Category: NGỮ VĂN

  • Một số quy tắc chính tả thường gặp

    Một số quy tắc chính tả thường gặp

    Khi viết bài cho website, blog, ngoài TOP 10 những lỗi chính tả thường gặp bạn phải tránh thì cũng cần biết Một số quy tắc chính tả thường gặp dưới đây.

    Quy tắc chính tả: Qui tắc viết hoa cơ bản

    • Đầu câu, danh từ riêng. Ví dụ: Bác Hồ, Tổ quốc, Mặt Trời,…
    • Viết hoa khi dẫn lời nói trực tiếp. Ví dụ: Thanh gọi mẹ ríu rít: – Mẹ ơi!
    • Sau dấu hai chấm mà kiểu câu liệt kê thì không viết hoa. Ví dụ: Xoài có nhiều loại: xoài tượng, xoài cát, xoài thanh ca,…
    • Viết hoa tên người, tên địa danh nước ngoài: phiên âm, dịch ra tiếng Việt.
      • Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt: Viết theo quy tắc viết tên người, tên địa lí Việt Nam. Ví dụ: Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Khổng Tử, Đức, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Triều Tiên…
      • Trường hợp phiên âm không qua âm Hán Việt (phiên âm trực tiếp, viết sát theo cách đọc): Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa các âm tiết. Ví dụ: Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen, Vơ-la-đi-mia I-lích Lê-nin, Mát-xcơ-va, I-ta-li-a, An-giê-ri, …
    Một số quy tắc chính tả thường gặp

    Qui tắc viết i/y

    Có 3 trường hợp viết y:

    • Bắt buộc viết y đứng sau âm đệm như: huy, tuy, thúy,…
    • Đứng sau nguyên âm ngắn a như: ây
    • Đứng trước ê khi chữ đó không có âm đầu như: yêu, yết, yếm

    Trường hợp bắt buộc viết i:

    • Sau các nguyên âm dài, trong đó các vần kết thúc bằng phụ âm mà không có âm đệm. Ví dụ: kim, tim, tin,…
    • Trước a khi chữ đó không có âm đệm như: lía, kia, chia,…

    Trường hợp viết i/y đều đúng trong trường hợp có âm tiết mở (khuyến khích học sinh viết i: Châu Mĩ/Châu Mỹ, Địa lí/Địa lý, Bác sĩ/Bác sỹ,…)

    Phải viết i hoặc y bắt buộc do phân biệt nghĩa. Ví dụ: bàn tay – lỗ tai; ngày mai – may mắn; khoái chí – cái khoáy âm dương.

    Quy tắc viết l/n

    – Chữ không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uâ, uy) trừ hai âm tiết Hán Việt: noãn, noa. Do đó nếu gặp các tiếng dạng này thì ta chọn l để viết, không chọn n.

    Ví dụ: chói loà, loá mắt, loảng xoảng, loà xoà, loạng choạng, loan báo, loăng quăng, loằng ngoằng, loắt choắt, quần loe, lập loè, loá sáng, luân lí, kỉ luật, luẩn quẩn, lưu luyến, luyên thuyên, tuý luý, …

    – Trong cấu tạo từ láy:

    • Láy âm: Cả l và đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp từ láy âm thì ta có thể chọn cả hai tiếng cùng có âm hoặc n.
      Ví dụ: no nê, nợ nần, nao núng, nôn nao, nảy nở, nung nấu,… lo lắng, lầm lì, lanh lảnh, lung linh, long lanh, len lỏi, lâm li,…
    • Láy vần: trong các từ láy vần có tiếng có n hoặc l thì tiếng thứ nhất bao giờ cũng có âm đầu l, tiếng thứ hai có âm đầu n khi tiếng thứ nhất có âm đầu gi hoặc khuyết âm đầu và tiếng thứ hai có âm đầu l khi tiếng thứ nhất có âm đầu khác gi. Do đó nếu gặp từ láy vần thì tiếng thứ nhất ta phải chọn âm đầu l còn nếu tiếng thứ nhất có âm đầu gi hoặc khuyết âm đầu thì tiếng thứ hai ta chọn n, tiếng thứ nhất có âm đầu khác gi thì tiếng thứ hai ta chọn l. (Trừ hai trường hợp đặc biệt: khúm núm, khệ nệ).
      Ví dụ: la cà, lờ đờ, lò dò, lù đù, lơ mơ, lan man, lõm bõm, lạch bạch, … gian nan, gieo neo, giãy nảy, áy náy, ảo não, ăn năn, … cheo leo, chói lọi, lông bông, khét nẹt, khoác lác, …

    – Một số từ có thể thay thế âm đầu nh bằng âm đầu l.

    Ví dụ: nhời – lời, nhẽ – lẽ, nhỡ – lỡ, nhát – lát, nhăm nhe – lăm le, nhấp nhánh – lấp lánh, nhố nhăng – lố lăng, …

    – Một số từ có thể thay âm đầu đ, c bằng âm đầu n.

    Ví dụ: đấy – nấy, cạo – nạo, kích – ních, cạy – nạy, …

    – Những từ dùng chỉ vị trí hoặc chỉ sự ẩn nấp thường viết bằng n.

    Ví dụ: này, nọ, ni, nớ, nào, nấp, náu, né, nép, …

    Quy tắc viết ch/tr

    – Chữ tr không đứng đầu các tiếng có vần âm đệm (oa, oă, oe, uê). Do đó nếu gặp các dạng này ta chọn ch để viết, không chọn tr.

    Ví dụ: sáng choang, áo choàng, choáng váng, chập choạng, … loắt choắt, chích choè, chí chéo, chuệch choạc, chuếnh choáng, …

    – Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Do đó nếu gặp các dạng này ta chọn tr để viết, không chọn ch.

    Ví dụ: trọng, trường, trạng, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu, trù bị, …

    – Những từ chỉ đồ vật trong nhà, chỉ tên các loại quả, chỉ tên các món ăn, chỉ tên các hoạt động, chỉ quan hệ giữa những người trong gia đình và những từ mang ý nghĩa phủ định thường có âm đầu ch.

    Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo, … chuối, chanh, chôm chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ, … cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chẳng, chưa, chớ, chả, …

    – Một số từ có thể thay âm đầu tr bằng âm đầu gi.

    Ví dụ: trồng – giồng, trầu – giầu, trời – giời, trăng – giăng, …

    – Trong cấu tạo từ láy:

    + Láy âm: Cả tr và ch đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp láy âm đầu thì ta có thể chọn cả hai tiếng cùng có âm đầu ch hoặc tr.

    Ví dụ: chông chênh, chen chúc, chăm chỉ, chân chất, chập chững, … tròn trĩnh, trùng trục, trăn trở, tròng trành, trơ tráo, trập trùng, …

    + Láy vần: Trong các từ láy vần chỉ có tiếng có âm đầu ch (trừ một số trường hợp đặc biệt: trét lẹt, trót lọt, trụi lủi)

    Ví dụ: chơi vơi, lừng chừng, chàng màng, chênh vênh, chán ngán, chót vót…

    Quy tắc viết s/x

    – Chữ s không đứng đầu các tiếng có âm đệm (oa, oă, oe, uê, uâ) ngoại trừ các trường hợp: soát, soạt, soạng, soạn, suất. Do đó nếu gặp các tiếng dạng này thì ta chọn x để viết không chọn s.

    Ví dụ: xuề xoà, xoay xở, xoành xoạch, xuềnh xoàng, xoăn, xoe, xuân, …

    – Trong cấu tạo từ láy:

    + Láy âm: Cả s và x đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp từ láy âm đầu thì có thể chọn cả hai tiếng cùng có âm đầu s hoặc x.

    Ví dụ: sắc sảo, suy suyển, sờ soạng, sục sạo, sung sướng, sỗ sành, … xao xuyến, xôn xao, xàm xỡ, xì xào, xí xoá, xấp xỉ, xoèn xoẹt, …

    + Láy vần: Tiếng có x thường láy với tiếng có l, trừ một số trường hợp: lụp sụp, đồ sộ, sáng láng. Do đó nếu gặp láy vần thì ta chọn tiếng chứa âm đầu x.

    Ví dụ: liểng xiểng, loăn xoăn, loà xoà, lộn xộn, lao xao, xoi mói, xích mích, xa lạ, …

    – Một số từ ghép có một tiếng có âm đầu s và có một số tiếng có âm đầu x:

    Ví dụ: xứ sở, sản xuất, xuất sắc, xác suất, xổ số, soi xét, …

    Quy tắc chính tả Ch/tr

    • Chữ tr không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm như oa, oă, oe, uê. Do đó nếu gặp các vần này, ta dùng ch. Ví dụ: sáng choang, áo choàng, chích chòe, loắt choắt, chuệch choạc, chuếnh choáng…
    • Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Ví dụ: trịnh trọng, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu…
    • Những từ chỉ vật dụng quen thuộc hoặc các mối quan hệ trong gia đình thường có âm đầu là ch. Những từ mang nghĩa phủ định cũng có âm đầu là ch. Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo,… chuối, chanh, chôm chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ,… cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt,… chẳng, chưa, chớ, chả.

    Quy tắc chính tả R/d/gi

    – Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy). Do đó gặp các tiếng dạng này thì ta chọn d để viết, không chọn r hoặc gi.

    Ví dụ: kinh doanh, dọa nạt, doãng ra, hậu duệ, duy nhất, duyệt binh, …

    – Trong các từ Hán Việt:

    • Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d. Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, bình dị, mậu dịch, kì diệu,…
    • Các tiếng có thanh sắc hoặc thanh hỏi thường viết gi. Ví dụ: giải thích, giảng giải, giá cả, giám sát, giới thiệu, tam giác,…
    • Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần có âm đầu và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a. Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia, gia nhân, du dương, do thám, dương liễu, dư dật, ung dung,…

    – Trong cấu tạo từ láy:

    • Láy âm: Cả gi, r, d đều có từ láy âm. Nếu gặp từ láy âm thì có thể chọn cả hai tiếng cùng có âm đầu gi, r hoặc d.
      Ví dụ: giành giật, giãy giụa, giục giã, già giặn, giấm giúi,… dai dẳng, dào dạt, dằng dặc, dập dìu, dãi dầu,… ríu rít, ra rả, rì rào, réo rắt, run rẩy, rung ring, rưng rức, rùng rợn, rón rén, rừng rực, rạng rỡ, rực rỡ,…
    • Láy vần: Tiếng có d thường láy với tiếng có l, tiếng có r thường láy với tiếng có b hoặc c, tiếng có gi thường láy với tiếng có n. Ví dụ: lim dim, lò dò, lai dai, … bứt rứt, cập rập, bịn rịn, co ro, cò rò, bủn rủn, … gian nan, gieo neo, giãy nảy.

    – Một số từ láy có các biến thể khác nhau: rào rạt – dào dạt, rập rờn – giập giờn, dân dấn – rân rấn, dun dủi – giun giủi, dấm dứt – rấm rứt, dở dói – giở giói, gióng giả – dóng dả, réo rắt – giéo giắt. rậm rật – giậm giật, …

    – Trong cấu tạo từ ghép giữa r, d, và gi. Chỉ có từ ghép có tiếng âm đầu gi và tiếng có âm đầu d, không có từ ghép có tiếng âm đầu r và âm đầu d hay âm đầu r và âm đầu gi.

    Ví dụ: già dặn, giáo dục, giao dịch, giả dối, giản dị, giao du, giảng dạy, giận dữ, gian dối, giận dỗi, giao duyên, …

    Quy tắc viết c/k/q

    • q luôn bao giờ cũng đi với âm đệm u để thành qu
    • c luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư
    • k luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê

    Quy tắc viết g/gh/ng

    • gh, ngh: Viết trước các nguyên âm e, ê, i, iê (ia). Ví dụ: nghỉ ngơi, lắng nghe, suy nghĩ…
    • g, ng: Viết trước các nguyên âm khác còn lại. Ví dụ: ngày tháng, nghi ngờ, ngọt ngào…

    Quy tắc đánh dấu thanh

    • Dấu thanh thường đặt ở trên hoặc dưới âm chính (VD: loá mắt, khoẻ khoắn,…)
    • Ở các nguyên âm có dấu mũ thì các dấu thanh được viết hơi cao lệch về bên phải của dấu mũ (VD: trồng nấm, biển khơi, cố gắng,…)
    • Trong tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi. (VD: cây mía, lựa chọn, múa hát,…)
    • Trong tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ hai của nguyên âm đôi (VD: ước muốn, chai rượu, sợi miến,…).
  • TOP 10 những lỗi chính tả thường gặp

    TOP 10 những lỗi chính tả thường gặp

    Khi viết bài, lỗi chính tả ngoài những lỗi về từ ngữ còn có cả những lỗi về cách trình bày, dấu câu. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu TOP 10 những lỗi chính tả thường gặp. Để nắm được đầy đủ nhất, bạn có thể tham khảo Một số quy tắc chính tả thường gặp.

    Xem thêm 10 cách viết content thu hút giúp bạn kiếm tiền từ blog dễ nhất.

    TOP 10 những lỗi chính tả thường gặp 1

    1. Những lỗi chính tả thường gặp về dấu câu và cách trình bày

    Các dấu dùng để kết thúc câu (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu ba chấm) phải viết DÍNH LIỀN với chữ cuối cùng của câu.

    Ví dụ cách viết đúng:

    Hôm nay là thứ mấy? (dấu chấm hỏi viết sát chữ y)

    Ví dụ cách viết sai:

    Hôm nay là thứ mấy ? (dấu chấm hỏi viết cách chữ y một khoảng trắng)

    Các dấu dùng để ngăn cách giữa câu như dấu phẩy, dấu chấm phẩy và dấu hai chấm phải DÍNH LIỀN với vế trước của câu và CÁCH vế sau của câu một khoảng trắng.

    Ví dụ cách viết đúng:

    Đây là vế trước, còn đây là vế sau.

    Ví dụ cách viết sai:

    Đây là vế trước , còn đây là vế sau.

    Dấu ngoặc đơn và dấu ngoặc kép phải DÍNH LIỀN với phần văn bản mà nó bao bọc.

    Ví dụ cách viết đúng:

    Hắn nhìn tôi và nói “Chuyện này không liên quan đến anh!”

    Ví dụ cách viết sai:

    Hắn nhìn tôi và nói “ Chuyện này không liên quan đến anh! ”

    2. Những lỗi chính tả thường gặp

    TOP 10 những lỗi chính tả thường gặp 2

    Đa số, mình thấy các bạn thường gặp những lỗi chính tả sau đây:

    1. Lên – nên

    • Lên được dùng khi chỉ một hành động, một sự thay đổi, phát triển. Ví dụ: Lớn lên, cao lên, đi lên phía trước,…
    • Nên được dùng khi chỉ kết quả, suy luận. Ví dụ: Cho nên, vậy nên,… Trời mưa nên đường trơn.

    2. Giành – dành

    • Giành được dùng để chỉ sự tranh giành, giành giật.
    • Dành được dùng để chỉ sự gom góp, tiết kiệm như: để dành, dành dụm.

    3. Rời – dời

    • Rời được dùng khi chỉ một sự di chuyển mà chính chủ thể thực hiện. Ví dụ: Anh ấy đã rời khỏi ngôi nhà đó.
    • Dời được dùng để chỉ sự di chuyển mà người khác/ vật khác áp đặt lên chủ thể bị di chuyển. Ví dụ: Chiếc giường đã được anh ấy dời khỏi căn phòng đó.

    4. Truyện – chuyện

    Chuyện là thứ được kể bằng miệng. Truyện là chuyện được viết ra và được đọc. Ví dụ: chuyện cổ tích được kể dựa theo trí nhớ nhưng khi chuyện cổ tích được in vào sách thì nội dung được in đó gọi là truyện cổ tích. Và nếu có người đọc cuốn sách đó thì người đó đang đọc truyện cổ tích.

    • Truyện được dùng trong một hành động hướng tới một vật thể xác định, hoặc một danh từ là vật thể xác định. Ví dụ: Truyện tranh; Đọc truyện. (ở đây là đọc một cuốn truyện – một vật thể xác định).
    • Chuyện được dùng trong các trường hợp còn lại. Ví dụ: Nói chuyện, trò chuyện, câu chuyện,…

    5. Dữ – giữ

    • Dữ là tính từ chỉ tính cách. Ví dụ: dữ dằn, giận dữ, dữ tợn, hung dữ, dữ dội…
    • Giữ là động từ chỉ việc sở hữu, bảo vệ. Ví dụ: giữ của, giữ gìn, giữ xe, giữ đồ…

    6. Khoảng – khoản

    • Khoảng để chỉ một vùng không gian, thời gian, độ dài bị giới hạn. Vi dụ: khoảng cách, khoảng không, khoảng thời gian. Khoảng cũng có khi được dùng để chỉ sự ước lượng. Ví dụ: Nhóm người đó có khoảng chục người.
    • Khoản là một mục, một bộ phận. Ví dụ: tài khoản, điều khoản, khoản tiền.

    7. Sửa và sữa

    • Sửa xe, sửa máy móc, sửa chữa là dấu hỏi.
    • Sữa bò, sữa mẹ, sữa tươi, sữa chua là dấu ngã.

    8. Dục và giục

    • Dục nói về chức năng sinh lý của cơ thể hoặc ham muốn. Ví dụ: thể dục, giáo dục, tình dục, dục vọng.
    • Giục nói về sự hối thúc. Ví dụ: giục giã, xúi giục, thúc giục.

    9. Giả, giã và dã

    • Giả: không phải thật nhưng trông giống thật. Ví dụ: hàng giả, giả dối, giả vờ. Giả còn là một từ gốc Hán mang nghĩa người. Ví dụ: tác giả (người tạo ra), cường giả (kẻ mạnh), khán giả (người xem), diễn giả (người nói trước công chúng về một chủ đề nào đó).
    • Giã: thường ghép với các từ khác. Ví dụ: giục giã, giã từ.
    • Dã: mang tính chất rừng rú, hoang sơ, chưa thuần hóa. Ví dụ: dã thú, hoang dã,  dã tính, dã man.

    10. Xán lạn

    • Xán lạn là cách viết đúng. Cả xán và lạn đều là những từ gốc Hán. Xán là rực rỡ, lạn là sáng sủa.
    • Tất cả các cách viết khác như sáng lạn, sáng lạng, sán lạn… đều là những cách viết sai. Đây là một từ khó, khó đến nỗi rất nhiều bài báo cũng dùng sai.

    11. Xuất và suất

    • Xuất là động từ có nghĩa là ra. Ví dụ: sản xuất, xuất hiện, xuất bản, xuất khẩu, xuất hành, xuất phát, xuất xứ, xuất nhập… Xuất còn có nghĩa là vượt trội, siêu việt. Ví dụ: xuất sắc, xuất chúng…
    • Suất là danh từ có nghĩa là phần được chia. Ví dụ: suất ăn, tỉ suất, hiệu suất…

    12. Yếu điểm và điểm yếu

    • Yếu điểm: có nghĩa là điểm quan trọng. Yếu điểm đồng nghĩa với trọng điểm.
    • Điểm yếu: đồng nghĩa với nhược điểm.

    3. Tổng hợp một số lỗi chính tả khác thường gặp

    Từ sai chính tảTừ đúng chính tả
    bộ sươngbộ xương
    bác sỹbác sĩ
    chia sẽchia sẻ
    chín mùichín muồi
    chỉnh chuchỉn chu
    chỉnh sữachỉnh sửa
    chuẩn đoánchẩn đoán
    chẵng lẻchẳng lẽ
    có lẻcó lẽ
    cổ máycỗ máy
    cọ sátcọ xát
    cặp bếncập bến
    câu truyệncâu chuyện
    đường xáđường sá
    dư giảdư dả
    giúp đởgiúp đỡ
    giành dụmdành dụm
    giữ dộidữ dội
    giọt xươnggiọt sương
    giục giãgiục dã
    gian sảogian xảo
    kiễm trakiểm tra
    kỹ niệmkỷ niệm
    khán giãkhán giả
    kết cuộckết cục
    mạnh dạngmạnh dạn
    nền tảnnền tảng
    nghànhngành
    nổ lựcnỗ lực
    năng nỗnăng nổ
    rãnh rỗirảnh rỗi
    rốt cụcrốt cuộc
    sắc xảosắc sảo
    sẳn sàngsẵn sàng
    san sẽsan sẻ
    sáng lạngxán lạn
    sỡ dĩsở dĩ
    sơ xuấtsơ suất
    suông sẻsuôn sẻ
    sử lýxử lý
    suất sắcxuất sắc
    sữa chữasửa chữa
    thẳng thắngthẳng thắn
    tháo dởtháo dỡ
    trãi nghiệmtrải nghiệm
    trao chuốttrau chuốt
    trao dồitrau dồi
    trao giồitrau dồi
    tựu chungtựu trung
    thăm quantham quan
    vô hình chungvô hình trung
    vô vàngvô vàn
    xáng lạngxán lạn
    xem sétxem xét
    xuất xắcxuất sắc
    xúi dụcxúi giục
  • Phương thức biểu đạt là gì?

    Phương thức biểu đạt là gì?

    Xác định phương thức biểu đạt trong một văn bản là một trong những yêu cầu thường gặp trong phần đọc hiểu của đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn

    Phương thức biểu đạt là gì?

    Phương thức biểu đạt là cách mà người viết, người nói truyền tải những thông điệp đến với người đọc, người nghe nhằm thể hiện những tâm tư, những suy nghĩ, tình cảm của chính người nói, người viết.

    Phương thức biểu đạt giúp người với người hiểu nhau hơn, gần gũi hơn và giúp gắn kết các mối quan hệ.

    Mặc dù vậy, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể bày tỏ được hết những gì bản thân mong muốn. Do đó, người biểu đạt cần biết nắm vững các phương thức biểu đạt cũng như ý nghĩa của chúng để thể hiện suy nghĩ của mình một cách tốt nhất.

    6 phương thức biểu đạt trong văn bản

    Có 6 phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận, hành chính – công vụ.

    Phương thức biểu đạt là gì?

    Thực ra, trong mỗi văn bản thường sử dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt. Việc vận dụng tổng hợp nhiều phương thức là đòi hỏi của chính cuộc đời, nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, trong một văn bản cụ thể, các phương thức ấy sẽ không có vị trí ngang nhau; tuỳ thuộc vào mục đích cần đạt tới, người viết sẽ xác định phương thức nào là chủ đạo.

    1. Phương thức biểu đạt tự sự

    • Tự sự là dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng tạo thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta không chỉ chú trọng đến kể mà còn quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật và nêu lên những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người và cuộc sống.
    • Có thể nhận biết phương thức biểu đạt tự sự qua nét đặc trưng sau:
      • Có cốt truyện, có nhân vật tự sự, sự việc, có ngôi kể thích hợp;
      • Rõ tư tưởng, chủ đề.

    Các thể loại thường gặp: Văn bản tiểu thuyết, các bản tin, phóng sự báo chí, các tác phẩm văn học nghệ thuật điển hình như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn….

    Ví dụ:

    “Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi đứa một cái giỏ, sai đi bắt tôm, bắt tép và hứa, đứa nào bắt được đầy giỏ sẽ thưởng cho một cái yếm đỏ. Tấm vốn chăm chỉ, lại sợ dì mắng nên mải miết suốt buổi bắt đầy một giỏ cả tôm lẫn tép. Còn Cám quen được nuông chiều, chỉ ham chơi nên mãi đến chiều chẳng bắt được gì.”

    (Tấm Cám)

    2. Phương thức biểu đạt miêu tả

    • Miêu tả: là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người.

    Ví dụ:

    “Trăng đang lên. Mặt sông lấp loáng ánh vàng. Núi Trùm Cát đứng sừng sững bên bờ sông thành một khối tím sẫm uy nghi, trầm mặc. Dưới ánh trăng, dòng sông sáng rực lên, những con sóng nhỏ lăn tăn gợn đều mơn man vỗ nhẹ vào hai bên bờ cát”

    (Trong cơn gió lốc, Khuất Quang Thụy)

    3. Phương thức biểu đạt biểu cảm

    • Biểu cảm: là một nhu cầu của con người trong cuộc sống bởi trong thực tế sống luôn có những điều khiến ta rung động (cảm) và muốn bộc lộ (biểu) ra với một hay nhiều người khác. Phương thức biểu cảm là dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.

    Ví dụ:

    Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
    Như đứng đống lửa như ngồi đống than

    (Ca dao)

    4. Phương thức biểu đạt thuyết minh

    • Thuyết minh: là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,… những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.

    Ví dụ:

    “Theo các nhà khoa học, bao bì ni lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các loài thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cỏ dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi. Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn của hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải…”

    (Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000)

    5. Phương thức biểu đạt nghị luận

    • Nghị luận: là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình.

    Ví dụ:

    “Muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh thì phải có nhiều người tài giỏi. Muốn có nhiều người tài giỏi thì học sinh phải ra sức học tập văn hóa và rèn luyện thân thể, bởi vì chỉ có học tập và rèn luyện thì các em mới có thể trở thành những người tài giỏi trong tương lai”

    (Tài liệu hướng dẫn đội viên)

    Xem thêm Văn nghị luận là gì? Cách viết mở bài nghị luận, cách viết thân bài nghị luận, cách viết kết bài trong văn nghị luận.

    6. Phương thức biểu đạt hành chính

    • Hành chính – công vụ: là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở pháp lý (thông tư, nghị định, đơn từ, báo cáo, hóa đơn, hợp đồng…)

    Ví dụ:

    “Điều 5 – Xử lý vi phạm đối với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

    Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà sách nhiễu nhân dân, dung túng, bao che cho cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, không xử phạt hoặc xử phạt không kịp thời, không đúng mức, xử phạt quá thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”

    Cách xác định các phương thức biểu đạt

    • Tự sự: Trình bày diễn biển sự việc theo lối kể chuyện, có nguyên nhân và kết quả;
    • Miêu tả: Tái hiện, miêu tả sự vật, sự việc, cảnh vật và con người hiện ra trước mắt;
    • Biểu cảm: Bày tỏ cảm xúc, tình cảm nhân vật;
    • Nghị luận: Nêu nên ý kiến, đánh giá, bàn luận thuyết phục người khác theo quan điểm của mình;
    • Thuyết minh: Giới thiệu, cung cấp, giảng giải… kiến thức nhằm mục đích giúp người đọc hiểu rõ về đối tượng, sự việc, sự kiện nào đó…
    • Hành chính – Công vụ: Trình bày quyết định, hướng dẫn thể hiện quyền trách nhiệm của mỗi người…
  • Tổng hợp các đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ

    Tổng hợp các đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ

    Các dạng đề thi Vợ Chồng A Phủ

    Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một văn bản hay và chứa đựng nhiều ý nghĩa nội dung nghệ thuật và cả về giá trị thông tin văn hóa. Tác phẩm Vợ Chồng A Phủ rất quan trọng và thường xuyên xuất hiện trong các đề thi tốt nghiệp, đề thi ĐH.

    Một số dạng đề thi tác phẩm Vợ Chồng A Phủ:

    • Dạng 1: Cảm nhận, phân tích nhân vật: có hai nhân vật Mị và A Phủ
    • Dạng 2: Cảm nhận về đoạn trích trong bài Vợ chồng A phủ Tô Hoài
    • Dạng 3: Dạng đề so sánh. Ví dụ, so sánh Mị với các nhân vật Người đàn bà làng chài, Bà cụ Tứ, Người vợ nhặt,…; so sánh đoạn văn miêu tả tiếng sáo ngoài đầu núi với đoạn văn miêu tả tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,… trong bài Chí Phèo
    • Dạng 4: Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, tác phẩm,…
    • Dạng 5: Liên hệ thực tế. Ví dụ đề bài cho phân tích nhân vật Mị, sau đó yêu cầu liên hệ tới hình ảnh, số phận người phụ nữ chẳng hạn.

    Một số đề bài tham khảo:

    • Đề 1: Phân tích và so sánh sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ (“Vợ chồng A phủ- Tô Hoài).
    • Đề 2: Câu hỏi đọc hiểu về Vợ chồng A phủ Tô Hoài.
    • Đề 3: Có ý kiến cho rằng: Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú.
    • Đề 4: Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong ” Vợ chồng A phủ và hành động thị theo không Tràng về làm vợ trong “Vợ nhặt” Kim Lân.
    • Đề 5: Trong bài cảm nghĩ về chuyện ” Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết:
      “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt” (Tác phẩm văn học 1930- 1975, Tập hai, NXB Khoa học Xã hội, 1990, trang 71)
      Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn ” Vợ chồng A Phủ” (đoạn trích được học) của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận xét trên.
    • Đề 6: So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
    • Đề 7: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài:
      “Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước…
      Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai làng đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi, Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.”
    • Đề 8: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
    • Đề 9: Có ý kiến cho rằng: Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của nhân vật Mị vào đêm tình mùa xuân là một đoạn đặc sắc kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn Tô Hoài trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ. (Sách Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr 6-7-8 )
      Anh/chị có đồng ý với ý kiến trên không? Căn cứ vào những hiểu biết về tác phẩm, hãy làm rõ chủ kiến của mình.
    Tổng hợp bộ đề thi văn tác phẩm VỢ CHỒNG A PHỦ

    Mở bài Vợ chồng A Phủ

    Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh cao cả ấy. Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn cố gắng đi tìm sự thật trong đời sống để phản ánh vào tác phẩm. Nhà văn quan niệm phải nói lên sự thật dù có đập vỡ thần tượng trong lòng bạn đọc. Trang văn của ông thấm đẫm chất hiện thực, thể hiện vốn ngôn ngữ phong phú và lối diễn đạt tinh tế, hóm hỉnh. Năm 1952, Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số nên có nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi. Điều đó đã thôi thúc Tô Hoài viết tập “Truyện Tây Bắc”. Tập truyện được giải nhất Truyện và kí Việt Nam năm 1954-1955, trong đó truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc.

    Kết bài VỢ CHỒNG A PHỦ

    Văn chương không chỉ đơn giản là thú vui bình sinh lúc an nhàn mà còn là “điểm tựa” cho con người mỗi phút giây yếu lòng. Nó đem lại cho ta niềm tin yêu cuộc sống và vững tin vào chính mình để thay đổi. Trong sáng tác văn chương “nhà văn có thể viết về bóng tối nhưng từ bóng tối phải hướng đến ánh sáng”. Phải chăng, cũng vì lẽ đó mà “Vợ chồng A Phủ” đã được Tô Hoài viết lên để gửi gắm những giá trị nhân văn cao cả. Tác phẩm  là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu áp bức và vùng lên phản kháng, tìm cuộc sống tự do. Sự “đổi đời” của các nhân vật trong tác phẩm không phải nhờ có phép màu của ông Bụt, bà Tiên mà từ chính sức mạnh, tiềm lực bên trong của họ. Tác phẩm từ đầu đến cuổi đều thể hiện tiếng nói thương yêu, ca ngợi, tin tưởng con người. Đó chính là lí do khiến “Truyện Tây Bắc” đạt giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955.

    Bộ đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ

    Đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ số 1

    Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.

    Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.

    Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:

    – Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ cho.

    Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:

    – Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

    Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.

    (Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai,

    NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 4 – 5)

    Phân tích số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét giá trị hiện thực mà tác giả tố cáo trong đoạn trích trên.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích ở đầu truyện: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra …cõng Mị đi” đã thể hiện số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị, từ đó tác phẩm bộc lộ giá trị hiện thực sâu sắc.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

     “Vợ chồng A Phủ” chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miến núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    2. Vẻ đẹp của nhân vật trong đoạn trích

    2.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật

    Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy và cách giới thiệu có vấn đề, nhà văn đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả. Khung cảnh đầu truyện cũng chính là khung nền mà Mị xuất hiện. Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra cũng trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì mặt cô cũng buồn rười rượi. Hình ảnh cô Mị xuất hiện giữa khung cảnh giàu có, người ra kẻ vào tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra nổi tiếng giàu có và quyền lực nhất vùng. Sự đối lập, mâu thuẫn này khiến người đọc phải băn khoăn với một câu hỏi: Vì sao con gái một nhà giàu như nhà thống lí Pá Tra thì bao giờ biết đến cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Chính vì vậy người đọc muốn đi tìm căn nguyên nỗi buồn khổ ấy của nhân vật và nhà văn cũng có cái cớ để kể lại cuộc đời, số phận của nhân vật Mị. Đây là một cách mở truyện khá thành công, hấp dẫn của Tô Hoài. 

    2.2. Số phận nhân vật:

    Hình ảnh cô Mị có xu hướng vị vật hóa khiến cô LẪN VÀO với những vật vô tri, mang thân phận như trâu ngựa. Không phải ngẫu nhiên mà Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vô giác bởi chính cô cũng là một con người đang chết ngay khi còn sống: không cảm nhận, không buồn vui. Mị là hiện thân của nỗi khốn khổ, tủi cực nhất của người dân lao động; là nạn nhân của dưới ách thống trị của thực dân và lãnh chúa phong kiến miền núi Tậy Bắc. Từ khi bị bắt về làm dâu trừ nợ vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống, thời gian và không gian. Không gian quanh Mị là tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…Đó là không gian hẹp, cố định, quen thuộc, tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc, luẩn quẩn…Thời gian “Đã mấy năm”, nhưng “từ năm nào cô không nhớ …” . Hành động, dáng vẻ bên ngoài: Cúi mặt, buồn rười rượi …Điều đó cho thấy từ khi về làm dâu nhà giàu Mị bị đày đoạ về mặt thể xác, thành một thứ nô lệ, một công cụ biết nói: làm quần quật không ngơi tay, bị đánh đập, ngược đãi, bị đối xử như một con vật, không bằng con vật. Mị còn bị đầu độc, áp chế về tinh thần đến tàn lụi, gần như cam tâm, an phận, vật vờ như cái bóng, sống trong vô cảm, vô thức. Mị đã bị tê liệt, Mị không còn ý thức về thời gian, không còn ý thức về mọi thứ xung quanh mình.

    2.3. Phẩm chất của Mị

    Kết cấu đồng tâm đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ không dựng theo trình tự thời gian khiến người đọc muốn ngược dòng thời gian tìm hiểu cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật. Ngược dòng thời gian tìm hiểu thì ta biết Mị là một người con của núi rừng Tây Bắc, là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và yêu tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp của cha mẹ .Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tô Hoài gửi gắm tình yêu vào Mị bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người con gái. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn có tài, ẩn tàng sự yêu đời, ham sống. Những ngày tháng tuôi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất miền Tây. Mị xinh đẹp “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo khiến “bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” …. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với người có ngón tay đeo nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò.

    Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì Mị còn có những phẩm chất tốt đẹp của một người lao động, một cô gái của núi rừng là chăm chỉ, cần cù, chịu thương, chịu khó. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ:“Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô. Con phải cuốc nương, làm ngô trả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói ấy cho thấy một cô Mị hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, không ngại ngần mà làm nương trả nợ. Mị thà nhọc nhằn trên nương rẫy còn hơn nhục nhằn làm dâu nhà thống lý. Mị không chấp nhận, không bằng lòng với cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Lựa chọn ấy cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự do. Khao khát tình yêu tự do là hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy mãnh liệt ở Mị. Xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện của một cô gái không chỉ có ngoại hình xinh đẹp như bông hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị còn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó tài thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ toàn mĩ. Ấy vậy mà, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Mị bị bắt về nhà Thống lý Pá Tra, bị ép sống kiếp dâu con gạt nợ. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xôi ấy.

    2.4. Tình huống trở thành con dâu nhà thống lí và sức sống tiềm tàng

    Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai, nhưng bàn tay vô hình của số phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu – Mị như chết đứng với số phận từ đây. Tô Hoài phải thật sự am hiểu về phong tục tập quán của người dân miền núi mới có thể miêu tả tỉ mỉ tục bắt vợ. Đêm mùa xuân ấy, cũng là đêm cuối cùng Mị còn tự do với tình yêu trong sáng, cháy bỏng của mình. Và cũng là đêm bắt đầu cho những chuỗi ngày tăm tối như địa ngục trần gian của Mị tại nhà thống lí Pá Tra. Tác giả miêu tả rất tự nhiên vào một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị vừa hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên để tìm bàn tay quen thuộc của người yêu. Khi nắm được vào bàn tay có đeo nhẫn ở đúng ngón tay mà người yêu Mị thường đeo thì tiếng gọi của tình yêu để cho Mị nhấc tấm vách gỗ bước ra với người yêu. Một hành động tưởng như viết ra thật đơn giản nhưng sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình yêu của cô Kiều trong trang thơ của Nguyễn Du xưa kia. Đang trong đêm mà “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang hẹn ước, thề nguyền với chàng Kim. Cái tài của cả Nguyễn Du và Tô Hoài không chỉ là để cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy sức sống mãnh liệt khi họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải chăng điều này cũng là một dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người đọc không ngỡ ngàng trước những hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự giải phóng bản thân. Nhưng thật không may, tưởng rằng được đến với tình yêu và hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực thẳm của số phận với bi kịch về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật:

    Miêu tả sinh động, cách giới thiệu nhân vật khéo léo, hấp dẫn gây ấn tượng nhờ tác giả đã tạo ra những đối nghịch giữa hình ảnh người con gái bất hạnh với cảnh nhà Pá Tra giàu có, tạo tình huống ″có vấn đề″ trong lối kể chuyện truyền thống, giúp tác giả mở lối người đọc cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật; nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ…; ngôn ngữ kể giàu chất thơ, thể hiện tài năng quan sát và am hiểu phong tục tập quán của người dân miền núi Tây Bắc…

    3.2. Nhận xét về nội dung và giá trị hiện thực

    Truyện kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là phản ánh hiện thực đời sống của người lao động Tây Bắc trước cách mạng. Qua số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong đoạn trích, tác phẩm còn gián tiếp tố cáo bọn chúa đất miền núi Tây Bắc, cảm thông với cuộc sống của người dân, ca ngợi vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của họ. Số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Tô Hoài.

    Đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ số 2

    Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

    Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

    (Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai,

    NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 6)

    Phân tích giá trị hiện thực được thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét cách nhìn về cuộc sống và con người của nhà văn Tô Hoài.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích ở phần đầu truyện “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau…bao giờ chết thì thôi” thể hiện thành công giá trị hiện thực cuộc đời người dân miền núi Tây Bắc, đồng thời gửi gắm cách nhìn mới mẻ về cuộc sống và con người trong sáng tác của Tô Hoài.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

             – Giải thích: Giá trị hiện thực là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. Một tác phẩm văn học nào cũng có giá trị hiện thực vì văn học bắt nguồn từ đời sống, bắt nguồn từ hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, bắt nguồn từ hiện thực, tình cảm, tâm lí… Trong tác phẩm văn học, giá trị hiện thực thường là sự phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh; chỉ ra nguyên nhân gây đau khổ cho con người và miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Mỗi tác phẩm văn học đều có giá trị hiện thực, bởi văn chương không thể xa rời thực tế và “Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại”. Tuy vậy, ở mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được miêu tả đa dạng và khác nhau.

    – Giới thiệu nội dung:  “Vợ chồng A Phủ” chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miến núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    2. Phân tích giá trị hiện thực trong đoạn trích

    2.1. Miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi và bọn thực dân

    Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực trong đoạn trích là thông qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã miêu tả chân thực số phận cùng khổ của người dân dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi và bọn thực dân phong kiến.

    Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu  nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì cha mà cô không đành lòng chết.

    Đến đoạn văn này thì ý thức phản kháng của Mị đã mất đi “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Sự đày đọa về thể xác, áp chế về tinh thần đã khiến Mị tê liệt hoàn toàn.Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, khổ nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”  và « Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Cách so sánh ngang bằng (Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa) và so sánh không ngang bằng (Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày) nhằm tập trung phản ánh nỗi khổ, bị đọa đày về thể xác của Mị.Cách so sánh ấy đã cho thấy điều mà tác giả dự báo ở đầu tác phẩm khi để nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri, vô giác được cụ thể hóa hơn. Mị có khác nào một công cụ lao động của nhà thống lí, không có chút quyền con người cơ bản nào.

    Sự đọa đày về thể xác ấy đã dẫn đến sự tê liệt về tinh thần. Quen với cái khổ nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, trong đầu chỉ còn ý niệm về công việc nối tiếp công việc, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp…  Cách khắc họa nhân vật của Tô Hoài gây ấn tượng về một con người bị tê liệt về xúc cảm, hành động như một cỗ máy đã được lập trình sẵn, chỉ như đang tồn tại một cách vô thức mà không hề sống với bất kì một trạng thái cảm xúc sống động nào.

    Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”. Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt trong tác phẩm nhưng nếu nhìn kĩ ta lại thấy sau đó những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người phụ nữ nói chung và người phụ nữ Mông nói riêng là nơi chia sẻ mọi buồn vui, giấu kín bao khát khao mơ ước, và là không gian theo bám suốt cuộc đời của họ. Khi còn trẻ đó là căn buồng kín đáo của một cô thiếu nữ, với bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là căn buồng đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Xa hơn là căn buồng đếm từng ngày, từng tháng khi thai nghén chín tháng mười ngày, khi nuôi con bế bồng với bao tin yêu, hi vọng… Tưởng như đó là không gian thân thương, gần gũi và ấp áp nhưng với Mị thì không. Đó là một căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông cửa sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra bên ngoài lúc nào cũng thấy «mờ mờ, trắng trắng không biết là sương hay là nắng». Người đọc có thể liên tưởng ngay đến hình ảnh một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống. Phải chăng chính điều này đã làm tê liệt hơn sức sống trong người con gái đầy xuân xanh.

               “Nghệ thuật chỉ đạt đến đỉnh cao khi nó được chắt lọc từ những nỗi đau đích thực của cuộc đời” (Lê Huy Bắc). Thật đúng như vậy, đoạn văn thực sự để lại ấn tượng không phai mờ trong lòng bạn đọc vì ở đây Nhà văn Tô Hoài đã chạm đến nỗi đau tột cùng của con người. Khi một “nạn nhân” đau khổ, còn nghĩ đến cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn còn khao khát sống. Với Mị cũng đã có một lần như thế nhưng giờ đây cô đã dường như phó mặc thân phận cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai. Một con người sống mà chỉ như tồn tại, không có một ý niệm nào về cuộc sống và rơi vào trạng thái tận cùng của sự cam chịu, không lối thoát.

    2.2. Giá trị hiện thực của đoạn trích còn thể hiện ở tiếng nói tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến miền núi Tây Bắc.

    Bọn thực dân phong kiến miền núi mà đại diện là gia đình thống lí Pá tra đã lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của người dân miền núi. Chúng dùng những hủ tục lạc hậu, thủ đoạn độc ác đày đọa con người như cho người dân vay nặng lãi, dùng cách cúng trình ma để hù dọa người dân để mỗi năm lãi càng thêm nhiều. Chúng biến trần gian thành địa ngục, chà đạp lên hạnh phúc, tình yêu của con người. Mị chính là nạn nhân dưới sự áp chế của chúng. Không những đày đọa thể xác của Mị, chúng còn làm tê liệt ý thức phản kháng, sống trong sự cam chịu, chấp nhận kiếp đời làm dâu gạt nợ, nô lệ đầy tủi nhục.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật:

    Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt, vừa tiếp thu truyền thống vừa sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn kể chuyện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liên tục nhưng nhiều lúc đan xen quá khứ với hiện tại một cách tự nhiên, hợp lí để làm nổi bật nội dung cần thể hiện. Trong đoạn trích, nhân vật Mị được phác tả bằng vài nét chân dung gây ám ảnh, có sự kết hợp giữa giọng trần thuật của nhà văn với dòng tâm tư của nhân vật, khiến người đọc có cảm giác người viết đã nhập sâu vào trong dòng ý nghĩ, tâm tư của nhân vật để diễn tả suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật; nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ…; ngôn ngữ kể giàu chất thơ, xúc động.

    3.2. Cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn Tô Hoài

    – Cách nhìn về cuộc sống: là cái nhìn hiện thực khi nhà văn muốn thể hiện một cách chân thực bức tranh xã hội thực dân, phong kiến miền núi với những mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ phong kiến thực dân với quần chúng lao động. Đúng như quan niệm của nhà văn “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”.

    – Cách nhìn về con người: là cái nhìn nhân đạo. Trong đó:

    Sê-khốp đã từng khẳng định: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Sê-khốp coi tinh thần nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi người cầm bút, là tiêu chuẩn, điều kiện để đánh giá mức độ chân chính của nhà văn. Bởi tác phẩm văn học chân chính thể hiện cái tâm của người nghệ sĩ, phải hàm chứa tinh thần nhân văn sâu sắc, chứa đựng niềm vui, nỗi khổ đau của con người. Xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu và tình yêu thương với mảnh đất và con người miền núi, từ hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay nhà văn đã hướng đến những người lao động bình dị, chất phác bằng tình cảm sâu sắc, mộc mạc, chân thành, yêu thương và cảm phục. Ngược lại, đối với những nhân vật phản diện như A Sử và Thống lí Pá Trá, nhà văn sử dụng những ngôn từ chân thực, mang tính phê phán mạnh mẽ sự lộng hành và ác độc của gia đình nhà thống lý.

    Người đọc cũng có thể cảm nhận được sự trân trọng, tin yêu của nhà văn với vẻ đẹp của những người dân miền núi. Điển hình, trong mắt Tô Hoài, Mị là người hội tụ của nhiều vẻ đẹp từ ngoại hình, đến tài năng và cả vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt.

    Hơn nữa, với cái nhìn đầy yêu thương, nhà văn đã tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình, giải thoát cho đồng bào miền núi bằng ánh sáng cách mạng, khẳng định, tin tưởng vào khả năng, sức mạnh, tương lai tốt đẹp của người dân miền núi.

    => Cách nhìn mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang lại chất lượng mới cho văn học kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài.

    Đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ số 3

    Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho.Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều quanh nương để sưởi lửa.Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết thì gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.

    Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá  xòe như con bướm sặc sỡ. (…) Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.

     “Mày có con trai con gái rồi

      Mày đi làm nương

                                           Ta không có con trai con gái

     Ta đi tìm người yêu”.

    Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.

    Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.

    Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.

    Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.

    (TríchVợ chồng A PhủTô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 6,7)

    Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp bức tranh thiên thiên, cảnh sinh hoạt và nhân vật Mị ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét chất thơ trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn văn “Trên đầu núi… theo Mị” đã làm nổi bật vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, miêu tả cảnh sinh hoạt và nhân vật  Mị. Qua đó thể hiện rõ chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    – Tây Bắc hẳn là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ có thể viết nên những trang thơ, những  trang văn lấp lánh. “Người mẹ của hồn thơ” ấy đã thả hồn vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh rạng ngời “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong văn Nguyễn Tuân và phả vào trang viết của Tô Hoài vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên và con người Tây Bắc khiến khi gấp trang sách lại ta mãi không thể nào quên được.

    – Truyện “Vợ chồng A Phủ” chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    – Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu  nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì cha mà cô không đành lòng chết.Từ đây, Mị chấp nhận cuộc sống “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, chấp nhận bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …Sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình.

    – Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình. Đoạn văn miêu tả bức tranh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt và nhân vật Mị này có ý nghĩa khơi dậy và thể hiện sức sống tiềm tàng ở nhân vật Mị.

    2. Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

    Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc được Tô Hoài miêu tả bằng những rung cảm mãnh liệt trở nên rất thơ mộng và mang vẻ đẹp rất riêng đầy quyến rũ. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào lúc thời tiết khắc nghiệt, gió thổi cỏ gianh vàng ửng. Gió và rét rất dữ dội nhưng không ngăn nổi những sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, không ngăn nổi cái rạo rực của lòng người. Cả bản làng sáng bừng trong sắc màu của ngô, lúa, của trái bí đỏ, của cỏ gianh vàng ửng cùng với những sắc màu rực rỡ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ.” Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Cái rét đến sớm và dữ dội khác thường và sự đột biến của thiên nhiên của mùa xuân năm ấy phải chăng để báo hiệu sự đột biến trong nhân vật Mị.

    3. Cảnh sinh hoạt của nhân dân Tây Bắc

    3.1. Cảnh sinh hoạt thể hiện phong tục ăn Tết của người Mèo

    Đoạn trích giúp chúng ta ít nhiều có thể hình dung về phong tục đón Tết của người Mèo (H’Mông). Người Mèo không ăn Tết theo lịch mà đón Tết khi vụ mùa gặt hái đã xong nên Tết là sự cộng hưởng của vẻ đẹp đất trời và niềm vui thu hoạch mùa màng “Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết thì gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Họ ăn Tết khi “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”. Phong tục ấy thể hiện rõ nhịp sống của con người “hoà thuận” một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai.

    Vào dịp Tết người ta thường tập trung ở một không gian thoáng, rộng, thường là mỏm đất phẳng ở đầu làng để thổi khèn, thổi sáo, đánh quay, ném còn và nhảy. Vẻ đẹp của bức tranh sinh hoạt, phong tục miền núi trong  ngày Tết của người Mèo, qua ngòi bút của Tô Hoài, thực sự có sức say lòng người. Trẻ con đầy vui sướng với những trò chơi ngày Tết “Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Trai gái thì thổi khèn, thổi sáo tìm bạn yêu “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi Sự am hiểu về phong tục tập quán của người miền núi còn được Tô Hoài thể hiện rõ khi nhà văn miêu tả cảnh ăn Tết trong gia đình thống lí Pá tra. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa”. Nhìn ở góc độ phong tục, bên cạnh vui chơi thì người miền núi còn có tục thờ cúng, ốp đồng và ăn cơm, uống rượu bên bếp lửa.

    3.2. Tiếng sáo

    Tết đến, xuân về thiên nhiên và con người đều tràn đầy sinh khí nên bên cạnh bức tranh thiên nhiên đầy sắc màu là những thanh âm rộn rã. Đó là của tiếng nói cười của trẻ con, tiếng chó sủa xa xa, tiếng khèn nhưng đặc biệt hơn cả là tiếng sáo gọi bạn. Nhà văn Tô Hoài rất dụng công trong mô tả tiếng sáo bởi tiếng sáo mùa xuân được xem như linh hồn của đời sống tinh thần nhân dân vùng Tây Bắc “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Tác giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi còn xa Mị tiếng sáo « lấp ló» lúc ẩn lúc hiện ngoài đầu núi. Nhưng rồi nó đến gần hơn, vọng lại rõ hơn để có thể hiểu được lời của người đang thổi sáo Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, quyến rũ và say mê, tiếng sáo làm nổi bật vẻ đẹp của con người Tây Bắc đa tình, nghệ sĩ:

    Mày có con trai con gái rồi
    Mày đi làm nương
    Ta chưa có con trai con gái
    Ta đi tìm người yêu

    Mùa xuân là mùa của hò hẹn, mùa của tình yêu, của hạnh phúc và tiếng sáo chính là tín hiệu báo hiệu rằng «Những đêm tình mùa xuân đã tới». Mùa xuân mới, đất trời, vạn vật bùng trỗi dậy của sức sống mới và con người cũng bùng dậy những khát vọng yêu đương.

    4. Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân:

    4.1. Tác động của tiếng sáo:

    Tiếng sáo gọi bạn thiết tha, bổi hổi khi Tết đến xuân về ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Tâm hồn Mị tha thiết bổi hổi khi nghe tiếng sáo từ đầu núi vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo. Sau bao nhiêu ngày câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ này đã khẽ hát, dù chỉ là nhẩm thầm. Mị nhẩm thầm (không phải là “hát thầm”), tức là khẽ khàng nhắc lại theo sự hồi tưởng, thậm chí không liền mạch, lúc nhớ lúc quên lời bài hát của người đang thổi. Có lẽ trước đây Mị cũng đã từng thổi sáo hoặc hát bài này rồi. Giờ nghe tiếng sáo ngoài đầu núi vọng lại, lúc ẩn lúc hiện, trong Mị đã thức dậy điều gì đó quen thuộc, lâu nay bị lãng quên.

    4.2. Tác động của rượu

    Dịp Tết, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Tồi Mị say”. Đó cũng không phải là cách uống của người thưởng xuân cũng không phải uống vì thèm rượu. Cách uống rượu của Mị là cách uống để giải sầu, uống rượu như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sức chịu đựng của Mị là có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân.

    4.3. Tâm lí của Mị khi Tết đến, xuân về

     Có thể nói rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất, khơi dậy sức sống tiềm tàng vốn bị vùi chôn ở nơi sâu kín nhất trong tâm hồn của Mị. Giờ đây Mị không còn lặng câm nữa. Mị đã hồi sinh! Sự hồi sinh trong tâm hồn đã dẫn đến hàng chuỗi các hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật. Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang «văng vẳng gọi bạn đầu làng », lòng Mị đang sống về ngày trước, hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp thời con gái. Ngày ấy, Mị là người con gái xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, chỉ cần một chiếc lá là “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Ngày ấy, Mị có “biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Những hồi ức thanh xuân tươi đẹp ấy sống dậy cho thấy Mị đã bắt đầu thức tỉnh, Mị đã ý thức được về sự tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị không còn sống một cách bất động, vô hồn ở nhà thống lí, sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị và khát vọng sống như ngọn lửa đã làm bừng sáng lại tâm hồn Mị. Nhà văn Tô Hoài ở đây thực sự đã chứng tỏ sự am hiểu về tâm lí, tính cách của người dân vùng cao Tây Bắc. Tâm lí của Mị không chỉ có lí trí của một người tỉnh táo mà còn phải có sự chếnh choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiếng sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế ấy của nhân vật «không phải người viết mà là thần viết».

    5. Đánh giá

    5.1. Nhận xét chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài:

    – Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Đoạn trích cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân tràn ngập màu sắc và âm thanh, ấn tượng nhất về màu sắc là vẻ đẹp của váy hoa, của âm thanh là tiếng sáo.

    – Nét đặc sắc nhất của chất thơ biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Tô Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới đa cung bậc và muôn vàn sắc thái của tình cảm của con người.

    – Chất thơ thể hiện qua ngôn ngữ nghệ thuật: Hàng loạt từ ngữ chỉ âm thanh, hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ. Các từ ngữ địa phương gợi những hình ảnh gần gũi đặc trưng cho miền núi Tây Bắc: nương ngô, nương lúa, vỡ nương, lều canh nương, cùng những sinh hoạt độc đáo: hái bí đỏ chơi quay, thổi sáo. Từ ngữ miêu tả chi tiết đẹp và giàu sức sống: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy đem ra phơi trên mỏm đá …Chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài còn được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu luyện. Đoạn miêu tả giàu tính nhạc thơ, trữ tình gợi cảm. Âm điệu câu văn êm ả, ngắn và đậm phong vị Tây Bắc. Nhip kể chậm, giọng kể trầm lắng chứa đầy cảm thông, xót xa. Giọng trần thuật nhiều khi đã hòa vào tiếng nói bên trong nhân vật.

    5.2. Ý nghĩa của đoạn văn

    Đoạn văn đã làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên, văn hóa phong tục và tâm hồn người Tây Bắc. Qua đó, tác giả đặc biệt cho thấy sức sống mãnh liệt, tiềm ẩn, tiềm tàng của nhân vật Mị. Chất thơ trong đoạn trích không những bộc lộ tài năng nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng nhân đạo của ông với con người Tây Bắc, góp phần làm sáng tỏ cảm hứng lãng mạn cách mạng của văn xuôi Việt Nam 1945-1975.

    Tham khảo thêm

    Đề bài: Anh/chị hãy phân tích đoạn văn sau để chứng minh nhận định:

    “Có một chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm”.

    (Theo Bài tập Ngữ văn 12, Nâng cao, tập hai, tr.4)

    Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.

    Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ […]. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.

    Mày có con trai con gái rồi

    Mày đi làm nương

    Ta không có con trai con gái

    Ta đi tìm người yêu.

    Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.

    Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.

    Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lử

    Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

    (Trích “Vợ chồng A Phủ”– Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, tập hai, tr.6-7)

    I. MỞ BÀI

    – Trong kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài đã cùng bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc. Kết quả của chuyến đi ấy tập truyện ngắn “Truyện Tây Bắc” (1952).

    – “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc”, cũng là một trong những truyện ngắn Việt Nam xuất sắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc, tái hiện số phận đau khổ của những người nông dân nghèo miền núi;đồng thời ngợi ca sức sống và khát vọng tự do của người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ trong cách mạng.

    – Nói về truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, có nhận định cho rằng: “Có một chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm”. Đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho phong cách văn chương dạt dào chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.

    II. THÂN BÀI

    1. Giải thích khái niệm

    – “Chất thơ” trong tác phẩm văn xuôi có thể hiểu là vẻ đẹp lãng mạn được tạo ra từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Nó là vẻ đẹp bay bổng thơ mộng thoát lên từ đời sống hiện thực. Nó tương phản với đời sống hiện thực nhưng lại trong một thể thống nhất.Nếu hiện thực là môi trường của những cái vốn có, hiện có thì vẻ đẹp lãng mạn là ước mơ, là lí tưởng để nâng đỡ con ngươi vượt qua đờ sống hiện thực vốn trần trụi.

    – Chất thơ trong truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.

             – Từ những hiểu biết trên, có thể tìm hiểu chất thơ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài qua đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao.

    2. Chứng minh nhận định

    2.1. Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc mùa xuân:

    – Tô Hoài đã vẽ nên bức tranh về quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết không về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên tấm lịch… Trái lại, người dân vùng núi miền Tây “cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới”. Đó một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao, cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Nhịp sống của con người “hoà thuận” một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai.

    – Nhà văn đã có những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết. Khi “các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, người được an nhàn, thư thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế mà Tô Hoài tả cảnh Tết đến vào lúc “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”, nhưng vẫn gợi được cái không khí náo nức, tươi tắn của mùa xuân? Và dù cái Tết năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau.

    – Hình ảnh những chiếc váy hoa “đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ” trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi “lấp ló ngoài đầu núi” mang hương vị độc đáo của mùa xuân Tây Bắc.

    – Tết ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê đắm: “trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Có cả bữa cơm Tết cúng ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi “người nhảy đồng, người hát”…

    =>Bằng lối “điểm xuyết” như thế, Tô Hoài dần xoá đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa người đọc nhập vào nhịp sống riêng của miền đất này.

    2.2. Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng trong dòng hồi ức của Mị:

    – Từ dòng hồi ức của Mị, có thể cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do.

    – Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, lúc đó, kiếp con dâu gạt nợ ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tài hoa, mạnh mẽ… thành người đàn bà nhẫn nhục, chai sạn trước đau khổ.

    – Nhưng bất chấp số phận cay đắng, nghiệt ngã, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc. Khi đau khổ xoá mờ kí ức, Mị vẫn không quên giai điệu ngọt ngào, tha thiết của tiếng sáo gọi bạn tình. Nó quấn quýt, vương vấn, thức tỉnh, nâng đỡ, chắp cánh cho tâm hồn Mị: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi […] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng […] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường […] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…”. Tiếng vẫy gọi của tình yêu đã làm sống dậy những cảm xúc và kỉ niệm Mị từng chôn vùi, quên lãng. Người đàn bà câm lặng suốt bao năm tháng giờ đây đang ngồi “nhẩm thầm bài hát” của người thổi sáo. Từng câu hát nồng nàn, tình tứ gọi về trong tâm tưởng những tháng ngày hạnh phúc, tươi sáng nhất: “Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lácũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Trong khoảnh khắc, Mị vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, băng qua ranh giới của quá khứ và hiện tại để trở về sống trọn với tuổi thanh xuân tươi đẹp.

    =>Chất thơ toả sáng từ tâm hồn Mị – người con gái dẫu đi qua chốn địa ngục trần gian vẫn ấp ủ trong lòng bao xúc cảm đẹp đẽ và nồng ấm tình người. Mị dù qua bao bị đày đoạ đến chết đi sống lại nhưng luôn tiềm tàng sức sống và khát khao hạnh phúc mãnh liệt.

    2.3. Chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:

    – Tô Hoài cũng sáng tạo nhiều kiểu câu văn giàu nhịp điệu “như biết co duỗi nhịp nhàng” (Nguyễn Tuân). Có kiểu câu với cấu trúc tầng lớp, trùng điệp các vế, thường được dùng để miêu tả các sự kiện kéo dài, lặp lại, triền miên, nặng nề; có kiểu câu ngắn, dồn dập, diễn tả những biến động bất ngờ. Những cấu trúc mới lạ, phong phú đan xen, phối hợp với nhau một cách linh hoạt mang dến cho lời vãn tính đa thanh, phức điệu.

    – Làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài ngoài cái ý nghĩa cụ thể trong từng câu chữ còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn toàn có thể cảm thấy, đó chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những cung bậc khác nhau trong tình cảm của nhà văn.

    – Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: “Mày có con trai con gái rồi, Mày đi là nương. Ta chưa có con trai con gái, Ta đi tìm người yêu”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng.

    – Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài giàu chất thơ, chất hoạ. Không thiếu những đoạn văn, đọc lên, ngỡ như mình đang đứng trước một bức tranh hay đang xem một trường đoạn phim với góc quay thật rộng: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa… Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Gần rồi xa, cao và thấp, đậm xen nhạt, khi thì sắc nét như ở ngay trước mặt, lúc lại thấp thoáng mơ hồ như ở ngoài tầm mắt; vừa trải rộng với những nét vẽ sông, suối mềm mại, đã lại sừng sững thu về trong dáng núi gân guốc, hùng vĩ… của núi rừng Tây Bắc.

    3. Đánh giá

    Khi nói về truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài từng tâm sự: “Thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ quên”.Chính những năm tháng không bao giờ quên ấy đã cho Tô Hoài chất liệu thấm đẫm chất thơ khi miêu tả thiên nhiên và con người Tây Bắc. Với sự gắn bó sâu nặng của mình với mảnh đất này, Tô Hoài đã truyền cho người đọc những rung cảm sâu xa với cảnh, với người bằng lối văn xuôi thấm đẫm chất thơ ngọt ngào, dịu dàng lan tỏa trong cảnh sắc, trong dòng hồi ức của Mị và trong nhịp điệu câu văn, trong lời bài hát, trong những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Đoạn văn miêu tả đêm tình mùa xuân trên núi cao tiêu biểu cho ngôn ngữ văn chương thấm đẫm chất thơ của Tô Hoài trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.

    Đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ số 4

    “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu.Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước.Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.Ngày trước Mị thổi sáo giỏi.Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo.Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê,  ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị .

    Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết.Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà.Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà Mị từ từ bước vào buồng.Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

    Anh ném pao, em không bắt

    Em không yêu, quả pao rơi rồi…”

                        (Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai,

                  NXB Giáo dục Việt Nam, trang 7-8)

    Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn văn bản trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu……. Em không yêu, quả pao rơi rồi.”là một phần diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Qua đó người đọc thấy được đăc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    “Vợ chồng A Phủ” chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    – Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu  nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì cha mà cô không đành lòng chết.Từ đây, Mị chấp nhận cuộc sống “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, chấp nhận bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …Sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình.

     “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. (Ai ma tôp). Nhà văn Tô Hoài quả thực đã làm được điều đó khi thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình. Tiếng sáo và những đêm tình mùa xuân đã đánh thức khát vọng sống và giấc mộng lứa đôi, khơi dậy sức sống tiềm tàng ở Mị. Đoạn văn này nằm ngay sau đoạn văn miêu tả thiên nhiên Tây Bắc, tiếng sáo gọi bạn lấp ló nơi đầu núi vào dịp tết đến xuân về và nhằm miêu tả tâm trạng và hành động của Mị.

    2. Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích

    2.1. Mị uống rượu

    Tiếng sáo đã dẫn đến hành động “nổi loạn” của Mị. Dịp Tết, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Tồi Mị say”. Đó cũng không phải là cách uống của người thưởng xuân cũng không phải uống vì thèm rượu. Cách uống rượu của Mị là cách uống để giải sầu, uống rượu như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sức chịu đựng của Mị là có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Có thể nói rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất, khơi dậy sức sống tiềm tàng vốn bị vùi chôn ở nơi sâu kín nhất trong tâm hồn của Mị. Mị lịm mặt ngồi đấy nhưng tâm hồn Mị đang hồi sinh. Sự hồi sinh trong tâm hồn đã dẫn đến hàng chuỗi các tâm trạng, hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật.

    2.2. Lòng Mị sống lại những ngày trước khi còn trẻ

             Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang «văng vẳng gọi bạn đầu làng », lòng Mị đang sống về ngày trước, hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp thời con gái. Ngày ấy, Mị là người con gái xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, chỉ cần một chiếc lá là “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Ngày ấy, Mị có “biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Những hồi ức thanh xuân tươi đẹp ấy sống dậy cho thấy Mị đã bắt đầu thức tỉnh, Mị đã ý thức được về sự tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị như ý thức được mình đang sống giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại; tỉnh và say; hạnh phúc và bi kịch. Sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị và khát vọng sống như ngọn lửa đã làm bừng sáng lại tâm hồn Mị. Nhà văn Tô Hoài ở đây thực sự đã chứng tỏ sự am hiểu về tâm lí, tính cách của người dân vùng cao Tây Bắc. Tâm lí của Mị không chỉ có lí trí của một người tỉnh táo mà còn phải có sự chếnh choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiếng sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế ấy của nhân vật «không phải người viết mà là thần viết».

    2.3. Mị đi vào buồng và ý thức rằng mình vẫn còn trẻ

    Sự vượt lên hoàn cảnh của Mị diễn ra không hề dễ dàng. Tô Hoài đã rất tinh tế khi đặt nhân vật Mị vào sự giao tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về thân phận. Ngòi bút của nhà văn như hóa thân vào nhân vật, để nâng niu, để trân trọng những khát vọng của con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín trong tâm hồn nhân vật. Rượu tan, người về hết, Mị ngồi trơ một mình giữa nhà rồi Mị bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng trắng. Căn buồng ấy chính là thực tại, là ngục thất giam cầm tuổi thanh xuân và hủy hoại hạnh phúc của Mị. Cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng kia vốn là những hình ảnh nhiều sức gợi, thể hiện Mị đã tê liệt đến mức quên cả ý niệm về không gian, thời gian. Nhưng giờ đây khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc mãnh liệt khiến Mị có thể phá tan mọi gông cùm, áp chế. Để lúc này “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước”. Quá khứ và hiện tại như đan xen khiến Mị trở lại là cô Mị trẻ trung, yêu đời ngày nào để Mị nhận ra bây giờ Mị vẫn còn rất trẻ và Mị muốn được đi chơi “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.  Mị còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát, còn muốn yêu thương.

    2.4. Tâm trạng phẫn uất khi nhận thức về hiện thực phũ phàng là cuộc hôn nhân không tình yêu

    Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy mãnh liệt bao nhiêu thì Mị lại phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Mị nhớ ra chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi. Mị nhận ra những người phụ nữ có chồng vẫn đi chơi ngày Tết: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!” Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như con vật.

    Sức sống tiềm tàng đã được đánh thức, Mị không thể cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ. Nhớ lại kiếp sống trâu ngựa chỉ thấy nước mắt muốn ứa ra. Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh, không chấp nhận cuộc sống trâu ngựa này nữa. Mị muốn chết để không phải đối diện với thực tại, không phải nhớ lại quá khứ cùng với những ước mơ khao khát của mình Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này tiêu cực nhưng dễ thông cảm và hơn hết đã cho thấy sự thay đổi ở Mị. Mị muốn chết chính là biểu hiện của sức sống, của khát vọng sống đích thực là một con người. Đây phải chăng là tình yêu, lòng nhân đạo của tác giả đối với nhân vật.

    2.5. Tiếng sáo một lần nữa thôi thúc sự trỗi dậy của Mị

    Nhưng Mị không có lá ngón trong tay mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ở ngoài đường. Phía sau ô cửa nhỏ kia là cả thiên đường hạnh phúc, là mùa xuân đang nồng nàn:

    Anh ném pao, em không bắt

    Em không yêu, quả pao rơi rồi…”

             Tiếng sáo của tình yêu tuổi trẻ lại thôi thúc Mị, dìu hồn Mị theo những đám chơi, những cuộc chơi để từ đây khát vọng sống ở Mị vốn đã sống dậy giờ càng trở nên mãnh liệt. Vậy là hóa ra Mị vẫn luôn khao khát tình yêu, tự do và khao khát ấy vẫn âm ỉ ở bên trong, chưa bao giờ bị dập tắt.

    3. Đánh giá

    3.1. Nhận xét ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Tô Hoài:

    Trong đoạn văn, nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc như: lối kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo, đặc biệt hành động và diễn biến tâm trạng của Mị được miệu tả, lí giải cụ thể, hợp lí. Đi sâu vào tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã xây dựng nhân vật theo kiểu con người phân lập, có một cô Mị ở hiện tại và một cô Mị ở quá khứ hòa chung vào nhau. Hai con người ấy đan xen, khi tách ra khi hòa vào một tạo nên một nhân vật Mị hết sức sinh động, mới lạ.

    3.2. Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài.

    Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của nhân vật. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình…Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách. Trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ với ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu tính tạo hình, biểu cảm cùng với tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc, tuần tự và đột biết trong tâm trạng Mị.

    3.3. Ý nghĩa của đoạn trích

             Đoạn trích góp phần hoàn thiện chân dung nhân vật Mị. Dù nghèo khó, bị áp bức nhưng trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà văn khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống con người. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị trong đoạn trích cũng như tác phẩm đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc một ấn tượng khó phai mờ, đã góp phần nêu bật giá trị nhân đạo của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của nhà văn Tô Hoài.

    Đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ số 5

    “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:

    – Mày muốn đi chơi à?

    Mị không nói. A Sử cũng không thèm hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay hai Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

    Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

    Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.

    Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

    Mbàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm sâm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết.Ðời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.

             (Trích “Vợ chồng A Phủ”  – Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12 – Tập hai, NXB GD)

    Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật của Tô Hoài.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Sức hấp dẫn của thiên truyện chủ yếu từ nghệ thuật khắc họa nhân vật Mị, nhất là khi nhà văn đi sâu và nội tâm nhân vật ở đoạn trích: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng […].Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    “Vợ chồng A Phủ” chủ yếu kể về cuộc đời của nhân vật Mị, cũng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu  nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Khi mới bị bắt về làm dâu, có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Đây có thể xem là sự phản kháng của Mị trước thần quyền và cường quyền, không chấp nhận kiếp sống trâu ngựa, nhưng rồi vì cha mà cô không đành lòng chết.Từ đây, Mị chấp nhận cuộc sống “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, chấp nhận bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …Sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình.

    “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. (Ai ma tôp). Nhà văn Tô Hoài quả thực đã làm được điều đó khi thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình.

    Ở đoạn văn trước đó, rượu và tiếng sáo là chất men say đánh thức phần đời đã mất, khơi dậy sức sống tiềm tàng vốn bị vùi chôn ở nơi sâu kín nhất trong tâm hồn của Mị. Đoạn văn này miêu tả nhân vật Mị khi bị trói và cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật một khi đã sống dậy thì khó có thể dập tắt.

    2. Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích

    2.1. Mị muốn đi chơi

    Khi tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc biến thành tinh thần phản kháng mạnh mẽ, hóa thành hành động cụ thể: Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Hành động ngỡ như đột ngột, nhưng nó là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa hoàn cảnh và tâm lí nhân vật. Không phải bỗng dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi người con gái lặng câm ấy thức tỉnh, bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. Mị hành động thản nhiên, dù A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Điều đó cho thấy Mị không còn sợ, bóng ma thần quyền đã không thể làm gì Mị bởi sức sống trong con Mị đang trỗi dậy mạnh mẽ. Mị muốn đi chơi và Mị chuẩn bị đi chơi.

    Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi mà ở đây đại diện là A Sử đã dập tắt đi khát vọng vừa trỗi dậy của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Chi tiết này bộc lộ rõ sự đè nén, áp chế đến tàn nhẫn của bọn thống trị với người dân miền núi.

    2.2. Diễn biến tâm trạng Mị khi bị trói

    * Quên thực tại đau đớn, say sưa với tiếng sáo

    Nhưng lúc này, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống với tâm hồn. A Sử trói được thể xác nhưng không thể nào trói được tâm hồn Mị. Thậm chí sự áp bức về thể xác càng lớn thì sự trỗi dậy của tinh thần càng mạnh mẽ bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình mùa xuân. Thể xác Mị đang ở giữa bốn bức tường câm lặng, đang bị đau đớn nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Mị thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo không chỉ vang vọng trong không gian mà đang hiện hữu trong tâm hồn Mị. Mị còn nhẩm thuộc lòng trong đầu lời bài hát của người thổi sáo mà có lẽ đó cũng là bài hát và khúc nhạc sáo mà Mị thổi năm nào: «Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào?». Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, tiếng sáo gợi nhắc cả một quá khứ tươi đẹp, tiếng sáo là biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Âm thanh của tiếng sáo như ma lực làm bùng cháy trong Mị niềm khao khát yêu, khao khát sống. khiến Mị quên mình đang bị trói và “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy sức sống của tâm hồn Mị lớn hơn nỗi đau thể xác.

    * Mị trở về với thực tại

     Nhưng rồi việc “tay chân đau không cựa được” đã đưa Mị về với hiện thực cay đắng là Mị đang bị trói. Mị rời khỏi thế giới mộng tưởng, không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe thấy tiếng ngựa đạp vách, ngựa vẫn đứng yên gãi chân, nhai cỏ. Mị chợt nhận ra và ý thức sâu sắc về nỗi bất hạnh của mình “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Hình ảnh so sánh con người với con vật cứ day dứt, trở đi trở lại trong tác phẩm. Mị không chỉ khổ như trâu ngựa mà thậm chí còn khổ hơn cả kiếp trâu kiếp ngựa bởi vì trâu, ngựa còn có lúc nó được gặm cỏ, gãi chân còn Mị và những người đàn bà làm dâu nhà thống lí cả đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng và làm việc quần quật suốt ngày đêm. Các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà và dịp Tết họ có được đi chơi hay cũng phải trói như Mị. Mị nhận ra rằng cuộc đời người đàn bà sa vào nhà quan là khốn khổ, là bị chà đạp, bị trói và tính mạng bị xem thường.

    * Hai tâm trạng đan xen

    Tiếng chó sủa xa xa, đêm chừng đã khuya, Mị lại hồi nhớ lúc này là lúc trai đến bên vách làm hiệu rủ người yêu vào rừng chơi. Thế nên dù có trở về thực tại đau đớn, tủi nhục nhưng rồi «Mị lại bồi hồi ». Cứ thế suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình “nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì cảm nhận sự đau đớn vì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Rất tài tình thì nhà văn mới có thể miêu tả được tâm trạng của nhân vật lúc này bởi nhân vật không sống với cái xác mà sống với hồn cốt và sống với hoài niệm trong tâm trí của mình, một trạng thái chập chờn giữa cơn tỉnh, cơn mơ. Có một chi tiết lại xuất hiện như một dấu hiệu thức tỉnh của nhân vật. Đó là hình ảnh giọt nước mắt của Mị. Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Nhưng cũng đã bao ngày tháng Mị không khóc, cũng không còn buồn nữa. Và cho đến tận bây giờ giọt nước mắt ấy lại chảy ra, phải chăng đó là dấu hiệu một tâm hồn, một sức sống đã hồi sinh thực sự. Chi tiết này có lẽ Tô Hoài đã bắt gặp Nam Cao, bởi các nhân vật của Nam Cao cũng có những giọt nước mắt của sự bừng tỉnh: Hộ khóc, Chí Phèo khóc, Thứ khóc… Mị khóc, Mị đã hồi sinh để nhận ra bi kịch của cuộc đời mình.

    Đoạn văn đồng thời đan xen cả hiện tại và quá khứ, giữa tỉnh và say, giữa thực và mơ. Cả đêm hôm đó Mị sống trong trạng thái như thế cho tận đến sáng, có lẽ đó là lúc hơi rượu đã nhạt, tiếng sáo đã ngừng và đêm tình mùa xuân cũng tàn thì Mị mới choàng tỉnh.

    * Mị sợ chết

    Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm bị trói. Đó là chi tiết Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Cô Mị của ngày xưa – một người vô cảm, sống như đang chết, sống trong cảm giác chờ đợi sự giải thoát từ cái chết, giờ đây lại biết xót thương cho người khác, biết sợ hãi trước cái chết. Sợ chết chính là biểu hiện của lòng ham sống. Chính tiếng sáo, tiếng gọi tình yêu đã giúp Mị nhận ra sự sống là đáng quý, phải sống để được yêu, được đón nhận hạnh phúc tuổi trẻ… Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh phúc, tình yêu của Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công nhưng nó đã cho người đọc thấy sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị. Sức sống trong Mị vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm trong lòng đại dương. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Để rồi những đợt sóng ngầm ấy cuối cùng trở thành bão táp, tia lửa ấy rồi đã hóa thành đám cháy lớn vào đêm Mị cắt dây trói cho A Phủ rồi chạy trốn.

    3. Đánh giá

    3.1. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật

    Bằng việc lựa chọn chi tiết đặc sắc, sử dụng hình ảnh giàu sức biểu tượng, giọng điệu trần thuật linh hoạt nhà văn đã diễn tả một cách tinh tế, hấp dẫn diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, nhất là khi bị trói rất tinh tế, sâu sắc. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị được thể hiện: Miêu tả theo quá trình chuyển hóa tâm lí từ suy nghĩ tuyệt vọng đến tâm lý hồi sinh sức sống; Miêu tả tâm lý qua hành động; sự phân thân trạng thái tinh thần ở Mị. Giọng kể của nhà văn nhập vào dòng tâm tư nhân vật, làm nổi bật ‎ý nghĩ, tâm trạng và những trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật…

    Diễn biến tâm lí của Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của nhân vật. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, như tiếng sáo gọi bạn tình, tiếng chó sủa xa xa, tiếng chân ngựa đạp vách…Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, câu văn giàu tính tạo hình, biểu cảm cùng với tấm lòng nhân hậu, một tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng những biến thái thăng trầm, gấp khúc, tuần tự và đột biến trong tâm trạng Mị.

    Tâm lí, tính cách nhân vật Mị rất phù hợp với hướng vận động của tâm lí, tính cách nhân vật trong văn học Việt Nam 1945 – 1975: Thường vận động theo chiều hướng tích cực, gắn với sự “thức tỉnh”, “trưởng thành”,“hồi sinh”. Nhân vật có khả năng vượt lên hoàn cảnh, thậm chí thay đổi hoàn cảnh sống.

    3.2. Nhận xét cái nhìn về người nông dân của nhà văn Tô Hoài (nhân đạo)

             Nhà văn nhìn người nông dân Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất miền núi đã bị chà đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu tâm hồn của họ vẫn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình yêu và khát vọng tự do. Tuy sống trong thân phận trâu ngựa, bị đoạ đày giữa địa ngục trần gian nhưng họ không bao giờ chịu đầu hàng số phận, mà vẫn tìm cách vượt ngục tinh thần, tâm hồn được hồi sinh. Đó còn là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân trong tư tưởng tiến bộ của nhà văn cách mạng Tô Hoài.

    Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt khả năng diễn tả quá trình phát triển tính cách nhân vật hợp lí, tự nhiên, phong phú, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn-người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc.

    3.3. Ý nghĩa của đoạn trích

             Đoạn trích góp phần hoàn thiện chân dung nhân vật Mị. Dù nghèo khó, bị áp bức nhưng trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà văn bày tỏ sự cảm thông; khám phá, trân trọng, ngợi ca những khao khát tình yêu, hạnh phúc của con người, thể hiện niềm tin vào sức sống của con người không bị hủy diệt. Đồng thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên cuộc sống con người. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị trong đoạn trích cũng như tác phẩm đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc một ấn tượng khó phai mờ, đã góp phần nêu bật giá trị nhân đạo của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của nhà văn Tô Hoài.

    Đề thi VỢ CHỒNG A PHỦ số 6

    Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.

    Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng,  mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.

    Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ đêm năm trước A Sử trói Mị , Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ … Mị phảng phất nghĩ như vậy.

    Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…

    Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Ði ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

    Mị đứng lặng trong bóng tối.

    Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

    – A Phủ cho tôi đi.

    A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

    – Ở đây thì chết mất”.

    (“Vợ chồng A Phủ”- Tô Hoài, Ngữ văn 12 tập hai, NXB giáo dục, 2008, tr13, 14).

    Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học phê phán sau năm 1945.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu……. Em không yêu, quả pao rơi rồi.”là một phần diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. Qua đó người đọc thấy được đăc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát:

    “Vợ chồng A Phủ” chủ yếu kể về cuộc đời của đôi trai gái vùng cao là Mị và A Phủ, cũng là cuộc đời, số phận của người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến miền núi. Cuộc đời Mị và A Phủ chia làm nhiều chặng đường, có lúc phải đi qua bóng tối khổ đau nhưng mỗi chặng là một bước quan trọng đưa hai nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do, hạnh phúc.

    – Giới thiệu nhân vật Mị: Trong những trang viết của Tô Hoài, Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Bởi vậy, Mị trở thành niềm ao ước của biết bao nhiêu chàng trai. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả chân vách buồng. Bao nhiêu chàng trai đã đi theo tiếng sáo của Mị từ núi này sang núi khác. Mị là đóa hoa của núi rừng và cuộc đời hứa hẹn nhiều hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì nghèo, cha mẹ không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, Mị trở thành con dâu nhà giàu  nhưng thực ra là rơi vào cảnh một cổ hai tròng, một tròng con dâu và một tròng con nợ. Từ khi về làm dâu nhà thống lí, sự đày đọa về thể xác dẫn đến sự tê liệt trong tinh thần nên Mị không còn nghĩ ngợi gì nữa, cứ lùi lũi như con rùa nới xó cửa. Trong đầu của Mị chỉ còn các các việc lặp đi lặp lại nối nhau vẽ ra trước mắt. Chi tiết về ô cửa sổ bằng bàn tay trong căn buồng của Mị nằm đã thể hiện một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, cho thấy Mị đã tê liệt đến mức không còn ý niệm về thời gian và không gian quanh mình. Ai ma tôp từng khawnrh định “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Nhà văn Tô Hoài quả thực đã làm được điều đó khi thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Những tưởng Mị sẽ cam chịu, chấp nhận kiếp sống ấy cho đến chết nhưng bằng một trái tim đầy yêu thương nhà văn Tô Hoài đã khám phá phát hiện ra đằng sau sự cam chịu, chấp nhận ấy của Mị là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Và chính sức sống tiềm ẩn bên trong một khi sống dậy thì rất mãnh liệt ấy đã giúp Mị từng bước tháo cũi sổ lồng, tìm được hạnh phúc cho cuộc đời mình.

             – Giới thiệu nhân vật A Phủ: A Phủ cũng như Mị, là nạn nhân của bọn phong kiến miền núi. Chỉ vì trận đánh nhau với A Sử con thống lí Pá Tra mà A Phủ bị làng phạt vạ, trở thành đầy tớ cho nhà thống lí. Nếu không có tiền trả nợ thì A Phủ và đời con đời cháu A Phủ sẽ mãi là đầy tớ của nhà thống lí. Từ khi trở thành đầy tớ trừ nợ,  một mình A Phủ quanh năm rong ruổi ngoài gò rừng đốt nương, cày cuốc, chăn bò, chăn ngựa…Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét. Và nếu không có Mị cắt dây trói cứu thoát thì A Phủ có lẽ sẽ bị trói cho đến chết.

    2. Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cắt dây cho A Phủ rồi chạy trốn

    2.1. Mị có thói quen thức sưởi lửa suốt đêm

    Sau đêm tình mùa xuân, khát vọng sống của Mị bị dập tắt. Những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ thế mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho đến những đêm mùa đông rét mướt ấy.

    Đêm đông trên rẻo cao lạnh, dài và buồn nên Mị có thói quen trở dậy đốt lửa, hơ tay, hơ lưng.  Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần bởi nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị đến chết héo.  Từ chỉ thời gian mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần: gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng, ăn vào vô thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa: điệp từ “chỉ” diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của sức sống trong Mị.Có lần A Sử bắt gặp và đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Từ vẫn tiếp tục nhấn mạnh niềm khát sống bền bỉ. Hình tượng ngọn lửa là nguồn sáng- nguồn ấm-nguồn sống duy nhất đồng thời tiềm sâu sức sống dai dẳng, bền bỉ, bất chấp của Mị.

    2.2. Vô cảm

              Sau cuộc nổi loạn thất bại vào đêm tình mùa xuân, Mị đã bị cường quyền, thần quyền nhà thống lý Pá Tra vùi dập, chà đạp, để bị rơi vào trạng thái tê liệt còn đáng sợ hơn cả trước đây. Điều đó thể hiện trong cách Mị nhìn A Phủ bị trói đứng. Mị trơ lì tê liệt đến mức vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Ba chữ cũng thế thôi tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác thái độ lạnh lùng đến vô cảm của Mị. Lúc này, Mị không chỉ khước từ quyền sống của chính mình mà còn không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại. Lí giải vấn đề này, ta thấy có ba nguyên nhân. Một là, cảnh người bị trói đến chết có lẽ không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Hai là, cuộc sống bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa đã tạo cho Mị một sức ì, một quán tính cam chịu, nhẫn nhục quá lớn. Ba là, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần nên đã trở nên chai sần vô cảm, khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác ở Mị gần như bị tê liệt. Mị chẳng khác gì “tảng đá”, chẳng khác gì đã bị vật hóa.

      2.3. Đồng cảm

    Tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã gợi kí ức đau thương của chính Mị, đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Có thể nói, chính “dòng nước mắt lấp lánh” ấy của A Phủ đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị khiến Mị đồng cảm với người có cùng cảnh ngộ.

    2.4. Thương người cùng cảnh ngộ:

    Tô Hoài đã khéo léo dùng cách trần thuật nửa trực tiếp để cho người đọc thấy rõ cảm xúc của Mị: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết”. Dạng thức cảm thán đã cho thấy Mị không còn thờ ơ, vô cảm với đồng loại mà trong tâm hồn cô đã dấy lên một tình thương yêu mãnh liệt. Tâm lí này cho thấy phẩm chất nhân hậu tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ cùng khổ.

    2.5.  Nhận thức: Chúng nó thật độc ác

    Cùng với lòng thương người, Mị đã nhận ra bản chất tàn ác, vô nhân đạo của cha con nhà thống lý. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho con bò. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ chỉ bằng, thậm chí không bằng một con vật. Thân phận của Mị thì có khác gì A Phủ, cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa. Ngày trước, chúng còn tàn ác khi trói một người đàn bà đến chết trong nhà này. Từ số phận của A Phủ, của chính mình và người đàn bà ngày trước, Mị bỗng nhận thức ra rằng “Chúng nó thật độc ác”. Như vậy, từ chỗ cúi đầu chấp nhận tất cả những đau đớn đọa đày ở nhà thống lý đến chỗ nhận thức được sự tàn bạo của bọn phong kiến miền núi là một bước tiến trong nhận thức và tình cảm của Mị. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp nhận sự áp chế của thần quyền và cường quyền nữa. Thương mình, người, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra nên lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, đã biết kết án cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng.

    2.6. Tình thương lớn hơn nỗi sợ hãi và cái chết nên dẫn đến hành động cắt dây trói cho A Phủ

    Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”.

    Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Mị tưởng tượng rằng có thể một lúc nào A Phủ trốn được rồi, cha con nhà thống lí sẽ bảo Mị cởi trói và Mị liền phải trói thay vào đấy, phải chết trên cái cọc ấy. Tuy nhiên lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi, khiến Mị đi đến hành động cắt dây trói trói cho A Phủ.

    2.7. Từ cứu người đến cứu mình

    Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng «Đi ngay…» rồi nghẹn lại. Mị đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, đuổi kịp A Phủ và nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Câu nói ấy cho thấy việc chạy trốn cùng A Phủ không phải là hành động mang tính bản năng. Nỗi sợ hãi và hành động chạy theo A Phủ vô cùng đột ngột nhưng ngẫm ra lại hết sức hợp lí, dường như không thể khác được. Là người, ai cũng sợ chết, nhất là khi cái chết cận kề. Vốn là một cô gái yêu đời và ham sống, Mị không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở cái nơi địa ngục trần gian này. Ngoài ra, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc nổi loạn được hoàn tất, đó là hành động quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành động táo bạo: cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã bùng cháy mãnh liệt trong đêm đông «định mệnh». Sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi thế lực bạo tàn, gồm cả cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải cứu cho A Phủ và Mị khỏi thế giới địa ngục để đến với chân trời tự do, hạnh phúc

    3. Đánh giá 

    3.1. Nghệ thuật

         Tô Hoài đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật: kể và tả một cách tỉ mỉ, chi tiết tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn; diễn tả chân thực, hợp lí, sinh động, tài tình những xúc cảm, hành động của nhân vật… Diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm cắt dây trói cho A Phủ rồi chạy trốn phức tạp nhưng hợp lôgic, mang tính tất yếu, thể hiện được quá trình chuyển biến nhận thức của Mị: từ những nhận thức sâu sắc về cuộc đời, số phận mình, số phận A Phủ; về tội ác của cha con thống lí Pá Tra… Mị đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho chính mình. Đoạn văn thể hiện rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật và nội dung tư tưởng của tác phẩm, đồng thời cho thấy sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu chất tạo hình và thấm đẫm chất thơ cũng là nét đặc sắc trong văn phong Tô Hoài.

    3.2. Nhận xét tình cảm của nhà văn Tô Hoài đối với nhân dân Tây Bắc (nhân đạo)

    Qua đoạn trích, Tô Hoài mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của chế độ phong kiến miền núi, lên án giai cấp thống trị bất nhân được thực dân Pháp bảo trợ đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của những người dân lương thiện miền núi Tây Bắc. Nhà văn đã thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ đau mà người dân miền núi trong chế độ cũ phải gánh chịu như đồng cảm với thân phận làm dâu gạt nợ của Mị; với thân phận đây tớ và nỗi đau của A Phủ khi bị trói vào cây cọc để thế mạng con bò. Nhà văn còn phát hiện ra sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do và tinh thần phản kháng của con người bị áp bức và không chỉ bênh vực mà còn đưa họ đến chân trời tự do, rộng mở. Từ đây, Tô Hoài đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Bạo lực không thể đè bẹp, hủy diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Chỉ có điều là để có thể giành được sự sống, tự do, hạnh phúc, con người có thể phải trải qua nhiều tủi nhục, đắng cay. Tấm lòng nhà văn dành cho đồng bào miền núi thật sâu nặng, nghĩa tình mà xét đến cùng đó chính là tấm lòng nhân đạo của người nghệ sĩ dành cho đất và người Tây Bắc.

    3.3. Nét mới trong cảm hứng nhân đạo của tác phẩm và đoạn trích

    Nếu bức chân dung của những người nông dân trong văn học trước cách mạng đều bị dồn vào bước đường cùng, không lối thoát thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và  ý thức của thời đại để giải phóng số phận nhân vật, hướng con người đến ánh sáng của tự do. Việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới, khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ và mở ra một cuộc sống tươi sáng. Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đi theo  tiếng gọi của cách mạng là một mốc son chói lọi thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung.

  • Dự đoán đề Văn 2022 CHUẨN NHẤT!

    Dự đoán đề Văn 2022 CHUẨN NHẤT!

    Lời khuyên là ĐỪNG học tủ, hãy ôn tập để nắm được kiến thức cơ bản của tất cả các tác phẩm trong chương trình.

    Các tác phẩm không thi THPT quốc gia 2022

    Chúng tôi dự đoán 8 tác phẩm có thể không được thi:

    • Sóng: Đã ra thi đợt 1/ 2021
    • Tây Tiến: Đã ra thi đợt 2/2021, đề minh họa bộ công bố năm 2022
    • Những đứa con trong gia đình và Đàn Ghita của Lorca: Các trường giáo dục thường xuyên không học nên sẽ không thi
    • Rừng Xà Nu
    • Hồn Trương Ba, da hàng thịt: Tác phẩm nằm trong phần giảm tải.
    • Các tác phẩm nước ngoài như Số phận con người, Ông già và biển cả, Thuốc,…
    • Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc.

    Mặc dù khả năng cao sẽ không xuất hiện trong đề thi tốt nghiệp 2022 nhưng các em học sinh phải nắm được nội dung chính để liên hệ mở rộng.

    Dự đoán đề Văn 2022

    Dự đoán đề Văn 2022 phần đọc hiểu và nghị luận xã hội

    • Tinh thần giữ vững chủ quyền biển, đảo trong thời kỳ mới
    •  Biểu hiện của tinh thần tương thân tương ái của Việt Nam.
    •  Ý thức của một số người dân trong đợt chống dịch Covid 19 còn thấp
    •  Hậu quả của tin giả và giải pháp đề xuất
    •  Một số vấn đề giáo dục trong trường học thời đại mới
    •  Có ý kiến ​​về việc sử dụng điện thoại trong lớp học, nên hay không?
    •  Đâu là giải pháp cho tình trạng bạo lực học đường?

    Các tác phẩm trọng tâm thi tốt nghiệp 2022

    Do hai năm liên tiếp đã ra thơ (2020 là bài Việt Bắc, 2021 là bài Sóng), nên tới 80% năm nay sẽ ra vào các tác phẩm truyện ngắn, tùy bút, bút ký.

    Tiêu biểu cho thể loại trên là các tác phẩm:

  • Bộ đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

    Bộ đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

    Các dạng đề thi Chiếc thuyền ngoài xa

    • Dạng 1: Cảm nhận hình tượng nhân vật. Nhân vật trung tâm là người đàn bà làng chài. Ngoài ra đề thi có thể yêu cầu phân tích, cảm nhận về nhân vật Phùng.
    • Dạng 2: Cảm nhận, phân tích đoạn trích văn xuôi. Tác phẩm này chú ý những đoạn quan trọng như:
      • “Có lẽ suốt một đời cầm máy… ngoại cảnh vừa mang lại”
      • “Người đàn bà bỗng chép miệng… chúng được ăn no” (Đề thi THPT QG 2015)
      • “Những tấm ảnh tôi mang về đã được chọn lấy một tấm… hoà lẫn trong đám đông”
    • Dạng 3: Cảm nhận về chi tiết. Các em chú ý chi tiết bức ảnh nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng trong bộ lịch năm ấy.
    • Dạng 4: Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, ý kiến bàn về tác phẩm,…
    • Dạng 5: Dạng đề so sánh văn học: tác phẩm này có thể so sánh với Vợ nhặt và những tác phẩm cùng chủ đề.
    • Dạng 6: Liên hệ thực tế (dạng đề tích hợp nghị luận xã hội). Ví dụ, từ câu chuyện của người đàn bà làng chài, liên hệ tới cảnh bạo hành gia đình, hoặc liên hệ tới cách nhìn nhận cuộc sống và con người,…
    Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

    Mở bài tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

    Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của người nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấy của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinh anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại, nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong gieo những hạt giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

    Kết luận CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

    Nhà văn Nam Cao đã từng thể hiện một quan điểm nghệ thuật rất hay và sâu sắc rằng: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn tránh sự thật mà “phải đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời”. Quan điểm ấy của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, nghệ thuật chân chính phải là “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cùng với quan điểm ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã không chỉ phản ánh những vấn đề của đời sống mà còn gửi gắm quan niệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Trong từng lời văn, trong hình tượng người kể chuyện, thấp thoáng một Nguyễn Minh Châu, nghệ sĩ sáng tạo và con người giàu lòng thương yêu con người, yêu quý cuộc sống.

    “Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn vào một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.”
    (Muốn viết được bài văn hay – Chủ biên: Nguyễn Đăng Mạnh)

    “Thời gian qua kẽ tay
    Làm khô những chiếc lá
    …Riêng những câu thơ còn xanh
    Riêng những bài hát còn xanh”
    (Thời gian – Văn Cao)

    Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp đẽ sẽ “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Cũng như dù thời gian có trôi qua nhưng những giá trị của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu vẫn vẹn nguyên và tỏa sáng. Đến với tác phẩm này bên cạnh những nhân vật Phùng, Đẩu, lão đàn ông…, chúng ta hẳn là không thể quên được nhân vật người đàn bà hàng chài. Đây chính là hình tượng tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu về cách nhìn cuộc sống và con người, để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.

    “Văn học là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)

    Bộ đề tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

    Đề thi CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 1

    Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

    Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.

     Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.

    Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

    Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

    Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!

    Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.

    (Chiếc thuyền ngoài xa,Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)

    Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng…lảo đảo ngã dúi xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận thức.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Nói cách khác thì tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo.

    – Tính huống truyện ở đoạn trước:

    Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với tâm thế của một người nghệ sĩ chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này suốt gần một tuần mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh.Và buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình.

    2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt ngã

    Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.

    Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình … Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt nhìn xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.

    Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ “hùng hổ, mặt đỏ gay”, lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.

    Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há mồm ra mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác, là con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.

    Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn. Trong gia đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền rủa vợ con bằng những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết cam chịu trước những trận đòn vô cớ của người chồng; có một đứa con vì thương mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố. Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm những phát hiện, nhận thức về hiện thực đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện lên thật trần trụi, đau đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại cái đẹp mà còn có bao nhiêu điều nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là bức tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên hoàn mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã. Tất cả những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi. Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là ngạc nhiên, đau đớn. Đằng sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã, đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của hiện thực đời sống.

    3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)

    Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm đã bộc lộ một tình huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và nghệ thuật.  Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận ra:

    Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật của đời sống.

    Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh huyền ảo nhưng ở rất xa, còn cuộc đời đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính không chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời. 

    Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của anh về lao động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc sống và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như Biêlinxki thì văn học“trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này.

    3. Đánh giá

    Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một tình huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, … Điểm nhìn linh hoạt bởi truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, và người kể chuyện chứng kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên khiến người đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:

    + Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp hơn rất nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng.

    + Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

    Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 2

    Phân tích số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện trong đoạn trích sau:

    Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:

    – Con lạy quý toà…

    – Sao, sao?

    – Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…

    Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.

    Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng toà án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.

    – Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.

    – Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án – chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà thuận…

    Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.

    – Chị cám ơn các chú! – Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết – Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…

    (Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai,

    NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 74)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà…khó nhọc” đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vậy và góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất.

     Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.

    2. Số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích

    2.1. Số phận:

    Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị….như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.

    Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn khi chị đến toà án huyện.

    Vì lạc hậu, ít học, nghèo khổ và hơn nữa có thể do bị bạo hành thường xuyên nên người đàn bà xuất hiện ở tòa án trong dáng vẻ và hành động đầy tự ti, rụt rè đến tội nghiệp. Chị xưng là con, gọi chánh án Đẩu là quý tòa, thậm chí còn có hành động chắp tay lại vái lia lịa. Khi nhận ra Phùng là người đã chứng kiến câu chuyện, chị nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Có lẽ, chị nghĩ rằng tòa sắp xếp Phùng đến đây làm nhân chứng.

    2.2. Vẻ đẹp khuất lấp

    Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca. 

    Người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí, ít học, lam lũ và cuộc đời đầy bất hạnh ấy hóa ra bên trong lại ẩn chứa nhiều phẩm chất tốt đẹp. Điều đó thể hiện rõ qua cách ứng xử của chị trước bi kịch gia đình. Khi biết hoàn cảnh gia đình của người đàn bà, cách giải quyết của chánh án Đẩu là cho gọi người đàn bà tới và khẳng định: “Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu”. Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Người đàn bà thậm chí còn van lạy để đừng bắt chị bỏ chồng “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu trả lời cũng như phản ứng cuả người đàn bà làm cho căn phòng “lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Hóa ra, cách giải quyết của Phùng và Đẩu tuy đứng về phía người đàn bà nhưng rất thiếu thực tế. Họ chỉ nghĩ giúp đỡ người đàn bà mà chưa nghĩ đến việc những đứa trẻ rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra khơi lao động cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà. Người đàn bà ấy và cả chục đứa trẻ vô tội ngây thơ kia sẽ sống ra sao khi trên thuyền không còn bàn tay lao động chủ đạo của người đàn ông?…

    – Vậy vì sao người đàn bà không chịu bỏ chồng. Đó là vì:

    + Thương con: Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương nhiên. Trong khổ đau, bất hạnh chị vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc hiếm hoi và niềm hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.

    + Thấu hiểu chồng và có tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu:  Bị chồng đánh tàn độc với ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng người đàn bà không hề oán trách chồng. Chị hiểu nguyên nhân sâu xa lão đàn ông trở nên vũ phu là do nghèo đói.  Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con và khi nói chuyện với Phùng và Đẩu “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình, sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.

    – Từng trải, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế: Bên trong vẻ ít học, lạc hậu của chị là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế. Trong đoạn trích, người phụ nữ đáng thương đã khiến cho Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chị không những không bỏ chồng mà còn nói: “Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Trong lời nói này ta thấy người đàn bà bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ. Chị nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của mình, chủ động thay đổi cách xưng hô từ “con”- quý tòa” sang “chị – các chú”. Dưới góc nhìn ngôn ngữ có thể thấy người phụ nữ khốn khổ ấy đã khéo léo chuyển từ mối quan hệ thứ bậc (con – quý tòa) trong đó người đàn bà ở vai dưới sang quan hệ thân sơ (chị – chú), người đàn bà trở thành vai trên. Chị khen người ta trước “lòng các chú tốt” rồi mới phê bình người ta “các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…” là cách hữu hiệu để buộc Phùng và Đẩu phải tiếp nhận câu chuyện ở một vị thế khác, chỉ cho họ thấy được những khuyết điểm của mình là sự thiếu từng trải, va vấp. chỉ biết nhìn cuộc đời qua một mớ lí thuyết, sách vở. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều về cuộc sống.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật

    Bức chân dung của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích được tác giả xây dựng bằng nghệ thuật đậm nét sự sáng tạo. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

    3.2. Ý nghĩa của đoạn văn và vài trò của nhân vật người đàn bà

    Thông qua vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà, đoạn văn cũng như tác phẩm tác phẩm đã bộc lộ giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đó là ca ngợi vẻ đẹp của con người giữa cuộc đời đầy sóng gió. Người đàn bà tiêu biểu cho biết bao nhiêu phụ nữ sống nghèo khổ, bất hạnh và tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất cao quý như tảo tần, lam lũ, chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha cao thượng. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam. Từ đó khiến chúng ta rút ra rằng không thể nhìn đời, nhìn người bằng một cái nhìn đơn giản, một chiều mà phải nhìn đời, nhìn người bằng cái nhìn đa diện nhiều chiều để khám phá được cái đẹp về bản chất nhiều khi ẩn rất sâu trong bề ngoài thô nhám.

    Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 3

    Đọc đoạn trích sau:

    “Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:

    – Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…

    – Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

    – Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

    – Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.

    – Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được !

    – Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.

    – Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…

    – Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

    – Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…

    – Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?

    – Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?

    Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:

    – Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rôi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.

    – Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?

    – Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”

    (Trích“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn

    12, tập hai , NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).

      Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.Từ đó nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong văn học.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.

    Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.

    2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích

    2.1. Số phận bất hạnh:

    – Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị….như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.

    Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng…Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.

    – Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”

    – Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó thì “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ, người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần quen thuộc của cuộc đời. 

    – Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.

    => Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

    2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích

    Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca. 

    * Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng

    Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏiLão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” ”nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.

    * Thương con:

    Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.

     * Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời

    Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.

    * Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.

      Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc nhỏ bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”.  Nụ cười hạnh phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?” thì câu trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì tình mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những bất hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi bay còn những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

    Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca… Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.

    3.2.  Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.

    Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương giành cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh của họ trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp: tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha, thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.

    3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn

    Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải có cái nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người. Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi . . . toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.

    Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam.

    3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:

    Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thông, chia sẻ và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của chị.

    3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:

    Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.

    Đề thi bài CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 4

    Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, qua con mắt của Phùng và lời kể của người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết về nhân vật người đàn ông như sau: 

    (…)Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.

    Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

    Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”(…)

    (…)- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

    – Không chú à, cũng nghèo khổ túng quẫn vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật.

    – Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.

    – Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!

    – Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.

    – Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…

    (Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu,

    Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)

             Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh người đàn ông trong lời kể trên. Từ đó, nhận xét về cảm hứng thế sự thể hiện trong tác phẩm.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích kể về người đàn ông đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật, từ đó thấy được cảm hứng thế sự được thể hiện rõ qua tác phẩm.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.

    Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Người gây ra cảnh bạo lực tàn bạo ấy chính là người đàn ông. Vậy ông ta là người thế nào mà lại đánh vợ như vậy? Đọc tác phẩm, ta có thể nhận thấy nhân vật người đàn ông xuất hiện qua đôi mắt quan sát và miêu tả của Phùng và qua lời kể của người đàn bà. Chừng đó thôi cũng đủ để người đọc hiểu về nhân vật một cách rõ nét.

    2. Nhân vật lão đàn ông qua cái nhìn của Phùng

    2.1. Ngoại hình

             Người đàn ông xuất hiện đầu tiên trước người đọc khi ông ta cùng người đàn bà bước từ dưới thuyền lên, ông ta quát đứa con đang ở dưới thuyền “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó đâu phải là lời của một con người bình thường với người khác, nhất là với những người thân của mình. Đó là lời nói của một người gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết… Cùng với lời nói cộc cằn, thô lỗ, thất học thể hiện sự tàn ác, lão đàn ông xuất hiện trong đoạn trích với những nét ngoại hình  “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Những nét ngoại hình vừa làm toát ra vẻ tàn độc vừa thể hiện vẻ lam lũ, khắc khổ, hé lộ những điều ẩn khuất trong cuộc đầy những lo toan, vất vả, cực nhọc của lão.

    3. Hành động bạo lực (tội nhân)

    Đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn, tàn ác. Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Theo suy nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình phải yêu thương vợ con, lo lắng và chở che cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông không những không bảo vệ vợ con mà còn hành hạ họ. Lão lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận như lửa cháy, đối xử thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ khiến cho người đàn bà phảichỉ biết cam chịu, phải nhẫn nhịn, chịu nhục nhã. Bấy thôi cũng quá đủ để nói lên tính cách dữ tợn, vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông.

    Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Lão nguyền rủa vợ con một cách nghiệt ngã bằng lời lẽ của kẻ thất học, vô văn hóa, tàn ác đã đành và nhưng hơn nữa lời nói ấy còn có nghĩa lão nhìn nhận vợ con là gánh nặng cuộc đời. Vợ là gánh nặng nên “mày chết đi cho ông nhờ”, con cũng là nợ đời nên “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.

     Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà nó đã diễn ra rất thường xuyên “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy khiến Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.

    4. Người đàn ông là nạn nhân

             Qua sự quan sát và miêu tả của Phùng về người đàn ông thuyền chài, ai cũng đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng lắng nghe câu chuyện của người đàn bà với Phùng và Đẩu ở tòa án chúng ta nhận thấy ngay câu chuyện không đơn giản, Người đàn bà đã cho ta thấy một mặt khác ở người đàn ông, đó là ông ta còn là một kẻ đáng thương.

    Khi Phùng hỏiLão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Qua lời người đàn bà, trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng cũng chính vì trốn lính mà sinh ra nghèo đói, túng quẫn. Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân vì sao lão đàn ông lại đánh vợ. Người đàn bà  hiểu rõ, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như những người đàn ông hàng chài khác uống rượu. Như vậy, nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ông là một kẻ độc ác, không có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ông ta không chỉ là người chồng mà còn là một ân nhân, một nạn nhân. Ngày còn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang và ban đầu đã mang đến cho người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Bạo lực, độc ác của lão đàn ông không phải do tính cách bẩm sinh mà chủ yếu do cảnh ngộ xô đẩy. Người đàn ông hóa ra cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu chiến. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm ngay cả với những người thân yêu nhất của mình.

    Tính chất lưỡng phân ở nhân vật lão đàn ông, vừa đáng giận vừa đáng thương, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân, còn được thể hiện rõ qua nhiều chi tiết trong đoạn trích: Hành động vừa quất tới tấp cái thắt lưng lính ngụy vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két cho thấy cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ông ta cũng rất đau khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Không ai có thể phủ nhận sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận một cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn có trách nhiệm với gia đình, cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Lão đàn ông dù có vũ phu, nguyền rủa vợ con nhưng trên hết ông ta vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả năng chèo lái con thuyền trước những bão going, là chỗ dựa của người đàn bà và những đứa con. Trong đoạn trích, người đàn bà còn kể “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc lão đàn ông chấp nhận lời cầu xin ấy của vợ cho thấy trong sâu thẳm ở ông ta tình phụ tử vẫn còn tồn tại, vẫn còn chút lương tri như bản chất lương thiện ban đầu.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật

    Nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức, miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ sắc sảo, chọn chi tiết độc đáo. Nhân vật người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt vào nhiều góc nhìn khác nhau của các nhân vật. Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn cũng như bản chất của lão được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan. Một thành công nữa của Nguyễn Minh Châu là đã học tập ở nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người đàn ông thuyền chài: vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, khốn khổ, vừa là tội nhân vừa là nạn nhân…

    3.2. Nhận xét về ý nghĩa đoạn trích

    Qua hình ảnh người đàn ông hàng chài trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện quan niệm về cuộc sống, con người và cảm hứng nhân đạo trong ngòi bút của mình. Từ nhân vật người đàn ông ta thấy rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Qua đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người. Tác phẩm vì vậy góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.

    3.3. Nhận xét về cảm hứng thế sự trong tác phẩm

             Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời khi đất nước đã hòa bình thống nhất, trong hoàn cảnh ấy con người có bao nhiêu điều phải suy ngẫm trước cuộc sống bộn bề. Nguyễn Minh Châu là người đi trước, nên cảm hứng thế sự được thể hiện rõ trong tác phẩm qua các phương diện:

    – Dự cảm, day dứt, lo âu về bất hạnh của con người trong cuộc sống thường nhật đã thôi thúc Nguyễn Minh Châu gửi đến bạn đọc thông điệp: sự nghèo đói, ngu dốt, tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến cái xấu, cái ác và số phận bi thảm của con người. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ cho cuộc sống ấy. Ở đó, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối khiến tác giả phải day dứt vì những số phận như số phận người đàn bà, số phận người đàn ông và cả số phận những đứa trẻ…

    – Nhưng hơn nữa, Nguyễn Minh Châu còn khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn của con người. Thể hiện rõ qua tính chất lưỡng phân ở nhân vật người đàn ông. Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ khi cho thấy người đàn ông ấy đâu chỉ là một tội nhân mà ông ta còn là ân nhân của người đàn bà, là nạn nhân của đói nghèo, lạc hậu. Trên vai ông ta là cả một gánh nặng mưu sinh nhọc nhằn. Còn người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội khi chấp nhận đòn chồng mà không van xin, chạy trốn hay chống trả lại là một người rất thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu chồng, biết cảm thông cho chồng và biết hy sinh. Rõ ràng, đằng sau sự man rợ của người đàn ông là bản tình hiền lành, chất phác; đằng sau cái vẻ xù xì, thô mộc của người đàn bà là những vẻ đẹp bất ngờ của con người. Đó là một cách thể hiện niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào con người và cuộc đời. Cuộc đời và con người có thể không xấu xa, độc ác đến mức như bề ngoài của nó.

    Nhà văn đã dám nhìn thẳng vào hiện thực đời sống với những mảng tranh tối, tranh sáng với bạo lực, nghèo đói, lạc hậu…Đó chính là hệ quả của việc cải cách đời sống nhân dân chưa triệt để sau những năm đổi mới giành thắng lợi. Điển hình như gia đình hàng chài ngoài nghề đánh cá ra không biết làm nghề gì khác để sinh sống. Dù được cấp đất nhưng không được phổ biến và dạy cách trồng trọt, chăn nuôi… nên họ có đất cũng vô nghĩa. Vậy nên họ không thể rời chiếc thuyền được. Cuộc sống trên thuyền lại gắn liền với những cơn giông bão hiểm nguy. Nếu không có người đàn ông khỏe mạnh chèo lái con thuyền, chắc hẳn họ cũng không thể nào sống được.

    Từ đó, nhà văn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về bạo lực gia đình, về việc phải bảo vệ trẻ em và phụ nữ và đặt ra vấn đề phải cải tạo cuộc sống bằng những giải pháp thiết thực để con người thoát khỏi cảnh khổ, để giảm thiểu cái xấu và cái ác trong xã hội.

    Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 5

    Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:

             “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

             Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất la trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”

    (Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12,

    tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78)

    Bài làm

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Nêu vấn đề cần nghị luận: Nguyễn Minh Châu là người luôn trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của nhà văn trong cuộc đời. Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” qua đoạn văn ngắn cuối tác phẩm. Đây là chi tiết đắt giá thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của tác giả và có thể khơi dậy ở người đọc nhiều chiêm nghiệm sâu xa.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống nhận thức ấy, nhà văn khám phá và thể hiện nhiều điều về cuộc sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.

    Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Những ngày sau đó, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn bà bị đánh lần thứ hai, anh muốn ngăn cản nên đã lao vào đánh người đàn ông và bị thương nhẹ. Chánh án Đẩu và Phùng có khuyên người phụ nữ ấy nên ly hôn, tuy nhiên người đàn bà đã kiên quyết không chịu bỏ chồng. Rồi người đàn bà kể cho Phùng và Đẩu nghe câu chuyện cuộc đời mình để từ đây Phùng và Đẩu đã ngộ ra nhiều điều về cuộc sống và nghệ thuật.

    2. Tấm ảnh được chọn

    Tấm ảnh được nhắc đến trong đoạn trích là bức ảnh Phùng chụp được trong buổi sáng hôm ấy. Đó là bức ảnh tĩnh vật với cảnh thuyền và biển vào buổi sáng có sương mù. Tấm ảnh Phùng chụp được trưởng phòng rất ưng ý “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.” Sự đánh giá cao của cấp trên xứng đáng với công sức  Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới chụp đựơc tấm ảnh đó cũng như tài năng của anh. Không những thế, nó trở thành bức ảnh có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”. Tấm ảnh được nhiều người rất yêu thích, được “treo rất nhiều nơi trong các gia đình sành nghệ thuật”. Tấm ảnh đó đã khẳng định tài năng, nâng cao uy tín của người nghệ sĩ trên hành trình khám phá cái đẹp và việc nhiều người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh của Phùng cũng là điều dễ hiểu. Có lẽ, những người yêu nghệ thuật thực sự đã nhận ra bức ảnh đẹp toàn bích, đáng để cho họ thưởng thức và treo ở nơi sang trọng nhất trong nhà.

      Mỗi khi nhìn lại vào tấm ảnh năm ấy, dù là ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn nhìn thấy màu hồng hồng của ánh ban mai, nhìn thấy hình ảnh người đàn bà làng chài lam lũ, như đang bước ra khỏi tấm ảnh. Nhà văn viết: Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”.

    Với rất nhiều sự băn khoăn day dứt nên Phùng luôn “ ngắm kĩ”, “nhìn lâu hơn” để mỗi lần như thế anh lại không chỉ rung động trước cái đẹp mà còn bị ám ảnh bởi hình ảnh người đàn bà nghèo khổ lam lũ. Cái “màu hồng hồng của sương mai” chính là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là chất thơ của cuộc sống và đó cũng chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật. Qua đó nói lên ngụ ý của nhà văn nghệ thuật cần có chút lãng mạn trong bề sâu tác phẩm. Và hình ảnh người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh là hiện thân cho cuộc đời thực nhiều sóng gió, phũ phàng. Qua hai hình ảnh ấy, người đọc nhận ra hóa ra đằng sau vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện, thơ mộng của cái màu hồng hồng  ánh sương mai kia chính là hiện thực bi đát của cuộc đời, cuộc sống lam lũ, khổ đau của người hàng chài nói riêng và người lao động nghèo  sau chiến tranh nói chung. Tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài. đằng sau nó là cuộc sống rách rưới, đói nghèo, khổ đau của con người.

    Qua những khám phá, phát hiện của Phùng khi ngắm nhìn bức ảnh của mình ở cuối truyện tác giả Nguyễn Minh Châu gửi gắm đến người đọc thông điệp nhận thức:

     + Thông điệp thứ nhất là về cách nhìn cuộc đời, con người: Cuộc sống vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống  Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp. Cuộc sống nhiều khi thường “đánh lừa” ta như thế. Hơn nữa, nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy, con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột để khám phá, phát hiện ra bản chất thật của đời sống.

    + Thông điệp thứ hai là về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Thông qua hai hình ảnh đầy ám ảnh trong bức ảnh, nghệ sĩ Phùng đã thể hiện những nhìn nhận đúng đắn về bản chất đích thực của nghệ thuật. Không thể có nghệ thuật thuần túy, nghệ thuật vị nghệ thuật mà cái  đích tối cao của nghệ thuật là nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật chân chính phải bắt nguồn từ cuộc sống dẫu có nhọc nhằn, lam lũ, thậm chí là khổ cực và cay đắng và quay lại phục vụ cho cuộc sống, phải dành ưu tiên trước hết cho con người, góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực, làm thay đổi cuộc sống theo hướng tốt đẹp hơn. Đúng như chính nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”.  Mỗi tác phẩm nghệ thuật thật sự đều phải bắt nguồn từ cuộc sống, không được tách rời cuộc sống. Người nghệ sĩ chân chính phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận con người; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và phải dũng cảm, trung thực nhìn thẳng vào hiện thực, biết rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ. 

             Quan niệm về đời sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống ấy của Nguyễn Minh Châu đã được cụ thể hóa qua nhân vật Phùng và bức ảnh được chọn trong đoạn trích. Với tư cách là một con người, Phùng là cũng là một con người chân chính, biết yêu thương, nâng đỡ cái yếu, căm ghét cái ác, có nhưng trăn trở, băn khoăn, lo lắng trước nỗi đau khổ của những con người bất hạnh. Với tư cách người nghệ sĩ Phùng đã nhận ra chân lí của nghệ thuật và thực hiện được sứ mệnh, thiên chức của người nghệ sĩ, có cái tâm với nghề, đáng để người ta kính phục. Thế nhưng, trước sự thực cuộc đời đầy cay đắng, phức tạp đôi khi người nghệ sĩ ấy còn “ngây thơ” và có những lẽ ngang trái cuộc đời, anh không thể làm gì để thay đổi nên có những điều khiến anh luôn phải trăn trở, day dứt thành nỗi ám ảnh. Còn bức ảnh nghệ thuật được nhắc đến trong đoạn trích đã chuyển tải được thông điệp nghệ thuật sâu sắc nên nó trở thành bức ảnh nghệ thuật mẫu mực, là nghệ thuật thăng hoa được công chúng đón nhận.

    + Tấm ảnh ấy cho ta thấy rõ trái tim nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Không chỉ trăn trở về cuộc sống nghèo đói, nhìn thấy vẻ đẹp của người lao động giữa cát bụi thô nhám của cuộc đời đầy sóng gió mà nhà văn còn quan tâm, thể hiện niềm tin vào tương lai của họ. Mỗi lần xem lại bức ảnh, Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của người lao động trong hành trình đi lên của cuộc sống.

    3. Đánh giá

             Kết thúc truyện cho thấy tác phẩm được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, triết lí, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ cùng lối kết thúc mở độc đáo, gợi nhiều suy nghĩ ở người đọc như một khúc vĩ thanh không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người; chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu tượng; cách kể chuyện hấp dẫn từ cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục…

    Đoạn văn miêu tả bức ảnh nghệ thuật gợi bao thức nhận đầy đau đớn và sâu sắc và chỉ một đoạn văn ngắn nhưng đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ nghệ thuật của tác giả. 

  • Bộ đề thi NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

    Các dạng đề thi Người lái đò sông Đà

    • Dạng 1: Nghị luận ý kiến bàn về văn học. Có những nội dung chính cần ôn tập như: nhân vật ông lái đò,vẻ đẹp sông Đà, hoặc ý kiến bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này.
    • Dạng 2: Dạng đề so sánh. Ví dụ: So sánh Huấn Cao ( Chữ người tử tù ) và ông lái đò. Ví dụ khác: So sánh hai đoạn văn miêu tả sông Đà và Sông Hương ( Ai đã đặt tên cho dòng sông– Hoàng Phủ Ngọc Tường)
    • Dạng 3: Cảm nhận về đoạn trích văn xuôi. Ví dụ: Đề bài trích dẫn đoạn văn miêu tả dòng sông, hoặc đoạn miêu tả cuộc chiến của ông lái đò với dòng sông, và yêu cầu học sinh nêu cảm nhận.
      Một số đoạn trọng tâm:
      • Cảm nhận đoạn văn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá… gậy đánh phèn”
      • Cảm nhận đoạn văn: “Thạch trận dàn bày vừa xong…Thế là hết thác”. (Đoạn này chủ yếu phân tích cảnh vượt thác của người lái đò.
      • Cảm nhận đoạn: “Con sông Đà tuôn dài…nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. (Chủ yếu là vẻ đẹp trữ tình)
    • Dạng 4: Cảm nhận về hình tượng Sông Đà, hình tượng ông lái đò.

    Với tác phẩm này, các em chú ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, đây cũng là nội dung cơ bản thường xuất hiện trong đề thi, như đề Đề Văn Nam Định 2022 lớp 12 đợt 1.

    Mở bài NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

    • MB1: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế. Ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người “một thời vang bóng” như Huấn Cao thì sau cách mạng, ông khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
    • MB2: Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.
      Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.

    Kết bài NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

    Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Và quả thực tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm như thế! Trong suốt quá trình dài của thời gian, “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên và sống mãi trong lòng người đọc về một tác phẩm cũng như một nhà văn đa tài đã làm tôn lên vẻ đẹp của thiên nhiên của xứ xở Tây Bắc nói riêng và thiên nhiên đất nước nói chung.

    Nguyễn Tuân là nhà văn có một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

    Bộ đề Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

    Đề bài Người lái đò sông Đà số 1

    Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa  tắt phụt đèn điện.

    Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

     Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

                                   (Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)

    Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

    – Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân về dòng sông Đà: “Hùng vĩ… đánh phèn”.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. 

    – Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.

    – Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”  tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

    Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông  không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.

    2.  Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích

             Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.

    2.1. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành

    Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn,  mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” cùng với việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách hoặc Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

    2.2. Mặt ghềnh Hát Loóng

    Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:

    Đường lên Mường Lễ bao xa

        Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh

    Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái thác trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó rất dữ dội  Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Qua từ “nợ xuýt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người. Những người lái qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền ra.

    2.3. Hút nước trên sông Đà

    Trên Sông Đà còn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xoáy tít đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như những  cái giếng bê tông được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm thanh thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sôi. Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ.

    Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về giao thông, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để thoát khỏi quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy hiểm hơn nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lôi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷnh sông dưới.

    Dường như miêu tả bằng hình ảnh, âm thanh chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những nước trên Sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút Sông Đà để thu ảnh. Đây hẳn là một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

    3. Đánh giá

    3.1. Về nghệ thuật

    Bằng thể tùy bút phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, tác giả đã khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình; Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên, những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình… tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có.

    3.2. Nhận xét những phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân

    Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây.

     Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là trong tác phẩm có vai trò là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

    3.3. Cái  Tôi  của  nhà  văn  Nguyễn  Tuân  được  thể  hiện  qua  đoạn trích: 

    – “Cái tôi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.

    – “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.

    – “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc đáo của chính người cầm bút.

    ———————————————

    Đề bài Người lái đò sông Đà số 2

    … Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..

                                       (Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)

    Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

    – Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: “Còn xa lắm… tiến gần vào”.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. 

    – Nội dung: Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng được biểu hiện trước hết ở tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ.

    – Lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”  tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

    Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông  không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách hung bạo của Đà giang.

    2. Hình tượng sông Đà trong đoạn trích

    2.1. Khái quát

    Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, hiền hòa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả cảnh dữ dội, hiểm trở, trùng trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những cảnh thác ghềnh dữ dội như “Bạch đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, “Bạch đằng Hải khẩu” của Nguyễn Trãi… Nhưng có lẽ chỉ đến “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân thì sự hiểm trở, hung bạo và dữ dội của con sông mới trở nên sống động và thật khủng khiếp. Trong đoạn văn này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn Tuân khi miêu tả những thác đá trên sông Đà đã làm nổi bật lên hình ảnh con sông Đà không chỉ gập ghềnh, lởm chởm mà còn đầy nguy hiểm, sống dậy gào thét làm náo động cả lên, khiến cho người đọc phải “rùng mình, sởn gáy” (Nguyễn Đăng Mạnh).

    2.2. Tiếng nước thác trên Sông Đà:

             Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là những thác đá. Những thác đá trên sông Đà được nhà văn miêu tả chi tiết qua âm thanh, cảnh tượng và sự nguy hiểm đến kinh hoàng của nó. Trước tiên nhà văn cảm nhận nó qua âm thanh. Chủ thể miêu tả đang trong quá trình di chuyển đến gần cái thác đá, và âm thanh tiếng nước thác được miêu tả phù hợp về khoảng cách và cường độ. Ban đầu, có lẽ là nghe từ xa thì tiếng nước thác Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Rồi khi lại gần, tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân đã rất ngông khi dùng lửa để miêu tả nước. Nước và lửa vốn xung khắc với nhau, hủy diệt lẫn nhau nhưng ở đây nhà văn đã dùng hình ảnh và âm thanh của lửa để miêu tả nước khiến hiện ra trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa đang bị đốt cháy, phát ra tiếng nổ. Nhưng âm thanh đó còn chưa là gì khi trong khu rừng đang cháy ấy còn có hàng ngàn con trâu mộng to khỏe đang bị lửa hun nóng và đốt cháy. Lửa đã bén vào da của đàn trâu khiến chúng rống lên đầy đau đớn và lồng lộn muốn phá tan rừng lửa để tìm cách thoát thân. Miêu tả từ xa đến gần nên lúc đầu là tiếng “réo” còn về sau trở thành tiếng “rống”. Đây là cách dùng từ rất chính xác và bất ngờ, khiến sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí, như một con người. Các sắc thái khác nhau của âm thanh tiếng “réo” của nước thác: vừa mới “oán trách” và “van xin” như một kẻ bại trận, biết mình yếu thế hơn đối thủ; ngay lập tức chuyển sang “khiêu khích” và “chế nhạo” rồi “rống” lên như một kẻ trên cơ, ra sức giễu cợt, đe dọa đối phương. Bản hợp âm khủng khiếp và đòn tâm lí chiến trở mặt như trở bàn tay ấy cho thấy sự nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà khi sắp xung trận. Những người lái đò yếu bóng vía và non kinh nghiệm sẽ cảm thấy mất tinh thần, hồn xiêu phách lạc.

    Quả thật, sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, nhân hóa và trí tưởng tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã cho người đọc một cảm giác mạnh đến tận độ. Như vậy, chỉ riêng với âm thanh của thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người đọc về sự dữ dội đến khủng khiếp của những thác đá Sông Đà.

    2.3. Những thạch trận đá trên sông Đà

    Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã “Tới cái thác rồi”. Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội. Ngoặt tới khúc sông ấy là cảnh sóng bọt đã trắng cả một chân trời đá. Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa. Sông Đà ở đây bao nhiêu là đá với đủ những đá to đá bé, đá hòn đá tảng… mà thằng đá nào trông cũng ngỗ ngược, xấc xược, hỗn hào, du côn và mặt cũng nhăn nhúm, méo mó hơn mặt nước ở quãng ấy. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá không chỉ mang những nét chung ấy mà còn có một gương mặt riêng. Để khắc họa từng gương mặt riêng của những hòn đá trên thác đá Sông Đà, Nguyễn Tuân đã phải lao động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú. Phép liên tưởng và nhân hóa, kết hợp với những động từ, tính từ: chỉ hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), chỉ tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm) khiến người đọc cảm nhận Sông Đà mang gương mặt của dân anh chị, những kẻ côn đồ chuyên đi đòi nợ thuê bặm trợn và sẵn máu giang hồ.

    Sự nham hiểm quỷ quyệt của Sông Đà đối với những người lái đò được thể hiện rõ nhất ở những thế trận mà đá dàn bày. Đội quân đá ấy ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Đá sông Đà dường như không đứng, nằm, ngồi một cách tùy tiện mà Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mỗi hòn một dáng (đứng, nằm, ngồi), mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông: hàng tiền vệ là hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; tuyến giữa sóng nước đánh khuýp quật vu hồi lại, tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi có nhiệm vụ phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên).

    Đá trên sông Đà đã giao việc cho nhau như vậy để dàn bày thành ba thạch trận đá đầy biến hóa. Mỗi thạch trận đều có rất nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, lúc ở chính giữa. Thạch trận thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Đến thạch trận thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền, tiêu diệt cả thủy thủ và thuyền trưởng trên chiếc thuyền ấy.

    Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân sự, võ thuật (“mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”, “đòn âm”)… làm hiện lên hình tượng con Sông Đà dữ dội, hung bạo đến khủng khiếp. Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, là một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:

    Núi cao sông hãy còn dài

    Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật

    Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập; sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị; vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,l ịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong phú, ngòi bút miêu tả độc đáo, con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ.

    3.2. Nội dung

    Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sông Đà, biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục và cũng là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp. Qua đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, từ đó ta càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.

    3.3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

    – Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.

    – Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Ông có xu hướng muốn tô đậm cái cá tính, phi thường của dòng sông Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà. Nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.

    – Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuân là nhà văn có ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

    ————————————————————-

    Đề bài Người lái đò sông Đà số 3

    Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác…. 

          (Trích Người lái đò sông Đà Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)

    Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

    (Có thể hỏi theo cách khác: khám phá về người lao động mới hoặc tìm thấy chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn Tây Bắc)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

    – Đoạn trích sau đây trong “Người lái đò Sông Đà” đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: “…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn… Thế là hết thác””.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát (Có thể lược ngắn gọn hơn)

    – Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. 

    Lời đề từ: Hai câu đề từ của tác phẩm đã không chỉ thể hiện nguồn cảm hứng mà còn nêu lên được những ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Ngay từ câu để từ đầu tiên trong tác phẩm nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Có ý kiến cho rằng lời đề từ này là để ca ngợi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà. Nhưng không chỉ vậy, nó còn gợi liên tưởng về hình ảnh con người lao động trên dòng sông. Tiếng hát ở đây là lời ngợi ca con người trong lao động, chinh phục tự nhiên để xây dựng cuộc sống. Lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” còn gợi hình ảnh đẹp về con người trong lao động, sản xuất mà ở đây nhà văn Nguyễn Tuân muốn nhắc đến hình ảnh ông lái đò trong tác phẩm. Câu đề từ thứ hai nhấn mạnh vẻ đẹp đầy cá tính, dữ dội của dòng sông Đà để từ đó ta có thể hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, càng khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.

    – Giới thiệu về nhân vật trong tác phẩm: Nhân vật ông lái đò không có tên tuổi, lai lịch cụ thể mà chỉ được gọi bằng nghề nghiệp. Nhà văn đã làm mờ tên tuổi của nhân vật để khái quát vẻ đẹp của con người Tây Bắc, vẻ đẹp của những người lao động bình dị mà phi thường. Nhà văn Nguyễn Tuân giới thiệu “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi” khoảng 70 tuổi. Ông đã làm nghề lái đò trên Sông Đà được hơn mười năm, đã xuôi ngược trên dòng sông Đà hàng trăm chuyến để trở thành da trâu, xương hổ, cánh kiến về xuôi và ông cũng đã không lái đò được khoảng 10 năm. Ở tuổi 70, ngoại hình của ông lái đò được nhà văn miêu tả: cái đầu bạc quắc thước, đôi tay dài lêu nghêu trông rất trẻ trung, đôi chân khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng. Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng chờ đợi một cái bến tưởng tượng trong sương mù, giọng nói ào ào như nước mặt gềnh… Có thể nói ngoại hình của ông lái đò là ngoại hình của một người lao động trên sông nước. Trên ngực còn ông nổi một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn Tuân rất ngưỡng mộ gọi là “thứ huân chương lao động siêu hạng”.

    Giống như hầu hết các nhân vật của Nguyễn Tuân như Huấn Cao với nét chữ rồng bay phượng múa, nói lên cái hoài bão tung hoành của cả cuộc đời con người, giống như một cụ ấm thức dậy từ  tờ mờ sáng đã pha trà để nhận ra trong chén trà “có mùi thơ và một triết lý”… Hình tượng ông lái đò Tây Bắc cũng là một người nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Ông là tay lái ra hoa, là một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, Để làm nổi bật tài hoa, trí dũng của ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra tình huống nghệ thuật ông lái đò vượt thác Sông Đà là một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt.

    2. Vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích

    2.1. Tái hiện hình ảnh ông lái đò trong cuộc giao tranh với dòng Sông Đà

    Đoạn văn đã tái hiện cuộc giao chiến của ông lái đò với dòng sông Đà một cách sinh động, đầy gay cấn. Sông Đà trong đoạn trích hiện nguyên hình là một kẻ thù số một của con người, như một bầy thủy quái rất nham hiểm, chúng bày sẵn những thạch trận đá đầy biến hóa với mục đích ăn chết cái thuyền, tiêu diệt thủy thủ và thuyền trưởng ở ngay chân thác.

    Thạch trận thứ nhất: Ở thạch trận thứ nhất, Sông Đà hiện lên là một đối thủ kiên cường, lắm mưu nhiều kế: mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Cảnh hỗn chiến ác liệt bởi Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất rồi lạiđánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Thác nước reo hò làm thanh viện Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác, chúng tạo ra cảnh tượng đầy đe dọa Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Một bên giao chiến nữa là ông lái đò. Trước sự tấn công đầy dữ dội của dòng sông, ông lái đò đã bị thương, mặt méo bệch đi nhưng ông cố nén vết thương, hai tay giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt lấy cuống lái. Bằng thể chất dẻo dai, cường tráng, sức chịu đựng phi thường và bằng sự bình tĩnh, tự tin trên chiếc thuyền sáu bơi chèo vẫn vang lên tiếng chỉ huy ngắn gọn, dứt khoát của người cầm lái ông lái đò đã vượt qua thạch trận thứ nhất một cách bình tĩnh, chủ động.

    Thạch trận thứ hai: Không được nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò bước vào ngay thế trận thứ hai. Thế trận này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn, vẫn chỉ có một cửa sinh còn lại đều là luồng chết. Thác nước Sông Đà được so sánh với sức mạnh của hổ báo và chúng tấn công những người lái đò một cách quyết liệt với dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nhưng bằng nghệ thuật lái đò điêu luyện, ông lái đò chủ động thế tấn công, ông cưỡi lên sóng thác sông Đà như là cưỡi hổ, “Nắm chặt lấy bờm sóng”, “ghì cuống lái”, “lái biết một đường chéo để phóng nhanh vào cửa sinh”. Hàng loạt động từ được nhà văn huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu để miêu tả khí thế xung trận của ông đò: Nắm, ghì, phỏng, lái, tránh, ráo, đè, chặt… Dù ông đò đã bẻ gãy những đợt tấn công của chúng, nhưng bọn đá sông Đà vẫn chưa chấp nhận chịu thua nên bốn năm thủy quân cửa ải xô ra để hòng lôi thuyền vào tập đoàn cửa tử nhưng ông đò sớm đã nhận ra dã tâm của chúng, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, lúc thì ông chặt đôi ra để mở đường tiến, khiến thằng đá tướng đứng chiến ở cửa đá này mặt xanh lè, tiu nghỉu vì thất trận.

     Thạch trận thứ ba: Thạch trận thứ ba ít cửa hơn. Nhưng bên phải bên trái, bên tả bên hữu đều là cửa chết. Những thế trận mà sông Đà dàn bày quả thực đầy biến hóa, vừa khiêu khích, dụ dỗ vừa đầy mưu cao kế hiểm. Ở trùng vi thạch trận này, tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm nổi bật lên được sự nham hiểm của đá thác Sông Đà và tài nghệ của ông lái đò. Một loạt các động từ lại được nhà văn sử dụng để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái lượn được.. phối hợp phép điệp “cánh mở, cánh khép”, “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”, âm thanh “vút vút” tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Quả đúng như Phan Huy Đông đã từng nhận định, “Đọc Người lái đò Sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ”. Cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt qua các trùng vi một cách phi thường. Đến đây, người lái đò đã khiến nhà văn, khiến người đọc và có lẽ là cả đội quân đá trên sông Đà phải hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Ông đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ chèo lái điêu luyện, dạn dày, siêu phàm như đua tài cùng tạo hóa. Tài nghệ đến mức điêu luyện của ông đã khiến việc lái đò như biến thành một môn nghệ thuật: Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác…. 

    => Có thể nói quy luật trên Sông Đà là một quy luật khắc nghiệt chỉ cần thiếu bình tĩnh, một chút nghỉ tay, nghỉ mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng cả mạng sống. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, chiến thắng đã thuộc về con người.

    2.2. Đánh giá về đẹp của ông lái đò

    “Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình” (Gs Trần Đình Sử). Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp, là người nghệ sĩ ý thức đầy đủ về thiên chức sáng tạo. Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, ông luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái đẹp, cái thật, cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có”. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông và cuộc giao chiến giữa những người lái đò với dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn là ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò, ca ngợi sự dũng cảm, tài trí và chiến thắng vĩ đại của ông.

    Tài hoa: Nguyễn Tuân quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, con người trong tác phẩm của ông dù làm bất cứ công việc gì, ở tầng lớp nào đều là bậc nghệ sĩ trong công việc, nghề nghiệp của mình. Qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, công việc lái đò đã trở thành một nghệ thuật và trình độ lái đò của ông lái đò đã đạt đến sự siêu phàm. Tài hoa của ông lái đò được thể hiện rõ:

    + Ông lái đò rất am hiểu về dòng sông Đà Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, ông cũng nhớ mặt của từng thằng đá với những âm mưu của chúng Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này nên rất ung dung chủ động. Hình ảnh ông lái đò vì thế được đánh giá “trên thác hiên ngang người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”.

    + Ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh, một tay lái ra hoa. Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.

    Nhà văn đã sử dụng ngôn từ có tính nghệ thuật cao để miêu tả tài năng của ông lái đò như “Ông lái đò ghì cương lái”, lái miết một đường chéo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra để mở đường tiến”, “thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”…

    + Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên thành một môn nghệ thuật. Và điều đáng chú ý ở đây là những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người vĩ đại, phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh.

    Trí dũng: Để làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của ông lái đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với “bầy thủy quái” Sông Đà. Sông Đà dữ dội, hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp dàn trận bủa vây, có sự hợp sức của nhiều thế lực: sóng, nước, đá…còn ông đò là một viên tướng dũng cảm tả xung hữu đột, tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua nhiều vòng, nhiều cửa và cuối cùng ông lái đò đã chiến thắng. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng tung ra những kiến thức về quân sự, võ thuật, thể hiện một vốn kiến thức rất phong phú uyên bác để làm nổi bật vẻ đẹp như một anh hùng trên sông nước của ông lái đò.

    3. Đánh giá về đoạn trích

    3.1. Về nghệ thuật:

     Với tình huống đầy thử thách giúp nhân vật bộc lộ phẩm chất, lối dựng cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích, các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực như điện ảnh, võ thuật, thể thao; nghệ thuật xây dựng nhân vật chú trọng tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ; ngôn ngữ sống động, biến hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói “tỉa tót mà vẫn mạch lạc góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tài hoa, trí dũng của nhân vật.

    3.2. Cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

     – Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới: Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Hình tượng ông lái đò nơi thác sông Đà hoang vu, khuất nẻo là bản anh hùng ca ca ngợi con người, là bức tượng đài sừng sững về con người trong công việc lao động chính phục tự nhiên để giành lấy miếng cơm manh áo. Thông qua hình tượng ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước.

    – Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.

    – Nhà văn bộc lộ quan niệm về con người, tài hoa nghệ sĩ và anh hùng

    + Với Nguyễn Tuân con người dù làm bất cứ nghề nghiệp, công việc nào nếu đạt đến trình độ thành thạo và điêu luyện thì đều rất đáng quý đáng trọng vì khi đó ở họ bộc lộ sự tài hoa nghệ sĩ.

    + Những người tài hoa nghệ sĩ không chỉ có ở những lĩnh vực có tính nghệ thuật mà còn có ở trong những lĩnh vực tưởng không liên quan đến nghệ thuật. Người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà còn là người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh và biến công việc lái đò thành một nghệ thuật.

    + Những người anh hùng không chỉ có ở nơi chiến trường mà còn có ngày ở trong cuộc sống hằng ngày trong cuộc vật lộn với tự nhiên để giành lấy cuộc sống.

    3.3. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

    – Đoạn văn góp phần thể hiện  phong cách Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…

       – Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân:Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả bộc lộ sự tinh tế trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa điêu luyện. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng. “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng.

    —————————————————————

    Đề bài Người lái đò sông Đà số 4

    Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

       Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

                              (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.191-192)

    Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó nhận xét về chất thơ trong đoạn trích.

    I. MỞ BÀI

            – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

     – Đoạn trích sau đây ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà thể hiện chất thơ trong sáng tác của Nguyễn Tuân “Con sông Đà tuôn dài…ngay đấy”.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. 

    Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”  tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

    Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông  không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Có lẽ cũng vì thế tác giả gọi nó là “con” và viết hoa tên của nó thành Sông Đà. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Đoạn trích nêu trên nằm trong phần miêu tả tính cách trữ tình, thơ mộng của Đà giang.

    2.  Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng

    – Điểm nhìn nghệ thuật: Văn chương luôn đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm tòi những điều mới lạ. Bởi chính sự mới lạ là một trong điều cần có dẫn đến sự thành công trong sáng tác của người nghệ sĩ. Vẫn quan sát con sông Đà ở chiều không gian, nhưng trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tạo ra sự mới lạ khi ông quan sát và miêu tả Sông Đà với một điểm nhìn khác biệt là nhìn từ trên cao nhìn xuống. Nếu trước đó nhà văn viết rằng mình ngồi trên máy bay mà quan sát sông Đà Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần, và cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc thì trong đoạn văn này tác giả vẫn thể hiện điểm nhìn ấy: Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.

    – Con sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân: Từ điểm nhìn đặc biệt đó, tác giả đã cho người đọc thấy Sông Đà thật mềm mại, thướt tha chảy dọc trên mảnh đất Tây Bắc rộng lớn. Tác giả còn nhìn thật sâu vào dòng Sông Đà để thấy “con Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Hai từ “tuôn dài” được lặp lại hai lần cho ta thấy được dòng chảy của Sông Đà dường như nó vô cùng, vô tận như không có điểm dừng cùng với nhịp câu toàn là thanh bằng đã phần nào diễn tả sự chảy trôi của con sông sao nó chậm rãi êm đềm đến như thế! Nó thật khác so với sự cuồn cuộn của “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” của mặt ghềnh Hát Loóng phần thượng nguồn. Không chỉ thế ta còn bắt gặp được sự tài hoa, cái chất “ngông” của Nguyễn Tuân trong cách bỏ dấu câu khiến cho dòng sông nó cứ chảy trôi, chảy trôi êm ả giữa miền đất rộng lớn Tây Bắc. Nhà văn còn so sánh Sông Đà như “một áng tóc trữ tình” làm cho dòng Sông Đà giống như một làn tóc mây thướt tha, bồng bềnh và mang vẻ đẹp của người thiếu nữ kiều diễm. Từ “áng” vừa có sự quen thuộc bởi ta thường bắt gặp từ “áng” ở áng văn, áng thơ vừa có sự mới lạ vì ở đây nó được Nguyễn Tuân gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”. Cả cụm từ ấy đã bộc lộ vẻ đẹp đầy chất thơ, sự trẻ trung và mềm mại đầy nữ tính của con sông Tây Bắc.

    – Sông Đà ẩn hiện giữa thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ kiều diễm mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dòng sông được tác giả điểm tô như mái tóc được cài lên những những bông hoa đầy sắc màu như màu trắng tinh khôi của hoa ban, màu đỏ thắm của hoa gạo trong tiết tháng Ba. Ngoài ra, dòng sông còn mang vẻ đẹp ấm áp, mơ màng khi nó ẩn hiện giữa mù khói Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc thêm mĩ miều. Có thể nói những câu văn đầu tiên trong đoạn văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ hoa”, “trang hoa” trong văn học Việt Nam.

    – Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà được thể hiện qua màu sắc nước: Nhà văn còn có sự quan sát theo chiều thời gian để thấy rõ sự biến đổi khôn lường của màu nước Sông Đà theo mùa. Khi miêu tả sắc nước Sông Đà Nguyễn Tuân đã bộc lộ sự mê hoặc trước khi miêu tả sắc nước Sông Đà trong hai mùa: xuân và thu: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống nước Sông Đà”. Về mùa xuân sông Đà hiện lên với màu “xanh ngọc bích” – đó là một màu xanh vừa trong vừa sáng, đầy hấp dẫn. Ta như bắt gặp màu xanh này trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mạc Tử khi miêu tả khu vườn thôn Vĩ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Điểm độc đáo ở đây của cả hai tác giả đều lựa chọn sắc xanh ngọc bích để tăng thêm vẻ đẹp của đối tượng miêu tả. Nhưng có lẽ việc sử dụng màu xanh ngọc bích để miêu tả sắc Sông Đà của Nguyễn Tuân vào mùa xuân như đang là tăng thêm sự quý giá của Sông Đà như “chất vàng” mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn khẳng định sự khác biệt về màu sắc của Sông Đà không “xanh như màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”. Đến đây ta nghĩ đến lời nhận xét của TS. Trịnh Thu Tuyết: “Việc so sánh màu ngọc bích của Sông Đà với màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô không phải chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoe tài, khoe uyên bác mà còn là một sự thiên vị của một niềm yêu”. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu Sông Đà quá nhiều nên bất cứ con sông nào với ông cũng không đẹp như sông Đà.

    Mùa xuân qua đi mùa thu lại đến sắc nước Sông Đà có sự biển đổi đầy rõ nét không chỉ còn là sắc xanh ngọc bích đầy hấp dẫn đấy nữa mà thay vào đó là màu “lừ lừ chín đỏ”. Phải chăng là màu đỏ của “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” mà Nguyễn Đình Thi miêu tả? Và như để giải thích rõ hơn về màu đỏ của nước sông Đà nên sau đó tác giả đã miêu tả và so sánh sắc đỏ ấy với hai đối tượng khác nhau là khiến người đọc dễ hình dung hơn là “lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bỗi gì mỗi độ thu về” hay “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Nhà văn đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh màu sắc của con sông với sắc thái, tâm trạng của con người lúc “bất mãn”, “bực bội” khi mỗi đợt thu về đã làm cho con sông Đà hiện lên không còn vô tri, vô giác nữa mà khiến nó trở nên có hồn và có cảm xúc. Ngoài ra ta còn thấy được cái tài của Nguyễn Tuân khi đặt hai màu của hai mùa khác nhau trong năm, xanh và đỏ ở cạnh nhau cũng vô cùng tinh tế. Hai màu đó tuy đối chọi nhau giờ lại hài hòa, êm dịu một cách lạ thường… Như vậy bên cạnh vẻ đẹp duyên dáng thì Sông Đà còn có vẻ đẹp đầy biến ảo linh hoạt, hấp dẫn không lặp lại mình. Nếu như vào mùa xuân sắc nước gợi lên sự êm dịu trong trẻo thì sang mùa thu sắc nước chuyển mình đỏng đảnh ẩn chứa nhiều sức mạnh tiềm tàng của nó.

    Với cái nhìn của tình yêu và tinh thần dân tộc nên trong đoạn văn, Nguyễn Tuân còn thể hiện sự am hiểu tường tận về dòng sông hơn nữa. Ông khẳng định chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ”.

    – Cách nhìn nhận của tác giả về dòng sông Đà: Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông Đà không đơn thuần với quan hệ giữa nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ. Bởi vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông với con người. Tác giả dùng từ “cố nhân” rất gần gũi, thiêng liêng để gọi sông Đà. Trong văn hóa của người Việt Nam thì “cố nhân” dùng để chỉ những tình bạn thân thiết, gắn bó, những tình bạn đã được tạo nên từ sự đồng điệu tri âm, đã được thử thách bởi những thăng trầm của thời gian. Hơn nữa, từ “cố nhân” còn gợi lên cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu về người cũ, xa cách lâu ngày. Và như vậy, khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông, Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ một người bạn thân thiết .

    Vì tác giả dành cho dòng sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương, nhà văn có cảm giác “đằm đằm, ấm ấm” và niềm vui vỡ òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ. Niềm vui được tác giả diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên tiếp đặt cạnh nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể nói đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ. Cách so sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Trong đó, Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì mãnh liệt nên nó có thể nối lại được những giấc mơ đã đứt.

    Khi gặp lại Sông Đà, với một cái nhìn rất gần nhà văn nhận ra vẻ đẹp mang đầy chất thơ của nó. Vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói). Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên, kì ảo trong khu vườn cổ tích: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, cụm từ “sông Đà” được điệp lại liên tiếp thể hiện tình cảm ấm nóng như đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại tất cả những gì là đẹp đẽ, thơ mộng dị nhất của sông Đà.

    3. Đánh giá về đoạn văn

    3.1. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

    Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình sắc của nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc biến ảo lung linh. Nếu ví sông Đà là một sản phẩm nghệ thuật thì đây là một tác phẩm hội họa tuyệt mỹ. Và để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để bao quát toàn cảnh, khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.

    Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Thì đối với Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy. Ông đã sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả; Vận dụng nhiều những biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà, sâu lắng; Lời văn bay bổng, phóng túng – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn lao.

    3.2. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích

    – Chất thơ là sự pha trộn những đặc điểm của thơ ca vào tác phẩm văn học thuộc thể loại khác. Chất thơ trong văn xuôi nói chung được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.

    – Biểu hiện của chất thơ trong đoạn trích:

    + Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi rừng mùa xuân mù sương khói…Vẻ trữ tình của dòng sông mang vẻ đẹp của Đường thi khi nó gợi nhớ câu thơ của Lí Bạch.

    + Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm đằm ấm ấm và niềm vui như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt. Đặc biệt, thán từ chỉ cảm xúc “Chao ôi” được nhà văn sử dụng để bày tỏ tình cảm với con sông thương nhớ.

    + Ở phương diện nghệ thuật: điểm nhìn nghệ thuật khác biệt, những biện so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong năm, cách sử dụng ngôn từ giàu xúc cảm…Để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn khi thì chậm rãi, lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

    3.3. Nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân

    – Trong đoạn trích, người đọc cảm nhận được cái tôi uyên bác, tài hoa nghệ sĩ của một người suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng.

    –  Một cái tôi am tường và đầy suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước là cái tôi yêu nước mà sau cách mạng đã tìm thấy sự hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.

    Đề bài Người lái đò sông Đà số 5

    Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.

          (Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, sách Ngữ văn 12, Tập 1,

                                     NXB Giáo dục 2014, tr.191-192)

    Phân tích vẻ đẹp của hình tượng con Sông Đà trong đoạn trích trên đây. Từ đó, nêu ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà”.

    I. MỞ BÀI

            – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk Mở bài chung

     – Đoạn trích sau đây nằm ở đoạn cuối của tác phẩm, ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà và góp phần thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân “Thuyền tôi trôi…dòng trên”.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    – Hoàn cảnh ra đời: Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. 

    – Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng Sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.Ở lời đề từ“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”  tác giả lạithể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông ấy, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

    Con sông Đà của Tây Bắc rất phù hợp với mĩ cảm của nhà văn nên bằng quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và tài năng nghệ thuật xuất sắc nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng con sông Đà thành một hình tượng nghệ thuật hấp dẫn, biến nó từ vật vô tri vô giác thành một sinh thể có sức sống, có tâm trạng và tính cách. Con Sông Đà hiện lên trong tác phẩm với hai nét tính cách nổi bật là hung bạo và trữ tình. Hai nét tính cách tưởng chừng như đối lập nhưng lại cùng tồn tại trong một hình tượng nghệ thuật. Sông Đà rất hung dữ, hiểm ác gây tai họa cho con người nhưng cũng là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng tạo nên chất men say cho con người trong cuộc sống. Nếu ở thượng lưu, con sông Đà được nhà văn khắc họa với vẻ đẹp hung bạo, quanh năm làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc, thì ở đoạn chảy về hạ lưu, sông Đà lại trở nên hiền hòa, thơ mộng, trữ tình.

    2.  Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích: Sông Đà có vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng

    2.1. Điểm nhìn nghệ thuật

    Đoạn văn được bắt đầu bằng câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Câu văn ngắn chỉ gồm 6 âm tiết, mà lại đều là thanh bằng, gợi sự nhẹ nhàng êm ái đã tạo nên không gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du, dẫn họ đến một không gian nên thơ, cổ tích. Mặt khác, nó cũng cho thấy Nguyễn Tuân là người ưa những điều mới lạ và muốn khám phá một cách tường tận vẻ đẹp của dòng sông Đà. Nhà văn muốn quan sát và miêu tả dòng sông Đà từ nhiểu điểm nhìn khác nhau nên nếu ở đoạn văn trước đó, ông cảm nhận vẻ trữ tình thơ mộng của dòng sông từ điểm nhìn trên cao là từ tàu bay nhìn xuống, hay cái nhìn gần hơn là khi đi từ rừng ra bắt gặp sông Đà thì ở đoạn văn này, điểm nhìn còn gần hơn nữa là ngồi trên con thuyền trôi chầm chậm trên sông để quan sát và miêu tả về dòng sông mà ông thương nhớ như cố nhân.

    2.2. Vẻ đẹp tĩnh lặng và hoang dại

    Ngay từ đầu đoạn trích, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc về vẻ đẹp ấn tượng của sông Đà ở dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng ở thượng nguồn, cảnh vật thiên nhiên sông Đà ở đây thật tĩnh lặng và hoang sơ. Sự tĩnh lặng của không gian cảnh vật sông Đà được nhà văn miêu tả Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Ngồi trên khoang đò ở quãng ấy, nhà văn có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa xưa trở về thời Lí, thời Trần, thời Lê. Nhắc đến các triều đại ấy là tác giả muốn gợi lại lịch sử dựng nước, giữ nước và thể hiện lòng tự tôn dân tộc, cũng là một cách để nhà văn tô đậm vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Cảnh vật tĩnh lặng đến mức nhà văn chợt ao ước có một âm thanh của cuộc sống con người, khao khát được cảm nhận những thành tựu của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống mới trên Tây Bắc:“Chao ôi thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu’’.

    Cảnh vật bờ bãi sông Đà không chỉ tĩnh lặng mà còn hoang sơ đến lạ kỳ. Sự tĩnh lặng, hoang sơ của dòng sông hiện lên rõ nét hơn qua các nét phác họa “tịnh không một bóng người”, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”,bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Có thể nói, qua phép so sánh đầy sức gợi và các nét tả của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà ở hạ lưu vẫn giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ như thể hàng ngàn năm, vạn năm hay hàng tỷ năm nay nó vẫn nguyên sơ như thế. Với cách liên tưởng và ví von ấy, tác giả dường như muốn cho ta thấy sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Đặc biệt, hai câu văn “bờ sông hoang dại …bờ sông hồn nhiên…” khiến ta tưởng đây là hai vế của một câu song quan trong bài phú lưu thủy. Nghệ thuật điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ mà ta đã bắt gặp ở người nghệ sĩ một thời vang bóng này. Nguyễn Tuân đã tìm về vẻ đẹp xưa trong cái ngày hôm nay để từ đó bộc lộ tình yêu quê hương xứ sở.

    2.2. Thế giới thiên nhiên sinh động, kì ảo và thi vị

    Không bằng lòng với cái đẹp nhợt nhạt, Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa bức tranh cảnh vật sông Đà, hệt như một người họa sĩ tài hoa. Thế giới thiên nhiên Sông Đà qua sự miêu tả của ông thật sinh động, kỳ ảo, lý thú nhưng cũng tràn đầy sức sống. Những hình ảnh về “một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”… cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống, kéo dòng sông từ thuở hồng hoang trở về gần với thực tại. Giữa không gian thơ mộng, tĩnh lặng đó là hình ảnh một đàn hươu “cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm”. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”, rồi “hươu vểnh tai”… Cuộc đối thoại giữa ông khách sông khách sông Đà và con vật “lành” đích thực là một bài thơ trữ tình, nó chập chờn chơi vơi. Hươu hỏi người hay người tự hỏi một giả định vừa thực vừa ảo. Hình ảnh đầy chất thơ này gợi cho chúng ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ nổi tiếng của tác giả Lưu Trọng Lư:

    “Con nai vàng ngơ ngác

    Đạp trên lá vàng khô”

    Thiên nhiên sông Đà với sự sống nguyên sơ còn được miêu tả qua hình ảnh đàn cá dầm xanh trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”, “Tiếng cá đập nước sông khiến đàn hươu vụt biến”. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh. Biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể nghe thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật mình và ông khách sông Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.

    2.3. Vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ

    Nghệ thuật trùng điệp với cụm từ và cấu trúc “Thuyền tôi trôi…”  được lặp lại lần nữa để nhấn mạnh vẻ đẹp tĩnh lặng mà thơ mộng của sông Đà. Từ trên còn thuyền trôi chầm chậm trên sông, nhà văn phát hiện ra sông Đà mang vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, đậm đà bản sắc văn hóa như nó được miêu tả trong câu thơ rất mực tài hoa của thi sĩ Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Ở đây ta lại bắt gặp một nét phong cách quen thuộc của nhà văn họ Nguyễn là ông luôn nhìn sự vật dưới phương diện văn hóa, lịch sử, thẩm mĩ.

            Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”, “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “Con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đằm thắm nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịn sống ấm ấp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi, đang lững lờ trong tâm hồn mình, bát ngát mênh mông… Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy.

    3. Đánh giá 

    3.1. Nội dung và nghệ thuật

     Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Nhịp điệu chậm rãi, như tãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông. Ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu; những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi khiến đoạn văn trở thành một đoạn hay và đẹp về quê hương, đất nước.

    Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Đọc đoạn văn, người đọc như cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”.

    3.2. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong đoạn văn

    Đoạn văn đã thể hiện rõ nét những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân lànhà văn theo chủ nghĩa xê dịch và ưa cảm giác mạnh. Giống như các nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích đi nhiều để thay đổi cảm giác cho các giác quan. Ông  không thích những gì bình thường và tầm thường nên đối tượng mà ông miêu tả đã đẹp thì phải đẹp đến mức tuyệt mĩ, dữ dội phải đến mức khủng khiếp và tài năng phải đến mức siêu phàm. Ông là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá. Khi miêu tả sông Đà, nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, thi ca… để viết về con Sông Đà trữ tình, thơ mộng. Hơn nữa, đoạn văn cũng thể hiện văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình  ảnh giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể loại tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đọc “Người lái đò Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.

    Đoạn văn trích cho ta thấy được vẻ đẹp thơ mộng tiềm tàng sức sống của sông Đà, xúc cảm rất chân thành của người ngắm cảnh và một lần nữa, buộc ta phải khâm phục, ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa tài tử của Nguyễn Tuân, những chữ nghĩa, ví von có hồn có mắt được nâng niu, cẩn thận góp nhặt qua “hàng trăm tuần trà, hàng ngàn lần dạo phố Hà Nội, đi Đông đi Tây chắt lọc lại, giữ lại cho chúng ta”.

  • Cách mở bài Tây Tiến

    Để làm tốt Bộ đề thi thử Văn tác phẩm TÂY TIẾN thì phần mở bài rất quan trọng. Dưới đây chúng tôi giới thiệu các cách mở bài Tây Tiến tương ứng với từng dạng đề thi.

    Cách mở bài Tây Tiến

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 1

    Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp” và “quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm”. Vậy tình cảm chứ không phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của người nghệ sĩ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: “Tây Tiến” – bài thơ mang chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 2

    Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài trong nhiều thể loại văn học từ viết văn, làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc… Trong đó, ông được biết đến nhiều hơn trong lĩnh vực thơ ca, với phong cách nghệ thuật độc đáo cùng hồn thơ lãng mạn, phóng khoáng, Quang Dũng đã mang đến cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc mang màu sắc mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là viết về hình tượng người lính: vừa kiên cường bất khuất lại vừa hào hoa phong nhã. Đặc biệt, bài thơ Tây Tiến cho ta thấy rõ nét nhất về phong cách nghệ thuật và những nét mới mẻ này của Quang Dũng. Tây Tiến được viết vào năm 1948, khi Quang Dũng phải chuyển đơn vị công tác nhưng vẫn luôn nhung nhớ về đồng đội, về đơn vị cũ. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng, nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đồng đội và người dân Tây Bắc, đồng thời cũng phác họa chân dung người lính Tây Tiến đầy sống động, chân thực với những vẻ đẹp kiêu dũng, hào hoa lãng mạn.

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 3

    Ẩn sau cái vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ đầy thơ mông của thiên nhiên vùng núi rừng Tây Bắc là biết bao hiểm nguy đang rình rập. Dường như cảnh hùng vĩ của núi non ấy đã làm nổi bật lên vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến, họ như một tượng đài bất diệt, vừa mang vẻ đẹp kiêu hãnh, bất khuất của người lính cụ Hồ vừa mang vẻ tài hoa phong nhã của những chàng trai Hà thành. Bài thơ “Tây Tiến” được tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực về sự tàn khốc của chiến tranh, những nỗi gian lao vất vả của người lính trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng, những điều đó không làm họ chùn bước, những người lính vĩ đại ấy vẫn luôn lạc quan yêu đời và chiến đấu một cách anh dũng kiên cường.

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 4

    Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?
    Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.
    Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…
    Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhoà sắc ban.

    (Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)

    Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…

    Mở bài chung cho tác phẩm Tây Tiến số 5

    Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Thơ của ông thường viết về thời kỳ kháng chiến với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người, đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Bài thơ Tây Tiến chính là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Tây Tiến sáng tác năm 1948 gợi cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và người chiến binh Tây Tiến. Gợi tả về những vẻ đẹp ấy, ngòi bút Quang Dũng đã thể hiện rất xuất sắc với sự chứa chan về cảm xúc.

    Mở bài cảm nhận bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Những năm tháng khói lửa bom đạn trong chiến tranh gian khổ đã đi qua nhưng những bài thơ, lời ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang mãi tới bây giờ. Thơ ca thời kỳ kháng chiến luôn khắc họa những hình ảnh chân thực về những con người góp phần làm cho đất nước thống nhất, trong đó có người lính Việt Nam. Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được cảnh vật núi rừng Tây Bắc hùng vĩ mà nên thơ cùng hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn mà vẫn rất dũng cảm, oai hùng và bi tráng trước sự hi sinh vì tổ quốc.

    Mở bài mẫu 2

    Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu,phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

    Mở bài mẫu 3

    Nguyễn Đình Thi từng viết: “Thích một bài thơ là thích một cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, xét đến cùng là thích một con người”. Giữa rừng thơ kháng chiến đầy sắc khoe hương đang nở rộ, “Tây Tiến” vẫn được người đọc rất ưa thích, đơn giản vì “một cách nhìn, một cách cảm, một cách nghĩ” ấy mà thôi. “Tây Tiến” được xem là tác phẩm đỉnh cao của đời thơ Quang Dũng.

    Mở bài mẫu 4

    Nhận xét về áng thơ của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: “Tây Tiến là đứa con tráng kiện và hào hoa của đời thơ Quang Dũng.” Thật vậy, bài thơ đã ghi lại dấu son trên hành trình nghiệp cầm bút của thi sĩ, đồng thời khắc sâu vào lòng bạn đọc những ấn tượng đặc biệt về một thời hào hùng của dân tộc.

    Mở bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét về bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

    Mở bài mẫu 2

    Chiến tranh đã qua đi, những hạt bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, họ đã dùng máu và nước mắt của mình tô lên hai chữ “độc lập” của dân tộc. Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong giai đoạn lịch sử khốc liệt những 1945 – 1954. Qua bài thơ này, Quang Dũng đã dùng bút lực của mình để vẽ lên thi đàn văn chương một bức tượng đài người lính Tây Tiến vừa lãng mạn hào hoa, vừa hào hùng bi tráng.

    Mở bài mẫu 3

    Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.

    Mở bài mẫu 4

    Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.

    Mở bài mẫu 5

    Một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu, phóng khoáng. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.

    Mở bài mẫu 6

    Thơ ca cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Những bài thơ, ca khúc đã đi sâu vào trái tim của triệu triệu đồng bào về một thời khói lửa chiến tranh. Hình ảnh những người lính bước vào trang thơ cũng rất tự nhiên và gần gũi, là một đề tài quen thuộc trong thơ cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho tàng ấy một tiếng thơ đẹp Tây Tiến về hình ảnh người lính xuất thân là những người thanh niên trí thức Hà thành. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn và cũng rất dũng cảm, ngàng tàng cùng vẻ đẹp bi tráng.

    Mở bài mẫu 7

    Quang Dũng là một nhà thơ chiến sĩ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu của một con người tài hoa, đa tài. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, là kết tinh của những trải nghiệm trong cuộc đấu tranh chống Pháp cùng những người đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến. Thành công nổi bật của của bài thơ là xây dựng được hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của những người chiến sĩ thuở trước, vừa mang những vẻ đẹp hiện đại của những người chiến sĩ chống Pháp, kiên cường nhưng cũng rất đỗi hào hoa, phong nhã.

    Mở bài mẫu 8

    Bài thơ Tây Tiến ra đời vào năm 1948, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và trái tim thương nhớ đồng đội cũ đã khắc họa nên những nét chân thực nhất về hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp với hình tượng bi tráng hào hùng.

    Mở bài mẫu 9

    Quang Dũng một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm ông để lại không nhiều, nhưng gây ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng bạn đọc, đặc biệt là tác phẩm Tây Tiến. Người đọc ngoài ấn tượng về khung cảnh núi non hùng vĩ, vừa mơ mộng của nơi núi rừng còn ấn tượng bởi hình tượng người lính kiên cường, anh dũng, lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh cho đất nước. Hình tượng người lính trong tác phẩm Tây Tiến mang một vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, đặc trưng cho phong cách thơ Quang Dũng.

    Mở bài mẫu 10

    Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.

    Mở bài mẫu 12

    Nhắc đến kháng chiến chống Pháp, ta sẽ nhớ ngay những người lính nông dân trong Đồng Chí, Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Và cũng không thể không nhắc đến người lính Tây Tiến trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Quang Dũng. Bằng ngòi bút vừa hiện thực, vừa lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng đài bất tử về những người lính vô danh mà anh dũng, kiên cường.

    Mở bài phân tích bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    “Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bồng bềnh như mơ… Gặp lại dấu chân cha ông, gặp lại chín năm gian khổ”. Những giai điệu trong bài hát Hành quân lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn một lần đưa ta ngược về thời gian, vượt qua khoảng cách không gian về với núi rừng Tây Bắc của một thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn chương nói chung và văn học thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có vị trí đặc biệt. Đọc Tây Tiến người ta không chỉ thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính mà còn ấn tượng sâu sắc về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng không kém phần thơ mộng, lãng mạn.

    Mở bài mẫu 2

    Thế giới được tạo lập không phải một lần nhưng mỗi lần người nghệ sĩ xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập. Cỏ cây hoa lá vẫn ở đó, vẫn là cuộc sống thường ngày xung quanh ta nhưng sao khi vào những trang thơ, áng văn lại trở nên đẹp đến lạ kỳ! Hình ảnh thiên nhiên vùng Tây Bắc luôn làm chúng ta bất ngờ như thế qua từng câu chữ của “Tây Tiến”.

    Mở bài mẫu 3

    Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong nhà thơ những cảm xúc riêng để rồi bức tranh ấy đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.

    Mở bài mẫu 4

    Mỗi một vùng đất mà con người có cơ hội đặt chân đến ắt hẳn sẽ ít nhiều để lại trong lòng họ những ấn tượng khó phai. Với Quang Dũng thì Tây Bắc – nơi đoàn binh của ông đã từng sống và hoạt động không chỉ là một miền nhớ dạt dào bởi ở đó có bóng dáng của những người đồng đội thân thương mà nó còn để lại trong tâm trí nhà thơ những dấu ấn về hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên ấy, tuy hoang sơ, xa xôi, hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng và trữ tình. Những kí ức tươi đẹp về thiên nhiên của vùng đất Tây Bắc đầy kỉ niệm của một thời lính trẻ sẽ được Quang Dũng thể hiện trong những vần thơ của thi phẩm “Tây Tiến”.

    Mở bài mẫu 5

    Thơ Quang Dũng vừa có hơi hướng cổ điển vừa mới mẻ hiện đại. Ông có một hồn thơ tài hoa, tinh tế đa cảm. “Tây tiến” là bài thơ đặc sắc của Quang Dũng. Bài thơ thể hiện nỗi nhơ thương da diết cháy bỏng về đồng đội Tây Tiến hào hoa kiêu dũng chiến đấu giữa miền tây hùng vĩ lệ.Bài thơ thành công một phần là là nhờ cách xây dựng hình tượng núi rừng Tây bắc hùng vĩ diễm lệ.

    Mở bài mẫu 6

    Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ, không ai không thể không nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ một vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành Tây Tiến vì nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm hứng chủ đạo chứ ko cần đến từ “nhớ”

    Mở bài mẫu 7

    Tác phẩm “Tây Tiến” là một trong tác phẩm thành công nhất của chàng thi sĩ Hà thành Quang Dũng. Từ thiên nhiên hùng vĩ tới tâm tình người lính trẻ đều được nhà thơ khắc họa chân thực, đầy kiêu hùng. “Tây Tiến” giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn lãng mạn của chàng trai Hà Nội – Quang Dũng. Đường ra trận dù hiểm nguy, cái chết cận kề nhưng vẫn có những phút giây thư thái ngắm nhìn thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.

    Mở bài mẫu 8

    Bài thơ Tây Tiến biểu hiện một nỗi nhớ da diết mênh mang về người, về cảnh, về những kỉ niệm mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua. Quang Dũng đã sống những tháng ngày không thể nào quên trong cuộc đời cầm súng và cầm bút của mình. Hình tượng nhân vật trữ tình trung tâm bài thơ là người lính hào hoa, lãng mạn. Họ tự dấn thân vào cuộc chiến đấu với ý chí quyết tâm lớn với những ước mong cao đẹp và một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm. Bức tranh Tây Tiến vừa thơ mộng, trữ tình, dịu êm, vừa dữ dội, kì vĩ được khắc họa đậm nét qua nỗi nhớ thiết tha của người lính.

    Mở bài phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Quang Dũng là nhà thơ lãng mạn, tài hoa. Bài thơ Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho sáng tác của Quang Dũng. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc. Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang. Tây Tiến là tên gọi của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

    Mở bài mẫu 2

    Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: “ Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:

    Mở bài mẫu 3

    Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là của những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu và rất mực tài hoa lãng mạng. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 4

    Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.

    Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đột xuất mà vẫn là sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.

    Mở bài mẫu 5

    Và cũng có một bài thơ như thế, những năm tháng như thế, khắc sâu vào tiềm thức bao nhiêu thế hệ người Việt ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai. Đó là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước và cả sự chiến đấu và hy sinh cao cả, trong đó đẹp nhất là hình ảnh người lính. Có rất nhiều bài thơ khai thác đề tài này, và bài “Tây Tiến” của Quang Dũng được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất. Bài thơ là nỗi nhớ về một thời chiến đấu gian khổ nhưng anh hùng của chính nhà thơ bên cạnh đoàn quân Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 6

    Tây Tiến bài thơ được viết trong giai đoạn nước nhà căng mình để chiến đấu chống thực dân Pháp. Bài thơ giúp người đọc cảm nhận được tình đồng đội trong thời chiến, nhớ binh đoàn hùng mạnh Tây Tiến đặc biệt là trong đoạn đầu tiên.

    Mở bài phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ biển rì rào cát trắng mà nó còn ở trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi Tây Bắc và phẩm chất của những người lính qua tác phẩm “Tây Tiến”. Ông sáng tác bài thơ vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết là những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể hiện tinh tế qua đoạn thơ thứ 2.

    Mở bài mẫu 2

    Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thể hiện những nỗi niềm, tình cảm của mình về vùng đất Tây Bắc – nơi mà đoàn binh Tây Tiến của ông đã có rất nhiều những kỉ niệm tươi đẹp với đất, với người. Ngay từ khi đọc những dòng thơ đầu của tác phẩm có lẽ người đọc đã thấy ấn tượng về thiên nhiên Tây Tiến với sự hùng vĩ, hoang sơ và có lúc thật dữ dội, nguy hiểm khiến bước chân của người lính cũng trở nên mỏi mệt, rã rời. Thế nhưng, đến khổ thơ thứ hai, những mỏi mệt, rã rời ấy như lùi ra xa nhường chỗ cho không khí tươi mới của một đêm liên hoan ấm tình quân dân nhưng cũng chất chứa những suy tư chính ở nơi doanh trại.

    Mở bài mẫu 3

    Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tinh tế và lãng mạn – được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc họa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm, nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc họa rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy.

    Mở bài mẫu 4

    Quang Dũng là một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, là nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là thi phẩm nổi tiếng nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mà mỹ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có những kỉ niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến thuở nào:

    Mở bài mẫu 5

    Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 6

    Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm (1921-1988). Là nhà thơ với một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa. Trong thơ Quang Dũng thường kết hợp hiện thực và chất men say lãng mạn tại nên nét độc đáo trong thơ ông. Chính vì vậy ông được mệnh danh là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình Quang Dũng để lại nhiều bài thơ có giá trị trong đó phải kể đến “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ khắc họa thành công bức chân dung người lính Tây Tiến mà còn là vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi vùng núi Tây Bắc được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ thứ 2.

    Mở bài phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.

    Mở bài mẫu 2

    Quang Dũng là một trong những nghệ sĩ rất đa tài. Ông có thể vẽ tranh, làm thơ, ông còn biết sáng tác nhạc. Thơ ca của Quang Dũng nổi bật với một hồn thơ lãng mạn, hào hoa, thấm đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc. Bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện cái tình đó của Quang Dũng. Lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến”. Sau bỏ “nhớ” giữ lại “Tây Tiến” vì Quang Dũng cho rằng bài thơ vốn đã tràn đầy nỗi nhớ, người đọc sẽ cảm thấy. Bài thơ được nảy sinh trong những năm tháng không thể nào quên, từ một môi trường sống và chiến đấu không thể nào quên của cuộc đời người lính

    Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về kỉ niệm với thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ của mình. Trong tác phẩm, hình tượng những người lính Tây Tiến được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ thứ 3 của bài thơ.

    Mở bài mẫu 3

    Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều kiểu rung cảm thẩm mĩ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc… Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu. Trong tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ, nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân…

    Mở bài mẫu 4

    “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, vừa cầm súng đánh giặc, vừa làm thơ. Ông viết về đồng đội, về đoàn binh Tây Tiến thân yêu của mình. Thơ của Quang Dũng nóng bỏng hào khí chiến trường. Sau một thời gian xa đơn vị và đồng đội, ông viết bài thơ Tây Tiến này vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một địa điểm bên bờ sông Đáy hiền hòa. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài “Tây Tiến”, đã khắc hoạ khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa.

    Mở bài mẫu 5

    Theo dòng kí ức, ngược về quá khứ, ta đã bắt gặp không biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang dũng cũng là một nhà thơ như vậy. Ông là người tài hoa, vẽ tài hát giỏi, thơ hay. Ông để lại cho đời nhiều bài thơ với những âm hưởng đặc sắc. Tiêu biểu là bài thơ Tây Tiến mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn mà ta được học ở chương trình phổ thông. Có thể nói, cả bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội nhưng nỗi nhớ da diết, lắng đọng nhất lại được nhà thơ tập trung thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ ở khổ 3 của bài thơ.

    Mở bài phân tích khổ cuối bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Mọi thứ có thể bị lãng quên nhưng những người con đã hi sinh vì đất nước, vì dân tộc thì mãi mãi được khắc ghi, sống mãi với thời gian. Những người lính vĩ đại của dân tộc được khắc họa trong những áng văn thơ cũng sẽ là những bức tượng đài uy nghiêm trường tồn mãi mãi với thời gian. Những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến cũng là những người như vậy. Khổ cuối bài thơ một lần nữa khắc họa lên những đặc điểm đáng quý của những người lính đó.

    Mở bài mẫu 2

    Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 3

    Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà thơ vào những câu chữ:

    Mở bài mẫu 4

    Tây Tiến là một trong những bài thơ được xem là hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.

    Mở bài mẫu 5

    Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. – Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. – Bài thơ bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ . Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến : Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Mở bài vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người lính. Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, hào hùng, đậm chất bi tráng, Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

    Mở bài mẫu 2

    Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.

    Mở bài mẫu 3

    Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng, là thành tựu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Trần Lê Văn đã từng có những nhân xét như: “Trước Tây Tiến Quang Dũng đã có những khúc dạo đàn khá hay nhưng thật sự chỉ đến Tây Tiến Quang Dũng mới thực sự trình làng một phong cách thơ, một diện mạo thơ”. Đó là một phong cách hồn hậu, hào hoa. Không những thế qua bài thơ Tây Tiến ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những anh hùng Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 4

    Trong thời kì đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng trung tâm được nhiều nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng là một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến chống Pháp trong đó có vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.

    Mở bài mẫu 5

    Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Hồi tưởng của một anh lính tài hoa có tinh thần xả thân vì nghĩa lớn – Quang Dũng. Cho nên, khác với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hài hoà, hào hoa, bi tráng.

    Mở bài vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Đối với một tác phẩm văn chương, nhất là thơ ca, ngôn ngữ chính là chất liệu. Chất liệu có tốt, tác phẩm mới có hồn. nói như Pautopxki: “Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, đã mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”. Với việc lựa chọn, sử dụng ngôn từ, Quang Dũng đã rất thành công trong việc thể hiện tiếng nói của tình cảm, của trái tim ông qua bài thơ Tây Tiến.

    Mở bài mẫu 2

    Giả Đảo thời Đường đã từng chiêm nghiệm:

    “Nhị cú tam niên đắc
    Nhất ngâm song lệ lưu”

    (Hai câu làm mất ba năm
    Một ngâm, lã chã hai hàng lệ rơi)

    Làm được những câu thơ vừa ý mình chưa bao giờ là đơn giản với một nhà thơ, vừa ý người đọc lại càng là chuyện khó khăn. Ấy thế mà, vẫn có những bài thơ tuyệt bút có thể khiến “kinh nhân”, xao xuyến mãi không thôi. Với vẻ đẹp ngôn ngữ, “Tây Tiến” là một bài thơ như thế.

    Mở bài cảm hứng lãng mạn ở bài thơ Tây Tiến

    Mở bài mẫu 1

    Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.

    Mở bài mẫu 2

    Có một thời, nhắc đến khái niệm “lãng mạn” người ta thường đồng nhất nó với những gì xa rời thực tế, cá nhân, tiêu cực, mềm yếu… và người ta phản đối, phê phán, thậm chí tẩy chay nó. Nhưng nếu xét đến tận cùng, phần lãng mạn ấy không thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong tâm hồn con người và cái gọi là “lãng mạn” ấy cũng thật nhiều vẻ, nhiều hình. Nó có thể làm con người ta nhỏ lại yếu hèn đi nhưng cũng có thể đem đến cho con người có sức mạnh phi thường để làm nên những điều phi thường. Ta bắt gặp sức mạnh lãng mạn ấy qua Tây tiến của Quang Dũng – một tác phẩm mang đậm chất sử thi, đậm chất lãng mạn anh hùng, lãng mạn cách mạng.

    Mở bài mẫu 3

    Quang Dũng được xem là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông chủ yếu viết về đề tài người lính, bởi bản thân ông xuất thân từ một người chiến sĩ, chính vì vậy đây là cảm hứng chủ đạo để ông sáng tác lên bài thơ Tây Tiến để khắc họa lại hình ảnh của những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của mình.

    Mở bài mẫu 4

    Quang Dũng là một trong những nhà thơ xuất sắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cả trong thơ hiện đại. Quang dũng còn luôn nổi tiếng với hồn thơ lãng mạn, bay bổng tài hoa đậm chất bi tráng và Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu như thế.

    Mở bài mẫu 5

    “Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Bài thơ là sự kết hợp bởi cảm hứng lãng mạn cũng như tinh thần bi tráng.

    Mở bài so sánh hình ảnh đoàn quân trong Tây Tiến và Việt Bắc

    Mở bài mẫu 1

    Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có một nguồn cảm hứng bao trùm đó là cảm hứng sử thi và lãng mạn. Cảm hứng ấy hướng về cuộc kháng chiến của nhân dân chống thực dân và đế quốc xâm lược. Trong nguồn cảm hứng bất tận ấy, hình tượng người lính là hình tượng được khắc họa rõ nét để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu đã phần nào mang đến cho chúng ta vẻ đẹp sáng ngời ấy.

    Mở bài mẫu 2

    Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắc là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc. Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng.

    Mở bài phân tích thành ngữ Thi trung hữu họa

    Mở bài mẫu 1

    Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu tác giả tác trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chống thực dân Pháp. Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức giúp nhà thơ khắc họa cảnh sắc thiên nhiên và hình tượng người lính đậm chất hội họa.

    Mở bài mẫu 2

    Trong văn chương, ta thường nghe nói: “Thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Đây là thành ngữ chỉ sự dung hòa trong trong cùng một tác phẩm thơ hai loại hình nghệ thuật: thơ và họa. Tuy nhiên, không phải tác giả nào cũng tiến tới được sự dung hòa đó. Phải là một người đa tài, có con mắt hội họa thiên bẩm. Quang Dũng là một trong số những người tài hoa đó. Chất họa của ông thể hiện rõ trong bài thơ “Tây tiến”. Bài thơ đã tả lại cảnh vật rừng núi Tây Bắc bằng cảm nhận của một họa sĩ.

    Mở bài mẫu 3

    Trong nền văn học Việt Nam, Quang Dũng là nhà thơ được biết đến với cái “tôi” hào hoa, lãng mạn, qua những cảm nhận đầy tài hoa, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người. Bài thơ “Tây Tiến” là thi phẩm thể hiện rõ hồn thơ ấy. Một trong những đặc sắc của bài thơ là chất hội họa được thể hiện qua những hình ảnh và lớp ngôn từ có khả năng kiến tạo nên những đường nét, màu sắc về thiên nhiên cũng như con người, làm nên một tác phẩm “thi trung hữu họa”.

  • Bộ đề thi thử tác phẩm VIỆT BẮC

    Các dạng đề thi bài Việt Bắc của Tố Hữu

    Dạng 1. Cảm nhận về đoạn thơ: Bài này quá dài nên sẽ không thể thi cả tác phẩm Việt Bắc, do đó các em lưu ý mấy đoạn trọng tâm sau:

    • 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc
    • Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu…
    • Chày đêm nện cối đều đều suối xa
    • Đoạn Bức tranh tứ bình: Ta về mình có nhớ ta. thuỷ chung
    • Phân tích 3 khổ thơđầu bài Việt Bắc (bản tình ca về Việt Bắc)
    • Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến: Những đường Việt Bắc của ta…đèo De núi Hồng

    Dạng 2. Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ Việt Bắc, chứng minh nhận định về bài Việt Bắc, Cảm nhận về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc, Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu

    Dạng 3. Đề so sánh văn học: so sánh đoạn thơ trong bài Việt Bắc với đoạn thơ trong bài Tây Tiến, đây thôn Vĩ Dạ, Sóng,….

    Dạng 4 : Cảm nhận về 1 phương diện trong nội dụng hoặc nghệ thuật của tác phẩm. Ví dụ: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc, nghệ thuật của cách xưng hô “Mình – Ta” trong “Việt Bắc”, “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”…

    Cách mở bài tác phẩm Việt Bắc

    Biêlinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Tố Hữu chính là một đại biểu xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối trong cuộc đời mình ông đều gắn bó với con đường cách mạng giải phóng dân tộc, là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ của ông luôn gắn bó, song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dễ đi vào lòng người, trở thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ “Việt Bắc” được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954.

    Phân tích một số đoạn thơ Việt Bắc

    Đoạn thơ “Mình về mình có… nói gì hôm nay”

    Cảm nhận về đoạn thơ “Mình về… nói gì hôm nay” trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    – Mình về mình có nhớ ta?
    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
    Mình về mình có nhớ không
    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

    Tiếng ai tha thiết bên cồn
    Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
    Áo chàm đưa buổi phân ly
    Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

                       (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)

    I. MỞ BÀI

    • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tham khảo phần mở bài chung
    • Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Kết cấu bài thơ:

         – Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.

         – Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

    1.3. Đề tài:

              – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ

    2.1. Khái quát

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

    2.2. Bốn câu thơ:

    “Mình về mình có nhớ ta
    Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.

    Mình về mình có nhớ không
    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

    Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại

         – Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” và Mình về mình có nhớ không”, hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra về hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình – ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ “mình có nhớ” thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại.

         – Cụm từ “mình có nhớ” được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. “Việt Bắc” là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ:

                                        Mình về thành thị xa xôi

                                        Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng

                                        Phố đông có nhớ bản làng

                                        Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

         – Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim Trọng:

                                        Những là dày ước mai ao

                                        Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình

         Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc:

                                        Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

                                        Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

                                        Bác về im lặng con chim hót

                                        Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

         Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về xuôi.  Mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, mười lăm năm “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, …làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên những ngày tháng ấy.

         – Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Phải chăng người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.

    => Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.

    2.3.  Bốn câu thơ:      Tiếng ai tha thiết bên cồn
                             Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
                                     Áo chàm đưa buổi phân ly
                             Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

     Tiếng lòng của người ra đi

    *Hai câu đầu:

         – Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câu hỏi của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ tình đầy sâu lắng. Đại từ “ai” tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi, thân thương  và chỉ người ở lại. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến… Bởi vậy, đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.

         – Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và bồn chồn.       

         +“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn.

         + “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nôn nao.

    Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay tâm trạng ấy của người ra đi “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng”. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ vừa tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi. 

    *Hai câu sau:  

         – Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó “áo chàm” là biện pháp nghệ thuật hoán dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng bộ phận để chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là màu sắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi không bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân tình, thủy chung:

    Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

    Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhòa

         Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ, nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung.

         – Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnh có giá trị biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Cả người đi và kẻ ở đều có bao nhiêu điều muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời. Và có lẽ ngôn ngữ cũng không đủ để diễn đạt bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là cách thể hiện tình cảm. Họ cầm tay nhau mà không biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào. Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay thôi đã đủ nói lên tất cả. Giống như những người lính trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà nắm lấy tay nhau:

                                                  Áo anh rách vai

                                                  Quần tôi có vài mảnh vá

                                                  Miệng cười buốt giá

                                                  Chân không giày

                                                  Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

                                                                                        (Đồng chí – Chính Hữu)

             Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau vượt lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá nước, là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân. Ba dấu chấm lửng đặt ở cuối đoạn thơ giống như một nốt lặng trong một khuôn để tình cảm cứ ngân dài, sâu lắng.

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

             Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, hoán dụ, tiểu đối… đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

    Đoạn thơ “Mình đi có nhớ… mái đình cây đa”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    “Mình đi, có nhớ những ngày
    Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
    Mình về, có nhớ chiến khu
    Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
    Mình về, rừng núi nhớ ai
    Trám bùi để rụng, măng mai để già.
    Mình đi, có nhớ những nhà
    Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
    Mình về, còn nhớ núi non
    Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
    Mình đi, mình có nhớ mình
    Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Kết cấu bài thơ:

         – Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.

         – Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

    1.3. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách mạng tháng Tám

    2.1. Giới thiệu đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân. Trong đoạn thơ, từ mình lúc được ghép thành “mình đi”, lúc lại thành “mình về” có thể hiểu một cách đơn thuần là chỉ người cán bộ cách mạng nhưng cũng có thể hiểu theo một hướng khác là mình đi hôm nay liệu ngày mai mình có trở về và khi về còn nhớ. Từ “mình” còn được ghép thành các cụm từ “Mình đi, có nhớ”, “mình về, còn nhớ” thành lời ướm hỏi, gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi ra về hãy nhớ.

         – Trong đoạn thơ 12 câu có 4 câu thơ đầu tái hiện những ngày tháng gian khổ trên chiến khu Việt Bắc, 4 câu thơ tiếp theo là những ngày tháng nghĩa tình và 4 câu thơ cuối khẳng định những ngày tháng trên chiến khu Việt Bắc đã làm nên những trang sử vẻ vang của đất nước.

    2.2. Bốn câu thơ:           – Mình đi, có nhớ những ngày

                                  Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

                                          Mình về, có nhớ chiến khu

                                   Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

     Những ngày tháng gian khổ

         – Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa nguồn, suối lũ, mây mù. Núi rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận bão rừng đá nghiêng, cây đổ, những con suối róc rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ cuốn phăng tất cả, rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó rất cao so với mực nước biển. Cảnh sương mù ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong “Tây Tiến” để nói về những khó khăn, gian khổ của người lính:

         Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi

          Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách với người cán bộ cách mạng. Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ miền xuôi chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian khổ. Nhưng cũng từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng khổ, gắn bó chia sẻ cùng nhau.

         –  Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc còn phải sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ. Thiếu thốn nên chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn trám, ăn măng, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui.  Mặc dù khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn cùng nhau vượt qua bởi cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ có tác dụng vật chất hóa, cụ thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước. Nghệ thuật đối lập giữa miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng cao tầm vóc con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, người Việt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng quân thù.

    2.3. Bốn câu thơ:          Mình về, rừng núi nhớ ai

                                 Trám bùi để rụng, măng mai để già

                                        Mình đi, có nhớ những nhà

                                  Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

    Những ngày tháng nghĩa tình

    *Hai câu thơ đầu:

         – Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau hơn. Bởi vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình sâu nặng nên khi phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm nổi lòng mình mà cất lên lời giãi bày, thổ lộ tình cảm.

         – Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết qua hai hình thức gián tiếp và trực tiếp:

         + Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình ảnh thiên nhiên như rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm đầy ý nhị, khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học được từ ca dao:

    Bây giờ mận mới hỏi đào

    Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

    Mận hỏi thì đào xin thưa

    Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

         Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ “rừng núi” chỉ Việt Bắc và người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn tả trong cuộc chia tay này, dường như cả thiên nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ người cán bộ về xuôi.

         Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành, mộc mạc của mình qua hình ảnh trám bùi, măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật của cán bộ kháng chiến, cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”:

                                                      Sáng ra bờ suối tối vào hang

                                                           Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

         Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán bộ. Vì thế bài thơ mới có những câu thơ tuyệt bút:

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

         Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà không hề gợi cảm giác lẻ loi, đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về xuôi trám và măng không có người thu hái nên để trám rụng, măng già.

         => Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình cảm nhớ thương, cảm giác lẻ loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về  ta nhớ và  nỗi lòng của con người lan tỏa cả ra thiên nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như cũng ngẩn ngơ, trống trải, buồn bã đến lạ thường.

    *Hai câu thơ sau:

         – Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây vẫn là những hình ảnh được sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia tay. Từ láy”hắt hiu” kết hợp với màu lau xám càng làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, buồn bã của cảnh vật.

         – Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết được tình cảm sâu nặng nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng định trực tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là “đậm đà lòng son”. “Lòng son” là từ ngữ rất đắt để thể hiện tình cảm sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy “đậm đà” cùng nghệ thuật đối lập, đối lập giữa “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son”càng góp phần khẳng định tấm lòng sắc son, cao quý của nhân dân Việt Bắc.

    2.4. Bốn câu thơ:      Mình về, còn nhớ núi non

                              Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

                                     Mình đi, mình có nhớ mình

                              Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

     Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc

         – Người ở lại một lần nữa nhắn nhủ người đi nhớ về Việt Bắc. “Núi non” ở đây là hoán dụ chỉ thiên nhiên, con người Việt Bắc. Núi non này đã từng chở che và cùng cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt Bắc đánh giặc:

                                                    “Nhớ khi giặc đến giặc lùng

                                               Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

                                                      Núi giăng thành lũy sắt dày

                                               Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

         Lời người ở lại gợi nhắc lại những ngày còn là Việt Minh kháng Nhật, là những ngày đầu đầu gian khổ của cuộc kháng chiến, người ở lại mong người về xuôi nhớ ghi những thời khắc lịch sử ấy, bởi “mình – ta” đã gắn bó với nhau từ khi đó để làm nên chiến thắng hôm nay.

         – Ở đoạn thơ 12 câu này cặp từ mình – ta được lặp đi lặp lại 8 lần. Trong đó, mười câu thơ đầu của đoạn thơ “mình” chỉ người ra đi nhưng đến câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” thì từ mình chỉ cả người đi và kẻ ở. Mình với ta chuyển hóa, tuy hai mà một thể hiện tình cảm gắn bó, mặn nồng.

         – Người ở lại còn nhắc đến các tên địa danh Tân Trào, Hồng Thái nay đã trở thành hai di tích lịch sử nổi tiếng, gắn với hai sự kiện quan trọng của cách mạng. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Việt Nam. Đình Hồng Thái là nơi họp quốc dân đại hội phát động khởi nghĩa cách mạng tháng Tám. Những sự kiện lớn lao ấy đã làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, mở ra là những trang sử vẻ vang của dân tộc. Nhắc đến các địa danh này, người ở lại muốn nhắn nhủ người ra đi nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương cách mạng.

    3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật

             – Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu đối… Nét đặc sắc trong đoạn thơ này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để trong các câu thơ tám chữ làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc với người đọc. Đoạn thơ vì thế đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.

    Đoạn thơ “Ta với mình… đều đều suối xa”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    – Ta với mình, mình với ta
    Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
    Mình đi, mình lại nhớ mình
    Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

    Nhớ gì như nhớ người yêu
    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
    Nhớ từng bản khói cùng sương
    Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
    Nhớ từng rừng nứa bờ tre
    Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
    Ta đi, ta nhớ những ngày
    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

    Thương nhau, chia củ sắn lùi
    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
    Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
    Nhớ sao lớp học i tờ
    Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
    Nhớ sao ngày tháng cơ quan
    Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
    Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.110,111)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó

    2.1. Giới thiệu đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này.  Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng, đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

              – Nếu như đoạn thơ trước nói về nỗi lòng kẻ ở người đi, tái hiện cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn rồi sau đó người ở lại đã hỏi và gợi nhắc người ra đi hãy nhớ về 15 năm gắn bó, nhớ về những ngày tháng gian khổ mà nghĩa tình thì đoạn thơ này đến lượt người ra đi thổ lộ, giãi bày tình cảm của mình. Lời người ra đi gợi lại nỗi nhớ về cuộc sống sinh hoạt trên chiến khu Việt Bắc, khẳng định tình cảm son sắc, chưa về đã nhớ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, thanh bình, yên ả và nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình, nhớ những ngày tháng gian nân mà vẫn lạc quan, yêu đời, tỉnh cảm vẫn gắn bó keo sơn.

    2.2. Bốn câu thơ đầu:   – Ta với mình, mình với ta

                               Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

                                         Mình đi, mình lại nhớ mình

                                   Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

    Người ra đi  khẳng định tình cảm mặn nồng, trước sau như một

          – Trước nỗi lòng của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. “Ta – mình”, “mình – ta”  được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hoà làm một. Câu thơ đầu của đoạn thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình cảm lứa đôi:

                                              Ta với mình tuy hai mà một

                                              Mình với ta tuy một mà hai

         “Đinh ninh” là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không thay lòng đổi dạ.

         – Câu thơ “Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc “Mình đi mình có nhớ mình”. Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng.
         – Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định một lần nữa sự chung thuỷ son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa trên hình ảnh ca dao:

    Công cha như núi Thái Sơn

    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

         Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. “Bao nhiêu” thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô tận khác. Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những người cách mạng về xuôi với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn.

    2.3. Câu thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”

    Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa:

             – Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi nhớ người yêu, một mối quan hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Thơ ca xưa nay viết về nỗi nhớ trong tình yêu rất nhiều. Ca dao cũng có những câu như:

    Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

    Như đứng đống lửa như ngồi đống than

    Hoặc:

    Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

    Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai

    Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt:

                                                Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

                                                Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi

    Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả:

                                                   Lòng em nhớ đến anh

                                                   Cả trong mơ còn thức

             Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi, mãnh liệt và thường trực… Nỗi nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu đậm của người đi bởi có nỗi nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt hơn nỗi nhớ trong tình yêu.

             – Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi. Cuộc đời mỗi con người đều không tránh được chuyện đi và ở, hội ngộ và chia li. Những mảnh đất đã từng qua, ngững con người đã từng gắn bó đều để lại niềm thương và nỗi nhớ như nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát:

    Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

    Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn

             Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên trong  giờ phút chia tay tất cả kỉ niệm trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với những ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu được bày tỏ nỗi lòng.

    2.4. Đoạn thơ:    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

                                Nhớ từng bản khói cùng sương

                                Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

                                Nhớ từng rừng nứa bờ tre

                                Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

    Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng

             – Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là Việt Bắc vào những đêm trăng. “Trăng lên đầu núi” là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp và lãng mạn. Khung cảnh Việt Bắc có ánh trăng chiếu rọi rất nên thơ còn được nhà thơ Tố Hữu miêu tả một lần nữa trong bài thơ:

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

             “Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng dịu nhẹ trải vàng cả núi rừng và nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiên nhiên thơ mộng ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những khoảnh khắc đẹp, gợi những đêm trăng hò hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy.

             – Nỗi nhớ không chỉ trải dài theo thời gian “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya” mà còn trải rộng khắp không gian: Bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê… Nghệ thuật liệt kê đã tái hiện nỗi nhớ vơi đầy của người cán bộ kháng chiến đồng thời khắc họa được vẻ đẹp của quê hương Việt Bắc. Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, những bếp lửa ấp iu nồng đượm, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là rưng rưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm, cảm xúc. Có thể nói mỗi thời gian, không gian này với người về xuôi đều lung linh kỉ niệm, cham chứa yêu thương.    

             – Câu thơ “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” là một điểm nhấn của nỗi nhớ với sự xuất hiện của hình ảnh con người Việt Bắc. Hai chữ “người thương” thật hay, đó là những con người gắn bó với nhau bằng tình sâu nghĩa đậm. “Người thương” ấy là những ai? Đó có thể là người em liên lạc “Sớm bản Na chiều em qua bản Bắc, mười năm tròn không mất một phong thư”, có thể là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, là người mế “Lửa hồng soi tóc bạc/ năm con đau mế thức một mùa dài” như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên cũng đã từng nói đến. Họ là những người đã cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ kháng chiến, là những người mà cán bộ kháng chiến coi như máu thịt, như gia đình. Hai chữ “người thương” vì vậy mà chất chứa biết bao ân tình của người về xuôi.

             – Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), các tên địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê và tiểu đối đều góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng, tạo nên chất nhạc chất họa mê li, say đắm cho khổ thơ.

    2.5. Đoạn thơ:                          Ta đi, ta nhớ những ngày

    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

    Thương nhau, chia củ sắn lùi

    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

    Nhớ người mẹ nắng cháy lung

    Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

    Nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình

             – Hai câu thơ “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” đã khái quát và khẳng định được tình cảm của người ra đi, ta về là ta luôn nhớ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, trong đó “đắng cay” là ẩn dụ cho những gian khổ, vất vả; “ngọt bùi” tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc. Trong nỗi nhớ của người ra đi có những kỉ niệm về những ngày tháng khó khăn, gian khổ những cũng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, có niềm vui chiến thắng, có hạnh phúc tình yêu.

             – Nếu hai câu thơ trước có ý nghĩa khái quát, thì hai câu thơ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” đã cụ thể hóa những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống kháng chiến. Bao nhiêu gian khổ đã cùng nhau nếm trải như thiên nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn kham khổ về vật chất, giặc đến giặc lùng… Khó khăn gian khổ lại làm người cán bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Nghệ thuật đảo ngữ với từ “Thương nhau” được đặt lên đầu cặp lục bát cho thấy đó là căn nguyên, cội nguồn để dẫn đến những hành động nhường cơm, sẻ áo. Sắn lùi là món ăn bình dị, dân dã. Chăn sui được làm từ vỏ cây sui, thô ráp nhưng là thứ duy nhất họ có để xua đi cái giá lạnh của vùng núi cao. Họ phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm sẻ làm đôi, đắp cùng chăn sui để tỏa cho nhau hơi ấm. Các động từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” thể hiện những hành động đầy ân nghĩa của người Việt Bắc, làm người ra đi mãi ghi nhớ, khắc sâu.

             – Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn được thể hiện qua hình ảnh người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây có lẽ là một trong những  hình ảnh in đậm nhất trong lòng người ra đi. Người mẹ  địu con lên nương rẫy trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để  vừa trông nom, che chở cho đứa con thơ bên mình vừa kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của người mẹ dân tộc. Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm:                 

                                           Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội

                                           Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”

             Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình cảm cách mạng thiêng liêng đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành những nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại.

    2.6. Đoạn thơ:

                                   Nhớ sao lớp học i tờ
                               Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
                                        Nhớ sao ngày tháng cơ quan
                                Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
                                        Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
                                 Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

    Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui

             – Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng vừa làm cách mạng vừa diệt giặc dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi cực, tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số nhân dân mù chữ. Muốn làm cách mạng phải dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ “đồng khuya đuốc sáng” cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên một sức sống mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ “những giờ liên hoan” trong câu thơ cho thấy lớp học tuy có những vất vả gian khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là trong những giờ liên hoan sôi nổi.

             – Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưng với tinh thần lạc quan cách mạng người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ rõ ràng. Tinh thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin để ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng.

             – Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, thân thương  là âm thanh tiếng mõ tiếng chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi chiều trở về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Những âm thanh của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý, nhớ nhung, nhưng khi xa rồi thì những âm thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến, thổn thức. Lời thơ dứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Từ láy “đều đều” không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các buổi chiều và vào ban đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều đều, êm ả thanh bình trên chiến khu.

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

     Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình – ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp từ, ẩn dụ, tiểu đối…Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm trong lòng nhà thơ cũng như bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc.

    Cảm nhận về đoạn thơ “Ta về mình có… ân tình thuỷ chung”

    Ta về, mình có nhớ ta
    Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
    Ngày xuân mơ nở trắng rừng
    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
    Ve kêu rừng phách đổ vàng
    Nhớ cô em gái hái măng một mình
    Rừng thu trăng rọi hoà bình
    Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.111)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

         1.2. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Bức tranh tứ bình về Việt Bắc

    2.1. Giới thiệu về đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Ngoài ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

         – Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần lượt nhắc lại những kỉ niệm gắn bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. Đến đoạn thơ này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó bằng những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây được coi là 10 câu thơ tuyệt bút đạt đến độ toàn bích trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát được nội dung của cả đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông – Xuân – Hạ – Thu.

    2.2.  Hai câu thơ đầu:                       Ta về, mình có nhớ ta

                                        Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

    Hai câu thơ chủ đề cho cả đoạn

         – Cặp từ mình – ta:  Mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.

         – Trong ca dao, dân ca cặp từ mình – ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:

                               Mình nói với ta mình hãy còn son

                               Ta đi qua ngõ thấy con mình bò

                               Con mình những trấu cùng tro

                               Ta đi lấy nước tắm cho con mình 

                  Hay: 

                               Mình về có nhớ ta chăng

                               Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

             Hoặc:

                               Mình về ta chẳng cho về

                               Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ

         – Cách xưng hô mình – ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình – ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình – ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình – ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

         – Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. “Ta về” được lặp lại hai lần như xác nhận hoàn cảnh chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra đi ở đây đặt câu hỏi với người ở lại không phải để được trả lời bởi đến đoạn thơ này cả người đi kẻ ở đều đã cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau. Bởi vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình là ra về mà lòng đầy thương nhớ.

         – Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ người. Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc. “Nhớ hoa cùng người” nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. Tố Hữu lựa chọn thật đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa – người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, tương xứng với hoa là con người như người ta thường nói “Người ta là hoa của đất”.

    2.3. Bốn cặp lục bát còn lại là bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc

         – Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa, cân xứng. Chẳng hạn, khi miêu tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng – cúc – trúc – mai, Xuân – hạ – thu – đông; khi miêu tả người thì theo mô-típ ngư – tiều – canh – mục; khi miêu tả các con vật thì là Long – ly – quy – phụng… Trong đoạn thơ này Tố Hữu đã sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc    

         – Sự đối xứng giữa hoa và người khiến bốn cặp lục bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu tả khá thống nhất là cứ câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với màu sắc đặc trưng của từng mùa, tả con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc.

          – Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.

    2.4. Mùa đông:                Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

                                       Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

         – Vẻ đẹp của thiên nhiên: Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu sắc xanh và đỏ thể hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi.

         + Rừng xanh:Mùa đông rừng núi hiện lên trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một không gian rộng lớn tạo thành cái nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt Bắc đã:

    Núi giăng thành lũy sắt dày

    Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

         + Hoa chuối đỏ tươi (nhãn tự): Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng như ngọn lửa ấm thắp sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt của rừng núi vào mùa đông. Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi còn hiện lên như một biểu tượng của niềm tin, của tình yêu, của sự lạc quan như Nguyễn Mỹ cũng hướng đến trong “Cuộc chia li màu đỏ”:

                                                       Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

                                                       Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

                                                        Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi

                                                        Như chưa hề có cuộc chia li 

         – Hình ảnh con người: Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người với công việc lên rừng hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân đã tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin, mang tâm thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống. Tư thế và tâm thế ấy còn được thể hiện một lần nữa trong bài thơ “Lên Tây Bắc” của Tố Hữu thể hiện rõ quan niệm của nhà thơ về con người kháng chiến, trở thành một nét thi pháp đặc sắc trong thơ của ông:

                                        Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

                                         Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

                                        Núi không đè nổi vai vươn tới

                                        Lá ngụy trang reo với gió đèo

         Tâm thế là chủ ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ cùng thời với Tố Hữu như Nguyễn Đình Thi:

                                                    Trời xanh đây là của chúng ta

                                                  Núi rừng đây là của chúng ta

                                                            Những cánh đồng thơm mát

                                                             Những ngả đường bát ngát

                                                             Những dòng sông đỏ nặng phù sa

         Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt cạnh sườn, ánh nắng mùa đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

         – Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu cho con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó.

    2.5. Mùa xuân:                              Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

         – Vẻ đẹp của thiên nhiên:

         + Cụm từ chỉ thời gian “ngày xuân” :Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất, có thần nhất của mùa xuân Việt Bắc.

         + Màu sắc, hình ảnh: Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân gắn với sắc trắng. Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cụm từ “trắng rừng” cho thấy hoa mơ nở trắng, bao phủ cả khu rừng. Núi rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và mang sức sống bất diệt, xôn xao, rạo rực của mùa xuân. Hiện thực đầy mơ mộng này còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong trường ca “Theo chân Bác”:

                                        Ôi sáng xuân nay xuân 41

                                        Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

                                        Bác về im lặng con chim hót

                                        Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

         – Hình ảnh con người: Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến con người Việt Bắc vào mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì dù mùa xuân nhân dân gác lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa xuân con người xuất hiện trong công việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập trung miêu tả qua đôi bàn tay. Hai chữ “chuốt từng” gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng, tài hoa. Sự khéo léo và tài hoa của người đan nón, của con người Việt Nam cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi miêu tả:

    Tay người như có phép tiên

    Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ

         Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng của người dân Việt Bắc. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp:

    Quân đi điệp điệp trùng trùng

    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

    2.6. Mùa hè:

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

         – Vẻ đẹp của thiên nhiên: Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè, tác giả đã đánh thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không chỉ gắn với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của tiếng ve.

         Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu thơ là ở chỗ nó thể hiện được một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng vào mùa hè và khi ve kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc nhưng bông hoa phách ẩn hiện trong tán lá nở rộ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sắc vàng trong câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” không phải là màu vàng của hoa như những người soạn sách nhiều năm lầm tưởng mà là màu vàng của lá. Trong cuốn Hồi kí nhớ lại một thời khi nói về vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc cùng những gì là “luyến tiếc ngẩn ngơ” khi rời Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã chép lại đoạn thơ đặc sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã chú thích rất rõ ràng về cây phách: Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên (Nhớ lại một thời – Hồi kí – NXB Hội Nhà văn, 2000, trang 302).

             Từ “đổ” là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và đồng loạt của màu sắc. Và chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động khi tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột ngột, đồng loạt đổi sang màu vàng rực rỡ.     – Câu thơ miêu tả mùa hè Việt Bắc gợi ta nhớ đến hai câu Kiều của Nguyễn Du, cũng thể hiện một phản ứng dây chuyền và sự chuyển màu đồng loạt của lá rừng. Khi Thúc Sinh lên ngựa, Thúy Kiều phải buông áo và đúng lúc Kiều buông áo Thúc Sinh thì rừng cây phong đồng loạt đổi màu sang màu đỏ của chia li. Có điều để diễn tả sự động loạt đổi màu của rừng phong, đại thi hào Nguyễn Du đã dùng từ “nhuốm”:

    Người lên ngựa, kẻ chia bào

    Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

         – Hình ảnh con người: Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái măng một mình. Cách gọi “Cô em gái” thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể hiện rõ sự gần gũi, thân thương, trìu mến. Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừng không gợi sự cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân thắm thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”.

         – Có ý kiến cho rằng hai câu thơ về mùa hè rất đẹp, gợi cảm nhưng ít nhiều chưa hợp lí vì cô em gái không thể tìm kiếm, hái măng trong rừng phách. Thế nhưng ta hoàn toàn có thể chấp nhận được vì cảnh vật, con người Việt Bắc ở đây là những vẻ đẹp ấn tượng, kết tinh nhất trong mùa hè và có thể chúng được cảm nhận ở những không gian, vạt rừng khác nhau trên chiến khu cách mạng.

    2.7. Mùa thu:             Rừng thu trăng rọi hòa bình

                                    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

         Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Nếu như bức tranh mùa hè được đánh giá là gợi cảm nhất thì bức tranh mùa thu lại thơ mộng và được miêu tả bằng cách thức khác biệt nhất. Bức tranh cảnh vật không được miêu tả vào ban ngày mà được miêu tả vào ban đêm, không được miêu tả qua màu sắc mà gắn với vẻ đẹp của ánh trăng, con người không xuất hiện qua công việc lao động mà xuất hiện qua tiếng hát.       

    – Vẻ đẹp của thiên nhiên: Ấn tượng đẹp nhất về mùa thu Việt Bắc là những đêm trăng. Ánh trăng sáng trong, mát dịu chiếu rọi khắp núi rừng gợi một không gian huyền ảo, thơ mộng, thanh bình. Ánh trăng Việt Bắc ấy cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ được sáng tác trên chiến khu cách mạng:                             

    Trăng vào cửa sổ đòi thơ

    Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

         – Hình ảnh con người: Đại từ phiếm chỉ “ai” thể hiện cách nói bóng gió, lấp lửng của ca dao, dân ca và ở đây chỉ người Việt Bắc. Trong không gian mờ ảo, thơ mộng, thanh bình của đêm trăng vang lên tiếng hát của người Việt Bắc. Tiếng hát về tình cảm ân nghĩa, thủy chung hòa quyện vào bức tranh cảnh vật không chỉ làm cho bức tranh mùa thu thêm gợi cảm mà còn thể hiện phẩm chất ân tình, thủy chung của người Việt Bắc nói riêng, của người Việt Nam nói chung.

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

         Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện thấm thía… Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu đậm nhất. Trong đó người và cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và con người được đặt trong khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên nhiên Việt Bắc, cho rằng đó là vùng rừng núi xa xôi, heo hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng, đáng yêu biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tươi đẹp.

    Đoạn thơ “Nhớ khi giặc đến… đèo De núi Hồng”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    Nhớ khi giặc đến giặc lùng
    Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
    Núi giăng thành luỹ sắt dày
    Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
    Mênh mông bốn mặt sương mù
    Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

    Ai về ai có nhớ không?
    Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
    Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
    Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
    Những đường Việt Bắc của ta
    Đêm đêm rầm rập như là đất rung
    Quân đi điệp điệp trùng trùng
    Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
    Tin vui chiến thắng trăm miền
    Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
    Vui từ Đồng Tháp, An Khê
    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.112,113)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ: Khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc

    2.1. Giới thiệu đoạn thơ

         – Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ “đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ”, với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết “Việt Bắc”, Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Trong đó đoạn thơ này là lời người ra đi thể hiện nỗi nhớ về những ngày tháng hào hùng trên chiến khu Việt Bắc.

         – Nếu như các đoạn thơ trước của bài thơ đã thể hiện nghĩa tình trong kháng chiến giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trong suốt 15 thì đoạn thơ này lời người đi đã làm sống lại khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc từ những ngày đầu gian khổ đến khi chiến thắng về ta.

         – Đoạn thơ thể hiện cảm hứng sử thi đậm nét khi tái hiện khí thế dũng mãnh, cảnh tượng hào hùng, sôi nổi của quân và dân ta trong chiến đấu. Từ đó ca ngợi chiến thắng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. “Việt Bắc” vì thế không chỉ là bản tình ca mà còn trở thành bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.

    2.2. Mười câu thơ:                 Nhớ khi giặc đến giặc lùng

                                            … Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

    Khí thế chiến đấu và những trận đánh, chiến thắng bước đầu

         – Những ngày kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc là những ngày tháng đầy gian khổ. Những ngày đầu ấy quân và dân ta không chỉ phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt là mưa nguồn, suối lũ, mây mù, với điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng thiếu thốn chỉ có miếng cơm chấm muối, chia sẻ với nhau từng củ sắn, bát cơm, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui… mà còn có cả những ngày giặc đến giặc lùng. “Giặc đến” là thời điểm nguy kịch, “giặc lùng” là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Cảnh giặc đến gây bao tang thương đã được nhà thơ Hoàng Cầm khắc họa:                                    Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

                                                         Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

                                                         Ruộng ta khô Nhà ta cháy

                                               Chó ngộ một đàn

                                                Lưỡi dài lê sắc máu

                                                    Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

         Hiện thực của những ngày đầu ta yếu, địch mạnh ấy cũng giống như khi Lê Lợi mới gây dựng khởi nghĩa Lam Sơn được Nguyễn Trãi viết trong “Bình Ngô đại cáo”:

                                                             Ta đây!

                                                              Núi Lam Sơn dấy nghĩa

                                                              Chốn hoang dã nương mình.

         Nghệ thuật chiến tranh du kích là phải dựa vào là phải dựa vào địa hình hiểm trở, rừng núi để đánh giặc. Bởi vậy mà núi đá, rừng cây cũng tham gia đánh giặc. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành những chiến sĩ thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.

             + Núi đá tham gia đánh giặc:Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực.

             + Rừng cây cũng tham gia đánh giặc: Rừng cây vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Rừng núi vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu và trở thành đồng đội với quân và dân ta trong cuộc chiến. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường.

             + Bốn mặt sương mù: Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù.

             + “Cả chiến khu một lòng”: Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ này đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng.

             Qua những câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Ngay từ những ngày đầu vất vả, gian khổ nhất khí thế chiến đấu của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc đã cao ngất trời, không khác gì khí thế của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông:

                                        Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

                                        Ba quân tì hổ khí thôn ngưu

                   (Múa giáo non sông trải mấy thâu – Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

        – Câu thơ “Ai về ai có nhớ không?”: Đại từ “ai” lặp lại 2 lần, tuy phiếm chỉ nhưng kết hợp thành “ai về” rõ ràng là chỉ người đi. Cả câu thơ là một câu hỏi. Câu hỏi ấy cũng không phải để được trả lời mà là một câu hỏi tu từ để cho thấy người ra đi đang tự nhìn vào lòng mình và sử dụng câu hỏi như một cây cầu nối để dẫn dắt vào nỗi nhớ về những trận đánh, chiến thắng.

             – Với quyết tâm đánh giặc, cả chiến khu từ thiên nhiên đến con người đều một lòng chiến đấu nên ta đã có những trận đánh, những chiến thắng bước đầu. Điệp từ “nhớ” được lặp lại 4 lần trong 4 câu thơ khẳng định sâu sắc nỗi nhớ niềm thương của người cán bộ về xuôi. Cũng trong 4 câu thơ, nhà thơ còn sử dụng nhiều tên địa danh. Nhưng đó không phải những địa danh đơn thuần mà là những địa danh diễn ra những trận đánh, những chiến thắng của quân và dân ta. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ “Tây Tiến” cũng nhắc đến rất nhiều tên địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông, Mường Hịch…

                                        Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

                                        Mường Lát hoa về trong đêm hơi

             Những tên địa danh ấy gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ về một thời Tây Tiến. Nhưng ở đây, các địa danh trong thơ Tố Hữu không chỉ gợi niềm thương, nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào chiến thắng. Đoạn thơ là lời khẳng định đầy tự hào rằng ta vẫn có thể chiến đấu và chiến thắng trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ nhất.

    2.3. Hai câu thơ:           

    Những đường Việt Bắc của ta

                                                          Đêm đêm rầm rập như là đất rung

    Nét tả khái quát: Những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc

         – Nếu như đoạn thơ 10 câu trên là những ngày đầu khó khăn, gian khổ mới chỉ có những trận đánh, chiến thắng bước đầu thì đoạn thơ tiếp theo đã tái hiện khí thế chiến đấu, chiến thắng ngút trời của quân và dân ta. Đoạn thơ được kết cấu theo cấu trúc mà trong đó nét tả khái quát là miêu tả những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc làm hiện lên khí thế ra trận của quân và dân ta. Sau đó là miêu tả cụ thể những đoàn quân, đoàn dân công và những đoàn xe cơ giới ra chiến trường trên những nẻo đường Việt Bắc. Và cuối cùng là nêu các tên địa danh là những chiến thắng trên khắp mọi miền tổ quốc, khẳng định chiến thắng về ta.

         – Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy được thể hiện trước hết qua nét tả khái quát về những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, hùng tráng là trên khắp các ngả đường Việt Bắc. Thời gian được thể hiện qua từ láy “đêm đêm” không chỉ thể hiện quãng thời gian lặp đi lặp lại là hàng đêm mà còn xác nhận một hiện thực thời đó là quân ta chủ yếu hoạt động và kiểm soát về đêm. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến trường đủ cả về nhân lực và vật lực thì quân và dân ta phải hoạt động cả trong đêm. Hiện thực ấy được nhắc tới trong rất nhiều thi phẩm ra đời  cùng thời như:

                                              Những đêm dài hành quân nung nấu

                                              Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

                                                                   (“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi),

                                              Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống

                                              Bộ đội bên sông đã trở về”

                                                                    (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm)

         – Khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta được thể hiện rõ qua từ láy “rầm rập” và biện pháp nghệ thuật so sánh “như là đất rung”:

         + Từ láy “rầm rập”: cho thấy sự chuyển động của những bước chân trên con đường ra mặt trận và hơn nữa cho thấy sức mạnh, nhịp độ khẩn trương của quân ta.

         + Nghệ thuật so sánh có phần cường điệu “như là đất rung” càng nhấn mạnh khí thế chiến đấu, sức mạnh quân và dân ta, là sức mạnh nhân nghĩa của mấy ngàn năm lịch sử. Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy tưởng chừng có thể làm rung chuyển trời đất, lay động cả càn khôn. Mặt đất tưởng chừng rung chuyển dưới bước chân của những người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất trong cuộc ra quân vĩ đại.

         + Từ “của ta” một lần nữa khẳng định tâm thế làm chủ. Đó là tâm thế của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tâm thế ấy còn được Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”:

                                                           Của ta trời đất đêm này

                                                       Sông kia, đồi nọ, núi này của ta

    Cũng là tâm thế được thể hiện trong thơ Nguyễn Đình Thi về thời ấy:

                                                    Trời xanh đây là của chúng ta

                                                  Núi rừng đây là của chúng ta

                                                            Những cánh đồng thơm mát

                                                             Những ngả đường bát ngát

                                                             Những dòng sông đỏ nặng phù sa

         Nhìn chung, hai câu thơ thể hiện rõ niềm tự hào làm chủ và khí thế chiến đấu chiến thắng cao ngất trời của những con người chưa ra trận mà như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Truyền thống yêu nước đã kết tinh thành sức mạnh, thành khí thế hào hùng của cả dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi miêu tả:

                                                            Đánh một trận sạch không kình ngạc

                                                            Đánh hai trận tan tác chim muông

                                                            Nổi gió to quét sạch lá khô

                                                            Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ

    2.4. Hai câu thơ:            Quân đi điệp điệp trùng trùng

                                         Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

    Hình ảnh đoàn quân ra trận

             – Hình ảnh đoàn quân được miêu tả trong sự trưởng thành, lớn mạnh, đội ngũ đông đảo, hùng hậu. Nghệ thuật trùng điệp với hai từ láy “điệp điệp” và “trùng trùng” đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh đoàn quân với sức mạnh vô song, tầng tầng, lớp lớp như sóng cuộn. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

         – Câu thơ thứ hai “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đầy sáng tạo, được ngắt theo nhịp 4/4 càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính – một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mộng ảo, gợi lên những ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Câu thơ trước hết tả thực hình ảnh những người lính trong cuộc hành quân đêm, súng khoác trên vai, ánh sao chênh chếch trên đầu mũi súng. Nhưng câu thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn gợi nhiều liên tưởng. Trong đó, ánh sao là biểu tượng cho lí tưởng của người chiến sĩ, là ánh sáng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Những người lính chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho đất nước. Cụm từ “ánh sao đầu súng” đã nâng tầm vóc những người lính khiến họ vươn tới tận sao trời. Từ “bạn cùng” đã nhấn mạnh sự hài hòa giữa vẻ đẹp và lí tưởng ngời sáng của người chiến sĩ với cái bình dị, đời thường của người lính được gợi ra từ hình ảnh “mũ nan”. Chiếc mũ nan ấy có thể được đan bởi những người dân Việt Bắc, họ gửi vào chiếc mũ bao nhiêu tin yêu cho chiến trường:

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

             Như thế, hình ảnh “Ánh sao đầu súng” ở đây cũng có nét giống với hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Ánh sao đầu súng ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài “Núi đôi” đã viết:

                                              Anh đi bộ đội sao trên mũ

                                          Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

    2.5. Hai câu thơ:                Dân công đỏ đuốc từng đoàn

                                              Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.          
    Hình ảnh đoàn dân công

             – Trên các nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn dân công bền bỉ tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính. Cụm từ “từng đoàn” thể hiện đội ngũ rất đông đảo, hùng hậu. Điều đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là cuộc chiến tranh nhân dân mà cả nước đều dốc lòng, dốc sức cho tiền tuyến lớn.

         – Hình ảnh đoàn dân công đi trong đêm cũng là hình ảnh rất thực ở thời ấy. Họ đi dưới ánh sáng của những ngọn đuốc và từ những ngọn đuốc bay ra muôn tàn lửa tạo nên một hình ảnh rất đẹp, đậm chất lãng mạn, thậm chí có thể liên tưởng muôn tàn lửa bay ra từ những bó đuốc ấy như đã tạo ra một đêm hội hoa đăng. Nghệ thuật cường điệu “dấu chân nát đá” đã tạo nên hình ảnh thơ đầy chất thần thoại. Bước chân đoàn dân công như bước chân của những con người đội đá, vá trời, làm rung chuyển vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng nhấn mạnh sức mạnh và ý chí của đoàn dân công sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Bởi thế nên mới có những câu thơ, lời hát:

                                                      Bác thương đoàn dân công

                                                      Đêm nay ngủ ngoài rừng

                                                      Rải lá cây làm chiếu

                                                      Manh áo phủ làm chăn

    2.6. Hai câu thơ:            Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

                                           Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

     Đoàn xe cơ giới ra chiến trường

         – Trên những con đường Việt Bắc không chỉ có đoàn quân, đoàn dân công mà còn có những đoàn xe cơ giới chở lương thực, đạn dược, chở bộ đội ra chiến trường. Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh thơ ở đây vừa có nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu trưng:

         + Nghĩa thực: Những đoàn xe đi trong đêm giữa bóng tối nghìn đêm thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc với đèn pha bật sáng xua tan bóng tối sương dày để soi rõ con đường ra tiền tuyến cho đến ngày mới sẽ có hừng đông ló rạng.

         + Nghĩa biểu trưng: Cụm từ thời gian “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” như gợi lại cả một thời kì dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Đồng thời là muôn vàn những gian khổ, hi sinh, thử thách, khó khăn trên con đường cách mạng, kháng chiến. Cụm từ“ngày mai lên” chỉ một tương lai tươi sáng. Con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc là con đường đầy khó khăn gian khổ, hi sinh nhưng cũng chính là con đường đi tới ngày mai tươi sáng.

         – Nghệ thuật tương phản, đối lập càng bộc lộ rõ cảm hứng lãng mạn, thể hiện khát vọng và niềm tin cháy bỏng của nhân dân ta vào một ngày mai tất thắng. vẻ đẹp của đoàn xe cơ giới ra chiến trường và niềm tin chiến thắng ấy còn được thể hiện trong một bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

                                                 Không có kính, rồi xe không có đèn,

                                                 Không có mui xe, thùng xe có xước,

                                                 Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

                                                 Chỉ cần trong xe có một trái tim.

    2.7. Bốn câu thơ:             Tin vui chiến thắng trăm miềm

                                       Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

                                               Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

                                       Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

    Tin vui chiến thắng

         Với khí thế chiến đấu và chiến thắng mạnh mẽ, với sức mạnh, ý chí to lớn nên cuối cùng ta đã chiến thắng. Tin vui thắng từ khắp các mặt trận dồn dập ùa về. Gọi tên các địa danh để nói đến chiến thắng trở thành một nét riêng của thơ Tố Hữu. Nghệ thuật liệt kê, trong đó mỗi địa danh được liệt kê ra là một chiến thắng. Vì vậy, gọi tên địa danh là thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào chiến thắng. (Mở rộng về cách sử dụng địa danh trong thơ: Xem ở trên)

         – Với các địa danh được liệt kê ở khắp mọi miền đất nước cùng với cách sử dụng ngôn ngữ như “trăm miền”, cấu trúc “…vui về…vui từ…vui lên…” càng thể hiện rõ hơn chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Chiến thăng liên tiếp báo về Việt Bắc cũng được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Báo tiệp”:

    Trăng vào cửa sổ đòi thơ,

    Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

    Chuông lầu chợt tỉnh giác thu

    Ấy tin thắng trận liên khu báo về

    3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

         Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, đáng chú ý trong bài thơ là âm hưởng rất hùng tráng khi miêu tả cuộc ra quân vĩ đại của dân tộc. Có thể nói “Việt Bắc” là thơ trữ tình chính trị và đoạn thơ này mang đầy cảm hứng anh hùng ca, đậm màu sắc sử thi lãng mạn. Đoạn thơ là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh, là bản tổng kết bằng thơ về mười lăm năm chống Pháp nhưng vẫn nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ Việt Bắc, ân tình ân nghĩa của người cán bộ cách mạng miền xuôi với Việt Bắc và nhân dân việt Bắc.

    Đoạn thơ “Ai về ai có… cây đa Tân Trào”

    Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:

    Ai về ai có nhớ không?
    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
    Nắng trưa rực rỡ sao vàng
    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
    Điều quân chiến dịch thu đông
    Nông thôn phát động, giao thông mở đường
    Giữ đê, phòng hạn, thu lương
    Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

    Ở đâu u ám quân thù
    Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
    Ở đâu đau đớn giống nòi
    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
    Mười lăm năm ấy, ai quên
    Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
    Mình về mình lại nhớ ta
    Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

                        (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)

    I. MỞ BÀI

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

    – Giới thiệu yêu cầu của đề bài:

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    1.1.  Hoàn cảnh sáng tác

         – Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954.  Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.

    1.2. Kết cấu bài thơ:

         – Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

    1.3. Đề tài:

             – Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến “Việt Bắc” của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc.

    – Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:

                      “Người lên ngựa, kẻ chia bào

                       Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

                                                                 (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

                     “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy

                       Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                       Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                       Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

                                                                 (Chinh phụ ngâm)

    Nhưng trong “Việt Bắc” Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

    2. Phân tích đoạn thơ:Việt Bắc là quê hương của cách mạng

    2.1. Giới thiệu về đoạn thơ

         Đoạn thơ này tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin,hi vọng của cả dân tộc.

    2.2.  Hình ảnh Trung ương chính phủ ở Việt Bắc

         – Câu thơAi về ai có nhớ không?”:Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng như nốt luyến láy đầy vấn vương. “Ai” vừa là người đi cũng vừa là nhân dân Việt Bắc nên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết của cả người đi và kẻ ở khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió ngàn.

         – Khung cảnh Việt Bắc:Khi quyết định rời thủ đô Hà Nội, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan đầu não của TƯ của đảng và chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu Việt Bắc nên mới có khung cảnh:

    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
    Nắng trưa rực rỡ sao vàng
    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

         + Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng được lấy làm quốc kì của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng gió, phải chăng đó là hang PắcPó, nơi lãnh tụ HCM  kính yêu của chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc.

         + Ánh nắng trưa rực rỡ: Khung cảnh Việt Bắc nơi chiến khu hiện lên rực sáng bởi sự xuất hiện ánh nắng chói chang của mặt trời. Hãy nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ Tố Hữu muốn nói thật giản dị nơi nào có Đảng, có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời, có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lí mà chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi.

                                        Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

                                        Mặt trời chân lí chói qua tim

         Khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm phông nền tươi sáng cho “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công”. Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mĩ hơn ánh sáng lí tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự do đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả vì ngày mai chiến thắng.

         – Từ Việt Bắc phát động ra mọi phong trào thi đua, yêu nước trong cả nước:

         + Trên tiền tuyến: Ðiều quân cho chiến dịch thu đông.

         + Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho chiến trường với các phong trào: phát động phong trào ở nông thôn như phong trào ba tốt, ba đảm đang, chị hai năm tấn, phong trào mở đường giao thông, giỡ đê, phòng hạn, thu mua lương thực, mở trường ở các khu…

    2.3. Vai trò của Bác Hồ:      Ở đâu u ám quân thù

                                         Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

         Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc. Bác chính là người soi đường dẫn lối cho kháng chiến. Bóng tối và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó không chỉ đơn thuần là ánh sáng của vị lãnh tụ mà còn là linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả dân tộc.

    2.4. Vai trò của chiến khu cách mạng

    Ở đâu đau đớn giống nòi

    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

         – Khi giống nòi dân tộc đang quằn quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim thì Việt Bắc chính là nơi hội tụ cội nguồn sức mạnh, là nơi đặt niềm tin và hi vọng của đồng bào cả nước. Cả nước hướng về Việt Bắc để nuôi ý chí chiến đấu quyết giành lại độc lập tự do cho đất nước.                                              Mười lăm năm ấy ai quên

                                               Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

         – Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai trong đầy ắp ân tình và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề son sắt “Mười lăm năm ấy ai quên”. Hơn nữa, hai câu thơ còn là một khái quát về ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng, đó là lẽ sống, lẽ làm người chân chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu nước – sẽ mãi còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã khiến Việt Bắc trở thành quê hương, thành cái nôi của cách mạng, trở thành cội nguồn chiến thắng.

    2.5. Hai câu thơ cuối:    Mình về mình lại nhớ ta

                                         Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

    – Khúc hoàn ca:

         – Hai câu thơ là tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại cất lên như lời thủy lời chung. Mình và ta lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu trả lời của người ra đi cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” của người ở lại. Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

         – Một lần nữa những địa danh thiêng liêng như Tân Trào, Hồng Thái được nhắc lại tạo thành kết cấu vòng tròn để thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi kẻ ở rằng tình cảm với 15 năm trên chiến khu Việt Bắc mãi vẹn nguyên như thuở ban đầu.

    Cách kết luận bài thơ Việt Bắc

    Thơ ca nói riêng cũng như văn chương nói chung phải bắt rễ từ cuộc đời để rồi “nở hoa nơi từ ngữ”. Mỗi tác phẩm văn chương được ví như tấm gương phản chiếu thời đại nó ra đời . Ý thức được về điều đó nên bàn về tình yêu Tổ quốc nhà thơ Tố Hữu đã từng thổ lộ  rằng: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu”. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến thắng vẻ vang của dân tộc. từ đó thể hiện tình yêu quê hương, đất nước đã trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trở thành bài ca đi cùng năm tháng. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc.