SKKN Tổ chức trò chơi trong dạy và học môn hoá học nhằm tạo hứng thú học tập và nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
“Nâng cao dân trí – Đào tạo nhân lực – Bồi dưỡng nhân tài” luôn là nhiệm vụ
trung tâm của giáo dục – đào tạo. Trong đó việc phát triển và bồi dưỡng học sinh về các
môn học ở bậc phổ thông chính là bước khởi đầu quan trọng để đào tạo các em. Chúng ta
đang ở trong giai đoạn quyết định của thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa, cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ cao, trong xu thế toàn cầu
hóa, việc chuẩn bị và đầu tư vào con người nhằm tạo ra những con người có đủ trình độ
để nắm bắt khoa học – kỹ thuật, đủ bản lĩnh để làm chủ vận mệnh đất nước.
Hóa học là môn khoa học vừa lý thuyết vừa thực nghiệm, mục tiêu giáo dục môn
Hóa trường THPT cần cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức kĩ năng phổ thông cơ
bản hiện tại thiết thực và gắn với đời sống. Nội dung chủ yếu bao gồm cấu tạo chất, sự
biến đổi của các chất, những ứng dụng và tác hại của các chất trong đời sống, sản xuất và
môi trường. Những nội dung này góp phần giúp học sinh có học vấn phổ thông tương đối
toàn diện để có thể tiếp tục học lên, đồng thời có thể giải quyết một số vấn đề có liên
quan đến hóa học trong đời sống và sản xuất; mặt khác, góp phần phát triển tư duy sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh. Tuy nhiên, thực tế việc dạy Hóa ở các
trường THPT cho thấy, học sinh vẫn nặng về lý thuyết, chưa gắn các kiến thức lý thuyết
với các hiện tượng thực tiễn, chưa có nhiều hoạt động phát huy được năng lực của học
sinh. Phương pháp dạy học vẫn còn cũ, chưa khơi dậy được sự hứng thú, tính độc lập
sáng tạo của học sinh.
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học nói chung và dạy học môn hóa học nói riêng
đang là xu thế của việc phát triển dạy học hiện đại nhằm kích thích cho học sinh tìm tòi
kiến thức môn hóa học, tạo cho học sinh niềm say mê sáng tạo và yêu thích bộ môn hơn.
Hơn nữa, hiện nay Hóa học cùng các môn học khác là Vật lí, Sinh học, Địa lí,
Lịch sử và Giáo dục công dân là các môn học tự chọn để tạo thành hai bài thi tổ hợp Tự
nhiên và tổ hợp Xã hội. Trong những năm tới, ở cấp trung học phổ thông, Hóa học sẽ là
môn học bắt buộc với lớp 10 nhưng chỉ còn là môn tự chọn với lớp 11, 12. Do đó, việc
giáo viên Hóa học phải dạy cuốn hút hơn, phải khơi gợi tình yêu Hóa học trong mỗi em
học sinh là một trong những nhiệm vụ sống còn.
Việc sử dụng trò chơi mở có thể được sử dụng để đánh giá học sinh thông qua các
hoạt động của học sinh trong trò chơi. Ngoài đánh giá về kiến thức giáo viên còn có thể
đánh gia thông qua các kĩ năng mà học sinh thể hiện để tham gia trò chơi.
Các loại trò chơi trong dạy học nói chung và dạy học môn hóa học nói riêng rất da
dạng và phong phú. Giáo viên không tìm hiểu kĩ càng thì không biết được loại trò chơi
nào phù hợp với trường mình học sinh của mình và vì thế nên giáo viên không thường
xuyên sử dụng trò chơi trong dạy học. Vì biên soạn ra một trò chơi áp dụng vào bài dạy
mất rất nhiều thời gian nên nhiều giáo viên sưu tầm được giáo án của bài dạy có sử dụng
trò chơi áp thì áp dụng luôn cho học sinh của mình mà không tìm hiểu xem có thích hợp
với học sinh của mình hay không.
Với trách nhiệm của người giáo viên Hóa học trực tiếp đứng lớp giảng dạy ở
trường trung học phổ thông nhiều năm, tôi quan tâm nhiều đến chất lượng học tập của
học sinh, đến suy nghĩ, tâm tư tình cảm của học sinh đối với bộ môn của mình, quan tâm
Trang 2
nhiều đến việc đổi mới phương pháp dạy học sao cho chất lượng dạy và học Hóa học của
thầy trò chúng tôi đạt được hiệu quả tốt nhất trong những điều kiện hiện có. Vì vậy,tôi
thường xuyên tìm hiểu và áp dụng trò chơi dạy học trong dạy và học môn Hóa học.
Chính vì những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Tổ chức trò chơi trong dạy và học
môn hóa học nhằm tạo hứng thú học tập và nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn”
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Thực trạng công tác dạy và học môn hóa học
1.1.1 Ưu điểm
Việc dạy học tại các trường THPT nói chung chủ yếu áp dụng phương pháp dạy
học truyền thống. Không thể phủ nhận các ưu điểm và những tích cực của dạy học truyền
thống đã mang lại như: Dạy học thống nhất và đại trà, việc soạn bài của giáo viên đơn
giản và quen thuộc, môn học và kĩ năng được dạy theo một trật tự cụ thể, chặt chẽ, đánh
giá của giáo viên đơn giản, theo những hình thức học sinh đã biết, đánh giá của trường
học, của các sở giáo dục được thực hiện một cách dễ dàng…
Đa số giáo viên đều có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học, dạy học
tích hợp liên môn, vận dụng các kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo góp phần phát triển toàn diện cho học sinh. Tuy nhiên, trong thực tế
vận dụng, nhiều giáo viên còn lúng túng khi thực hiện các kĩ thuật dạy học tích cực, ứng
dụng công nghệ thông tin, liên hệ kiến thức với các vấn đề trong thực tế,…
Đối với việc sử dụng trò chơi trong dạy và học môn hóa học có nhiều ưu điểm có thể
kể ra như:
– Học trong quá trình vui chơi, là quá trình lĩnh hội tri thức vốn sống một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên không gò bó phù hợp với đặc điểm tâm lí sinh học ở học sinh. Học tập
bằng trò chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự nguyện, làm giảm thiểu sự căng thẳng thần kinh ở
các em.
– Trong quá trình chơi học sinh huy động các giác quan để tiếp nhận thông tin ngôn
ngữ. Học sinh phải tự phân tích tổng hợp so sánh khái quát hóa làm cho các giác quan
tinh nhạy hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn, các thao tác trí tuệ được hình thành.
– Qua trò chơi học tập học sinh tiếp thu, lĩnh hội và khắc sâu được nhiều tri thức
nhiều khái niệm trên cơ sở đó những phẩm chất trí tuệ của các em được hình thành như:
Sự nhanh trí, tính linh hoạt, sáng tạo và kiên trì.
– Trò chơi dạy học là kĩ thuật, hoạt động bổ trợ trong quá trình dạy học. Hoạt động
này thiên về phần chơi, trong lúc chơi con người dường như quên đi mọi nỗi ưu tư, phiền
muộn. Chính vì vậy mà trò chơi dạy học giúp xua đi nỗi lo âu nặng nề của việc học cho
học sinh, giúp gắn kết tình cảm giữa giáo viên và học sinh trong lúc chơi.
– Trong lúc chơi tinh thần của học sinh thường rất thoải mái nên khả năng tiếp thu
kiến thức trong lúc chơi sẽ tốt hơn, hoặc sau khi chơi cũng sẽ tốt hơn.
– Trò chơi dạy học cũng có thể hình thành nên cho học sinh những kĩ năng của môn
học, học sinh không chỉ có cơ hội tìm hiểu kiến thức, ôn tập lại các kiến thức đã biết mà
còn có thể có được kinh nghiệm, hành vi.
– Một số trò chơi dạy học còn giúp cho học sinh có khả năng tư duy, cách giải quyết
vấn đề nhanh nhẹn không chỉ trong lĩnh vực mình chơi mà cả các lĩnh vực của cuộc sống.
Trang 3
-Một số trò chơi có thể giúp cho học sinh có khả năng quyết định các phương án
đúng, cách giải quyết các tình huống một cách hợp lí.
– Trò chơi dạy học cũng có thể là biện pháp mà giáo viên tạo ra sự ganh đua giữa các
cá nhân học sinh hoặc giữa các nhóm học sinh. Khi tổ chức cho học sinh chơi theo nhóm
còn tạo sự gắn kết cho học sinh và tăng tinh thần đoàn kết cho học sinh.
– Trò chơi góp phần hoàn thiện phẩm chất đạo đức, rèn cho học sinh tính trung thực,
tổ chức tự lực, đoàn kết. Khi tham gia chơi mọi học sinh đều có quyền bình đẳng như
nhau. Ở trò chơi học tập các em cảm nhận được một cách trực tiếp kết quả hoạt động của
mình : Đúng hay sai, phát hiện ra cái mới…Kết quả này có ý nghĩa to lớn đối với các em,
nó mang lai niềm vui vô hạn thúc đẩy tính tích cực, mở rộng củng cố và phát triển vốn
hiểu biết của các em.
Tại trường THPT Xuân Trường C, bản thân tôi và các giáo viên khác không chỉ áp
dụng trò chơi cho các tiết hội giảng mà sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy trên lớp.
Không nhất thiết tổ chức trò chơi trong tất cả thời gian của tiết học mà có thể chỉ trong
một hoạt động cụ thể nào đó. Những tiết học có sử dụng trò chơi học sinh cảm thấy hứng
thú, vũi vẻ hơn, không khí học tập trong lớp thoải mái, bớt nặng nền, thầy trò gần gũi và
hiểu nhau hơn. Sau mỗi tiết học học sinh không cảm thấy căng thẳng mệt mỏi mà có thể
bắt đầu ngay tiết tiếp theo. Mỗi tiết học có sử dụng trò chơi gây được sự hưởng ứng của
tất cả học sinh trong lớp có thể để lại dư âm đến rất nhiều tiết học sau đó của bộ môn.
Với cơ chế mở của thông tư 26/2020/TT-BGDĐT qua mỗi trò chơi giáo viên có
thể đánh giá học sinh bằng điểm số để khuyến khích động viên học sinh tích cực tham gia
trò chơi trong mỗi tiết học hơn.
1.1.2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học môn hóa học có nhiều bất cập
Đối với bộ môn hóa học
Hóa học là một môn hóa học đặc thù mang tính chất nối tiếp rất cao, nếu không
nắm vững kiến thức của bài trước sẽ khó có thể học các bài sau, nếu chương trước không
hiểu thì khi học chương sau sẽ rất dễ dẫn đến chán nản và môn hóa học sẽ trở thành một
môn học khó để theo học được.
Khi thi tuyển sinh vào lớp 10 đa số các em không được học nhiều về môn hóa mà
chỉ học các môn ngữ văn, toán, ngoại ngữ nên khi bắt đầu học lớp 10 của chương trình
trung học phổ thông các em không có các kiến thức cơ bản về môn hóa nên thường ngại
học hóa, sợ học hóa vì mất gốc.
Nhiều mảng kiến thức trừu tượng, nhiều phương trình hóa học phức tạp và danh
pháp dễ gây nhầm lẫn nhiều nên học sinh thường hay mất gốc và chán nản với bộ môn.
Học sinh học tập miễn cưỡng, chiếu lệ; ưu tiên lựa chọn các môn thuộc tổ hợp
tổng hợp xã hội với suy nghĩ học các môn này sẽ “nhàn” hơn, khi thi THPT Quốc gia sẽ
có kết quả cao hơn so với các môn thuộc tổ hợp tổng hợp tự nhiên.
Đối với học sinh
Đa số học sinh có ý thức tốt, mong muốn mình có vốn hiểu biết và kết quả học tập
cao. Nhưng Hóa học là một trong những môn học khó có tính chất nối tiếp của các phần
kiến thức nên đòi hỏi các em phải chăm chỉ và có tư duy tốt.
Trang 4
Một bộ phận học sinh có ý thức tự học còn thấp, năng lực tiếp thu bài chưa tốt để
có thể học tập tốt nội dung giáo viên truyền thụ và có thể trả lời tốt các câu hỏi của giáo
viên. Phương pháp học tập của học sinh chưa phù hợp với đặc thù bộ môn, thụ động
trong học tập, tái hiện một cách máy móc rập khuôn những gì giáo viên giảng, lười suy
nghĩ tìm tòi sáng tạo. Còn nhiều học sinh chưa chú tâm vào việc thực hiện hiệm vụ của
giáo viên giao trên lớp, làm bài tập ở nhà, lười suy nghĩ, lười chép bài hoặc chép qua loa
cho có lệ. Nhiều học sinh không học bài cũ, không nghiên cứu bài mới trước khi đến lớp.
Từ đó dẫn đến chất lượng học môn Hóa học của các em còn thấp.
Đối với giáo viên
Trong quá trình dạy học còn nặng về truyền thụ kiến thức theo kiểu đọc – chép, ít
vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống, ít cho học sinh thực hành thí nghiệm mà chủ
yếu là thí nghiệm biểu diễn của giáo viên. Giáo viên chưa thực sự có sự công não, đa
dạng các hoạt động học cho học sinh. Vì thế từ cách nêu vấn đề đến tổ chức các hoạt
động dạy học chưa tạo được niềm say mê, hứng thú và hấp dẫn học sinh.
Giáo viên thừa nhiệt tình nhưng chưa đủ kiến thức sâu rộng và khả năng linh hoạt
về phương pháp giảng dạy. Một số giáo viên có ý thức đổi mới phương pháp dạy học
nhưng chỉ mang tính đối phó khi có thao giảng, dự giờ, kiểm tra. Một bộ phận giáo viên
không tích cực đầu tư cho tiết dạy cũng như công tác soạn giảng, thậm chí còn sao chép
giáo án của người khác hoặc tải trên mạng về điều chỉnh chút ít để làm giáo án của riêng
mình và để đối phó; lên lớp thiếu sự chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học dẫn đến tình
trạng dạy chay, giờ học nhàm chán, thiếu sức hút.
Riêng việc sử dụng trò chơi trong các tiết dạy còn nhiều bất cập như giáo viên ít
sử dụng, không biết có các loại trò chơi nào để lựa chọn cho phù hợp.
Nhiều giáo viên đã áp dụng trò chơi để nâng cao chất lượng dạy học, tạo hứng thú
cho học sinh tuy nhiên áp dụng chưa đúng lúc đúng chỗ như cố áp dụng các trò chơi
trong khi cơ sở vật chất của nhà trường, các trang thiết bị của học sinh không đáp ứng
được yêu cầu của trò chơi
Nhiều giáo viên quá lạm dụng trò chơi, khi sưu tầm được các bài giảng có tổ chức
trò chơi từ các nguồn trên internet, các nhóm đổi mới phương pháp dạy học đều dùng để
giảng dạy cho học sinh của mình mà thực sự lại không phù hợp với đối tượng học sinh
mình giảng dạy.
Nhiều giáo viên không áp dụng linh hoạt được các trò chơi trong các tiết dạy khiến
trò chơi nặng nề, quá tham về kiến thức dẫn đến mất nhiều thời gian mà học sinh không
hiểu bài.
Giáo viện chọn hình thức tổ chức trò chơi không phù hợp như chia nhóm để hoạt
động nhưng chỉ có một thành viên trong nhóm phát biểu, các học sinh khác không có các
hoạt động để chủ đông lĩnh hội kiến thức
Việc sử dụng trò chơi cũng có mặt trái là tốn thời gian, gây áp lực đến việc việc
duy trì điểm số trong các kì thi, chưa chú trọng đến kĩ năng làm bài, với cách đổi mới
kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục.
Để khách quan hơn trong việc tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng dạy và học môn
hóa học ở trường THPT Xuân Trường C, tôi đã tiến hành thu thập thông tin qua phiếu
điều tra với các em học sinh lớp tôi dạy (Phụ lục 1).
Trang 5
Thống kê cho kết quả cụ thể là:
Năm học | % học sinh yêu thích hóa học | % học sinh không yêu thích hóa học | % học sinh phân vân |
2015 – 2016 | 12,2 % | 19,5 % | 68,3 % |
2018 – 2019 | 10 % | 21,2 % | 68,8 % |
2019 – 2020 | 11,2 % | 21,4% | 67,4% |
Với tỉ lệ trên, việc đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc thù bộ môn
nói chung và tổ chức trò chơi trong dạy và học môn hóa học nhằm tạo hứng thú học tập
và nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, để hóa học không còn mang tính đặc thù khó
hiểu như một là một trong những công việc cần làm ngay và cần làm xuyên suốt.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Cơ sở lí luận
Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành của Bộ Giáo dục và đào tạo có chỉ rõ:
“Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm của từng đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh”
K.D.Usinxki (một nhà giáo dục lỗi lạc người Nga) cho rằng: “Trong học tập
không có hứng thú mà chỉ dùng sức mạnh của sự cưỡng ép, nó sẽ làm cho óc sáng tạo
ngày thêm mai một, nó sẽ làm cho người học ngày một thờ ơ với loại hình hoạt động
này”.
Sự hứng thú của người học thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say
mê với các môn học. Sự hứng thú là động cơ thúc đẩy người học tham gia tích cực và
sáng tạo vào việc tìm hiểu kiến thức ở các môn học. Trong hoạt động học, khi không có
hứng thú sẽ làm cho người học mất đi động cơ học, kết quả học tập không cao, thậm trí
xuất hiện những cảm xúc tiêu cực vì vậy tôi đã tạo hứng thú cho học sinh thông qua sử
dụng trò chơi trong dạy học môn hóa học.
Để sử dụng trò chơi trong các tiết học nhằm tạo được hứng thú cho các em học
sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn giáo viên cần lựa chọn và thiết kế trò chơi phù
hợp với nội dung kiến thức và đối tượng sử dụng.
Trước hết giáo viên cần xác định rõ mục đích mục tiêu bài học: Đây là yêu cầu
đầu tiên và quan trọng nhất để xây dựng bài giảng. Khi xác định được mục tiêu bài học
giáo viên mới xác định được các phương pháp kĩ thuật cũng như lựa chọn được trò chơi
phù hợp với nội dung kiến thức bài học.
Lựa chọn trò chơi phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh: Khi lựa chọn trò
chơi cần phải cân nhắc để phù hợp với nội dung bài dạy và phù hợp với đối tượng học
sinh. Với một bài mới có kiến thức có liên quan nhiều đến kiến thức cũ, có thể từ bài cũ
xây dựng được nên kiến thức của bài mới giáo viên có thể lựa chọn trò chơi mà để phần
nhiều “đất diễn” cho học sinh, giáo viên chỉ cần đóng vai trò định hướng ban đầu và kết
luận lại bài học.
Thiết kế trò chơi với lượng kiến thức vừa phải mang tính chất giải trí, giảm tải
căng thẳng, tạo không khí thi đua, vừa giúp ôn tập – hình thành – rèn luyện kiến thức
Trang 6
Trò chơi phải củng cố được một nội dung kiến thức cụ thể trong chương trình (có
thể là kiến thức cũ, kiến thức bài mới, kiến thức thực hành, luyện tập, liên hệ thực tế…).
Các trò chơi được xây dựng trên cơ sở các dạng bài tập, lý thuyết cần nhẹ nhàng, gây
hứng thú cho học sinh góp phần hình thành, củng cố hoặc hệ thống kiến thức. Các trò
chơi phải giúp học sinh rèn luyện kĩ năng hóa học, phát huy trí tuệ, óc phân tích, hoặc
khả năng làm việc nhóm…
Trò chơi cần có sức hấp dẫn thu hút được sự chú ý, tham gia của học sinh, tạo
không khí vui vẻ thoải mái. Trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp hay theo một khuôn
mẫu nhất định nhưng cần gần gũi, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh, thích hợp với học
sinh của lớp dạy, của nhà trường.
Trò chơi cần được diễn ra trong một quỹ thời gian nhất định, trong thời gian một
tiết học ứng với 40 – 45 phút hoặc trong thời gian 5- 7 phút cuối mỗi tiết để củng cố kiến
thức tùy theo dụng ý của người giáo viên. Tùy theo thời gian mà có thể sử dụng các hình
thức chơi khác nhau có thể chơi theo nhiều vòng theo mô hình trò chơi đường lên đỉnh
Olympia hoặc chỉ 3 – 5 câu hỏi cho mỗi đội – nhóm chơi.
Hình thức chơi, các câu hỏi đưa ra trong trò chơi phải được lựa chọn và sử dụng
phù hợp, đúng địa chỉ, tránh việc lan man, không liên quan đến nội dung kiến thức hoặc
chỉ tập trung vào một số ít học sinh.
Trong quá trình tôt chức trò chơi cần linh hoạt trong mỗi tiết dạy để đạt được hiệu
quả cao nhất. Trong quá trình sử dụng trò chơi giáo viên không hẳn nhất thiết theo kịch
bản đã chuẩn bị trước, cần tùy cơ ứng biến. Giáo án chuẩn bị trước gồm nhiều phần
nhưng khi tiến hành tổ chức trò chơi nếu mất nhiều thời gian hơn so với dự định, giáo
viên có thể rút ngắn phần trò chơi, bớt đi các câu hỏi trong các phần để dành thời gian
tóm tắt, củng có lại các phần đã học.
Học sinh chưa hiểu rõ yêu cầu của trò chơi dẫn đến thực hiện không đúng yêu cầu
của giáo viên hoặc không biết phải làm gì, làm như thế nào. Để tránh tình huống này giáo
viên cần phổ biến rõ luật chơi, có động tác hỏi các em học sinh, đến khi cả lớp hiểu yêu
cầu mới tiến hành trò chơi.
Trong quá trình tổ chức trò chơi để hình thành kiến thức cho tiết học lý thuyết, học
sinh thường chỉ chú ý đến các phần của trò chơi mà không ghi chép bài, giáo viên cũng
cần chốt lại các phần kiến thức để học sinh ghi chép vào trong vở.
Trong quá trình tổ chức trò chơi có chia nhóm học sinh trong lớp, giáo viên cũng
cần phân chia các nhóm đều về số lượng, đều về học lực, và đôi khi cũng cần đều về giới
tính nếu nhiệm vụ của các nhóm liên quan hay phụ thuộc vào giới tính. Nếu sản phẩm
của mỗi nhóm là phần viết, vẽ, sơ đồ tư duy thì cũng cần phân nhóm sao cho mỗi nhóm
có một cá nhân có thể hoàn thành nhiệm vụ này để cả lớp cùng hiểu được, quan sát được
sản phẩm của mỗi nhóm.
2.2. Thực nghiệm sư phạm
Qua nghiên cứu tôi tạm chia trò chơi thành 2 loại: Loại thứ nhất là trò chơi chỉ sử
dụng các loại phương tiện dạy học cơ bản, không cần sử dụng đến mạng internet – tôi
tạm gọi là trò chơi offline. Loại thứ hai là trò chơi có sử dụng các thiết bị như laptop,
điện thoại thông minh, máy tính bảng… có kết nối mạng internet – tôi tạm gọi là trò chơi
online
2.1.1 Trò chơi offline.
Trang 7
Có rất nhiều loại trò chơi mà không cần dùng đến mạng internet như ai nhanh hơn,
thử trí thông minh, kết bạn, truyền tin… ở đây tôi xin giới thiệu trò chơi xếp hình và trò
chơi đường lên đỉnh Olympia mà tôi đã áp dụng vào các lớp tôi dạy.
2.1.1.1 Trò chơi xếp hình
– Trò chơi xếp hình sử dụng các mảnh ghép bằng giấy có ghi các thông tin về câu
hỏi và câu trả lời về các nội dung kiến thức trong bài học, không yêu cấu các thiết bị dạy
học hiện đại, vì vậy giáo viên có thể sử dụng trong bất kì tiết học nào và có thể sử dụng
cho nhiều lớp khác nhau với cùng một bộ mảnh ghép câu hỏi – câu trả lời. Đây cũng có
thể là phương án dự phòng cho các trường hợp các thiết bị dạy học như máy tính, máy
chiếu, điện thoại thông minh, máy tính bảng không được sử dụng. Do trò chơi này đơn
giản nên học sinh có thể tự thiết kế các câu hỏi, câu trả lời theo yêu cầu của giáo viên để
tổ chức ra đề – xếp hình – chấm chéo giữa các nhóm.
– Quy tắc: Hình mẫu được xếp bởi các mảnh ghép là các hình tam giác, hình
vuông, hình ngũ giác, hình lục giác… hay trộn lẫn các hình với nhau. Hai hình có chung
một cạnh sẽ có một câu hỏi và một câu trả lời (có thể màu chữ khác nhau hoặc độ dậm
nhạt khác nhau để phân biệt câu hỏi và câu trả lời). Nếu hình mẫu có nhiều mảnh ghép
thì nên có mảnh ghép gợi ý (Đặt ở vị trí cố định trong hình mẫu). Giáo viên giới hạn nội
dung và số lượng câu hỏi cho mỗi nhóm và nhóm này cho nhóm khác. Có thể cho một số
mảnh ghép gây nhễu để thử độ nhanh nhạy và chính xác của học sinh cũng như hạn chế
học sinh ghép hình theo cảm tính hay sử dụng sự thông minh toán học.
– Áp dụng vào bài dạy: Tôi áp dụng trò chơi này cho học sinh lớp 10 trong 3 bài.
Lần 1 và lần 2 tôi thiết kế để các em xếp thành hình theo ý tưởng, hình vẽ của tôi. Trên
cơ sở hiểu cách thức vận hành của trò chơi, lần ba tôi cho các em tự thiết kế hình vẽ, biên
soạn câu hỏi theo nhóm để các nhóm làm chéo bài của nhau.
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT
Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa
Xin phép được xin tài liệu này để tham khảo ạ