ca.
    Ngôn ngữ thơ ca không phải là vẻ đẹp của đồ trang sức hay trò chơi phù
    phiếm mà là vẻ đẹp tỏa ra từ tâm hồn và ánh lên từ cuộc sống thông qua sự mài
    giũa và tinh luyện của nhà thơ.
    Xuất phát từ một yêu cầu rất quan trọng đối với văn học là phải phản ánh hiện
    thực một cách chân thực, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca cũng được hình thành từ sự trong
    sáng và chính xác. Đó chính là khả năng biểu hiện đúng điều thi nhân muốn nói,
    miêu tả đúng cái mà tác giả cần tái hiện.
    – Đọc tác phẩm “Tây Tiến” của Quang Dũng, tuy không xuất hiện từ “chết”
    nhưng ta vẫn gặp rất nhiều khái niệm chỉ cái chết:
    “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
    “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
    “Áo bào thay chiếu anh về đất”
    “Tây Tiến người đi không hẹn ước”
    Có lẽ ta ít bắt gặp trong thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954)
    những thi phẩm nói về cái chết. Có một thời người ta phê phán Quang Dũng “bi
    lụy, sầu não” mà ít ai để ý đến những giá trị đích thực của bài thơ.
    Những khái niệm về cái chết mà thi nhân sử dụng cho ta cảm nhận được
    những gì tác giả muốn miêu tả về hiện thực. Hơn nữa, mỗi lần sử dụng khái
    niệm này, tác giả đều cho ta thấy sự điêu luyện trong việc dùng ngôn ngữ. Hình
    ảnh người lính “gục bên súng mũ bỏ quên đời” nhưng tựa như vẫn đang làm
    nhiệm vụ canh gác giữa đất trời. Với những chàng trai ấy “sống đánh giặc, thác
    cũng đánh giặc”. Bởi vậy, cái chết đối với họ là sự trở về nơi bắt đầu để chuẩn bị
    cho một con đường mới. Cụm từ “anh về đất” nhẹ nhàng, thiêng liêng, trân trọng.
    – Đọc tác phẩm “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ dạt
    27
    dào của một trái tim rạo rực, cháy bỏng với những khát khao trong tình yêu:
    “Con sóng dưới lòng sâu
    Con sóng trên mặt nước
    Ôi con sóng nhớ bờ
    Ngày đêm không ngủ được
    Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức”
    Còn gì có thể mãnh liệt hơn thế. Sóng nhớ bờ trong chiều rộng không gian:
    “lòng sâu – mặt nước”; trong chiều dài thời gian: “ngày – đêm”. Em cũng thế.
    Nhưng sóng nhớ bờ vẫn còn có giới hạn “lòng sâu – mặt nước”, “ngày – đêm” ,
    còn em nhớ anh xuyên qua không gian, thời gian thực tại để đến với cõi tâm thức
    “trong mơ”. Ngôn ngữ thơ ca đã giúp trái tim Xuân Quỳnh biểu hiện đến độ sâu
    nhất của nỗi nhớ. Đó chẳng phải là sự kì diệu của ngôn ngữ thơ ?
    3.1.9.1.Trong ngôn ngữ thơ ca, việc dùng từ trong sáng, chính xác cũng
    là sự sáng tạo, sự phát hiện độc đáo của tác giả.
    – Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ ngữ chính
    xác, đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.
    Miêu tả thời gian, Quang Dũng không sử dụng khái niệm mùa quen thuộc,
    ông đã sáng tạo hình ảnh “mùa em”. Xuân, hạ, thu, đông là mùa của cả đất trời,
    của tất cả mọi người. Nhưng “mùa em” thì chỉ có của riêng Quang Dũng mà thôi.
    “Mùa em” là mùa ta gặp em, mùa gắn với hương nếp Mai Châu hay nghĩa tình
    người Tây Bắc.
    Không viết “hoa nở” mà viết “hoa về”. “Hoa nở” thì tỉnh quá, thường quá. “
    Hoa về” còn ẩn chứa niềm vui hân hoan của hoa, của lòng người.
    Sử dụng từ thích hợp với đối tượng được miêu tả hoặc tạo ra ngữ cảnh
    thích hợp để từ ngữ lộ đúng nghĩa của nó là bản chất của tính chính xác.
    Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng viết:
    “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
    Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
    Hai từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt gần nhau trong một câu thơ là điều
    28
    khó gặp. Người đọc cảm giác dốc lên cao, cao mãi như dựng đứng giữa đất trời
    rồi đột nhiên chạm vào mây xanh. Dường như đất và trời gặp nhau nhờ dấu chân
    người lính.
    3.1.9.2.Không chỉ chính xác, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca còn toát lên từ sự
    cô đọng, hàm súc (ý tại ngôn ngoại).
    – Nhà văn Hê- ming- uê đã từng đưa ra nguyên lý “Tảng băng trôi”. Tác
    phẩm văn chương phải là “một tảng băng trôi” bảy phần chìm, một phần nổi.
    Người nghệ sĩ không phải là cái loa phát thanh cho ý tưởng của mình mà nói lên
    bằng ngôn từ có nhiều sức gợi. Lời chật mà ý rộng, lời đã hết mà ý khôn cùng.
    Đây là cách dùng từ sao cho “ đắt” nhất, phù hợp nhất.
    Họa sĩ Van Gốc đã để lại cho nhân loại yêu nghệ thuật bức họa “Hoa hướng
    dương”. Chất liệu hội họa và tài năng nghệ thuật đã giúp ông làm điều đó. Nhưng
    hội họa không thể vẽ được hình ảnh “hoa đong đưa” như trong thơ Quang
    Dũng: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Bông hoa ở đây không phải là bông
    hoa vô tri giữa dòng nước đang chuyển động. Ta bắt gặp ở câu thơ Quang Dũng
    một linh hồn hoa bé bỏng như đang làm duyên trên sông nước.
    3.1.9.3. Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có nhịp điệu, không có nhịp điệu
    thì không thành thơ.
    – Người ta thường nói thơ là tình cảm, là tiếng nói của trái tim. Do đó, ngôn
    ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt. Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có nhịp
    điệu, không có nhịp điệu thì không thành thơ. Ta dễ hiểu vì sao rất nhiều bài thơ
    đã được phổ nhạc.
    – Nhịp điệu của bài thơ “Sóng” là nhịp điệu của con sóng ngoài đại dương,
    cũng là nhịp điệu sóng lòng của người phụ nữ khi yêu:
    “Dữ dội và dịu êm
    Ồn ào và lặng lẽ”
    – Nhịp điệu của “Tây Tiến” là nhịp điệu của một khúc nhạc quân hành một
    thời binh lửa: “ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
    – Nhịp điệu trong “Việt Bắc” là nhịp điệu của tiếng lòng sâu nặng, gắn bó của
    kẻ ở – người đi, của tình quân – dân thắm thiết: “Mình về mình có nhớ ta – Mười
    29
    lăm năm ấy thiết tha mặn nồng – Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi
    nhìn sông nhớ nguồn”.
    3.1.9.4.Ngôn ngữ thơ ca không đối lập với ngôn ngữ toàn dân. Nó tiếp
    thu tinh hoa của ngôn ngừ thường nhật không ngừng nâng cao, làm giàu thêm
    ngôn ngữ toàn dân.
    Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca tựa như cô bé Lọ Lem trong truyện cổ tích. Lúc đi
    dự hội thì như một nàng tiên đầy duyên dáng nhưng thường ngày lại tất bật với
    những giặt giũ áo quần, người vương mùi hành, mùi khoai mới gọt. Ngôn ngữ
    thơ ca không đối lập với ngôn ngữ toàn dân. Nó tiếp thu tinh hoa của ngôn ngừ
    thường nhật không ngừng nâng cao, làm giàu thêm ngôn ngữ toàn dân. Chính vì
    vậy, nhà thơ không ngừng sáng tạo như người thợ tài năng gọt giũa, nhào luyện
    để tạo nên giá trị về nghệ thuật ngôn từ.
    Tạo hóa tạo cho con người ngôn ngữ để sáng tạo thơ ca. Từ những lời hát
    trong bài ca lao động của người nguyên thủy, những lời cầu nguyện, mong ước
    điều tốt lành cho mùa màng đến lời niệm chú, có thể coi như hình thức đầu tiên
    của thơ. Trải qua thời gian, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và
    hoàn thiện tựa như những nguồn nước mát trong nảy sinh từ cội nguồn sáng tạo
    sâu thẳm vô tận của con người.
    3.1.10. CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN
    CHƯƠNG TỰ SỰ
    3.1.10.1. Mở đầu
    Chi tiết nghệ thuật là một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của
    tác phẩm văn chương tự sự. Người đọc có thể yêu thích say mê tác phẩm nhờ một
    vài chi tiết rất nhỏ. Có khi chỉ qua vài chi tiết nghệ thuật người đọc đã thấy được
    tầm cỡ của nhà văn và tầm vóc tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Đây thực sự là
    một vấn đề quan trọng của lí luận văn học cả trong quá trình sáng tác và tiếp nhận.
    Đối với quá trình bồi dưỡng và rèn luyện học sinh giỏi ở THPT đây cũng là một
    vấn đề rất cần được quan tâm. Muốn hiểu hết được cái hay cái đẹp của một tác
    phẩm tự sự người đọc không chỉ cần quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, kết cấu,
    tình huống…mà còn cần giải mã các chi tiết nghệ thuật. Vấn đề này ngày cà

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh qua các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm kí trong chương trình Ngữ văn THPT

    SKKN Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh qua các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm kí trong chương trình Ngữ văn THPT

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam
    Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục trung học phổ thông
    của Đảng, Nhà nước Nghị quyết, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và Nghị quyết số
    44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 chương trình giáo dục trung học phổ thông có những
    định hướng đổi mới cụ thể như sau:
    Thứ nhất, chuyển từ chương trình định hướng nội dung dạy học sang chương
    trình định hướng năng lực: Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất
    lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm
    chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực
    tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc
    sống và nghề nghiệp.
    Thứ hai, định hướng chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực của chương
    trình giáo dục cấp trung học phổ thông, từ các phẩm chất và năng lực chung mỗi
    môn học xác định những phẩm chất và năng lực chuyên biệt, những yêu cầu đặt ra
    cho từng môn học, từng hoạt động giáo dục.
    Thứ ba, có sự tích hợp và phân hóa sâu trong dạy học. Dạy học tích hợp là
    định hướng dạy học để học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức,
    kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong
    học tập và trong cuộc sống. Phân hóa trong dạy học (hay dạy học phân hóa) là định
    hướng dạy học bảo đảm sự phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau (về hoàn
    cảnh, đặc điểm tâm – sinh lý, khả năng, nhu cầu và hứng thú, sở thích cá nhân),
    nhằm phát triển tối đa điều kiện và tiềm năng của mỗi học sinh.
    Thứ tư, giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấpTHPT) nhằm phát triển năng
    lực theo sở trường, nguyện vọng của từng học sinh, bảo đảm học sinh tiếp cận
    nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau có chất lượng hoặc tham gia cuộc
    sống lao động.
    2
    3
    2. Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài
    Văn học là một trong những môn học đảm nhiệm vai trò cốt lõi, có “sứ mệnh”
    quan trọng trong việc bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng và hình thành, phát triển phẩm
    chất, năng lực cho học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục. Một trong những thể
    loại giàu màu sắc văn chương, dễ đọc, cuốn hút, giàu giá trị nghệ thuật và thể hiện
    rất tốt chức năng văn học đó là thể loại kí. Khi đọc hiểu tác phẩm kí, nhất thiết ta
    không sa vào chi tiết, liệt kê chi tiết rồi nhận xét bình giá như đọc hiểu truyện mà
    cần chú ý không gian hiện thực như thật qua liên tưởng và xúc cảm của người viết.
    Bạn đọc sẽ không chỉ thấy rất cụ thể và chính xác từng sự việc, sự vật được trần
    thuật mà còn thấy từng thứ hiện ra theo câu văn và con chữ đẹp quyến rũ và lôi
    cuốn. Đọc kí, nhất là tùy bút, bút kí, độc giả khó cưỡng nổi sự lôi cuốn của sự việc
    là thế. Bút pháp biến hóa trần thuật liên tưởng tạt ngang tạt dọc, mở thứ này, mở
    luôn thứ khác để mong thỏa mãn trí tò mò khám phá của bạn đọc đã mang đến sức
    sống lâu bền cho thể loại kí. Với chất riêng ấy, Đọc – hiểu kí và Làm văn NLVH
    về thể loại kí chính là quá trình đồng sáng tạo giữa nhà văn – chủ thể sáng tạo và
    học sinh – chủ thể tiếp nhận. Để thỏa niềm đam mê khám phá địa hạt văn chương,
    để tạo ra không khí, không gian lớp học mang đậm sắc màu văn chương, để HS
    luôn tự chủ, tự tin là chính mình, thổi được sắc màu cá nhân của mình trong giải
    quyết các nhiệm vụ học tập và sáng tạo, không có cách nào khác là phải thay đổi
    cách nhìn, tư duy, định kiến cho người dạy và người học mà mấu chốt thay đổi
    PPDH theo hướng phát triển năng lực cho người học. Đây là vấn đề sống còn của
    dạy Văn – học Văn. Và đề tài phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    cho HS qua các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm kí trong chương trình
    Ngữ văn THPT nhằm phục vụ trực tiếp, cụ thể cho HS khối 11, 12, đặc biệt cho
    các bạn chọn khối thi C, D trong thi Tốt nghiệp THPT Quốc gia thông qua học tập
    và trải nghiệm sáng tạo về kí, về môn Làm văn NLVH trong nhà trường. Do vậy
    trong quá trình học tập và trải nghiệm sáng tạo, các bạn được chủ động thu thập,
    xử lý thông tin; tích cực thực hiện các hành động học tập, chiếm lĩnh tri thức hiệu
    quả và phát triển các kĩ năng tự học, tự giải quyết vấn đề và sáng tạo. Để rồi từ đó
    4
    các bạn cảm thấy hào hứng, tự tin và có nhiều quyết tâm hơn trong việc giải quyết
    vấn đề của môn học cũng như các vấn đề từ thực tiễn cuộc sống.
    3. Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thời đại
    – Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các nhà trường phổ thông: PPDH phải nhằm
    phát triển tối đa sự suy nghĩ độc lập của HS, kĩ năng đạt đến và vận dụng tri thức,
    góp phần định hướng nghề nghiệp. Vì vậy, phát triển chương trình giáo dục phổ
    thông dựa trên tiếp cận NL: NL nhận thức, NL giải quyết vấn đề, NL hành động,
    NL sáng tạo, NL làm việc nhóm, NLthích ứng với môi trường,…, đặc biệt trong đó
    NL giải quyết vấn đề và sáng tạo là một lựa chọn tất yếu khách quan và phù hợp
    với xu thế phát triển của xã hội.
    – Theo tâm lí phụ huynh và dư luận xã hội: trông mong ở mỗi con em/ công
    dân sự hoạt bát, nhanh nhạy, tinh tường, am hiểu, không rập khuôn, không là bản
    sao hay phiên bản sẵn có.
    – Theo yêu cầu nghề nghiệp: cần thiết mỗi người lao động chân tay hay trí óc
    có khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề và sáng tạo, phát huy sở trường, năng
    khiếu, làm theo năng lực, trả lương theo vị trí việc làm.
    Như vậy, trong quá trình dạy – học ở trường trung học phổ thông hiện nay,
    nhiệm vụ phát triển các NL cốt lõi cho HS trở thành nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
    Nhiệm vụ đó đòi hỏi tiến hành đồng bộ ở tất cả các cấp học, các môn học trong đó
    có bộ môn Ngữ văn. Do đó, việc đổi mới PPDH trong giáo dục, đào tạo ở nước ta
    đã trở thành một yêu cầu tất yếu và cấp thiết.
    PHẦN II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    A. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    I. Thực trạng dạy của giáo viên môn Làm văn nghị luận văn học
    Giải pháp cũ thường làm – “truyền thụ một chiều”. Theo đó GV chủ yếu sử dụng
    PPDH NLVH nói chung, NLVH về tác phẩm/đoạn trích kí trong chương trình Ngữ
    văn THPT nói riêng là diễn giảng, bình và giảng theo các đề có sẵn và bài văn
    mẫu.
    1. Ưu điểm
    5
    – GV chủ động trong giờ dạy (cung cấp kiến thức, sử dụng phương tiện dạy
    học, xử lý thời gian)
    – Tránh được thời gian “chết” hay quá mất thời gian cho một vấn đề trong
    giờ học.
    – Đảm bảo kế hoạch bài dạy
    – Hiệu suất giờ học, chất lượng giáo dục bình ổn đều.
    2. Nhược điểm
    – Theo lối mòn văn chương đã định sẵn trong thời gian qua, việc dạy học
    môn Làm văn NLVH (giờ Phụ đạo chiều) vẫn theo phương pháp truyền
    thống “truyền thụ một chiều” với PPDH chiếm ưu thế vẫn là các phương
    pháp thuyết trình tức là trong giờ học, GV giảng bài, HS lắng nghe, ghi
    chép, sau đó trả bài trong phần kiểm tra miệng hay trong các tiết kiểm tra
    và thi tập trung. Gần đây, theo yêu cầu đổi mới PPDH của Bộ GD & ĐT,
    việc dạy học bộ môn đã có một số thay đổi như đã chú ý đến đối tượng chủ
    thể giờ học là HS, tăng cường đối thoại giữa GV và HS, tăng cường việc
    thảo luận nhóm … Tuy nhiên, “bình mới rượu cũ”, sự đổi mới ấy còn nặng
    nề, chiếu lệ về hình thức, việc hoạt động nhóm của HS chưa thực sự hiệu
    quả, GV vẫn vô cùng vất vả trong chọn, đọc tư liệu, soạn giáo án, nói
    nhiều, cho ghi chép dài khi đứng lớp; vẫn mang nặng áp lực chất lượng thi
    cử; chưa thực sự tin tưởng vào khả năng tự học và sáng tạo của HS, ít/
    không trao cơ hội học tập, nghiên cứu tới HS.
    – Thiếu sự tương tác giữa GV – HS, HS – HS: trong quá trình giảng dạy và
    học tập, GV chỉ miệt mài quan tâm đến việc dạy, HS lại chăm chăm quan
    tâm đến việc ghi chép bài nên thiếu đi sự tương tác lẫn nhau.
    – Giờ học vì thế tẻ nhạt, thiếu sự sinh động, hấp dẫn.
    – Hiệu suất giờ học, chất lượng giáo dục thiếu bước đột phá, cải tiến.
    Để cụ thể hơn, tôi đã sử dụng Phiếu điều tra để khảo sát thực nghiệm việc dạy
    học làm văn NLVH với chương trình Ngữ văn 12 ở trường THPT Nguyễn Khuyến
    – Nam Định (Mẫu phiếu điềutra ở phần Phụ lục 1)
    6
    II. Thực trạng học của học sinh trong môn Làm văn nghị luận văn học
    1. Ưu điểm
    – HS nghe, ghi chép, nhớ, hiểu kiến thức, đặc biệt với HS ban A thường có
    tâm lí “ỷ nại” kiến thức thầy/ cô đã cung cấp, ngại đọc tài liệu tham khảo;
    đảm bảo độ an toàn kiến thức phục vụ thi cử.
    – Theo đó, bộ môn khoa học nghệ thuật này ít/ không làm khó/ mệt HS, đặc
    biệt với HS thiếu tố chất văn chương.
    2. Nhược điểm
    – HS thụ động; thui chột/ làm mất khả năng sáng tạo; yếu các kĩ năng mềm:
    tranh biện, gieo và giải quyết vấn đề, hợp tác, … ; không hình thành thói
    quen tự học.
    – Thiếu sự hứng thú và đam mê với việc học: HS không có hứng thú, niềm
    đam mê với tiết học Làm văn NLVH, dẫn đến việc học tập không hiệu quả.
    – Thiếu đi những kỉ niệm học trò trong/qua giờ học.
    Khi được hỏi về mức độ tích cực tham gia học tập của lớp 12A6 trường THPT
    Nguyễn Khuyến, lớp 12G trường THPT Trần Văn Bảo, lớp 12A3 trường THPT
    Lương Thế Vinh (đều thuộc tỉnh Nam Định); lớp 12C1 Trường PTDT Nội Trú
    Mường Nhé (Điện Biên) trong giờ Phụ đạo chiều, chúng tôi thu được kết quả sau:
    5 0
    10
    15
    20
    25
    30
    35
    40
    45
    Hỏi – Đáp Sơ đồ tư
    duy
    Thuyết trình
    có minh họa
    Hội thảo Tình huống Đóng vai Làm việc
    nhóm
    KHẢO SÁT CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
    7
    PHIẾU ĐIỀU TRA CÁ NHÂN (Dành cho học sinh)
    Thái độ đón nhận của anh/chị với PPDH giải quyết vấn đề?

    LớpSố HS
    Tỉ lệ %
    Mức độ (Lần I)
    Hào hứng
    tiếp nhận
    PP mới
    Bình
    thường,
    bản thân
    không có ý
    kiến gì
    Thờ ơ
    nhưng không
    làmảnh
    hưởng đến
    lớp học
    Làm việc
    riêng
    12C1 – PTDT Nội
    Trú – THPT
    Mường Nhé, Điện
    Biên
    37161253
    100%43%35%14%8%
    12A6 – THPT
    Nguyễn Khuyến
    50271222
    100%63%28%4%5%
    12G – THPT Trần
    Văn Bảo
    46221842
    100%48%39%9%4%
    12A3 – THPT
    Lương Thế Vinh
    45211923
    100%47%42%4%7%

    8
    43%
    35%
    14%
    8%
    PHIẾU KHẢO SÁT
    PTDT NỘI TRÚ MƯỜNG NHÉ – LẦN I
    Hào hứng Bình thường Thờ ơ Làm việc riêng
    63%
    28%
    4% 5%
    PHIẾU KHẢO SÁT
    THPT NGUYỄN KHUYẾN – lần I
    Hào hứng Bình thường Thờ ơ Làm việc riêng
    9
    47%
    42%
    4%
    7%
    PHIẾU KHẢO SÁT
    THPT LƯƠNG THẾ VINH – LẦN I
    Hào hứng Bình thường Thờ ơ Làm việc riêng
    10
    III. Thực trạng khác
    – Bối cảnh của đời sống kinh tế xã hội thời kinh tế thị trường đã tác động
    mạnh mẽ đến quan niệm, nhận thức, thái độ và hành động của phụ huynh HS nói
    riêng và nhân dân nói chung. Cách nhìn về giáo dục, về phân môn Làm văn cũng
    như môn Ngữ văn có phần thực tế đến thực dụng. Họ chưa quan tâm nhiều đến
    chức năng mang tính nhân văn của việc học tập môn học này trong khi rất nặng nề
    về điểm số. Cùng với đó tâm lí phụ huynh HS, dư luận xã hội dành cho bộ môn
    cũng không mấy thiện cảm: giờ học làm văn đọc chép, mệt mỏi, buồn ngủ, ngủ gật,
    nghe ù tai, chép nhừ tay, không đi học cũng không lo/ không mất gì cả, vẫn mượn
    vở bạn chép được đủ kiến thức, không phải động não tư duy …
    IV. Sự cần thiết đề xuất giải pháp mới trước thực trạng dạy và học môn Làm
    văn nghị luận văn học hiện nay
    Xuất phát từ những thực trạng trên, để giúp GV và HS khắc phục được những
    hạn chế trong quá trình dạy – học Làm văn NLVH, tôi xin đề xuất giải pháp được
    trình bày cụ thể trong các phần sau đây.
    B. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    I. Một số vấn đề lí luận
    1. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    1.1. Khái niệm về năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    1.1.1. Khái niệm về năng lực
    Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Năng lực là đặc điểm của cá nhân, thể
    hiện mức độ thông thạo – tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn
    một hay một số dạng hoạt động nào đó”.
    Theo Từ điển Tiếng Việt: “Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho
    con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.
    Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: Năng lực là tổ hợp các thuộc
    tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định,
    đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết quả
    của hoạt động. Năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết quả nhưng đồng
    thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy
    11
    Như vậy các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá
    nhân nơi đóng vai trò quan trọng. Năng lực của con người không phải hoàn toàn do
    tự nhiên mà có, phần lớn do công tác, do tập luyện mà có.
    1.1.2. Khái niệm về năng lực giải quyết vấn đề
    Năng lực GQVĐ có thể được hiểu là khả năng của con người phát hiện ra
    vấn đề cần giải quyết và biết vận dụng những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của
    bản thân, sẵn sàng hành động để giải quyết tốt vấn đề đặt ra. Năng lực GQVĐ là tổ
    hợp các năng lực thể hiện ở các kĩ năng (thao tác tư duy và hoạt động) trong hoạt
    động nhằm giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ của vấn đề. Có thể nói năng lực
    GQVĐ có cấu trúc chung là sự tổng hòa của các năng lực trên.
    1.1.3. Khái niệm về năng lực sáng tạo
    Các nhà nghiên cứu tâm lí học đã đưa ra định nghĩa về “năng lực sáng tạo”:
    “là khả năng tạo cái mới hoặc giải quyết vấn đề một cách mới mẻ của con người”,
    “là khả năng tạo ra cái mới có giá trị của cá nhân dựa trên tổ hợp các phẩm chất
    độc đáo của cá nhân đó”.
    12
    1.2. Biểu hiện của năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    Năng lực GQVĐ và ST bao gồm năm năng lực thành phần với các biểu hiện
    của năng lực GQVĐ và ST.
    BẢNG MÔ TẢ CẤU TRÚC NĂNG LỰC GQVĐ VÀ ST

    NL thành phầnBiểu hiện của năng lực
    Phát hiện và làm rõ
    vấn đề
    Phân tích được tình huống trong học tập, trong cuộc sống;
    phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập,
    trong cuộc sống.
    Đề xuất, lựa chọn
    giải pháp
    Thu thập và làm rõ các thông tin có liên quan đến vấn đề;
    đề xuất và phân tích được một số giải pháp giải quyết vấn
    đề; lựa chọn được giải pháp phù hợp nhất.
    Thực hiện và đánh
    giá giải pháp giải
    quyết vấn đề
    Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; suy
    ngẫm về cách thức và tiến trình giải quyết vấn đề để điều
    chỉnh và vận dụng trong bối cảnh mới.
    Nhận ra ý tưởng mớiXác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ
    các nguồn thông tin khác nhau; phân tích các nguồn thông
    tin độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý
    tưởng mới
    Hình thành và triển
    khai ý tưởng mới
    Nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và cuộc sống;
    suy nghĩ không theo lối mòn; tạo ra yếu tố mới dựa trên
    những ý tưởng khác nhau; hình thành và kết nối các ý
    tưởng; nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi
    của bối cảnh; đánh giá rủi ro và có dự phòng.

    Đánh giá theo năng lực là đánh giá năng lực người học được hiểu là đánh giá
    khả năng áp dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề trong
    cuộc sống thực tiễn.
    13
    Đánh giá năng lực GQVĐ của người học không lấy việc kiểm tra khả năng tái
    hiện kiến thức đã học làm trọng tâm mà chú trọng đến khả năng vận dụng sáng tạo
    tri thức trong những tình huống sáng tạo khác nhau.
    Đánh giá năng lực thông qua các sản phẩm học tập và quá trình học tập của
    người học, đánh giá năng lực người học được thực hiện bằng một số phương pháp
    (công cụ) sau: Đánh giá qua quan sát, đánh giá qua hồ sơ học tập, tự đánh giá,
    đánh giá qua bài kiểm tra, đánh giá đồng đẳng.
    1.3. Để đạt mục tiêu phát triển năng lực thông qua cái “Có” GV cần làm gì?
    – Tìm hiểu bản chất năng lực, kĩ năng đó là gì?
    – Mức độ đạt được của năng lực?
    – Xây dựng bộ công cụ để phát triển năng lực
    – Xác định nội dung hoạt động của HS: yêu cầu/nhiệm vụ cụ thể mà HS phải
    thực hiện, trả lời các câu hỏi: HS làm gì? Cùng với ai? Với học liệu gì để
    nhằm mục đích gì? Cốt lõi: Tạo được tình huống có vấn đề cho HS.
    – Sản phẩm chính là câu trả lời tương ứng với nội dung; là căn cứ để GV định
    hướng cho HS thực hiện nhiệm vụ, định hướng thảo luận và đánh giá kết quả
    thực hiện nhiệm vụ của HS. Đó cũng là vấn đề để GV kết luận, chốt kiến
    thức/kĩ năng cho HS ghi vào vở sau hoạt động học tập.
    Như vậy từ mục tiêu  Lên ý tưởng dạy học  Xây dựng công cụ rèn luyện
    và phát triển năng lực (là các nhiệm vụ học tập mà GV giao cho HS thực hiện câu
    hỏi/bài tập)  Lựa chọn giải pháp thực hiện (PPDH/KTDH)  Chuyển giao
    nhiệm vụ cho HS hoạt động. Và thực hiện đổi mới tiếp cận phát triển năng lực
    chính là việc GV lựa chọn đúng/thực hiện hợp lí để đạt mục tiêu, kết quả (HS tích
    cực, hứng thú, thực hiện hiệu quả,…)
    1.4. Các bước tổ chức dạy học giải quyết vấn đề
    Quy trình thực hiện dạy học giải quyết vấn đề gồm các bước sau đây:
    Bước 1. Đặt vấn đề
    14
    • Tạo tình huống có vấn đề
    • Phát hiện và nhận dạng vấn đề
    • Phát biểu vấn đề cần giải quyết
    Bước 2: Thực hiện giải pháp giải quyết vấn đề
    • Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề
    • Lập kế hoạch giải quyết vấn đề
    • Thực hiện kế hoạch
    Bước 3. Trình bày giải pháp – báo cáo kết quả
    • Thảo luận kết quả và đánh giá
    • Phát biểu kết luận
    Để rèn luyện NL GQVĐ cho HS, chúng ta cần chú ý tới hai yếu tố của năng
    lực này là: phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.
    Giải quyết vấn đề yêu cầu HS cần có sự phân tích vấn đề, tìm điểm mẫu thuẫn
    chính, xây dựng các hướng GQVĐ, thử GQVĐ theo các hướng khác nhau, so sánh
    các hướng giải quyết và tìm ra hướng giải quyết hiệu quả nhất.
    Chú ý: Trong dạy học giải quyết vấn đề sử dụng kĩ thuật dạy học giải quyết vấn đề
    (Xem ở Phụ lục 3: Một số kỹ thuật dạy học để phát triển năng lực giải quyết vấn đề
    và sáng tạo)
    2. Các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm kí trong chương trình Ngữ văn
    THPT
    2.1. Khái lược về thể kí
    2.1.1. Khái niệm, đặc trưng và các loại hình tượng kí
    – Khái niệm:
    Kí là một thể loại văn xuôi, ghi chép sự việc câu chuyện có thật và ghi lại
    cảm xúc chân thực của người viết trước các sự việc đó, ra đời vào khoảng thế kỉ
    XVIII.
    Kí là một trong bốn loại hình văn học (tự sự, trữ tình, kịch và kí), thuộc thể
    văn xuôi, có tác phẩm kí trữ tình, có tác phẩm kí tự sự, có tác phẩm vừa trữ tình
    vừa tự sự.
    15
    Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm
    nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật
    kí, tùy bút,…
    – Đặc trưng của kí:
    + Tính xác thực, tôn trọng sự thật khách quan.
    + Bộc lộ cái “tôi” của tác giả.
    Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Na có lí khi cho rằng: “Kí chỉ thực
    sự ra đời khi người cầm bút trực diện trình bày đối tượng được phản ánh bằng cảm
    quan của chính mình”.
    – Các loại hình tượng kí:

    Các loại hình tượngTính chấtVí dụ
    Đối tượng phản ánh trong tác
    phẩm: thiên nhiên, quang
    cảnh, con người, …
    Chân xác, khách
    quan
    Bức tranh phủ chúa, Sông
    Đà, sông Hương, người lái
    đò …
    Con người nhà văn
    (cái “tôi”, tâm hồn, phong
    cách, …)
    Trực tiếp, chân
    thực, rõ nét
    Chân dung tinh thần Lê Hữu
    Trác, cái “tôi” của Nguyễn
    Tuân, cái “tôi” của Hoàng
    Phủ Ngọc Tường

    2.1.2. Phân biệt tùy bút và bút kí

    TÙY BÚTBÚT KÍ
    – Đều thuộc thể loại kí, viết về người thực, việc thực, những điều mắt thấy tai
    nghe của nhà văn từ các chuyến đi cùng với cảm nghĩ của mình  tạo được sự
    hấp dẫn qua tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, diễn đạt của tác giả đối với
    vấn đề được đề cập tới.
    – Không có ranh giới rạch ròi giữa các loại kí (bút kí, kí sự, tùy bút) mà biến hóa
    tùy theo ý định sáng tác và đặc điểm, bút pháp của nhà văn.
    – Thiên về bộc lộ cảm xúc, suy tư và
    nhận thức, đánh giá của tác giả về con
    người và cuộc sống.
    – Thiên về ghi lại những con người
    thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu,
    nghiên cứu.
    – Thường được xem là thể trung gian
    giữa kí sự và tùy bút.

    16
    2.1.3. Hình tượng nghệ thuật trong kí
    Văn học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật
    Văn thơ hàm chứa tư tưởng tình cảm. Nhưng văn chương không nói ý một
    cách khô khan. Văn chương đích thực là hoa quí nên mới có hương sắc. Văn
    chương thấm vào lòng người, bất tử với thời gian, không có biên giới bởi lẽ văn
    học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật.
    Hình tượng nghệ thuật do nhiều yếu tố, chi tiết nghệ thuật hợp thành.
    Đọc tác phẩm văn học phải phát hiện ra và cảm nhận các chi tiết nghệ thuật, có thế
    mới khám phá được cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật.
    Trong thơ văn, hình tượng nghệ thuật có thể là một bông hoa, một vầng
    trăng, một nàng Kiều, một Từ Hải – cũng có thể là một nét của tâm trạng, tình cảm
    như “Tương tư” của Nguyễn Bính, v.v…
    Vậy, hình tượng là bức vẽ về con người, về cuộc đời, về thiên nhiên cụ thể
    được nhà văn sáng tạo nên qua liên tưởng, tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình
    cảm và khái quát hiện thực một cách thẩm mĩ. Có cảm nhận được hình tượng mới
    thấy được cái hay, cái ý vị của văn chương.
    2.1.4. Một số lưu ý khi làm bài nghị luận văn học về tác phẩm kí
    Kí sự, tùy bút và bút kí đều có sự giao thoa giữa tự sự và trữ tình, do vậy khi
    tiếp cận và cảm nhận cần làm rõ:
    – Hiện thực được ghi chép (nội dung, đối tượng tác phẩm tùy bút, bút kí hướng tới)
    – Cái “tôi” trữ tình/tâm hồn của tác giả trong tác phẩm
    – Phong cách nghệ thuật của tác giả.
    2.2. Các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm kí
    Viết bài nghị luận văn học nói chung, bài nghị luận văn học về kí nói riêng
    là phần quan trọng nhất của nội dung đề thi, vì riêng dạng câu hỏi này đã chiếm
    một nửa tổng số điểm (5 trên 10 điểm của toàn bài) và vì đây là câu có dung lượng
    lớn nhất trong đề để thí sinh bộc lộ khả năng viết một bài văn nghị luận văn học
    của mình. Với câu hỏi này, HS cần lường trước những khả năng trong tình huống
    ra đề, các dạng đề trong phần tác phẩm/đoạn trích, cách nhận biết yêu cầu cụ thể
    của đề, hướng giải quyết, …
    17
    II. Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh thông qua
    qua các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm/đoạn trích kí trong chương
    trình Ngữ văn THPT
    1. Xây dựng kế hoạch bài dạy về các dạng bài nghị luận văn học về tác
    phẩm/đoạn trích kí trong chương trình Ngữ văn THPT theo hướng dạy học
    giải quyết vấn đề
    Tên bài dạy: Các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm/đoạn trích kí
    trong chương trình Ngữ văn THPT
    Kế hoạch bài dạy:
    MỤC TIÊU
    Kiến thức
    • Hệ thống hóa kiến thức về 03đoạn trích kí trong chương trình Ngữ văn 11,12
    • Các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm/đoạn trích kí
    Kỹ năng: Rèn kĩ năng làm các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm/đoạn
    trích kí
    Thái độ
    • Nhận thức được tầm quan trọng của việc nắm chắc “chìa khóa” về các dạng
    bài làm văn nghị luận văn học về tác phẩm/đoạn trích kí
    • Hình thành phẩm chất, lối sống trách nhiệm, nhân ái.
    Năng lực hướng đến: Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực vận
    dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, năng lực tự học.
    PHƯƠNG PHÁP, HÌNH THỨC VÀ KỸ THUẬT DẠY HỌC
    – PP dạy học giải quyết vấn đề, đàm thoại gợi mở/đàm thoại tìm tòi
    – Dạy học theo tình huống
    – Hình thức hoạt động nhóm.
    – Kỹ thuật chia nhóm, dạy học mảnh ghép, khăn trải bàn, phân tích phim
    video, trạm, phòng tranh, giao nhiệm vụ, “trình bày 1 phút”, sơ đồ tư duy/
    mindmap, “tia chớp”, động não,…
    18
    CHUẨN BỊ
    – Giáo viên: Tranh ảnh, video về tác giả, tác phẩm (hình tượng sông Đà, sông
    Hương), tình huống/bài tập thực tiễn
    – Học sinh: Bảng hệ thống hóa kiến thức về 03 đoạn trích được học trong
    chương trình
    TIẾN TRÌNH HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
    Chia nhóm và giao nhiệm vụ tìm hiểu kiến thức, vận dụng kiến thức phân hóa
    theo phong cách học tập.

    Hoạt động
    (thời gian)
    Nội dung/mục tiêuPP/KT dạy
    học
    HĐ khởi động– Tạo tình huống có vấn đề: Thông qua trò
    chơi, xem clip, kể chuyện, đóng vai…Tạo
    không khí học tập sôi nổi, sự tích cực của
    các thành viên.
    – Phát hiện vấn đề: Mỗi đoạn trích kí có
    rất nhiều dạng đề hỏi, nhiều cách hỏi cho
    cùng một dạng đề và có thể còn có những
    dạng đề xâu chuỗi các đoạn trích. Do vậy
    trước khi làm bài, HS phải dành thời gian
    phân tích, suy xét thật rõ ràng yêu cầu cụ
    thể của đề ra là gì? Đề ra yêu cầu phân
    tích, bình giảng, bình luận, chứng minh
    hay giải thích? Nội dung vấn đề ra sao?
    Phạm vi dẫn chứng cụ thể như thế nào?
    – Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề: Hệ
    thống thành các dạng đề NLVH về tác
    phẩm/đoạn trích kí.
    – Trực quan
    – Hỏi đáp
    – Phân tích
    phim viedo
    – Sử dụng
    CNTT
    Hoạt động hình
    thành kiến thức
    – Khái quát được những kiến thức cơ bản
    về 3 đoạn trích
    – PPDH
    GQVĐ, đàm

    19

    – Lập bảng hệ thống
    hóa kiến thức
    – Dạng đề: Nghị luận
    về một tác
    phẩm/đoạn trích kí
    – Dạng đề: Nghị
    luận về hình tượng
    nghệ thuật trong tác
    phẩm/đoạn trích kí
    – Dựa vào hình ảnh, sơ đồ, kiến thức được
    học và tự học phân biệt được các dạng bài
    và khái quát thành phương pháp làm các
    dạng bài NLVH về tác phẩm/đoạn trích
    kí.
    – Biết cách làm đề cụ thể: dàn ý, viết bài
    thoại gợi mở/
    đàm thoại tìm
    tòi
    – Kỹ thuật
    phòng tranh,
    trạm, chia
    nhóm, động
    não, mindmap
    HĐ củng cố luyện
    tập
    – Triển khai viết các đoạn cụ thể về mở
    bài, thân bài (giới thiệu chung, triển khai
    vấn đề trọng tâm, đánh giá), kết bài
    – Tham khảo các bài văn mẫu của chính
    HS
    – Sử dụng bài
    tập tình huống
    – Hỏi đáp
    HĐ vận dụng– Đề xuất các đề tương tự hoặc các cách
    hỏi khác nhau xoay quanh cùng một vấn
    đề
    – Sáng tác thơ, bài hát, vẽ tranh, lập trang
    web về tác giả, tác phẩm/đoạn trích kí;
    hoặc đặt ra các vấn đề nghị luận xã hội
    khác về tác phẩ/đoạn trích kí
    – HĐ nhóm
    theo phong
    cách học tập.
    – Thực hành
    – Kĩ thuật
    “trình bày
    một phút”,
    “tia chớp”

    2. Một số biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học
    sinh thông qua các dạng bài nghị luận văn học về tác phẩm/đoạn trích kí
    trong chương trình Ngữ văn THPT
    2.1. Sử dụng bài tập tình huống để phát huy năng lực giải quyết vấn đề cho học
    sinh
    a. Tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có mâu thuẫn, có vấn đề cần được giải
    quyết.
    20
    b. Tình huống “có vấn đề”: là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi ta chưa biết
    cách giải thích hiện tượng, sự việc hay một quá trình nào đó của thực tế.
    c. Tình huống dạy học: mô tả những sự kiện, hoàn cảnh có thực hoặc hư cấu nhằm đạt
    những mục tiêu, mục đích dạy học.
    d. Dạy học qua (bằng) nghiên cứu tình huống: dạy học dựa trên tình huống có thật hoặc
    giống như thật, đòi hỏi người học phải tìm hiểu, suy nghĩ, đề ra được quyết định thích
    hợp nhất.
    e. Nghiên cứu tình huống còn gọi là nghiên cứu trường hợp điển hình (case study)
    là một trong những phương pháp dạy học chủ động, được sử dụng ngày càng phổ
    biến, nhằm khắc phục tình trạng thực tế là trong quá trình học tập, người học
    không được tự ra các quyết định; nên khi ra thực tiễn sẽ lúng túng, thiếu suy nghĩ,
    cân nhắc, không đề ra được quyết định hợp lý khi thực hiện nhiệm vụ theo chức
    trách đảm nhiệm.
    Các vấn đề/ tình huống đưa ra để HS xử lí, giải quyết cần thoả mãn các yêu cầu
    sau:
    + Phù hợp với chủ đề bài học
    + Phù hợp với trình độ nhận thức của HS
    + Vấn đề/ tình huống phải gần gũi với cuộc sống thực của HS
    + Vấn đề/ tình huống có thể diễn tả bằng kênh chữ hoặc kênh hình, hoặc kết hợp
    cả hai kênh chữ và kênh hình hay qua tiểu phẩm đóng vai của HS
    + Vấn đề/ tình huống cần có độ dài vừa phải
    + Vấn đề/ tình huống phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết, gợi ra cho
    HS nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách giải quyết vấn đề.
    Tổ chức cho HS giải quyết, xử lí vấn đề/ tình huống cần chú ý: Các nhóm HS có
    thể giải quyết cùng một vấn đề/ tình huống hoặc các vấn đề/ tình huống khác nhau, tuỳ
    theo mục đích của hoạt động.
    + HS cần xác định rõ vấn đề trước khi đi vào giải quyết vấn đề.
    + Cần sử dụng phương pháp động não để HS liệt kê các cách giải quyết có thể có.
    + Cách giải quyết tối ưu đối với mỗi HS có thể giống hoặc khác nhau.
    Bài tập 1: Tình huống khởi động
    21
    Bước 1. Cho học sinh xem clip về sông Đà dùng để dạy bài “Người lái đò
    sông Đà” – Ngữ văn 12 trên kênh YouTube
    https://www.youtube.com/watch?v=jCNx30_nepI
    Bước 2. GV Đặt câu hỏi (=> làm sáng tỏ vấn đề)
    – Đoạn clip nói về vấn đề gì? Viết tóm tắt những ý cơ bản về nội dung clip đã xem.
    – Nếu không có những “tờ hoa” trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì clip kia ở mức
    độ tiếp nhận và thưởng thức nào? (Đó là những thước phim cung cấp tư liệu quí về lịch sử,
    địa lí, văn hóa vùng miền. Nhưng dưới bàn tay tài hoa của Nguyễn, con sông Đà đã đi từ
    quĩ đạo cuộc sống vào quĩ đạo bất tử của văn chương nghệ thuật và trở thành một hình
    tượng nghệ thuật độc đáo.)
    – Có những dạng đề NLVH nào để khám phá cái hay, cái đẹp từ đoạn trích kí “Người lái
    đò sông Đà”?
    Bước 3. Đề xuất các ý tưởng, giả thuyết (phân chia lớp học thành các nhóm, cử
    nhóm trưởng => HS thảo luận nhóm để đưa ra các ý tưởng và giả thuyết về vấn đề)
    – Tìm hiểu chuyên sâu về con người Lê Hữu Trác, cái tôi Nguyễn Tuân, Hoàng
    Phủ Ngọc tường; bức tranh phủ chúa, hình ảnh thế tử Cán, sông Đà, sông Hương
    qua 03 đoạn trích kí “Vào phủ chúa Trịnh”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”,
    “Người lái đò sông Đà” .
    – Tìm hiểu kĩ đặc trưng thể loại kí.
    – Tìm những nhận định về 03 tác giả, đoạn trích kí.
    – Khái quát, xây dựng thành hệ thống các dạng bài NLVH về 3 đoạn trích kí.
    Bước 4: Xác định các kiến thức cần cho việc giải quyết vấn đề (liệt kê các
    nội dung kiến thức cần có để kiểm chứng)
    – Bảng hệ thống hóa kiến thức về từng đoạn trích kí.
    – Các dạng bài NLVH về 03 đoạn trích kí.
    Bước 5: Liệt kê những kiến thức chưa biết (GV xem xét danh mục các nội
    dung kiến thức cần có để giải quyết vấn đề, đề xuất các kiến thức mới cần nghiên
    cứu)
    – Nhận diện yêu cầu đề ra.
    22
    – Phân biệt và biết cách khai triển đảm bảo yêu cầu của dạng đề cơ bản, dạng đề
    nâng cao.
    – Luyện tập nâng cao khả năng hành văn cho trình bày đoạn với kiến thức cơ bản
    và nâng cao.
    Bài tập 2:
    …Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân
    tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
    cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay
    trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông
    Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh cánh
    hến của nước Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
    một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
    bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân
    Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng cái tên Tây láo lếu, rồi
    cứ như thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
    Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có
    lần tôi nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân. Chuyến ấy ở từng đi núi cũng đã hơi
    lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp
    đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, thấy trước mắt loang loáng như trẻ con
    nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn thấy cái miếng sáng lóe
    lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ
    Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm Sông Đà. Chao ôi, trông con
    sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
    quãng. Đi dừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như
    gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
    dịu dàng đấy, rồi chốc lại bắn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy…
    (Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân
    – SGK Ngữ Văn 12, Tập 1, NXBGD, 2016, tr.191)
    + Phân tích/ cảm nhận vẻ đẹp đoạn trích trên.
    23
    + Phân tích/ cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ
    đó, nhận xét về cái tôi tài hoa, độc đáo Nguyễn Tuân.
    + Phân tích/ cảm nhận của anh/chị về hình tượng dòng sông Đà trong đoạn trích
    trên. Từ đó, chỉ ra nét riêng của Nguyễn Tuân trong cách miêu tả thiên nhiên.
    Các bài tập nêu và giải quyết vấn đề được thiết kế tùy theo năng lực HS, tùy
    theo thời lượng dạy học… GV dần đưa từng mức, đối với HS đại trà GV nêu vấn
    đề HS phát hiện và giải quyết tăng dần mức độ và với đối tượng HSG, HS nghiên
    cứu khoa học thì các bài tập được thiết kế định hướng sao cho HS tự phát hiện và
    cùng GV GQVĐ.
    2.2. Tăng cường sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở/đàm thoại tìm tòi
    trong dạy học phân hóa và sử dụng phối kết hợp hiệu quả kĩ thuật dạy học tích
    cực trong khái quát kiến thức, định hướng các dạng đề và hướng dẫn HS ôn tập
    theo các dạng đề nghị luận về tác phẩm/đoạn trích kí
    2.1.1 Phương pháp đàm thoại (vấn đáp): là phương pháp GV khéo léo đặt hệ
    thống câu hỏi để HS trả lời nhằm gợi mở, động não cho HS sáng tỏ những vấn đề
    mới; tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ
    những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở
    rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa tri thức đã tiếp thu được nhằm mục đích kiểm
    tra, đánh giá và giúp HS tự kiểm tra, tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ
    xảo trong quá trình dạy học.
    – Đàm thoại tìm tòi – phát hiện (đàm thoại ơrixtic)
    Bằng cách sử dụng phương pháp này, GV tổ chức cuộc trao đổi ý kiến, kể cả
    tranh luận giữa GV và cả lớp, có khi giữa GV với HS, thông qua đó HS nắm được
    tri thức mới. Hệ thống câu hỏi của GV phải mang tính chất nêu vấn đề ơrixtic để
    buộc HS luôn luôn phải cố gắng phát huy trí tuệ, tự lực tìm lời giải đáp. Hệ thống
    câu hỏi – lời giải đáp mang tính chất nêu vấn đề, tạo nên nội dung trí dục chủ yếu
    của bài học, là nguồn kiến thức và là mẫu mực của cách giải quyết một vấn đề
    nhận thức. Như vậy, thông qua phương pháp này, HS không những nắm vững
    được cả nội dung trí dục mà còn học được cả phương pháp nhận thức và cách diễn
    đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ nói.
    24
    Trong phương pháp này hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ đạo chỉ có
    tính chất quyết định đối với chất lượng lĩnh hội của cả lớp. Hệ thống câu hỏi của
    GV vừa là kim chỉ nam, vừa là bánh lái hướng tư duy của HS đi theo một logic
    hợp lí, nó kích thích tính tìm tòi, trí tò mò khoa học và sự ham muốn giải đáp của
    HS.
    Vì thế khi kết thúc đàm thoại, HS có vẻ như tự lực tìm ra đích đến và chính
    khía cạnh này đã tạo ra cho người học niềm vui sướng của nhận thức, một tình cảm
    rất tốt đẹp cần phát triển ở HS. Đến cuối của quá trình đàm thoại, GV cần khéo léo
    kết luận vấn đề dựa vào ngôn ngữ, ý kiến và chính nhận xét của HS, tất nhiên có
    thêm bớt những ý kiến chính xác và cấu tạo lại kết luận cho chặt chẽ xúc tích và
    hợp lí. Làm như vậy, HS càng hứng thú và tự tin vì thấy kết luận của GV vừa nêu
    rõ ràng có sự đóng góp quan trọng của chính mình.
    Trong đích hướng tới của dạy học phân hóa, dạy học phát triển NL GQVĐ
    và sáng tạo, GV linh hoạt sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi đóng ở phần nội dung kiến
    thức cơ bản; Phần nhiều sẽ vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi mở ở mức độ ứng dụng,
    phân tích, đánh giá và sáng tạo: giải thích, tại sao, làm như thế nào… Các câu hỏi
    kích não sẽ được GV sử dụng trong vấn đáp và trong hệ thống phiếu học tập cho
    HS.
    Làm thế nào để hệ thống kiến thức về tác giả, đoạn trích kí?
    Tại sao cần lập bảng hệ thống hóa kiến thức?
    Việc xác lập bảng hệ thống hóa kiến thức về đoạn trích có ý nghĩa gì?
    Em thích đoạn trích nào nhất trong 3 đoạn trích kí trung đại và hiện đại
    được học? Hãy thể hiện sự yêu thích và hiểu biết của em qua bảng hệ thống hóa về
    đoạn trích em chọn?
    Từ văn bản em thích, hãy thiết kế đề và tập hợp thành các dạng đề về đoạn
    trích kí?
    GV tổ chức cho HS tự chọn tác phẩm để giải quyết nhiệm vụ học tập. Qua
    những văn bản ngữ liệu tự chọn kích thích hứng thú, HS có được những trải
    nghiệm thú vị trong đọc, viết, nói, nghe và rút ra được những bài học cụ thể, sâu
    sắc; có khả năng phản hồi một cách tích cực và hiệu quả những nội dung đã đọc,
    25
    khả năng làm chủ tình cảm, hành vi cũng như khả năng ứng xử phù hợp trước các
    tình huống phức tạp trong đời sống. Cũng qua việc tìm hiểu, lựa chọn và đọc hiểu
    các kiểu loại văn bản căn cứ sở thích và tầm tiếp nhận của HS, HS có được hiểu
    biết cơ bản về sự đa dạng văn hoá, có khả năng tìm tòi khám phá, để củng cố, mở
    rộng vốn sống và tri thức văn hoá; biết tôn trọng sự khác biệt giữa các nền văn hoá,
    giữa mọi người. Việc tự chọn văn bản còn góp phần rèn luyện cho HS có khả năng
    suy nghĩ độc lập, sáng tạo; khả năng tìm kiếm, lựa chọn cách giải quyết vấn đề, đề
    xuất giải pháp; biết cách đọc và xử lí thông tin với các văn bản đa dạng và phức
    tạp. Qua hoạt động này, HS biết liên hệ, mở rộng, so sánh văn bản này với văn bản
    khác, văn bản với bối cảnh và với những trải nghiệm cá nhân; từ đó có cách nhìn,
    cách nghĩ, cách bình luận, đánh giá theo một cảm quan riêng; thấy vai trò và tác
    dụng của khai thác văn bản đối với bản thân.
    ▪ Bảng hệ thống hóa kiến thức ba đoạn trích kí
    trong chương trình Ngữ văn 11,12
    Vào phủ chú Trịnh – Lê Hữu Trác

    Hình tượngBức tranh phủ ChúaCon người Lê Hữu Trác
    Đặc điểm– Hiện thực của cuộc sống xa
    hoa nhưng ngột ngạt, thiếu
    sinh khí trong phủ chúa Trịnh:
    + Quang cảnh
    + Cung cách sinh hoạt trong
    phủ chúa Trịnh
    – Một thầy thuốc giỏi, bản lĩnh,
    giàu kinh nghiệm, y đức cao; một
    trong những tác giả văn học có
    những đóng góp lớn cho sự ra đời
    và phát triển của thể loại kí sự.
    – Xem thường danh lợi, quyền quý,
    yêu tự do và nếp sống thanh đạm.
    Nghệ thuật
    xây dựng
    hình tượng
    Bút pháp nghệ thuật viết kí sự/
    bút pháp kí sự độc đáo vừa
    chân xác, vừa lôi cuốn, hấp
    dẫn của nhà văn:
    – Bút pháp tả cảnh sinh động
    qua quan sát tỉ mỉ, tinh tế và
    sắc sảo.
    Nghệ thuật xây dựng hình tượng
    độc đáo thể hiện qua việc lựa chọn
    đối tượng, cách cảm, cách nghĩ,
    cách thể hiện

    26

    – Cách kể diễn biến sự việc
    chân xác, có duyên, đặc biệt là
    những chi tiết nhỏ có tính chất
    tạo nên cái thần của cảnh và
    việc.
    – Kết hợp tự sự, miêu tả và
    biểu cảm tạo sức hút, tăng giá
    trị hiện thực, gây ấn tượng sâu
    sắc về cảnh và người nơi phủ
    chúa.
    – Giọng điệu đa dạng: vừa
    chân thực, mộc mạc lại vừa
    hóm hỉnh, châm biếm, phê
    phán một cách nhẹ nhàng, kín
    đáo.
    Ý nghĩa– Hiện thực xã hội Việt Nam
    thế kỉ XVIII (Giá trị hiện
    thực).
    – Thái độ của tác giả trước
    cung cảnh và cách sinh hoạt
    nơi phủ chúa (Giá trị nhân
    đạo)
    – Tài năng, nhân cách của Lê
    Hữu Trác
    Nhãn quan kí sự sâu sắc, tài năng,
    nhân cách lớn của Hải Thượng Lãn
    Ông Lê Hữu Trác

    Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân

    Hình tượngSông ĐàNgười lái đòCái “tôi” Nguyễn Tuân
    Đặc điểm– Hung bạo
    – Trữ tình
    – Trí dũng
    – Tài hoa
    – Lặng thầm
    cống hiến
    – Tài hoa:
    + Luôn khám phá sự vật dưới
    góc độ cái đẹp; cảm nhận con
    người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
    + Thích cảm giác mạnh, thích

    27

    cái đẹp biệt lệ, phi thường,…
    + Ngôn ngữ tài hoa, độc
    đáo,…
    + Bút pháp liên tưởng, tưởng
    tượng phong phú, sáng tạo.
    – Uyên bác:
    + Am hiểu sâu sắc đối tượng
    mình miêu tả.
    + Huy động kiến thức nhiều
    ngành khoa học tự nhiên, xã
    hội, văn hóa – thể thao, quân
    sự, điện ảnh,… để khám phá
    đối tượng.
    – Cái tôi ngông, giàu cá tính,
    giàu trải nghiệm và đầy trách
    nhiệm với đất nước.
    Nghệ thuật
    xây dựng
    hình tượng
    – Đặt dưới nhiều
    góc nhìn, thời
    điểm, không
    gian
    – Kiến thức đa
    ngành
    – Ngôn ngữ sáng
    tạo
    – Câu văn linh
    hoạt
    – Tạo hoàn cảnh
    đặc biệt
    – Cách miêu tả
    linh hoạt
    – Ngôn ngữ sống
    động, giàu chất
    tạo hình
    Qua việc lựa chọn đối tượng,
    cách cảm, cách nghĩ, cách thể
    hiện
    Ý nghĩa– Làm nổi bật vẻ
    đẹp của người
    lái đò
    – Thể hiện
    phong cách nghệ
    thuật của
    – Ca ngợi vẻ đẹp
    con người Tây
    Bắc
    – Thể hiện
    phong cách nghệ
    thuật của
    Tạo sự độc đáo và sức hấp dẫn
    cho kí

    28

    Nguyễn Tuân
    sau cách mạng
    Nguyễn Tuân
    sau cách mạng

    Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường

    Hình tượngSông HươngCái “tôi” Hoàng Phủ Ngọc Tường
    Đặc điểm– Dòng chảy đa dạng
    – Sức sống mãnh liệt
    – Nữ tính
    – Tài hoa
    + Khám phá sự vật, con người dưới
    lăng kính của tình yêu của vẻ đẹp
    thiên tính nữ…
    + Ngôn ngữ giàu chất thơ, hành văn
    hướng nội, tinh tế.
    + Liên tưởng, tưởng tượng độc đáo,
    tinh tế,…
    – Uyên bác:
    + Am hiểu sâu sắc đối tượng miêu tả.
    + Huy động kiến thức của những
    ngành nghề thiên về khoa học xã hội,
    văn hóa… để cảm nhận đối tượng…
    – Cái tôi tinh tế, hướng nội, giàu trải
    nghiệm, mang nặng tình yêu với Huế,
    với đất nước.
    Nghệ thuật
    xây dựng
    hình tượng
    – Đặt dòng sông trong nhiều
    mối quan hệ: địa lý, lịch sử,
    văn hóa,…
    – Nhịp văn chậm rãi, so
    sánh, nhân hóa độc đáo,…
    Qua việc lựa chọn đối tượng, cách
    cảm, cách nghĩ, cách thể hiện
    Ý nghĩa– Vẻ đẹp của Huế
    – Sự biết ơn với những
    người đã khai phá, tạo dựng
    mảnh đất này
    – Thể hiện phong cách của
    Hoàng Phủ Ngọc Tường
    Tạo sự độc đáo và sức hấp dẫn cho kí

    ▪ Định hướng các dạng đề nghị luận về tác phẩm/đoạn trích kí

    Dạng 1: Nghị luận vềDạng 2: Nghị luận về hình tượng nghệ

    29

    một tác phẩm/đoạn trích kíthuật trong tác phẩm/đoạn trích kí
    (1) Phân tích/ cảm nhận một tác phẩm kí
    (có thể kèm thêm yêu cầu chỉ ra/nhận
    xét/đánh giá về tác giả hoặc tác phẩm)
    (1) Phân tích/ cảm nhận hình tượng qua
    một đoạn văn/ qua cả tác phẩm (có thể
    kèm thêm yêu cầu chỉ ra/nhận xét/
    đánh giá về tác giả hoặc tác phẩm/
    đoạn trích)
    (2) Phân tích/ cảm nhận một đoạn trích
    kí (có thể kèm thêm yêu cầu chỉ ra/ nhận
    xét/đánh giá về tác giả hoặc tác phẩm/
    đoạn trích)
    (2) Phân tích/ cảm nhận hình tượng qua
    hai chi tiết/hai đoạn văn riêng biệt
    trong cùng một tác phẩm (có thể kèm
    thêm yêu cầu chỉ ra/ nhận xét/ đánh giá
    về tác giả hoặc tác phẩm/ đoạn trích)
    (3) Phân tích/ cảm nhận một khía cạnh
    trong đoạn trích/ tác phẩm kí (có thể
    kèm thêm yêu cầu chỉ ra/ nhận xét/ đánh
    giá về tác giả hoặc tác phẩm/ đoạn trích)
    (3) Phân tích/ cảm nhận một đặc điểm/
    khía cạnh của hình tượng (thuộc về nội
    dung, tư tưởng hoặc nghệ thuật của tác
    phẩm/ tác giả), (có thể kèm thêm yêu
    cầu) để làm sáng tỏ một nhận xét/ nhận
    định về tác giả hoặc tác phẩm/ đoạn
    trích)
    (4) Nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm/
    đoạn trích kí
    (4) Bình luận hai ý kiến bàn về hình
    tượng
    (5) So sánh giữa hai đoạn trích/ hai tác
    phẩm kí (có thể kèm thêm yêu cầu chỉ
    ra/ nhận xét/ đánh giá về tác giả hoặc tác
    phẩm/ đoạn trích)
    (5) So sánh hai đoạn văn/ hai chi tiết về
    hình tượng nghệ thuật ở hai tác phẩm/
    đoạn trích

    Tất cả các văn bản trong chương trình Ngữ văn 11, 12 đều là đoạn trích kí

    STTTÊN VĂN BẢNTÊN TÁC GIẢCT LỚPGHI
    CHÚ
    1Vào phủ chúa TrịnhLê Hữu Trác11Đoạn VB
    2Người lái đò sông ĐàNguyễn Tuân12Đoạn VB
    3Ai đã đặt tên cho dòng
    sông
    Hoàng Phủ Ngọc Tường12Đoạn VB

    30
    2.1.2. Sử dụng phối hợp hiệu quả các kĩ thuật dạy học trong hướng dẫn HS ôn tập
    các dạng đề nghị luận về tác phẩm/đoạn trích kí
    Các kĩ thuật được chúng tôi áp dụng trong dạy học phát triển năng lực giải
    quyết vấn đề và sáng tạo cho HS thông qua qua các dạng bài NLVH về tác phẩm kí
    trong chương trình Ngữ văn THPT: chia sẻ nhóm đôi, mảnh ghép, khăn trải bàn,
    phòng tranh, phân tích phim video, trạm, “trình bày 1 phút”, “tia chớp, động não,
    sơ đồ tư duy/ minmap,…
    Cụ thể ở phương án dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
    tạo cho học sinh thông qua Bài tập 1(Tình huống khởi động) chúng tôi đã sử dụng
    kĩ thuật phân tích phim video và kĩ thuật chia sẻ nhóm đôi (Xem phụ lục về kĩ
    thuật này/117 của SK). Theo đó:
    ✓ trước khi cho HS xem video, chúng tôi nêu một số câu hỏi thảo luận mà các
    em cần tập trung (các câu hỏi đã trình bày ở trang 20 của SK). Làm như vây
    sẽ giúp các em chú ý tốt hơn.
    ✓ HS xem phim
    ✓ sau khi xem video, yêu cầu HS thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo
    luận, phân loại với nhau. Nhóm đôi này lại tiếp tục chia sẻ với nhóm đôi
    khác hoặc với cả lớp.
    Ở nội dung xây dựng bảng hệ thống hóa kiến thức ba đoạn trích kí trong
    chương trình Ngữ văn 11, 12 chúng tôi đã áp dụng khăn trải bàn (Xem phụ lục về
    kĩ thuật này/113,114 của SK) .
    ✓ HS tự chọn vấn đề, GV kết hợp nhóm, phân công nhóm trưởng, thư ký và
    giao dụng cụ.
    ✓ GV đưa ra vấn đề cho các nhóm (3 nhóm kí tương ứng với 3 đoạn trích),
    từng thành viên viết ý kiến của mình vào góc của tờ giấy.
    ✓ Nhóm trưởng và thư ký sẽ tổng hợp các ý kiến và lựa chọn những ý kiến
    quan trọng viết vào giữa tờ giấy.
    Lưu ý: Mỗi thành viên làm việc tại góc riêng của mình.
    31
    Ở nội dung định hướng các dạng đề nghị luận về tác phẩm/đoạn trích kí
    chúng tôi đã áp dụng kĩ thuật các mảnh ghép (Xem phụ lục về kĩ thuật này/112 của
    SK)
    ✓ Phân học sinh thành từng nhóm có nhóm trưởng
    ✓ Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng nhóm (nghiên cứu khả năng đề về từng
    đoạn trích hay tập hợp vấn đề từ 3 đoạn trích)
    ✓ Các nhóm cùng thảo luận và rút ra kết quả, yêu cầu từng thành viên trong
    nhóm đều có khả năng trình bày kết quả.
    ✓ Mỗi nhóm sẽ tách ra và hình thành nhóm mới theo sơ đồ.
    ✓ Lần lượt từng thành viên trình bày kết quả thảo luận.
    2.1.2.1. Sử dụng phối hợp hiệu quả các kĩ thuật dạy học trong hướng dẫn HS ôn
    tập dạng thứ nhất nghị luận về một tác phẩm/ đoạn trích kí
    Để dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Phát triển năng lực viết sáng tạo cho học sinh qua hệ thống câu hỏi nâng cao trong các dạng bài Nghị luận văn học về các tác phẩm truyện ngắn chương trình Ngữ văn 12

    SKKN Phát triển năng lực viết sáng tạo cho học sinh qua hệ thống câu hỏi nâng cao trong các dạng bài Nghị luận văn học về các tác phẩm truyện ngắn chương trình Ngữ văn 12

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá.
    Giáo dục phổ thông nước ta đang chuyển từ chương trình định hướng nội
    dung sang tiếp cận năng lực của người học. Nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học
    sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì và làm như thế
    nào. Để đạt được mục đích này, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển
    từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận
    dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời
    phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm
    tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, chú trọng kiểm tra
    đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất
    lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Theo tinh thần ấy, các yếu tố của
    quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được đổi mới tất cả các mặt: nội
    dung dạy học, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, cách thức đánh giá bài
    học… Trong đó đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá của giáo viên
    đóng một vai trò quan trọng.
    * Vai trò
    – KTĐG là công cụ quan trọng, chủ yếu xác định năng lực nhận thức của
    người học, điều chỉnh quá trình dạy và học, là động lực để đổi mới PPDH “thi sao
    học vậy”, góp phần cải thiện nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu
    giáo dục.
    – Thông qua KTĐG tạo điều kiện cho GV:
    + Nắm được sự phân hoá về trình độ học lực của HS trong lớp, từ đó có biện
    pháp giúp đỡ HS yếu và bồi dưỡng HS giỏi; có cơ sở thực tế để điều chỉnh và hoàn
    thiện quá trình dạy học.
    + Giúp cho HS: biết được khả năng học tập của mình so với mục tiêu đề ra và
    với yêu cầu của chương trình; tìm được nguyên nhân sai sót, từ đó điều chỉnh hoạt
    động của mình; phát triển kĩ năng tự đánh giá.
    2
    + Giúp cho cha mẹ HS và cộng đồng biết được kết quả dạy học (Tại chỉ thị
    số 47/2008/CT – BGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về
    nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường
    xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008 – 2009 có nêu năm học 2008 – 2009
    thực hiện 3 công khai trong các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập để
    người học và xã hội giám sát, đánh giá: (1) công khai chất lượng đào tạo, (2) công
    khai các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, (3) công khai thu, chi tài
    chính, việc công khai kết quả dạy học góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ
    năm học này).
    + Giúp cho cán bộ quản lí giáo dục nắm được các thông tin cơ bản về thực
    trạng dạy và học ở đơn vị để có sự chỉ đạo kịp thời, đúng hướng.
    Do vậy đổi mới KTĐG là hết sức cần thiết trong quá trình triển khai đổi mới
    chương trình giáo dục phổ thông để đảm bảo và giữ vững quan điểm đổi mới giáo
    dục phổ thông, đặc biệt tạo điều kiện thiết yếu cho việc đổi mới PPDH hướng vào
    hoạt động học tích cực, chủ động có mục đích rõ ràng của người học. KTĐG kết
    quả học tập là sự phân tích đối chiếu thông tin về trình độ kĩ năng học tập của từng
    HS so với mục tiêu dạy học được xác định. Thực tiễn thông qua hội thảo “Đổi mới
    KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH” ở các địa phương đều làm rõ được vai trò việc đổi
    mới KTĐG.
    * Nhận dạng dấu hiệu đổi mới KTĐG thúc đẩy đổi mới PPDH
    Quá trình dạy học bao gồm các hoạt động giảng dạy và KTĐG kết quả học
    tập, rèn luyện của HS. Trong thực tế, việc đổi mới KTĐG của GV biểu hiện qua
    một số dấu hiệu sau đây:
    Thực hiện đúng, đủ quy định của Quy chế, tiến hành đủ số lần kiểm tra
    thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì; Bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng
    để ra đề kiểm tra, không sử dụng những nội dung xa lạ hoặc xa rời chương trình và
    việc KTĐG. Xác định nội dung kiểm tra: dựa trên mục tiêu của từng bài học, từng
    chương và toàn bộ chương trình, chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học; đổi mới
    phải được gắn với phong trào hai không và xây dựng trường học thân thiện, học
    sinh tích cực do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
    3
    Đánh giá sát đúng trình độ HS với thái độ khách quan công bằng, công
    minh, động viên tư duy sáng tạo, hướng dẫn HS biết tự đánh giá kết quả học tập,
    tạo điều kiện cho HS đánh giá lẫn nhau, phân biệt được đúng, sai và tìm ra nguyên
    nhân để từ đó tác động trở lại đến PP học tập, rèn luyện kĩ năng tư duy;
    Đánh giá một cách toàn diện cả lí thuyết, năng lực thực hành, lựa chọn tỉ lệ
    về kiến thức và kĩ năng phù hợp. Tuỳ theo mục đích đánh giá mà GV lựa chọn
    hình thức KTĐG khác nhau (nói, viết, bài tập, phiếu hỏi, quan sát, các bài tập theo
    chủ đề, kết hợp giữa kiểm tra tự luận và trắc nghiệm);
    Đề KTĐG phải đảm bảo được sự phân hoá HS: HS có trình độ cơ bản, nâng
    cao, HS có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn. Kết hợp giữa đánh giá trong và
    đánh giá ngoài, lấy ý kiến của đồng nghiệp, lấy đề kiểm tra từ bên ngoài để đánh
    giá khách quan hơn.
    Coi việc đánh giá là một công cụ học tập chứ không phải là công cụ đo
    lường, vì vậy nội dung đánh giá cần hướng tới đầu ra, đánh giá sự tiến bộ của HS
    trong quá trình học tập, động viên sự tiến bộ của học sinh, giúp học sinh sửa chữa
    thiếu sót; chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan
    tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học tiếp
    thu tri thức mới, ôn luyện cũng như các tiết thực hành, thí nghiệm. Làm được điều
    này chính là chúng ta đang hướng tới phong trào “Xây dựng trường học thân thiện,
    học sinh tích cực”.
    Coi trọng KTĐG kĩ năng diễn đạt các sự vật hiện tượng bằng lời nói, chữ
    viết, sơ đồ, biểu đồ, thực hành,…bồi dưỡng tình cảm hứng thú học tập cho HS
    KTĐG có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng, từ
    những thông tin “ngược” HS tự đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức, kĩ năng so với
    mục tiêu đặt ra, từ đó HS tự hoàn thiện các kiến thức, kĩ năng bằng việc nâng cao
    tinh thần tự học, từ đó góp phần hình thành phương pháp tự học ở HS. Cũng nhờ
    thông tin ngược đó GV tự đánh giá quá trình dạy học của mình để điều chỉnh cho
    phù hợp và hoàn thiện hơn KT nhằm trực tiếp đánh giá kết quả học tập của HS và
    cũng là đánh giá kết quả dạy học của GV, nếu học không phải thực sự là tự học và
    dạy không phải là dạy cách học cho HS, KTĐG không phù hợp với cách dạy và
    4
    cách học thì kết quả đạt được sẽ không cao. Không thể đổi mới toàn diện quá trình
    dạy học nếu không đặt Dạy-Học-Kiểm tra vào một quá trình thống nhất. Để đổi
    mới KTĐG GV cần xác định được công việc của mình trước khi KT và xử lí kết
    quả sau KT: Trước khi ra đề KT GV cần nghiên cứu kĩ chương trình, chuẩn kiến
    thức kĩ năng, nắm vững đặc điểm tình hình học tập của HS để yêu cầu KTĐG
    không quá khó, không quá dễ và vẫn đảm bảo được mục tiêu của bài, chương, môn
    học. Xử lí kết quả sau kiểm tra, phân hoá được trình độ HS, trên cơ sở kết quả KT
    coi đó là thông tin phản hồi để tác động trở lại quá trình dạy, học.
    Đổi mới phương pháp dạy học là một trọng tâm của đổi mới giáo dục. Việc
    đổi mới giáo dục Trung học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục
    của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng về chính sách và quan điểm
    trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Trung học. Việc đổi mới phương pháp
    dạy học cần phù hợp với những định hướng đổi mới chung của chương trình giáo
    dục trung học. Trong “Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI” có
    viết: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi,
    kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng
    giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng
    lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã
    hội”. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo
    quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục
    đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng
    phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người
    học”.
    Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở thực tiễn và môi trường
    pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương
    pháp dạy học (viết tắt PPDH) theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học
    sinh nói riêng.
    2. Xuất phát từ vai trò quan trọng của việc đưa câu hỏi nâng cao vào đề thi.
    Ngay từ những năm đầu tiên thi THPT QG là năm 2015 đề thi đã có phần
    câu hỏi nhận xét nâng cao. Trong những năm học tiếp theo và mới nhất là năm
    5
    2021 phần câu hỏi nhận xét nâng cao vẫn là một trong những nội dung quan trọng
    của các dạng bài nghị luận văn học. Trích dẫn câu 2 phần Làm văn trong các đề thi
    THPT Quốc gia/ tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn từ năm 2015 đến năm 2021 giúp
    chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này.
    Trích dẫn 1: Đề thi THPT QG năm 2015.
    “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
    – Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày
    cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển
    suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rộng luộc chấm
    muối…
    – Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
    – Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt nhưng
    cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
    – Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi
    – Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ
    ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề
    được!
    – Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi
    – Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
    khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…. Sau này con cái
    lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…
    – Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc
    thốt lên
    – Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là
    nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
    – Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát
    – trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?
    – Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú? Lát lâu sau
    mụ lại mới nói tiếp:
    6
    – Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hành chài ở thuyền chúng
    tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi
    nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người
    đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con, cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái
    khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
    như ở trên đất được. Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
    bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt sáng lên như một
    nụ cười – vả lại , ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống
    hòa thuận, vui vẻ.
    – Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi
    – Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…
    (Trích “Chiếc thuyền ngoài xa” –Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12,tập hai, NXB
    Giáo dục, 2015, tr. 75 – 76)
    Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
    trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà
    văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
    Trích dẫn 2: Đề thi THPT QG năm 2017.
    “ Đất là nơi anh đến trường
    Nước là nơi em tắm
    Đất Nước là nơi ta hò hẹn
    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
    Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
    Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
    Thời gian đằng đẵng
    Không gian mệnh mông
    Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
    Đất là nơi Chim về
    Nước là nơi Rồng ở
    Lạc Long Quân và Âu Cơ
    7
    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
    Những ai đã khuát
    Những ai bây giờ
    Yêu nhau và sinh con đẻ cái
    Gánh vác phần người đi trước để lại
    Dặn dò con cháu chuyện mai sau
    Hàng năm ăn đâu làm đâu
    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
    (Trích “Đất nước”, Trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ
    văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr 118-119)
    Cảm nhận của Anh/Chị về đoạn thơ trên. Từ đó bình luận về quan niệm về Đất
    nước của Nguyễn Khoa Điềm.
    Trích dẫn 3: Đề thi THPT QG năm 2018.
    Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh
    bạo lực ở gia đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu). Từ đó,
    anh/chị hãy liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh
    đoàn tàu (Hai đứa trẻ – Thạch Lam) để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác
    giả.
    Trích dẫn 4: Đề thi THPT QG năm 2019.
    Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình
    như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng
    châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây
    đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy
    vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói
    lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống
    một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.
    Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong
    sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về
    8
    mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra
    khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
    thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm
    khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy
    đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua,
    không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không
    muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá d-
    ưới chân núi Kim Phụng.
    (Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một,
    NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.198)
    Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ
    đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ
    Ngọc Tường.
    Trích dẫn 5: Đề thi THPT QG năm 2020.
    Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được nhà thơ Nguyễn Khoa
    Điềm thể hiện trong đoạn trích sau:
    Em ơi em
    Hãy nhìn rất xa
    Vào bốn nghìn năm Đất Nước
    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
    Cần cù làm lụng
    Khi có giặc người con trai ra trận
    Người con gái trở về nuôi cái cùng con
    Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
    Nhiều người đã trở thành anh hùng
    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
    Nhưng em biết không
    Có biết bao người con gái, con trai
    9
    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lửa tuổi
    Họ đã sống và chết
    Giản dị và bình tâm
    Không ai nhớ mặt đặt tên
    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
    Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
    Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cái
    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến đi dân
    Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hải trải
    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
    Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
    Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
    Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
    (Trích “Đất Nước” – trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ
    văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr. 121)
    Trích dẫn 6: Đề thi THPT QG năm 2021.
    Trong bài thơ “Sóng”, nhà thơ Xuân Quỳnh viết:
    Trước muôn trùng sóng bể
    Em nghĩ về anh, em
    Em nghĩ về biển lớn
    Từ nơi nào sóng lên?
    Sóng bắt đầu từ gió
    Gió bắt đầu từ đâu?
    Em cũng không biết nữa
    Khi nào ta yêu nhau
    Con sóng dưới lòng sâu
    10
    Con sóng trên mặt nước
    Ôi con sóng nhớ bờ
    Ngày đêm không ngủ được
    Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức
    (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 15)
    Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét vẻ đẹp nữ tính trong
    thơ Xuân Quỳnh.
    Có thể nói việc đưa câu hỏi nâng cao vào đề thi tốt nghiệp THPT có vai trò,
    ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh và giáo viên. Trước hết, câu hỏi có tác
    dụng phân hóa học sinh, giúp phát hiện được những học sinh giỏi văn, có tố chất
    văn chương, có sự say mê tìm tòi đối với môn học với những học sinh chỉ học tủ,
    học vẹt, coi Ngữ văn là một môn xét tốt nghiệp chỉ cần qua điểm liệt, quan niệm
    học văn chỉ cần học thuộc là đủ… Câu hỏi nâng cao giúp học sinh phát huy tính
    chủ động, sáng tạo, tư duy, được bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình, trở nên tự
    tin khi khả năng, năng lực của bản thân được thừa nhận.
    Không chỉ quan trọng với người học, câu hỏi năng cao còn giúp người dạy
    thay đổi cách dạy, cách truyền thụ kiến thức, cách ra đề kiểm tra đánh giá. Giáo
    viên cần chú ý hơn trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi, yêu mến, say mê môn học;
    đòi hỏi giáo viên vừa truyền thụ, cung cấp những kiến thức cơ bản của bài học vừa
    khơi gợi ở học sinh những suy nghĩ, nhận xét tổng hợp, khái quát, nâng cao về tác
    giả, tác phẩm để học sinh có cái nhìn bao quát hơn về các tác giả, tác phẩm được
    học trong chương trình.
    Đưa câu hỏi nâng cao vào đề thi THPT QG cũng chính là đáp ứng việc đổi
    mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá trong quá trình đổi mới chung của
    ngành giáo dục. “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
    giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá
    trình với đánh giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền
    giáo dục phát triển” (Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 ban hành Chương
    11
    trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng
    11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI).
    Tuy nhiên, cần phải hiểu đúng, hiểu rõ nâng cao không có nghĩa là đánh đố;
    nâng cao là để đánh giá năng lực của người học, giúp người học chủ động tự tin
    hơn trong cuộc sống. Bởi vậy những câu hỏi nâng cao cần mang tính vừa sức, bám
    sát chương trình, nội dung môn học thì mới thực sự phát huy được hiệu quả.
    3. Xuất phát từ vai trò của môn ngữ văn trong trường phổ thông.
    Chúng ta đều biết rằng môn ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong
    việc đào tạo con người, bồi dưỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh. Nhà
    văn Nga lỗi lạc M.Go – ro – ki đã từng viết: “Văn học là nhân học”. Giáo sư Hà
    Minh Đức từng khẳng định “Văn học không chỉ là một nguồn tri thức mà còn là
    nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con người trong
    cuộc sống”. Điều này đã được thực tế chứng minh từ ngàn năm về trước. Môn học
    ngữ văn là bộ môn khoa học dạy về ngôn ngữ và tác phẩm văn chương nhằm hình
    thành kĩ năng đọc, viết và hoàn thiện nhân cách nhân phẩm ở con người. Trong
    thời đại ngày nay, môn học Ngữ văn càng có vai trò quan trọng hơn trong nhiệm
    vụ giữ gìn sự sống cho ngôn ngữ dân tộc và phát huy nó tốt và đẹp hơn nữa trước
    đời sống công nghệ ngày đang thay thế dần rất nhiều thứ khác.
    Học ngữ văn trước hết là để học có công cụ giao tiếp. Học để biết đọc, biết
    viết biết nghe nói có hiệu quả, biết đọc không chỉ là đọc to lên được chữ, từ, câu,
    bài mà đọc phải hiểu,phải nắm được thông tin tường minh và phải hiểu cả những ý
    nghĩa hàm ẩn giấu kín trong đó. Tính ứng dụng của viết và nghe, nói cũng thế.
    Không biết viết chữ thì đã quá rõ. Không biết diễn đạt suy nghĩ và cảm xúc, tình
    cảm và tư tưởng của mình thì sẽ thế nào? Chỉ thử nghĩ, nếu bạn cần có một suất
    học bổng để đi du học hoặc muốn chuẩn bị cho cuộc trả lời phỏng vấn xin việc thì
    bạn làm gì? Các công thức toán, lí, hóa ra ôn tập chăng? Rõ ràng là không, mà cần
    phải biết viết bài bình luận, biết trình bày ý tưởng của mình một cách tự tin, độc
    đáo, chặt chẽ, thuyết phục…cả nói lẫn viết. Còn gì buồn hơn nếu bạn rơi vào tình
    trạng nghe người ta nói đùa mà lại cứ tưởng là nói thật …Học Ngữ văn tốt, bạn sẽ
    vẫn dụng vào việc nói năng, cư xử hằng ngày tế nhị hơn, có văn hóa hơn…Cuối
    12
    cùng, ngay cả việc học các tác phẩm văn thơ tưởng như khó ứng dụng ấy vẫn rất
    cần. Các câu thơ hay, những nhân vật từ trong các tác phẩm cứ dần in sâu vào tâm
    hồn, giúp bạn sẽ sống nhân ái, vị tha hơn. Nhà văn M Gorki từng nói: “Mỗi tác
    phẩm là một cuộc đời”. Một lúc nào đó bạn sẽ sống, suy nghĩ và hành động như rất
    nhiều tình huống đã xảy ra trong tác phẩm văn học.
    Văn học có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển
    tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có
    tính thiết yếu trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
    Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ bão cho nên đôi
    lúc con người có thể bị cuốn theo những tri thức khoa học mà quên đi cảm xúc đời
    thường. Những lúc như vậy môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người những tình cảm
    nhân văn để con người tìm đến với con người, để trái tim hòa cùng nhịp đập với
    trái tim. Không chỉ thế học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác
    và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Trước hết phải
    biết đọc biết viết. Người ta vẫn thường nói phải học đọc trước rồi sau đó học để
    đọc là thế. Mỗi cuốn sách giáo khoa là tập hợp các văn bản thông tin khoa học.
    Muốn học tốt các môn học khác trước hết phải đọc hiểu văn bản trong SGK mỗi
    môn học phải có một cách đọc riêng; nhưng tất cả đều có yêu cầu chung giống
    nhau là phải hiểu văn bản đó nói gì. Chính vì thế mà Chuẩn chung cốt lõi của Hoa
    Kỳ yêu cầu đọc hiểu không chỉ trong môn ngữ văn (Language arts) mà còn cả
    trong môn Lịch sử/ khoa học xã hội, toán và khoa học kĩ thuật.
    Tư duy khoa học và tư duy hình tượng có nhiều điểm khác nhau nhưng có
    điểm chung là muốn tạo đều cần đến trí tưởng tượng. Học Ngữ văn, đọc và viết
    văn chính là rèn luyện để hình thành và phát triển tốt năng lực tưởng tượng ở mỗi
    con người, làm cơ sở và cảm hứng sáng tạo cho người học ở các lĩnh vực khác.
    4. Xuất phát từ vai trò quan trọng của văn học Việt Nam trong bộ môn Ngữ
    văn ở trường phổ thông
    Văn học Việt Nam là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong môn học
    Ngữ văn ở các trường phổ thông. Các tác phẩm văn học Việt Nam là thước đo
    quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá năng lực của học
    13
    sinh. Các bài kiểm tra, các đề thi phần lớn tập trung vào các tác phẩm văn học Việt
    Nam nên trong quá trình truyền thụ và tiếp cận tri thức cả người dạy và người học
    đều tập trung vào mảng kiến thức này. Bởi vậy để thỏa mãn đam mê khám phá văn
    chương, để tạo ra không khí, không gian lớp học mang đậm sắc màu văn chương,
    không có cách nào khác là phải thay đổi cách nhìn, tư duy, định kiến cho người
    dạy và người học mà mấu chốt thay đổi PPDH, thay đổi cách kiểm tra đánh giá.
    Đây là vấn đề sống còn của dạy Văn – học Văn.
    5. Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thời đại
    – Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các nhà trường phổ thông: PPDH phải nhằm
    phát triển tối đa sự suy nghĩ độc lập của HS, kĩ năng đạt đến và vận dụng tri thức,
    góp phần định hướng nghề nghiệp. Vì vậy, phát triển chương trình giáo dục phổ
    thông dựa trên tiếp cận NL: NL nhận thức, NL giải quyết vấn đề, NL hành động,
    NL sáng tạo, NL làm việc nhóm, NLthích ứng với môi trường… là một lựa chọn tất
    yếu khách quan và phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.
    – Theo tâm lí cha mẹ HS và dư luận xã hội: trông mong ở mỗi con em/ công
    dân sự hoạt bát, nhanh nhạy, tinh tường, am hiểu, không rập khuôn, không là bản
    sao hay phiên bản sẵn có.
    – Theo yêu cầu nghề nghiệp: cần thiết mỗi người lao động chân tay hay trí óc
    có khả năng tự học, tự sáng tạo, phát huy sở trường, năng khiếu, làm theo năng lực,
    trả lương theo vị trí việc làm.
    Như vậy, trong quá trình dạy- học ở trường trung học phổ thông hiện nay,
    nhiệm vụ phát triển các NL cốt lõi cho HS trở thành nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
    Nhiệm vụ đó đòi hỏi tiến hành đồng bộ ở tất cả các cấp học, các môn học trong đó
    có bộ môn Ngữ văn. Do đó, việc đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá trong giáo
    dục, đào tạo ở nước ta đã trở thành một yêu cầu tất yếu và cấp thiết.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thực trạng kiểm tra đánh giá học sinh của giáo viên trong môn Ngữ văn
    Giải pháp cũ thường làm – “kiểm tra đánh giá nội dung kiến thức”
    14
    1.1.1. Ưu điểm
    – GV chủ động trong việc cung cấp kiến thức một cách hệ thống khoa học,
    bài bản, sâu sắc bài học trong chương trình giáo dục.
    – Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một
    chương, một học kì… chủ yếu dựa trên việc kiểm tra tái hiện tri thức không làm
    khó được GV và HS.
    – Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà
    trường, chăm ngoan, nghe lời.
    – Đảm bảo được chất lượng giáo dục ổn định, an toàn.
    1.1.2. Nhược điểm
    – Ngày nay, tri thức của nhân loại thay đổi và bị lỗi thời rất nhanh, việc GV
    ra đề ít hoặc không chú ý việc phát triển năng lực mà thiên về tái hiện kiến thức
    dẫn đến tình trạng HS không thể hiện được khả năng linh hoạt, sáng tạo trong thực
    tiễn.
    – KTĐG còn thiên về kiểm tra học thuộc lòng, kiểm tra trí nhớ một cách máy
    móc, đơn điệu, vụn vặt dẫn đến hiện tượng học tủ, học thuộc văn mẫu, sao chép
    nguyên si tài liệu trong các bài kiểm tra và thi sẽ là phổ biến.
    – Việc KTĐG kết quả học tập còn chưa có tác dụng mạnh mẽ kích thích,
    động viên HS, hoặc ra đề quá khó làm cho những HS có học lực trung bình trở lên
    thấy quá khó, từ đó sinh ra tâm lí chán nản, hoặc quá dễ sẽ dẫn đến HS chủ quan,
    tâm lí thoả mãn, không đánh giá đúng trình độ của mình.
    – Chất lượng giáo dục thiếu bước đột phá, cải tiến.
    1.2. Thực trạng bài làm của học sinh trong môn Ngữ văn
    1.2.1. Ưu điểm
    – HS ghi chép bài được, đặc biệt với HS ban A thường có tâm lí “ỷ nại” kiến
    thức thầy/ cô đã cung cấp nên đảm bảo độ an toàn kiến thức phục vụ thi cử.
    – Theo đó, bộ môn Ngữ văn ít hoặc không làm khó HS đạt được mức điểm
    trung bình
    15
    1.2.2. Nhược điểm
    – HS thụ động; thui chột/ làm mất khả năng sáng tạo… không hình thành thói
    quen viết văn sáng tạo.
    – Thiếu sự hứng thú và đam mê với việc học: HS không có hứng thú, niềm
    đam mê với việc viết văn, dẫn đến việc học tập không hiệu quả.
    – Bài làm của HS học vì thế tẻ nhạt, thiếu sự sinh động, hấp dẫn.
    – Thiếu đi những bài viết chạm vào cảm xúc.
    1.3. Thực trạng khác
    Bối cảnh của đời sống kinh tế xã hội thời kinh tế thị trường đã tác động
    mạnh mẽ đến quan niệm, nhận thức, thái độ và hành động của cha mẹ HS nói riêng
    và nhân dân nói chung. Cách nhìn về giáo dục, về bộ môn Ngữ văn có phần thực tế
    đến thực dụng. Họ chưa quan tâm nhiều đến chức năng mang tính nhân văn của
    việc học tập bộ môn này trong khi rất nặng nề về điểm số. Cùng với đó tâm lí cha
    mẹ HS, dư luận xã hội dành cho bộ môn cũng không mấy thiện cảm: giờ học Văn
    đọc chép, mệt mỏi, buồn ngủ, ngủ gật, nghe ù tai, chép nhừ tay, không đi học cũng
    không lo, vẫn mượn vở bạn chép được đủ kiến thức, không phải động não tư duy.
    1.4. Sự cần thiết đề xuất giải pháp mới trước thực trạng KTĐG trong môn
    Ngữ văn hiện nay
    Xuất phát từ những thực trạng trên, để giúp GV và HS khắc phục được
    những hạn chế trong quá trình KTĐG môn Ngữ văn, tôi xin đề xuất giải pháp được
    trình bày cụ thể trong sáng kiến sau: Phát triển năng lực viết sáng tạo cho học
    sinh qua hệ thống câu hỏi nâng cao trong các dạng bài nghị luận văn học về các
    tác phẩm truyện ngắn chương trình Ngữ văn 12.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Tìm hiểu chung về KTĐG theo năng lực HS
    2.1.1. Khái niệm kiểm tra đánh giá theo năng lực HS
    – Kiểm tra: Xem xét việc nắm bắt (hiểu biết) kiến thức của học sinh để đánh
    giá năng lực, kết quả học tập của học sinh.
    – Đánh giá: Đánh giá được hiểu là quá trình thu thập và xử lí kịp thời, có hệ
    thống những thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng,
    16
    hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu giáo dục làm cơ sở cho những chủ trương,
    biện pháp, hành động giáo dục tiếp theo.
    – Năng lực: Chuẩn đánh giá là biểu hiện cụ thể mức độ tối thiểu của mục tiêu
    giáo dục mà người học phải đạt được. Xác định được chuẩn đánh giá sẽ tạo cơ sở
    để định ra cụ thể nội dung, hình thức kiểm tra và cũng là căn cứ để đo mức độ
    nhận thức và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh.
    2.1.2. Vai trò của kiểm tra, đánh giá và những vấn đề đổi mới kiểm tra, đánh giá
    * Đối với giáo viên:
    – Kiểm tra, đánh giá giúp giáo viên hiểu rõ việc học tập của học sinh, có cơ
    sở thực tiễn để đánh giá kết quả học tập của học sinh, phát hiện ra những thiếu xót
    trong kĩ năng cũng như kiến thức của học sinh để có biện pháp khắc phục kịp thời
    – Kiểm tra, đánh giá còn giúp cho giáo viên nhận ra những ưu điểm cũng
    như những hạn chế của mình trong công tác giáo dục để từ đó có những biện pháp
    thích hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
    * Đối với học sinh:
    – Kiểm tra, đánh giá giúp học sinh biết được kết quả học tập của mình để từ
    đó có những biện pháp cũng như thái độ trong học tập. Chẳng hạn như học sinh
    phát hiện ra chỗ hạn chế của mình để tích cực hơn trong học tập, rèn luyện hoặc
    học sinh thấy được điểm mạnh của mình để có thái độ tự tin hơn trong học tập.
    – Kiểm tra, đánh giá còn giúp giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Nó
    giúp học sinh hình thành lòng tin, ý chí quyết tâm, sự trung thực, tinh thần tập thể,
    ý thức giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
    * Đối với các cấp quản lí:
    – Kiểm tra đánh giá giúp các nhà quản lí biết được mức độ đạt được của học
    sinh so với mục tiêu môn học để họ điều chỉnh hoạt động chuyên môn cũng như
    các hỗ trợ khác nhằm đạt được những mục tiêu đã xác định.
    – Kiểm tra, đánh giá giúp các cơ quan quản lí giáo dục phát hiện ra những ưu
    điểm cũng như các hạn chế của chương trình, sách giáo khoa để có những điều
    chỉnh cho thích hợp.
    17
    – Kiểm tra đánh giá giúp cho nhà trường có cơ sở để tư vấn hướng nghiệp
    cho học sinh, cha mẹ học sinh.
    2.2. Những vấn đề đổi mới trong kiểm tra, đánh giá
    2.2.1. Đổi mới mục tiêu đánh giá

    Giai đoạnChương trình và sách giáo
    khoa trước đây
    Chương trình và sách giáo khoa
    hiện nay
    Mục tiêu
    đánh giá
    Quan tâm tới kiến thức mà học
    sinh thu lượm được sau mỗi bài
    học, mỗi chương, mỗi học kì,
    mỗi năm
    Kiến thức là cần thiết nhưng kĩ
    năng cũng rất quan trọng hơn. Coi
    trọng kĩ năng của học sinh là điểm
    mới của mục tiêu giáo dục

    2.2.2. Đổi mới mục đích kiểm tra, đánh giá

    Giai
    đoạn
    Chương trình và sách giáo
    khoa trước đây
    Chương trình và sách giáo khoa
    hiện nay
    Mục đích
    của kiểm
    tra, đánh
    giá
    Nhằm xác định kết quả học tập
    của học sinh để đánh giá quá
    trình phấn đấu học tập của học
    sinh.
    Bên cạnh mục đích như trước kia
    thì thêm mục đích khác. Đó là cung
    cấp thông tin phản hồi về quá trình
    dạy – học, về chương trình, về SGK,
    về nội dung và phương pháp dạy
    học để giáo viên cũng như các cơ
    quan chức năng có sự điều chỉnh
    cho phù hợp nhằm đáp ứng những
    yêu cầu giáo dục của thời đại mới

    2.2.3. Đổi mới công cụ đánh giá
    Công cụ đánh giá: Công cụ đánh giá được hiểu là các phương tiện, kĩ thuật,
    phương pháp dùng để đánh giá
    18

    Giai
    đoạn
    Chương trình và sách giáo
    khoa trước đây
    Chương trình và sách giáo khoa
    hiện nay
    Công cụ
    đánh giá
    chủ yếu
    – Kiểm tra vấn đáp
    – Các loại bài kiểm tra trắc
    nghiệm tự luân từ 15 phút trở lên
    – Kiểm tra vấn đáp
    – Các bài kiểm tra viết từ 15 phút
    trở lên với các hình thức kiểm tra
    + Trắc nghiệm tự luận
    + Trắc nghiệm khách quan
    + Kết hợp trắc nghiệm tự luận với
    trắc nghiệm khác quan

    2.2.4. Đổi mới cách đánh giá

    Giai
    đoạn
    Chương trình và sách giáo khoa
    trước đây
    Chương trình và sách giáo khoa
    hiện nay
    Hình
    thức
    đánh giá
    – Đó là các kiểu đánh giá: đánh
    giá thường xuyên qua các câu hỏi
    kiểm tra, các loại bài kiểm tra.
    Cách đánh giá này thực chất là
    khá toàn diện và hợp lí nhưng chỉ
    ở phương diện lí thuyết.
    – Chỉ có giáo viên đánh giá học
    sinh.
    – Đánh giá khả năng của cá thể
    học sinh.
    Đổi mới cách đánh giá ở các
    khâu, yếu tố như sau:
    – Đưa câu hỏi trắc nghiệm vào
    kiểm tra kiến thức (bổ sung thêm
    hình thức kiểm tra).
    – Ngoài đánh giá kiến thức lí
    thuyết còn đánh giá cả kĩ năng
    thực hành.
    – Học sinh cùng tham gia vào quá
    trình đánh giá (nhận xét, đánh giá
    bài của bạn.
    – Đánh giá bài thực hành của cả
    nhóm, đánh giá năng lực hợp tác
    của học sinh khi được giáo viên
    giao bài.

    19
    2.2.5. Chuẩn đánh giá
    Chuẩn đánh giá là mức tối thiểu cần đạt được của người học khi thực hiện
    chương trình học tập. Đây chính là biểu hiện cụ thể của mục tiêu giáo dục. Chuẩn
    đánh giá được xây dựng cho các đơn vị kiến thức, cho các phân môn, cho các lớp,
    các cấp học cụ thể. Mỗi một cấp độ như thế đều qui định những kiến thức cơ bản,
    kĩ năng tối thiểu. Kiến thức đi liền với kĩ năng chính là điểm mới của chẩn đánh
    giá.
    Khi mới đổi mới chương trình chuẩn đánh giá dựa trên lí thuyết của B.S.
    Bloom nên được chia làm 6 cấp độ (bậc) từ thấp đến cao như sau:
    – Nhận biết
    – Thông hiểu
    – Vận dụng
    – Phân tích
    – Tổng hợp
    – Đánh giá
    Hiện nay người ta vận dụng lí thuyết Nikko của Nhật và chia thành 4 bậc
    đánh giá là: Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng, Vận dụng cao

    Cấp độMô tả (biểu hiện)
    Nhận biếtHọc sinh nhớ các khái niệm cơ bản, có thể nêu lên hoặc nhận ra
    chúng khi được yêu cầu.
    Thông hiểuHọc sinh hiểu các khái niệm cơ bản và có thể vận dụng chúng
    khi chúng được thể hiện theo các cách tương tự như cách giáo
    viên đã giảng hoặc như các ví dụ tiêu biểu về chúng trên lớp
    học.
    Vận dụngHọc sinh có thể hiểu được khái niệm ở một cấp độ cao hơn
    “thông hiểu”, tạo ra được sự liên kết logic giữa các khái niệm
    cơ bản và có thể vận dụng chúng để tổ chức lại các thông tin đã
    được trình bày giống với bài giảng của giáo viên hoặc trong
    sách giáo khoa.

    20

    Vận dụng
    cao
    Học sinh có thể sử dụng các khái niệm về môn học – chủ đề để
    giải quyết các vấn đề mới, không giống với những điều đã được
    học hoặc trình bày trong sách giáo khoa nhưng phù hợp khi
    được giải quyết với kỹ năng và kiến thức được giảng dạy ở mức
    độ nhận thức này. Đây là những vấn đề giống với các tình
    huống học sinh sẽ gặp phải ngoài xã hội.

    2.3. Những cơ sở xác định vấn đề được đề cập đến trong phần nhận xét nâng cao
    Xuất phát từ vai trò của đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá,
    để hướng dẫn học sinh làm tốt các câu hỏi nâng cao trong bài nghị luận văn học
    cho các văn bản truyện ngắn Việt Nam hiện đại đọc chính thức trong chương trình
    THPT, người giáo viên cần phải:
    2.3.1. Căn cứ vào vai trò của đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
    môn Ngữ Văn
    – Đã 6 – 7 năm qua, Bộ GD&ĐT đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
    và kiểm tra, đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực. Bài kiểm tra Ngữ văn chủ
    yếu là dạng đọc hiểu và viết; tức là xem HS đọc có hiểu không, có biết viết 1 kiểu
    văn bản nào đó; chứ không tập trung vào việc nhớ nhiều, thuộc nhiều và chép được
    nhiều… Như đã nêu, CT GDPT 2006 đã cho phép thực hiện việc kiểm tra – đánh
    giá như yêu cầu của CT GDPT 2018: “Trong việc đánh giá kết quả học tập cuối
    năm học, cuối cấp học, cần đổi mới cách thức đánh giá (cấu trúc đề, cách nêu câu
    hỏi, độ khó…); sử dụng và khai thác ngữ liệu bảo đảm yêu cầu đánh giá được năng
    lực của HS, khắc phục tình trạng chỉ học thuộc bài hoặc sao chép tài liệu có sẵn;
    tránh dùng lại các văn bản ngữ liệu đã học để đánh giá được chính xác khả năng
    đọc hiểu và phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học” (CT GDPT 2018, môn Ngữ văn,
    trang 86).
    – Cần có nghiên cứu, trao đổi giữa các chuyên gia với cơ quan chỉ đạo dạy
    học và khảo thí để có một cấu trúc đề thi hợp lí. Chẳng hạn với Kỳ thi tốt nghiệp
    THPT, do thời gian làm bài có hạn, nên đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản văn
    21
    học cần tích hợp với yêu cầu viết bài NLVH; đánh giá năng lực đọc hiểu các loại
    văn bản khác tích hợp với viết NLXH. Về yêu cầu viết, nên cho HS tự chọn: Viết
    NLVH hoặc NLXH.
    – Trong đó, bài NLVH yêu cầu HS hoặc phải vận dụng tổng hợp kiến thức
    văn học để giải quyết vấn đề hoặc yêu cầu phân tích, cảm nhận 1 bài/ đoạn thơ, văn
    chưa được học… Cần hiểu ngữ liệu mới là các văn bản tương đương (thể loại, đề
    tài, chủ đề, độ khó…) chứ không phải là 1 văn bản hoàn toàn xa lạ với HS.
    – Để thực hiện thay đổi này, ngay từ đầu năm học này (tháng 9/2021), Bộ
    GD&ĐT cần thông báo ngay về việc thay đổi cách kiểm tra đánh giá với môn Ngữ
    văn trên nhiều phương tiện thông tin, ít nhất là trong thông báo triển khai năm học
    mới và những điểm thay đổi về thi cử, tuyển sinh đối với HS các cấp, đặc biệt lớp
    9 và 12.
    – GV toàn quốc cần biết việc thay đổi này và cần làm cho xã hội, nhất là các
    bậc cha mẹ HS hiểu. Thay đổi như thế không gây thiệt thòi cho HS mà trái lại hết
    sức công bằng: Đánh giá đúng được năng lực của những HS khá giỏi. Thay đổi ấy
    sẽ triệt tiêu và hạn chế được nạn chép lại văn mẫu, tổ chức học thêm, dạy tủ, đoán
    mò…
    – Việc đổi mới cách ra đề trong đánh giá kết quả môn học Ngữ văn đúng
    hướng sẽ có tác động rất lớn tới việc dạy và học. Khi đó, GV chủ yếu dạy cho HS
    cách học, phương pháp đọc và viết sao cho hiệu quả, chứ không tập trung nhồi
    nhét và chuẩn bị các dàn ý và bài văn mẫu như hiện nay. Cũng vì thế đổi mới ra đề
    sẽ mang lại một tinh thần và không khí học tập mới trong dạy và học Ngữ văn ở
    nhà trường phổ thông.
    2.3.2. Căn cứ vào đặc trưng của thể loại truyện
    Một trong những căn cứ quan trọng để thiết kế hoạt động khởi động là căn
    cứ vào đặc trưng của từng thể loại. Để thiết kế tốt hoạt động khởi động cho các văn
    bản truyện và kí phần văn học Việt Nam đọc chính thức trong chương trình THPT,
    giáo viên cần nắm vững đặc trưng của hai thể loại này.
    22
    2.3.2.1. Đặc trưng của truyện
    Truyện tiêu biểu cho loại tự sự, phản ánh đời sống trong tính khách quan của
    nó. Truyện được kể theo điểm nhìn của người kể chuyện. Người kể chuyện đóng
    vai trò là người dẫn dắt, miêu tả, phân tích, bình luận, làm sáng tỏ những gì cần
    thiết để người đọc cảm nhận rõ ràng, sâu sắc và đầy đủ nội dung tác phẩm. Truyện
    phản ánh đời sống qua cốt truyện. Cốt truyện là chuỗi cách sự kiện biến cố được tổ
    chức, sắp xếp một cách hợp logic nhằm phục vụ cho ý đồ tư tưởng nghệ thuật của
    nhà văn, trình tự trong truyện có thể bị đảo lộn so với trình tự đời sống. Làm nên
    các sự kiện là chi tiết nghệ thuật, có những chi tiết nhỏ nhưng có sức chứa lớn về
    nội dung tư tưởng… Trong diễn biến cốt truyện, nhân vật hình thành, tác động qua
    lại, bộc lộ đặc điểm, tính cách của mình. Nhân vật được miêu tả trong mối quan hệ
    với nhân vật khác một cách cụ thể, qua đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật.
    Ngôn ngữ truyện có nhiều hình thức khác nhau: ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn
    ngữ nhân vật; lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm; Ngôn ngữ truyện gần với ngôn
    ngữ đời sống. Có thể nói, tính khách quan trong sự phản ánh, cốt truyện được tổ
    chức một cách nghệ thuật, nhân vật được miêu tả chi tiết, cụ thể, sinh động, gắn
    với hoàn cảnh, phạm vi miêu tả không bị hạn chế về không gian và thời gian, ngôn
    ngữ linh hoạt, gần gũi với đời sống hằng ngày là đăc trưng cơ bản của truyện.
    Truyện được chia ra thành một số kiểu loại:
    – Trong văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích,
    truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ.
    – Trong văn học trung đại: truyện văn xuôi chủ yếu viết bằng chữ Hán;
    truyện thơ Nôm.
    – Trong văn học hiện đại: Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.
    2.3.2.2. Đặc trưng truyện ngắn hiện đại
    Các văn bản truyện phần văn học Việt Nam hiện đại đọc chính thức trong
    chương trình Ngữ Văn THPT đều là truyện ngắn thuộc các giai đoạn 1945-1975;
    1975 đến hết thế kỉ XX. Do vậy, chúng tôi tập trung trình bày đặc trưng của truyện
    ngắn và đặc điểm của truyện ngắn hiện đại ở từng giai đoạn nói trên.
    23
    Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ: ít nhân vật, ít sự kiện; thể hiện nét riêng
    trong cách nắm bắt cuộc sống: hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện nét
    bản chất nhất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người; nội dung
    của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư,
    thế sự hay sử thi… Để thiết kế hoạt động khởi động cho các văn bản truyện ngắn,
    giáo viên cần xuất phát từ những số đặc trưng cơ bản của thể loại.
    – Nhân vật
    Truyện ngắn thường ít nhân vật, nhân vật ít được khắc họa tỉ mỉ, toàn diện,
    đầy đặn, thường hiện thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái
    tồn tại của con người. Nhân vật được coi là linh hồn của truyện ngắn, qua đó, nhà
    văn thể hiện những tư tưởng, tình cảm, quan niệm về cuộc đời.
    – Cốt truyện
    Truyện ngắn phản ánh đời sống qua cốt truyện. Cốt truyện là chuỗi cách sự
    kiện biến cố được tổ chức, sắp xếp một cách hợp logic nhằm phục vụ cho ý đồ tư
    tưởng nghệ thuật của nhà văn, trình tự trong truyện có thể bị đảo lộn so với trình tự
    đời sống. Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một vài biến cố, mặt nào đó của
    đời sống, các sự kiện tập trung trong một không gian, thời gian nhất định.
    – Tình huống truyện
    Tình huống truyện là hoàn cảnh chứa xung đột được nhà văn tạo lập để triển
    khai cốt truyện, đó là những sự kiện đặc biệt của đời sống trong đó chứa đựng
    những diễn biến, mâu thuẫn được nhà văn triệt để khai thác làm bật lên ý đồ nghệ
    thuật của mình. Trong truyện ngắn tình huống là “cái tình thế xảy ra truyện” để
    diễn tả “một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là cái khoảnh
    khắc chứa đựng cả một đời người” (Nguyễn Minh Châu). Tình huống truyện là cơ
    sở để cốt truyện phát triển một cách tự nhiên, hợp lí; góp phần thể hiện tư tưởng,
    tính cách của nhân vật, thể hiện chủ đề của tác phẩm.
    – Kết cấu
    Kết cấu là cách tổ chức tác phẩm: thể hiện ở phần mở đầu, kết thúc; sự lựa
    chọn, sắp xếp các chi tiết đời sống, sắp xếp các chương đoạn… Trong truyện ngắn
    phần mở đầu và kết thúc đóng vai trò quan trọng, nói như A.Sê-khốp, bậc thầy của
    24
    truyện ngắn thế giới: “Đối với tôi, viết truyện ngắn cốt nhất phải tô đậm cái mở
    đầu và kết luận”. Để cho “độ mở” của đoạn kết được rộng, tạo nên độ tin cậy và
    quyền chủ động của người đọc theo lí thuyết đồng sáng tạo, trong truyện ngắn hiện
    đại thường có một khoảng trống tự do ở cuối truyện. Lối kết thúc mở còn tạo ra sự
    bất ngờ làm cho câu truyện vì thế ám ảnh và có dư ba.
    – Chi tiết
    Chi tiết là những tiểu tiết của tác phẩm có thể là về phong cảnh, môi trường,
    chân dung, cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành vi, lời nói… Chi tiết nghệ thuật đóng
    vai trò quan trọng trong truyện ngắn. Không chỉ mang giá trị tạo hình, chi tiết còn
    mang sức khái quát lớn tô đậm tính cách nhân vật, thể hiện điểm nhìn, nghệ thuật
    kể chuyện của tác giả… tạo ra những tầng nghĩa sâu xa cho tác phẩm. Chi tiết cô
    đúc là bởi đây là những yếu tố nhỏ trong tác phẩm nhưng lại mang sức chứa lớn
    về tư tưởng và cảm xúc. Những chi tiết đặc sắc, độc đáo thường làm nên những
    truyện ngắn có giá trị, hấp dẫn, nói như M.Gor-ki: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn
    lớn”. Để có được những chi tiết nghệ thuật hay nhà văn phải có sự tìm tòi, sáng
    tạo, phải có vốn sống thực tế phong phú.
    – Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật
    Truyện ngắn được kể theo điểm nhìn của người kể chuyện. Người kể chuyện
    đóng vai trò là người dẫn dắt, miêu tả, phân tích, bình luận, làm sáng tỏ những gì
    cần thiết để người đọc cảm nhận rõ ràng, sâu sắc và đầy đủ nội dung tác phẩm.
    Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách
    nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả, chỉ vị trí để quan sát, cảm nhận, đánh giá
    (bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lí, tâm lí,
    văn hóa…). Giọng kể (hay chính là giọng điệu) là thái độ, tình cảm, lập trường tư
    tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
    định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân
    sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Giọng điệu trong tác phẩm có
    giá trị đa dạng, nhiều sắc thái dựa trên một giọng điệu cơ bản chủ đạo. Giọng kể
    (giọng điệu) quan trọng trong tác phẩm văn học vì nó phản ánh lập trường xã hội,
    25
    thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, là một biểu hiện của phong cách
    nhà văn, có tác dụng truyền cảm cho người đọc.
    – Ngôn ngữ
    Truyện ngắn là một thể loại yêu cầu rất cao về việc tổ chức ngôn ngữ. Ngôn
    ngữ truyện ngắn thường mang tính chất đậm đặc, chắt lọc, trong sáng và dễ hiểu,
    vừa mang đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi vì đặc trưng phản ánh cuộc sống theo
    phương thức tự sự, vừa gần gũi với ngôn ngữ thơ ca, vì đòi hỏi ngắn gọn, do
    yêu cầu của thể loại. Ngôn ngữ có nhiều hình thức khác nhau: ngôn ngữ người kể
    chuyện, ngôn ngữ nhân vật; lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm…
    2.3.2.3. Đặc điểm truyện ngắn Việt Nam hiện đại
    – Truyện ngắn giai đoạn 1945-1975
    Từ năm 1945 đến 1975 trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lớn lao:
    cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt 30 năm, công cuộc
    xây dựng cuộc sống mới, con người mới ở miền Bắc. Những sự kiện đó đã tác
    động mạnh mẽ, sâu sắc tới văn học nghệ thuật nói chung và truyện ngắn nói riêng.
    Truyện ngắn thời kì này chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
    mạn. Mỗi tác phẩm như một tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng đại
    của đất nước và cách mạng từ năm 1945 đến năm 1975: đấu tranh thống nhất đất
    nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều tác phẩm viết về sự đổi đời của con
    người, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách nhân vật trong môi trường xã hội
    mới. Ngoài ra còn có những truyện ngắn viết về hiện thực đời sống trước cách
    mạng với cái nhìn, khả năng phân tích và sức khái quát mới. Nhân vật chính trong
    các tác phẩm thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận
    mình với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả
    cộng đồng. Cái riêng tư đời thường ít được đề cập và nếu có cũng chủ yếu để nhấn
    mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của cá nhân đối với cộng đồng. Con người
    được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị, ở lẽ
    sống lớn và tình cảm lớn. Điểm nhìn của người cầm bút là cái nhìn có tầm bao quát
    của lịch sử, dân tộc và thời đại.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học từ 1945 đến sau 1975

    SKKN Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học từ 1945 đến sau 1975

    Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    1. Xuất phát từ vị trí của vấn đề
    Lí luận văn học cho rằng: Đối tượng và nội dung của văn học chính là cuộc
    sống, con người. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong
    tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng cũng là cõi nhân sinh lớn rộng
    ngoài kia. Con người trong nghệ thuật chính là sự phản ánh những mẫu người trong
    thực tại. Nhưng dù có là hai vòng tròn đồng tâm thì con người trong đời sống và con
    người trong nghệ thuật cũng không bao giờ là một. Bởi từ đời thực bước vào tác
    phẩm, hình tượng con người đã trở thành đứa con tinh thần của nhà văn, in dấu và thể
    hiện cả quan niệm, sự hình dung, cách thức và phương tiện tạo tác của chủ thể nghệ
    sĩ. Vì vậy, hoàn toàn chính xác khi cho rằng: tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con
    người chính là bước đi thiết thực để khám phá tính độc đáo, chiều sâu tư tưởng trong
    cách thể hiện con người của nhà văn cũng như của mỗi thời đại văn học.
    Tuy nhiên, thời đại nào, văn học ấy. Phải nói thêm, mỗi thời đại lại xây lên
    một quan niệm nghệ thuật mới về con người. Trải qua 30 năm chiến tranh (hết chống
    Pháp rồi chống Mĩ), với đại thắng mùa xuân năm 1975, chúng ta bước sang một trang
    mới: độc lập, thống nhất, đồng thời cũng phải vươn dậy mạnh mẽ để thay đổi chính
    mình. Văn học không nằm ngoài hiện thực lịch sử ấy. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật
    về con người trong văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay giúp
    chúng ta một lần nữa nhìn nhận rõ hơn một vấn đề quan trọng của văn học ở mỗi
    chặng đường lịch sử cũng như sự khác nhau giữa chúng, từ đấy thấy rõ hơn sự phát
    triển của tiến trình văn học dân tộc.
    2.Xuất phát từ thực trạng dạy và học:
    Trong thực tế dạy văn và học văn, không ít người còn chưa lí giải được: vì sao
    cũng là con người ấy nhưng xuất hiện trong văn học thời chiến tranh họ lại mang một
    suy nghĩ khác, một hành động khác. Trong suy nghĩ của học sinh, có thể các em đều
    ghi nhớ được rằng con người trong văn học 1945-1975 là con người mang vẻ đẹp sử
    thi, còn con người trong văn học sau 1975 là con người đời tư, đời thường; các em
    hoàn toàn có thể lấy được dẫn chứng cụ thể từ tác phẩm trong chương trình để làm
    sáng tỏ những đặc điểm cơ bản ấy. Nhưng lí giải vì sao lại có sự khác nhau như thế, vì
    sao lại có bước chuyển như vậy trong cách nhìn về con người ở các nhà văn thì vẫn
    còn không ít học sinh thực sự lúng túng.
    Nhiệm vụ của chúng ta là phải giúp các em hiểu thấu vấn đề để khi cần thiết
    các em có thể tự tin cắt nghĩa, giải thích; cũng là một cách thiết thực chúng ta góp vào
    phong trào chống học chay, học vẹt hiện nay.
    6
    II. Mô tả giải pháp
    1. Giải pháp 1: Giới thuyết chung về quan niệm nghệ thuật về con người
    Quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những vấn đề vấn đề được
    quan tâm hàng đầu trong nghiên cứu, lí luận phê bình. Dễ hiểu vì sao đã có nhiều
    quan niệm của nhiều nhiều nghiên cứu về vấn đề này.
    Nhà lí luận hàng đầu – Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật
    về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết , tầm đánh giá, tầm trí tuệ,
    tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người trong tác phẩm của mình”.
    Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách nhìn
    khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và
    chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
    Cũng về vấn đề này, một chuyên gia về văn học Việt Nam hiện đại đã viết
    trong một bài nghiên cứu: “Quan niệm về con người chính là những nguyên tắc chiếm
    lĩnh , cắt nghĩa đời sống của nhà văn, là nơi đánh dấu trình độ tư duy nghệ thuật, của
    một thời đại, một trào lưu, một tác giả”.
    “Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa: “Quan niệm nghệ thuật về con người
    là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với
    các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thước đo
    của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật”.
    Mới đọc, có lẽ nhiều người sẽ cho rằng: cùng một vấn đề nhưng mỗi người đã
    có một cách hiểu và một cách đặt vấn đề khác nhau.
    Song tìm hiểu kĩ sẽ thấy, các khái niệm trên khác nhau mà không mâu thuẫn,
    khác nhau mà vẫn thống nhất trong một cái nhìn về bản chất của quan niệm nghệ
    thuật về con người. Có khác chăng chỉ là do lối diễn đạt muôn hình muôn vẻ của ngôn
    ngữ nghệ thuật và nếu có sự khác nhau nào đó trong cách đặt vấn đề thì đó là do các
    nhà nghiên cứu đã nhìn nhận quan niệm về con người ở các góc độ khác nhau mà
    thôi.
    Từ việc tham khảo tài liệu, kết hợp với thực tế tìm hiểu, nghiên cứu và giảng
    dạy văn học, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một cách hiểu như sau:
    Quan niệm nghệ thuật về con người là phạm trù quan trọng của thi pháp
    học. Đó là cách nhìn, cách cảm, cách cắt nghĩa, lí giải và cách thể hiện đầy độc
    đáo, sáng tạo của mỗi nghệ sĩ, mỗi thời đại nghệ thuật về con người. Quan niệm ấy
    thể hiện cụ thể, sống động trong tác phẩm của nhà văn.
    7
    2. Giải pháp 2: Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 – 1975
    2.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa mới từ 1945 – 1975 và quan niệm nghệ thuật về con
    người
    2.1.1.Từ sự tác động của bối cảnh lịch sử xã hội mới, văn hóa mới…
    Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ là một bước ngoặt trong lịch sử, mà còn mở
    ra một thời đại văn học mới của dân tộc. Ba mươi năm văn học từ 1945 đến 1975 là kết quả,
    công sức sáng tạo lớn lao và phong phú của các thế hệ nhà văn, của cả dân tộc ta, đồng hành
    với sự nghiệp dựng xây, bảo vệ và phát triển chế độ XHCN. Như một quy luật, văn học luôn
    gắn liền với cuộc sống và có ích cho đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học ngày càng có vị
    trí rộng lớn và sâu xa trong đời sống xã hội, nhà văn ngày càng thấy rõ hơn trách nhiệm sáng
    tạo cao cả của mình. Vì mục tiêu Độc lập, Tự do và CHXH, sự nghiệp cách mạng vô cùng to
    lớn của Đảng, của toàn dân tộc đã dành cho văn học nghệ thuật một vai trò quan trọng “ Văn
    hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Bắt nhạy với yêu cầu
    của thời đại, các nhà văn đã tìm thấy con đường vươn tới lý tưởng Chân, Thiện, Mĩ của con
    người và nghệ thuật trong sự gắn bó với Cách mạng và kháng chiến. Hiện thực cách mạng
    nóng hổi và “ sắt lửa mặt trận” đã tạo nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao nhà văn, thổi
    bùng lên ngọn lửa trong tâm hồn họ. Chính những nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn nghệ,
    về trách nhiệm của nhà văn trong đời sống đã có ý nghĩa rất quan trọng trong ý thức nghệ thuật
    của văn học 1945 – 1975. Vì thế, những định hướng miêu tả con người của nền văn học mới đã
    được xác lập và phát triển.
    Song song với sự trưởng thành của cả nền văn học là trưởng thành về ý thức nghệ thuật
    của lớp lớp nhà văn nghệ sĩ. Đường lối văn nghệ luôn bám sát sự phát triển của cuộc sống và
    văn học, giữ vai trò chỉ đạo và định hướng, tạo điều kiện để mỗi nghệ sĩ có thể phát huy tài
    năng của mình để đóng góp vào sự nghiệp chung. Quan niệm nghệ thuật về con người vì lẽ đó
    cũng gắn chặt với nhiệm vụ và chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời
    sống, về tính giai cấp, tính dân tộc của văn học. Vì thế, vấn đề quan niệm về con người đã
    được trực diện nêu ra như một trọng điểm trong ý thức nghệ thuật của người nghệ sĩ, của nền
    văn học mới.
    2.1.2 …đến những quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945- 1975
    Trong quá trình phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám, quan niệm nghệ thuật về con
    người trong ý thức của nhà văn ngày càng phong phú và tăng cường khả năng cảm thụ, miêu tả
    cuộc sống và con người. Những tìm tòi, sáng tạo của mỗi tác giả là vô cùng đáng quý và cần
    thiết nhưng chỗ dựa của họ vẫn là sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đã trang bị cho đội ngũ nhà văn
    một phương pháp suy nghĩ, một cách nhìn mà họ vừa có thể hòa nhập vào vừa có thể tách ra để
    nhìn nhận, suy nghĩ và thấu hiểu. Có thể thấy, quan niệm về nhân sinh, cách hiểu và hình dung
    về con người, phương hướng đi sâu vào cuộc sống để khám phá con người trong ý thức nghệ
    thuật của giai đoạn 1945 – 1975 biểu hiện trên các khía cạnh sau:
    8
    – Nếu con người lý tưởng của văn học trung đại chủ yếu là những kẻ sĩ, những tài tử giai
    nhân; nếu văn học 1930 – 1945 chú ý đến những thanh niên trí thức hoặc hướng về tìm hiểu số
    phận, phẩm chất của những con người bé mọn thì trong giai đoạn 1945 – 1975, thực tế cách
    mạng đã mang lại cho người cầm bút những định hướng mới về quan niệm con người. Đối
    tượng thẩm mĩ chính của văn học giai đoạn 1945 – 1975 là con người quần chúng cách mạng.
    Vì thế, quan niệm con người trong ý thức nghệ thuật giai đoạn này được xây dựng trên sở quan
    niệm về con người cách mạng, về quần chúng cách mạng. Chính vai trò của quần chúng nhân
    dân trong cách mạng xã hội, trong thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc là nền
    tảng, là cơ sở nảy sinh ý thức cho quan niệm con người quần chúng của nền văn học mới.
    Trong suy nghĩ của người cầm bút, quần chúng nhân dân như một tập thể, như những con
    người cụ thể ngày càng phát triển phong phú và toàn diện hơn, trở thành nhân vật chính của văn
    nghệ. Từ đây, con người cao đẹp mà văn học hướng tới miêu tả là con người quần chúng cách
    mạng, là con người của cộng đồng dân tộc trong nhiệm vụ cách mạng với các phẩm chất cách
    mạng của mình. Cái đẹp, cái cao quý của con người mà nền văn học mới tìm tòi, phát hiện, xây
    dựng, cổ vũ là thuộc về những con người xuất hiện, trưởng thành cùng sự nghiệp cách mạng
    và kháng chiến, xây dựng CNXH và chống Mỹ cứu nước của toàn dân ta.
    – Vẻ đẹp thẩm mĩ của con người được nhìn nhận và thể hiện trong ý thức và hành động
    hướng về cách mạng, về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc. Vẻ đẹp ấy trước hết được
    biểu hiện ở sự giác ngộ và tự nguyện gánh lấy những sứ mạng xã hội, sứ mạng cách mạng của
    con người, ở những nỗ lực, cố gắng cải biến thiên nhiên, cải biến xã hội và bản thân vì hạnh
    phúc của nhân dân. Vẻ đẹp của nhân vật văn học phải gắn liền với tinh thần anh dũng, chí căm
    thù, xả thân vì dân tộc, quên mình vì lý tưởng. So với văn học công khai trước cách mạng,
    quan niệm về vẻ đẹp của con người quần chúng là biểu hiện mới của ý thức nghệ thuật 1945 –
    1975. Nhìn nhận con người trong sự gắn bó với lí tưởng xã hội tốt đẹp, với lực lượng cộng
    đồng với ý thức tự giác thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, văn học đã xây dựng được các nhân
    vật khỏe khoắn, phơi phới trong cái giản dị rất đời thường của con người, kế thừa được những
    thành tựu khám phá và thể hiện sức mạnh của con người lao động, con người yêu nước chống
    ngoại xâm, con người yêu tự do, chống áp bức bóc lột trong văn học truyền thống, mở rộng và
    khơi sâu vẻ đẹp sức mạnh của con người đến những tầm cao mới của dân tộc và thời đại, mang
    lại sức hấp dẫn và có tác dụng giáo dục mạnh mẽ cho văn học.
    Như vậy, với quan niệm về vẻ đẹp của con người gắn với ý thức về sứ mạng và lí
    tưởng cách mạng, với sức mạnh và hành động cải tạo và dựng xây cuộc sống của dân tộc
    ngày càng tốt đẹp, với tinh thần thời đại, văn học 1945 – 1975 đã thực sự đổi mới ý thức
    nghệ thuật từ trong quan niệm con người. Trên cơ sở quan niệm về con người ấy, các nhà
    văn đã sáng tạo ra những hình tượng điển hình, sống động, khắc họa chân dung và vẻ đẹp
    tinh thần của con người Việt Nam trong một chặng đường lịch sử sáng chói chiến công của
    dân tộc. Tất cả những điều đó được minh chứng rõ nét qua các thể loại tiểu thuyết, truyện
    ngắn, thơ ca – các thể loại đạt được những thành tựu đáng kể của giai đoạn văn học này.
    9
    2.2. Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện ở phương diện nội
    dung trong văn học 1945 – 1975
    2.2.1. Con người sử thi và những dạng thức biểu hiện:
    Trong ý thức nghệ thuật của nền văn nghệ mới, con người được chú ý khám phá
    thể hiện trước hết ở các phẩm chất anh hùng cao đẹp với thái độ ngợi ca, biểu dương như
    những tấm gương ngời sáng. Cách nhìn nhận đánh giá ấy đã gắn liền văn học với cảm
    hứng sử thi và con người trong văn xuôi 1945 – 1975 cũng chủ yếu được miêu tả từ quan
    niệm sử thi về con người như thế.
    2.2.1.1.Con người sống đời sống cộng đồng của dân tộc và cách mạng
    Từ cuộc phục sinh của tâm hồn dân tộc trong lòng mỗi người dân và mỗi nghệ sĩ
    sau Cách mạng tháng Tám, từ những phẩm chất tốt đẹp của các tầng lớp nhân dân trong
    hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng đất
    nước ngày càng đổi mới, các tác giả văn xuôi 1945 – 1975 đã khắc họa nổi bật hình ảnh
    những thế hệ người Việt Nam sống hết mình với sự nghiệp chung của cộng đồng. Ở loại
    hình nhân vật này, đời sống chung của dân tộc và cách mạng được cảm nhận như đời sống
    riêng của con người. Nhân vật như không hề có cảm giác về riêng bản thân mình, không
    có cá tính, không nhu cầu, đòi hỏi. Nhân vật phát ngôn như đại diện cho ý thức của cả một
    lớp người, hoặc hòa tan vào tập thể, bình đẳng với mọi người trong những hoạt động vì
    nghĩa lớn, vì lí tưởng chung. Xuất hiện trong các tác phẩm văn xuôi viết về đêm trước của
    cuộc Cách mạng là kiểu nhân vật sống cuộc đời lầm than đói nghèo của nhân dân, họ cất
    tiếng nói phê phán chế độ thực dân, phát xít, đòi quyền sống. Thảm họa đói năm 1945
    trong đời sống dân tộc cũng được ghi đậm trong Vợ nhặt (Kim Lân), Lột xác ( Nguyễn
    Tuân) …Anh Tràng có thể khác người ở việc lấy vợ trong hoàn cảnh trời đất tăm tối vì
    đói khát nhưng cả câu chuyện ấy cũng tồn tại trong khung cảnh nghèo đói chung của
    không chỉ xóm ngụ cư mà của cả bao vùng miền đất nước. Nhân vật Thị không giống
    muôn người phụ nữ khác trong cách liều lĩnh theo không một người đàn ông xa lạ về nhà,
    sẵn sàng gửi phận cho người vừa đãi mình bốn bát bánh đúc và đâu biết hạnh phúc ấy sẽ
    là dòng trong hay bến đục đợi chờ nhưng câu chuyện đầy éo le của Thị được nảy sinh từ
    chính cái đói trong thảm họa kinh hoàng của dân tộc năm ấy và số phận bất hạnh đó của
    Thị chỉ là một trong số ít nhưng điển hình cho bao người phụ nữ khác cũng lăn lóc trong
    cái chốn chợ đời ấy. Cảnh đời cơ cực ấy cũng giống như nhân vật Xan trong truyện ngắn
    Buổi chiều xám , nhân vật người ăn mày trong Tiếng nói của Nguyên Hồng…
    Khi cả dân tộc tưng bừng chào đón và một lòng tham gia cách mạng, trong sáng tác
    của các nhà văn Hoài Thanh, Trần Đăng, Nguyễn Tuân, Nam Cao…xuất hiện mẫu hình
    mới về con người sống trong những ngày náo nức đó. Đó là những cô thôn nữ “ tươi cười
    trong nón”, nai nịt gọn gàng cứ chiều chiều lại tập múa đại đao trong sân trường ( Dân khí
    miền Trung – Hoài Thanh); đó là những đứa trẻ bán báo, bác hàng rong, anh em thợ
    thuyền, các bà, các mẹ,… ( Một lần tới thủ đô – Trần Đăng). Cùng với phong trào kháng
    10
    chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến, đội ngũ những người viết ngày cảng đông
    đảo. Đề tài về con người kháng chiến ngày cảng mở rộng, đồng thời cách nhìn con người
    trong cuộc sống cộng đồng ngày càng được khẳng định. Hình tượng những đơn vị bộ đội,
    những cơ quan, những làng quê, những cán bộ, đội viên vệ quốc, những chị cứu thương,
    em liên lạc, những bà mẹ, người dân ở mọi miền quê, mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh được
    nhìn nhận và miêu tả trong những hoạt động “ toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng
    chiến”, theo tinh thần “ Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Đó là những người dân vùng
    căn cứ địa kháng chiến trong tập Núi Cứu Quốc ( Tô Hoài) một lòng tin vào cách mạng, ở
    cụ Hồ, ở cán bộ dù trong hoàn cảnh nào cũng hết lòng đi theo tiếng gọi của sự nghiệp
    chung. Cứ nghe Độ nói về những người dân quê trong Đôi mắt ( Nam Cao) chuyện trò:
    “viết chữ Quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Mở miệng ra
    là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít… Họ hát Tiến quân ca như
    người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm”. Luôn hướng về
    kháng chiến, kiến quốc của dân tộc là những dấu hiệu của kiểu nhân vật làm nhiệm vụ
    chung, nghĩ sự nghiệp chung” rất phổ biến trong văn xuôi kháng chiến.
    Con người sống trong cuộc sống cộng đồng “ vì nghĩa quên thân” đã từng xuất hiện
    trong văn học dân tộc. Nhưng chỉ sau cách mạng, phẩm chất này mới này được ý thức một
    cách đầy đủ nhất. Vẫn là con người của đời sống cộng đồng, nhưng từ sau cách mạng,
    nhân vật ông Hai làng chợ Dầu ( Làng – Kim Lân) đã có những đổi thay. Từ con người
    của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp chung. Sự thay đổi
    trong tình cảm, trong cách nhìn của ông với ngôi mộ của viên tổng đốc,với phong cảnh
    trong làng, sự thay đổi trong thái độ của ông trước và sau khi nghe tin cải chính về làng
    đã chứng tỏ điều đó. Nếp sống của ông, niềm vui, nỗi buồn của ông là những minh chứng
    sinh động của hình tượng con người toàn tâm, toàn ý trong đời sống kháng chiến chung
    của dân tộc.
    Văn xuôi chống Mỹ cũng xây dựng hàng loạt hình tượng những con người sống hết
    mình cho lý tưởng Độc lập – Tự do. Trong truyện ngắn Nguyễn Thi, những người dân, từ
    những em bé, đến mẹ Nguyễn thị Út ( Mẹ vắng nhà) hay Những đứa con trong gia đình
    đều náo nức tham gia, bận rộn hay vui mừng lo lắng theo diễn biến của trận đánh. Khó có
    thể kể hết các nhân vật luôn hòa mình giữa phong trào, giữa cuộc chiến đấu như Phước (
    Hoa rừng – Dương Minh Hương), Hựu, Quế ( Khói – Anh Đức), Cam ( Hai anh em –
    Phan Tứ), Ông Hai (Truyện bên bờ sông Vàm Cỏ- Lê Văn Thảo)…luôn coi việc tham gia
    cách mạng, cầm súng đánh giặc giải phóng quê hương, thống nhất đất nước là niềm vui
    sướng nhất trên đời.
    Như vậy, trong suốt 30 năm sau Cách mạng tháng Tám, bám sát cuộc sống của
    nhân dân bảo vệ và xây dựng đất nước, văn học đã sáng tạo nhiều dáng vẻ cụ thể tô đậm
    biểu tượng con người sống đời sống cộng đồng, sống với những lo toan, vất vả những vui
    sướng tự hào chung của Tổ Quốc, nhân dân. Những nét vẽ ấy khiến văn học nước ta đã
    11
    thể hiện kịp thời và bao quát các sự kiện cơ bản của đời sống xã hội, giúp văn học cảm
    nhận và miêu tả được sự vươn mình trưởng thành của con người dưới ánh sáng cách
    mạng, cảm nhận và miêu tả nhân cách mới, tầm vóc và sức mạnh mới mẻ, kỳ vĩ chưa từng
    có của các thế hệ người Việt Nam làm nên những chiến thắng lịch sử suốt hai cuộc kháng
    chiến chống pháp và chống Mỹ.
    Không chỉ xuất hiện ở thể loại văn xuôi, lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca Việt Nam,
    các nhà thơ giai đoạn 1945 – 1975 mang tới một quan niệm nghệ thuật về con người xã
    hội với một số đông, tạo thành một lực lượng xã hội hùng hậu. Họ là số đông “ vạn nhà”,
    vạn kiếp” “vạn đầu”, là “bao hồn khổ” với “ những lưng cong xuống luống cày, là “ khối
    người, khối đời, đoàn chiến hạm, đoàn chim quyết thắng, dòng người cuộn thác” ( Từ ấyTố Hữu). Họ là “ Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” ( Tây Tiến _ Quang Dũng), là “ Lũ
    chúng tôi, bọn người tứ xứ…” ( Ngày về – Chính Hữu), là “người người lớp lớp” ( Đất
    nước- Nguyễn Khoa Điềm) sống giản dị, bình tâm, vô danh mà làm nên Đất Nước…. Các
    tác giả đã xây dựng nên những hình tượng tập thể kì vĩ, đầy sức mạnh, hào hùng chưa
    từng có trong thơ ca cách mạng . Số đông ở đây không chỉ là số nhiều, nó là sự giàu có,
    phong phú, bất tận, vững bền, vô địch. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gọi là “nhân dân”,
    Tố Hữu gọi họ bằng nhiều cách khác nhau “ bạn đời, bạn lòng, bạn muôn đời”… Chính
    Hữu gọi bằng hai tiếng “đồng chí”…
    2.2.1.2. Con người xả thân vì nghĩa lớn
    Trong cách nhìn nhận con người của văn học dân tộc, cha ông ta đã từng đề cao
    những nhân vật “ trọng nghĩa khinh tài”, những nhân vật “ vị nghĩa vong thân”. Sau Cách
    mạng tháng Tám, trong quan niệm của những người làm chủ cuộc đời, làm chủ quê hương
    đất nước và giác ngộ lí tưởng tiên tiến của thời đại, “trung với nước, hiếu với dân” là tiêu
    chuẩn đạo đức cao nhất. Đó là cách sống quên mình để thực hiện nhiệm vụ cách mạng, để
    hoàn thành sự nghiệp chung. Trong mọi hoàn cảnh, con người xả thân vì nghĩa lớn luôn
    hướng về lợi ích chung, gạt bỏ những đòi hỏi và quyền lợi riêng tư để thực hiện nhiệm vụ.
    Trong văn xuôi viết về đề tài kháng chiến, các tác giả đã thể hiện loại hình nhân vật
    này từ nhiều phương diện khác nhau của cuộc sống. Có kiểu nhân vật tự thu xếp, khắc
    phục hoàn cảnh, nguyện vọng,thói quen riêng để gia nhập vào sự nghiệp chung như nhân
    vật chính trong Một đêm năm ngoái ( Nguyễn Huy Tưởng), nhân vật Sìn ( Đi dân công –
    Tô Hoài) dù biết rõ cảnh vợ con nheo nhóc, vất vả vẫn thu xếp việc nhà để hoàn thành
    công việc Cách mạng giao. Hay nhà văn Đỗ Chu kể chuyện kháng chiến của vợ chồng
    anh Khang, chị Tiềm ( Mùa cá bột), chị nói với anh “ nếu còn Tây thì nhất định không
    chịu có con”…Hay kiểu nhân vật gắn thù nhà với nợ nước, vượt qua những mất mát riêng
    tư để phấn đấu cho những thắng lợi chung. Nhân vật Tnú ( Rừng xà nu – Nguyễn Trung
    Thành) đã vượt lên nỗi đau khôn xiết của đời mình. Mười đầu ngón tay bị kẻ thù thiêu đốt
    khiến thể xác anh như rụng rời, ứa máu. Vợ con bị kẻ thù sát hại, tra tấn bằng roi sắt một
    12
    cách mạn rợ trước mắt anh khiến nỗi đau như đẩy đến cùng cực của đời người. Nén chặt
    nỗi đau trong tim và gạt đi nước mắt, Tnú đã tham gia lực lượng, giết tên tướng chỉ huy
    trong hầm cố thủ bằng chính đôi bàn tay tàn tật của mình. Ba năm đi lực lượng, nỗi nhớ
    quê hương cũng thật khôn xiết nhưng chỉ được phép cấp trên, anh mới về thăm làng và
    sáng hôm sau lại vội vã lên đường. Đó còn là một thiếu nữ đẹp từ cái tên đến vóc dáng
    con người như Nguyệt ( Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu) dù mảnh dẻ là thế
    mà kiên cường dám giành các ác liệt của đạn bom về mình để che chở cho người lính lái
    xe Trường Sơn trong lần đầu gặp gỡ. Với các mô típ nghệ thuật trên, văn xuôi 1945 –
    1975 đã nêu bật và ca ngợi những tấm gương quên mình vì nước của tầng lớp những con
    người Việt Nam, họ là những con người bình thường, biết chủ động tự vươn lên để trở
    thành con người cao cả, khắc họa và mở rộng hình ảnh con người sử thi trong nền văn học
    mới.
    Liền mạch với văn học kháng chiến, hình thức nhân vật xả thân vì nghĩa lớn cũng
    được phổ biến ở các sáng tác viết về cuộc sống và con người trong sự nghiệp đấu tranh
    giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hình tượng các thế hệ miền Nam kiên cường,
    chấp nhận hi sinh gian khổ để giữ gìn uy thế của cách mạng, để thể hiện tình cảm của
    người dân Thành Đồng Tố Quốc với miền Bắc, với Bác Hồ, với sự nghiệp chung. Toát lên
    ở hầu hết các nhân vật là lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, sẵn sàng quên
    mình vì sự nghiệp chung như hình tượng ông Tám Xẻo Đước ( Đất – Anh Đức) thà chết
    chứ không dời nhà để giữ trọn ân nghĩa với cách mạng, làm gương cho lối xóm, giữ vững
    phong trào đấu tranh chống địch dồn dân, lập ấp. Trong truyện ngắn của Phan Tứ, không
    chỉ có bác Tám Sành ( Lửa đêm) bị cảm nặng vẫn tham gia đốt rào, phá ấp chiến lược,
    cùng bà con nổi dậy mà còn có Cam (Hai chị em) cũng hăng hái lao vào trận mong giải
    phóng cho quê hương…Truyện ngắn Nguyễn Trung Thành đã khắc họa được những thế
    hệ nối tiếp nhau, một lòng đi theo cách mạng, bất chấp gian khổ hi sinh ( Rừng xà nu),
    nhà văn cũng nhiệt thành ngợi ca những du kích, chiến sĩ giải phóng quân vì mục đích diệt
    thù mà quên cả mạng sống của mình ( Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc)
    Cùng với văn xuôi giai đoạn này, thơ ca cũng khơi gợi, đề cao tinh thần yêu nước,
    lòng tự hào dân tộc, ý thức làm chủ và quyết tâm xả thân của con người thời đó (Ðất
    nước – Nguyễn Ðình Thi ; Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông ; Bên kia sông Ðuống –
    Hoàng Cầm ; Ðôi mắt người Sơn Tây – Quang Dũng). Các phẩm chất của kiểu con người
    sử thi trong thơ ca cũng được biểu hiện ở tinh thần đoàn kết, đấu tranh, có tình hữu ái
    giai cấp, tình cảm nhân loại, khát vọng tự do, xả thân vì quê hương đất nước… Đó chính
    là sự kế thừa những vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam như lòng thương người,
    tình cảm nhân đạo, tình yêu nước, tình yêu nam nữ và sáng tạo ra nét mới phù hợp với
    hoàn cảnh thời đại. Thơ Tố Hữu là một minh chứng điển hình cho điều đó. Từ con người
    số đông mang hận thù xã hội cũ, say mê tương lai, quyết tử đấu tranh của Từ ấy, đến con
    người làng quê bình thường đầy tin tưởng, ân tình sâu nặng đối với cách mạng trong Việt
    13
    Bắc, con người trẻ trung sung sức, son sắt mang tầm vóc đất nước của Gió Lộng, con
    người bốn nghìn năm đầy khí phách hiện ngang trong Ra trận và con người thể chất,
    xương thịt nhưng rất đỗi kiên cường, anh dũng trong Máu và hoa. Mỗi quan niệm mới về
    con người của Tố Hữu đều rọi một ánh sáng mới, mở rộng giới hạn thể hiện các khả năng
    cách mạng vô hạn của con người Việt Nam luôn sống bằng đạo lý, lẽ phải, tình thương,
    cao hơn mọi thử thách gian khổ và luôn luôn gắn bó với thiên nhiên, đất nước, Tổ quốc.
    2.2.1.3.Con người tìm thấy ý nghĩa và giá trị cuộc đời mình trong sự gắn bó với cộng
    đồng
    Văn xuôi 1945 – 1975 đã góp phần khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp chói ngời và khả
    năng cải tạo cuộc sống, cải tạo con người của cách mạng và thời đại khi xây dựng kiểu
    nhân vật hồi sinh nhờ Cách mạng. Lột xác của Nguyễn Tuân đã thể hiện khá tỉ mỉ và cảm
    động hình tượng chàng thanh niên Nguyễn đi tìm ý nghĩa và giá trị cuộc sống cho mình.
    Anh đã có những giây phút bế tắc, tự cho rằng cuộc đời mình là vô nghĩa. Rồi Nguyễn
    gặp Cách mạng, soi mình vào cuộc đời chung rộng lớn, anh đã từng bước tìm thấy niềm
    tin trên con đường hòa vào với sự nghiệp chung. Trong Vợ nhặt, Kim Lân để cho vợ
    chồng Tràng bén duyên hạnh phúc vì cái đói cũng đã nghĩ đến “ đoàn người đói ầm ầm
    kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”, nghĩ tới việc tham gia cách mạng
    như là con đường để giữ gìn mạng sống và hạnh phúc vừa mới nhen nhóm của mình.
    Con đường đi của Nguyễn, của vợ chồng Tràng, dù xuất phát từ hoàn cảnh khác
    nhau, cũng đi chung con đường của Độ ( Đôi mắt – Nam Cao), của vợ chồng A Phủ, Lưu,
    Hoan ( Đường về – Nguyễn Đình Thi)… Nhờ sức mạnh của bản năng sống mãnh liệt mà
    Mị và Aphủ dìu nhau thoát khỏi ách bóc lột, sự đày đọa bố con Thống Lí, nhưng sau khi
    gặp A Châu, gặp cách mạng, họ mới thực sự sống tự do, chống lại áp bức bất công. Như
    A Phủ nói với Mị: “ Em phải đi họp du kích thì cái gan em nó mới to ra, mới khỏi sợ, mới
    biết thù nó được” Và chỉ trên đường cùng chồng đi họp du kích bàn cách đánh giặc, lần
    đầu tiên nghe đến bố con Pa tra, Mị không còn thấy sợ nữa”. Hay nhà văn Độ ( Đôi mắt –
    Nam Cao), từ tình trạng bế tắc “ chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo không biết
    bán cho ai”, Độ đã tìm thấy niềm tự tin ở sự dẻo dai “ đi hàng mười lăm cây số, ngủ ngay
    trong nhà in, đèn sách và máy chạy ầm ầm, tìm thấy những cảm hứng mới cho văn nghệ”
    khi “đi theo bộ đội, đi diễn kịch tuyên truyền, nhập bọn với đoàn văn hóa kháng chiến”,
    cuộc sống của Độ như được hồi sinh với những trang đời mới như thế. Xây dựng kiểu
    nhân vật này chứng tỏ các tác giả đã tiếp cận dòng chảy lớn của phong trào dân tộc từ
    những cảnh ngộ đa dạng của cuộc sống con người, phản ánh và cắt nghĩa đầy đủ hơn lực
    lượng và sức mạnh chiến thắng của nhân dân cũng như khả năng cảm hóa, tóa sáng của sự
    nghiệp Cách mạng.
    2.2.1.4.Con người hiện thân cho dân tộc và thời đại
    14
    Kiểu nhân vật hiện thân cho dân tộc và thời đại là những con người mang ý thức,
    tư thế tiêu biểu cho dân tộc và thời đại. Loại hình nhân vật này không chỉ sống đời sống
    chung của cộng đồng, không chỉ hết mình vì tập thể mà còn là những hình tượng kết tinh
    và tiếp nối những phẩm chất tốt đẹp trong trường kì lịch sử của dân tộc, quê hương, giác
    ngộ sâu sắc lí tưởng tiên tiến của thời đại, trở thành hiện thân của sự gặp gỡ giữa quá khứ
    và hiện tại, đại diện cho cộng đồng. Đâycũng là kiểu nhân vật có ý nghĩa khái quát và tầm
    vóc sử thi
    Từ những ngày đầu kháng chiến, các tác giả truyện ngắn đã phát hiện và miêu tả
    kiểu nhân vật suy nghĩ và hành động với tư cách là người dân nước Việt, con cháu của
    Bác Hồ. Dù già hay trẻ, khoẻ mạnh hay thương tật, chiến đấu ở chiến trường hay sinh
    sống ở hậu phương… những nhân vật này đều thể hiện sức mạnh và niềm tự hào của dân
    tộc vừa được giải phóng. Một em bé 13, 14 tuổi mang tinh thần là Cháu Bác Hồ ( Nguyễn
    Công Hoan) dùng dao bắt hai tên xâm lược đền tội, khi bị thương chỉ “nghĩ đến Bác và
    gọi Bác”. Tình cảm với lãnh tụ là một biểu hiện của tình cảm với đất nước và mỗi nhân
    vật như đều cảm thấy mạnh mẽ hơn. Đọc Làng ( Kim Lân), ta còn nhớ một chi tiết Kim
    Lân khắc họa hình ảnh nhân vật ông Hai khi ông đau khổ vì bị coi là dân của làng theo
    giặc. Sức mạnh duy nhất để ông có thể tự tin ở danh dự của mình được khơi lên từ niềm
    tin và lòng trung thành của bố con với Cụ Hồ, dù trong trường hợp nào,ông cũng thuộc về
    Cách mạng và kháng chiến. Nhân vật Hoàng ( Đôi mắt – Nam Cao) khi muốn chứng minh
    với Độ rằng mình vẫn thuộc về cộng đồng nhân dân, vẫn tin tưởng ở kháng chiến đã viện
    lí do “ có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ”. Hay có những nhân vật chỉ thoáng xuât hiện trong
    truyện nhưng tính chất đại diện cho dân tộc lộ ra rất rõ khi họ được miêu tả với ý thức
    chung của cộng đồng. Một anh thanh niên vác bó tre đi ngăn quân thù mang ý thức “ cuộc
    trường kì kháng chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn…”. Hay cán bộ A Châu ( Vợ
    chồng A Phủ – Tô Hoài) chỉ có ước mong “ bao giờ ta lấy lại độc lập, bấy giờ tha hồ đi, đi
    đâu cũng được ở yên, làm ruộng làm nương, làm buôn làm bán, ở đâu cũng sung
    sướng…”. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng nhìn thấy ở mỗi sự việc, con người cụ thể kiểu
    nhân vật biểu hiện sự vận động và khí thế chung của thời đại. Các tác giả thường bộc lộ
    cách cảm nhận và miêu tả nhân vật trong những liên tưởng khái quát sâu rộng. Những đổi
    thay của cảnh vật và con người ở nông trường Điện Biên ( Mùa Lạc – Nguyễn Khải)
    không chỉ liên quan đến Đào, Duệ…mà cũng là câu chuyện “ cuộc sống vĩ đại đã trở lại
    rồi”, là chuyện sức vóc con người có thể thay đổi được cuộc sống nhiều đến thế.
    Thời kì chống Mỹ, trong văn xuôi xuất hiện phổ biến hàng loạt hình tượng con
    người hiện thân của truyền thống chống ngoại xâm, tiêu biểu cho sức mạnh của các thế hệ
    người Việt Nam không ngừng đấu tranh cho lí tưởng Độc lập, Tự do và chủ nghĩa xã hội.
    Tầm vóc của con người Việt Nam chống Mỹ không chỉ thể hiện trong chiều rộng của
    miền vùng đất nước, trong chiều sâu của truyền thống dân tộc mà còn bằng dấu hiệu và
    thước đo chung của nhân loại trên tầm cao thời đại. Hình tượng Chiến và Việt của Những
    15
    đứa con trong gia đình ( Nguyễn Thi) không chỉ là hình ảnh cụ thể của cả thế hệ, cả dân
    tộc vùng dậy đau thương mà còn là sự tiếp nối truyền thống oanh liệt của cha ông thủa
    trước. Các nhân vật trong Rừng xà nu ( Nguyễn Trung Thành) được miêu tả như hiện thân
    của truyền thống bất khuất gìn giữ buôn làng và đoàn kết đánh giặc của dân tộc Tây
    Nguyên. Sâu thẳm trong sức mạnh diệt thù, trong tâm hồn Tnú là cả quá trình trưởng
    thành nhờ sự nuôi dưỡng dạy dỗ của buôn làng và cán bộ cách mạng, là “ tiếng chày
    chuyên cần, rộn rã của người đàn bà và những cô gái Stra, của mẹ anh ngày xưa, của Mai,
    của Dít từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi” Cũng vậy, ông Tám Xẻo Đước (
    Đất – Anh Đức), ông Tư ( Giấc mơ ông lão vườn chim- Anh Đức), ông Sần ( Về làng –
    Phan Tứ)… là những người mang truyền thống gắn kết nhất mực với quê hương, bởi vì
    trên mảnh đất ấy, con người đã nối nhau làm ra lịch sử của mình. Hay tiếp bước cụ Mết (
    Rừng xà nu) là các thế hệ Tnú, Mai, anh Brôi, sau đó là Dít, bé Heng. Họ giống như
    những thế hệ xà nu với sức sống bất diệt mà đạn đại bác không thể tiêu diệt nổi. Tiếp nối
    ông nội là ba, má, chú Năm (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi) và sau đó là
    Việt, Chiến. Dòng sông truyền thống của gia đình Việt được hòa kết từ khúc thượng
    nguồn đến hạ nguồn, khúc sông sau hứa hẹn sức chảy mãnh liệt hơn khúc sông trước và
    hòa vào dòng sông truyền thống của cả dân tộc.
    Cùng chung đặc điểm đó về con người trong văn xuôi, thơ ca cũng khắc họa được
    những hình tượng vừa bình thường, chân chất vừa phi thường, chói sáng. Truyền thống
    cha ông và khí phách của giai cấp vô sản được kết tinh ở người anh hùng thời đại mới.
    Tiêu biểu hơn cả là hình ảnh người Vệ quốc quân, hình tượng Chủ Tịch Hồ Chí Minh
    kính yêu. Rất nhiều bài thơ hay về Bác : Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố Hữu) ; Ảnh
    cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu) ; Bộ đội ông Cụ (Nông Quốc Chấn); Ðêm nay Bác
    không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về lãnh tụ, đó là một
    con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị, khiêm tốn.
    Đó còn là những con người có lí tưởng cao cả vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội,
    có ý thức sâu sắc về tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại. Mỗi cá nhân được thể hiện như là
    biểu hiện tập trung ý chí, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng, dân tộc, thời đại. Nói về
    chị Trần Thị Lý, Tố Hữu viết:
    Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại
    Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
    Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời
    Cho quê hương em, cho Tổ quốc, loài người
    Khám phá và miêu tả những con người tiêu biểu của thời đại mình bao giờ cũng là khát
    vọng của các nhà văn chân chính ở mọi thời đại. Lịch sử văn học các thời đại đều gắn liền
    với mẫu người tiêu biểu của thời đại ấy. Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu; Hoa ngày
    thường, Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới, Ngày vĩ đại của Chế Lan
    Viên; nhiều bài thơ của Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Huy Cận, Phạm Tiến
    16
    Duật, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nam Hà… đều xây dựng được những hình tượng
    tiêu biểu cho ý chí, khí phách của con người và thời đại. Lâm Thị Mỹ Dạ đã phát hiện ra
    sự hoá thân của con người vào đất nước lung linh kì ảo:
    Em nằm dưới đất sâu
    Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
    Đêm đêm, tâm hồn em toả sáng
    Những vì sao ngời chói lung linh
    Có phải thịt da em mềm mại trắng trong
    Đã hoá thành những vầng mây trắng?…
    (Khoảng trời hố bom)
    Lê Anh Xuân khắc họa một dáng đứng Anh Giải phóng quân, dáng đứng Việt
    Nam:
    Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng
    Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
    Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
    Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
    Đó là những con người dù ở trong hoàn cảnh nào cũng sống với những lí tưởng lớn
    lao, những tầm vĩ mô trong ý thức về dân tộc, thời đại, lịch sử. Con người ấy đối diện với
    thời gian hai mươi thế kỉ của dân tộc để tự hào Cả năm châu chân lí đang nhìn theo (Tố
    Hữu). Trong thời đại ra ngõ gặp anh hùng, với sức mạnh dân tộc dồn tụ Bốn mươi thế kỷ
    cùng ra trận (Tố Hữu), con người cũng như sống lại với sự thử thách và lựa chọn của cha
    ông, đồng cảm với khí phách hào hùng, ngưỡng mộ những chiến công oanh liệt. Không
    gian, thời gian được đo bằng kích thước vĩ mô như thời đại, thế kỉ, có khi kết hợp với
    thước đo vi mô nhưng đều biểu hiện con người trong tầm vóc lớn lao, kì vĩ. Khí phách của
    tổ tiên và truyền thuyết lịch sử sống dậy, xôn xao náo nức trong những trang thơ:
    Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
    Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng
    (Chế Lan Viên)
    Mang lửa tự ngàn năm về trước
    Lấy từ thưở hoang sơ
    Giữ qua đời này đời khác
    (Phạm Tiến Duật)
    Có thể nói, hướng vào đời sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại, các
    nhà thơ, nhà văn trong giai đoạn 1945 – 1975 đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật
    cao đẹp về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống, vừa
    thấm sâu tinh thần thời đại.
    17
    2.2.2. Những nhận thức về con người cá nhân
    Tuy nhiên, nền văn học của 30 năm sau Cách mạng cũng như cả dòng văn học
    mang cảm hứng anh hùng không hề bỏ qua lĩnh vực con người cá nhân. Trong văn xuôi,
    con người cá nhân được phát hiện, cảm nhận, miêu tả khá đa dạng qua nhiều kiểu nhân
    vật. Nổi bật là kiểu nhân vật mang những đặc điểm và nhu cầu tự nhiên có nhu cầu khẳng
    định mình trước cuộc đời, muốn được sống, được hưởng hạnh phúc, muốn biến những mơ
    mộng, những nguyện vọng riêng thành hiện thực. Có kiểu nhân vật sống sâu sắc với
    những mất mát đau thương trong mối thù chung, họ cũng có những nỗi đau khôn nguôi
    về thể xác. Ngoài ra còn có kiểu nhân vật mang tính cách năng động phức tạp, dấu ấn cá
    nhân hiện lên qua những suy nghĩ, việc làm trực tiếp hướng về bản thân, hoặc không dễ
    quy kết đơn giản…Những kiểu nhân vật như vậy chứng tỏ các tác giả văn xuôi giai đoạn
    này không chỉ cảm thụ và đánh giá con người chủ yếu ở phương diện sử thi mà còn coi
    các biểu hiện cá nhân là một phạm vi cuộc sống mà văn học khám phá, ghi nhận để làm
    nhạy bén và giàu có hơn thế giới tinh thần của con người. Vì dung lượng chuyên đề
    không cho phép, nên chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu kiểu
    nhân vật này. Xét cho cùng, đóng góp của nền văn học này chính là sáng tạo ra kiểu nhân
    vật sử thi với những biểu hiện của nó, khẳng định sự trưởng thành,vươn lên của con người
    của dân tộc trong hoàn cảnh đặc biệt của dân tộc.
    Ở thể loại thơ, nhân vật trữ tình dù có xa lạ với những nét mềm yếu, đau thương
    nhưng người ta vẫn không né tránh sự hi sinh, mất mát. Cái chết được nói tới là một cách
    để khẳng định sự bất diệt của con người trong ân nghĩa thuỷ chung, trong sự sống muôn
    đời; khẳng định sự bất tử của mỗi cá nhân hữu hạn trong Tổ quốc. Từ cái chết của người
    chiến sĩ vô danh trong Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, đến sự hi sinh của người
    thanh niên xung phong trong bài thơ của Lâm Thị Mĩ Dạ, đều chung một nguồn cảm
    hứng: đất nước, Tổ quốc chính là cõi vĩnh hằng, bất diệt mà con người có thể hoá thân.
    Những khía cạnh bình thường khi được nói tới cũng nhằm thể hiện trạng thái tinh thần
    vượt lên tình thế của một dân tộc vốn lạc quan, tự tin, quyết thắng. Người ra đi trong lòng
    có “hương thầm”, “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “tiếng cười hăm hở đầy sông, đầy
    cầu”. Tình yêu đôi lứa quyện chặt trong tình yêu Tổ quốc. Vì đất nước người ta hy sinh,
    đất nước cũng sinh ra để vì tình yêu đôi lứa: Anh yêu em như yêu đất nước (Nguyễn Đình
    Thi); Đất nước là nơi ta hò hẹn (Nguyễn Khoa Điềm); Đất nước theo em ra ngõ một mình
    (Hữu Thỉnh)… Người chiến sĩ mang theo lòng yêu nước, mang theo tình yêu mà ra trận.
    Trên đường ra trận, họ còn nhận thêm tình yêu Ngọn đèn bọc trong ống bơ/ Để em mờ tỏ
    đến giờ trong tôi (Hữu Thỉnh); Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi/ Lý ngựa ô em hát
    đợi bên cầu (Phạm Ngọc Cảnh). Và cái đích cuối con đường đánh giặc của họ là làm sống
    lại những tình yêu, xóa sạch những đợi chờ hóa đá của cả nghìn năm trước: Anh sẽ về cho
    đá lại là em (Nguyễn Đức Mậu).
    18
    2.3. Nghệ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học 1945 –
    1975.
    2.3.1. Nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi
    2.3.1.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
    Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, các kiểu nhân vật tập thể đã tỏ rõ sự cách tân
    trong quan niệm nghệ thuật về con người giai đoạn này so với giai đoạn trước Cách mạng,
    giúp nhà văn khái quát và miêu tả nổi bật vẻ đẹp mang tầm cỡ dân tộc, giai cấp của con
    người. Có thể kể một số hình tượng tập thể người lao động xây dựng cuộc sống mới trong
    truyện ngắn Mùa lạc ( Nguyễn Khải), Rẻo cao (Nguyên Ngọc), Mùa cá bột (Đỗ Chu) Hay
    hình tượng tập thể trong truyện ngắn chống Mỹ như Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn
    Minh Châu), Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê), Quán rượu người câm (Nguyễn
    Quang Sáng)… Việc miêu tả chân dung nhân vật, ngoài hình tượng nhân vật tập thể với
    số lượng đông đảo thì các ở hình tượng điển hình, các truyện ngắn đều phác họa được
    diện mạo chung của nhân vật với những nét cương nghị, mạnh mẽ, nụ cười tin tưởng, lạc
    quan; những vóc dáng chắc khỏe – đó là dấu hiệu gợi lên sức mạnh vô địch của con người
    dân tộc, của nhân dân kháng chiến. Thế giới nội tâm của nhân vật thường là biểu hiện đa
    dạng của tình cảm yêu nước, của tâm lý biến chuyển ngày càng hướng về cách mạng,
    kháng chiến, hướng về tập thể. Việc thể hiện các nội dung và phạm vi nhân vật qua các
    thời kì đã phản ánh sự vận động của cách nhìn nhận và đánh giá của nhà văn về con
    người.
    2.3.1.2. Về phương diện kết cấu, cốt truyện:
    Các tác phẩm văn học giai đoạn này đã xây dựng được các tình huống đa dạng
    nhưng đều là cách triển khai qua các mâu thuẫn giữa địch với ta, mâu thuân cá nhân – tập
    thể để thể hiện quan niệm của tác giả về con người về con người sử thi, hoặc trình bày các
    tình huống nội tâm nhân vật để thể hiện quan niệm về con người cá nhân. Những tình
    huống như vậy thường đan xen nhau, thường được miêu tả trong những dấu mốc thời gian
    lịch sử, thời gian sự kiện xã hội, trên nền những không gian rộng lớn của các hoạt động
    cộng đồng. Dù đó là hoàn cảnh thực hay chỉ được thể hiện qua nội tâm, nhà văn như
    muốn soi chiếu, thể hiện con người trong khung cảnh cuộc đời chung. Cách xây dựng các
    hình thức không,thời gian như vậy không chỉ tái hiện phông nền câu chuyện, mà còn thể
    hiện quan niệm con người của nhà văn.
    2.3.1.3. Việc sử dụng phối hợp các giọng kể:
    Các tác phẩm văn xuôi gia đoạn này khi mang tới giọng thân mật, khi trang trọng ngợi ca,
    khi châm biếm hài hước hay trăn trở tìm tòi nghiên cứu cũng như lời phẩm bình khi trần
    thuật đã góp phần thể hiện sự phong phú trong cảm thụ, lập trường nhìn nhận đánh giá của
    nhà văn về con người. Đó cũng là dấu hiệu chứng tỏ nỗ lực của nhà văn trong việc tạo ra
    các hình thức nghệ thuật không ngừng làm giàu khả năng miêu tả, sự độc đáo và tác động
    thẩm mĩ của ngôn ngữ truyện ngắn nói riêng, văn học nói chung.
    19
    2.3.2. Nghệ thuật thể hiện trong thơ
    2.3.2.1.Thể thơ.
    Sự đa dạng là nét nổi bật của thể thơ giai đoạn này. Các thể thơ cổ (thất ngôn tứ
    tuyệt, bát cú, cổ phong) hiện diện bên cạnh những tìm tòi mới mẻ (thơ không vần, phá thể,
    hợp thể, tự do). Những thể truyền thống như lục bát, ngũ ngôn được sử dụng phổ biến.
    Hiện tượng này ta gặp nhiều trong thơ Tố Hữu với tập thơ Việt Bắc, thể thơ truyền thống
    quen thuộc giúp nhà thơ chuyển tải được những vấn đề chính trị lớn lao, dễ đi vào lòng
    người. Hình thức câu thơ tự do hơn: số lượng câu, số chữ trong một dòng thơ đã thực sự
    được giải phóng như thơ Chế Lan Viên: Ôi độc lập/ Xanh biết mấy là trời xanh Tổ Quốc/
    Khi tự do về chói ở trên đầu. Thơ Nguyễn Đình Thi có những tìm tòi mới lạ, đã cách tân
    thơ kháng chiến, đưa nó thoát khỏi ảnh hưởng của thơ Mới. Ông muốn thơ phải là tiếng
    nói tự do chân thực, phóng túng, không lệ thuộc vào vần điệu.
    2.3.1.2. Ngôn ngữ, hình ảnh.
    Ngôn ngữ thơ giai đoạn này mang vẻ đời thường, tự nhiên, phong phú đến vô cùng.
    Lời ăn tiếng nói của quần chúng hàng ngày được chú ý vận dụng trong quan niệm thẩm
    mỹ mới mẻ, mạnh dạn đưa vào thơ từng đoạn, câu, khổ , bài ca dao dân gian. Nhớ về thơ
    những ngày đầu kháng Pháp, bài Vui bất tuyệt của Tố Hữu – ca ngợi cách mạng với lời lẽ
    rất nồng nhiệt, sử dụng không ít từ Hán Việt có ý nghĩa trìu tượng: như đại hội, hoa đăng,
    ngân hà,… cách nói khoa trương : xôn xao, cuồn cuộn. tác phẩm tuy mang nội dung mới
    nhưng vẫn là cách biểu lộ của thời thơ Mới. Chỉ độ hai năm sau, đọc Cá nước, Bầm ơi
    của Tố Hữu mới nhận ra một cốt cách khác, một giọng thơ khác, giản dị gần gũi như ca
    dao : Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm/ Bầm ơi có nhớ không
    bầm/ heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn.
    Hình ảnh thơ cũng tươi mới hơi thở của cuộc sống mới, chất liệu thơ sáng. Phát
    huy tinh hoa ngôn từ khi còn thơ Mới, Thâm Tâm đã phả vào đó chất liệu tươi sáng của
    cuộc sống mới phục sinh Trái hồng trĩu xuống cây rơm/ Sáng nay mùa cốm dậy thơm
    khắp làng/ Lúa vươn thân hút ánh vàng/ Nguồn tươi vồng nở thu sang tốt lành” . Qua thời
    gian, hình tượng thơ, cảm hứng thơ cũng không còn màu sắc yêng hùng, lãng mạn của
    những năm đầu kháng chiến mà trở nên gần gũi, bình dị, phù hợp với quan niệm về người
    anh hùng thời đại mới. Đại chúng hoá trở thành một tiêu chuẩn thẩm mỹ trong thơ. Nếu
    đọc những câu thơ : Trầm ngâm nghê bay trong lãnh cung/ Xuân thơm bối rối ngọt vô
    cùng/ Chao ôi, thánh thượng vô tâm quá/ Lòng thiếp buồn như một tâm nhung , dù giấu
    tên tác giả đi, người ta vẫn có thể đoán nó được viết trước cách mạng; không phải chỉ ở
    các chữ như lãnh cung, thánh thượng… mà còn bởi vẻ đài các của câu thơ nữa. Và nếu
    đọc những câu thơ của Tế Hanh như: Dân tộc rớt mồ hôi thấm đất/ Căng như đồng/ Tay
    ghì cán cuốc/ Tay ghì tay xe/ Nhìn quanh là cả bốn bề cần lao…/ Có mối tình nào hơn thế
    nữa? không thể nhầm lẫn với giai đoạn nào khác bởi đó là vần thơ tràn đầy lãng mạn
    của thơ những năm đầu cách mạng. Thơ thời kì này trực tiếp, gần gũi , nghe giản dị : Ôi
    20
    những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều- Nguyễn Đình Thi; hình
    tượng người chiến sĩ – hình tượng nghệ thuật trung tâm được viết thật giản dị, họ đi ra từ
    cuộc sống lao động hàng ngày, họ bước vào chiến trường với quê hương anh nước mặn
    đồng chua/ làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.(Đồng chí- Chính Hữu )
    2.3.2.3. Giọng điệu
    Với cảm hứng chủ đạo là cảm hứng trữ tình – sử thi, thơ ca thời kì này được thể
    hiện bằng giọng điệu thơ phong phú, đa dạng mà âm hưởng bao trùm là hào hùng, sảng
    khoái, lạc quan. Tâm thế các nhà thơ tựa như những ca sĩ cất lên những giai điệu hào
    hùng, hướng về quê hương xứ sở: Thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hát / Ca ngợi trăm lần Tổ
    quốc chúng ta (Tố Hữu). Chất giọng hào sảng được hiện lên ngay ở tiêu đề thi phẩm, từ
    Gió lộng, Ra trận, Hai đợt sóng, Hoa dọc chiến hào, Mặt đường khát vọng , Vầng trăng
    và quầng lửa… đến: Người con gái Việt Nam, Dáng đứng Việt Nam, Tổ quốc bao giờ đẹp
    thế này chăng… Các nhà thơ như đều muốn vươn tới tầm không gian bao quát, cao rộng
    để: Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau / Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu (Tố
    Hữu).
    Bên cạnh giọng hùng ca làm chủ âm, thơ ca giai đoạn này còn có thêm giọng trữ
    tình thống thiết, xuất phát từ cảm hứng trước vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam
    trong những tháng năm gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.
    Tiểu kết
    Từ quan niệm nghệ thuật về con người đến những kiểu con người trong thơ văn ba
    mươi năm sau Cách mạng là một trong những đóng góp nổi của nền văn học giai đoạn
    này. Quan niệm ấy chịu sự quy định của ý thức nghệ thuật đương thời, nảy sinh và phát
    triển trên cơ sở đề cao vai trò, tác dụng giáo dục, nêu gương của văn học trong quan hệ
    gắn bó và phục vụ các nhiệm vụ cách mạng, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của
    nhân dân ta. Ý thức ấy là cơ sở khơi dậy những truyền thống tốt đẹp trong văn học dân
    tộc, làm phát triển một dòng văn học mang ý thức sử thi với những đặc trưng thẩm mĩ
    riêng. Nhìn khái quát, dòng sử thi mới sau Cách mạng thiên về khám phá, thể hiện con
    người quần chúng, tiêu biểu là Công – Nông – Binh – lực lượng chủ yếu của cách mạng,
    luôn ý thức mối quan hệ và ý nghĩa công việc mình làm với tập thể, với cộng đồng; mang
    vẻ đẹp khỏe khoắn, mãnh mẽ của những hành động cống hiến, luôn đặt lợi ích cộng đồng
    lên trên lợi ích cá nhân, hoặc biết điều chỉnh mình sao cho hài hòa với sự nghiệp chung…
    Những cảm nhận sự thi về con người ấy là cơ sở để sáng tạo ra những biểu tượng phong
    phú về con người quần chúng trong nhiều tác phẩm văn học 1945 – 1975 với các kiểu
    nhân vật sống đời sống kháng chiến và cách mạng, những hình tượng con người xả thân vì
    nghĩa lớn, tìm thấy giá trị đời mình trong sự gắn bó với cộng đồng, những con người hiện
    thân của dân tộc và thời đại. Qua việc khảo sát các tác phẩm cụ thể, dù lĩnh vực con người
    cá nhân đã được đề cập đến nhưng chuyên đề đã nhận thấy con người trong văn học cách
    21
    mạng 1945 – 1975 vẫn chủ yếu là hình tượng con người sử thi. Cùng với những hình
    tượng nghệ thuật sinh động ấy, các phương diện hình thức nghệ thuật cũng được phát huy
    hiệu quả gắn với đặc trưng thể loại, tiêu biểu ở truyện ngắn và thơ ca, khiến cho quan
    niệm nghệ thuật về con người trở nên mật thiết với quá trình sáng tạo, với toàn bộ các yếu
    tố của cấu trúc chỉnh thể trong tác phẩm văn học.
    Trong quá trình ba mươi năm ấy, chúng ta có thể nhận ra các nhà văn đã sớm nhận
    ra và dần khắc phục những nhược điểm trong quan niệm và miêu tả con người, không
    ngừng làm cho hình tượng con người trong văn xuôi và thơ ca trở nên đa dạng và có sức
    khái quát sâu rộng. Tuy nhiên, về cơ bản, các nhà văn cũng chỉ đổi mới làm giàu có trong
    phạm vi quan niệm nghệ thuật về con người sử thi. Khả năng cũng như hiệu quả cảm thụ
    và miêu tả con người của văn học giai đoạn này chỉ trở nên phong phú, sâu sắc hơn khi
    cùng với sự vận động của lịch sử, xuất hiện những bổ sung, đổi mới có tính chất loại hình
    về quan niệm con người. Và điều đó đã được thể hiện khá rõ trong giai đoạn văn học sau
    1975.
    Giải pháp 3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975
    3.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa mới sau 1975 và sự thay đổi quan niệm nghệ thuật
    về con người
    3.1.1. Từ sự tác động của bối cảnh lịch sử xã hội mới, văn hóa mới…
    Thắng lợi ngày 30/4/1975 đưa dân tộc ta bước vào một giai đoạn mới, đồng thời
    đánh dấu một thời kì mới của nền văn học dân tộc. Sau khoảng 10 năm chuyển tiếp, văn
    học bước vào giai đoạn đổi mới mạnh mẽ.
    Khác với hoàn cảnh chiến tranh, đời sống hòa bình đưa con người trở về với quỹ
    đạo đời thường, tạo điều kiện nảy sinh những nhu cầu mới, những quan niệm thẩm mĩ
    mới, hình thành nên những lớp công chúng mới. Ý thức cá nhân đã được đánh thức trở lại
    với những đòi hỏi cụ thể, bình thường nhất. Nhiều giá trị trong thời chiến đã đổi khác và
    thay thế nó là những hệ giá trị mới đang trong quá trình hình thành. Đời sống văn hóa tư
    tưởng vì vậy cũng vô cùng phức tạp, thậm chí khủng hoảng ở một bộ phận nào đó. Tình
    hình đó đã tác động mạnh mẽ vào ý thức của nhà văn và được phản ánh trong thực tiễn
    sáng tác.
    Bên cạnh sự đổi thay của xã hội – lịch sử trong nước, chúng ta cũng chịu ảnh
    hưởng trực tiếp của quá trình toàn cầu hóa đã và đang diễn ra trên toàn thế giới, đặc biệt
    mạnh mẽ từ sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự kết thúc của tình thế chiến tranh
    lạnh giữa hai phe trên thế giới. Đường lối đổi mới của Đảng đề ra chủ trương mở cửa,
    từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, vì thế, ảnh hưởng của toàn cầu hóa
    ngày càng rõ rệt đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng ở nước ta.
    Toàn cầu hoá đã mở ra nhận thức mới cho con người Việt Nam hôm nay. Cái nhìn về
    22
    con người từ đó cũng thay đổi. Bên cạnh việc khẳng định những giá trị mang bản sắc dân
    tộc, con người còn được nhấn mạnh trong tính nhân loại, trong bản chất phổ quát của con
    người. Mặc dù kinh tế nước ta còn chậm phát triển, nhưng con người Việt Nam hôm nay
    vẫn có những dấu ấn thể hiện tâm thức của con người thời đại hậu công nghiệp trên thế
    giới.
    Trong bối cảnh mở cửa hội nhập quốc tế, văn học Việt Nam không còn bị khép
    kín trong tính chất khu vực của những nền văn học XHCN như trước đây mà đã từng
    bước mở rộng sự giao lưu, tiếp nhận ảnh hưởng của nhiều nền văn học trên thế giới.
    Các trào lưu, lí thuyết văn học vốn đã quen thuộc, có ảnh hưởng sâu rộng ở phương
    Tây trong thế kỉ XX đã từng bước được giới thiệu và tiếp nhận ở Việt Nam qua việc
    dịch thuật (cả sáng tác và lí luận), qua một lớp tác giả, công chúng có điều kiện tiếp xúc
    trực tiếp với đời sống văn học thế giới, nhất là bộ phận người Việt ở hải ngoại. Từ phân
    tâm học đến chủ nghĩa hiện sinh, trào lưu tiểu thuyết mới, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
    đến chủ nghĩa hậu hiện đại, các quan niệm mới về tiểu thuyết ở phương Tây… đã dần
    trở nên quen thuộc với người viết và công chúng văn học ở nước ta.
    Còn phải kể đến một trong những nhân tố tác động đến sự đổi mới quan niệm
    nghệ thuật là những định hướng phát triển văn học nghệ thuật của Đảng và Nhà nước
    ta. Đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng và sau đó là Nghị quyết 05 của
    Bộ chính trị về một số vấn đề văn hóa văn nghệ, cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn
    Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987… đã thực sự thúc đẩy công
    cuộc đổi mới văn học theo tinh thần đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật. Chưa
    bao giờ vai trò, trách nhiệm của người cầm bút và tính chân thực của văn học lại được
    đặt ra một cách ráo riết, toàn diện đến thế. Một không khí dân chủ trong đời sống văn
    hóa và văn học đã thực sự có tác động lớn lao đến đội ngũ những người sáng tác.
    Tất cả những yếu tố nói trên đã làm biến đổi ý thức nghệ thuật của nhà văn và
    công chúng văn học. Trung tâm của sự đổi mới ý thức nghệ thuật đó chính là đổi mới
    quan niệm nghệ thuật về conngười.
    3.1.2 …đến những đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học
    sau 1975
    Chịu tác động của hoàn cảnh thời chiến, văn học trước 1975 tập trung vào nhiệm
    vụ giáo dục con người mới, con người cộng đồng. Hình mẫu con người được gửi
    gắm vào các nhân vật lí tưởng. Phát hiện con người cộng đồng trong mỗi cá nhân, con
    người như một sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng là cống hiến của văn học
    thời vệ quốc. Xung đột dân tộc và xung đột giai cấp đã buộc văn học đặt con người vào
    trong điểm nhìn ý thức hệ. Chiến tranh kéo dài khiến một số nguyên tắc miêu tả con
    người trở thành quy phạm. Con người bị lấn át bởi sự kiện, trở thành phương tiện “xâu
    chuỗi các sự kiện lịch sử”, giúp nhà văn khám phá và biểu hiện lịch sử.
    23
    Văn học sau 1975 không thể không tự điều chỉnh khi cái phông thời đại đã hoàn
    toàn thay đổi. Ý thức về con người cá nhân, sự khích lệ tinh thần dân chủ khơi thông
    những ẩn ức dồn nén, những khát khao được nghiên cứu, thể hiện con người trong văn
    học. Văn học đã thực sự có nhiều phát hiện phong phú về con người và điều đó khẳng
    định bước trưởng thành của tư duy nghệ thuật. Xuất phát từ quan niệm con người không
    đơn trị, con người đa diện, con người luôn biến đổi, phức tạp, bí ẩn…., văn học giai đoạn
    mới ít có những nhân vật đẹp hoàn hảo, nhất phiến. Nhân vật đời thường, phàm tục đi
    vào tác phẩm, hiển hiện như lẽ tự nhiên. Con người bị đồng tiền làm cho biến dạng, trở
    nên độc ác, con người cứng đờ, đóng hộp trong khuôn mẫu, tẻ nhạt, tham lam, con
    người dị dạng, tha hóa, giống quỷ hơn giống người, con người xơ cứng với những giáo
    điều và niềm tin mù quáng, con người u mê, tăm tối, hoang dãc con người ắp đầy tham
    vọng, sẵn sàng đánh đổi cả tình thân, nhân tính cho uy quyền và danh lợi – Con người từ
    điểm nhìn sử thi đã được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Con người đa ngã, phức tạp,
    bí ẩn tạo ra nhiều đối thoại với con người trong văn học giai đoạn trước đó, nhưng lại xác
    thực hơn với những gì diễn ra trong thực tại của cuộc sống mỗi một con người.
    Trong giới hạn cho phép, chúng tôi tập trung làm sáng tỏ vấn đề trong phạm vi
    văn xuôi (chủ yếu là truyện ngắn, tiểu thuyết, kí – các thể loại phát triển vượt trội, tạo ra
    gương mặt mới cho văn học) và thơ sau 1975, trên bình diện nội dung và sự đổi mới
    trên phương diện nghệ thuật.
    3.2. Sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người ở phương diện nội dung của
    văn học sau 1975
    3.2.1. Tiếp tục khuynh hướng ca ngợi những phẩm chất con người nhưng ở
    những cung bậc đa dạng
    Vừa bước ra khỏi chiến tranh, dư âm của cuộc chiến vẫn còn, hào khí mang
    tính cộng đồng vẫn khắp, cộng với niềm vui đất nước thống nhất nên trong một số
    lượng sáng tác nhất định, các tác giả vẫn tiếp tục hướng đến ca ngợi những con người
    mang tâm thế nhập cuộc tích cực gắn với thành tố tập thể, sự phân tuyến ranh giới
    giữa tốt xấu, thiện ác vẫn tương đối rạch ròi. So với giai đoạn trước, văn học đã tiếp
    tục một cuộc khám phá sâu hơn về con người trên cảm hứng nhân văn sâu sắc với
    những cung bậc đa dạng.
    Cùng với hướng tiếp cận chiến tranh ở cự li gần, từ chiến hào vào người lính
    hoặc những cán bộ chỉ huy ở đơn vị cơ sở (các tiểu thuyết Trong cơn gió lốc – Khuất
    Quang Thụy, Năm 75 họ đã sống như thế – Nguyễn Trí Huân, Họ cùng thời với những
    ai – Thái Bá Lợi) là cách tiếp cận chiến tranh từ cái nhìn toàn cục (kí sự Tháng Ba ở
    Tây Nguyên – Nguyễn Khải, Đại thắng mùa xuân – Văn Tiến Dũng, Đất miền Đông –
    Nam Hà). Từ đỉnh cao của chiến thắng trọn vẹn, nhìn lại và tái hiện những khó khăn,
    thậm chí cả những thất bại tạm thời của ta trong chiến tranh cũng chính là cách khẳng
    định những giá trị lớn lao của sự hi sinh và ý nghĩa vĩ đại của chiến thắng.
    24
    Bên cạnh việc tiếp tục bộc lộ khuynh hướng ca ngợi những con người giàu
    truyền thống đấu tranh cách mạng, mang đậm những phẩm chất của tâm hồn Việt, văn
    học sau 1975 đã nhìn nhận con người dưới góc độ đời tư mang tính chất “phi sử thi
    hóa” (Trần Đình Sử). Hình tượng con người ở nhiều tác phẩm giai đoạn trước đổi mới
    không chỉ xuất hiện như những giá trị để khẳng định tư tưởng xả thân mà chủ yếu là
    sự tự khẳng định những giá trị bản thân trong ngọn lửa cách mạng. Mảnh đất tình
    yêu với phẩm chất tốt đẹp trong mỗi người vẫn được Nguyễn Minh Châu thể hiện
    bằng niềm tự hào và ngợi ca sâu sắc. Với những truyện của Chu Lai, Khuất Quang
    Thụy… người đọc tìm thấy ý chí và phẩm chất tuyệt vời của người lính: quả cảm,
    chân thành, cố gắng thích nghi, hội nhập với cuộc sống mới.
    Nhưng chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước mà còn được nhìn từ phía
    sau với bao nỗi đau trĩu nặng, bao nhức nhối khó lành. Họ nói về niềm vui chiến
    thắng, nhưng còn nói nhiều hơn về sự hi sinh, về những chịu đựng thầm lặng của nhân
    dân, về những gương mặt đồng đội, kẻ còn người mất. Nói khác đi, trong khi cố gắng
    miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan tâm trực diện đến số
    phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất nước được đo ướm bằng nỗi
    đau của cá nhân: Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi
    xuân trong má lúm đồng tiền (Hữu Thỉnh – Đường tới thành phố). Ý thức về thế hệ
    mình với sự lựa chọn trách nhiệm trước lịch sử, bên cạnh lòng tự hào, còn có cả nỗi
    xót xa: Chúng tôi đã đi không tiếc cuộc đời mình/ Nhưng tuổi hai mươi làm sao không
    tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc (Những người đi tới biển –
    Thanh Thảo). Trong những tác phẩm này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật
    cái tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với
    những suy tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người.
    3.2.2. Con người tự ý thức
    Từ sau 1975, cuộc sống đã dần trở lại với quy luật bình thường của nó cùng lúc
    con người đối mặt với những biến động, đổi thay của xã hội. Guồng quay xã hội gián
    tiếp cho ý thức cá nhân thức tỉnh, họ quay về đối diện chính mình, với những đòi hỏi
    riêng của mỗi người, mỗi số phận. Và người cầm bút, bằng tư duy phân tích và cái
    nhìn đời tư đã khám phá con người ở phương diện tự ý thức.
    2.2.1. Nhận thức về cái tôi
    Cái tôi cá nhân đã từng in những ấn tượng đậm nét trong văn học 1930 – 1945.
    Giai đoạn 1945 – 1975, do khuynh hướng sử thi mà cái tôi cá nhân có xu hướng tan
    hòa vào cái ta cộng đồng. Trong những năm ngay sau chiến tranh, cái Tôi sử thi và cái
    tôi thế hệ vẫn là chủ đạo, tuy đã có những nét mới. Cái nhìn sử thi được bổ sung bằng
    những trải nghiệm cá nhân, chất liệu hiện thực được gia tăng cùng với xu hướng khái
    quát, chiêm nghiệm, chất bi tráng nổi trội trong các sắc điệu thẩm mĩ của tác phẩm.
    Bước vào những năm 80, cái Tôi sử thi mờ dần, thay vào đó là cái tôi thế sự với

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education