dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Phát triển năng lực tự học của học sinh thông qua chuyên đề phân bón theo chương trình GDPT mới bằng phương pháp dạy học dự án  

SKKN Phát triển năng lực tự học của học sinh thông qua chuyên đề phân bón theo chương trình GDPT mới bằng phương pháp dạy học dự án

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong điều kiện của xã hội hiện đại, khi mà khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ, sự bùng nổ của cách mạng thông tin đã ảnh hưởng sâu sắc đến
giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng. Người giáo viên không chỉ là
chăm chú dạy kiến thức cho học sinh mà quan trọng hơn cả là phải định hướng
được năng lực của học sinh, phát triển năng lực học sinh nhằm khơi dậy trong
người học tinh thần chủ động học tập, khả năng đào sâu nghiên cứu.
Trên thực tế, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực ở trường
phổ thông không còn là vấn đề mới. Trong bối cảnh chương trình sách giáo khoa
mới thực hiện theo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới đã sắp được
triển khai áp dụng, việc phát triển năng lực học sinh để nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy học là một vấn đề rất cấp thiết đối với giáo viên và học sinh.
Vì thế, người giáo viên phải có sự năng động nhạy bén, phải có được kiến
thức của nhiều môn học liên quan đến bộ môn của mình, phải biết chọn lọc, xử
lí các thông tin, biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết các tình huống
của đời sống thực tế. Và điều quan trọng đó là phải hướng học sinh đến việc vận
dụng các kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thực tế. Đó là sự phát
triển năng lực cho học sinh tự học, đưa những kiến thức mà các em được học
đến gần với thực tiễn cuộc sống.
Trong dạy học Hóa học, do thời gian dạy học môn hoá học trên lớp còn hạn
hẹp, thời gian ôn tập, hệ thống hoá lý thuyết và giải bài tập chưa được nhiều,
không phải học sinh nào cũng đủ thời gian để thấu hiểu, ghi nhớ và vận dụng
những kiến thức mà giáo viên truyền thụ ở trên lớp. Vì vậy phát triển năng lực
tự học ở nhà của học sinh là rất quan trọng và cần thiết.
Dạy học dự án là một trong những phương pháp dạy học tích cực nhằm rèn
luyện cho học sinh giải quyết tốt vấn đề thực tiễn, phát triển năng lực tự học cho
học sinh. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu và quyết định thực hiện đề tài “Phát triển
năng lực tự học của học sinh trong “Chuyên đề phân bón” theo chương trình
giáo dục phổ thông mới bằng phương pháp dạy học dự án”.
2
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
Trong chương trình giáo khoa hiện hành, bài “PHÂN BÓN HÓA HỌC”,
học sinh chủ yếu học lý thuyết một cách thụ động, các em chưa biết vận dụng
các kiến thức đã học để giải quyết các tình huống của đời sống thực tế nên chưa
tạo được hứng thú học tập. Trong bối cảnh chương trình sách giáo khoa mới
thực hiện theo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới đã sắp được triển
khai áp dụng, việc phát triển năng lực tự học cho học sinh và áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học là
một vấn đề rất cấp thiết đối với giáo viên và học sinh.
Một trong các biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh là phương
pháp dạy học dự án, đây là một phương pháp dạy học tích cực. Sử dụng phương
pháp dạy học dự án trong dạy học hóa học có nội dung gắn liền với thực tiễn đạt
được hiệu quả khá cao. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh rất
hứng thú, say mê, tìm tòi tài liệu ở mọi nguồn liên quan đến bài học. Các em
được phát triển bản thân, từ đó phát triển năng lực tự chủ và tự học.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Thông qua phương pháp dạy học dự án, học sinh nhận thấy mối gắn kết
giữa lí thuyết với thực tiễn, từ đó nâng cao động cơ, hứng thú học tập của bản
thân. Học sinh phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực tự học,
biết cách thức để chiếm lĩnh tri thức một cách có hiệu quả, sáng tạo đồng thời
học sinh tự đánh giá năng lực của bản thân.
Học sinh không những nắm bắt được kiến thức lý thuyết tổng thể về phân
bón mà còn hình thành cách tìm tòi dữ liệu thế nào cho nhanh, cách đưa ra ý
tưởng, thống nhất ý kiến và trình bày sản phẩm thế nào để đạt hiệu quả. Hơn thế
nữa, các em không chỉ nhận thấy vai trò của phân bón hóa học trong việc tăng
năng suất cây trồng có tầm quan trọng lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Các em còn thấy được những hệ lụy về sức khỏe con người, sinh vật và môi
trường sống khi lạm dụng phân bón hóa học. Từ đó, các em biết đặt mình vào
thực tế, phải giải quyết ra sao, xử lý thế nào để có nền nông nghiệp phát triển
3
bền vững. Các em thấy hóa học không quá khó, hóa học thật thú vị và gần gũi.
Các em có thể dần định hướng nghề nghiệp, bước đi trong tương lai. Học sinh
rất hứng thú, say mê, tìm tòi tài liệu ở mọi nguồn liên quan đến bài học. Các em
được phát triển bản thân. Từ đó phát triển năng lực tự chủ và tự học.
Qua quá trình thực hiện dự án và trải nghiệm góp phần hình thành năng lực
nhận thức kiến thức hóa học, năng lực tự học, tự tìm tòi và khám phá thế giới tự
nhiên dưới góc độ hóa học. Các em dần hình thành năng lực vận dụng kiến thức
hóa học vào thực tiễn.
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Năng lực tự học
1.1.1. Khái niệm năng lực tự học
Ta đã biết học có nghĩa là tự học, có hai cách học cơ bản.
Một là: Cách học có phần bị động, từ ngoài áp vào dựa theo mô hình
Pavlốp.
Hai là: Cách học chủ động, tự bản thân mình tìm ra kiến thức theo mô hình
Skinner.
Về cách tự học thì mỗi người một vẻ tuỳ theo tư chất, điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể.
Như vậy ta thấy rõ: năng lực tự học luôn tiềm ẩn trong mỗi con người. Vậy
năng lực tự học chính là nội lực phát triển của bản thân mỗi người học.
Theo Nguyễn Kì, trong bất cứ con người Việt Nam nào trừ những người bị
khuyết tật, tâm thần – đều tiềm ẩn một tiềm lực, một tài nguyên quốc gia vô cùng
quí giá đó là năng lực tự tìm tòi, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, tự
đổi mới, tự sáng tạo trong công việc hàng ngày gọi chung là năng lực tự học
sáng tạo.
“Năng lực tự học là tổng thể các năng lực cá thể, năng lực chuyên môn, năng
lực phương pháp và năng lực xã hội của người học tác động đến nội dung học trong
những tình huống cụ thể nhằm đạt mục tiêu (bằng khả năng trí tuệ và vật chất, thái
độ, động cơ, ý chí v.v… của người học) chiếm lĩnh tri thức kĩ năng”.
4
1.1.2. Vai trò của năng lực tự học
Năng lực tự học sáng tạo đã làm nên biết bao nhà quân sự, chính trị, khoa
học và văn hoá lỗi lạc của đất nước, của thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, danh nhân văn hoá
kiệt xuất của thế giới chính là tấm gương lớn của năng lực tự học sáng tạo.
Năng lực tự học có bốn vai trò chính sau:
+ Tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kĩ xảo nhận thức, tạo ra cầu nối nhận thức
trong tình huống học.
+ Làm chủ tri thức hiện diện trong chương trình học và tri thức siêu nhận
thức qua các tình huống học.
+ Tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lí
thông tin từ môi trường xung quanh mình.
+ Tự học, tự nghiên cứu, tự mình tìm ra kiến thức bằng hành động của
chính mình, cá nhân hoá việc học, đồng thời hợp tác với các bạn trong cộng
đồng lớp học dưới sự hướng dẫn của giáo viên – xã hội hoá lớp học.
1.1.3. Phát triển năng lực tự học
Thực chất của việc phát triển năng lực tự học là hình thành và phát triển
năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực xác định những kết luận đúng (kiến thức, cách thức, giải pháp, biện pháp…)
từ quá trình giải quyết vấn đề, năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn hoặc
vào nhận thức kiến thức mới, năng lực đánh giá và tự đánh giá. Để có phát triển
năng lực tự học cho học sinh thì bản thân các em phải có ý chí quyết tâm cao độ,
luôn tìm tòi phương pháp học tập tốt cho mình, phải học bằng chính sức mình,
nghĩ bằng cái đầu mình, nói bằng lời nói của mình, viết theo ý mình, không rập
khuôn theo câu chữ của thầy, rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ, suy luận
đúng đắn và linh hoạt sáng tạo thông qua những câu hỏi và bài toán.
1.2. Dạy học dự án
1.2.1. Khái niệm:
5
Dạy học dự án (còn gọi là Dạy học dựa trên dự án) là cách thức tổ chức
dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết
hợp giữa lí thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu, trình bày.
1.2.2. Đặc điểm của dạy học dự án
– Định hướng thực tiễn: chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống
của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm
vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng
nhận thức của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp
phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong
những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác
động xã hội tích cực.
– Định hướng hứng thú người học: Người học được tham gia chọn đề tài,
nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú
của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
– Mang tính phức hợp, liên môn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của
nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ,
vấn đề mang tính phức hợp.
– Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp
giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn,
thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng
như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
– Tính tự lực của người học: Trong dạy học theo dự án, người học cần
tham gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng
đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học, giáo viên
chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần
phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của người học và mức độ khó khăn của
nhiệm vụ.
– Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm,
trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên
trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng
6
cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng
như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án.
– Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm
được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số
trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực
tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu bằng
nhiều hình thức khác nhau với các quy mô khác nhau.
1.2.3. Quy trình thực hiện dự án
Cách tiến hành dạy học dựa trên dự án cần được tiến hành theo ba giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị dự án
– Đề xuất ý tưởn v c n đề tài dự n Đề tài dự án có thể nảy sinh từ
sáng kiến của giáo viên, học sinh hoặc của nhóm học sinh. Học sinh là người
quyết định lựa chọn đề tài, nhưng phải đảm bảo nội dung phù hợp với mục đích
học tập, phù hợp chương trình và điều kiện thực tế. Để thực hiện dự án, học sinh
phải đóng những vai có thực trong xã hội để tự mình tìm kiếm thông tin và giải
quyết công việc.
– Chia nhóm và nhận nhiệm vụ dự n Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm
vụ cho các nhóm học sinh và những yếu tố khác liên quan đến dự án. Trong
công việc này, giáo viên là người đề xướng nhưng cũng cần tạo điều kiện cho
học sinh tự chọn nhóm làm việc.
– Lập kế hoạch thực hiện dự n Giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh
lập kế hoạch thực hiện dự án, trong đó học sinh cần xác định chính xác chủ đề,
mục tiêu, những công việc cần làm, kinh phí, thời gian và phương pháp thực
hiện. Ở giai đoạn này, đòi hỏi ở học sinh tính tự lực và tính cộng tác để xây
dựng kế hoạch của nhóm. Sản phẩm tạo ra ở giai đoạn này là bản kế hoạch dự
án.
Giai đoạn 2: Thực hiện dự án
Giai đoạn này, với sự giúp đỡ của giáo viên, học sinh tập trung vào việc
thực hiện nhiệm vụ được giao với các hoạt động: như đề xuất các phương án
7
giải quyết và kiểm tra, nghiên cứu tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, trao đổi và
hợp tác với các thành viên trong nhóm. Trong dự án, giáo viên cần tôn trọng kế
hoạch đã xây dựng của các nhóm, cần tạo điều kiện cho học sinh trao đổi, thu
thập tài liệu, tìm kiếm thông tin. Các nhóm thường xuyên cùng nhau đánh giá
công việc, chỉnh sửa để đạt được mục tiêu. Giáo viên cũng cần tạo điều kiện cho
việc làm chủ hoạt động học tập của học sinh và nhóm học sinh, quan tâm đến
phương pháp học của học sinh … và khuyến khích học sinh tạo ra một sản phẩm
cụ thể, có chất lượng.
Giai đoạn o c o v đ n i dự án
HS thu thập kết quả, công bố sản phẩm trước lớp. Sau đó, giáo viên và học
sinh tiến hành đánh giá. Học sinh có thể tự nhận xét quá trình thực hiện dự án và
tự đánh giá sản phẩm nhóm mình và đánh giá nhóm khác. Giáo viên đánh giá
toàn bộ quá trình thực hiện dự án của học sinh, đánh giá sản phẩm và rút kinh
nghiệm để thực hiện những dự án tiếp theo.
2. Cơ sở thực tiễn
Trên địa bàn huyện Giao Thủy, học sinh là con em nông dân chiếm đa số.
Sản xuất nông nghiệp với vật tư là phân bón hóa học rất gần gũi với các em.
Phân bón hóa học có vai trò to lớn trong nông nghiệp, làm tăng năng suất cây
trồng, có ý nghĩa thực tiễn lớn. Song bón phân ra sao, liều lượng thế nào, áp
dụng vào loại cây nào, thời điểm nào để đạt năng suất cao nhất. Những kiến thức
đó cần phải học, phải qua thực tế, con người mới rút ra được bài học cho bản
thân mình. Hơn nữa, lạm dụng phân bón hóa học làm dư thừa khi sử dụng gây
tác hại tới sức khỏe con người và môi trường.
Liệu rằng có phải tất cả người dân quê tôi đều biết bón phân hợp lí? Nông
sản quê tôi liệu có an toàn 100%? Khi tôi đưa câu hỏi này cho học sinh, các em
rất háo hức muốn tìm câu trả lời.
Với phương châm đổi mới cách dạy, tôi nhận thấy thiết kế kế hoạch dạy
học theo phương pháp dạy học dự án, học sinh sẽ có thể tìm được đáp án cho
các câu hỏi trên. Hơn nữa thông qua thực hiện dự án, các em có những kinh
nghiệm thực tiễn vô cùng đáng quý để bài học trở nên không quá khó, không xa
8
vời. Bởi lẽ, kinh nghiệm là tất cả những gì cá nhân có được từ hoạt động thực
tiễn của mình. Dựa vào kinh nghiệm cá nhân sẽ dễ dàng tạo dựng được những
quan hệ thân thiện, kích thích nhu cầu, gợi ra những liên hệ hữu cơ giữa bài học
và cuộc sống, củng cố ý chí và niềm tin, phát triển năng lực tự học của người
học.
Chƣơng 2. Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học và thiết
kế quy trình dạy học dự án phát triển năng lực tự học trong “Chuyên đề
phân bón” theo chƣơng trình giáo dục phổ thông mới
2.1. Một số biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học của học sinh
2.1.1. Yêu cầu học sinh tự học sách giáo khoa (SGK), sách tham khảo.
Một trong những công cụ không thể thiếu để phục vụ cho tự học là SGK.
SGK là tài liệu học tập, tài liệu khoa học, vừa là nguồn cung cấp kiến thức
phong phú cho người học, vừa là phương tiện chủ yếu để người dạy tổ chức hoạt
động đọc.
SGK chứa đựng những kiến thức khoa học cơ bản và hệ thống nên học sinh
có thể lĩnh hội kiến thức một cách logic, ngắn gọn và khái quát nhất. SGK có
một vị trí đáng kể trong việc nắm vững kiến thức nói chung và phát huy tính tính
cực hoạt động trí tuệ của học sinh.
Với tư cách là nguồn cung cấp kiến thức cơ bản cho học học sinh, SGK
được sử dụng để tổ chức:
– Lĩnh hội kiến thức mới.
– Ôn tập củng cố kiến thức đã học trên lớp
– Trả lời các câu hỏi và bài tập, qua đó vừa lĩnh hội kiến thức, vừa rèn
luyện thao tác tư duy.
SGK là nguồn cung cấp tri thức quan trọng nhất mà đa số học sinh đều có.
Trong quá trình học tập, SGK đối với học sinh là nguồn tư liệu cốt lõi, cơ bản để
tra cứu, tìm tòi. Tư liệu tra cứu được từ SGK phải trải quá một chuỗi các thao
tác tư duy logic. Do đó, trong quá trình làm việc với SGK học sinh không những
nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện các thao tác tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ
9
xảo đọc sách. Đây là hai mặt quan trọng có quan hệ tương hỗ thúc đẩy lẫn nhau
trong quá trình học sinh độc lập làm việc với SGK.
Dưới sự tổ chức, định hướng của giáo viên có thể cho phép tổ chức hoạt
động tự lực nghiên cứu SGK của học sinh theo một phổ rộng: Từ việc nghiên
cứu SGK để ghi nhớ tái hiện các sự kiện, tư liệu đến việc nghiên cứu SGK để
giải quyết một nhiệm vụ nhận thức sáng tạo.
Bằng các phương pháp dạy học tích cực, giáo viên sẽ giúp học sinh giải mã
được kiến thức có trong SGK bằng các ngôn ngữ riêng như: Sơ đồ, bảng biểu,
đồ thị, thí nghiệm,…do đó học sinh chủ động lĩnh hội được kiến thức, nhớ lâu
hơn, khả năng vận dụng sáng tạo hơn và kích thích được hoạt động học tập tích
cực của học sinh, tức là học sinh vừa nắm vững được kiến thức, vừa nắm vững
được phương pháp đi tới kiến thức đó và phát triển tư duy.
Tùy thuộc vào trình độ của học sinh ở mỗi lớp khác nhau mà giáo viên có
thể đặt ra các yêu cầu khác nhau khi đọc. Và cần phải tiến hành rèn luyện
phương pháp tự đọc cho học sinh một cách thường xuyên để nâng cao chất
lượng đọc. Từ đó giúp học sinh có thể tự đọc hiểu tài liệu bằng cách tự mình đặt
ra các câu hỏi và bài tập ngay cả khi không có người đặt ra các câu hỏi và bài
tập.
Để học sinh sử dụng tốt SGK và Sách tham khảo cần bồi dưỡng cho học
sinh một số kỹ năng cơ bản sau:
a. Dạy kỹ năn tự đ c SGK dể rút ra được những nội dun cơ bản, tách nội
dung chính, bản chất từ tài liệu đ c được
Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong dạy học vì học sinh không nhất
thiết phải nhớ hết thông tin trong SGK, tài liệu tham khảo mà cần phải biết chắt
lọc những kiến thức trọng tâm, cơ bản nhất.
Nội dung của biện pháp này là rèn cho học sinh khi đọc một đoạn bài nào đó
các em phải biết tách ra nội dung chính, nghĩa là trả lời được câu hỏi. Đó là:
– Nội dung kiến thức đề cập tới vấn đề gì? đã đề cập tới những khía cạnh
nào?
– Trong số các đặc điểm, hiện tượng đã mô tả thì cái gì là cơ bản, quan trọng?
10
Để trả lời được câu hỏi đặt ra, học sinh phải tự lực diễn đạt được nội dung
chính đã đọc được và đặt tên đề mục cho phần, đoạn bài đã đọc. Khi đó học sinh
thực chất đã nắm được kiến thức tức là đã phần nào tự lĩnh hội được kiến thức mới.
* Ví dụ:
Khi dạy “C uyên đề phân bón”, giáo viên có thể yêu cầu học sinh đọc nội
dung cả chuyên đề rồi ghi những nội dung mà mình cho là cần thiết ra giấy. Sau
đó giáo viên cho mỗi học sinh một số câu hỏi và bài tập yêu cầu học sinh trả lời:
+ Phân bón hóa học là gì?
+ Kể tên các loại phân bón hóa học vô cơ mà em biết?
+ Kể tên các loại phân bón hóa học hữu cơ mà em biết?
+ Thành phần phân đạm, phân lân, phân kali chứa các nguyên tố dinh
dưỡng nào?
b. Dạy trả lời câu hỏi đã có trên t i liệu đ c được, bằng cách tái hiện hoặc
phân tích, so sánh, thiết lập mối quan hệ nhân quả tùy theo câu hỏi đề ra
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự đọc SGK sau đó trả lời theo câu hỏi gợi ý
của giáo viên từ đó sẽ tìm được nội dung cần nghiên cứu.
– Bước 1: Học sinh phải đọc qua nội dung thông tin
– Bước 2: Học sinh đọc câu hỏi do giáo viên đưa ra và xác định câu hỏi cần
hỏi về vấn đề gì.
– Bước 3: Tìm tài liệu, đoạn thông tin có nôi dung liên quan đến vấn đề này.
– Bước 4: Đọc và lựa chọn kiến thức theo đúng nội dung câu hỏi đưa ra để
trả lời.
Ví dụ: Khi dạy phần phân lân trong “C uyên đề phân bón”, giáo viên
hướng dẫn học sinh tự đọc SGK về thành phần, tính chất phân lân, sau đó yêu
cầu học sinh trả lời câu hỏi trong phiếu học tập:
Bài 1: Một loại phân supephotphat kép có chứa 75% muối canxi
đihidrophotphat còn lại gồm các chất không chứa photpho. Độ dinh dưỡng của
loại phân lân này là?
A. 39,74% B. 45,51% C. 19,87% D. 91,02
Bài 2: Một loại phân kali chứa 59,6% KCl, 34,5% K2CO3 về khối lượng,
11
còn lại là SiO2. Độ dinh dưỡng của loại phân bón trên là:
A. 6,10 B. 49,35 C. 50,70 D. 60,20
Bài 3: Một loại phân lân có thành phần chính Ca(H2PO4)2.2CaSO4 và
10,00% tạp chất không chứa photpho. Hàm lượng dinh dưỡng trong loại phân
lân đó là
A. 36,42%. B. 28,40%. C. 25,26%. D. 31,00%.
Bài 4: Cho m gam một loại quặng photphorit (chứa 7% là tạp chất trơ
không chứa photpho) tác dụng vừa đủ với dung dịch H2SO4 đặc để sản xuất
supephotphat đơn. Độ dinh dưỡng của supephotphat đơn thu được khi làm khan
hỗn hợp sau phản ứng là
A. 53,62%. B. 34,20%. C. 42,60%. D. 26,83%.

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Related Posts
Tư Vấn App Học Ngoại Ngữ
Phần Mềm Bản Quyền
Chat Ngay