dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa chuyển  mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo

SKKN Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa chuyển  mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới tại trường THPT

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
1. “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo
dục – 2005). Việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại
khóa (HĐ GDNGLL, HĐNK) chuyển mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng
tạo (HĐ TNST) tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông (CT GDPT) mới là rất cần
thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo con người mới với đầy đủ
các mặt đức, trí, thể, mĩ để học sinh (HS) được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu
cầu mới của xã hội.
2. Việc tổ chức các HĐ GDNGLL – HĐNK chuyển mạnh sáng hướng HĐ TNST
tiếp cận CT GDPT mới còn xuất phát từ yêu cầu của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT
Nam Định, của trường THPT Ngô Quyền
Công văn số 3892/BGDĐT-GDTrH ngày 28/8/2019 Về việc hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ giáo dục trong năm học 2019-2020 nêu rõ: “Việc tổ chức các hoạt động tập
thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa chuyển mạnh sang
hướng hoạt động trải nghiệm; tăng cường tổ chức và quản lí các hoạt động giáo dục
kỹ năng sống; kỹ năng khởi nghiệp, tư duy thiết kế, tư duy quản lý tài chính cho học
sinh; khuyến khích học sinh tham gia các câu lạc bộ sở thích. Chỉ đạo việc tăng cường
công tác giáo dục kỹ năng sống, xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn
2018-2025 theo Quyết định số 1299/QĐ-TTg ngày 03/10/2018 của Thủ tướng Chính
phủ. Khuyến khích tổ chức, thu hút học sinh tham gia các hoạt động góp phần phát
triển năng lực học sinh như: Văn hóa – văn nghệ, thể dục – thể thao;… trên cơ sở tự
nguyện của nhà trường, cha mẹ học sinh và học sinh, phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý và nội dung học tập của học sinh trung học, phát huy sự chủ động và sáng tạo của
các địa phương, đơn vị; tăng cường tính giao lưu, hợp tác nhằm thúc đẩy học sinh
hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng sống, bổ sung hiểu biết về các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới. Không giao chỉ tiêu, không lấy
thành tích của các hoạt động giao lưu nói trên làm tiêu chí để xét thi đua đối với các
đơn vị có học sinh tham gia”.
Nội dung này này tiếp tục được Sở giáo dục và đào tạo Nam Định chỉ đạo thực
hiện trong Hướng dẫn tổ chức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp – Trải nghiệm
sáng tạo (Kèm theo công văn số 1106/SGDĐT – GDTrH ngày 06/9/2019 của Sở
2
GDĐT về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong năm học 2019-2020): “Việc tổ
chức các hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại
khóa chuyển mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo; tăng cường tổ chức và
quản lý các hoạt động giáo dục kỹ năng sống theo Thông tư số 04/2014/TT-BDĐT
ngày 28/02/2014 của Bộ GDĐT. Căn cứ vào khung phân phối chương trình, tùy điều
kiện cụ thể của địa phương và nhà trường, các đơn vị lựa chọn mỗi tháng thực hiện từ
1 đến 2 hoạt động, miễn là đảm bảo các chủ đề hoạt động. Thời lượng trong năm học:
18 tiết, trong hè: 6 tiết”. “Chương trình hoạt động trải nghiệm tập trung cao hơn vào
nội dung hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Thông qua các chủ đề sinh hoạt tập thể,
hoạt động lao động sản xuất, câu lạc bộ hướng nghiệp và các hoạt động định hướng
nghề nghiệp khác, các học sinh được đánh giá và tự đánh giá về năng, sở, hứng thú
liên quan đến nghề nghiệp; có thể tự chọn cho mình ngành nghề phù hợp; được rèn
luyện phẩm chất và năng lực để thích ứng với nghề nghiệp tương lai”; “Các đơn vị có
thể tham khảo và lồng ghép một số nội dung trong chương trình GDPT mới dưới đây
vào kế hoạch TNST của nhà trường, đảm bảo phù hợp với chủ đề hoạt động”, cụ thể:
+ Hoạt động hướng vào bản thân: Hoạt động khám phá bản thân (tìm hiểu hình ảnh
về tính cách bản thân, tìm hiểu khả năng của bản thân); Hoạt động rèn luyện bản thân
(rèn luyện nề nếp, thói quen tự phục vụ và ý thức trách nhiệm trong cuộc sống, rèn
luyện các kỹ năng thích ứng với cuộc sống).
+ Hoạt động hướng đến xã hội: Hoạt động chăm sóc gia đình (Quan tâm, chăm sóc
người thân và các quan hệ trong gia đình, tham gia các công việc của gia đình); hoạt
động xây dựng nhà trường (xây dựng và phát triển quan hệ với bạn bè và thầy cô, cô
tham gia xây dựng và phát huy truyền thống của nhà trường và của tổ chức Đoàn,
đội); Hoạt động xây dựng cộng đồng (xây dựng và phát triển quan hệ với mọi người,
tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động giáo dục truyền thống, giáo dục chính trị,
đạo đức, pháp luật).
+ Hoạt động hướng đến tự nhiên: Hoạt động tìm hiểu về bảo tồn cảnh quan thiên
nhiên (Khám phá vẻ đẹp, ý nghĩa của cảnh quan thiên nhiên, tham gia bảo tồn cảnh
quan thiên nhiên); hoạt động tìm hiểu và bảo vệ môi trường (tham gia bảo vệ môi
trường).
+ Hoạt động hướng nghiệp: Hoạt động tìm hiểu nghề nghiệp (tìm hiểu ý nghĩa, ba
đặc điểm và yêu cầu của nghề nghiệp, tìm hiểu yêu cầu về an toàn và sức khỏe nghề
nghiệp, tìm hiểu thị trường lao động); Hoạt động rèn luyện phẩm chất, năng lực phù
hợp với định hướng nghề nghiệp (tự đánh giá sự phù hợp của bản thân với định hướng
nghề nghiệp, rèn luyện phẩm chất và năng lực phù hợp với định hướng nghề nghiệp);
Hoạt động lựa chọn hướng nghề nghiệp và lập kế hoạch học tập theo định hướng nghề
3
nghiệp (tìm hiểu hệ thống trường trung cấp, cao đẳng, đại học và các cơ sở Giáo dục
nghề nghiệp khác của địa phương, trung ương; tham vấn ý kiến của thầy cô, người
thân và chuyên gia về định hướng nghề nghiệp; Lựa chọn cơ sở đào tạo trong tương
lai và lập kế hoạch học tập phù hợp với định hướng nghề nghiệp)
3. Việc tổ chức các HĐ GDNGLL – HĐNK chuyển mạnh sáng hướng HĐTNST
tiếp cận CT GDPT mới còn xuất phát từ chính người học và vì người học
Thông qua HĐ TNST, HS huy động tổng hợp kiến thức kỹ năng của các môn học
và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn gia đình, nhà trường, xã hội;
tham gia các hoạt động phục vụ cộng đồng và hoạt động hướng nghiệp, dưới sự hướng
dẫn, tổ chức của giáo viên (GV), từ đó hình thành những phẩm chất chủ yếu (yêu
nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm) và năng lực chung (năng lực tự chủ
và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo)
Tổ chức các HĐ TNST cho HS giúp giáo dục kĩ năng sống (KNS), trang bị cho HS
những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế để trải nghiệm trong đời sống; giáo dục cho
HS cách ứng phó với những thử thách như: tai nạn, điện giật, bị ngộ độc, động vật cắn,
bị xâm hại tình dục, phòng, chống các tệ nạn xã hội… và mục đích quan trọng nhất,
lâu dài đó là hình thành nhân cách cho học sinh, trong đó quan trọng nhất là giáo dục
tình thân ái và các ứng xử văn hóa.
4. Báo cáo sáng kiến “Đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa chuyển mạnh sang hướng hoạt động trải
nghiệm sáng tạo tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới tại trường THPT
Ngô Quyền, TP Nam Định” còn được chúng tôi lựa chọn còn xuất phát từ chính lòng
yêu nghề và sự say mê với hoạt động trải nghiệm. Thực hiện đề tài này chúng tôi thực
sự mong muốn được trao đổi với đồng nghiệp để được học hỏi và trau dồi về chuyên
môn, về công tác tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa, hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp.
II. Mô tả giải pháp:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1.Thực trạng nhận thức của giáo viên và học sinh về hoạt động trải nghiệm sáng
tạo (Xem Phiếu phỏng vấn số 01 – Phụ lục)
Qua kết quả khảo sát chúng tôi nhận thấy:
100% CBQL, GV và HS đánh giá đúng các hoạt động được coi là hoạt động
trải nghiệm trong chương trình hiện hành; nhận thức đúng về mục tiêu, vai trò của
HĐTNST; nhận thức được 3 yếu tố cơ bản cấu thành nên người thầy sáng tạo. Điều
này chứng tỏ 100% CBQL, GV và HS cho rằng HĐTNST là hoạt động không thể
thiếu được trong nhà trường THPT; CBQL triển khai và thực hiện khá đầy đủ tinh thần
4
chỉ đạo của Sở GD&ĐT về tổ chức các HĐTNST trong trường học; công tác kiểm tra
đánh giá có sự chỉ đạo thống nhất từ Ban giám hiệu tới các tổ nhóm chuyên môn và
toàn thể giáo viên trong nhà trường.
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận GV, HS nhận thức chưa đầy đủ về 4 nhóm nội
dung HĐTNST cùng sự tập trung vào nhóm nội dung nào nhiều hơn theo từng cấp
học. Một bộ phận GV, HS nhận thức chưa đầy đủ về những lực lượng tham gia tổ chức
HĐTNST, những thiết bị cơ bản để thực hiện chương trình HĐTNST. Vẫn còn một số
GV chưa nhận thức đúng đắn về mức độ ảnh hưởng của HĐTNST đối với sự hình
thành, phát triển các phẩm chất và năng lực của HS. Một số GV chỉ chú tâm vào việc
truyền thụ các tri thức khoa học và bỏ qua hoàn toàn việc tổ chức HĐTNST. Một số
khác ngại khó nên không đầu tư tổ chức HĐTNST theo đúng kế hoạch mà chỉ thực
hiện đối phó khi BGH kiểm tra.
1.2 Thực trạng những hình thức tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động
ngoại khóa tại trường THPT Ngô Quyền, TP Nam Định
Để tìm hiểu thực trạng những hình thức tổ chức các HĐGDNGLL, HĐNK được tổ
chức trong trường THPT Ngô Quyền, TP Nam Định, tỉnh Nam Định; chúng tôi đã đặt
câu hỏi yêu cầu đối tượng được khảo sát đánh dấu vào phương án lựa chọn (Xem
Phiếu phỏng vấn số 02 – Phụ lục)
Qua kết quả khảo sát chúng tôi nhận thấy: Những hoạt động có tính khám phá
như những chuyến đi thực địa, tham quan, dã ngoại,… được tổ chức rất thường xuyên;
Những hình thức nhóm mang tính cống hiến (gồm các hoạt động tình nguyện, nhân
đạo, vì cộng đồng,…) được tổ chức thường xuyên; nhưng thỉnh thoảng mới tổ chức
những hoạt động mang tính thể nghiệm, giúp học sinh được trải nghiệm và thể nghiệm
mình qua các hoạt động giao lưu, đóng kịch, sân khấu hóa,… và rất ít ỏi tổ chức những
hoạt động có tính nghiên cứu và phân hóa, như những dự án, hoạt động nghiên cứu
khoa học; chưa bao giờ tổ chức các hoạt động câu lạc bộ có tính định hướng có tính
phân hóa. Điều đó cũng có nghĩa là hình thức và nội dung hoạt động chưa phong phú,
hấp dẫn nên hiệu quả chưa cao và chưa thu hút được sự tham gia của HS.
1.3. Thực trạng của việc tổ chức những loại hình hoạt động trải nghiệm sáng tạo tại
trường THPT Ngô Quyền, TP Nam Định
Để tìm hiểu thực trạng của việc tổ chức những loại hình HĐTNST trong nhà
trường chúng tôi đã đặt câu hỏi yêu cầu đối tượng được khảo sát trình bày ý kiến nhận
xét đánh giá của cá nhân (Xem Phiếu phỏng vấn số 03 – Phụ lục)
Kết quả thu được như sau:
Những loại hình HĐTN rất thường xuyên và thường xuyên tiến hành đó là sinh
hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục theo chủ đề. Loại hình HĐTN chưa sử
5
dụng đó là Hoạt động những câu lạc bộ.
Các hoạt động lớn như tổ chức văn nghệ, thể thao, đi tham quan, dã ngoại thì đều
có tổ chức nhưng chưa thực sự hoành tráng vì nó liên quan đến kinh phí và quản lý
HS. Việc sử dụng kinh phí, CSVC và phương tiện giảng dạy còn nhiều thiếu thốn;
kinh phí dành cho HĐ TNST rất ít ỏi.
Các phương pháp tổ chức HĐ TNST còn rất đơn điệu, nghèo nàn, mới chỉ tập
trung vào một số phương pháp: thảo luận nhóm, thực hành luyện tập, trò chơi…. – đây
là những phương pháp chủ yếu thực hiện bên trong khuôn viên nhà trường và ngay
trong các giờ học. Tuy nhiên, những phương pháp này nếu không được tổ chức linh
hoạt mà lặp đi lặp lại dễ gây nhàm chán, không thu hút được sự tham gia nhiệt tình của
học sinh, các em không còn hứng thú và mất đi sự sáng tạo cũng như vai trò chủ thể
của mình trong mỗi hoạt động.
Tiến hành khảo sát ý kiến của HS chúng tôi nhận thấy lí do phần lớn HS không
tham gia các hình thức giải quyết tình huống; dự án; giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn
là do nhà trường rất ít tổ chức những hình thức hoạt động này. Một số HS còn e ngại,
hướng trọng tâm vào việc học các bộ môn văn hóa. Một số em không nhận được sự
đồng ý của gia đình nên không dám tham gia.
Khảo sát sâu hơn về thực trạng của việc tổ chức các tiết sinh hoạt dưới cờ và
sinh hoạt lớp (Xem Phiếu phỏng vấn số 04 – Phụ lục) chúng tôi nhận thấy các giờ
sinh hoạt dưới cờ (SHDC) và sinh hoạt lớp (SHL) chủ yếu thầy cô dành thời gian để
giáo dục HS vi phạm, nhắc nhở chung chung những lớp/cá nhân chưa hoàn thành các
nhiệm vụ được giao, thông báo kế hoạch của nhà trường một cách khô khan; thời gian
dành cho HS thực hiện các nội dung trải nghiệm, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao,…chưa nhiều; vì thế chưa tạo ra sân chơi bổ ích cho HS, thiếu sự đối
thoại giữa HS và nhà trường, HS chủ yếu là tiếp nhận thông tin một cách thụ động,
việc hình thành và phát triển các năng lực, phẩm chất cho HS theo Thông tư số
22/2016/TT-BGDĐT là rất hạn chế. Do đó, giờ SHDC và SHL trở thành một tiết học
nặng nề, nhàm chán, ít hứng thú đối với HS.
Đánh giá chung về thực trạng
Về cơ bản, HĐTN đã được áp dụng thực hiện ở cấp Trung học phổ thông nói
chung, trường THPT Ngô Quyền, TP Nam Định nói riêng trong thời gian gần đây
nhưng chủ yếu là thông qua các môn học, gắn liền với từng môn học, là một phần của
giáo dục môn học. (Minh chứng là từ năm học 2018-2019, trong công tác chỉ đạo,
BGH nhà trường yêu cầu rõ, mỗi năm, từng tổ chuyên môn ít nhất phải thực hiện một
chuyên đề về HĐ TNST ở mỗi khối; vì thế, các hoạt động trải nghiệm đang được triển
khai thiên về đặc trưng của từng môn học nhiều hơn).
6
Việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức cho GV, HS chưa được
đầu tư; do đó kỹ năng tổ chức của GV bị hạn chế, HS ở trạng thái bị động, không có
cơ hội tự mình thiết kế, điều khiển hoạt động theo ý tưởng của cá nhân.
Sự phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường rất thấp; nhà trường
chưa phát huy được sức mạnh của PHHS, chưa mở rộng phạm vi hoạt động và giao
lưu với các lực lượng bên ngoài nhà trường.
Việc tổ chức các HĐ TNST chưa có chiều sâu đặc biệt là việc lồng ghép giáo dục
kĩ năng sống (KNS) thông qua HĐTN chưa đạt được hiệu quả mong muốn; kỹ năng
thực hành của một bộ phận HS trong các hoạt động thường ngày chưa tốt; một số GV
và một bộ phận HS còn lơ là, xem nhẹ vai trò của nội dung giáo dục này dẫn đến chưa
nhiệt tình, năng nổ trong việc phối hợp thực hiện; sự phối kết hợp của một số bậc
PHHS trong việc tổ chức các HĐ TNST, giáo dục KNS cho con em tại gia đình chưa
được quan tâm đúng mức ….vì thế cần phải tiếp tục tăng cường công tác giáo dục, chỉ
đạo để phát huy những mặt đã làm được và khắc phục những hạn chế trên.
* Nguyên nhân của hạn chế
– Nguyên nhân chủ quan
HĐGDNGLL, HĐNK có những thời điểm tổ chức thực hiện không thường
xuyên vì phải tập trung cho nhiệm vụ giảng dạy chuyên môn của GV. Nhận thức của
một số GV, HS, PHHS về vai trò của HĐTN chưa cao; một số GV và HS còn bị áp lực
về thi cử và chất lượng của các bộ môn văn hóa nên chưa đầu tư đúng mức và chưa tổ
chức các HĐTN cho hiệu quả.
HS phải tập trung học văn hóa, tiếp thu lượng kiến thức khá lớn ở các bộ môn
trong học chính khóa, học ôn luyện thi, chịu sức ép về điểm số trong kiểm tra, thi cử
còn khá nặng nề. Bởi vậy đã có không ít HS khi học THPT chỉ quan tâm đến học để
thi nên chỉ học các môn theo khối thi. Hiện tượng HS học lệch, học xa rời thực tiễn và
thiếu KNS đang tồn tại ở nhiều trường học, đặc biệt là các trường ở thành phố, trong
đó có THPT Ngô Quyền. Việc thay đổi nhận thức ở HS về HĐ GDNGLL, HĐTN phải
có sự tác động từ gia đình – nhà trường – xã hội; có như thế, HS mới thực sự là những
nhân tố luôn tích cực, năng động, thích được tham gia và thể hiện khả năng.
Đội ngũ cán bộ, GV được bồi dưỡng về công tác tổ chức, thực hiện HĐ
GDNGLL, HĐTN là GV các bộ môn kiêm nhiệm, mới chỉ được bồi dưỡng chuyên đề
nên kỹ năng tổ chức hoạt động còn hạn chế; bởi vậy lực lượng nòng cốt trong công
tác HĐGDNGLL, HĐTN còn mỏng, thiếu GV có năng khiếu tổ chức, am hiểu nhiều
lĩnh vực như: văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hiểu biết xã hội,..
Sự phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường chưa chặt chẽ, chưa
phát huy được hết tiềm năng của các lực lượng giáo dục.
7
Hình thức hoạt động chưa phong phú, nội dung nghèo nàn, chưa phù hợp với
nguyện vọng nên chưa lôi cuốn, tạo sức hấp dẫn đối với HS.
Tổ chức quản lý chưa chặt chẽ, việc kiểm tra đánh giá chưa thường xuyên, công
tác tổng kết, rút kinh nghiệm chưa được quan tâm đúng mức.
Đầu tư kinh phí cho HĐ GDNGLL, HĐTN chưa nhiều, còn quá eo hẹp và chưa
kịp thời. Cơ sở vật chất, cảnh quan môi trường của các nhà trường tuy đã được đầu tư,
nâng cấp nhưng vẫn còn chưa đảm bảo theo yêu cầu; vì thế, việc tổ chức HĐ
GDNGLL, HĐNK theo hình thức tập trung và chuyên sâu rất khó khăn.
– Nguyên nhân khách quan:
HĐTN là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành, phát triển các phẩm chất
và năng lực thực tiễn của HS, góp phần giáo dục toàn diện nhưng trên thực tế chưa
thực sự là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá thi đua. Việc đánh giá nhà trường,
đánh giá GV, HS chủ yếu căn cứ vào kết quả của hoạt động dạy – học nên nhà trường
chỉ quan tâm đến chất lượng dạy học mà ít quan tâm đến HĐTN. Chuẩn kiểm tra đánh
giá, khen thưởng cho hoạt động này chưa rõ ràng, chưa có tác dụng thúc đẩy hoạt động
đi vào chiều sâu. Thời gian của GV và HS dành cho hoạt động này chưa nhiều, dẫn
đến hình thức hoạt động chưa phong phú, nội dung chưa hấp dẫn. PHHS chưa quan
tâm đến HĐ TNST nên không tạo điều kiện để các em hoạt động mà chỉ ép các em học
các môn văn hóa.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: “Đổi mới hình thức tổ chức các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa chuyển mạnh sang hướng
hoạt động trải nghiệm sáng tạo tiếp cận với chương trình giáo dục phổ thông mới
tại trường THPT Ngô Quyền, TP Nam Định”
Hiện tại, trường THPT Ngô Quyền nói riêng, các trường THPT trong cả nước
nói chung vẫn thực hiện chương trình giáo dục hiện hành; dù chưa triển khai chương
trình giáo dục phổ thông mới, nhưng đã tiếp cận những đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông mới.
2.1. Giới thuyết chung về Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo
dục phổ thông mới của Việt Nam
2.1.1. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có chức năng tương đương với hoạt động
ngoài giờ lên lớp hiện tại nhưng được đổi mới hoàn toàn về nội dung
Với CT hiện hành, có thể coi hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể,
hoạt động theo chủ điểm… và cả hoạt động Đoàn là hoạt động trải nghiệm.
Hoạt động giáo dục trong CT GDPT mới có tên gọi là hoạt động trải nghiệm
sáng tạo. HĐ TNST trong CT GDPT mới là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân HS được tham gia trực tiếp vào
8
các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài
xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các
kỹ năng, tích luỹ kinh nghiệm riêng và phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
TNST là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo
dục cũng bố trí các hoạt động TNST riêng, hoạt động này mang tính tổng hợp của
nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.
HĐ TNST trong CT GDPT mới là hoạt động có tính mở, vừa kế thừa tất cả các
hoạt động giáo dục phù hợp, có hiệu quả của CT GDPT hiện hành, vừa bổ sung, đổi
mới nhiều hoạt động khác nhằm đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu của CT
GDPT mới.
HĐ TNST được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12, bao gồm các nội dung bắt buộc
và nội dung tự chọn được thiết kế theo 2 giai đoạn: giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp
9) và giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). Trong CT mới, HĐ
TNST cùng với dạy học các môn làm thành 2 loại hoạt động giáo dục chính của các
nhà trường. Coi trọng và tăng cường HĐ TNST là một đổi mới căn bản của CT GDPT
mới. Mỗi HĐ TNST đều có yêu cầu vận dụng tổng hợp nhiều lĩnh vực kiến thức, kỹ
năng nên thường có tác động đến nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau, phụ thuộc chủ
yếu vào nội dung và hình thức của hoạt động. Hệ thống các môn học và HĐ TNST
được thiết kế theo định hướng bảo đảm cân đối nội dung các lĩnh vực giáo dục, phù
hợp với từng cấp học, lớp học; thống nhất giữa các lớp học/cấp học; tích hợp mạnh ở
các lớp dưới, phân hóa dần ở các lớp học trên, tương thích với các môn học ở nhiều
nước trên thế giới. Trong kế hoạch giáo dục mà ban soạn thảo chương trình xác định,
ngoại trừ lớp 10 trải nghiệm sáng tạo dự kiến 70 tiết/năm học, còn các lớp khác từ 1
đến 12 đều được phân bổ 105 tiết/năm học.
HĐ TNST sẽ tạo cơ hội cho HS huy động, tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các
môn học, các lĩnh vực giáo dục khác nhau để có thể trải nghiệm thực tiễn trong nhà
trường, gia đình và xã hội; đồng thời giúp HS có cơ hội để tham gia các hoạt động
phục vụ cộng đồng và hoạt động hướng nghiệp. Đặc biệt tất cả các hoạt động này phải
dưới sự hướng dẫn, tổ chức của nhà giáo dục; qua đó hình thành những phẩm chất chủ
yếu, những năng lực chung đã được xác định tại CT GDPT tổng thể. Các năng lực và
phẩm chất chung này sẽ được thực hiện trong hoạt động trải nghiệm thông qua 3 mục
tiêu của hoạt động trải nghiệm. Hoạt động trải nghiệm sẽ được tổ chức cả ở trong và
ngoài lớp học, trong và ngoài nhà trường theo các quy mô: cá nhân, nhóm, lớp học,
khối lớp hoặc quy mô trường.
2.1.2. Phân loại hoạt động trải nghiệm và mục tiêu của từng loại hình đó
Có 4 nhóm nội dung HĐTN (gồm nhóm nội dung hoạt động phát triển cá nhân;
9
nhóm hoạt động lao động, nhóm hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng; nhóm hoạt
động giáo dục hướng nghiệp) nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản của HĐTN (năng lực
thích ứng với cuộc sống; năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực định hướng
nghề nghiệp). Trong khi thực hiện 3 mục tiêu năng lực này thì HĐTNST phải thực
hiện luôn tất cả các mục tiêu về phẩm chất và năng lực của chương trình, tức là phẩm
chất và năng lực cốt lõi.
Tùy vào từng cấp học mà trọng số ở nhóm nội dung hoạt động nào nhiều hơn
nhưng cả 4 đều có mặt trong mỗi cấp học. Ví dụ nhóm nội dung hoạt động phát triển
cá nhân tập trung rất mạnh ở bậc tiểu học. Nhưng bậc THCS có thể nhẹ hơn và bắt đầu
tăng dần nhóm hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng. Đến bậc THPT thì các hoạt
động phát triển cá nhân, hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng tất nhiên vẫn tiếp tục,
nhưng đặc biệt đẩy mạnh hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
4 nhóm nội dung này sẽ được triển khai thực hiện thông qua 4 loại hình HĐTN
trong nhà trường: sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục theo chủ đề,
hoạt động những câu lạc bộ. Với các hoạt động này, để GV có thể tổ chức cho HS một
cách đầy đủ thì các nhà trường nên tổ chức đầy đủ các đại diện của 4 nhóm này. Tất
nhiên trong 1 nhóm có nhiều hình thức và chúng ta không thể sử dụng tất cả các hình
thức nhưng nên dùng đầy đủ 4 nhóm tổ chức hoạt động và trong nhóm có thể tổ chức
1-2 loại hình thức hoạt động, như vậy để HS được hưởng đầy đủ ưu thế của từng nhóm
tổ chức hoạt động mang lại.
2.1.3. Những hình thức và phương pháp trải nghiệm cho các loại hình hoạt động đó
HĐTNST được tổ chức trong và ngoài lớp học, trong và ngoài trường học; theo
quy mô nhóm, lớp học, khối lớp hoặc quy mô trường; với 4 loại hình hoạt động chủ
yếu là Sinh hoạt dưới cờ, Sinh hoạt lớp, Hoạt động giáo dục theo chủ đề và Hoạt động
câu lạc bộ; với sự tham gia, phối hợp, liên kết của nhiều lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường như: giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên môn học, cán bộ tư vấn tâm
lí học đường, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ quản lí nhà
trường, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
HĐ TNST giúp hình thành và phát triển ở HS các năng lực tự chủ và tự học,
giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo được biểu hiện qua các năng lực đặc
thù: năng lực thích ứng với cuộc sống, năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng
lực định hướng nghề nghiệp. Thứ nhất là những hình thức nhóm mang tính cống hiến
(gồm các hoạt động tình nguyện, nhân đạo, vì cộng đồng,…). Thứ hai là hoạt động có
tính khám phá như những chuyến đi thực địa, tham quan, dã ngoại,… Thứ ba là hoạt
động mang tính thể nghiệm, giúp học sinh được trải nghiệm và thể nghiệm mình luôn
qua các hoạt động giao lưu, đóng kịch, sân khấu hóa,… Thứ tư là những hoạt động có
10
tính nghiên cứu và phân hóa, như những dự án, hoạt động nghiên cứu khoa học rồi các
hoạt động câu lạc bộ có tính định hướng có tính phân hóa,…Như vậy, mỗi một hình
thức hoạt động sẽ đạt được mục tiêu riêng.
Đặc điểm của HĐ TNST của chương trình GDPT mới là hoạt động giáo dục do
nhà giáo dục định hướng, thiết kế và hướng dẫn thực hiện, tạo cơ hội cho học sinh tiếp
cận thực tế, thể nghiệm các cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và
huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học. HĐTN thiên về những hoạt
động tập thể ngoài giờ học chính khóa nhiều hơn và ở cấp Trung học phổ thông, người
hướng dẫn chủ yếu là các thầy cô thuộc ban chấp hành Đoàn trường và các giáo viên
chủ nhiệm lớp. Hình thức tổ chức HĐTN sẽ được thực hiện như sau: Hình thức có tính
khám phá (Thực địa – thực tế, Tham quan, Cắm trại, Trò chơi…); Hình thức có tính thể
nghiệm, tương tác (Diễn đàn, Giao lưu, Hội thảo, Sân khấu hoá…); Hình thức có tính
cống hiến (Thực hành lao động; Hoạt động tình nguyện, nhân
đạo…); Hình thức có tính nghiên cứu (Dự án và nghiên cứu khoa học, Hoạt động theo
nhóm sở thích)”.
2.1.4 Những thiết bị cơ bản để thực hiện chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng
tạo
Đồ dùng để trình diễn, hướng dẫn: video clip về các nội dung giáo dục; phần
mềm về hướng nghiệp; dụng cụ lao động phù hợp với hoạt động lao động;
Đồ dùng để phục vụ hoạt động tập thể: loa đài, ampli; bộ lều trại;
Đồ dùng để thực hành: bộ tranh ảnh về quần áo, giày dép,… theo mùa, theo giới
tính, theo lứa tuổi của học sinh; bộ tranh ảnh về trang phục các dân tộc Việt Nam; bộ
tranh ảnh về trang phục các dân tộc trên thế giới; bộ tranh về các nghề, làng nghề
truyền thống; bộ tranh về các lễ hội; bảng trắc nghiệm nhân cách; dụng cụ lao động
phù hợp với hoạt động lao động;
Đồ dùng khác phù hợp với chủ đề hoạt động cụ thể.
2.1.5. Vai trò của người thầy trong trải nghiệm sáng tạo
Giáo dục không chỉ trong lớp học, nhưng trong hoạt động định hướng phát triển
sáng tạo, người thầy đóng vai trò quan trọng nhất, và đó phải là người thầy sáng tạo.
Có 3 yếu tố cơ bản cấu thành nên Người Thầy sáng tạo. Yếu tố đầu tiên và quan trọng
nhất: Thầy yêu thương trò. Yếu tố thứ 2: Thầy tận tâm mong mỏi trò học tốt, có tương
lai tốt, thậm chí tốt hơn mình. Yếu tố thứ 3: Thầy nắm chắc tri thức cơ bản để dạy và
có đam mê cập nhật tri thức mới, có khả năng mở rộng tri thức cơ bản ra những lĩnh
vực nằm ngoài phần mình dạy.Tức là Thầy cũng có đam mê học suốt đời và mở rộng
tri thức của bản thân, thì mới mong dạy trò đi theo đam mê học tập suốt đời được.
11
2.2 Một số biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động
ngoại khóa chuyển mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo tiếp cận
chương trình giáo dục phổ thông mới
2.2.1 Biện pháp 1: Phổ biến, tuyên truyền sâu rộng trong nhà trường, cộng
đồng, phụ huynh về HĐTNST; tăng cường giao lưu, hợp tác với các tổ chức xã hội,
các cá nhân và doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở tại địa phương… để
tất cả cùng hiểu, đồng tình ủng hộ và cùng tham gia vào quá trình giáo dục
2.2.2 Biện pháp 2: Bồi dưỡng giáo viên, gồm các giáo viên chủ nhiệm, các giáo
viên bộ môn và các giáo viên thường xuyên thực hiện chương trình HĐ TNST để nhận
thức đúng về mục tiêu, tính chất, nội dung, cách thức tiến hành, kiểm tra – đánh giá
của hoạt động này trong CT GDPT mới
2.2.3 Biện pháp 3: Xây dựng kế hoạch HĐTNST phù hợp với tình hình của nhà
trường và đặc điểm của địa phương
2.2.4 Biện pháp 4: Hướng dẫn giáo viên tìm hiểu các đặc điểm, điều kiện về
nhân lực, kinh tế, văn hoá, xã hội, danh thắng, di tích… trên địa bàn để có thể khai
thác sử dụng hiệu quả nhất vào mục đích tổ chức Hoạt động TNST phù hợp với đặc
điểm tâm, sinh lý học sinh; góp phần gắn kế hoạch giáo dục nhà trường với việc phục
vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; Hướng dẫn học sinh tìm
hiểu các đặc điểm, điều kiện về nhân lực, kinh tế, văn hoá, xã hội, danh thắng, di
tích… trên địa bàn để có định hướng nghề nghiệp trong tương lai
2.2.5 Biện pháp 5: Khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội tổ chức hoạt động
trải nghiệm sáng tạo
Tuyên truyền cho PHHS nhà trường hiểu rõ tầm quan trọng của HĐ TNST từ
đó tranh thủ sự ủng hộ của PHHS, tận dụng những kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân
phụ huynh và những người tham gia HĐ TNST để truyền thụ tới HS; gắn hoạt động
của nhà trường với hoạt động của cộng đồng xã hội để cùng hướng tới mục tiêu phát
triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học..
2.2.6 Biện pháp 6: Chỉ đạo bổ sung cơ sở vật chất, điều kiện phục vụ trải
nghiệm
Xã hội hóa giáo dục, xây dựng các tủ sách lớp học theo hướng tăng cường các
đầu sách nuôi dưỡng tâm hồn học sinh, triển khai mỗi lớp một tivi thông minh phục vụ
cho công tác dạy và học, mỗi tổ chuyên môn một máy tính có kết nối mạng, một máy
in, một máy chiếu. Khuyến khích học sinh tham gia Câu lạc bộ Khoa học Vật lý –
Người phụ trách: Đ/c Vũ Đình Bài -Tổ Vật lý; Câu lạc bộ Hóa học vui (Người phụ
trách: Đ/c Nguyễn Thị Dung -Tổ Hóa học)
12
2.2.7 Biện pháp 7: Tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Nhằm hoàn thiện các biện pháp quản lý HĐTNST, chúng tôi tiến hành khảo sát
tính cần thiết và mức độ khả thi của 67biện pháp (Xem PHIẾU THĂM DÒ số 02,
PHIẾU THĂM DÒ số 03)
Kết quả thu được cho thấy, các biện pháp đề xuất nêu trên đều cần thiết. Tuy
nhiên, mức độ cần thiết của các biện pháp đề xuất là không đồng đều. Các biện pháp
1,2,3,7 được cho là rất cần thiết vì các biện pháp này giúp các nhà quản lý và GV nắm
rõ được nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức các hoạt động, qua đó họ có
thể triển khai tại đơn vị; trong khi đó biện pháp 5,6 chỉ là tương đối cần thiết.
Biểu đồ đánh giá mức độ khả thi các biện pháp tổ chức các HĐ TNST
Các biện pháp đưa ra đều được đánh giá là khả thi; trong đó biện pháp 2,7 được
cho là khả thi nhất.
Tuy nhiên vẫn có ý kiến đánh giá một số biện pháp tính khả thi chưa cao, ví dụ
như biện pháp 4,5,6. Điều đó đòi hỏi nhà trường cần phải làm thật tốt biện pháp 1, bởi
có nhận thức đúng mới dẫn tới hành động đúng; và khi các lực lượng gia đình, xã hội
chủ động tích cực trong việc phối kết hợp với nhà trường thì HĐ TNST sẽ đạt được
hiệu quả cao. Mặt khác nhà trường cũng cần xây dựng hệ thống tiêu chí, các công cụ
đánh giá và các thang đo phù hợp để đánh giá kết quả của HĐ TNST. Khi triển khai
thực hiện các biện pháp phải nghiêm túc, đồng bộ và triệt để, có như vậy mới nâng cao
được tính khả thi của các biện pháp.
2.3. Đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động
ngoại khóa chuyển mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo tiếp cận
chương trình giáo dục phổ thông mới
Chương trình Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ
thông mới là chương trình giáo dục bắt buộc có phân hoá và bao gồm các chương trình
như sau:
13
Chương trình trải nghiệm hoạt động sinh hoạt hành chính nhà trường (Bắt buộc)
Chương trình hoạt động trải nghiệm định hướng cá nhân (Bắt buộc)
Chương trình hoạt động trải nghiệm giáo dục tổng hợp (Tự chọn bắt buộc)
Chương trình hoạt động câu lạc bộ (Tự chọn phân hoá)
Để thực hiện mục tiêu đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, hoạt động ngoại khóa chuyển mạnh sang hướng hoạt động trải nghiệm sáng
tạo tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới tại trường THPT Ngô Quyền, TP
Nam Định, đối với loại chương trình thứ nhất, chúng tôi đề xuất đổi mới giờ sinh
hoạt dưới cờ và sinh hoạt lớp; bởi hai giờ sinh hoạt này là không thể thiếu được
trong quản lý nhà trường và quản lý lớp học; đối với loại chương trình thứ hai,
chúng tôi đề xuất thành lập nhóm câu lạc bộ theo sở thích để phát huy được năng
lực, sở trường của HS
2.3.1. Đổi mới tiết Sinh hoạt dưới cờ và tiết Sinh hoạt lớp theo định hướng phát
triển năng lực học sinh
2.3.1.1. Đổi mới tiết Sinh hoạt dưới cờ theo định hướng phát triển năng lực học sinh
* Thời gian thực hiện mỗi tuần 1 tiết vào thứ hai hàng tuần với thời lượng 45
phút. Đối tượng tham gia bao gồm toàn bộ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học
sinh nhà trường. Quy mô tổ chức: toàn trường.
* Quy trình tổ chức tiết SHDC là quy trình phối hợp, đảm bảo tính logic giữa
hoạt động của giáo viên và học sinh. Quy trình này gồm 3 bước: Bước chuẩn bị, Bước
tiến hành, Bước đánh giá kết quả. Mỗi bước có nội dung hoạt động cụ thể cho đối
tượng tham gia vào tiết SHDC, giữa các bước có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo
nên sự thống nhất trong việc tổ chức tiết SHDC sao cho mỗi tiết SHDC trở thành một
tiết học bổ ích.
* Về nội dung:
Nội dung 1: Chào cờ
Chào cờ đối với GV và HS là một hoạt động có ý nghĩa cao đẹp; đây là một
nghi thức trang trọng thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc và sự biết ơn đối với các
thế hệ cha anh đã hi sinh xương máu để đổi lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Lễ chào cờ của các em học sinh trong tiết SHDC

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay