dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Dạy học lịch sử lớp 4 theo định hướng Phát triển năng lực, phẩm chất bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo

SKKN Dạy học lịch sử lớp 4 theo định hướng Phát triển năng lực, phẩm chất bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Lịch sử là một môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian
của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới ngày nay.
Việc dạy môn lịch sử lớp 4 là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ
năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn
thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, trình bày kết quả
bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ, vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời
sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh những thái độ và thói quen: ham học hỏi,
tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích
văn hóa.
Hiện nay ở cấp giáo dục tiểu học môn Lịch sử được tích hợp với môn Địa
lí, nội dung của phân môn Lịch sử yêu cầu các em phải nắm bắt nhiều dự
kiệnlịch sử theo từng thời kì, các diễn biến trận đánh, các ý nghĩa của từng sự
kiện lịch sử. Nội dung các bài học lịch sử gần như chỉ cung cấp kiến thức khô
khan mà không có các chi tiết, các câu chuyện hấp dẫn. Chính vì thế mà học
sinh cũng chưa có hứng thú với môn học này và cũng khó có thể nhớ được sự
kiện cần ghi nhớ hoặc ghi nhớ không lâu.
Nhận thức được tầm quan trọng của những giá trị lịch sử đất nước có ý
nghĩa to lớn trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức hình thành những phẩm chất
của con người mới Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa và hội nhập, trong
những năm qua Bộ giáo dục đã có sự quan tâm đến giảng dạy lịch sử. Thế
nhưng, trong thực tế khi dạy môn lịch sử đồ dùng còn thiếu, minh họa cho tiết
dạy còn hạn chế. Vấn đề dạy lịch sử chưa hiệu quả vì còn nhiều khó khăn: video
về các bộ phim lịch sử còn ít, đồ dùng trực quan hạn chế mà chủ yếu là sơ đồ,
lược đồ trên giấy hơn nữa tâm lí của phụ huynh chỉ muốn con học Toán và
Tiếng Việt nên chưa lôi cuốn các em thực sự vào tiết học và các em chưa ghi
nhớ tiết học một cách chắc chắn.
Nhiệm vụ đặt ra cho giáo viên dạy lịch sử ở trường Tiểu học, ngoài trang bị
cho học sinh hệ thống những kiến thức cơ bản lịch sử dân tộc để hình thành thế
4
giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức cho học sinh còn cần thiết phải trang bị
cho học sinh những hiểu biết sâu sắc về lịch sử đất nước. Qua đó, giáo dục lòng
tự hào về quê hương dân tộc, hình thành lòng yêu nước, truyền thống quê hương
cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động và thái độ ứng xử đúng
đắn trong cuộc sống xã hội; giúp học sinh hiểu được sự phát triển hợp quy luật
của tự nhiên và xã hội, vận dụng sáng tạo những hiểu biết vào hoạt động thực
tiễn, xây dựng ý thức trách nhiệm xây dựng quê hương giàu đẹp. Bác Hồ kính
yêu của chúng ta đã dạy:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
(Hồ Chí Minh)
Vậy làm thế nào để khắc để khắc phục những khó khăn và thực hiện tốt yêu
cầu nhiệm vụ dạy học hiệu quả nội dung lịch sử thì giáo viên không thể không
đổi mới phương pháp. Chỉ có đổi mới phương pháp theo hướng phát triển năng
lực bằng phương pháptrải nghiệm sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức dạy học
lịch sử mới có thể nâng cao hiểu biết của các em về những gì đã xảy ra trong
quá khứ , những truyền thống tốt đẹp của đất nước để tự hào, để sống cao đẹp
hơn và phấn đấu xây dựng cho quê hương xứng đáng với tầm vóc lịch sử của nó.
Đồng thời giúp các em trở thành những con người tự tin, mạnh dạn trong giao
tiếp góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, hoàn thành tốt mục tiêu giáo
dục – đào tạo về lịch sử nước nhà.
Xuất phát từ suy nghĩ đó và trong thực tiễn giảng dạy tôi đã nảy sinh và có sáng
kiến: “ Dạy học lịch sử lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất
bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo” với mong muốn “Học đi đôi với
hành”; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường gắn với giáo dục gia đình
và giáo dục xã hội” nhằm góp thêm một vài ý kiến về biện pháp để nâng cao
hơn nữa chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở trường tiểu học. Qua đó góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục truyền thống cách mạng, tình yêu quê
hương đất nước, lòng tự hào dân tộcvới mục tiêu và sự nghiệp đổi mới giáo dục,
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
5
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
A. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
1.Về chương trình sách giáo khoa.
Chương trình Lịch sử lớp 4 với những kiến thức cơ bản quá nhiều với
những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, phản ánh những vấn đề về sự phát
triển các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời
Nguyễn năm 1858.
Nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 gồm 8 giai đoạn:
1.Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179).
Gồm 2 bài.
2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm
938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập.
3. Buổi đầu độc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài.
4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài.
5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài.
6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1
bài ôn tập.
7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài.
8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó có
1 bài tổng kết.
8 giai đoạn trên thuộc các dạng bài sau:
+Dạng 1: Dạng bài về xây dựng nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền.
+Dạng 2: Dạng bài về tình hình kinh tế – chính trị, văn hoá – xã hội
+ Dạng 3: Dạng bài về nhân vật lịch sử
+Dạng 4: Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa.
+Dạng 5 :Dạng bài về hoạt động xây dựng, sản xuất phát triển kinh tế.
+Dạng 6: Dạng bài về kiến trúc, nghệ thuật, văn hoá, khoa học, giáo dục
+Dạng 7: Dạng bài ôn tập, tổng kết
6
Qua chương trình thông kê trên cho thấytrong 8 giai đoạn với 7 dạng bài,
học sinh cần ghi nhớ từ giai đoạn từ 700 TCN đến năm 1858 là nội dung quá dài
với nhiều sự kiện lịch sử cần ghi nhớ. Đối với các em học sinh lớp 4là khối
lượng kiến thức còn nặng cần phải ghi nhớ. Các em phải nhớ, phải truyền tải rất
nhiều sự kiện liên quan đến hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của từng
giai đoạn lịch sử. Trong khi đó thực tế giảng dạy thì còn thiếu đồ dùng minh
họa, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học chưa phù hợp với đối
tượng học sinh hiện nay. Nếu như không lôi cuốn, hấp dẫn các em bằng phương
pháp giảng dạy sáng tạo, kích thích sự say mê tìm tòi của HS sẽ dẫn đến học
sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận và truyền tải thông tin, không
gây hứng thú, hấp dẫn các em với môn học.
2. Về Giáo viên
– Giáo viên chưa sáng tạo trong phương pháp dạy học lịch sử chưa đổi mới
phương pháp còn dạy theo phương pháp thông thường. Chưa sử dụng nhiều các
phương pháp, hình thức tổ chức mang tính trải nghiệm.
– Tâm lí giáo viên GV đôi lúc thấy học sinh chưa chú trọng về môn Lịch sử, bên
cạnh đó giáo viên cũng nhận được những phản ánh từ phía phụ huynh nhiều về
môn Toán, Tiếng Việt mà không chú trọng đến môn Lịch sử nên giáo viên cũng
coi nhẹ về môn học này.
– Tư liệu lịch sử về các nhân vật, sự kiện còn hạn chế, thiều đồ dùng minh họa,
các hình thức dạy học chưa sáng tạo, bên cạnh đó các bộ phim phản ánh về lịch
sử Việt Nam còn ít nên cũng kéo theo hạn chế trong phương pháp giảng dạy của
giáo viên.
3. Về phía học sinh.
– Các em chỉ chú trọng đến các môn học Toán, Tiếng Việt chưa quan tâm đến
môn Lịch sử.
– Phương pháp dạy học của giáo viên chưa sáng tạo, thiếu đồ dùng tranh ảnh,
phương tiện dạy học nên các em chưa hứng thú, yêu thích môn học này.
– Các em cũng gặp phải một số khó khăn trong quá trình nhận thức như kiến
thức Lịch sử nhiều, trừu tượng, khô khan, những dữ kiện lịch sử khó nhớ. Kĩ
7
năng đọc, kể, tường thuật của các em chưa tốt, do đó ảnh hưởng đến thời gian và
tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự
tin, học thụ động.
4. Về phía phụ huynh
– Phụ huynh thường quan tâm rất nhiều đến môn Toán và Tiếng việt.
-Trong các cuộc họp phụ huynh, hay khi trao đổi với giáo viên, phụ huynh hầu
như trao đổi về môn Toán và Tiếng Việt là nhiều.
– Phụ huynh học sinh thường động viên con học môn Toán, Tiếng Việt và dành
nhiều thời gian kèm cặp môn Toán, Tiếng Việt chứ chưa thật sự quan tâm đến
việc học tập môn Lịch sử của con em mình.
B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
Để khắc phục được những thực trạng trên, bản thân tôi trong quá trình
giảng dạy rất băn khoăn, trăn trở làm thế nào để học sinh học thuộc được bài
lịch sử Việt Nam, thực sự yêu thích môn Lịch sử, hứng thú với môn học, nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử. Bởi vì mỗi khi đợt kiểm tra đến các em
có phản hồi lại rất ngại học vì rất nhiều kiến thức, ngại ghi nhớ, con không ghi
nhớ được. Xuất phát từ những điều đó và để giải quyết được những vấn đề trên,
tôi đã mạnh dạn áp dụng những giải pháp sau:
Giải pháp 1: Giáo viên cần nắm chắc phương pháp dạy học Lịch sử theo
định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
Giải pháp 2: Một số hình thức tổ chức dạy học Lịch sử theo định hướng
phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
Giải pháp 3:Tiến trình lồng ghép các hình thức tổ chức trong một giờ
dạy học Lịch sử hoặc trong buổi trải nghiệm tham quan.
Giải pháp 4:Phối kết hợp với cha mẹ học sinh trong việc dạy học Lịch sử
theo định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
8
Với các giải pháp trên tôi đã tiến hành như sau:
Giải pháp 1.Giáo viên cần nắm chắc phương pháp dạy học Lịch sử theo
định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm
sáng tạo là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng
giúp học sinh từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục
đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn
hóa để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các vấn đề thực tế đặt ra trong
toàn bộ cuộc sống của học sinh một cách sáng tạo và hiệu quả”.
Giúp học sinh có những phẩm chất năng lực sau: trải nghiệm với các nhân
vật, rèn các em mạnh dạn tự tin, rèn năng lực diễn xuất, rèn ngôn ngữ giao tiếp
thông qua cách tái hiện lại các bài lịch sử bằng những hình thức như vẽ tranh,
sân khấu hóa, sơ đồ tư duy, tham quan trải nghiệm sáng tạo.
Thông qua việc tham gia vào các hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo học
sinh được phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của bản thân. Hoạt
động dạy học lịch sử địa phương theo hướng trải nghiệm sáng tạo còn nhằm
giáo dục ý thức bảo vệ di sản, danh nhân, giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào
truyền thống của quê hương…
Với học sinh, giáo viên cần giúp các em hiểu: Thế nào là học Lịch sử theo
hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo?
Học Lịch sử theo định hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo giúp các em
được chủ động tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: Từ thiết kế
hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với
đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân như sắm vai, trò chơi, thông qua sơ
đồ tư duy,…. Các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng, được
đánh giá, lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân,
được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và
của bạn bè,…
Học Lịch sử thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn giúp các em
tiếp xúc trực tiếp với các buổi học trải nghiệm qua tham quan, dã ngoại ở di tích,
9
nhà thờ, các buổi ngoại khóa, các cuộc thi tìm hiểu… nhằm giáo dục học sinh
truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ di sản, phát triển trí tuệ,
rèn luyện kỹ năng sống.
Giải pháp 2: Các hình thức tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo.
Hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường tiểu học rất
phong phú và đa dạng. Cùng một chủ đề, một nội dung giáo dục nhưng hoạt
động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ chức theo nhiều hình thức hoạt động khác
nhau, tùy theo lứa tuổi và nhu cầu của học sinh, tùy theo điều kiện cụ thể của
từng lớp, từng trương, từng địa phương. Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang
ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là một số hình thức tổ chức của hoạt động
theo định hướng phát triển năng lực và trải nghiệm sáng tạo:
1. Dạy học lịch sử thông qua vẽ tranh bằng cách tích hợp liên môn
2. Dạy lịch sử bằng hình thức tổ chức trò chơi học tập
3. Sân khấu hóa tương tác
4. Dạy học lịch sử bằng hình thức Sơ đồ tư duy
5. Dạy học Lịch sử thông qua tổ chức hoạt động trải nghiệm bằng hình thức
ngoại khóa tham quan trải nghiệm: như bảo tàng, khu di tích lịch sử đền Trần,
cột cờ Nam Định
1. Dạy học lịch sử thông qua vẽ tranh bằng cách tích hợp liên môn
Dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực và trải nghiệm sáng
tạo thông qua vẽ tranh là một hình thức tổ chức rất phong phú kích thích được trí
tò mò, khám phá và qua đây học sinh cũng thể hiện được khả năng năng lực hội
họa của mình. Đây là một hoạt động đòi hỏi người học là các em học sinh cần
tích hợp giữa môn Mĩ thuật với môn Lịch sử. Qua đó các em có thể vận dụng
hội họa để khái quát hóa lại các trận đánh, nhân vật lịch sử bằng những đường
nét vẽ của mình để tái hiện lại sự việc thông kênh chữ trong SGK. Đối với hoạt
động này có thể nói cần năng lực của các em tương tác trong nhóm rất cao mới
tạo ra sản phẩm như ý muốn. Để làm được điều này khi tổ chức vẽ tranh, giáo
viên cần cho học sinh lựa chọn hình thức trình bày của mình trên tranh vẽ theo
nhóm. Với sự sáng tạo tuyệt vời của mình, học sinh lớp 4A1 đã biến nội dung
10
bài lịch sử “Chiến thắng Bạch Đằng” hay “Chiến thắng Chi Lăng”, Cuộc
kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai…tưởng chừng khô khan trở nên độc
đáo, dễ hiểu bởi những bức tranh do chính các em vẽ nên. Dưới đây là bức vẽ
thú vị:
Bức tranh vẽ Trận chiến trên sông Bạch Đằng của em Hoàng Nhật Minh 4A1
Các em HS đều bày tỏ sự thích thú với việc học Lịch sử qua tranh vẽ .Với
những sản phẩm đầy sáng tạo của học sinh, rõ ràng Lịch sử sẽ không hề nhàm
chán nếu biết biến những điều tưởng như khô khan trở nên thú vị và giản dị
trong mắt học trò.
Ví dụ: Khi dạy một số bài: “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê
(giới thiệu chân dung nhân vật Nguyễn Trãi), Phong trào Tây Sơn và vương
triều Tây Sơn (giới thiệu anh hùng Nguyễn Huệ- Quang Trung). Đây là những
bài gắn với sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử
tiêu biểu, vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để bằng cách vẽ lại chân dung các
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa mà em đã chuẩn bị tranh vẽ ở nhà, các
hình ảnh để từ đó có sự so sánh vai trò của họ ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
2. Dạy lịch sử bằng hình thức tổ chức trò chơi học tập
Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần
nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối
11
với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với
nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi
mà học, học mà chơi”.Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác
nhau của hoạt động trải nghiệm sáng tạo như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào
nội dung học tập, cung cấp và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các
kĩ năng và củng cố những tri thức đã được tiếp nhận,… Trò chơi giúp phát huy
tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu
kiến thức mới; giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo
được bầu không khí thân thiện; tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn,…
Dưới đây là một số trò chơi có thể tổ chức trong tiết học. Tùy từng bài học,
giáo viên có thể thiết kế các trò chơi linh hoạt sao cho phù hợp để mang lại hứng
thú cũng như hiệu quả học tập cao nhất đối với học sinh.
*Trò chơi : Ai nhanh, Ai đúng
– Mục đích: Học sinh nhớ nhanh được các sự kiện lịch sử, thời gian và địa danh
lịch sử vào cuối tiết học.
– Chuẩn bị: Các câu hỏi liên quan trong phạm vi bài học. Các câu hỏi và đáp án
đều được chuẩn bị đủ trên giáo án điện tử.
– Cách tiến hành: Chơi theo tổ, mỗi tổ được lựa chọn câu hỏi 3 lần, trả lời đúng
1 câu trong 10 giây được 10 điểm, nếu đội lựa chọn không trả lời được đội kia
giành quyền trả lời nếu đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm.( Trò chơi này có
thể áp dụng cho tất cả các bài học khi củng cố kiến thức).
Ví dụ: Với bàiNhà Trần thành lập giáo viên tổ chức cho các em chơi trò chơi
với các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Nhà Trần thay thế cho triều đại nhà nào?
Câu hỏi 2: Nhà Trần thành lập năm nào?
Câu hỏi 3: Tên một chức quan trông coi việc đắp đê.
Câu hỏi 4: Thời Trần quy định con trai từ bao nhiêu tuổi trở lên phải dành một
số ngày tham gia đắp đê?
Câu hỏi 5: Nghề chính của nhân dân ta cuối thời Trần là nghề gì?
12
Câu hỏi 6: Tên nước ta dưới triều Trần là gì?
Câu hỏi 7: Kinh đô dưới thời Trần ở đâu?
– Tác dụng của trò chơi này: Học sinh có thể chọn bất kỳ ô chữ nào, không nhất
thiết máy móc chọn lần lượt các ô chữ. Trò chơi này có thể tổ chức chơi cá
nhân, nhóm hoặc cũng có thể chơi cả lớp bằng cách học sinh viết câu trả lời vào
bảng con.
*Trò chơi :Nối nhanh, nối đúng
Ví dụ 1: Nối mốc các năm ở cột A với tên các cuộc khởi nghĩa ở cột B
– Mục đích: Củng cố các cuộc khởi nghĩa của nhân ta chống lại ách đô hộ của
các triều đại phong kiến phương Bắc.
– Chuẩn bị: 2 tờ giấy có ghi đầy đủ các nội dung chơi, 2 bút dạ.
– Cách tiến hành: Chọn hai đội chơi, mỗi đội có 9 học sinh.
Giáo viên bật màn hình cho cả hai đội và cả lớp cùng quan sát, sau đó giáo
viênphát cho hai nhóm, mỗi nhóm 1 tờ giấy có nội dung như trên màn hình, mỗi
đội có 15 giây đọc các thông tin trên bảng. Sau khi giáo viên hô “1, 2, 3. Bắt
đầu!” và tính giờ thì mỗi đội cử 1 em lên nối, nối xong em đó trở về đứng cuối
hàng em thứ hai mới được lên. Cứ như vậy cho đến học sinh cuối cùng. Hết giờ
đội nào nối đúng nhiều hơn, thời gian nhanh hơn, nối đẹp hơn đội đó là đội
thắng cuộc.
– Nội dung trò chơi Nối nhanh tay:

A
(Thời gian
1.Năm 40
2.Năm 248
3. Năm 542
B
(Các cuộc khởi nghĩa)
a. Khởi nghĩa Lí Bí
b. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan
c. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng

4. Năm 548 d.Chiến thắng Bạch Đằng
5. Năm 722 e. Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ
6. Năm 766 g. Khởi nghĩa Triệu Quang Phục
7. Năm 905 h. Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ
8. Năm 931 i. Khởi nghĩa Bà Triệu
9 Năm 938 k Khởi nghĩa Phùng Hưng
Đáp án: 1-c; 2-i; 3-a; 4-g; 5-b; 6-k; 7-e; 8-h;9-d
13
– Tác dụng của trò chơi này: Học sinh được quan sát đáp án và nhận xét nhanh
bài của các đội.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 20 Ôn tập (SGK Lịch sử – Địa lí, trang 53) về nối các
sự kiện, hiện tượng lịch sử thì tôi dùng đồ dùng Đám mây kết nối này để củng
cố cho các em về nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử mà các em đã được học
trong học kì I.
– Khi dạy xong bài 3 ôn tập, tôi đưa ra bài tập dưới đây, tổ chức cho các em
chơi trò chơi. Có hai đội chơi, mỗi đội 3 HS lên bảng tham gia chơi để nối. Sau
đó Cả lớp làm trọng tài nhận xét, đánh giá bài nối trên bảng của hai nhóm. GV
chốt kiến thức.
Sản phẩm của học sinh sau trò chơi
Tìm hiểu lịch sử địa phương qua hệ thống trò chơi nối địa danh với danh
nhân hoặc di tích lịch sử.
– Mục đích: Củng cố về tên các nhân vật, các di tích lịch sử gắn liền với vị anh
hùng dân tộc.
14
– Chuẩn bị: Các ảnh chụp danh nhân, anh hùng dân tộc, các di tích lịch sử liên
quan đến nhân vật lịch sử hay sự kiện lịch sử, dây chunđể nối từ địa danh với
bức tranh ảnh.
– Cách tiến hành: Chọn hai đội chơi, mỗi đội có 3 học sinh.
Giáo viên bảng Cùng nhau khám phá cho cả hai đội và cả lớp cùng quan
sát, sau đó giáo viên phát cho hai nhóm, mỗi nhóm có các hình ảnh các di tích
lịch sử, mỗi đội có 15 giây đọc các thông tin trên bảng và các bức ảnh chụp cầm
trên tay. Sau khi giáo viên hô “1, 2, 3. Bắt đầu!” và tính giờ thì mỗi đội cử một
em lên gài ảnh vào ô để ảnh có sẵn, sau đó em thứ hai lên dùng dây chun để kéo
đến ảnh cần nối, nối xong em đó trở về đứng cuối hàng em tiếp theo được lên.
Cứnhư vậy cho đến học sinh cuối cùng. Hết giờ đội nào nối đúng nhiều hơn,
thời gian nhanh hơn đội đó là đội thắng cuộc.
15
Trò chơi Cùng nhau khám phá về lịch sử địa phương
* Trò chơi: Ô chữ kì diệu
– Mục đích: Củng cố kiến thức về thời gian, nhân vật và sự kiện lịch sử
– Chuẩn bị: Các ô chữ, các câu hỏi và đáp án trên giáo án điện tử (màn hình)
– Cách tiến hành: Ô chữ gồm 8 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc hoặc theo yêu
cầu nội dung bài dạy. Cách chơi như sau:
Cả lớp chia thành 4 đội chơi. Các đội chơi lần lượt chọn từ hàng ngang, giáo
viên sẽ đọc gợi ý về các từ hàng ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời.
Nếu sai hoặc sau 30 giây không có câu trả lời thì đội khác được quyền đoán.
Mỗi từ hàng ngang được 10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm. Trò chơi kết thúc
khi có đội tìm ra từ hàng dọc. Đội nào có điểm cao hơn thì đội đó thắng cuộc.
Ví dụ: Khi dạy bài Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938.
– Nội dung ô chữ và gợi ý cho từng ô chữ:
1. Quân Nam Hán đến từ phương này. (Bắc)
2. Hậu quả mà quân Nam Hán phải nhận khi sang xâm lược nước ta năm 938.
(thất bại)
3. Nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô. (Cổ Loa)
16
4. Ngô Quyền đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này để đánh giặc. (thủy triều)
5. Quê của Ngô Quyền. (Đường Lâm)
6. Tướng giặc tử trận ở Bạch Đằng. (Hoằng Tháo)
7. Người lãnh đạo trận Bạch Đằng. (Ngô Quyền)
8. Vũ khí làm thủng thuyền của giặc. (cọc gỗ)
Ô chữ hàng dọc: Bạch Đằng
– Tác dụng của trò chơi này: Thiết kế trò chơi này trên máy chiếu sẽ không mất
nhiều thời gian, cả âm thanh như tiếng vỗ tay khen khi học sinh trả lời đúng.
Học sinh có thể tự lựa chọn câu hỏi.
* Trò chơi: Thử tài của bạn
Trò chơi này có thể tổ chức dưới hình thức sân chơi “Rung chuông vàng”
cho cả lớp trong giờ ôn tập hay hoạt động ngoại khóa).
– Mục đích: Củng cố kiến thức về lịch sử trong cả một chương.

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *