SKKN Dạy học STEM SREAM theo các vấn đề thời sự chủ đề Corona
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
CHƯƠNG I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Hiện nay, tràn ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng mọi người chia
sẻ và cập nhật rất nhiều thông tin về bệnh viêm phổi từ chủng coronavirus mới được
đặt tên là 2019 Novel Coronavirus (2019-nCoV), được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán,
Trung Quốc. Sau nhiều tháng đại dịch Covid-19 hoành hành, gần như toàn bộ thế giới
đã trở thành nạn nhân, những hậu họa do Covid-19 gây ra đã đưa ra lời cảnh báo rằng
thế giới cần chuẩn bị nhiều hơn để đối phó với một đại dịch có thể xảy ra trong tương
lai. Câu hỏi đặt ra là còn đại dịch nào thực sự chờ đợi chúng ta phía trước, con người
sẽ phải làm gì để chung tay nhau ngăn chặn những vấn đề này? Theo Lê Thanh Hải,
“Cả nhân loại đang đối mặt mới một hoàn cảnh khủng hoảng mới mà không có một
mô hình giáo dục nào đã được nghiên cứu trước đó, đó không phải là giáo dục trực
tuyến (e-learning hay online education), cũng không phải là giáo dục tại nhà
(homeschooling) giống như các mô hình trước đây đã được các nhà giáo dục nghiên
cứu và xây dựng; phải gọi đó là giáo dục thời kỳ đại dịch; dạy và học trong lúc này
chắc chắn là không giống như bình thường, hay như bất kỳ một mô hình nào trước đây
đã được nghiên cứu; một cách tiếp cận mới chắc chắn phải được thay thế và triển khai,
chắc chắn thế hệ học sinh này sẽ cần có nhiều kỹ năng mới so với trước đây bởi các
em đang sống trong một thế giới đang bị thay đổi sâu sắc bởi đại dịch”.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người luôn là yếu tố giữ vai trò trung tâm và
quan trọng nhất. Trường THPT Ngô Quyền, 48 năm qua, đã xây dựng được một nền
tảng sư phạm khá vững vàng và chiếm được niềm tin của học sinh và phụ huynh qua
nhiều thế hệ. Với sự cố gắng và nỗ lực của thầy trò nhà trường cùng tinh thần tự lực,
tự cường, bám trường, bám lớp, thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học, ngọn lửa giáo dục
trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” sáng ngời hào khí Đông A ngày càng rực sáng. Vì
sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà, vì tương lai con em chúng ta, giáo viên và
học sinh trường THPT Ngô Quyền cùng chung một ý chí, cùng chung một tấm lòng,
cùng chung một niềm tin chiến thắng đại dịch Covid-19. Nhà trường đã tuyên truyền
2
cho giáo viên và học sinh qua bảng điện tử ngay tại cổng trường với nội dung: Thầy
và trò trường THPT Ngô Quyền quyết tâm thực hiện hai mục tiêu: chống dịch
Covid-19 và dạy tốt, học tốt. Ý tưởng dạy học gắn với chủ đề coronavirus được hình
thành.
2. Thêm nữa, thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng “lý luận phải gắn với thực
tiễn”, thực hiện lời dạy của tiền nhân “ học phải đi đôi với hành”; các năm qua, toàn
Ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng làm chuyển biến tích cực chất lượng dạy học gắn
liền thực tiễn và cụ thể hoá bằng nhiều cách làm hay, mô hình tốt như: dạy học trải
nghiệm tại các cơ quan hành chính, khu di tích, bảo tàng, công ty, nhà máy sản xuất,
khu chế biến; lao động chăm sóc khu vườn trường; dạy học theo dự án, dạy học qua
sản phẩm; dạy học theo chủ đề … và giáo viên THPT Ngô Quyền cũng không phải là
ngoại lệ.
Trong năm học 2019 -2020 trường THPT Ngô Quyền yêu cầu các tổ chuyên môn
thực hiện dạy học theo chủ đề: chủ đề liên môn (bao gồm các nội dung dạy học gần
giống nhau, có liên quan chặt chẽ với nhau, có thể đang trùng nhau trong các môn học
của chương trình hiện hành, biên soạn thành chủ đề liên môn) và chủ đề tích hợp, liên
môn (có nội dung giáo dục liên quan đến các vấn đề thời sự của địa phương, đất nước;
ví dụ: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ quyền biên
giới, biển đảo; …. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, để học sinh nhận thấy học
đi đôi với hành, học ứng dụng vào đời sống, chứ không phải học những kiến thức đơn
lẻ của từng môn học một cách cứng nhắc mà là những tiết học thực sự bổ ích, giữa các
môn học có sự gắn kết với nhau góp phần không chỉ cung cấp kiến thức từng bộ môn
mà còn giáo dục nhân cách, hoàn thiện tư cách và trách nhiệm người công dân mới,
hình thành và rèn các kĩ năng sống cho học sinh, ý tưởng dạy học theo các vấn đề thời
sự vì thế được hình thành.
3. Mặt khác việc đổi mới phương pháp giảng dạy đang được đặt lên hàng đầu
đối với ngành giáo dục và phương pháp giáo dục STEM đã mang lại kết quả tốt.
Giáo dục STEM là một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp
3
lần thứ 4; Thực hiện Chỉ thị số 2268/CT-BGDĐT ngày 08/8/2019 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2019 – 2020 của ngành Giáo dục;
Ngành Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tỉnh nhà trong thời gian qua đã có nhiều hoạt
động chủ động nhằm đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, giáo dục học sinh
hướng tới mục tiêu phát triển năng lực, có tri thức, năng động, hội nhập thế giới; các
phương pháp dạy học tích cực đã được chú ý triển khai thực hiện trong thời gian qua
như phương pháp Dạy học theo dự án, phương pháp nghiên cứu khoa học, phương
pháp “bàn tay nặn bột” và phương pháp giáo dục STEM đã mang lại kết quả tốt.
Tháng 8/2018 Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định đã tổ chức tập huấn dạy học
STEM cho các giáo viên. Trường THPT Ngô Quyền cũng đã triển khai nhiệm vụ tới
các tổ, nhóm chuyên môn về kế hoạch dạy học tiếp cận STEM. Trước nhiệm vụ này
chúng tôi đã chủ động tìm hiểu qua các tài liệu tập huấn, trang mạng internet,…về
STEM/STEAM.
Trong cuốn sách “Giáo dục STEM/STEAM: từ trải nghiệm thực hành đến tư
duy sáng tạo”, tác giả Lê Thanh Hải nói sơ lược về lịch sử ra đời của thuật ngữ giáo
dục STEAM. Và ngay trong phần Mở đầu cuốn sách này, tác giả Lê Thanh Hải cũng
có nhắc đến hội chứng viêm đường hô hấp cấp (SARS) như là một trong những vấn đề
vốn thuộc về khoa học – công nghệ nhưng lại quan hệ mật thiết với đời sống xã hội.
Trong tương lai, những vấn đề như thế sẽ càng rất nhiều, khi mà khoa học – công nghệ
ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đến với mọi mặt của đời sống xã hội; do vậy, việc
chuẩn bị một nền tảng kiến thức và tư duy mang tính liên ngành giữa khoa học và xã
hội (socio-scientific reasoning) ở mức phổ quát, căn bản là một đòi hỏi vô cùng quan
trọng đối với nền giáo dục và sự thịnh vượng của quốc gia, để chuẩn bị cho thế hệ
công dân toàn cầu trong tương lai. Mấy tháng gần đây, tràn ngập trên các phương tiện
thông tin đại chúng mọi người chia sẻ và cập nhật rất nhiều thông tin về bệnh viêm
phổi từ chủng coronavirus mới được đặt tên là 2019 Novel Coronavirus (2019-nCoV),
được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc. Việc đưa chủ đề thời sự bệnh viêm
phổi cấp vào các bài học học về khoa học là cần thiết. Tùy theo từng trình độ mà các
giáo viên chủ động giới thiệu với học sinh những kiến thức liên quan đến chủ đề thời
sự này. Quá trình dạy học này còn kết hợp với hướng nghiệp cho các em học sinh về
những nghề nghiệp tương lai; giúp chương trình giáo dục STEM/STEAM ở Việt Nam
được giảng dạy có chiều sâu, bài bản hơn để các học sinh hiểu được mối quan hệ liên
ngành và đa chiều phức tạp trong các vấn đề về khoa học, công nghệ và xã hội; đặc
biệt, có được kiến thức và kỹ năng để phân tích, đánh giá (tư duy phản biện) khi tiếp
cận các nguồn thông tin khác nhau.
Cũng theo tác giả Lê Thanh Hải, giáo dục STEM không chỉ gói gọn trọng sự liên
môn giữa các nhóm kiến thức khoa học tự nhiên mà giờ đây các giáo viên tại Mỹ đã
chủ động lồng ghép thêm các yếu tố về văn hóa, xã hội, nhân văn, nghệ thuật (gọi
chung là các môn nghệ thuật khai phóng – liberal arts); do vậy STEM đã được phát
triển lên thành STEAM; thỉnh thoảng STEAM được viết thành STE(A)M với chữ A
4
được viết trong ngoặc đơn với chủ đích diễn tả các chương trình học có nhấn mạnh các
môn nghệ thuật khai phóng trên nền tảng của giáo dục STEM nói chung.
Trong cuốn sách “Từ STEM đến STEAM”, hai tác giả David Sousa và Tom
Lilecki gần đây cũng có đề cập đến khái niệm các môn nghệ thuật (Arts – chữ art được
viết dưới dạng danh từ số nhiều, có s). Theo hai tác giả này, các môn nghệ thuật chính
là các cách biểu đạt sự sáng tạo của con người thông qua các kỹ năng, giúp làm phong
phú sự cảm nhận bằng các giác quan, từ âm nhạc cho đến kịch nghệ, điện ảnh. Danh
sách các dạng hình nghệ thuật thì dường như dài bất tận, vì có những loại hình nghệ
thuật mà hiện nay người ta vẫn chưa biết đặt tên cho nó là như thế nào, vì nó là sự trộn
lẫn giữa các loại hình nghệ thuật với nhau, chẳng hạn như sự kết hợp giữa việc tạo ra
các kiến trúc điêu khắc kết hợp với sự sắp đặt có chủ ý để tạo ra các hiệu ứng về âm
thanh khi có gió thổi. Ngày nay, với sự phát triển của ứng dụng công nghệ và kỹ thuật,
nhiều loại hình nghệ thuật với độ chính xác và tinh xảo rất cao. Chính vì lẽ đó, xu
hướng các bài học STEM giờ đây luôn dành một khoảng không gian cho việc kết nối
với các chủ đề về xã hội, văn hóa, và các môn nghệ thuật. Ở đó, học sinh được khuyến
khích vận dụng óc sáng tạo về các môn nghệ thuật, các kiến thức về lịch sử và nhân
văn để tạo ra một sản phẩm mới, có giá trị và ý nghĩa cho xã hội. Chẳng hạn, khi học
về khoa học môi trường, các em học sinh lớp cấp hai ở Mỹ không chỉ được tìm hiểu lý
thuyết về mối quan hệ giữa con người với môi trường mà còn được thưc hành dùng
phần mềm SketchUp và Google Earth (cả hai đều miễn phí) để thiết kế những khu vui
chơi kết hợp với bảo tồn thiên nhiên, thậm chí hướng đến cả đối tượng người khuyết
tật, khó khăn trong việc di chuyển; đó là những ý tưởng hoàn toàn mới mà không bao
giờ có thể tìm thấy trong sách giáo khoa. Chính nhờ đưa các môn nghệ thuật vào giáo
dục STEM đã giúp giải phóng sự tưởng tượng và sáng tạo của trẻ nhỏ. Nói về vai trò
của trí tưởng tượng trong giáo dục, Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết, đã nói một
câu đầy cảm hứng về trí tưởng tượng: “Tôi đủ chất nghệ sĩ để tự do vẽ theo trí tưởng
tượng của tôi. Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức là hạn chế, còn trí
tưởng tượng bao quanh khắp thế giới”. (“I am enough of an artist to draw freely upon
my imagination. Imagination is more important than knowledge. Knowledge is
limited. Imagination encircles the world.”). Ngày nay, khi nhìn vào bất kỳ một vật
dụng hay thiết bị nào mà chúng ta đang sử dụng, chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là sự
kết hợp của rất là nhiều kiến thức từ rất nhiều lĩnh vực để tạo nên nó, trong đó có cả
yếu tố thẩm mĩ và văn hóa. Khi khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh, việc
đưa một ý tưởng thành một sản phẩm chỉ tính bằng ngày hoặc bằng giờ. Và khi xã hội
càng phát triển, thì các sản phẩm tiêu dùng càng được cá nhân hóa nhiều hơn. Chẳng
hạn: Với công nghệ in 3-D, khách hàng có thể tự in chiếc áo để mặc theo cách riêng,
hay thậm chí khách hàng có thể tự thiết kế để in cái nhà để ở. Điều đó nói lên rằng,
sống trong xã hội ngày nay, ít nhiều chúng ta cũng cần đến tư duy thiết kế và óc nghệ
thuật.Thông qua cách tiếp cận giáo dục STEAM, học sinh nhận thức được sự giao thoa
giữa các ngành khoa học, toán học và các môn nghệ thuật, thấy được sự cần thiết của
5
các kiến thức chuyên ngành để có thể giải quyết một vấn đề hay tạo nên một sản phẩm.
Đồng thời, nhờ được tạo cơ hội khuyến khích sáng tạo dựa trên sở thích riêng của bản
thân, nên các em học sinh tự tin hơn trong quá trình học tập và làm việc nhóm. Điều
thú vị là các chương trình giáo dục STEAM còn có thể giúp học sinh được trải nghiệm
qua các cảm xúc của thất bại trong quá trình học tập, một trong những yếu tố cần thiết
cho sự trưởng thành của trẻ khi bước vào đời.
4. Báo cáo sáng kiến “Dạy học STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ
đề Coronavirus” được người viết lựa chọn còn xuất phát từ chính lòng yêu nghề, sự
say mê với nghề, tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tâm với thế hệ trẻ Thành Nam.
Thực hiện đề tài này chúng tôi thực sự mong muốn được trao đổi với đồng nghiệp để
được học hỏi và trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ.
CHƯƠNG II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
I. MÔ TẢ CƠ SỞ THỰC TẾ TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
Hệ thống SGK chương trình hiện hành cấp học THPT đã được tái bản lần thứ
mười, in xong và nộp lưu chiểu tháng 1/2018. Như vậy với thế hệ HS 2000, các em
đang phải học một chương trình SGK quá cũ, quá lạc hậu, có những số liệu cách đây
mười mấy năm so với thời điểm hiện tại nhiều khi phản ánh sai vấn đề. Nhiều năm
qua, việc xây dựng nội dung sách giáo khoa cũng như các loại sách bài tập tham khảo
của giáo dục nước ta nhìn chung còn mang tính hàn lâm, kinh viện nặng về thi cử;
chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp cho học sinh;
chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội cũng như
nhu cầu của người học. HS còn hạn chế về năng lực phản biện, tư duy, sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập nghiệp còn hạn chế. Tóm lại có
thể nói, chương trình hiện hành mới chú trọng cung cấp cho HS những kiến thức cơ
bản nhất, khái quát nhất, có những nội dung kiến thức đã cũ vì vậy đòi hỏi GV và HS
phải cập nhật những vấn đề nóng bỏng của thời đại, phải có cái nhìn khái quát và sự
hiểu biết rộng về nhiều vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống kinh tế xã hội thế giới
cũng như trong nước, có như thế mới hòa nhập và thích ứng được với cuộc sống hiện
tại, mới kích thích được niềm say mê, hứng thú dạy và học của cả GV và HS.
Trong thời gian 45 phút lên lớp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, GV chỉ truyền
thụ những kiến thức liên quan tới nội dung bài học đã có trong SGK, việc cập nhật
kiến thức còn rất hạn chế. Như vậy học xong bài học, HS cũng chỉ dừng lại ở việc nắm
được những kiến thức cơ bản của bài học, mà không biết được nhưng kiến thức cập
nhật đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên thế giới. Điều này lâu dần sẽ dẫn tới việc
HS thụ động nhìn bài và chép nội dung vào vở, không có sự sáng tạo, không phát huy
được năng lực tự học, sự hứng thú với môn học của HS.
Trong quá trình giảng dạy, các giáo viên đã sử dụng các phương pháp dạy học
truyền thống kết hợp một số phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học tích cực: dạy học
6
theo nhóm nhỏ, sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, phương pháp đàm thoại gợi mở, kĩ thuật
phòng tranh… khai thác kênh hình và kênh chữ sách giáo khoa với các thí nghiệm
minh hoạ, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin, chủ yếu là Powerpoint, sử
dụng các video minh họa… để tăng tính trực quan, kích thích tư duy học sinh. Tuy
nhiên, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, tính đến thời điểm hiện tại, tại các lớp học chưa
có máy chiếu hay tivi thông minh, bởi vậy trong các giờ học, học sinh chủ yếu lắng
nghe, tiếp thu các kiến thức một cách thụ động được quy định sẵn; học sinh chỉ nắm
được kiến thức lí thuyết, còn nội dung mở rộng, vận dụng, mang tính cập nhật, thời
sự… nhiều học sinh chưa tiếp cận được; học sinh chủ yếu được rèn luyện kĩ năng
nghe, quan sát, đọc chọn lọc ý từ sách giáo khoa, vận dụng kiến thức mà cọc sinh chưa
khám phá hết năng lực của bản thân, chưa chủ động trong việc học tập, khả năng sáng
tạo và vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN “DẠY HỌC STEM/STEAM
THEO CÁC VẤN ĐỀ THỜI SỰ – CHỦ ĐỀ CORONAVIRUS”
Có thể nói, trải qua giai đoạn biến động cực mạnh trong xã hội từ ảnh hưởng
của dịch Covid-19 nói riêng và toàn cầu hoá nói chung, nền giáo dục của mỗi quốc gia
đứng trước áp lực lớn khi nhiều người đều có cảm giác rằng kiến thức thông thường
trở nên vô ích giống như người đi biển thiếu la bàn. Điều đó cho ta thấy điểm mấu
chốt của vấn đề trong giáo dục là hướng đến giúp con người có tầm nhìn rộng, khả
năng thích nghi và khả năng tự học, tự nghiên cứu suốt đời để luôn phát triển bản thân.
Có như vậy, mỗi cá nhân sẽ không phải lo về vấn đề thất nghiệp mà còn có thể tự tạo
ra cơ hội việc làm cho mình và cho người khác. Giáo dục hiện nay cũng như trong
tương lai sẽ không đơn thuần truyền thụ kiến thức, đó còn là dạy học sinh cách học,
học cách nghĩ, cách sống. Giáo dục cần hướng tới trang bị và cung cấp cho học sinh
kiến thức tổng quát, trải rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, cho người học công cụ khám
phá bản thân, thế giới xung quanh để sau này họ có thể tiếp cận, chuyển đổi công việc
linh hoạt, không bị lỗi thời. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như
tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, những kỹ năng quan trọng cho
thế kỷ 21 này đó chính là khả năng tự học, phân tích, diễn đạt ý nghĩ của mình và khả
năng giải quyết vấn đề. Trong hoàn cảnh ấy, dạy học “Dạy học STEM/STEAM nói
chung và “Dạy học STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ đề Coronavirus” có ý
nghĩa vô cùng quan trọng.
1. Giới thuyết về STEM/STEAM
1.1. Sự khác biệt giữa STEM và STEAM
STEM được viết tắt từ các từ: “Science, Technology, Enginerring, Math” –
“Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học”. Hiểu một cách đơn giản thì phương pháp
này cung cấp cho học sinh kiến thức toàn diện về 4 lĩnh vực trên bằng cách kết hợp
giữa việc học lý thuyết và thực hành, hoạt động thực tiễn, trải nghiệm đời sống. STEM
cho phép học sinh được thường xuyên thảo luận, tự rút ra kết luận và ghi nhớ kiến thức
sâu sắc hơn. Có thể nói, phương pháp STEM giống như một cái búa, giúp phá vỡ bức
7
tường chắn bấy lâu nay giữa hàn lâm và thực tiễn.
Qua một thời gian hình thành và phát triển, phương pháp STEM được cải thiện
thành STEAM. Chữ “A” trong STEAM là viết tắt cho “Art” – “Nghệ thuật”. Nếu giáo
dục STEM là tập trung vào giải quyết các vấn đề với tư duy, kỹ năng phân tích thì
STEAM khác biệt ở chỗ, nó giúp học sinh khám phá các môn học tương tự, nhưng kết
hợp thêm tư duy sáng tạo và nghệ thuật ứng dụng vào giảng dạy, cùng với các tình
huống thực tế. Đồng thời, giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh và học sinh cũng được
đặt câu hỏi ngược lại. Các nhà giáo dục tin rằng, nếu tích hợp thêm “Nghệ thuật” vào
giảng dạy, học sinh có thể sử dụng cả hai mặt của bộ não là phân tích và sáng tạo. Từ
đó những đứa trẻ sẽ có tiền đề phát triển tốt nhất cho tương lai
1.2. STEM – phương pháp giáo dục hàng đầu; STEAM – Phương pháp giáo dục
hiện đại và lí tưởng
Là khởi đầu cho một sự thay đổi lớn ở Mỹ và là tương lai của cả một nền giáo
dục, STEAM được tạo thành từ thuật ngữ “STEM” và “Nghệ thuật – Art”. Ra đời từ
thập kỷ trước, STEM (viết tắt của Khoa học – Science, Công nghệ – Technology, Kỹ
thuật – Engineering, và Toán học – Mathematics) đã luôn là một phương pháp giáo
dục hàng đầu tại thời điểm lúc bấy giờ. STEM tập trung vào việc đào tạo cho học sinh
8
về 4 lĩnh vực trên. Tuy nhiên, chủ trương của nền giáo dục hiện đại, ngày nay lại đánh
giá cao tầm quan trọng của Nghệ thuật trong việc thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo, đó
cũng chính là lý do tại sao phương pháp giáo dục STEAM ra đời.
STEAM là ý tưởng sáng tạo ban đầu của Trường Thiết Kế Rhode Island (Mỹ),
sau đó được sử dụng bởi nhiều nhà giáo dục và dần dần lan rộng ra cả Hoa Kỳ. Đây là
một phương pháp tiếp cận giáo dục kiểu mới, trong đó Khoa Học, Công Nghệ, Kỹ
Thuật, Nghệ Thuật, và Toán Học cùng được sử dụng để giảng dạy và hướng dẫn cho
học sinh. STEAM là một sự chuyển đổi từ cách thức giáo dục truyền thống, dựa vào
tiêu chuẩn điểm số để đánh giá, sang một phương pháp giáo dục hiện đại và lý tưởng,
trong đó quá trình học tập và kết quả cùng được xem trọng như nhau.
Tại sao chúng ta cần nghệ thuật?
Vào ngày 06/05/2011, Ủy ban Nghệ thuật và Nhân văn của Tổng thống Obama
đã ban hành một bản báo cáo tại Hội nghị Đối tác giáo dục nghệ thuật (AEP) được gọi
là “Tái đầu tư trong giáo dục nghệ thuật: Làm chủ tương lai nước Mỹ thông qua các
trường học sáng tạo”. Trong đó, ủy ban đã nêu rõ “khi học sinh được tham gia vào các
bộ môn nghệ thuật, thành tích học tập của các em có thể tăng gấp bốn lần, điểm số
GPA/SAT cũng cao hơn, và các em còn có thể cải thiện chỉ số IQ về không gian-thời
gian của mình lên đến 56%. Trình độ Toán học của học sinh khối 12 được nâng lên
một cách đáng kể, học sinh tương tác với các thầy cô và bạn bè của mình nhiều hơn,
và trở nên tự tin và trình bày quan điểm của mình tốt hơn nhiều so với trước kia”. Bản
báo cáo trên đã chứng minh cho tầm quan trọng của việc kết nối giữa nghệ thuật, văn
hóa, sự sáng tạo và đổi mới, đồng thời nêu lên sự cấp thiết cho ra đời một chương trình
mới nhằm cải cách nền giáo dục ở Mỹ.
Chúng ta dường như quên rằng sự đổi mới thực sự không đến từ một phương
trình toán học, công nghệ hay các loại hóa chất mới, nó đến từ những nơi như nghệ
thuật, thiết kế, hay đơn giản hơn nó đến từ chính con người chúng ta. Đổi mới trong
cuộc sống của mọi người nói chung và trong các ngành khoa học nói riêng luôn gắn
liền với những trải nghiệm của con người, bằng một phương thức nào đó, dù trực tiếp
hay gián tiếp. Những trải nghiệm của con người có được thông qua việc tương tác với
những gì liên quan đến nghệ thuật như nghe nhạc, hay chiêm ngưỡng một tác phẩm
nghệ thuật… Chính nghệ thuật giúp bạn nhìn nhận sự việc bằng một cách thức tự
nhiên, dễ tiếp nhận hơn, và trong một không gian cởi mở hơn. Thế giới của chúng ta
được xây dựng nên bởi những nhà tư duy phân tích. Tuy nhiên, những nghệ sĩ hay nhà
thiết kế – những nhà tư duy trực giác lại là người mở ra cho chúng ta vô vàn khả năng.
Những sự đổi mới to lớn ra đời khi chúng ta biết kết hợp lối tư duy phân tích và tư duy
trực giác lại với nhau.
Tiến sĩ Jerome Kagan, Giáo sư Danh dự tại Đại học Harvard và là một trong 22
nhà tâm lý học nổi tiếng và được trọng vọng nhất của thế kỷ 20, nói rằng nghệ thuật
góp phần thúc đẩy con người học tập tốt đến đáng ngạc nhiên, bởi các bộ môn nghệ
thuật thường kết hợp ba công cụ chính mà trí não con người sử dụng để tiếp nhận, lưu
trữ và truyền đạt kiến thức, đó là: các kỹ năng vận động, sự hình dung thông qua giác
quan, và ngôn ngữ. Tiến sĩ Kagan đã phát biểu tại buổi nói chuyện về sự tiếp thu, nghệ
thuật và não bộ con người tại Trường Đại học John Hopkins vào năm 2009 như sau:
“Nghệ thuật và âm nhạc đòi hỏi con người ta phải sử dụng đến cả kiến thức về biểu đồ
9
và tiến trình, chính vì vậy sẽ giúp cho một đứa trẻ hiểu rộng hơn và sâu hơn về một
vấn đề nào đó, và về thế giới này”.
Với sự nhận thức này, các nhà giáo dục của Hoa Kỳ đang hợp nhất giữa nghệ
thuật và các bộ môn khoa học lại với nhau. Tại Viện Woft Trap ở Virginia, các nhà
giáo dục đang kết hợp môn nhảy múa với những bộ môn như toán số và hình học. Tại
Trường thiết kế Rhode Island, nhà nghiên cứu của Học viện công nghệ Massachusetts,
Jie Qui đã giới thiệu cho các sinh viên về loại giấy điện tử, trong đó mở ra việc sử
dụng công nghệ trong nghệ thuật diễn cảm. Bản nghiên cứu này của cô đã làm cho các
sinh viên thích thú hơn về các bộ môn khoa học, đồng thời thúc đẩy trí tưởng tượng
của họ bay xa hơn. Việc kết hợp giữa khoa học và trí tưởng tượng được xem như một
sự pha chế hoàn hảo, mang đến cho nền giáo dục của chúng ta bước lên một giai đoạn
phát triển mới.
Sáng tạo sẽ luôn là loại “gia vị” bí mật của một nền giáo dục toàn diện
Thật vậy, chúng ta biết rằng để những thế hệ trẻ có thể đối mặt và vượt qua
được những thách thức lớn sau này, đòi hỏi phải có những giải pháp thực sự sáng tạo,
nhưng chỉ một mình STEM không thể mang đến điều đó. Chính STEAM và sự tham
gia của nghệ thuật vào trong giáo dục là rất quan trọng dành cho học sinh ở cấp lớp từ
mầm non lên đến lớp 12. Theo đó, việc tiếp nhận những bộ môn Khoa học, Công
Nghệ, Kỹ thuật, và Toán học trong STEM đối với học sinh cũng trở nên dễ dàng hơn,
và đồng thời đảm bảo được trong hành trình đổi mới của chúng ta, sự sáng tạo không
bị quên lãng và bỏ lại phía sau. Các công ty và tổ chức mà trước kia vẫn tìm kiếm
những tài năng từ trong các trường đại học nghiên cứu cỡ lớn, nay lại chuyển hướng đi
tìm những người có khả năng sáng tạo, những người có thể mang đến những kỹ năng
giải quyết vấn đề độc đáo, và một sự hiểu biết sâu sắc về trải nghiệm của người dùng.
Gần đây, trong cuốn sách bán chạy nhất của Walter Issacson viết về tiểu sử
Steve Jobs, có nhắc đến việc Jobs đã từng nói rằng nhiều kỹ sư tài năng nhất của
Apple đều rất giỏi trong âm nhạc hay một loại hình nghệ thuật nào đó. Lisa Phillips,
một tác giả, nhà báo, và là một nhà giáo dục về kỹ năng lãnh đạo và nghệ thuật cũng
đã liệt kê ra một danh sách 10 kỹ năng mà những người trẻ tuổi sẽ lĩnh hội được thông
qua việc học nghệ thuật, đó là
1. Sáng tạo
2. Tự tin
3. Giải quyết vấn đề
4. Kiên trì
5. Tập trun
6. Giao tiếp phi ngôn từ
7. Tiếp nhận phản hồi mang tính xây dựng
8. Hợp tác
9 Tận tâm
10. Trách nhiệm
Các học sinh, sinh viên có khuynh hướng nghệ thuật hay được đào tạo toàn diện
cả về kiến thức và nghệ thuật hiện nay đang có một tác động rất lớn vào việc đổi mới
xã hội. Chính các em là những người giúp giải quyết các vấn đề toàn cầu quan trọng,
là người đưa ra những giải pháp sáng tạo đối với môi trường, và những thách thức của
xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần những chương trình đào tạo kết hợp hài
hòa giữa các bộ môn Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học và Nghệ thuật để đào
tạo ra những thế hệ trẻ toàn diện cả về học thuật, và thúc đẩy sự sáng tạo bên trong
của mỗi người. Chúng ta cần những ý tưởng mới, những giải pháp mới cho các vấn
10
đề hiện tại và sau này. Chúng ta cần đánh thức những “nghệ sĩ” bên trong chính
những thế hệ học sinh nhỏ tuổi để các em có thể trở thành những công dân toàn cầu
thực thụ.
Tin rằng, đổi mới từ STEM sang STEAM là điều vô cùng cần thiết để cải
thiện nền giáo dục của chúng ta. Cho dù bạn là một nghệ sĩ, nhà thiết kế, kỹ sư công
nghệ, nhà khoa học, thì việc chuyển đổi sang STEAM là cấp thiết hiện nay; sự sáng
tạo là điều kiện cần cho sự phát triển giáo dục của chúng ta. Không ai có thể phủ
nhận thêm nữa về tầm quan trọng của giáo dục nghệ thuật, nơi mang đến những sự
đổi mới cho cuộc sống và tương lai của chúng ta.
Hiện nay, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hệ thống Trường Tây Úc đang áp
dụng phương pháp giáo dục STEAM cho trẻ từ cấp lớp mầm non lên đến năm 12.
Phương pháp này cần được mở rộng ra không chỉ riêng tại TP. Hồ Chí Minh mà trên
toàn Việt Nam. Đối với Khối Mầm non và Tiểu học, giáo viên sẽ khuyến khích các
bé tự do thử sức với nhiều ý tưởng khác nhau, và không để cho cảm giác “sợ sai”
kiềm chế khả năng của mình. Giáo viên sẽ là người luôn lắng nghe đa chiều và mang
lại cho các em học sinh một nền tảng kiến thức thực tế ngay từ khi còn nhỏ. Ở bậc
trung học, STEAM đòi hỏi và trang bị cho học sinh những kỹ năng đánh giá về nghề
nghiệp, sở thích, cơ hội và sự phát triển trong bối cảnh lịch sử, hiện tại và tương lai,
từ quy mô địa phương ra đến toàn cầu. Các em được học và áp dụng những kiến thức
từ nền tảng đến chuyên sâu, những kỹ năng và sự kỷ luật thông qua việc thực hiện
các dự án thực tế và việc nghiên cứu những cập nhập mới nhất về các lĩnh vực liên
quan. Học sinh còn có cơ hội tự đánh giá niềm đam mê, sở thích, trải nghiệm và tài
năng của chính mình nhằm cải thiện sự phát triển của mỗi cá nhân ngày qua ngày.
Điều này vô cùng hữu ích cho các em khi theo đuổi những khát vọng tương lai sau
khi ra trường. Với những ưu điểm nổi trội trên, tin rằng STEAM sẽ giúp đào tạo
những đứa trẻ – với đủ mọi trình độ và khả năng, trở thành những công dân toàn cầu
trong chính cộng đồng của mình.
1.3. Những điểm mạnh của giáo dục STEM/STEAM
Thứ nhất: Giáo dục STEM/STEAM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách
tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy
bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một
mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được
kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
Giáo dục STEM/STEAM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo
ra những con người có năng lực làm việc “tức thì” trong môi trường làm việc có tính
sáng tạo cao với những công việc đòi hỏi trí óc của thế kỷ 21.
Điều này phù hợp với cách tiếp cận tích hợp trong Chương trình GDPT mới. Vì
thế, tư tưởng này của giáo dục STEM/STEAM cần được khai thác và đưa vào mạnh
mẽ trong Chương trình GDPT mới.
Thứ hai: Giáo dục STEM/STEAM đề cao đến việc hình thành và phát triển
năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học
sinh được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến
các kiến thức khoa học.
Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức
11
thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa, học liệu, thí nghiệm,
công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra.
Các kiến thức và kỹ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau
giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo ra được
những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Tư tưởng này của giáo dục
STEM/STEAM cũng cần được khai thác và đưa vào mạnh mẽ trong Chương trình
GDPT mới.
Thứ ba: Giáo dục STEM/STEAM đề cao một phong cách học tập mới cho
người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà
phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết
cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với
tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.
Sự thẩm thấu kiến thức theo cách như vậy chính là một trong những định hướng
mà giáo dục cần tiếp cận. Tuy vậy, có thể thấy phương thức dạy học như trên là không
hề dễ dàng ngay cả đối với thế giới chứ không chỉ riêng trong điều kiện hiện nay của
chúng ta.
1.4. Các cấp độ của tổ chức dạy học STEM/STEAM
Việc tổ chức dạy học STEM có nhiều cấp độ khác nhau. Tùy thuộc vào điều
kiện hoàn cảnh của từng trường mà lựa chọn cấp độ để đạt được hiệu quả giáo dục tốt
nhất. Có 4 cấp độ dạy học STEM/STEAM như sau:
Cấp độ định hướng STEM/STEAM: Tập trung dạy liên môn, học sinh được
cung cấp kiến thức các môn STEM chắc chắn, khả năng sáng tạo, tư duy logic, hiệu
suất làm việc vượt trội có cơ hội phát triển các kĩ năng mềm toàn diện hơn, có khả
năng định hướng nghề nghiệp tương lai. Cấp độ này hiện giờ là phù hợp cho trình độ
giáo viên và học sinh ở nhiều trường THPT ở nước ta hiện nay, nhất là các trường ở
vùng nông thôn điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế.
Cấp độ bổ trợ môn học STEM/STEAM: Dạy các môn công nghệ, Robotics- các
môn điển hình cho dạy học STEM/STEAM. Thông qua lập trình lắp ráp robot, học
sinh hiểu được: nguyên lí cơ bản về lập trình và các công nghệ mới hiện nay, có thể
tiếp thu các kĩ thuật lắp ráp, đồng thời phát triển tính tư duy kĩ thuật. Học công nghệ
thông qua thực hành và thông qua hoạt động dưới dạng trò chơi làm tăng hứng thú,
tránh cảm giác nặng nề quá tải.
Cấp độ bán STEM/STEAM: Dạy học tích hợp, lồng ghép liên môn của STEM
theo một giáo trình được nghiên cứu và thử nghiệm nghiêm túc, hiệu quả. Học sinh
được thực hành thông qua xem các video trong không gian ảo. Tuy nhiên cách học này
mới đảm bảo được một mặt: những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các
lĩnh vực khoa học công nghệ, kĩ thuật và toán học, lồng ghép và bổ trợ cho nhau trong
một giáo trình có chủ đích. Còn về mặt ứng dụng thực tiễn của STEM chưa được đề
cập, học sinh chưa được trực tiếp làm mới được thấy thực tế ở mức độ mô tả, hình
dung.
Cấp độ tiếp cận quan điểm STEM/STEAM hoàn toàn: Dạy học cấp độ bán
STEm kết hợp học sinh được thực hành thông qua các dự án STEM. Dự án ở đây là
một bài tập tình huống, một chủ đề mà người học phải giải quyết bằng kiến thức
STEM.
12
Giáo dục STEM/STEAM nói chung và dạy học STEM/STEAM nói riêng
không phải là để học sinh trở thành những nhà khoa học mà là xây dựng cho học sinh
những năng lực cần thiết để làm việc trong thế giới công nghệ hiện đại, trong tương
lai. Để đạt được hiệu quả trong dạy học STEM/STEAM, trước hết giáo viên phải có
những nhận thức đúng, chính xác về STEM/STEAM.
1.5. Các tiêu chí để đánh giá một bài học STEM/STEAM
Tiêu chí 1: Chủ đề bài học STEM/STEAM tập trung vào các vấn đề thực tiễn
Trong các bài học STEM/STEAM, học sinh được đặt vào các vấn đề thực tiễn
xã hội, kinh tế, môi trường và yêu cầu tìm giải pháp
Tiêu chí 2: Cấu trúc bài học STEM/STEAM được thiết kế theo quy trình kĩ thuật
hoặc quy trình nghiên cứu khoa học
Quy trình thiết kế kỹ thuật :
Thiết kế kỹ thuật là cụ thể hóa ý tưởng của dự án nhằm thể hiện đầy đủ các giải
pháp, thông số kỹ thuật và vật liệu sử dụng phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật được áp dụng, là cơ sở để triển khai thiết kế bản vẽ thi công.
Quy trình thiết kế kỹ thuật cung cấp một tiến trình linh hoạt đưa học sinh từ
việc xác định một vấn đề hoặc một yêu cầu thiết kế đến sáng tạo và phát triển giải
pháp. Trong quy trình thiết kế kỹ thuật, các nhóm học sinh thử nghiệm các ý tưởng
dựa trên nghiên cứu của mình, sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau mắc sai lầm,
chấp nhận và học từ sai lầm, và thử lại. Sự tập trung của học sinh là phát triển các giải
pháp. Một quy trình thiết kế kĩ thuật gồm những bước sau:
13
Quy trình nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm hiểu thế giới thông qua các suy luận
logic, thí nghiệm kiểm chứng để tìm hiểu quy luật vận hành của vạn vật hay tăng sự
hiểu biết về thế giới. Một quy trình nghiên cứu khoa học gồm những bước sau:
Tiêu chí 3:Phương pháp dạy học STEM/STEAM đưa học sinh vào những hoạt
động tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm
Trong bài học STEM, hoạt động của học sinh được thực hiện theo hướng mở có
“ khuôn khổ” về các điều kiện ma học sinh được sử dụng (chẳng hạn các vật liệu khả
dụng). Hoạt động học của học sinh là hoạt động được chuyển giao và hợp tác; các
quyết định về giải pháp giải quyết vấn đề là của chính học sinh. Học sinh thực hiện các
hoạt động trao đổi thông tin để chia sẻ ý tưởng và tái thiết kế nguyên mẫu của mình
nếu cần. Học sinh tự điều chỉnh các ý tưởng của mình và thiết kế hoạt động khám phá
của bản thân.
Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức bài học STEM/STEAM lôi cuốn học sinh vào hoạt
động nhóm kiến tạo
Giúp học sinh làm việc cùng nhau như một nhóm kiến tạo không bao giờ là
một việc dễ dàng. Tuy nhiên, việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu tất cả giáo viên
STEM ở trường làm việc cùng nhau để áp dụng làm việc nhóm, sử dụng cùng một
ngôn ngữ, tiến trình và mong đợi cho học sinh. Làm việc nhóm trong thực hiện các
hoạt động của bài học STEM/STEAM là cơ sở phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác.
Tiêu chí 5: Nội dung và bài học STEM/STEAM áp dụng chủ yếu từ nội dung
khoa học và toán học mà học sinh đã và đang học
Trong các bài học STEM/STEAM, giáo viên cần kết nối và tích hợp một cách
có mục đích nội dung từ các chương trình khoa học, công nghệ và toán. Lập kế hoạch
để hợp tác với các giáo viên toán, công nghệ và khoa học khác để hiểu rõ nội hàm của
việc làm thế nào để các mục tiêu khoa học có thể tích hợp trong một bài học đã cho.
Từ đó, học sinh dần thấy rằng khoa học, công nghệ và toán không phải là các môn học
14
độc lập, mà chúng liên kết với nhau để giải quyết các vấn đề. điều đó có liên quan đến
việc học toán, công nghệ và khoa học của học sinh.
Tiêu chí 6: Tiến trình bài học STEM/STEAM tính đến có nhiều đáp án đúng và
coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập
Một câu hỏi nghiên cứu đặt ra, có thể đề xuất nhiều giả thuyết khoa học; một
vấn đề cần giải quyết, có thể đề xuất nhiều phương án, và lựa chọn phương án tối ưu.
Trong các giả thuyết khoa học, chỉ có một giả thuyết đúng. Ngược lại, các phương án
giải quyết vấn đề đều khả thi, chỉ khác nhau ở mức độ tối ưu khi giải quyết vấn đề.
Tiêu chí này cho thấy vai trò quan trọng của năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo trong bài học STEM/STEAM
1.6. Các bước thiết kế một hoạt động/dự án dạy học định hướng STEM/STEAM
Để xây dựng một dự án STEM/STEAM cần chú ý:
Chú ý 1. Luôn yêu cầu học sinh tiến hành theo trình tự:
– Làm như sách
– Làm tốt hơn sách
– Làm tốt hơn nữa
Chú ý 2. Sau mỗi dự án cần tiến hành điều tra ý kiến học sinh để hoàn thiện và
rút kinh nghiệm cho dự án tiếp theo:
PHIẾU LẤY Ý KIẾN HỌC SINH SAU DỰ ÁN
STT | Câu hỏi | Câu trả lời |
1 | Khi làm sản phẩm, em thích điều gì nhất? vì sao? | |
2 | Ứng dụng toán (hóa học/vật lý/ sinh học…) ở chỗ nào? Liên quan đến mảng kiến thức nào? | |
3 | Theo em sản phẩm này ứng dụng được vào trong thực tế như thế nào? | |
4 | Các em đã phân công công việc trong nhóm như thế nào? | |
5 | Các em gặp những khó khăn gì? Các em đã giải quyết ra sao? | |
6 | Điều gì em nghĩ có thể làm mới hơn so với sách, so với các bạn? |
Các bước xây dựng hoạt đông/dự án STEM/STEAM bao gồm:
Bước 1: Xác định chủ đề dự án dạy học định hướng STEM/STEAM: Dự án
STEM/STEAM cần khơi gợi những đam mê, hứng thú của học sinh, giúp học sinh
thông qua dự án STEM/STEAM lĩnh hội kiến thức và định hướng học sinh theo đuổi
ước mơ, ngành nghề trong tương lai. Khi lựa chọn dự án cần chú ý các vấn đề sau:
– Dự án phải là một vấn đề, một chủ đề có tính bao quát, tính thực tiễn và tính thời sự.
– Nội dung dự án phải gắn với yếu tố nghiên cứu khoa học, yếu tố kĩ thuật của các
ngành nghề hiện đại, kiến thức của dự án phải nằm trong chương trình giáo dục trung
học phổ thông do Bộ Giáo Dục quy định.
Bước 2: Xác định mục tiêu của dự án
Trong bước này cần cụ thể và lượng hóa các năng lực chuyên môn của những
môn học liên quan, các năng lực và kĩ năng mà học sinh cần hình thành qua chủ đề.
Đối với mỗi một năng lực cần phân tích và tìm hiểu từng thành tố, biểu hiện và hành vi
cấu thành nên năng lực đó.
Bước 3: Xác định các vấn đề cần giải quyết trong dự án/Câu hỏi nghiên cứu:
Dự án đề cập đến đối tượng nào? Đối tượng đó có mặt trong lĩnh vực nào của đời
15
sống? Đối tượng đó liên quan đến những kiến thức khoa học nào? Xác định các nội
dung kiến thức STEM/STEAM cần sử dụng để giải quyết vấn đề. Trả lời cho câu hỏi:
Vận dụng những nội dung kiến thức nào để thực hiện dự án?
Bước 5: Xây dựng các hoạt động, Lập kế hoạch dạy học, các giai đoạn giải quyết vấn
đề của dự án
• Tên hoạt động
• Câu hỏi hoạt động
• Kiến thức liên quan
• Chỉ số hành vi cần đánh giá
• Nguyên vật liệu
• Các bước tiến hành
• Kết quả, giải thích và đánh giá kết quả
• Giáo án (Ai? Làm gì? Như thế nào? Bao lâu?)
• Lựa chọn hoạt động
• Sự kết hợp giữa các giáo viên (nếu cần)
• Xây dựng công cụ đánh giá
Bước 6: Tổ chức dạy học và đánh giá
• Tiến hành theo giáo án
• Đánh giá và điều chỉnh
2. Xây dựng dự án dạy học định hướng STEM/STEAM: “Dạy học
STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ đề Coronavirus
Bước 1. Xác định chủ đề dự án giáo dục: Chung tay đẩy lùi đại dịch Covid 19
Bước 2: Xác định mục tiêu của dự án
Kiến thức: Giúp học sinh có kiến thức tổng hợp trên nhiều lĩnh vực như: Khoa học,
công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) và nghệ thuật.
Trình bày được các kiến thức cơ bản về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do
chủng mới của virus Corona gây ra như tên gọi, nguồn gốc, lịch sử dịch bệnh, cấu trúc,
hình thức lây truyền, dấu hiệu và triệu chứng, giao thức chuẩn đoán, cách phòng ngừa
dịch bệnh.
Trình bày và phân tích được tình hình diễn biến dịch Covid-19 trên thế giới và
ở Việt Nam thông qua hệ thống biểu đồ, bảng số liệu.
Hiểu được vai trò của cá nhân và cộng đồng, hiểu được thế nào là nhân nghĩa,
hợp tác; hiểu trách nhiệm của công dân trước vấn đề có tính cấp thiết toàn cầu.
Đọc hiểu văn bản và viết được các đoạn nghị luận xã hội liên quan đến Covid-
19.
Tìm hiểu các loại hình nghệ thuật để truyền tải những thông điệp nhân văn về
công tác phòng chống bệnh Covid-19, bước đầu có thể vẽ tranh cổ động, sáng tác thơ,
nhạc, video clip, gửi những thông điệp từ trái tim… liên quan đến Covid-19 tới cộng
đồng.
Kĩ năng: Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức STEM để giải quyết tình huống thực
tiễn
Kĩ năng tính toán, vẽ biểu đồ, bảng số liệu, kĩ năng viết báo cáo ngắn (nhận xét,
phân tích vấn đề)
Kĩ năng thu thập xử lí thông tin, số liệu trên mạng Internet.
Kĩ năng đọc hiểu văn bản thông tin, văn bản nhật dụng; kĩ năng viết văn nghị
luận xã hội bàn về một hiện tượng trong đời sống, bàn về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
Kĩ năng thuyết trình, trình bày một vấn đề; kĩ năng phản biện một vấn đề
16
Kĩ năng sáng tạo: vẽ tranh, làm thơ, viết tự truyện, sáng tác các bài hát, điệu
nhảy, quay dựng clip hoặc phim ngắn.
Phẩm chất đạo đức, thái độ hành vi:
Giúp học sinh có ý thức, trách nhiệm và có những hành động thiết thực để
phòng,chống Covid-19 và tuyên truyền cộng đồng phòng,chống Covid-19.
Giáo dục cho HS ý thức sống gắn kết và có trách nhiệm với với bản thân, gia
đình và cộng đồng.
Giáo dục cho HS Thái độ nghiêm túc tuân thủ các chủ trương, chính sách, pháp
luật của nhà nước trong phòng chống dịch Covid-19.
Định hướng phát triển năng lực
Hình thành cho học sinh những năng lực chung như: năng lực giải quyết vấn đề
và sáng tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực tự chủ và tự học; năng lực tư duy;
năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng CNTT và truyền thông; năng lực phản
biện; năng lực thực hành, làm việc nhóm; năng lực làm chủ bản thân; kĩ năng quản lý
thời gian, thao tác thực hành trong quá trình thực hiện dự án.
Hình thành cho học sinh những năng lực chuyên biệt như:
Năng lực chuyên biệt môn Toán: năng lực tính toán (Năng lực sử dụng các
phép tính, Năng lựcsử dụng ngôn ngữ toán, Năng lực mô hình hóa, Năng lực sử dụng
công cụ đo, vẽ, tính);
Năng lực chuyên biệt môn Tin học: Năng lực CNTT-TT cơ bản (Nhận biết,
thao tác với phần mềm, thiết bị CNTT, Sử dụng CNTT-TT hỗ trợ học tập, Sử dụng
CNTT-TT trong giao tiếp, Đạo đức, hành vi phù hợp khi sử dụng CNTT-TT), năng lực
khoa học máy tính (Giải quyết vấn đề dựa trên tin học, Định hướng nghề nghiệp)
Năng lực chuyên biệt môn Địa lý: năng lực sử dụng số liệu thống kê, sử dụng
hình vẽ, tranh ảnh địa lý, mô hình, video…
Năng lực chuyên biệt môn Ngữ văn: năng lực đọc hiểu văn bản; năng lực tạo
lập văn bản; năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
Năng lực chuyên biệt môn Sinh học: Năng lực kiến thức sinh học (bao gồm các
kiến thức của chương III Virut và bệnh truyền nhiễm), cụ thể Bài 30: Sự nhân lên của
virut trong tế bào chủ (Chương trình SGK Sinh học 10); Năng lực nghiên cứu khoa
học (bao gồm quan sát các hiện tượng trong thực tiễn hay trong học tập để xác lập vấn
đề nghiên cứu; thu thập các thông tin liên quan thông qua nghiên cứu tài liệu; hình
thành giả thuyết khoa học, thu thập và phân tích dữ liệu; giải thích và rút ra kết luận);
Năng lực chuyên biệt môn Giáo dục công dân: năng lực tự nhận thức, tự điều
chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội; năng lực tự chịu
trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng đất nước; năng lực giải
quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội; năng lực đánh giá (năng lực tư
duy phê phán)
Năng lực chuyên biệt môn hóa học: năng lực thực hành thí nghiệm và vận dụng
kiến thức hóa học vào thực tiễn (điều chế dung dịch rửa tay khô)
Năng lực chuyên biệt các môn nghệ thuật: năng lực cảm thụ thẩm mĩ, từ đó
đánh giá và sáng tạo thẩm mĩ.
Bước 3: Xác định các vấn đề cần giải quyết trong dự án/ Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực trạng đại dịch Covid-19. Trả lời câu hỏi: Đại dịch Covid 19 trên thế
giới và ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào?
2. Phân tích nguyên nhân lây lan của dịch bệnh. Trả lời các câu hỏi: Cơ chế lây
truyền của bệnh gây ra bởi virut Côrôna, biểu hiện của bệnh như thế nào? Tại sao căn
bệnh này lại lây lan nhanh trên phạm vi toàn cầu và mức độ nguy hiểm của nó.
17
3. Đề xuất các giải pháp để chung tay đẩy lùi đại dịch Covid-19
Trả lời các câu hỏi: Tuyên truyền về đại dịch Covid -19bằng cách nào? Những hành
động cụ thể nào nhằm đẩy lùi đại dịch Covid-19
Bước 4: Xác định các nội dung kiến thức STEM cần sử dụng để giải quyết vấn đề
Trả lời cho câu hỏi: Vận dụng những nội dung kiến thức nào để thực hiện dự
án?
Ngoài các nội dung kiến thức của 4 lĩnh vực: Khoa học, công nghệ, kĩ thuật, toán học;
dự án còn vận dụng kiến thức của lĩnh vực nghệ thuật.
1. Khoa học (Science)
Dự án vận dụng một số kiến thức cơ bản của các môn khoa học tự nhiên:
Sinh học qua việc tìm hiểu Tên gọi; nguồn gốc; lịch sử dịch bệnh; cấu trúc;
hình thức lây truyền, dấu hiệu và triệu chứng; giao thức chuẩn đoán; cách phòng ngừa
dịch bệnh.
Toán học, hóa học, lí học: Điều chế nước rửa tay khô. Tính toán hàm lượng
thành phần, nồng độ Ethanol (Cồn); Deionized Water (Nước tinh khiết); Sodium
Lactate (Chất hút ẩm); Fragrance (Hương liệu tạo mùi/Tinh dầu làm thơm);
Benzalkonium Chloride (Chất diệt khuẩn); giải thích Sự bay hơi của cồn; tính toán
hàm lượng thành phần, nồng độ chất dưỡng ẩm, dưỡng da tay, làm sao cho tay không
bị khô (có thể thay thế bằng gel nha đam hoặc vitamin E dạng dầu lỏng), tinh dầu
(thành phần này không bắt buộc trong cách làm nước rửa tay khô; đây là thành phần
thêm vào giúp giảm bớt mùi của cồn, tạo mùi thơm dễ chịu và có công dụng dưỡng ẩm
tốt hơn, có thể sử dụng các loại như tinh dầu tràm, tinh dầu quế, tinh dầu bạc hà,…),
tính toán diện tích mô hình bệnh viện cho phù hợp với diện tích trường Ngô Quyền để
có thể chuyển trường học thành một bệnh viện dã chiến trong trường hợp khẩn cấp .
Ngoài ra, dự án còn vận dụng kiến thức cơ bản của các môn khoa học khác như:
Địa lí, Ngữ văn, Giáo dục công dân, Lịch sử, Thể dục: Tính toán và vẽ biểu đồ số ca
nhiễm; tìm hiểu lịch sử dịch bệnh; nêu những bài học rút ra từ cuộc chiến “chống dịch
như chống giặc” ; Trách nhiệm của công dân với cộng đồng và với việc phòng ngừa,
đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo nói chúng, đẩy lùi coronavirus nói riêng?
Ngay cả môn Thể dục, có thể làm các clip rất chân thực, tự nhiên khi cảnh quay
là tại nhà của các giáo viên để hướng dẫn HS rèn luyện các bài tập TDTT cơ bản để
nâng cao sức khỏe.
2. Công nghệ (Technology)
Sử dụng mạng Internet để tìm hiểu các vấn đề cần giải quyết
Sử dụng Power point để trình bày các vấn đề tìm hiểu, báo cáo dự án.
Sử dụng các trang facebook, zalo để liên hệ làm việc nhóm trong giai đoạn cách
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT
Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa