SKKN Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn THPT
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education
ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới “căn bản toàn diện” giáo dục và đào tạo
Đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra đối với tất cả các
ngành học, cấp học của hệ thống giáo dục trong những thập kỉ đầu thế kỉ
XXI.Ngày 4 tháng 11năm 2013, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị
quyết 29-NQ/TW vềĐổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã nêu rõ
định hướng đổi mới giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú
trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học”, “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường
kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội”, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực trong giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế của đất nước. Để thực hiện tư tưởng đó, cần “tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới
tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”, “nội dung hình thức kiểm tra thi và đánh
giá kết quả giáo dục phải chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức kĩ
năng vào giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn…”.Ngày 08-10-2014,
Bộ GD và ĐT ban hành công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH hướng dẫn sinh
hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, tổ chức
và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/ trung tâm giáo dục
thường xuyên qua mạng. Cuối năm 2014, Quốc hội cũng đã thông qua Nghị
quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT, nhằm
mục đích “tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo
dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp
phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát
triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà trí, đức, thể, mỹ và phát huy
tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Đến cuối năm 2018, Bộ Giáo dục và đào
tạo đã ban hành Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về việc ban hành chương trình
giáo dục phổ thông. Đứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục thì đổi mới phương
2
pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học là một
giải pháp được xem là then chốt, có tính đột phá cho việc thực hiện đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và nâng cao hiệu quả giáo dục.
Đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không
chỉ chú ý tích cực hóa học sinhvề hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng
lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp,
đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Đổi mới
phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người
học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi
chép, tìm kiếm thông tin,…), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc
lập, sáng tạo của tư duy. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phải
đảm bảo nguyên tắc “học sinh được tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với
sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn là chuyển những kết quả về
đổi mới phương pháp dạy học cả chương trình Ngữ văn hiện hành từ “mặt bên
ngoài” vào “mặt bên trong” để phát huy hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học,
đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển năng lực của học sinh. Các lý thuyết
hiện đại thường được nhắc đến: lý thuyết đa trí tuệ (Howard Gardner), lý thuyết
hoạt động (Leonchiev), lý thuyết kiến tạo (đại diện là Piagiê, Vưgốtki),… và
quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” chính là cơ sở để xác định các nội dung
đổi mới phương pháp dạy học.
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ
văn như dạy học đọc hiểu, dạy học tích hợp thì việc phát huy các phương pháp
dạy học tích cực cũng góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
đạt hiệu quả, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. Trong đó phương pháp
thảo luận nhóm được sử dụng phổ biến. Thảo luận nhóm là một trong những
phương pháp dạy học tạo được sự tham gia tích cực của học sinh trong học tập.
Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến
về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Phương pháp thảo luận nhóm được
sử dụng hiệu quả sẽ hình thành những năng lực cần thiết cho người học.
3
2. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống
Xã hội ngày càng phát triển, đòi hỏi mỗi người cần phải có nền tảng kĩ
năng nhất định để trở thành những “công dân toàn cầu”. Mục tiêu giáo dục của
chúng ta hiện nay đang tích cực rèn luyện kĩ năng sống, phát triển năng lực cho
học sinh. Rời ghế nhà trường để bước vào đời, các em không phải chỉ là những
người có trình độ, có kiến thức mà còn cần là người có kĩ năng sống, có năng
lực giải quyết các vấn đề. Đó là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho
phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc
sống hàng ngày” (WHO). Có năng lực, kĩ năng sống giúp chúng ta giải quyết
những nhu cầu và thách thức khi phải đối mặt một cách có hiệu quả. Sống trong
xã hội hiện đại, người có năng lực, có kĩ năng sống sẽ cho phép họ sự tự do,
rộng rãi trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với khả năng của cá nhân
mình và khi đã chọn được nghề nghiệp phù hợp thì năng lực, kĩ năng của họ
ngày càng được hoàn thiện hơn và hoạt động của họ luôn luôn có kết quả hơn.
Hoạt động nhóm là hoạt động hình thành nhiều kĩ năng và năng lực cần thiết cho
học để họ tự tin bước vào cuộc sống hiện đại ngày nay.
3. Xuất phát từ thực tế dạy học hiện nay
Thực hiện đổi mới Chương trình và SGK, trong đó có hoạt động dạy
học Ngữ văn theo hướng hình thành và phát triển năng lực, các kĩ năng cho
HS, tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học hình thành những kĩ năng và năng
lực nào cho người học?
Hoạt động nhóm kích thích lòng ham mê học tập, tìm tòi, sáng tạo của
học sinh, tránh lối học thụ động. Giúp học sinh phát triển kĩ năng giải quuyết
vấn đề theo nhóm, có tinh thần đoàn kết cao. Học sinh hợp tác hỗ trợ lẫn nhau
trong quá trình học tập, tự đánh giá, tự điều chỉnh vốn tri thức của bản thân
bằng phương pháp tự học và khám phá thêm những kiến thức liên quan từ
thực tiễn. Khi hoạt động nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ
phát huy được tính tích cực, chủ động của mình trong việc chiếm lĩnh tri thức
bài học. Điều này giúp người học ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Năng lực
giao tiếp và hợp tác được phát triển mạnh trong hoạt động nhóm.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều giáo viên vẫn còn lúng túng khi tổ chức hoạt
động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn khiến cho hoạt động này không đạt
4
được hiệu quả như mong muốn, không tạo được hứng thú học tập cho người
học, không hình thành và phát triển được các kĩ năng, năng lực thiết yếu cho
người học.
Xuất phát từ những lí do: dạy học hiện đại là dạy học hướng đến việc phát
triển năng lực, kĩ năng cho người học; hoạt động nhóm có nhiều lợi thế trong
việc rèn luyện kĩ năng và phát triển năng lực cho người học. Đây là một trong
những hình thức tổ chức dạy học phát huy cao tính tích cực, năng động, tự lực,
sáng tạo cho học sinh đồng thời rèn luyện kĩ năng hợp tác, phân tích, lắng nghe,
suy nghĩ, phản hồi và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Đây là những năng
lực và kĩ năng cần có trong xã hội hiện đại khi các em tự mình bước đi trong
cuộc sống với những công việc của mình. Từ những kinh nghiệm của bản thân
sau những năm tham gia giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong chương trình THPT,
chúng tôi xin trình bày những điều đúc rút được từ thực tiễn qua đề tài: “Nâng
cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ vănTHPT”.Chúng tôi
nhận thấy đây là những điều thiết thực và bổ ích có thể góp phần vào việc nâng
cao chất lượng giảng dạy và rèn luyện kĩ năng, năng lực cần thiết cho học sinh
THPT.
5
PHẦN II: MÔ TẢ GIẢI PHÁP
A. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
Đổi mới phương pháp dạy học không còn là điều xa lạ đối với giáo viên.
Bên cạnh các phương pháp dạy học tích cực mang tính chất đặc thù cho bộ môn
Ngữ văn như phương pháp dạy học đọc hiểu, đóng vai,… thì phương pháp thảo
luận nhóm cũng đem lại hiệu quả giáo dục cao và được giáo viên sử dụng nhiều
trong giờ học. Bởi lẽ phương pháp này huy động được tất cả học sinh tham gia
vào hoạt động học tập, nâng cao tính tương tác giữa các thành viên, người học
có cơ hội được trao đổi, thảo luận, lắng nghe, học hỏi kiến thức của nhau, người
học được rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp, thuyết trình… Tuy nhiên,
trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm vẫn còn nhiều hạn chế khiến hiệu quả
hoạt động nhóm chưa đạt hiệu quả cao.Để có thêm cơ sở thực tiễn, chúng tôi
tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học
môn Ngữ văn cho học sinh ở trường THPT. Tôi tiến hành tìm hiểu thực tế việc
tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn thông qua những hình thức
như: phỏng vấn, trao đổi với giáo viên, trò chuyện với học sinh, sử dụng phiếu
thăm dò ý kiến đối với giáo viên và học sinh ở trường THPT Trần Văn Lan –
Huyện Mỹ Lộc – Tỉnh Nam Định.
1. Khảo sát tình hình tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ vănở
nhà trường phổ thông đối với giáo viên
Như chúng tôi đã đề cập, trong nhiều năm trở lại đây, dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho HS là mục tiêu trọng tâm hàng đầu của ngành
giáo dục Việt Nam. Riêng đối với bộ môn Ngữ văn, ngoài năng lực đọc – hiểu
văn bản thì năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực học và tự chủ,… cũng được
các nhà sư phạm rất chú trọng. Tôi đã tiến hành khảo sát 58 GV Ngữ văn của
một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Nam Định.
1.1. Phiếu khảo sát giáo viên
Hãy cho biết ý kiến của thầy (cô) bằng cách khoanh tròn vào chữ số tương
ứng theo quy ước trong từng câu hỏi hoặc đánh dấu X vào ô tương ứng:
6
Câu 1: Trong quá trình dạy học môn Ngữ văn, thầy/ cô có thường xuyên tổ
chức hoạt động nhóm cho học sinh không?
a. Rất thường xuyên | b. Thường xuyên |
c. Không thường xuyên | d. Không khi nào |
Câu 2: Theo thầy/ cô hoạt động nhóm góp phần hình thành và phát triển
những năng lực như thế nào cho học sinh không?
a. Rất quan trọng | b. Quan trọng |
c. Bình thường | d. Không quan trọng |
Câu 3: Thầy/ cô đánh giá như thế nào về kĩ năng làm việc nhóm của học
sinh?
a. Rất tốt | b. Tốt |
c. Bình thường | d. Không tốt |
Câu 4: Trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm, thầy/ cô gặp những khó
khăn gì?
Những khó khăn | Mức độ khó khăn (%) | ||
Cực kì khó khăn | Nhiều khó khăn | Ít khó khăn | Không khó khăn |
Quản lí lớp học (lớp học ồn ào,…) | |||
Thời lượng tiết học (không đủ thời gian 1 tiết học…) | |||
Cách chia nhóm | |||
Thu hút học sinh tham gia hoạt động nhóm một cách tích cực | |||
Giao nhiệm vụ học tập | |||
Đánh giá hiệu quả hoạt động nhóm | |||
Không gian lớp học | |||
Các trang thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu, hệ thống âm thanh,…) |
7
1.2. Kết quả khảo sát
Câu hỏi | Các mức độ | |||||||
1 | 2 | 3 | 4 | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |
1 | 5 | 8,6 | 40 | 68,9 | 13 | 22,5 | 0 | 0 |
2 | 9 | 15,5 | 43 | 74,1 | 6 | 10,3 | 0 | 0 |
3 | 0 | 0 | 9 | 15,5 | 27 | 46,6 | 22 | 37,9 |
Câu 4:
Những khó khăn | Mức độ khó khăn (%) | |||
Cực kì khó khăn | Nhiều khó khăn | Ít khó khăn | Không khó khăn | |
Quản lí lớp học (lớp học ồn ào,…) | 20,7 | 60,3 | 19,0 | 0 |
Thời lượng tiết học (không đủ thời gian 1 tiết học…) | 43,1 | 46,6 | 10,3 | 0 |
Cách chia nhóm | 12,1 | 8,6 | 10,3 | 69,0 |
Thu hút học sinh tham gia hoạt động nhóm một cách tích cực | 44,8 | 36,2 | 12,1 | 6,9 |
Giao nhiệm vụ học tập | 0 | 24,1 | 22,4 | 53,4 |
Đánh giá hiệu quả hoạt động nhóm | 13,8 | 29,3 | 48,3 | 8,6 |
Không gian lớp học | 31,3 | 29,3 | 22,4 | 17,0 |
Các trang thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu, hệ thống âm thanh,…) | 6,9 | 20,7 | 20,7 | 51,7 |
8
1.3. Phân tích số liệu và đưa ra nhận xét
Ở câu hỏi số 1: đa số giáo viên thường xuyên tổ chức hoạt động nhóm
trong dạy học cho học sinh và không có giáo viên nào chưa từng ứng dụng tổ
chức hoạt động nhóm trong dạy học. Đây là điều đáng mừng. Bởi lẽ các thầy cô
đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
và phát triển các năng lực, kĩ năng vốn có của người học.
Đối với câu hỏi số 2, đa số giáo viên đều khẳng định họat động nhóm góp
phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho
học sinh thông qua hoạt động nhóm. Nhưng cũng đáng buồn là có10,3% giáo
viên chưa thấy được tầm quan trọng của hoạt động nhóm trong việc hình thành
và phát triển các kĩ năng cần thiết cho người học đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Đánh giá về kĩ năng làm việc nhóm của học sinh, đã phần giáo viên đều
đánh giá học sinh chưa có kĩ năng làm việc nhóm tốt: 37,9% giáo viên cho rằng
học sinh có kĩ năng làm việc nhóm không tốt, 46,6% giáo viên đánh giá học sinh
có kĩ năng làm việc nhóm ở mức bình thường. Thực tế này cho thấy việc tổ chức
hoạt động nhóm chưa thực sự hiệu quả, học sinh chưa được hình thành những kĩ
năng cơ bản cho việc làm việc nhóm.
Chia sẻ về những khó khăn khi tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học
môn Ngữ văn, tôi nhận thấy: Đa số giáo viên đều không gặp khó khăn trong việc
chia nhóm thảo luận và giao nhiệm vụ học tập cho học sinh. Đặc biệt, trang thiết
bị lớp học hiện nay cũng được nhà trường chú trọng đầu tư. Vì vậy giáo viên có
điều kiện ứng dụng đa dạng các phương pháp dạy học tích cực cho học sinh.
Tuy nhiên, việc tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lại gặp không ít khó
khăn. Cụ thể:
– Hoạt động nhóm đòi hỏi học sinh phải trao đổi, thảo luận trong nhóm
nên sẽ gay ra tiếng ồn, chưa kể có những học sinh ý thức chưa tốt sẽ lợi dụng cơ
hội để nói chuyện riêng. Vì thế 60,3% giáo viên cảm thấy khó khăn thậm chí có
20,7% giáo viên thấy rất khó khăn trong việc quản lí lớp học khi tổ chức hoạt
động nhóm.
– Để tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đòi hỏi phải có thời gian để
cho học sinh hoạt động nhóm, trình bày kết quả hoạt động. Nếu giáo viên chia
thành nhiều nhóm nhỏ thì việc đánh giá kết quả của học sinh cũng gặp không ít
9
khó khăn. Do đó 43,1% giáo viên thấy rất khó khăn và 46,6% giáo viên tháy khó
khăn khi điều chỉnh hoạt động cho phù hợp thời lượng của tiết dạy 45 phút.
– Thu hút học sinh tích cực tham gia hoạt động nhóm cũng không phải là
điều dễ dàng. Có tới 80% giáo viên gặp khó khăn khi tạo hứng thú để học sinh
tham gia tích cực hoạt động nhóm.
– Một khó khăn nữa trong việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đó là
không gian lớp học. 60,6% giáo viên gặp khó khăn ở vấn đề này. Hiện nay,
nhiều trường THPT, không gian lớp học hạn hẹp khiến việc tổ chức hoạt động
nhóm gặp nhiều khó khăn trong việc di chuyển, xếp bàn ghế ghép nhóm,…
2. Khảo sát tình hình tham gia hoạt động nhóm trong giờ học môn Ngữ
vănở nhà trường phổ thông đối với học sinh
Chúng tôi sử dụng 150 phiếu điều tra cho 05 lớp 11 ban khoa học cơ bản
trường THPT Trần Văn Lan – Huyện Mỹ Lộc – Tỉnh Nam Định.
2.1. Phiếu khảo sát học sinh
Hãy cho biết ý kiến của anh/ chị bằng cách khoanh tròn vào chữ số tương
ứng theo quy ước trong từng câu hỏi hoặc đánh dấu X vào ô tương ứng:
Câu 1: Lớp anh/ chị có thường xuyên được tham gia hoạt động nhóm trong
giờ học môn Ngữ văn không?
a. Rất thường xuyên | b. Thường xuyên |
c. Không thường xuyên | d. Không khi nào |
Câu 2: Khi học tập theo nhóm, anh/ chị tham gia hoạt động nhóm một cách:
a. Rất tích cực | b. Tích cực |
c. Chưa tích cực | d. Không tham gia |
Câu 3: Khi học tập theo nhóm, việc phân công công việc ở nhóm anh/ chị
thường diễn ra theo hướng nào?
a. Tập trung vào cá nhân xuất sắc
b. Mỗi người một việc rồi tập hợp lại
c. Trải đều công việc cho các thành viên
d. Cách riêng của nhóm anh/ chị:……………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………..
10
Câu 4: Khi tham gia hoạt động nhóm anh/ chị gặp những khó khăn nào?
Những khó khăn | Mức độ khó khăn (%) | ||
Cực kì khó khăn | Nhiều khó khăn | Ít khó khăn | Không khó khăn |
Bày tỏ quan điểm của bản thân | |||
Lắng nghe ý kiến các thành viên trong nhóm | |||
Ghi chép ý kiến các thành viên trong nhóm | |||
Phản hồi các thành viên trong nhóm | |||
Thống nhất ý kiến trong nhóm | |||
Hợp tác để thực hiện nhiệm vụ học tập |
Câu 5: Anh/ chị có thích học tập theo nhóm trong giờ học môn Ngữ văn
không?
a. Có | b. Không |
2.2. Kết quả khảo sát |
Câu hỏi | Các mức độ | |||||||
1 | 2 | 3 | 4 | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |
1 | 32 | 21,3 | 98 | 65,4 | 20 | 13,3 | 0 | 0 |
2 | 0 | 0 | 37 | 24,7 | 73 | 48,7 | 40 | 26,7 |
Các lựa chọn | ||||||||
a | b | c | d | |||||
3 | 96 | 64,0 | 28 | 18,7 | 14 | 9,3 | 12 | 8,0 |
11
Câu 4:
Những khó khăn | Mức độ khó khăn (%) | |||
Cực kì khó khăn | Nhiều khó khăn | Ít khó khăn | Không khó khăn | |
Bày tỏ quan điểm của bản thân | 20,0 | 57,3 | 18,7 | 4,0 |
Lắng nghe ý kiến các thành viên trong nhóm | 10,0 | 17,3 | 45,3 | 27,3 |
Ghi chép ý kiến các thành viên trong nhóm | 18,7 | 28,7 | 31,3 | 21,3 |
Phản hồi các thành viên trong nhóm | 50,0 | 24,0 | 21,3 | 4,7 |
Thống nhất ý kiến trong nhóm | 8,0 | 22,7 | 37,3 | 32,0 |
Câu 5: Lựa chọn có: 56 HS – 37,3%
Lựa chọn không: 94 HS – 62,7%
2.3. Phân tích số liệu và đưa ra nhận xét
Ở câu hỏi số 1: Học sinh khẳng định thường xuyên được tham gia các
hoạt động nhóm trong giờ học môn Ngữ văn (86,7%). Mặc dù thường xuyên
được tham gia các hoạt động nhóm trong giờ học, tuy nhiên học sinh lại chưa
tham gia tích cực các hoạt động nhóm. Có tới 48,7% học sinh tham gia hoạt
động nhóm với thái độ chưa tích cực. Thậm chí 26,7% học sinh không tham gia.
Đây là điều đáng lo ngại. Bởi lẽ điều đó chứng tỏ hoạt động nhóm trong giờ học
chưa đạt hiệu quả, giáo viên chưa tạo được hứng thú cho học sinh tham gia vào
các hoạt động nhóm. Cũng chính vì thế, khi hoạt động nhóm, công việc được
phân công chủ yếu vào cá nhân xuất sắc (64,0%) mà không được phân công một
cách hợp lí cho các thành viên khác trong nhóm.
Chia sẻ những khó khăn khi tham gia hoạt động nhóm, học sinh đều gặp
khó khăn trong việc bày tỏ quan điểm của cá nhân (77,7% gặp nhiều và rất nhiều
khó khăn, 18,7% gặp ít khó khăn trong việc diễn đạt suy nghĩ của bản thân). Bên
cạnh đó việc ghi chép ý kiến của các thành viên trong nhóm khi thảo luận cũng
là một vấn đề không hề đơn giản. 76,7% học sinh gặp khó khăn khi chưa biết
cách ghi chép lại nội dung ý kiến của các bạn. Từ đó việc ghi nhớ kiến thức và
12
phản biện của học sinh không được rèn luyện và phát triển. Và học sinh không
thích tham gia các hoạt động nhóm trong giờ học môn Ngữ văn (62,7%).
3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế việc tổ chức hoạt
động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn THPT
3.1. Ưu điểm
– Tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ
thông được giáo viên sử dụng thường xuyên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục, nâng cao chất lượng giảng dạy và rèn luyện, phát triển năng lực phẩm chất
cho người học.
– Trong cách thức tổ chức hoạt động nhóm, các thầy cô đã đa dạng hóa
cách chia nhóm, cụ thể hóa việc giao nhiệm vụ học tập cho học sinh.
3.2. Hạn chế
3.2.1. Về phía học sinh
Đa phần học sinh trường THPT Trần Văn Lan có học lực trung bình khá.
Nhiều học sinh còn lười học, mải chơi, ý thức học tập và rèn luyện chưa tốt. Đối
với các hoạt động học tập, các em còn ỷ lại, thụ động, chưa có ý thức chủ động
trong việc tiếp nhân kiến thức. Vì vậy, khi giáo viên tổ chức hoạt động nhóm
còn nhiều hạn chế. Cụ thể:
– Trong hoạt động nhóm chỉ có một số em tham gia (chủ yếu là học sinh
khá giỏi), số còn lại không tham gia hoặc tham gia không tích cực.
– Các thành viên trong nhóm chưamạnh dạn bày tỏ quan điểm của bản
thân, nhiệm vụ học tập thường chỉ do một vài cá nhân chăm chỉ thực hiện.
– Nhóm hoạt động tự do, nhóm trưởng chưa biết điều hành hoặc còn rụt
rè, nhút nhát.
– Việc báo cáo kết quả thường chỉ do một học sinh thường xuyên thực
hiện không luân phiên thay đổi.
3.2.2. Về phía giáo viên
– Việc dạy học theo nhóm còn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự
chú ý đến hiệu quả của hoạt động đến tất cả học sinh.
– Giáo viên quy định thời lượng chưa phù hợp với dung lượng kiến thức
và năng lực học sinh nên hiệu quả hoạt động nhóm chưa cao.
13
– Giáo viên ít quan tâm sâu sát đến hoạt động của nhóm, của cá nhân yếu
kém trong nhóm.
– Giờ học còn lộn xộn, ồn ào.
– Việc đánh giá sản phẩm hoạt động nhóm chưa hiệu quả nên chưa thúc
đẩy được sự tiến bộ của người học.
3.2.3. Nguyên nhân hạn chế
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan.
* Nguyên nhân khách quan:
– Do không gian lớp học còn hạn hẹp mà sĩ số học sinh đông nên việc tổ
chức hoạt động lớn gặp nhiều khó khăn.
– Để thực hiện hoạt động nhóm cần thời gian cho mỗi cá nhân thực hiện
và thời gian thảo luận để đưa ra ý kiến chung của nhóm nên tốn thời gian, đôi
khi vượt quá thời gian quy định của một tiết học.
* Nguyên nhân chủ quan
– Về phía học sinh:
+ Kĩ năng hợp tác học sinh của học sinh chưa tốt, học sinh chưa mạnh
dạn, tự tin.
+Học sinh chưa biết tìm kiếm sự trợ giúp của thầy cô hoặc bè bạn khi
gặp khó khăn.
+Học sinh chưa biết lắng nghe ý kiến của bạn và chưa tích cực chủ
động suy nghĩ đưa ra ý kiến của riêng mình.
+ Học sinh còn ỷ lại, thụ động, chưa có ý thức tốt trong học tập và rèn
luyện.
– Về phía giáo viên
+ Giáo viên giao nhiệm vụ học tập chưa cụ thể, rõ ràng, chưa phù hợp
với đối tượng học sinh.
+Giáo viên chưa sử dụng linh hoạt, đa dạng các kĩ thuật dạy học trong
phương pháp thảo luận nhóm để thay đổi trạng thái người học, duy trì sự tập
trung cao độ trong học tập.
+ Giáo viên chưa đa dạng hóa các hình thức đánh giá kết quả các hoạt
động nhóm để ghi nhận, khích lệ, thúc đẩy sự tiến bộ của người học.
14
+ Giáo viên chưa tạo được không khí lớp học sôi nổi, tạo cảm hứng
học tập cho người học.
B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
1. Giải pháp chung: Một số vấn đề lí luận
Để nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn, giáo
viên cần phải nắm được một số vấn đề chung về lí luận sau:
1.1. Khái niệm hoạt động nhóm
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, nhóm là “tập hợp các cá thể lại với nhau
theo những nguyên tắc nhất định”. Hiểu theo cách trên, nhóm là tập hợp những
con gnười có hành vi tương tác lẫn nhau để thực hiện các mục tiêu (chung và
riêng) và thỏa mãn các nhu cầu cá nhân.
Hoạt động nhóm trong dạy học (hay còn gọi là dạy học hợp tác) là một
hình thức tổ chức dạy học mà trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo
viên làm việc cùng nhau trong những nhóm nhỏ để hoàn thành mục đích học tập
chung của nhóm đặt ra. Trong hoạt động nhóm có nhiều mối quan hệ giao tiếp:
giữa các học sinh với nhau, giữa giáo viên với từng học sinh.
Hoạt động nhóm cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn
khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng phương pháp nhận thức
mới.
Trong hoạt động nhóm, quá trình học tập trở thành quá trình học hỏi lẫn
nhau về kiến thức, kĩ năng và phương pháp học tập, kĩ năng giao tiếp và các kĩ
năng xã hội khác.
1.2. Những nét đặc trưng của hoạt động nhóm
Hoạt động nhóm có 4 nét đặc trưng cơ bản:
– Hoạt động xây dựng nhóm: luôn đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân và
cùng chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo nhóm, trao đổi trực diện.
– Có sự phụ thuộc tích cực giữa các cá nhân: cá nhân phải nỗ lực hoàn
thành phần việc của mình. Thành công của cá nhân tạo nên thành công của cả
nhóm.
15
– Có sự ràng buộc trách nhiệm cá nhân – trách nhiệm nhóm: các thành
viên cùng nhau hỗ trợ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm và tự đánh
giá kết quả công việc của mình, của các thành viên khác.
– Có kĩ năng hợp tác trong hoạt động học tập: học sinh không chỉ lĩnh hội
kiến thức mà còn được học, được thực hành và thể hiện mình, phát triển và củng
cố các kĩ năng xã hội như lắng nghe, đặt câu hỏi, trả lời, giảng bài cho nhau, giải
quyết xung đột…
1.3. Những yêu cầu cần rèn luyện cho học sinh khi tổ chức hoạt động nhóm
Khi tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học, cần chú ý tới việc phát triển
các kĩ năng sau cho học sinh:
– Phát triển kĩ năng hợp tác:
+ Hoạt động nhóm là hình thức dạy học có chiến lược giáo dục mạnh
mẽ và linh hoạt, có những nét đặc trưng cơ bản của dạy học hiện đại, làm cho
học sinh thích ứng với xã hội hiện đại.
+ Sau khi làm việc nhóm, tình đoàn kết, ý thức tập thể sẽ được tăng lên
nhờ sự thông hiểu nhau. Đồng thời các thành viên trong nhóm sẽ biết tuân thủ
các quy định, trước hết là của nhóm. Đây là tiền đề để sau này học sinh là những
công dân tuân thủ pháp luật tốt.
– Phát triển kĩ năng giao tiếp và các kĩ năng xã hội khác:
+ Học sinh có nhiều cơ hội thảo luận, tranh luận, phát biểu bình đẳng,
thể hiện sự hiểu biết của mình và học hỏi kinh nghiệm từ bạn. Qua đó rèn luyện
cho học sinh cách trình bày, bảo vệ quan điểm của mình, cách thuyết phục và
thương lượng trong việc giải quyết vấn đề và biết cách lắng nghe người khác
cũng như phát triển kĩ năng như phê bình, phân tích, giải quyết vấn đề.
+ Qua hoạt động nhóm, bên cạnh sự hình thành và phát triển cho học
sinh khả năng làm việc nhóm còn có các năng lực xã hội khác như năng lực lãnh
đạo, đưa ra quyết định, xây dựng lòng tin, xử lí xung đột, cổ vũ, động viên,…
học sinh trở nên mềm dẻo và linh hoạt hơn trong giao tiếp.
2. Giải pháp cụ thể: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm
trong dạy học môn Ngữ văn
16
2.1. Giải pháp 1: Tạo không khí lớp học
Để đạt hiệu quả cao trong giờ học và phát huy tính tích cực của học sinh,
việc tạo không khí lớp học vui vẻ, hứng khởi là điều không thể thiếu. Trong giờ
học, dù giáo viên sử dụng phương pháp dạy học nào đi nữa mà không tạo được
không khí lớp học thì hoạt động dạy học cũng sẽ không đạt được kết quả như
mong đợi và không thể thu hút học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động dạy
học mà mình tổ chức. Bởi lẽ khi cảm xúc được khơi nguồn thì những kiến thức
bài học sẽ được lưu giữ trong trí nhớ một cách tự nhiên. Có nhiều cách để tạo
không khi lớp học trong đó người viết giới thiệu hai cách như sau:
– Giáo viên sử dụng thẻ tên. Thẻ tên này được làm trong buổi đầu tiên
của năm học mới. Giáo viên phát cho học sinh một tờ giấy nhỏ, yêu cầu học sinh
ghi tên của mình lên đó và trang trí theo sở thích của mình. Tên trên thẻ có thể
không phải là họ tên đầy đủ của học sinh mà có thể là nickname hay biệt danh
thú vị của học trò. Trên thẻ tên, học sinh có thể viết thêm những câu danh ngôn,
slogan của bản thân mình. Giáo viên sử dụng thẻ tên để gọi học sinh trả lời hoặc
kiểm tra bài cũ. Việc sử dụng thẻ tên vừa khiến cho không khí lớp vui vẻ khi
giáo viên đọc những biệt danh hài hước của học trò lại vừa đặt học sinh vào tâm
thế luôn sẵn sàng trong giờ học, học sinh không thể không tập trung vào bài
giảng của giáo viên. Thẻ tên cũng có thể được sử dụng để ghi chú quá trình học
tập của bản thân học sinh ở mặt sau của thẻ tên. Đây là một trong số những căn
cứ để giáo viên đánh giá kết quả học tập và quá trình tiến bộ của người học.
17
Ảnh: Thẻ tên của học sinh
– Giáo viên sử dụng âm nhạc trong giờ học. Giáo viên có thể sử dụng
các bản nhạc không lời để tạo không khí lớp học. Ví dụ: khi học sinh thảo luận
nhóm về nội dung bài học, giáo viên có thể sử dụng bản nhạc không lời với tiết
tấu nhẹ nhàng để kích thích tư duy người học. Hoặc khi giáo viên tổ chức cho
học sinh hoạt động theo nhóm ghép thì sử dụng bản nhạc có tiết tấu nhanh, dồn
dập trong quá trình học sinh di chuyển về nhóm ghép,… Việc sử dụng âm nhạc
trong giờ học đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn được những bản nhạc phù hợp với
nội dung hoạt động mà mình định tổ chức cho học sinh.
2.2. Giải pháp 2: Giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp và có những quy định rõ
ràng về thời gian, âm lượng
Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả, việc đầu tiên người giáo viên phải làm
là giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho các nhóm học sinh. Việc giao nhiệm vụ cụ
thể rõ ràng này sẽ giúp cho bản thân mỗi học sinh xác định được nội dung mà
18
mình cần chuẩn bị hoặc nghiên cứu. Từ đó học sinh sẽ chủ động trong quá trình
tham gia thảo luận.
Ví dụ: Khi dạy học bài Tác giả Nguyễn Đình Chiểu, giáo viên giao nhiệm
vụ học tập như sau:
– Nhóm 1: Tìm hiểu những nét cơ bản về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
– Nhóm 2: Tìm hiểu những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu trước khi thực dân Pháp xâm lược.
– Nhóm 3: Tìm hiểu những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu sau khi thực dân Pháp xâm lược.
– Nhóm 4: Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu.
Một trong số các nguyên nhân khiến cho hoạt động nhóm chưa hiệu quả
đó là do giáo viên chưa quy định chặt chẽ về thời gian. Đôi khi giáo viên cần tạo
áp lực về thời gian thảo luận cho học sinh, buộc học sinh phải làm việc hết công
suất. Trong hoạt động này, giáo viên có thể sử dụng bộ công cụ
https://www.online-stopwatch.com/ để quản lý thời gian hiệu quả hơn.
Khi tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh, nhiều giáo viên e ngại việc
thảo luận nhóm sẽ ảnh hưởng tới các lớp khác vì gây ồn ào, lộn xộn. Đó là do
giáo viên chưa quản lý được âm lượng của học sinh. Trước khi hoạt động thảo
luận nhóm diễn ra, giáo viên phải có quy định rõ ràng về mức âm lượng mà HS
phải tuân thủ. Giáo viên có thể đưa ra các mức thang âm lượng cho người học
như sau:
Mức 2: Âm lượng vừa đủ cho 4
người nghe (khi HS thảo luận theo
nhóm 4 HS)
… Mức n: Âm lượng
vừa đủ cho cả lớp
nghe (khi HS tham
gia trình bày trước
lớp).
Mức 1: Âm lượng vừa đủ cho 2 người nghe
(khi HS thảo luận theo nhóm cặp đôi)
19
Đồng thời, giáo viên cũng phải quy địnhhọc sinh nào vi phạm thang âm
lượng sẽ bị trừ điểm không chỉ của cá nhân học sinh vi phạm mà còn bị trừ điểm
cả nhóm tham gia thảo luận cùng học sinh. Hình thức trừ điểm này sẽ giúp cá
nhân học sinh tự ý thức được về thang âm lượng mà mình sử dụng đồng thời
cũng sẽ được các bạn cùng nhóm nhắc nhở khi có dấu hiệu vi phạm thang âm
lượng.
2.3. Giải pháp 3: Sử dụng linh hoạt các kỹ thuật dạy học tích cực trong việc tổ
chức hoạt động nhóm
Hoạt động nhóm đạt hiệu quả khi mỗi thành viên trong nhóm đều được
tham gia bàn luận, được lắng nghe và tôn trọng; mọi học sinh đều tích cực làm
việc, cá nhân người học được rèn luyện kĩ năng cơ bản như hợp tác, lắng nghe
tích cực, đặt câu hỏi, phản biện, thuyết trình, ghi chép,… Để đạt được điều đó
đòi hỏi mỗi giáo viên phải luôn luôn tìm tòi và đưa ra các kĩ thuật day học tích
cực để thu hút, lôi cuốn học sinh tham gia thảo luận nhóm hiệu quả. Trong phạm
vi bài viết, người viết đưa ra một số kĩ thuật dạy học tích cực tạo hiệu quả hoạt
động nhóm như sau:
2.3.1. Kỹ thuật “Hẹn hò”
a. Chuẩn bị
– HS tự thiết kế cho mình một chiếc đồng hồ trên giấy học sinh, ghi rõ các
khung giờ.
– Trên trang giấy ghi rõ họ và tên học sinh. Đồng hồ hẹn hò này cũng
đồng thời là phiếu học tập để học sinh ghi chép những nội dung đã trao đổi được
với đối tác.
20
Ảnh: Phiếu hẹn hò của học sinh
21
Ảnh: Phiếu hẹn hò đồng thời là phiếu học tập,
học sinh ghi chép những thông tin cần thiết trong quá trình hẹn hò.
– HS được giao nhiệm vụ tìm hiểu các nội dung bài học.
b. Thực hiện
– Bước 1: Tìm đối tác. Học sinh có 1 phút 30 giây để tìm đối tác cho mình
tại các khung giờ trên đồng hồ. Số lượng đối tác được tìm phải nhiều hơn số
lượng nhiệm vụ được giao để tạo tính bất ngờ trong các cuộc hẹn.
Ví dụ: Khi dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Ngữ văn
11), giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu 2 nội dung: Nội dung 1:
Ngôn ngữ – tài sản chung của xã hội. Nội dung 2: Lời nói – sản phẩm riêng của
cá nhân. Giáo viên phải yêu cầu học sinh tìm 3 đối tác.
– Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm đối tác vào 1 khung giờ nhất
định. học sinh có 10 giây để tìm đối tác hẹn hò.
– Bước 3: Trao đổi thông tin hẹn hò. học sinh có khoảng thời gian phù hợp
với nhiệm vụ được giao để trình bày trước đối tác. Trong khi nghe đối tác trình
bày, học sinh phải ghi chép vào trong Phiếu học tập của mình. Có thể sử dụng
22
các cách ghi chú khác nhau. Ví dụ: dấu tích đồng ý khi đồng tình quan điểm với
đối tác, dấu hỏi khi chưa hiểu nội dung đối tác trình bày,…
c. Lưu ý
– Khi thực hiện kỹ thuật này, giáo viên phải quy định chặt chẽ về thời gian
di chuyển tìm đối tác, thời gian trao đổi thông tin. Đặc biệt việc học sinh quản lý
âm lượng của mình khi di chuyển tìm đối tác. Giáo viên có thể đưa ra quy định
tìm đối tác: “Từ ánh mắt đến trái tim”. Tức là học sinh chỉ được tìm nhau bằng
ánh mắt chứ không được phát ra âm thanh. Cặp nào phát ra âm thanh sẽ bị trừ
điểm.
– Mỗi học sinh chỉ được hẹn với 1 đối tác tại 1 thời điểm.
Ngoài việc tạo đồng hồ hẹn hò thì giáo viên có thể thay đổi bằng các địa
điểm hẹn hò. Ví dụ địa điểm hành lang lớp học, ghế đá dưới gốc cây bàng,… để
tăng thêm phần thú vị trong giờ dạy.
2.3.2. Kỹ thuật “Mảnh ghép”
a. Chuẩn bị
Giáo viên chia lớp thành các nhóm tùy thuộc vào số nội dung giáo viên dự
định tiến hành cho học sinh thảo luận. Số học sinh trong nhóm tương ứng với số
nội dung thảo luận.
Ví dụ: Khi dạy bài Tác giả Nguyễn Đình Chiểu, giáo viên xây dựng nội
dung thảo luận gồm 4 nội dung:
Nội dung 1: Những nét cơ bản về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
Nội dung 2: Những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trước
khi thực dân Pháp xâm lược.
Nội dung 3: Những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sau
khi thực dân Pháp xâm lược.
Nội dung 4: Những đặc điểm nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Khi chia nhóm thảo luận, giáo viên chia thành các nhóm, mỗi nhóm gồm
4 thành viên để khi thực hiện nhóm ghép thì mỗi nhóm ghép đều có một chuyên
gia về nội dung nghiên cứu.
b. Thực hiện
* Vòng 1: Chuyên gia
23
– Các nhóm thảo luận nhiệm vụ chung của mỗi nhóm để ai cũng có thể trở
thành “chuyên gia”. Mỗi chuyên gia mang một số thứ tự từ 1 đến hết số người
trong nhóm.
Ví dụ:
* Vòng 2: Di chuyển – Nhóm ghép
– Trong vòng 30 giây, các chuyên gia cùng số thứ tự sẽ di chuyển ghép
với nhau tạo thành một nhóm mới. Ví dụ theo sơ đồ:
– Các chuyên gia trong nhóm ghép tiến hành trao đổi thông tin lần lượt
với nhau trong một khoảng thời gian quy định. Có quyền đặt câu hỏi cho chuyên
gia nếu còn thắc mắc.
c. Lưu ý
– Giáo viên quy định chặt chẽ về thời gian và việc quản lý âm lượng của
học sinh.
– Số thành viên trong nhóm ghép bằng hoặc dư so với số nội dung thảo
luận để khi thực hiện nhóm ghép thì mỗi nhóm ghép đều có một chuyên gia về
nội dung nghiên cứu.
Chuyên
gia số 1
(Nhóm 1)
Chuyên
gia số 3
(Nhóm 3)
Chuyên
gia số 2
(Nhóm 2)
Nhóm 1
1-2-3
Nhóm 2
1-2-3
Nhóm 3
1-2-3
24
– Đối với những lớp lần đầu thực hiện kỹ thuật mảnh ghép thì giáo viên có
thể sử dụng thẻ màu phát cho học sinh để học sinh dễ nhận biết nhóm ghép của
mình. Những học sinh có cùng thẻ màu thì về một nhóm.
– Kỹ thuật mảnh ghép phù hợp với những bài có hệ thống kiến thức độc
lập như văn học sử, tiếng việt.
2.3.3. Kỹ thuật THINK – PAIR – SHARE
THINK – PAIR – SHARE là kỹ thuật dạy học do giáo sư Frank Lyman
trường đại học Maryland giới thiệu năm 1981.
-Think: người học suy nghĩ độc lập về vấn đề được nêu ra từ đó tự hình
thành nên ý tưởng của mình.
– Pair: người học được ghép đôi với nhau để thảo luận về những ý tưởng
của mình.
– Share: Chia sẻ ý tưởng của mình với nhóm khác.
Kỹ thuật THINK – PAIR – SHARE có hiệu quả cao trong việc hoạt
động nhóm. Bởi lẽ, học sinh có thời gian suy nghĩ về câu trả lời, sau đó được
chia sẻ với bạn. Người học có cơ hội trình bày, cụ thể hóa ý tưởng của mình.
Nhờ đó việc nắm bắt, thấu hiểu và giải quyết vấn đề của người học được củng
cố và trở nên tốt hơn. Do học sinhđược chia sẻ với bạn và tiếp thu được quan
điểm khác từ bạn bè, họ sẽ sẵn sàng và ít e ngại hơn khi chia sẻ với một nhóm
lớn hơn. Như vậy, không chỉ học hiệu quả hơn mà kĩ năng năng giao tiếp của
người học cũng được cải thiện. Hơn nữa, khi chia sẻ ý tưởng thì người học chủ
động hơn với việc học, biết tiếp thu, phản hồi ý tưởng từ bạn khác thay vì thụ
động dựa vào lời giảng của giáo viên.
Kỹ thuật THINK – PAIR – SHARE được tiến hành trong giờ học như sau:
– Bước 1: THINK (suy nghĩ cá nhân) – học sinh suy nghĩ cá nhân giải
quyết nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa ra. Thời gian tổ chức: tùy thuộc vào
mục tiêu, độ khó, độ phức tạp của nhiệm vụ, có thể kéo dài từ 1′, 2′, 5′,…hoặc
làm việc trước ở nhà.
– Bước 2: PAIR (chia sẻ cặp đôi) – Giáo viên cho học sinhtrao đổi theo
cặp đôi chia sẻ thông tin. Trong quá trình trao đổi, học sinh lần lượt trình bày
hướng giải quyết của mình, người còn lại sử dụng kỹ năng ghi chú để ghi chép
thông tin và đặ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT
Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa