SKKN Thiết kế và sử dụng một số trò chơi kết hợp với dạy học STEM nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học hoá học lớp 11
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng: “Biết mà học không bằng thích mà
học, thích mà học không bằng vui say mà học”. Vì vậy một trong những giải
pháp bảo đảm thành công trong dạy học cho HS nói chung và môn Hóa học nói
riêng là tạo đƣợc sự hứng thú nhận thức cho các em. Có nhiều phƣơng pháp kích
thích hứng thú học tập của HS, trong đó tiêu biểu là trò chơi dạy học. Trò chơi
có tính hấp dẫn đặc biệt, kích thích sự hứng thú nhận thức, niềm say mê học tập
và tính tích cực sáng tạo của HS.
Trong kỉ nguyên phát triển mạnh mẽ của của cuộc cách mạng công nghiệp
mới 4.0, nguồn lao động chất lƣợng cao không chỉ cần có kiến thức chuyên
ngành mà đòi hỏi có sự hiểu biết của đa ngành. Ngoài ra các kỹ năng sử dụng
kiến thức để giải quyết vấn đề, tạo sản phẩm sáng tạo và làm việc nhóm ngày
càng đƣợc đề cao. Trong khi đó, ảnh hƣởng của khoa học, công nghệ, đặc biệt
công nghệ thông tin dần chiếm ƣu thế trên mọi mặt của đời sống. Từ những việc
đơn giản trong gia đình, đến những công việc trong các nhà máy, hãng, xƣởng
đều ít nhiều liên quan và ứng dụng các thành tựu công nghệ kỹ thuật số và đòi
hỏi sự vận dụng kiến thức tổng hợp của của khoa học và công nghệ. Trong kỉ
nguyên mới này, con ngƣời nếu không muốn bị tụt hậu và đào thải thì cần phải
trang bị những kĩ năng mới. Do vậy, cách giáo dục và tiếp cận vấn đề thực tế
cuộc sống trong tƣơng lai sắp tới cần đƣợc thay đổi phù hợp theo tƣ duy mới.
Giáo dục STEM đƣợc xem là một bƣớc đi quyết liệt của đổi mới giáo dục phổ
thông hiện nay. Tích hợp các môn học là điều thiết yếu trong giáo dục STEM để
chuẩn bị cho HS có kiến thức và kĩ năng liên ngành để có thể sống và đối mặt
với những vấn đề phức tạp của thế giới ngày này cũng nhƣ đủ điều kiện, năng
lực để có thể cạnh tranh trong thị trƣờng lao động toàn cầu.
Bản thân tôi là một GV giảng dạy môn Hóa học tại Trƣờng THPT Nguyễn
Khuyến, một môn học mà nhiều HS rất “sợ ” học và đã có nhiều em nói rằng
môn học này quá “khô khan”. Đặc biệt, nhiều em không có hứng thú với việc
2
học phần Hóa học lớp 11 và phần lớn các em đƣa ra lí do là vì nội dung vừa dài,
vừa khó nhớ, các nội dung liên quan chặt chẽ với nhau, nhiều biểu tƣợng hóa
học mới, các loại công thức, danh pháp đặc biệt phần hóa học Hữu cơ lớp 11…
Xuất phát từ thực tế trên, tôi thấy cần phải áp dụng một số phƣơng pháp dạy học
tích cực vào quá trình giảng dạy để lôi cuốn, tạo hứng thú học tập cho các em
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã áp
dụng một số trò chơi kết hợp với dạy học STEM tôi thấy HS rất thích thú, rất
hào hứng đón nhận và kiến thức dần dần đƣợc các em nắm bắt thông qua các
hoạt động đó một cách nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Không những thế các em
cũng có thể tự tổ chức và thiết kế trò chơi vào những tiết học để khắc sâu kiến
thức, tiết học sôi nổi và sinh động hơn. Khi tham gia thực hiện các chủ đề STEM
học sinh đƣợc kết nối kiến thức học đƣờng với thế giới thực, đƣợc trải nghiệm
thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn giúp hình thành và phát triển năng lực
phẩm chất cho HS.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Thiết kế và sử dụng một số trò chơi
kết hợp với dạy học STEM nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy
học Hóa học lớp 11” làm đề tài nghiên cứu.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
A. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
+ Qua một số cuộc điều tra về phƣơng pháp dạy học hóa học hay các cuộc
điều tra của Vụ giáo dục Trung học phổ thông hàng năm cho thấy: Trong các
giờ học hóa học, HS thƣờng ít đƣợc hoạt động, kể cả là các hoạt động cơ bắp và
các hoạt động tƣ duy. Các bài giảng của GV nặng về việc cho HS ghi chép. GV
sử dụng chủ yếu là phƣơng pháp thuyết trình, vấn đáp là chính. Với một giờ học
thì thời gian dành cho hoạt động của HS rất ít.
+ Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng việc sử dụng trò chơi kết hợp với
dạy học STEM ở một số lớp khối 11 tại trƣờng THPT Nguyễn Khuyến.
Về đối tƣợng khảo sát: GV và HS lớp 11A2, 11A9 và 11A10 (năm học
2019-2020) tại nơi công tác.
3
Phƣơng pháp khảo sát: Bằng phƣơng pháp quan sát (thông qua dự giờ,
thăm lớp), điều tra bằng Google forms… để thu thập thông tin về trực trạng
nghiên cứu.
Dƣới đây là kết quả điều tra thực trạng việc sử dụng trò chơi và dạy học
STEM tại trƣờng THPT Nguyễn Khuyến:
Đối với HS: Qua 3 câu hỏi nhiều lựa chọn, kết quả hỏi ý kiến 127 HS các
lớp tôi trực tiếp giảng dạy, cho thấy:
– 70,9% số HS cho rằng GV “thỉnh thoảng” và 19,7% số HS cho rằng GV
“rất ít khi” sử dụng trò chơi và dạy học STEM trong dạy học.
– 99,2% số HS cho rằng việc sử dụng trò chơi trong dạy học là “ rất cần
thiết” và “ cần thiết”.
4
– Về hứng thú của HS khi GV sử dụng trò chơi kết hợp STEM trong dạy
học lựa chọn “ Thích” và “ Rất thích”. Cũng có một số HS lựa chọn “ bình
thƣờng”
Qua kết quả khảo sát HS, tôi thấy rằng việc thiết kế và sử dụng trò chơi kết
hợp dạy học STEM trong giảng dạy nói chung và môn Hóa học nói riêng là cần
thiết, phù hợp với nhu cầu học tập của HS.
Đối với GV: Qua 4 câu hỏi nhiều lựa chọn, kết quả hỏi ý kiến GV ở trƣờng
THPT Nguyễn Khuyến có 50 GV trả lời cho thấy.
– 100% số GV đƣợc hỏi cho rằng việc sử dụng trò chơi kết hợp dạy học
STEM là cần thiết và rất cần thiết.
– Hầu hết GV đồng ý việc sử dụng trò chơi kết hợp dạy học STEM nhằm
định hƣớng phát triển năng lực, phẩm chất cho HS.
5
– Phần lớn Thầy (Cô) lựa chọn sử dụng trò chơi trong phần Khởi động và
Luyện tập. Khá ít thầy cô lựa chọn sử dụng trò chơi trong hình thành kiến thức
hay tìm tòi mở rộng.
– Thông qua khảo sát cũng cho thấy các GV lựa chọn “Thi thoảng” hoặc
“rất ít khi” sử dụng trò chơi kết hợp dạy học STEM trong quá trình dạy học.
6
Từ kết quả trên cho thấy việc tổ chức hoạt động dạy học theo phƣơng pháp
sử dụng trò chơi, cũng nhƣ dạy học STEM cho HS còn hạn chế. Nếu có sử dụng
trò chơi cũng chỉ là trò đơn giản trong khoảng thời gian ngắn ở hoạt động khởi
động. GV muốn dạy học sử dụng trò chơi kết hợp dạy học STEM thì phải mất
nhiều thời gian để xây dựng thiết kế thử nghiệm, cần có sự chuẩn bị công phu cả
về nội dung và cơ sở vật chất.
B. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
CHƢƠNG 1: TRÕ CHƠI DẠY HỌC
1.1. Tổng quan về trò chơi
1.1.1. Khái niệm trò chơi dạy học
Trong lý luận dạy học, tất cả những trò chơi gắn với việc dạy học nhƣ là
phƣơng pháp, hình thức tổ chức và luyện tập, không tính đến nội dung và
tính chất của trò chơi thì đều đƣợc gọi là TCDH. TCDH còn đƣợc hiểu là loại
trò chơi có luật, có định hƣớng đối với sự phát triển trí tuệ của ngƣời học,
thƣờng do GV nghĩ ra và dùng nó vào mục đích giáo dục và dạy học.
TCDH đƣợc sáng tạo ra và đƣợc sử dụng bởi các nhà giáo và ngƣời lớn
dựa trên những khuyến nghị của lý luận dạy học, đặc biệt là của lý luận dạy
học các môn học cụ thể. Chúng phản ánh lý thuyết, ý tƣởng, mục tiêu của
nhà giáo, là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài bản
cứng nhắc nhƣ những giờ học trƣớc kia. Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và
các quan hệ trong TCDH đƣợc định hƣớng vào mục tiêu, nội dung học tập.
Tóm lại, TCDH là những trò chơi giáo dục đƣợc lựa chọn, sử dụng để dạy
7
học, nó tuân thủ mục đích, nội dung, nguyên tắc của phƣơng pháp dạy học.
1.1.2. Cấu trúc chung của trò chơi dạy học
TCDH có cấu trúc chung bao gồm những thành tố:
Mục đích chơi: Là những nhiệm vụ học tập của HS trong khi tham gia
chơi. Mục đích chơi là thành phần cơ bản của TCDH, nó chi phối tất cả những
yếu tố của trò chơi. Mục đích chơi đƣợc xây dựng dựa vào mục tiêu dạy học,
nội dung chƣơng trình. Trong một số trƣờng hợp, mục đích chơi chứa đựng
trong chính tên gọi của trò chơi.
Luật chơi: Là những quy định nhằm bảo đảm sự định hƣớng các hoạt
động và hành động chơi vào mục đích chơi hay nhiệm vụ học tập; chỉ ra các
mục tiêu và kết quả của các hành động; xác định trình tự và tiến độ của các
hành động; tạo ra các tiêu chí điều chỉnh các quan hệ, hành vi của ngƣời tham
gia và tiêu chí đánh giá hoạt động, hành động chơi có đáp ứng các nhiệm vụ
học tập hay không. Luật chơi là tiêu chuẩn đánh giá hành động chơi đúng hay
sai. Luật chơi và mục đích chơi quy định nội dung của trò chơi, các thuộc tính
không gian, thời gian và phƣơng tiện chơi.
Các hành động chơi: Là những hoạt động thực sự mà ngƣời tham gia trò
chơi tiến hành để thực hiện nhiệm vụ và vai trò của mình trong trò chơi. Hành
động chơi phản ánh nội dung của trò chơi. Hành động chơi đòi hỏi phải có tính
liên tục, tuần tự, phải có sự liên hệ qua lại giữa HS này với các HS khác.
Kết quả chơi: TCDH bao giờ cũng có kết quả chơi nhất định. Khi trò chơi
kết thúc, mức độ đạt đƣợc của mục đích chơi đƣợc phản ánh ở kết quả hiện
thực mà HS thu đƣợc và kết quả đó cũng là kết quả giải quyết các nhiệm vụ
học tập của HS. Đối với GV, kết quả chơi luôn là chỉ tiêu về mức độ thành
công của phƣơng pháp dạy học.
1.1.3. Phân loại trò chơi dạy học
Căn cứ và 3chức năng tâm sinh lý chủ yếu của con người là nhận thức,
biểu cảm và vận động, TCDH được phân loại thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Trò chơi phát triển nhận thức. Là loại trò chơi đòi hỏi ngƣời
tham gia phải sử dụng các chức năng nhận thức, thực hiện các hành vi và
8
hành động nhận thức để tiến hành các nhiệm vụ chơi, hoàn thành các luật
chơi hay quy tắc chơi, tuân thủ những yêu cầu và mục đích chơi, vì vậy mà
cải thiện và phát triển đƣợc khả năng nhận thức. Trò chơi phát triển nhận thức
đƣợc phân chia thành một số nhóm nhỏ nhƣ: Các trò chơi phát triển cảm giác
và tri giác; các trò chơi phát triển và rèn luyện trí nhớ; các trò chơi phát triển
tƣởng tƣợng và tƣ duy.
Nhóm 2: Trò chơi phát triển các giá trị. Đó là những trò chơi có nội dung
văn hoá, xã hội, trong đó các quan hệ chơi phóng tác hoặc lý tƣởng hoá các
quan hệ đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, gia đình, xã hội, chính trị,… và các quy
luật hay quy tắc chơi đƣợc định hƣớng vào việc kích thích, khai thác các thái
độ, tình cảm tích cực, động viên ý chí và nhu cầu xã hội, khuyến khích sự
phát triển các phẩm chất cá nhân của ngƣời tham gia. VD: các trò chơi phân
vai đóng kịch, các trò chơi dân gian có tính chất lễ hội, thi nấu cơm, thi kéo
co, thi đọc thơ…
Nhóm 3: Trò chơi phát triển vận động. Các trò chơi phát triển vận động là
loại trò chơi đƣợc chơi hơi khác những trò chơi vận động, nó có phạm vi rộng
hơn và có chức năng phát triển vận động. VD: các trò chơi thể thao nhƣ chơi
bóng, đá cầu, mang vác, leo trèo, chạy nhảy, đuổi bắt, xếp hình bằng đội
ngũ…Các trò chơi phóng tác có nội dung quân sự, lao động, dịch vụ đòi hỏi
phải vận động thể chất và di chuyển cơ thể.
Căn cứ vào mục đích sử dụng trong dạy học, TCDH có thể chia thành các loại:
– TCDH để nghiên cứu lí thuyết mới.
– TCDH để củng cố bài học, sử dụng khi kết thúc bài học.
– TCDH để hệ thống hóa kiến thức ở các tiết ôn tập, luyện tập.
Căn cứ vào phương tiện cần sử dụng, có thể phân chia TCDH thành 2 loại:
– TCDH cần sử dụng máy tính, máy chiếu.
– TCDH không cần sử dụng máy tính, máy chiếu.
1.1.4. Nguyên tắc sử dụng trò chơi dạy học
Phải xác định rõ mục tiêu dạy học, giáo dục của mỗi trò chơi: Cần làm rõ
những gì là nhiệm vụ, quan hệ nội dung và tình huống chơi; bên cạnh đó những
9
gì là nhiệm vụ, quan hệ nội dung và tình huống dạy học, giáo dục.
Trò chơi phải có quan hệ chặt chẽ với nội dung học tập và nội dung cần
phù hợp với thực tế tổ chức trò chơi. Chỉ lựa chọn những yếu tố, vấn đề quan
trọng, cần thiết và thích hợp với phƣơng thức chơi để đƣa vào trò chơi với phán
đoán rằng trò chơi sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với giờ học bài bản.
Trong trò chơi, vai trò của ngƣời chơi cần đƣợc xác định rõ ràng. Đặc biệt,
phải tránh làm cho ngƣời chơi lẫn lộn vai chơi trong các trò chơi phân vai đóng
kịch và một số trò chơi phóng tác với vai trò hoạt động của họ trong việc thực hiện
nhiệm vụ học tập, vai trò, trách nhiệm đối với công việc trong quá trình chơi.
Khi đề ra các giải pháp hay kết luận về những vấn đề, tình huống phóng tác
(chơi), cần tránh tuyệt đối hoá hoàn cảnh chơi mà phải tìm cách đƣa vào những
liên hệ, biến cố dữ liệu của đời sống thực tế, nhằm tạo ra sự gần gũi giữa tình
huống chơi và tình huống thật.
Luật chơi hoặc quy tắc chơi cần tự nhiên đến mức cao nhất, tránh gò bó và
đƣợc HS hiểu rõ, chấp nhận trƣớc khi tiến hành trò chơi.
Cần có sự thảo luận và tổng kết sau trò chơi về nội dung và mục tiêu học
tập đạt đƣợc đến đâu, HS học đƣợc cái gì bổ ích theo yêu cầu dạy học và ngoài
yêu cầu dạy học; xử lí tƣơng tác nhóm và rút kinh nghiệm về tổ chức, trách
nhiệm cá nhân của HS trong hoạt động.
GV cần chuẩn bị chu đáo để có khả năng giải đáp những thắc mắc của HS,
hƣớng dẫn và điều chỉnh quá trình chơi, tổ chức trò chơi theo đúng thể loại đặc
thù của nó; cần sử dụng một số biện pháp, hình thức đánh giá kết quả học tập
của HS và những hoạt động khác nhau dƣới hình thức chơi. Điều đó không
những giúp GV thu đƣợc thông tin ngƣợc cho việc dạy học nói chung mà còn
giúp cho việc tổ chức hƣớng dẫn các trò chơi sau này đƣợc hiệu quả hơn.
1.1.5. Chức năng dạy học của trò chơi
Trò chơi dạy học có các chức năng cơ bản sau:
Xây dựng đội chơi: Đó là những trò chơi đƣợc sử dụng để cải thiện mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể. Các thành viên
sẽ hợp lại thành nhóm và làm việc theo nhóm.
10
Cải thiện khả năng giao tiếp: Loại trò chơi này đƣợc thiết kế và sử
dụng để cải thiện khả năng giao tiếp của HS. Khi có một chƣơng trình về kỹ
năng giao tiếp, HS cần phải đảm bảo tất cả những gì mình đƣa ra là đúng và
những bản nhận xét là một phần quan trọng của trò chơi. Lời nhận xét phải cụ
thể và hƣớng tới những cách cƣ xử của từng cá nhân khi giải quyết vấn đề.
Phát triển kỹ năng thuyết trình: Trong khi sử dụng các trò chơi để tăng
cƣờng kỹ năng thuyết trình, HS cần chớp thời cơ bằng việc thể hiện cá tính
của mỗi cá nhân trong nhóm bất cứ khi nào có thể. Điều quan trọng là ngƣời
thuyết trình phải đảm bảo những cá nhân đó đƣợc để ý và đƣợc báo cáo lại bởi
các thành viên khác còn lại trong nhóm. Bằng cách quan sát đơn giản các
thành viên trong đội sẽ nhận ra những điều mà họ cần.
Rèn luyện trí nhớ: Các hoạt động đòi hỏi phải tái hiện trong thời gian
ngắn hoặc dài những kinh nghiệm tri giác, thị giác hoặc thính giác. Trí nhớ
đƣợc trắc định bằng các trò đố, trong đó phải huy động tri thức từ quá khứ để
giải đáp những câu hỏi đánh đố.
Rèn luyện tính sáng tạo: Những phƣơng án khác của trò chơi thích hợp
nhất cho việc kích thích tính sáng tạo là giải trí bằng đồ họa, vẽ tranh, viết
truyện, làm thơ, nghĩ ra các trò đùa, câu đố, mô tả những phát kiến tƣởng
tƣợng…
Học những kỹ năng phán đoán: Đó là khả năng lƣờng trƣớc đƣợc những
dữ liệu của các hành động có thể xảy ra trong tƣơng lai ở một tình huống, đánh
giá những nhân tố nào quyết định xác suất lớn nhất xảy ra điều gì đó.
Học kỹ năng giải quyết những bất đồng: Biết bình tĩnh, kiềm chế đƣợc sự
bực tức, nóng nảy, bày tỏ đƣợc ý kiến cá nhân một cách nhẹ nhàng không chỉ
trích, xúc phạm ngƣời khác, chấp nhận và có thiện chí thỏa hiệp.
Học và rèn luyện hành vi có luật: Khi tham gia trò chơi, các cá nhân
phải hiểu các luật lệ, quy tắc chi phối hoạt động; tuân theo luật, tôn trọng
những thoả thuận đã nhất trí với nhau để tránh vi phạm luật.
Học cách làm chủ thái độ đối với thành công và thất bại: Có nghĩa là cá nhân
tán thành những phản ứng và chấp nhận về mặt xã hội trƣớc sự thắng và bại.
11
Cải thiện kỹ năng tự đánh giá, tự quản: Thông qua trò chơi, cho phép
ngƣời tham gia biết đƣợc họ có thể cải thiện kỹ năng tự đánh giá bản thân và
đánh giá bạn bè; cải thiện khả năng tổ chức của những ngƣời tham gia trò chơi
1.2. Lợi ích của dạy học thông qua trò chơi
Trò chơi không đơn thuần là giải trí. Chúng có thể là cuộc tìm kiếm giải
pháp cho các vấn đề hệ trọng thách thức ngƣời chơi giải quyết các vấn đề của
thế giới thực ở quy mô toàn cầu: đói nghèo, biến đổi khí hậu, hoà bình toàn cầu.
Giáo dục thông qua trò chơi tác động trực tiếp đến sự tham gia và động
cơ, gián tiếp dẫn đến việc hình thành thêm kiến thức và kỹ năng. Giáo dục thông
qua trò chơi khuyến khích học sinh thực hiện một hành động
Ngƣời học thƣờng đƣợc thúc đẩy bởi các cơ hội học tập thực hành và tích
cực. Các thực hành liên tục của việc ra quyết định, lập kế hoạch và học tập
trong môi trƣờng trò chơi rất dễ dịch sang các tình huống hàng ngày mà trẻ sẽ
phải đối mặt khi chúng lớn lên.
Các nhà giáo dục có thể nhận đƣợc phản hồi nhanh chóng bằng cách xem
cách trẻ tham gia và phản ứng. Trong khi chơi một trò chơi, trẻ em cũng có thể
tự do phạm sai lầm mà không có bất kỳ hậu quả lớn nào gây tổn hại về thể chất
hoặc tinh thần. Họ có thể thử nghiệm trong một môi trƣờng an toàn khi chơi
game. Bất kỳ sai lầm nào đƣợc thực hiện có thể đƣợc thảo luận trong một thiết
lập nhóm sau đó. Đồng thời khi học tập thông qua trò chơi có thể phát huy đƣợc
các loại trí thông minh.
1.3. Các bƣớc thiết kế hoạt động dạy học bằng hình thức trò chơi
Với đặc điểm đối tƣợng HS ở bậc THPT, việc tổ chức trò chơi trong thời
gian dài cả tiết học có thể sẽ làm cho các em chú tâm đến nhiệm vụ chơi hơn mà
sao nhãng nhiệm vụ học tập; đồng thời việc quản lý HS trong thời gian chơi dài
cũng khó khăn cho GV. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn giải pháp chỉ tổ chức trò
chơi ở một số hoạt động trong giờ học, phần thời gian còn lại của tiết học để
nghiên cứu các kiến thức trọng tâm khác của bài, làm thí nghiệm hóa học hay
kết hợp với dạy học các chủ đề STEM. Sau đây tôi đƣa ra tiến trình thiết kế hoạt
động dạy học dƣới hình thức trò chơi nhƣ sau:
12
Bước 1: Lựa chọn bài học, hoạt động dạy học bằng trò chơi và lựa chọn
trò chơi phù hợp
Trong một tiết học, GV lựa chọn một hoặc hai hoạt động dạy học để tổ
chức trò chơi. VD: Hoạt động kiểm tra bài cũ, củng cố kiến thức hoặc hoạt động
nghiên cứu kiến thức mới…
Căn cứ vào mục tiêu của hoạt động dạy học cũng nhƣ các điều kiện về cơ
sở vật chất của nhà trƣờng, khả năng và năng lực của GV và HS để lựa chọn trò
chơi cho phù hợp.
Bước 2: Xác định mục tiêu dạy học (mục tiêu trò chơi)
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT
Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa