Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Sử dụng sáng tạo, có hiệu quả ôn tập và kiểm tra nhằm nâng cao kết quả thi tốt nghiệp thpt môn GDCD

    SKKN Sử dụng sáng tạo, có hiệu quả ôn tập và kiểm tra nhằm nâng cao kết quả thi tốt nghiệp thpt môn GDCD

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    “Muốn thấy được tương lai của một Đất nước
    hãy nhìn vào gương mặt trẻ thơ khi đến trường”
    Một chuyên gia giáo dục Nhật Bản đã đưa ra mệnh đề đó. Nếu nhìn giáo dục nước
    ta hiện nay từ lăng kính của kiến trúc, thì việc kiến tạo nên con người là tuyệt tác
    vĩ đại nhất của người thầy. Vì qua việc của một “ kỹ sư tâm hồn”, người thầy lãnh
    trọng trách, giữ sứ mệnh sáng tạo ra xã hội mới. Bởi thế, nên chính họ đã và đang
    không ngừng sáng tạo và thích ứng hơn bao giờ hết. Không chỉ đổi mới trong
    giảng dạy mà thầy cô phải đột phá cả trong kiểm tra đánh giá và thi cử sao cho
    hiệu quả, phù hợp với xu thế phát triển của Đất nước và quốc tế. Sự ra đời của
    chương trình phổ thông mới 2018 là một dấu mốc hết sức quan trọng khẳng định
    Giáo dục Việt Nam đã thích ứng. Kiên trì đổi mới để thầy cô hạnh phúc, học trò
    vui khi đến trường, để sản phẩm các nhà trường trao tặng cho xã hội sẽ hoàn hảo
    nhất, phù hợp nhất với cầu nhân lực của nền kinh tế, của Đất nước. Mỗi học trò
    được gia đình trao cho nhà trường là một kho báu. Và nếu được giáo dục chu đáo
    và đúng phương pháp, không có con người nào là không trở nên hoàn hảo. Thế
    nên, bên cạnh đổi mới giảng dạy theo hướng tiếp cận phẩm chất, năng lực thì giáo
    dục đang đổi mới ôn tập, kiểm tra, đánh giá và cả công tác thi cử. “Đạt chất lượng
    tốt, giảm tối đa áp lực thi cử, và nâng cao phẩm chất năng lực cho các con học
    sinh”, đang là mục tiêu cấp thiết hiện nay đối với ngành giáo dục nói chung và cả
    chúng tôi – những giáo viên luôn trăn trở khi đứng lớp, khi đau đáu đồng hành với
    các con trong mỗi mùa ôn tập miệt mài cho kỳ thi cuối cấp THPT.
    Chúng tôi đã tìm hiểu ở một số nền giáo dục hiện đại và thấy họ rất coi trọng
    các phương pháp tự học tự chiếm lĩnh kiến thức, tự kiểm tra đánh giá qua đó, giúp
    người học tự tin hình thành phát triển năng lực cá nhân. Trong nền giáo dục quốc
    dân, môn GDCD đang góp phần chủ đạo trong việc bồi dưỡng cho học sinh những
    phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân ái, trách nhiệm, trung thực và chăm chỉ.
    2
    Môn học này còn hình thành cho học sinh những năng lực đặc thù là: Năng lực
    điều chỉnh hành vi, năng lực phát triển bản thân và năng lực tìm hiểu tham
    gia các vấn đề kinh tế xã hội. Từ đó giúp học sinh đủ bản lĩnh sẵn sàng cho hội
    nhập như những công dân toàn cầu nhưng mang bản sắc Việt Nam ( yêu nước
    thương nòi, biết quí trọng các giá trị và giàu có khát vọng…) và đặc biệt các em tự
    tin sống tốt và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật nước CHXHCN Việt Nam, sẵn
    sàng thực hiện trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
    quốc, hội nhập kinh tế quốc tế.
    Nhận thức rõ tầm quan trọng của môn học nên năm 2017 Bộ GD-ĐT đã lựa
    chọn môn GDCD vào tổ hợp môn thi khoa học xã hội trong kỳ thi trung học phổ
    thông (THPT) quốc gia. Và hiện tại có nhiều trường Đại học khối ngành Kinh tế và
    Luật đã xét điểm theo khối như C14 ( Toán, Văn, GDCD)…Đó là triển vọng, là cơ
    hội nhưng cũng là áp lực thi cử khá lớn cho cả thầy và trò của bộ môn. Là giáo
    viên dạy bộ môn Giáo dục công dân trong trường THPT, chúng tôi luôn suy nghĩ,
    trăn trở trước các kỳ thi, làm sao để thông qua các giờ ôn tập, các hình thức kiểm
    tra đánh giá sáng tạo của mình, học sinh có thể hứng khởi tiếp thu, nâng cao năng
    lực xử lý đề thi, lĩnh hội được kiến thức cơ bản cũng như mở rộng, chinh phục
    thành công kỳ thi tốt nghiệp với kết quả cao nhất. Với mục đích đó, chúng tôi đã
    thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm là: “Sử dụng sáng tạo, có hiệu quả các
    biện pháp ôn tập và kiểm tra, nhằm nâng cao kết quả thi tốt nghiệp THPT
    môn GDCD”.
    Đề tài tập trung nghiên cứu một số giải pháp ôn tập, kiểm tra đánh giá môn
    GDCD lớp 12 nhằm nâng cao hiệu quả kì thi tốt nghiệp THPT. Đề tài được thực
    hiện trong năm học 2021 – 2022, đồng thời có thể áp dụng trong những năm học
    tiếp theo tại nhiếu trường THPT trong tỉnh. Trường thực nghiệm chủ yếu là trường
    Hoàng văn Thụ, một lớp của trường THPT Xuân Trường, THPT Nguyễn Bính,
    THPT Mỹ Lộc, THPT Trần Hưng Đạo …
    Phương pháp nghiên cứu :
    Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
    3
    Phân tích – tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, phân tích, so sánh.
    Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
    Phương pháp khai thác, sử dụng dữ liệu điều tra: thực hiện phát phiếu điều
    tra 2 lớp 12 xác xuất, đồng thời thực hiện phỏng vấn trực tiếp nhiều học sinh để
    khảo sát về thực trạng việc học tập môn Giáo dục công dân.
    Phương pháp quan sát: tiến hành trực tiếp quan sát thái độ, mức độ tiếp nhận
    kiến thức pháp luật của các học sinh trong giờ Giáo dục công dân trên lớp học.
    Nhóm phương pháp thực nghiệm
    4
    II . MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1 Thực trạng ôn tập, kiểm tra, đánh giá trong môn GDCD hiện nay
    Môn GDCD đã thi tốt nghiệp từ năm 2017 đến nay. Do được làm quen với
    hình thức thi trắc nghiệm thông qua các kì thi học kì, hay các bài kiểm tra ở trường,
    việc hướng dẫn của giáo viên, học sinh ôn tập đã có nhiều kinh nghiệm hơn nên trong
    kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022 có nhiều thí sinh điểm cao ( tỉnh Nam
    Định có 197 điểm 10 môn GDCD). Bên cạnh đó vẫn còn nhiều thí sinh điểm dưới 8,
    một số em đạt điểm 5, điểm 6. Ngoài sự ôn tập kỹ lưỡng đúng phương pháp, mức độ
    điểm còn phụ thuộc rất lớn vào sự chú ý học tập và kỹ năng làm bài của học sinh cũng
    như sự trải nghiệm có hiệu quả các hình thức ôn tập, kiểm tra của các em trong năm
    học mà do các thầy cô hướng dẫn.
    Chúng ta đều biết:
    * Ôn tập GDCD: Là quá trình rà soát củng cố,bổ sung kiến thức, kỹ năng, phẩm
    chất, năng lực xử lý đề thi tốt nghiệp cho học trò để các con chinh phục thành công các
    kỳ thi của trường, của Sở và của Bộ tổ chức.
    * Kiểm tra GDCD: Là quá trình xem xét, tổ chức thu thập thông tin và gắn với
    hoạt động đo lường để đưa ra các kết quả, so sánh, đối chiếu với yêu cầu, mục tiêu hay
    chuẩn đã đề ra, với mục đích xác định xem cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được,
    những nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng, chi phối để điều chỉnh nhằm đạt mục tiêu
    giáo dục; để từ đó có những nhận định, đánh giá và điều chỉnh hoạt động ôn và giúp
    HS học tập tiến bộ.
    Như vậy, ôn tập, kiểm tra, đánh giá là một khâu không thể tách rời của quá trình
    dạy học, là một bộ phận quan trọng của quản lí giáo dục, quản lí chất lượng dạy và học
    kể cả thi tốt nghiệp THPT.
    * Thực trạng ôn tập kiểm tra đánh giá môn GDCD hiện nay:
    Ôn tập, kiểm tra, đánh giá ở môn GDCD những năm gần đây thường thiên về tự
    luận, một chiều, giáo viên thuyết trình lại cho học sinh nắm lại các khái niệm, các quy
    luật kinh tế, kiến thức pháp luật, sau đó buộc các em phải chấp nhận học thuộc lòng.
    5
    Ôn tập, kiểm tra thường xuyên thì chủ yếu là kiểm tra miệng dạng nhận biết: ví dụ như
    giáo viên yêu cầu học sinh trình bày khái niệm đã có sẵn trong sách giáo khoa, sau đó
    thêm nữa là yêu cầu các con lấy ví dụ minh họa rồi học sinh có thể dựa vào đó thuộc
    hơn hiểu hơn nội dung đã thuộc. Đối với kiểm tra đành giá định kỳ phản ánh sâu sắc
    hơn kết quả ôn tập, tức là học sinh áp dụng vào làm bài tập liên quan, lớp 10,11 chủ
    yếu là tự luận, lớp 12 là trắc nghiệm. Tuy nhiên, bài kiểm tra chỉ dừng lại ở mức thuộc
    bài hoặc trả bài trong một phạm vi nhất định chứ không có nhiều liên hệ thực tế, không
    có những hình thức phương pháp đa dạng, các em chưa phát huy được các phẩm chất,
    năng lực, kĩ năng làm bài của mình nên kết quả kiểm tra đánh giá còn chưa cao.
    Thực trạng ôn tập, kiểm tra đánh giá môn GDCD và áp lực mùa thi…
    Thực trạng ôn tập nhồi nhét, kiểm tra đánh giá 1 chiều và quá khô khan, quá
    áp lực đang đè nặng lên vai học trò. Điểm số tất nhiên là thang đo, là cái phản ánh chất
    lượng và hiệu quả đào tạo. Điều này là không sai, nhưng cái con đường ôn tập, phương
    cách kiểm tra đánh giá như thế nào để giảm tải áp lực, nâng cao điểm số môn GDCD
    trong thi tốt nghiệp, giúp các con học ôn vui vẻ hứng khởi mà vẫn điểm cao, rồi thực
    hành pháp luật giỏi là vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết.
    Trong các tiết dạy, ôn tập, kiểm tra đánh giá trong GDCD ở trường THPT
    những năm qua chủ yếu 1 chiều, chưa có nhiều sáng tạo trong các biện pháp ôn tập
    kiểm tra đánh giá thường xuyên như: qua sản phẩm thực hành, học tập, hồ sơ học
    tập,… Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp học ôn GDCD diễn ra vẫn còn chậm,
    6
    chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục và kích thích sự say mê tự ôn tập thường xuyên
    của học sinh dẫn đến kết quả thi chưa cao như mong đợi. Vì vậy, để học sinh có thể ôn
    tập trong vui thích môn GDCD nói chung và có kĩ năng ôn tập trắc nghiệm môn
    GDCD lớp 12 nói riêng nhằm đáp ứng kì thi tốt nghiệp THPT, cả cô và trò phải có
    những đột phá, sáng tạo khi ôn và thay đổi liên tục “thực đơn” kiểm tra đánh giá để
    học thăng hoa, phấn đấu hết ga cho kỳ thi cuối cấp.
    1.2. Nguyên nhân, giải pháp cho thực trạng trên
    * Về nội dung chương trình và công tác quản lý
    Nội dung môn GDCD cấp THPT gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực tiễn, gắn
    liền với các sự kiện trong đời sống đạo đức, chính trị, kinh tế – xã hội, pháp luật của
    địa phương, của đất nước. Nhất là chương trình lớp 11, 12 hiện nay đang là chương
    trình cũ đã lạc hậu, kiến thức về luật khô khan, nếu không “ khéo chế biến” sẽ thực sự
    khó “ ẩm thực” nhất là với “ thực khách” là những cô cậu học trò còn rất ít vốn sống
    và sự trải nghiệm thực tế. Hệ thống các văn bản pháp luật thường xuyên sửa đổi, bổ
    sung nên việc cập nhật và giảng dạy gặp nhiều khó khăn.
    Giáo dục công dân lớp 12 có nhiều nội dung quan trọng như: bản chất của pháp
    luật; thực hiện pháp luật, trách nhiệm hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật, quyền bầu
    cử, ứng cử; quyền tự do kinh doanh; tự do ngôn luận; quyền bình đẳng giữa các dân
    tộc, tôn giáo; quyền khiếu nại, tố cáo của công dân… Sách giáo khoa còn nặng kiến
    thức hàn lâm, chưa làm rõ tính thực tiễn gây khó hiểu cho học sinh, có nhiều kiến thức
    liên quan đến pháp luật khó đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu các bộ luật thật kĩ mới
    đưa ra được câu trả lời đúng. Có thể nói việc ôn thi môn GDCD đáp ứng kì thi tốt
    nghiệp trung học phổ thông hiện nay đang được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam
    Định, Nhà trường, Ban giám hiệu quan tâm, chỉ đạo sát sao đến bộ môn. Hi vọng trong
    thời gian tới, bộ môn còn nhận được nhiều hơn thế nữa. Điều này tạo nên sự thay đổi
    phần nào tích cực hơn trong dư luận xã hội nhìn nhận đánh giá sự quan trọng của môn
    GDCD.
    * Về phương pháp ôn, kiểm tra, đánh giá của giáo viên :
    7
    Hiện nay đội ngũ giáo viên (GV) môn Giáo dục công dân trong toàn tỉnh đã
    được đào tạo đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Về cơ bản đội ngũ này có thể đáp ứng
    được yêu cầu dạy và học Giáo dục công dân tại các trường Trung học phổ thông. Giáo
    viên có tinh thần học tập, tự học, tự nghiên cứu và tham gia đầy đủ các khóa tập huấn
    về chuyên môn, nghiệp vụ được trang bị những kiến thức mới về chương trình, Sách
    giáo khoa môn học. Bản thân tôi đã tham gia những khóa tập huấn của Bộ về chương
    trình giáo dục phổ thông mới, và đã được trường Đại học sư phạm Hà Nội cấp chứng
    nhận. Tuy nhiên, về việc sáng tạo, đột phá, đa dạng các hình thức ôn tập, kiểm tra,
    đánh giá vẫn còn hạn chế. Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến sự tự học, tự đánh giá
    của người học, chưa nhiều sáng tạo trong công việc này…
    * Học tập của học sinh và quan tâm của phụ huynh đến môn GDCD:
    Nhận thức của học sinh đối với bộ môn nói chung và nhận thức về kĩ năng làm
    bài trắc nghiệm môn Giáo dục công dân của các em còn rất hạn chế. Học sinh cho
    rằng: học Giáo dục công dân với những định nghĩa, nếu học thuộc lòng thì lúc ấy nhớ
    nhưng sau đó thì sẽ quên, chẳng nhớ gì hết, rồi còn phải đọc Hiến pháp, Bộ luật, luật…
    nó thực sự là quá nặng nề. Học sinh thường có tư tưởng học chỉ để đối phó với giáo
    viên và nếu có học thì chỉ là học vẹt, học thuộc lòng nhưng không hiểu được nội dung
    bài học muốn truyền tải đến.
    Môn Giáo dục công dân trong một tuần chỉ có một tiết học và nhiều phụ huynh
    học sinh xem môn GDCD là môn phụ, môn điều kiện để đỗ tốt nghiệp, môn học thuộc
    nhiều nên còn sao nhãng trong việc học tập, một số em thì có tâm lí chủ quan nên chưa
    xác định rõ trọng tâm, học tập qua loa, chưa nắm vững kiến thức cơ bản, chưa có kinh
    nghiệm nhiều, chưa hình thành kĩ năng trong ôn thi theo hướng trắc nghiệm khách
    quan. Lượng kiến thức trong một bài dạy nhiều, có phần kiến thức còn mang tính hàn
    lâm, trừu tượng … song thời gian cho mỗi tiết học thì ít, học sinh ít hứng thú với các
    môn xã hội.
    * Về thời gian ôn tập:
    Bên cạnh những trường rất quan tâm hoặc quan tâm đúng mức đến thi tốt nghiệp
    môn GDCD thì còn có nhiều trường phổ thông chưa phân bổ thời gian ôn chiều phù
    8
    hợp cho môn này. Số ca ôn chiều còn rất ít nên cũng khó khăn cho việc ôn tập, kiểm
    tra đánh giá sáng tạo để nâng cao chất lượng.
    Trong tất cả các nguyên nhân trên, theo chúng tôi nguyên nhân chính của việc
    nâng cao chất lượng thi tốt nghiệp môn GDCD vẫn nằm ở phương pháp của giáo viên.
    Làm sao qua mỗi tiết dạy, ôn tập hay kiểm tra ta có thể chạm đến các đề thi và chạm
    đến trái tim học trò. Thiết nghĩ, giáo viên hoàn toàn làm được điều đó nếu sử dụng
    sáng tạo các biện pháp ôn tập, kiểm tra đánh giá vừa cuốn hút học trò vừa nâng cao kết
    quả thi tốt nghiệp.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    Qua việc thực hiện những cải tiến, những sáng tạo trong quá trình ôn tập, kiểm tra
    đánh giá cùng học trò đồng hành những mùa thi, chúng tôi đúc rút được những kinh
    nghiệm khá quí báu, xin chia sẻ dưới đây với các thầy cô. Nó chắc chắn chưa phải là
    những giải pháp tốt nhất cho tất cả mọi nhà trường, mọi thầy cô khi ôn thi cho học trò,
    nhưng có thể khẳng định đây là “sân tham khảo” cho những thầy cô đang loay hoay
    lục tìm phương cách ôn tập hiệu quả nhằm cải thiện thứ hạng của bộ môn liên quan
    đến điểm thi tốt nghiệp lớp 12 môn GDCD. Với chúng tôi ở đề tài này: ôn tập để phục
    vụ kiểm tra đánh giá và kiểm tra đánh giá được xem như một quá trình học tập vì đánh
    giá là học tập, đánh giá vì học tập và nhằm mục đích nâng cao kết quả học tập, thi cử.
    2.1. Một số sáng tạo khi hướng dẫn học sinh ôn tập môn GDCD
    2.1.1 Ôn tập theo giai đoạn và có định hướng
    Ôn tập là việc tiến hành củng cố lại những kiến thức mới được học nhưng đang
    bắt đầu trở nên cũ đi, tiến hành xử lý lại một cách có hệ thống những kiến thức đó,
    đồng thời căn cứ vào tình hình học tập, có những sự điều chỉnh hợp lý. Quá trình ôn
    tập này không chỉ yêu cầu học trò bị động củng cố lại trí nhớ một cách đơn giản, mà
    còn trong quá trình đó có thể học lại lần thứ hai, thậm chí là thứ ba hoặc nhiều hơn, lý
    giải được nhiều vấn đề khó hiểu mà trước đó mình không hiểu được. Đây chính là điều
    mà Khổng Tử đã nói “ôn cố tri tân” (ôn cái cũ biết cái mới). Rất nhiều học trò có trí
    nhớ tốt là do chúng thường xuyên ôn tập bài học cũ với nhiều góc độ và nhiều mức độ
    khác nhau, chăm chỉ học hàng ngày, tích cực tổng kết lại kiến thức sau một thời gian
    9
    học, từ đó mà trí nhớ của chúng luôn khiến nhiều bạn học phải thán phục. Bởi vậy, rất
    nhiều trò không thể nhớ được các kiến thức đã học không phải vì học kém, mà rất có
    thể do các em không thường xuyên ôn tập bài cũ, hoặc có ôn tập chỉ qua loa, đại khái.
    Tính định hướng trong ôn tập trong phạm vi đề tài nghiên cứu chính là ôn tập để
    nâng cao kết quả thi tốt nghiêp. Hiện tại môn GDCD vẫn thi tốt nghiệp trung học phổ
    thông dưới hình thức trắc nghiệm. Bài thi GDCD làm trong 50 phút với 40 câu hỏi
    theo 4 mức độ nhận thức.
    Bốn mức độ nhận thức theo tỷ lệ trong đề tốt nghiệp đó là

    + Mức độ nhận biết
    + Mức độ thông hiểu
    : 50% tương ứng với 20 câu
    : 25% tương ứng với 10 câu
    + Mức độ Vận dụng thấp : 15% tương ứng với 6 câu
    + Mức độ vận dụng cao: 10% tương ứng với 4 câu

    Trong đề thi tốt nghiệp: Nội dung lớp 12 chiếm 90% (36 câu), với 9 bài tương
    ứng với 9 chuyên đề (bài 10 giảm tải). Còn lại là chương trình 11 chiếm 10 % (4 câu)
    chủ yếu là các quy luật kinh tế cơ bản như cạnh tranh, cung – cầu, hàng hóa, tiền tệ, thị
    trường, quy luật giá trị. Và xu hướng đề thi tốt nghiệp hiện nay có nhiều yêu cầu cao
    hơn với học sinh. Các câu vận dụng đòi hỏi học sinh có sự liên hệ xâu chuỗi với nhau,
    phải học hiểu vấn đề và có tư duy suy luận, tư duy KHXH tốt .
    Nói về phương pháp ôn tập, ta có thể phân chia ra rất nhiều phương pháp ôn tập.
    Nếu phân chia theo thời gian, có thể phân chia thành: ôn tập theo tuần, ôn tập thi giữa
    kỳ, ôn tập thi cuối kỳ, ôn tập thi tốt nghiệp, ôn tập thi lên lớp. Nếu phân chia theo kiến
    thức, có thể phân thành: ôn tập theo chương, bài, ôn tập theo phần, ôn tập tổng hợp…
    tất cả những phương pháp ôn tập này đều được gọi là ôn tập theo hệ thống giai đoạn.
    2.1.2. Mục đích của việc ôn tập theo giai đoạn?
    Mục đích của việc ôn tập theo giai đoạn có rất nhiều, trong đó có thể kể đến:
    Tăng cường trí nhớ, giúp kiến thức đã học luôn sẵn trong đầu để có thể vận dụng bất
    cứ lúc nào. Vì theo quy luật nhớ – quên, khả năng quên kiến thức của tất cả mọi người
    đều diễn ra theo quy luật trước nhanh sau chậm. Có học giả cho rằng, qua quá trình
    học tập, trong đại não sẽ hình thành một mối liên hệ thần kinh nhất định, mối liên hệ
    10
    này nếu không được thường xuyên nhắc lại hoặc không được kích thích tăng cường, sẽ
    dần dần giảm đi, biểu hiện hiện ra ngoài chính là hiện tượng quên.
    Việc thường xuyên ôn tập là để tăng cường và hoàn thiện hệ thống thần kinh
    này. Hiểu được kiến thức là cơ sở thuận lợi cho việc ghi nhớ. Điều này là chính xác,
    nhưng kiến thức đã hiểu cần thông qua quá trình ôn tập mới có thể thực sự được ghi lại
    trong đầu. Những học trò có trí nhớ tốt là những trò không chỉ giỏi nắm bắt kiến thức,
    mà còn rất chú trọng đến ôn tập, thường xuyên tổng kết, ôn tập dưới nhiều góc độ,
    nhiều cấp bậc khác nhau, từ đó giúp cho hiệu quả ghi nhớ tốt hơn. Kiểm tra bổ sung lỗ
    hổng kiến thức, bảo đảm tính hoàn chỉnh của kiến thức. Có rất nhiều nhân tố ảnh
    hưởng đến học tập, trong quá trình học kéo dài và liên tục, sẽ rất khó để đảm bảo rằng
    các nhân tố này đều trong trạng thái tốt nhất. Vì thế rất khó để tránh được những lỗ
    hổng trong hệ thống lưu trữ kiến thức. Thông qua ôn tập, kiểm tra lại kiến thức sau đó
    kịp thời bổ sung lỗ hổng này, sẽ đảm bảo tính hoàn chỉnh và tính hệ thống của những
    kiến thức đã học. Những trò chịu khó ôn tập, khi phát hiện thiếu hụt kiến thức đều biết
    kịp thời bổ sung và hoàn thiện, vì vậy kiến thức của các học sinh này thường khá hoàn
    chỉnh.
    Làm sao qua hoạt động ôn tập học sinh nắm chắc kiến thức, và phải tự hệ thống
    hóa kiến thức. Trí tuệ không phải là cái gì đó đặc biệt, mà là một hệ thống kiến thức
    được tổ chức lại với nhau. Hệ thống kiến thức được nói ở đây chínhh là những kiến
    thức được hệ thống hóa. có thể nói, việc đưa kiến thức thành một hệ thống là nhiệm vụ
    quan trọng trong việc ôn tập lại hệ thống. Qua các buổi học tập bình thường theo môn
    học, theo chương, theo bài, có thể nói cơ bản học trò đã nắm được các khái niệm, kiến
    thức cơ bản. Còn việc thông qua ôn tập, nhớ lại toàn bộ kiến thức, phát hiện lỗ hổng
    kiến thức và bổ sung lại, có thể đảm bảo được tính hoàn chỉnh của kiến thức, nhưng
    nhiệm vụ trọng tâm trong ôn tập của trẻ vẫn chưa hoàn thành, tại sao lại như vậy? Vì
    kiến thức trong đầu học trò lúc này mới chỉ là “bán thành phẩm”, phải trải qua các
    bước tư duy như vận dụng, phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại, khái quát, trừu
    tượng, quy nạp, diễn dịch,… “lắp ráp” các phần kiến thức đã học được trong thời gian
    11
    dài lại với nhau, biến kiến thức thành một hệ thống trong đầu mình thì khi đó mới gọi
    là hoàn thành nhiệm vụ học tập.
    2.1.3. Gợi ý các giai đoạn ôn tập trong quá trình ôn tập môn GDCD.
    Việc phân chia các giai đoạn ôn tập phụ thuộc vào điều kiện từng trường, thời
    lượng ôn tập và ý đồ của người dạy học. Dưới đây là gợi ý của nhóm tác giả về việc
    phân chia các giai đoạn ôn tập có định hướng cho học trò để đạt kết quả cao trong quá
    trình ôn thi tốt nghiệp lớp 12.
    Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành kiến thức cơ bản:
    Giai đoạn này sẽ bắt đầu từ đầu năm học lớp 12 với mục tiêu các em học sinh
    ghi bài đầy đủ, chính xác. Sử dụng từ chính xác vì ba vấn đề.
    Một là: môn giáo dục công dân lớp 12 các em chủ yếu học về pháp luật, mà một
    trong những đặc trưng của pháp luật là phải được diễn đạt chính xác nên các cụm từ sử
    dụng phải được các em hiểu đúng, viết đúng như: quy phạm pháp luật, trách nhiệm
    pháp lý, năng lực trách nhiệm pháp lý, vi phạm hình sự, năng lực hành vi dân sự, vi
    phạm hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kỉ luật…
    Thứ hai là: sách giáo khoa giáo dục công dân được viết cách đây khá lâu nhưng
    những quy định pháp luật phải thay đổi theo thời gian và phù hợp với điều kiện xã hội,
    chính vì vậy một số nội dung trong sách giáo khoa không còn phù hợp buộc người dạy
    phải có tính cập nhật. Điển hình như trong nội dung phần trách nhiệm pháp lí của vi
    phạm hình sự sách giáo khoa GDCD 12 được in lưu chiểu tháng 2 năm 2017, ở mục c
    phần 2 bài 2 Thực hiện pháp luật trang 22 có ghi “Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi
    phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
    biệt nghiêm trọng”; tuy nhiên theo điều 12, Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung
    2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 có quy định về độ tuổi phải chịu trách nhiệm
    hình sự như sau:
    “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
    phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
    2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
    phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, cụ thể gồm các tội danh:
    12
    + Tội giết người (Điều 123),
    + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác (Điều 134)
    + Tội hiếp dâm (Điều 141)
    + Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điều 142)
    + Tội cưỡng dâm (theo điều 143)
    + Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (điều 144)
    + Tội mua bán người (điều 150)
    + Tội mua bán người dưới 16 tuổi (điều 151)
    + Tội cướp tài sản (Điều 168)
    + Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169)
    + Tội cưỡng đoạt tài sản (điều 170)
    + Tội cướp giật tài sản (điều 171)
    + Tội trộm cắp tài sản (điều 173)
    + Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (điều 178)
    + Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248);
    + Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249)
    + Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (điều 250)
    + Tội mua bán trái phép chất ma túy ( Điều 251)
    + Tội chiếm đoạt chất ma túy (điều 252)
    + Tội tổ chức đua xe trái phép (điều 265)
    + Tội đua xe trái phép (điều 266)
    + Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
    mạng viễn thông, phương tiện điện tử (điều 286)
    + Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
    phương tiện điện tử (điều 287)
    + Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương
    tiện điện tử của người khác (điều 289);
    + Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
    hành vi chiếm đoạt tài sản (điều 290)
    13
    + Tội khủng bố (Điều 299),
    + Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
    (điều 303).
    + Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
    vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304).
    Như vậy, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
    tội phạm rất nghiêm trọng với 28 tội danh theo danh sách kể trên, tội phạm đặc biệt
    nghiêm trọng.
    Trong ôn tập: mục đích lớn nhất là củng cố kiến thức nền cho học sinh, trên cơ
    sở đó phát triển tư duy logic, kết nối kiến thức theo mạch, theo chuyên đề sao cho
    khoa học nhất để sau đó huy động vào làm bài tập trắc nghiệm theo fom của Bộ. Nên
    chúng tôi luôn định hướng cả việc ghi ôn, lẫn rèn kỹ năng cho học sinh như:
    Hướng dẫn học trò kỹ năng ghi ôn theo tư duy suy luận chuỗi hoặc phản chứng
    Hoặc ta nhấn mạnh nội dung bản chất cho học trò hiểu đúng và sâu sắc kiến
    thức. Ví dụ như: trong nội dung bài 7 Công dân với các quyền dân chủ, mục b của
    phần 1: Những trường hợp không được thực hiện quyền bầu cử gồm: người đang bị
    tước quyền bầu cử theo bản án, quyết đinh của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; người
    đang phải chấp hành án phạt tù; người đang bị tạm giam; người mất năng lực hành vi
    dân sự. Tuy nhiên trong Hiến pháp cụ thể tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013: “Không ai
    bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
    14
    Người bị tạm giam, tạm giữ vốn là những người bị tình nghi và đang bị các cơ
    quan điều tra tạm giam, tạm giữ nhằm phục vụ cho công tác tố tụng cũng như đảm bảo
    việc đối tượng không thể bỏ trốn. Về nguyên tắc, những người bị tạm giam, tạm giữ
    vẫn chưa bị xem là tội phạm và vẫn có đầy đủ những quyền công dân, quyền con
    người mà cho tới khi họ bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực của tòa án.
    Điều 9. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định về quyền và nghĩa vụ của
    người bị tạm giữ, người bị tạm giam, trong đó người bị tạm giữ, người bị tạm giam có
    quyền sau: “Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu
    Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy
    định của Luật trưng cầu ý dân”; Cơ sở để đưa quy định này vào Luật thi hành tạm giữ,
    tạm giam xuất phát từ luận điểm:
    – Quyền bầu cử là một trong những quyền cơ bản của công dân.
    – Người đang bị tạm giữ, tạm giam cũng được thực hiện quyền bầu cử vì về mặt
    pháp lý, những người này chưa bị coi là có tội nên không bị tước mất quyền bầu cử.
    Đồng thời, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đưa vào quy định này dựa trên các
    cơ sở pháp lý vững chắc sau đây:
    – Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị phân biệt đối xử trong
    đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
    – Khoản 1, Điều 31 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Người bị buộc tội được coi là
    không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội
    của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
    – Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng nêu: “Người bị buộc tội được
    coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
    quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
    Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự,
    thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
    phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
    Người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện quyền bầu cử như thế nào?
    15
    Theo quy định tại khoản 5 Điều 29 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
    biểu Hội đồng Nhân dân 2015 quy định về việc thực hiện bầu cử của người đang bị
    tạm giam, tạm giữ như sau:
    – Khoản 5 Điều 29: Cử tri là người đang bị tạm giữ, tạm giam, người đang
    chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được
    ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
    cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào
    cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
    – Khoản 4 Điều 69: Đối với cử tri là người đang bị tạm giữ, tạm giam, người
    đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
    mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức
    khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu
    cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục
    bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
    Như vậy, những người đang bị tạm giam, tạm giữ sẽ đươc ghi tên vào danh
    sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khu vực
    người đó đang bị tạm giữ, tạm giam. Cùng với đó, trại tạm giam, nhà tạm giữ phối hợp
    với các cơ quan có thẩm quyền khác không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng mà Tổ bầu
    cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ để họ thực hiện
    việc bầu cử.
    Thứ ba: các nội dung trong phần tư liệu tham khảo cũng được đưa câu hỏi trong
    bộ đề thi, chính vì vậy các nội dung đó được học trò ghi lại trong phần Ghi chú hoặc
    phần lưu ý ngay dưới từng nội dung hoặc cuối mỗi bài. Trong quá trình ghi chép
    những từ khóa luôn được gạch chân để đánh dấu và ghi nhớ lâu hơn. Sau mỗi bài học
    là các khung câu hỏi thường ra trong đề và các nội dung kiến thức người ra đề “yêu
    thích” để học trò “cảnh giác” hơn trong quá trình ôn tập.
    Giai đoạn 2: Giai đoạn ôn tập dựa trên sơ đồ tư duy.
    Thông thường ở các lớp tôi dạy mỗi em được làm sơ đồ 3 lần, lần 1 là sơ đồ sơ
    lược để các em nắm được khái quát trong bài gồm những nội dung kiến thức nào; lần 2
    16
    là sơ đồ chi tiết đến từng khái niệm và nội dung cụ thể của từng phần, lần 3 ghi nhớ
    ngắn gọn bằng so đồ rút gọn (hoặc sơ lược) để sau này khi nhìn vào sơ đồ sơ lược là
    các em có thể gợi nhớ chi tiết từng phần. Cụ thể:
    *Sơ đồ tư duy sơ lược( lần 1)- phục vụ nắm kiến thức chính
    * Sơ đồ tư duy chi tiết ( lần 2)- triển khai kiến thức cụ thể
    17
    *Sơ đồ tư duy rút gọn ( lần 3)- chốt kiến thức nhớ
    Trong trường hợp này nên dùng SĐTD online vì rất tường minh, tinh gọn: VD:
    với chuyên đề: Thực hiện pháp luật- chuyên đề có nhiều câu trong đề thi ( khoảng 10
    câu)
    *Lưu ý:
    18
    Cho các em thuyết trình Sơ đồ tư duy để cả lớp cùng sáng tỏ, khắc sâu kiến thức ôn tập
    và hình thành phát triển năng lực tư duy sáng tạo.
    Học sinh trường Hoàng Văn Thụ phân tích, thuyết trình về SĐTD
    Giai đoạn 3: Giai đoạn luyện tập và vận dụng.
    *Dựa vào tình huống có sẵn để viết ra câu trắc nghiệm có 1 đáp án đúng
    Tôi thường ôn tập cho các em học sinh theo kiểu cuốn chiếu, học xong bài nào
    ôn tập và làm bài tập của bài đó ngay. Các bài tập được chia theo mức độ từ dễ đến
    khó và có bài nâng cao. Các giai đoạn 1,2,3 tôi thực hiện theo đơn vị bài học xuyên
    suốt từ đầu năm đến cuối năm. Trong quá trình luyện tập, các câu hỏi trong sách giáo
    khoa cũng được khai thác theo nhiều phương thức mới hơn.Ví dụ em có thể dựa vào
    tình huống trong bài tập 9 trang 66 SGK đặt ra năm câu hỏi trắc nghiệm có đáp án
    khác nhau, lưu ý có thể thay đổi 1 tình tiết nhỏ trong câu dẫn để có đáp án khác. Hoặc
    có thể làm theo cách:
    *Sử dụng bộ câu hỏi điền khuyết (cả Bộ lưu ở phần phụ lục cuối sáng kiến)

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Ứng dụng Kahoot, Quizizz vào dạy học tích cực trong môn GDCD ở trường THPT

    SKKN Ứng dụng Kahoot, Quizizz vào dạy học tích cực trong môn GDCD ở trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục
    Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định, giáo dục – đào
    tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và giáo
    dục phải được ưu tiên, đi trước so với các lĩnh vực khác. Để đáp ứng những đòi
    hỏi cấp bách của thực tiễn, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập rất nhiều
    nội dung quan trọng trong đó có nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục –
    đào tạo. Mục V Báo cáo chính trị của Đại hội đã khẳng định “Đổi mới căn bản,
    toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển
    con người” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, trang 136).
    Định hướng phát triển GDĐT giai đoạn 2021-2030 được Đại hội XIII xác
    định là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, phát triển nguồn
    nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài”. Việc Đảng ta nhấn mạnh yêu
    cầu “tạo đột phá” trong đổi mới GDĐT là xuất phát từ tình hình thực tế sau 35
    năm đổi mới đất nước, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 10 năm thực hiện
    Cương lĩnh 2011, đặc biệt là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII. Mặc dù sự
    nghiệp GDĐT đã có những chuyển biến tích cực cả về quy mô, số lượng, chất
    lượng, hiệu quả, cả về nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo và đội ngũ
    nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, … Tuy nhiên, việc “đổi mới GDĐT, khoa
    học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển
    kinh tế – xã hội”.
    Sự hạn chế đó không chỉ thể hiện trên bình diện tư duy, chính sách, giải
    pháp, tổ chức hệ thống, công tác tổ chức, cán bộ, mà còn cả về mặt giáo dục đạo
    đức, kỹ năng sống, giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, giáo dục kết hợp
    nghiên cứu khoa học, đầu tư cho giáo dục chưa theo kịp yêu cầu phát triển…
    Hơn nữa, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự tích lũy kho
    tàng tri thức khổng lồ của loài người, càng đòi hỏi phải kịp thời đổi mới cách
    tiếp cận, nội dung, phương pháp GDĐT. Như vậy, sự “tạo đột phá” là yêu cầu
    cấp thiết, khách quan, phù hợp với mục tiêu về GDĐT và yêu cầu nâng cao chất
    lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài.
    Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
    cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội” (2). Vấn đề đặt ra hiện
    nay là, những hạn chế, yếu kém phải được nhận thức sâu sắc để từ đó tìm ra các
    giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam lên một tầm cao mới.
    Mục tiêu cụ thể của giáo dục phổ thông là: “Tập trung phát triển trí tuệ,
    thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng
    2
    năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo
    dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống,
    ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực
    tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
    2. Thực tế dạy – học
    Môn học Giáo dục công dân (GDCD) trong chương trình giáo dục phổ
    thông đóng vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức, giáo dục học sinh về ý
    thức và hành vi, góp phần trang bị cho học sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức
    sống của người công dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những
    phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong một xã hội dân chủ, công
    bằng, văn minh. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách, vừa có tính lâu dài và
    cũng không hề đơn giản trước những làn sóng văn hóa của thời kỳ hội nhập và
    phát triển kinh tế thị trường. Đặc biệt là khi chúng ta đang quyết tâm triển khai
    thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo
    hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, chuyển mạnh quá
    trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển con người toàn diện
    thì hơn bao giờ hết, bộ môn GDCD giữ một vị trí vô cùng quan trọng, là môn
    học cần thiết, không chỉ trang bị cho người học những tri thức đạo đức mà điều
    quan trọng là rèn luyện cho học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi
    quan hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.
    Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp học
    sinh hình thành, phát triển ý thức và hành vi của người công dân. Thông qua các
    bài học về lối sống, đạo đức, chình trị, pháp luật, kinh tế, môn GDCD góp phần
    bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân ái, trách
    nhiệm, trung thực và chăm chỉ. Môn học này còn bồi dưỡng cho học sinh những
    năng lực đặc thù là: Năng lực điều chỉnh hành vi, năng lực phát triển bản thân và
    năng lực tìm hiểu tham gia các vấn đề kinh tế xã hội. Từ đó giúp học sinh có
    niềm tin, nhận thức, cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định
    của pháp luật, có kĩ năng sống và bản lĩnh để học tập, làm việc và sẵn sàng thực
    hiện trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
    nhập kinh tế quốc tế.
    Nhận thức rõ tầm quan trọng của môn học nên năm học 2016 – 2017 Bộ
    GD-ĐT đã lựa chọn môn GDCD vào tổ hợp môn thi khoa học xã hội trong kỳ
    thi trung học phổ thông (THPT) quốc gia. Việc này thực sự là niềm vui của các
    thầy cô giáo dạy bộ môn GDCD, bởi nó góp phần to lớn trong việc nâng tầm vị
    thế môn học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng thời vị thế thầy cô giáo
    dạy bộ môn GDCD cũng được xã hội nhìn nhận một cách tích cực hơn. Vậy làm
    3
    thế nào để dạy và học tốt môn GDCD, đáp ứng tốt nhất cho các em những phẩm
    chất và năng lực cần thiết, chuẩn bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng tham gia kì thi
    tốt nghiệp THPT?
    Là giáo viên dạy bộ môn Giáo dục công dân trong trường THPT, tôi luôn
    suy nghĩ, trăn trở trước các bài dạy của mình, làm thế nào để học sinh có thể
    tiếp thu, lĩnh hội được bài học hiệu quả nhất. Từ những yêu cầu thực tiễn trên thì
    mục tiêu của môn GDCD hiện nay không chỉ tập trung vào việc hình thành và
    rèn luyện cho học sinh các phẩm chất và năng lực cần thiết, mà còn phải trang bị
    cho các em kiến thức, kĩ năng làm bài trắc nghiệm để có kết quả tốt nhất trong
    kỳ thi tốt nghiệp THPT.
    Trong xu thế phát triển chung của toàn xã hội, công nghệ thông tin là một nhu
    cầu không thể thiếu trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt, Ứng dụng Công nghệ thông tin
    (CNTT) vào dạy – học là một xu thế tất yếu của thời đại. Tại Việt Nam hiện
    nay, đưa CNTT vào dạy học là sự cần thiết bồi dưỡng kiến thức công nghệ cho
    giáo viên để có đủ khả năng tham gia các hoạt động giáo dục điện tử trong
    tương lai gần, góp phần phát triển giáo dục. Đáp ứng nhu cầu cho việc học tập
    của học sinh trong thời kỳ công nghệ thông tin và thúc đẩy tinh thần tự học, tinh
    thần sáng tạo của giáo viên trong phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong
    đổi mới nội dung, phương pháp dạy học một cách sáng tạo, hiệu quả, nâng cao
    tính tích cực và tự học, góp phần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.
    Góp phần xây dựng kho dữ liệu bài giảng, xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục
    mở phục vụ dạy, học trong và ngoài nhà trường, phục vụ mục đích học tập suốt
    đời.
    Hiện nay, học trực tuyến đang là một hình thức mới, được nhiều người hưởng
    ứng và áp dụng bởi tính chủ động về mặt thời gian và phong phú hình thức học
    tập. Bên cạnh việc thiết kế các bài giảng điện tử Elearning, tôi đã nghiên cứu về
    các ứng dụng thiết kế câu hỏi học tập trực tuyến để làm phong phú các hình thức
    học tập cho học sinh. Tôi đã tiếp cận với các ứng dụng tạo câu hỏi khác nhau
    như Quizizz, Kahoot… Năm học 2020- 2021, 2021 – 2022, trong điều kiện dịch
    COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều trường học kết hợp giữa học
    trực tiếp và trực tuyến, để đáp ứng nhu cầu dạy và học trong bối cảnh phòng
    chống đại dịch Covid nhằm ghi nhớ, khắc sâu kiến thức, kiểm tra đánh giá được
    kết quả học tập và phát triển phẩm chất năng lực học sinh, việc dạy và học vẫn
    được bảo đảm chất lượng. Tôi nhận thấy ứng dụng các phần mềm trò chơi trong
    dạy học là phương pháp dạy học tuyệt vời, góp phần tích cực tăng hứng thú cho
    học sinh và đem lại hiệu quả cao. Vì vậy tôi chọn lựa chọn đề tài:
    “Ứng dụng Kahoot, Quizizz vào dạy học tích cực trong môn GDCD ở trường
    THPT”.
    B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    4
    Thực tế giảng dạy GDCD nói chung và giảng dạy GDCD ở bậc THPT nói
    riêng, vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực hiện đúng và chưa hiệu quả các
    phương pháp dạy học tăng sự hứng thú cho người học. Có giáo viên đầu tư,
    chuẩn bị rất chu đáo nhưng chỉ thực hiện ở một số tiết dự giờ, hội giảng, còn
    những tiết dạy thường khi không có giáo viên dự giờ thì thường lơ là, bỏ qua
    hoặc không thực hiện vì sợ mất nhiều thời gian và công sức. Hoặc có giáo viên
    thường xuyên dùng phương pháp dạy học truyền thống, truyền đạt kiến thức một
    chiều cho học sinh. Cũng có những trường hợp giáo viên có ý thức đổi mới
    phương pháp, kĩ thuật dạy học nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu và chưa hiệu
    quả. Đặc biệt các phần củng cố, ôn tập rất quan trọng giúp học sinh khắc sâu
    kiến thức, thì giáo viên chỉ phát bộ câu hỏi và đọc đáp án đúng. Học sinh không
    được giải thích, không được thi đua và không được luyện tập lại nhiều lần.
    Cùng với phong trào đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường,
    môn GDCD mặc dù là một bộ môn khoa học xã hội với đặc trưng đa dạng,
    phong phú về nội dung, thiên về lý luận, nội dung kiến thức mang tính trừu
    tượng cao, song bản thân tôi đã không ngừng cố gắng đổi mới phương pháp
    giảng dạy từ vận dụng các phương pháp dạy học mới như đàm thoại, nêu vấn đề,
    phương pháp làm việc theo nhóm, ứng dụng các phần mềm vào dạy học làm cho
    tiết dạy sinh động, có hiệu qủa cao, thu hút được sự tham gia tích cực của học
    sinh. Học sinh thực sự say mê, thích thú và làm việc có hiệu quả cao trong đa số
    những giờ học giáo viên sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin trò chơi vào dạy
    học.
    2. Môt tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Giới thiệu một số ứng dụng tổ chức trò chơi trong dạy học – Kahoot,
    Quizizz trong môn GDCD ở THPT.
    a) Kahoot
    Kahoot là công cụ hỗ trợ dạy học miễn phí, dùng để thiết kế những bài
    trắc nghiệm trực tuyến và được sử dụng như một Hệ thống lớp học tương tác. Về
    bản chất Kahoot là một website ứng dụng trực tuyến, vì vậy nó có thể sử dụng
    trên mọi thiết bị: laptop, smartphone, máy tính miễn là thiết bị đó kết nối mạng
    được.
    Ưu điểm
    – Có thể tích hợp các hình ảnh minh hoạ, sơ đồ, video … được tải từ máy
    tính hoặc từ Internet giúp gây sự chú ý, tạo hứng khởi cho người học hơn.
    – Mọi người học độc lập tham gia trả lời các câu hỏi. Giúp người học chủ
    động tương tác hơn. Tất cả học sinh đều được tham gia trả lời các câu hỏi.
    5
    – Giúp GV ôn tập và nắm bắt kết quả nhanh, đặc biệt với những môn thi trắc
    nghiệm.
    – Giúp giáo viên tương tác tốt với công nghệ thông tin và truyền thông khi
    giảng dạy bài học trên lớp.
    – Khuyến khích sáng tạo, linh hoạt, giáo viên có thể vẽ và giải thích rõ ràng
    những thông tin đưa ra.
    – Giáo viên có thể lưu và in ra những gì đã trình bày, bao gồm cả những lưu
    ý đã được đưa thêm trong quá trình giảng bài, hạn chế phải nhắc lại, ôn lại nhiều
    lần.
    – Giáo viên có thể chia sẻ và sử dụng những tài liệu đã dạy với đồng nghiệp
    giúp giảm thiểu đáng kể khối lượng công việc.
    – Tạo hứng thú cho giáo viên thay đổi phương pháp sư phạm và sử dụng
    công nghệ thông tin nhiều hơn, khuyến khích nâng cao chuyên môn.
    – Nâng cao hứng thú và động lực học tập, tạo cơ hội tốt hơn để học sinh
    tham gia và hợp tác cùng nhau, phát triển kỹ năng xã hội và con người.
    – Không phải mất thời gian chép bài nhờ chức năng lưu và in ra tất cả những
    gì đã hiển thị trước đó.
    – Học sinh cũng có thể xử lý và nắm bắt được nhiều thông tin thông qua bài
    giảng rõ ràng, hiệu quả và linh hoạt.
    – Giúp học sinh trở nên sáng tạo và tự tin hơn khi thuyết trình trước lớp. Học
    sinh có thể tiếp cận với công nghệ mà không cần sử dụng bàn phím, giúp những
    em chưa biết sử dụng máy tính có thể tự tin khi sử dụng công nghệ thông tin.
    – Phát triển một tư duy mở thông qua việc học tương tác. Phương pháp giảng
    dạy này dựa trên sự tương tác và lấy học sinh làm trung tâm. Cách dạy này yêu
    cầu học sinh tập trung vào làm việc hoàn toàn giúp cho học sinh được phát triển
    tư duy mở và tăng cường định hướng bản thân của mình. Các bạn học sinh cũng
    sẽ có cơ hội được trải nghiệm công việc thực tế để thể hiện khả năng, năng lực
    của mình trước các bạn, trước tập thể lớp thông qua các hoạt động học tập được
    giáo viên thiết kế, học sinh sẽ tự học và lôi cuốn. Giáo viên sẽ đóng vai trò là
    người hỗ trợ và hướng dẫn học sinh trong quá trình học. Các bạn học sinh được
    kỳ vọng sẽ suy nghĩ về các kiến thức mà mình được dạy rồi phát triển và trình
    bày ý kiến của riêng mình. Các bạn được tự do đặt câu hỏi và có thể phản biện
    về những gì mà giáo viên và các bạn cùng lớp nói. Đồng thời phát huy sự sáng
    tạo của riêng mình để áp dụng các kiến thức vừa học được. Phương pháp giảng
    dạy tương tác được hình thành dựa trên việc tôn trọng tất cả các ý kiến và lập
    6
    trường quan điểm cá nhân. Tư tưởng này không chỉ giới hạn trong các trường
    học, nó là đặc điểm của xã hội hiện đại, là nền tảng cho một xã hội đa dạng và
    đa nguyên của nền giáo dục mới.
    Hạn chế
    – Chỉ làm việc với các câu hỏi trắc nghiệm.
    – Vì đây là một trò chơi trực tiếp nên người chơi phải ở cùng một phòng
    trong cùng thời điểm.
    – Có tối đa 95 ký tự cho các câu hỏi và 60 ký tự cho các câu trả lời, tuy nhiên
    bạn có thể khắc phục bằng cách nhập các câu hỏi dưới dạng văn bản và chụp
    ảnh để đăng tải lên.
    Các bước thực hiện
    Bước 1. Thiết lập tài khoản Kahoot
    Đối với giáo viên:
    GV cần đăng ký tài khoản Kahoot tại địa chỉ: https://kahoot.com/
    Chọn vai trò người cần đăng ký (Có thể sử dụng địa chỉ mail điền các
    thông tin).
    Đối với học sinh:
    Sau khi GV nhấn nút Classic (Chế độ chuẩn – cho từng người)
    hoặc Team mode (Chế độ cho một nhóm), Kahoot sẽ cho biết số hiệu (gamepin) để GV thông báo cho người học.
    Lúc này, người học sẽ truy cập vào website kahoot.it bằng bất kỳ thiết bị
    nào có kết nối Internet, và nhập vào số hiệu (game-pin) rồi nick-name của mình
    mà không cần đăng ký tài khoản.
    Bước 2. Sử dụng Kahoot
    Trước hết GV cần đăng nhập. Màn hình giao diện khi đăng nhập:
    + Xây dựng bộ câu hỏi
    Nhấn chữ Create → Tùy theo thể loại câu hỏi định soạn mà
    chọn Quiz (Câu đố), Jumble (Xáo trộn): Ví dụ trong tiếng anh cho một số từ
    xáo trộn yêu cầu sắp xếp lại thành câu có nghĩa. Trong toán học cho 1 dãy số
    yêu cầu học sinh sắp xếp theo chiều tăng dần. Discussion (Thảo luận),
    hay Survey (Khảo sát)
    Bước 3. Tổ chức giảng dạy
    7
    Giáo viên có thể chọn bộ câu hỏi do mình biên soạn (Tab My Kahoots)
    hoặc bộ câu hỏi được chia sẻ từ cộng đồng (Tab Public Kahoots)
    Ví dụ: Chọn My Kahoots → Chọn bộ câu hỏi Trắc nghiệm vui→ Nhấn
    nút Play
    Thiết lập Cài đặt & Tùy chọn
    Nhấn nút Classic hoặc Team mode. Chọn tham số của bộ câu hỏi như có
    hiện số hiệu game-pin không, có hiện ngẫu nhiên câu hỏi không, hiện ngẫu
    nhiên câu trả lời không.
    Kahoot sẽ cho biết số hiệu game-pin để GV thông báo cho người học.
    Học sinh đăng nhập: Học sinh lần lượt nhập mã game-pin → nickname
    → Màn hình giao diện của GV sẽ hiện đầy đủ tên các học sinh.
    GV có thể loại những người chơi có những tên đăng nhập không hợp lệ ra
    khỏi trò chơi, điều này buộc người học phải tạo lại một tên đăng nhập phù hợp
    thì mới được tham gia trò chơi.
    Sau đó, GV sẽ nhất nút START để kích hoạt các câu hỏi và người học sẽ
    sử dụng thiết bị của họ để trả lời.
    Sau mỗi câu hỏi, HS sẽ biết ngay kết quả của mình là đúng hay sai, đồng
    thời biết được ai là người trả lời câu hỏi nhanh nhất. (hình ảnh minh họa bảng
    kết quả)
    Sau khi trả lời hết các câu hỏi, hs cũng dc biết người trả lời suất xắc nhất. (hình
    ảnh minh họa).
    GV sẽ xem ngay được kết quả. GV cũng có thể lưu các kết quả này để sử
    dụng đánh giá sau này.
    b) Quizizz
    Quizizz là một ứng dụng được dùng để kiểm tra kiến thức ở các môn học
    cũng như kiến thức xã hội thông qua hình thức trả lời trắc nghiệm. Các câu hỏi
    trắc nghiệm trong Quizizz thuộc nhiều danh mục với cấp độ khác nhau để học
    sinh thử sức, đánh giá trình độ của bản thân; hoặc giáo viên, phụ huynh có thể
    truy cập bộ câu hỏi do người khác chia sẻ để sử dụng trong giảng dạy, kèm cặp
    con em mình. Nhìn chung, Quizizz phù hợp với cả việc học tại nhà và trên lớp.
    Ưu điểm
    – Tạo ra các câu hỏi trắc nghiệm nhằm kiểm tra kiến thức ở các môn học
    cũng như kiến thức hiểu biết xã hội của học sinh
    8
    – Quizizz cho phép thầy cô tiếp cận ngân hàng câu hỏi đa dạng hoặc tự tạo
    lập bộ câu hỏi phù hợp với mục tiêu kiểm tra đánh giá.
    – Cho phép học sinh trong cùng một lớp có thể tham gia trả lời câu hỏi trên
    Quizizz vào cùng một thời điểm do thầy cô quy định; hoặc hoàn tất bài kiểm tra
    vào một thời gian thuận lợi, trước thời hạn thầy cô quy định.
    – Dễ dàng thông báo ngay kết quả và thứ hạng của những người tham gia trả
    lời câu hỏi nhằm gia tăng hứng thú học tập cho học sinh
    Các bước thực hiện
    Bước 1. Đăng ký
    Thầy cô truy cập vào đường link: https://quizizz.com/ để đăng ký tài
    khoản miễn phí. –> Sau đó thầy cô chọn Sign Up để tạo mới 1 tài khoản.
    Tại đây thầy cô điền email cá nhân hoặc có thể sử dụng Gmail để đăng ký.
    9
    Tiếp đến thầy cô chọn As a Teacher trong màn hình I’m using Quizizz…
    Thế là chúng ta đã tạo xong tài khoản 1 cách nhanh chóng.
    Thầy cô cũng có thể vào View profile –> Edit profile để cài đặt lại thông
    tin cá nhân nếu cần.
    10
    Bước 2. Tạo lớp học.
    Tại trang chủ tài khoản Quizizz của thầy cô. Chúng ta bấm chọn Classes
    Tại đây thầy cô có thể chọn Connect Google Classroom để kết nối với
    các lớp học trên Google Classroom hoặc chọn Create a Class để tạo mới 1 lớp
    Nếu thầy cô chọn Connect Google Classroom thì Quizizz sẽ yêu cầu truy cập
    vào tài khoản google của thầy cô để kết nối với lớp học.
    Nếu thầy cô chọn Create a Class
    Thầy cô nhập tên lớp tại ô Enter class name chọn màu cho lớp tại ô bên
    cạnh.
    Require students to enter a guardian’s email: Yêu câu học sinh nhập
    email của phụ huynh hoặc người giám hộ (nếu thầy cô tích chọn)
    Bấm Create Class để tạo lớp
    Thầy cô gửi link cho học sinh để mời học vào lớp của mình.
    11
    Bước 3. Tạo bài kiểm tra
    Để tạo 1 bài kiểm tra thì thầy cô bấm vào Create a new quiz tại trang chủ
    Tiếp theo thầy cô nhập tên bài kiểm tra –> chọn môn học cần kiểm tra. –> Next
    12
    Tại đây thầy cô sẽ có 2 lựa chọn


    Write your own: Tạo mới một bài kiểm tra
    Teleport from the Quizizz Library: Nhập câu hỏi từ các đề kiểm tra có
    sẵn.
    Chúng ta cùng chọn Write your own để tạo mới nhé.
    Thầy cô tiếp tục lựa chọn loại câu hỏi cần sử dụng.




    Multiple choice: Câu hỏi trắc nghiệm
    Checkbox: dạng trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời.
    Fill – in – the – Blank: Điền vào chỗ trống
    Poll: Dạng survey thu thập thông tin, ý kiến học sinh.
    Open- Ended: Dạng câu hỏi mở.

    Thầy cô chọn 1 dạng câu hỏi phù hợp, giả sử ở đây Nam chọn Multiple
    choice (vào bên trong vẫn có thể chọn lại nên thầy cô yên tâm)
    Thầy cô tạo câu hỏi và các phương án trả lời, như hình.
    Bấm Option để thay đổi loại câu hỏi
    Bấm f(x) để chèn công thức toán học cho câu hỏi hoặc đáp án
    13
    Bấm Add image để thêm ảnh vào câu hỏi hoặc đáp án
    Bấm vào nút chọn đáp án đúng.
    Bấm Add answer option: để thêm một phương án trả lời.
    Bấm Time allotted to solve this question để thiết
    lập thời gian trả lời cho câu hỏi (thấp nhất là 5 giây và cao nhất là 15 phút)
    Bấm SAVE để lưu câu hỏi
    Thế là chúng ta đã sử dụng Quizizz để tạo xong 1 câu hỏi, thật đơn giản
    phải không ạ. Và thầy cô có thể tiếp tục lựa chọn các loại câu hỏi để tạo thêm
    câu hỏi mới cho bài kiểm tra.
    Bây giờ chúng ta hãy thử tạo tiếp 1 dạng câu hỏi nữa nhé. Thầy cô chọn
    Fill in the Blank (điền vào chỗ trống) để xem cách tạo câu hỏi có gì khác với
    loại Multiple choice không?

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua việc sử dụng video clip để giảng dạy chương trình Giáo dục công dân lớp 10 và 12

    Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua việc sử dụng video clip để giảng dạy chương trình Giáo dục công dân lớp 10 và 12

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1.1. Lí do chọn đề tài
    Cách mạng khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại những chuyển biến mạnh
    mẽ trên toàn thế giới. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đòi hỏi người lao động
    phải được đào tạo và tự đào tạo; không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, kỹ năng
    nghề nghiệp và trình độ khoa học công nghệ. Điều đó đã đặt ra những yêu cầu mới
    cho giáo dục và đào tạo. Nghị quyết 29 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
    Việt Nam khóa XI đã đặt ra vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
    Theo đó, mục tiêu của giáo dục phổ thông là “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất,
    hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
    hướng nghề nghiệp cho học sinh”. Mục tiêu của đổi mới giáo dục hiện nay là
    chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chỗ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực
    phẩm chất, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học.
    Trong chương trình phổ thông, bộ môn Giáo dục công dân có tầm quan trọng
    đặc biệt. Môn học này góp phần hình thành thế giới quan lành mạnh ở học sinh,
    giúp học sinh biết phân biệt lẽ phải, trái; biết tôn trọng bản thân và tôn trọng người
    khác; biết sống trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu thương và vị tha. Đặc
    biệt, những kiến thức của môn Giáo dục công dân giúp học sinh hình thành những
    kỹ năng sống cơ bản để vững vàng bước vào đời: ý thức tổ chức kỷ luật, có thái độ
    đúng đắn trong việc nhận thức và chấp hành pháp luật.
    Thực tế cho thấy, để giảng dạy hiệu quả kiến thức về bộ môn Giáo dục công
    dân cho học sinh phổ thông hiện nay không phải là một việc làm đơn giản. Đối với
    học sinh, các em luôn quan niệm kiến thức bộ môn Giáo dục công dân rất khô
    khan, trừu tượng; việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức là rất khó hiểu. Vì vậy, học sinh
    không có hứng thú học tập. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, bản thân tôi trực
    tiếp giảng dạy môn Giáo dục công dân luôn trăn trở làm sao để học sinh tiếp nhận
    tri thức bộ môn một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu. Qua quá trình dạy học, tôi đã nghiên
    cứu và đưa ra sáng kiến: “Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua việc sử dụng
    video clip để giảng dạy chương trình Giáo dục công dân lớp 10 và 12”. Với sáng
    2
    kiến này, tôi hy vọng sẽ đem một làn gió mới trong giờ học Giáo dục công dân từ
    trước đến nay vẫn được coi là khô khan, trừu tượng. Học sinh cảm thấy hứng thú
    trong học tập, các em nhận thức được cái đúng cái sai, vận dụng được kiến thức đã
    học vào trong ứng xử cuộc sống, tạo được niềm tin của các em.
    1.2. Mục đích nghiên cứu
    – Giúp học sinh có hứng thú với bộ môn Giáo dục công dân và hình thành
    những năng lực cần hướng đến của môn Giáo dục công dân, cụ thể là:
    + Năng lực điều chỉnh hành vi;
    + Năng lực phát triển bản thân;
    + Năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế – xã hội.
    1.3. Đối tượng nghiên cứu
    Với đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu và đưa vào bài dạy những
    video clip mang ý nghĩa giáo dục cao, đồng thời kết hợp với việc sử dụng một số
    phương pháp dạy học tích cực để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh.
    Từ đó tác giả có thể vận dụng rộng rãi hơn cho việc giảng bài của bản thân và
    đồng nghiệp trong những năm sau.
    1.4. Phương pháp nghiên cứu
    Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu:
    – Phương pháp thực nghiệm khoa học.
    – Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm.
    – Phương pháp so sánh.
    – Phương pháp điều tra.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT
    2. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    2.1.1. Những thuận lợi trong công tác dạy và học môn Giáo dục công dân
    Từ năm học 2016 – 2017, môn Giáo dục công dân đã trở thành một bộ môn
    trong bài thi tổ hợp khoa học xã hội của kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Do
    đó, việc dạy và học môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông đã và đang được
    Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cấp, các ngành, các bậc phụ huynh,
    học sinh và đặc biệt là đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn rất quan tâm.
    3
    Trong những năm qua, việc cải tiến nội dung chương trình, đổi mới phương pháp,
    phương tiện dạy học môn Giáo dục công dân đã được đẩy mạnh thực hiện và bắt
    đầu thu được những thành tựu, có những chuyển biến tích cực. Các thầy cô giáo đã
    rất tâm huyết trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự
    lực của học sinh…
    2.1.2. Hạn chế trong công tác dạy và học môn Giáo dục công dân
    2.1.2.1. Về phía giáo viên
    Giảng dạy môn Giáo dục công dân tưởng là dễ nhưng để học sinh nghe và thích
    thì không đơn giản. Ở khối Trung học phổ thông, học sinh phải làm quen với các
    khái niệm về triết học, duy vật biện chứng, phủ định siêu hình, kinh tế vĩ mô, pháp
    luật… quá khô khan, dễ gây chán nản. Người dạy phải “dụng công” để cô đọng lại
    những nội dung trong sách, vận động học sinh tham gia vào bài giảng bằng cách cho
    các em sắm vai, thuyết trình, diễn kịch, chơi trò chơi. Chỉ có cách đó mới giúp các
    em nhớ phần lý thuyết dài và khô. Công việc “hậu cần” trước mỗi tiết học cũng ngày
    một công phu hơn mới mong thu hút được sự chú ý của học sinh. Giáo viên phải mất
    khá nhiều thời gian và công sức chuẩn bị giáo cụ, tìm tư liệu, hình ảnh, video clip.
    Dạy được hết giáo án đã khó, thời gian eo hẹp (1 tiết GDCD/tuần) khiến giáo viên
    hiếm có cơ hội đi sâu vào các vấn đề đạo đức, kỹ năng sống cho những học sinh ở
    tuổi mới lớn.
    Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học môn Giáo dục
    công dân vẫn còn hạn chế. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả
    nguyên nhân chủ quan và khách quan, cả trong nhận thức và hành động, cả trong khả
    năng và sự nhiệt tình của giáo viên bộ môn. Cụ thể, một số giáo viên vẫn quen với
    cách dạy học cũ, ngại sử dụng công nghệ thông tin do tốn thời gian và công sức. Một
    số giáo viên khác chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng ứng dụng công
    nghệ thông tin vào giảng dạy.
    2.1.2.2. Về phía học sinh
    Môn học Giáo dục công dân trong chương trình giáo dục phổ thông đóng vai
    trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức, giáo dục học sinh về ý thức và hành vi, góp
    phần trang bị cho học sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức sống của người công
    4
    dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần
    thiết của công dân trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
    Tuy nhiên, trong tâm niệm của của đa số phụ huynh và học sinh vẫn còn lối
    suy nghĩ bộ môn Giáo dục công dân là bộ môn phụ trong nhà trường nên học sinh
    thường học chỉ để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức
    đằng sau mỗi bài học, thậm chí là học qua loa, học cho xong.
    Dù thầy cô đã có nhiều nỗ lực và cố gắng trong đổi mới phương pháp giảng
    dạy nhưng vẫn còn “bó khung” trong khuôn khổ của lớp học, giờ dạy nặng tính lý
    thuyết, thiếu những tư liệu, trích đoạn “người thật việc thật”, những tình huống
    “thật” … cho nên sức thuyết phục, độ cảm xúc của bài dạy chưa cao. Hơn nữa thời
    lượng dành cho môn Giáo dục công dân chỉ có 1 tiết/ tuần mà lượng kiến thức thì
    khá nhiều, không chỉ riêng nội dung chính thức mà nhiều nội dung giáo dục khác
    nhau cũng “bị giao” cho môn Giáo dục công dân để “tích hợp” nên việc dạy học
    mang nặng tính khái quát, giáo viên không có nhiều thời gian giảng dạy cặn kẽ
    những nội dung, vấn đề nào đó mà học sinh có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn.
    Khi tôi tiến hành khảo sát vào đầu tháng 9/2021 về mức độ yêu thích của học
    sinh khối 10 khi học tập môn Giáo dục công dân tại trường THPT Nghĩa Minh thì
    nhận được kết quả như sau:
    Bảng 2.1. Mức độ yêu thích của học sinh khi học tập môn Giáo dục công dân

    Rất yêu thíchYêu thíchKhông thích
    12/220 hs
    (5,45%)
    27/220 hs
    (12,27%)
    181/220 hs
    (82,28%)

    Nhìn vào kết quả của bảng 2.1, chúng ta có thể thấy số lượng học sinh không
    thích môn học này rất cao. Song vẫn có 5% số bạn học sinh rất yêu thích môn học.
    Vậy tại sao đa số học sinh lại không thích học Giáo dục công dân? Qua khảo sát về
    kiến thức của bộ môn có phù hợp với nhu cầu của học sinh hay không thì nhận
    được kết quả:
    Bảng 2.2. Đánh giá của học sinh về
    nội dung kiến thức môn Giáo dục công dân cung cấp.
    5

    Kiến thức trong
    các bài học nặng
    về tính chính trị
    Nội dung bài học
    trong SGK còn
    đơn điệu
    Kiến thức bài học
    có thể vận dụng
    vào cuộc sống
    thực tiễn
    Bài học đã hướng
    tới giáo dục giá
    trị sống, kĩ năng
    sống
    145/220 hs
    (65,9%)
    157/220 hs
    (71,36%)
    71/ 220 hs
    (32,27%)
    96/220 hs
    (43,63%)

    Chúng ta có thể thấy chương trình Giáo dục công dân hiện hành bị đánh giá là
    nặng về kiến thức, hàn lâm, trừu tượng… Bên cạnh đó, tính thực tiễn của môn Giáo
    dục công dân chưa thực sự cao, chưa gắn với thực tiễn sinh động của xã hội, chưa
    tạo được hứng thú đối với học sinh. Nội dung trong các bài học quá nặng về tính
    chính trị, nên nhiều người coi môn Giáo dục công dân như là một môn chính trị,
    phục vụ cho mục đích chính trị. Điều này gây tâm lý nặng nề, chán nản cho học
    sinh trong quá trình học tập.
    Khi tiến hành khảo sát đánh giá mức độ chủ động của học sinh khi học tập
    môn Giáo dục công dân tại trường, kết quả thu được như sau:
    Bảng 1.3: Đánh giá mức độ chủ động
    của học sinh khi học tập môn Giáo dục công dân

    Câu hỏiMức độ
    Thường xuyênĐôi khiKhông thực hiện
    Bạn có đọc trước bài học ở
    nhà không?
    12/220 hs
    (5,45%)
    68/220 hs
    (30,9%)
    140/220
    (63,65%)
    Bạn có đặt câu hỏi tại sao
    phải học bài học này không?
    25/220 hs
    (11,36%)
    69/ 220 hs
    (31,36%)
    126/ 220 hs
    (57,28%)
    Bạn có vận dụng kiến thức
    của bài học vào hoạt động
    của bản thân không?
    32/220 hs
    (14,55%)
    78/220 hs
    (35,45%)
    110/ 220 hs
    (50%)

    Kết quả khảo sát ở bảng 2.3 cho thấy học sinh chưa chủ động trong học tập
    trong môn Giáo dục công dân. Học sinh không biết học bài này để làm gì, có tác
    dụng gì với bản thân mình.
    6
    Mục tiêu của bộ môn Giáo dục công dân là giúp học sinh hình thành, phát triển
    các phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm.
    Những phẩm chất đạo đức này được hình thành, phát triển gắn liền với quyền, trách
    nhiệm và nghĩa vụ của người công dân Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung trong sách giáo
    khoa và bài giảng đôi khi sơ sài, học sinh không thấy được điều đó.
    Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học đã và đang được
    coi là tâm điểm của ngành giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện
    ở tất cả các cấp học, ngành học, môn học trong đó có môn Giáo dục công dân –
    một môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, từ trước đến nay,
    việc giảng dạy môn Giáo dục công dân chưa đạt được hiệu quả thực sự bởi nhiều
    nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là sử dụng các phương pháp dạy học
    chưa phù hợp. Bởi lẽ, môn học này giáo dục cho người học những phẩm chất và kĩ
    năng sống, do đó việc dạy học đòi hỏi phải có tính thực tiễn cao. Trong khi đó,
    phương pháp dạy học được sử dụng lại nặng về truyền thụ lí thuyết, mang nặng
    tính hàn lâm kinh viện mà thiếu thực tiễn. Nhận thức được vấn đề đó, các thầy cô
    dạy Giáo dục công dân đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo mục tiêu
    của dạy học hiện đại là hướng học sinh vào trung tâm. Quá trình đổi mới bước đầu
    mang lại một số kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra.
    Khi khảo sát về mức độ hiệu quả của các phương pháp dạy học môn Giáo dục
    công dân hiện nay, tôi thu được kết quả:
    Bảng 2.4. Mức độ hiệu quả của việc vận dụng các
    phương pháp dạy học tích cực để phát huy sự năng động, sáng tạo của học sinh

    STTCác phương phápMức độ hiệu quả
    Hiệu quảÍt hiệu quảKhông hiệu quả
    1Học sinh tìm hiểu
    bài học trước khi
    học tập.
    35/220 hs
    (15,91%)
    147/220 hs
    (66,82%)
    38/ 220 hs
    (17,27%)
    2Học sinh được thể45/220 hs158/220 hs17/220 hs

    7

    hiện ý kiến cá nhân.(20,45%)(71,82%)(7,73%)
    3Tổ chức, khuyến
    khích học sinh tham
    gia các hoạt động
    học.
    136/220 hs
    (61,82 %)
    67/ 220 hs
    (30,45%)
    17/ 220 hs
    (7,73%)
    4Tạo điều kiện cho
    học sinh tìm hiểu
    các thông tin mở
    rộng bài học.
    16/220 hs
    (7,27%)
    185/220 hs
    (84,09 %)
    19/220 hs
    (8,64%)

    Bảng thống kê trên cho thấy phương pháp tổ chức, khuyến khích học sinh
    tham gia các hoạt động học tập đạt hiệu quả cao nhất. Điều này phản ánh đúng khó
    khăn mà môn Giáo dục công dân hiện nay đang gặp phải: kiến thức nặng nề, nhiều
    bài học khó hiểu. Để làm tốt bài kiểm tra cuối kỳ, học sinh đều phải cố học thuộc
    lòng. Nhưng có những vấn đề học sinh không hiểu lắm và cũng không thấy cần thiết.
    Chính vì thế, các thầy cô cần có phương pháp để phát huy sự năng động, sáng tạo của
    học sinh, khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động học tập.
    2.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.2.1. Mục tiêu của chương trình Giáo dục công dân Trung học phổ thông
    * Về kiến thức:
    – Hiểu được những kiến thức phổ thông, cơ bản thiết thực về một số vấn đề
    như: thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng, công dân với kinh
    tế, công dân với một số vấn đề chính trị xã hội ….
    – Hiểu được những chuẩn mực đạo đức và luật pháp cơ bản, phổ thông, thiết
    thực phù hợp với lứa tuổi học sinh THPT trong các quan hệ với bản thân, với
    người khác, với công việc và môi trường sống.
    – Hiểu ý nghĩa các chuẩn mực đối với sự phát triển cá nhân và xã hội; sự cần
    thiết phải rèn luyện và cách thức rèn luyện để đạt được các chuẩn mực đó.
    * Về kỹ năng:
    8
    – Biết phân tích, đánh giá bản thân và mọi người xung quanh; biết lựa chọn và
    thực hiện cách ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, văn hoá xã
    hội trong giao tiếp và hoạt động học tập lao động, hoạt động tập thể, vui chơi, giải
    trí…
    – Biết tự tổ chức học tập và rèn luyện bản thân theo yêu cầu của các chuẩn
    mực đã học.
    * Về thái độ
    – Có thái độ đúng đắn, rõ ràng trước các hiện tượng, sự kiện pháp luật, văn
    hoá trong đời sống hằng ngày; có tình cảm trong sáng, lành mạnh đối với mọi
    người, gia đình, nhà trường, quê hương, đất nước.
    – Có niềm tin vào các chuẩn mực đã học và hướng tới những giá trị xã hội tốt
    đẹp.
    – Có trách nhiệm đối với hành động của bản thân, có nhu cầu tự điều chỉnh, tự
    hoàn thiện để trở thành một chủ thể xã hội, tích cực, năng động.
    2.2.2. Biện pháp sử dụng video clip trong giảng dạy
    2.2.2.1. Những vấn đề chung về video clip và tác dụng của video clip trong dạy
    học:
    Video clip là những đoạn phim ngắn những đoạn tư liệu được trình chiếu qua
    đầu đĩa hoặc máy vi tính.
    Video clip phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân vô cùng đa
    dạng, phong phú. Giáo viên có thể lấy từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau như:
    – Qua băng, đĩa hình
    – Qua mạng Internet
    – Qua trao đổi với mọi người
    – Giáo viên trực tiếp quay Video clip
    Việc sử dụng video clip trong dạy học tạo điều kiện để giáo viên thực hiện đổi
    mới phương pháp dạy học, loại trừ khuynh hướng dạy chay làm cho giờ học khô
    khan, mang tính lí thuyết, áp đặt đối với học sinh. Những hình ảnh mà video clip
    mang đến sẽ tác động đến học sinh, gây được phản ứng của các em và những thắc
    mắc, câu hỏi mà các em đặt ra cho giáo viên và cho các bạn của mình. Có thể nói,
    9
    video clip có thể thay thế cho nhiều lời giảng vì nó có chức năng thông tin và chức
    năng minh họa. Chính vì vậy, video clip sẽ hỗ trợ thông tin cho bài học thêm
    phong phú và sâu sắc.
    Sử dụng video clip sẽ tăng thêm tính hấp dẫn cho nội dung bài học, tăng thêm
    cảm hứng học tập cho học sinh. Đồng thời, thông qua video clip, giáo viên chuyển
    tải lời muốn nói dễ dàng hơn, học sinh khắc sâu nội dung bài học hơn.
    2.2.2.2. Những yêu cầu khi sử dụng video clip vào giảng dạy
    Để khai thác video clip phù hợp với nội dung của mỗi bài dạy, giáo viên cần
    phải xác định kiến thức cơ bản và trọng tâm của bài, sau đó vận dụng khai thác
    video clip vào bài dạy linh hoạt, hợp lý. Như vậy, việc khai thác hình ảnh trực
    quan đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về mặt kiến thức, thời gian, lựa
    chọn, phân loại video clip phù hợp với nội dung, hình thức tổ chức dạy học của
    từng bài, từng tiết, từng phần. Đặc biệt, giáo viên phải biết sử dụng máy tính, máy
    chiếu thành thạo để soạn thảo và trình chiếu là yêu cầu hết sức quan trọng, quyết
    định sự thành công của mỗi tiết học.
    Mỗi video clip phải có mục đích rõ ràng, phải có nội dung muốn chuyển tải,
    phải đảm bảo kích cỡ, độ nét tương ứng.
    Để đưa lại hiệu quả cao, khi khai thác video clip, giáo viên cần kết hợp với
    miêu tả, phân tích, đánh giá nôi dung trên video clip.
    Sau khi quan sát kĩ video clip, học sinh sẽ có kĩ năng tư duy khái quát, phân
    tích, tổng hợp… để đưa ra kết luận của mình về nội dung mà hình ảnh muốn
    chuyển tải.
    Với sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội, nguồn tư liệu rất
    phong phú nên giáo viên phải biết cách lựa chọn video clip chuẩn xác, gần gũi với
    học sinh và sát với nội dung kiến thức chuyển tải.
    Để khai thác hình ảnh có hiệu quả, yêu cầu giáo viên phải có kĩ năng sử dụng
    thành thạo một số phần mềm chỉnh sửa video clip, sử dụng máy tính kết nối máy
    chiếu. Dựa trên cơ sở video clip đã chuẩn bị sẵn, giáo viên cần kết hợp với các
    phương tiện hỗ trợ cho dạy học khác có tính hiện đại như thiết kế bài giảng trên
    powerpoint, kết hợp với máy vi tính, máy chiếu để biến những hình ảnh video
    10
    thêm sống động, gần gũi đời sống thực tế nhằm thu hút sự tập trung chú ý của học
    sinh, kích thích tư duy của học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
    2.2.3. Thực nghiệm sư phạm
    Để thực hiện tiết dạy có sử dụng video clip đạt hiệu quả cao, giáo viên phải
    những bước chuẩn bị kĩ càng. Cụ thể:
    – Phải nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy.
    – Chuẩn bị sẵn sàng những video clip mà mình sẽ sử dụng.
    – Chuẩn bị hệ thống câu hỏi cho học sinh.
    – Dành thời gian phù hợp cho các em chuẩn bị.
    – Nghiên cứu phương pháp phù hợp để kết hợp với video nhằm đem lại hiệu
    quả cao.
    2.2.3.1. Sử dụng video clip trong hoạt động khởi động
    Khởi động là hoạt động đầu tiên, nhằm giúp học sinh huy động những kiến
    thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến
    bài học mới. Hoạt động khởi động sẽ kích thích tính tò mò, sự hứng thú, tạo tâm
    thế của học sinh ngay từ đầu tiết học. Chuẩn bị phần khởi động như thế nào cho
    hiệu quả phải dựa vào nội dung bài học, đối tượng học sinh và cả điều kiện của
    giáo viên.
    Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực
    hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn
    cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng
    thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu
    hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động.
    Video clip có chức năng cơ bản là tích hợp và cơ động, trước hết là để thông
    báo thông tin, sau đó là để minh họa, giải thích, mô tả trực quan. Học sinh sẽ quan
    sát, xử lý tài liệu và trao đổi với nhau về thông tin video clip mang lại. Việc sử
    dụng video clip vào hoạt động khởi động làm cho giờ dạy bớt khô khan, cứng
    nhắc; đồng thời làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học
    tập ở học sinh, làm cho việc học trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Video clip là
    nguồn cung cấp các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách tích
    11
    cực, tự giác hơn. Giáo viên có thể đưa ra một video có nội dung liên kết giữa bài
    học cũ với bài học mới để khuyến khích học sinh tư duy về những vấn đề mới.
    Giáo viên cũng có sử dụng một video có nội dung liên quan đến bài học từ đó đặt
    câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu kiến thức
    Ví dụ 1: Khởi động bằng cách sử dụng đoạn video- clip khi dạy bài 6:
    Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng (Giáo dục công dân 10)
    * Mục tiêu: Tạo không khí vui vẻ, từ đó học sinh nhận biết được những nội
    dung có liên quan đến bài học.
    * Cách tiến hành: Giáo viên chiếu video về sự mọc lên của cây đậu từ hạt và
    hỏi: Hạt đậu đó có còn hay không? Qúa trình đó gọi là gì? Nếu ta không trồng hạt
    đậu mà ta ngâm vào nước (hay rang lên) thì hạt đậu có còn không? Qúa trình đó
    gọi là gì? Giáo viên gọi học sinh đứng tại chỗ trả lời
    – HS trả lời
    – GV tiếp tục: Vậy, đâu là khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng ?
    Chúng ta sẽ tìm hiểu và làm rõ nội dung này trong bài 6: Khuynh hướng phát triển
    của sự vật và hiện tượng (Giáo dục công dân 10)
    Ví dụ 2: Sử dụng video clip khi tổ chức hoạt động khởi động bài 2: Thực hiện
    pháp luật (Giáo dục công dân 12)
    * Mục tiêu: Tạo không khí vui vẻ, từ đó học sinh nhận biết được những hành
    vi thực hiện pháp luật và không thực hiện pháp luật có liên quan đến bài học.
    * Cách thức tiến hành:
    GV chiếu cho học sinh quan sát video vi phạm luật an toàn giao thông đường
    bộ của học sinh.
    GV nêu câu hỏi: Em có nhận xét gì về hành vi của những bạn học sinh trong
    video trên?
    HS trả lời
    GV sẽ dẫn dắt trong video clip đó các bạn học sinh đã không thực hiện đúng
    pháp luật vì đã có những hành vi tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm,
    vượt đèn đỏ… Vậy như thế nào là thực hiện pháp luật? có những hình thức
    thựchiện pháp luật nào thì bài học hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu.
    12
    Đánh giá hiệu quả sau khi sử dụng video để thiết kế hoạt động khởi động để
    thiết kế hoạt động khởi động trong dạy học môn Giáo dục công dân: Trong quá
    trình thiết kế hoạt động khởi động cho các bài thì việc sử dụng video có ý nghĩa to
    lớn không chỉ là nguồn kiến thức mà còn có tác dụng hình thành tri thức, kĩ năng,
    phát triển tư duy cho học sinh, các hình ảnh sinh động với màu sắc tươi sáng còn
    có tác dụng hình thành xúc cảm thẩm mĩ cho các em. Video giúp phần khởi động
    bài học trở nên hấp dẫn hơn, đồng thời giúp cho học sinh biết cách cảm nhận các
    vấn đề của cuộc sống. Phần mở đầu giới thiệu bài học sẽ rất nhẹ nhàng và thú vị
    đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy và học.
    2.2.3.2. Sử dụng video clip trong hoạt động hình thành kiến thức mới
    Hoạt động hình thành kiến thưc mới là hoạt động chính, quan trọng của bài
    học. Hoạt động này giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ thống
    các bài tập/ nhiệm vụ. Do đó, việc lựa chọn, vận dụng và phối hợp các phương
    pháp dạy học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như nội dung bài học, đối tượng học
    sinh, cơ sở vật chất của nhà trường, sở trường của giáo viên… Để học sinh dễ dàng
    tiếp cận với kiến thức bộ môn Giáo dục công dân và phát huy tính tích cực của học
    sinh trong quá trình học tập, người giáo viên phải biết gắn việc đổi mới phương
    pháp dạy học với việc sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị dạy học. Đó là
    các thiết bị, đồ dùng dạy học do giáo viên, học sinh tự làm hoặc là các phương
    tiện, thiết bị được nhà trường cung cấp. Đặc biệt khi sử dụng các phương tiện, thiết
    bị dạy học hiện đại như: các hình ảnh, âm thanh, các thước phim tư liệu chính là
    giáo viên đang giúp học sinh tiếp cận với những công nghệ thiết bị mới, qua việc
    nghe, nhìn học sinh có thể tự nhận xét, so sánh, suy nghĩ và rút ra những kiến thức
    cần thiết, từ đó nâng cao quá trình nhận thức và hứng thú hơn đối với môn học. Sử
    dụng video clip trong hình thành kiến thức mới có thể thực hiện theo hai cách:
    – Cách thứ nhất: Sử dụng video để khai thác kiến thức bài học: Áp dụng theo
    cách này, giáo viên đi theo ba bước chính:
    + Bước 1: Giáo viên định hướng (giáo viên nêu câu hỏi)
    + Bước 2: Sử dụng video clip
    + Bước 3: Học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập.
    13
    Ví dụ 1: Sử dụng video clip khi hình thành kiến thức mục “thế nào phát triển”
    trong bài 3 “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất” (Giáo dục công dân
    10)
    Mục tiêu: Nêu được khái niệm phát triển, thấy được sự phát triển diễn ra phổ
    biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
    Cách thức tiến hành:
    Giáo viên cho học sinh xem video về quá trình hình thành sự sống trên trái
    đất.
    Giáo viên giao câu hỏi định hướng: Nhận xét sự vận động trong video clip mà
    các em theo dõi có đặc điểm gì?
    Học sinh thảo luận, trả lời câu hỏi
    Giáo viên chốt kiến thức: Quá trình hình thành sự sống trên trái đất diễn ra
    theo hướng đi từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
    Quá trình đó diễn ra cả ở giới tự nhiên, trong đời sống xã hội và tư duy con người.
    Đó chính là sự phát triển.
    Giáo viên chốt khái niệm phát triển.
    Ví dụ 2: Sử dụng video clip khi hình thành kiến thức mục “khái niệm thực
    hiện pháp luật” trong bài 2 “Thực hiện pháp luật” (Giáo dục công dân 12)
    Mục tiêu: Nêu được khái niệm thực hiện pháp luật là gì.
    Cách thức tiến hành:
    Giáo viên cho học sinh xem video clip cảnh sát giao thông xử lí người tham
    gia giao thông vi phạm luật an toàn giao thông đường bộ.
    Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận chung. Câu hỏi thảo luận:
    1. Để xử lí người vi phạm, cảnh sát giao thông đã áp dụng pháp luật xử phạt
    như thế nào? Mục đích của việc xử phạt đó để làm gì?
    2. Thực hiện pháp luật là hành vi của ai? Phù hợp với những yêu cầu gì?
    Học sinh thực hiện nhiệm vụ, báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập.
    Giáo viên chốt kiến thức.
    14
    + Với câu hỏi 1: Giáo viên củng cố cho hs hiểu, các hành vi của 3 thanh niên
    trên là áp dụng xử phạt hành chính với mục đích, răn đe hành vi vi phạm pháp luật
    và giáo dục hành vi thực hiện đúng pháp luật cho 3 thanh niên.
    + Với câu hỏi 2: Giáo viên nhấn mạnh để học sinh hiểu, thực hiện pháp luật là
    hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức để đưa pháp luật vào cuộc sống để đáp ứng
    nhu cầu của người dân
    Kết luận: Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho
    những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp
    của cá nhân, tổ chức.
    – Cách thứ 2: Sử dụng video để minh họa cho kiến thức bài học. Theo cách
    này, sau khi giáo viên trình bày xong một đơn vi kiến thức sẽ cho học sinh xem
    một video clip để các em có thể khắc sâu thêm kiến thức đã học.
    Ví dụ: Sử dụng video clip để hình thành kiến thức mục “lương tâm” bài 11:
    “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học” (Giáo dục công dân 10).
    Mục tiêu: Giúp học sinh hiểu khái niệm lương tâm, hai trạng thái của lương
    tâm, thấy được sự biểu hiện các trạng thái này trong đời sống của con người.
    Cách thức tiến hành:
    Sau khi cho học sinh tìm hiểu xong nội dung kiến thức mục lương tâm, giáo
    viên cho học sinh xem video clip “Hai cựu bộ trưởng Bộ thông tin và truyền thông
    gửi lời xin lỗi Đảng và nhân dân”
    Giáo viên đặt câu hỏi: Lời xin lỗi đó biểu hiện của trạng thái nào của lương
    tâm? Nó có tác dụng gì?
    Học sinh suy nghĩ trả lời.
    Việc sử dụng hình ảnh và Video clip trong quá trình giảng dạy môn Giáo dục công
    dân có tác dụng và hiệu quả rất lớn. Tuy nhiên, để tiết học sử dụng video clip hình
    thành kiến thức mới cho học sinh thành công, giáo viên cần phải đảm bảo được các
    nguyên tắc sau:
    – Video Clip phải thật sự phù hợp, đúng trọng tâm
    – Không nên quá dài vì tiết học có giới hạn về thời gian
    – Chất lượng hình ảnh và âm thanh phải đảm bảo rõ, nét
    15
    – Nguồn cung cấp chính thống; không có nhiều tranh cãi về video clip đó.
    2.2.5. Kết quả đạt được
    Năm học 2020 – 2021, tôi đã vận dụng sáng kiến “Tạo hứng thú học tập cho
    học sinh qua việc sử dụng video clip để giảng dạy chương trình Giáo dục công dân
    lớp 10 và 12”. Tôi nhận thấy có chuyển biến rõ rệt về tinh thần, thái độ, ý thức học
    tập của học sinh. Các em đón nhận giờ học một cách chủ động, hồ hởi; không còn
    thái độ mệt mỏi, đối phó. Chính nhờ những đoạn video clip mà giờ học giáo dục
    công dân trở nên sôi nổi; các em thoải mái bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình.
    Sau khi dạy xong các bài cuối cùng trong chương trình, tôi đã tiến hành khảo
    sát ý kiến học sinh. Tổng hợp kết quả khảo sát đối với học sinh lớp 10 được thể
    hiện qua bảng sau:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Một số giải pháp trong dạy học tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Giáo dục công dân tại trường THPT

    SKKN Một số giải pháp trong dạy học tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Giáo dục công dân tại trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Chương trình giáo dục phổ thông cụ thể hoá mục tiêu giáo dục phổ thông,
    giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến
    thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa
    chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan
    hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có
    được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất
    nước và nhân loại.
    Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng trên cơ sở quan điểm
    của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; kế
    thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông
    đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu thành tựu nghiên cứu về khoa học
    giáo dục và kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển
    năng lực của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; gắn với nhu cầu
    phát triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học – công nghệ
    và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam, các giá trị
    truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các
    sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ
    hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền
    được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho
    một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh.
    Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm phát triển phẩm chất và năng
    lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức, kĩ năng cơ
    bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận
    dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn đề trong học tập và đời
    sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên;
    thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ
    động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp đánh giá phù hợp với
    mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó.
    Chương trình GDPT mới được áp dụng bắt đầu đối với cấp tiểu học từ
    năm học 2020-2021, Cấp THCS từ năm học 2021-2022 và cấp THPT từ năm
    học 2022-2023. Hướng tới mục tiêu áp dụng thành công chương trình mới
    5
    Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh Nam Định, Sở GD&ĐT Nam Định đã ban hành
    nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
    giáo viên thực hiện triển khai chương trình GDPT mới.
    Để thực hiện thành trình GDPT mới thì đội ngũ giáo viên là một trong
    những yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công của công cuộc đổi mới.
    Do vậy việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chuẩn bị cho chương trình GDPT
    mới là nhiệm vụ cấp bách cần được thực hiện ngay trước năm học 2022-
    2023 đối với các trường THPT.
    Bộ GD&ĐT và Sở GD&ĐT Nam Định đã tổ chức một số khóa bồi dưỡng
    thường xuyên, các khóa bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên THPT trên
    địa bàn tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, các đợt tập huấn với quy mô lớn; thời
    gian tập huấn ngắn nên chưa đáp ứng đủ được nhu cầu học tập của giáo
    viên, đặc biệt là khâu thực hành sư phạm.
    Trước bối cảnh đó, Là giáo viên cốt cán của sở đánh giá được tầm quan
    trọng của việc bồi dưỡng Giáo viên, Tổ bộ môn GDCD nói riêng và các tổ
    bộ môn khác của Trường THPT A Hải Hậu nói chung đã tổ chức cho giáo
    viên tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích chương trình GDPT tổng thể và
    chương trình bộ môn GDCD; nghiên cứu và thực hành các phương pháp,
    hình thức dạy học; đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá học sinh nhằm
    chuẩn bị tốt nhất cho giáo viên thực hiện chương trình GDPT mới bắt đầu
    áp dụng cho cấp THPT từ năm học 2022-2023. Từ quá trình thực tế đó tôi
    đã xây dựng sáng kiến “Một số giải pháp trong dạy học tiếp cận chương
    trình Giáo dục phổ thông 2018 môn GDCD tại trường THPT A Hải
    Hậu, tỉnh Nam Định”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Giải pháp 1. Chương trình hiện hành và phương pháp dạy học
    truyền thống.
    a. Mô tả
    Chương trình còn nặng tính hàn lâm, quá trình dạy học còn thiên về
    truyền thụ kiến thức, chủ yếu GV dạy cho học sinh những kiến thức mà
    mình có, học sinh ra sức học, ghi nhớ những kiến thức.
    6
    Các GV được hỏi đa phần đều công tác tương đối lâu năm nên chủ yếu
    vẫn quen với phương pháp dạy học truyền thống. Các lớp bồi dưỡng tập
    trung do Sở GD&ĐT tổ chức hàng năm về cơ bản mới chỉ bồi dưỡng về các
    kĩ thuật dạy học tích cực và về việc xây dựng ma trận đề kiểm tra đánh giá.
    Còn về các phương pháp dạy học hiện đại đa phần các GV khi cần thiết mới
    tự tìm hiểu thông qua các thông tin trên mạng và trao đổi với đồng nghiệp.
    Giáo viên thiết kế giáo án và xây dựng bài giảng dựa trên nội dung được
    quy định chi tiết trong chương trình, tài liệu chủ yếu là sách giáo khoa, sách
    giáo viên với các mục tiêu cần đạt của mỗi bài về: Kiến thức thuần túy khoa
    học ít gắn với thực tiễn, kỹ năng giải các bài tập mang tính lý thuyết.
    Thực hiện đổi mới dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động
    của HS đã được áp dụng rất rộng rãi trong các năm trở lại đây nhưng việc
    dạy học phát triển năng lực HS mới bắt đầu được đưa vào áp dụng nên GV
    còn nhiều bỡ ngỡ và hầu như chưa có khái niệm đánh giá năng lực theo các
    thành tố của năng lực.
    Một số GV đã thực hiện dạy học chủ đề tích hợp tuy nhiên do hạn chế
    trong việc sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại. Các GV mới chỉ tập
    trung vào xây dựng các nội dung tích hợp và sử dụng một số kĩ thuật dạy
    học tích cực để tăng tính tích cực, chủ động của HS chứ chưa tập trung vào
    việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề dẫn đến HS hiểu bài, có liên hệ
    với thực tế, kết quả học tập nâng cao nhưng với các bài tập thực tiễn ở mức
    vận dụng cao lại vẫn gặp nhiều khó khăn do chưa được luyện tập nhiều các
    thao tác, kĩ năng giải quyết vấn đề.
    b. Ưu điểm
    – Đảm bảo về nội dung: kiến thức, kỹ năng và thái độ, việc lựa chọn nội dung
    dễ dàng, không tốn nhiều thờigian.
    – Có sự đổi mới về phương pháp dạy học, bên cạnh việc trang bị kiến thức
    đã chú ý rèn luyện một số kỹ năng.
    – Có phần ứng dụng, liên hệ thực tế.
    c. Nhược điểm
    – Khả năng vận dụng các kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn còn
    hạn chế.
    – Chưa phát triển được năng lực học sinh.
    7
    – Giờ học thiếu hấp dẫn.
    – Ít liên hệ với thực tiễn, học sinh không có kỹ năng sử dụng các kiến thức
    đã học để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế cuộc sống.Học sinh
    tiếp thu kiến thức một các thụ động, nắm kiến thức không sâu và không rèn
    các kỹ năng làm việc với các nguồn tri thức (kỹ năng làm việc với sách giáo
    khoa, với thí nghiệm, phương tiện trực quan, với máy vi tính, với băng hình,
    với internet, …). Do đó không có các kỹ năng so sánh phán đoán, kỹ năng
    chọn lọc, xử lí và hệ thống hoá thông tin….
    1.2. Giải pháp 2: Phương pháp, công cụ đánh giá truyền thống
    a. Mô tả
    Hiện nay đa phần đánh giá học sinh qua các bài kiểm tra. Trong năm học
    có các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, học sinh phải thực hiện
    các bài kiểm tra, dùng điểm số ở các bài kiểm tra để đánh giá học sinh về
    mặt học tập.
    Công cụ đánh giá chủ yếu là các câu hỏi, bài tập. Câu hỏi, bài tập có hai
    hình thức tự luận và trắc nghiệm, nội dung các câu hỏi, bài tập chủ yếu xoay
    quanh kiến thức học sinh đã học, có một phần ít vận dụng kiến thức vào một
    số tình huống hoặc ứng dụng cụ thể. Thông qua các bài tập và câu hỏi học
    sinh ghi nhớ được kiến thức và hình thành kỹ năng giải bài tập.
    b. Ưu điểm:
    – Sử dụng các bài kiểm tra truyền thống có thể đánh giá được các mức độ
    về kiến thức và kỹ năng của học sinh trong môn học.
    – Câu hỏi, bài tập có thể giúp học sinh ghi nhớ kiến thức và rèn luyện các
    kỹ năng giải quyết bài tập, kỹ năng trình bày, thuyết trình, vận dụng kiến
    thức… từ đó góp phần hình thành nên tư duy logic đối với từng bộ môn.
    – Dễ dàng biên soạn.
    c. Nhược điểm:
    – Không đánh giá được đầy đủ năng lực, phẩm chất của người học.
    – Nặng tính hàn lâm, ít liên hệ thực tiễn, tình huống thực tế vì vậy hạn chế
    trong việc hình thành các năng lực, phẩm chất của học sinh.
    II. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    8
    1. Giải pháp 1: Nghiên cứu, vận dụng một số phương pháp, hình thức
    dạy học tích cực đáp ứng chương trình GDPT 2018.

    TTMỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, HÌNH THỨC DẠY HỌC NHẰM
    PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC PHẨM CHẤT NGƯỜI HỌC
    1Dạy học giải quyết vấn đề
    2Dạy học dự án
    3Dạy học sinh hoạt câu lạc bộ môn học
    4Dạy học trải nghiệm sáng tạo ngoài không gian lớp học.

    1.1. Dạy học giải quyết vấn đề
    a. Khái niệm
    Dạy học giải quyết vấn đề là dạy học trong đó HS được đặt trong một tình
    huống có vấn đề, thông qua giải quyết vấn đề để giúp HS lĩnh hội được tri thức,
    kĩ năng và phương pháp nhận thức, đặc biệt là phát triển năng lực tư duy sáng
    tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Tình huống có vấn đề sẽ xuất hiện khi một cá
    nhân đứng trước một nhiệm vụ, vấn đề cần giải quyết và bản thân chưa biết bằng
    cách nào, chưa đủ phương tiện (tri thức, kĩ năng…) để tự giải quyết nhưng có
    mong muốn giải quyết được nhiệm vụ, vấn đề này.
    Dạy học giải quyết vấn đề có các đặc điểm sau:
    – HS được đặt vào tình huống có vấn đề chứ không phải được thông báo dưới
    dạng tri thức có sẵn. Vấn đề được đưa ra giải quyết cần vừa sức và gợi được nhu
    cầu nhận thức ở HS.
    – HS không những được học nội dung học tập mà còn được học con đường và
    cách thức tiến hành dẫn đến kết quả đó. Nói cách khác, HS được học cách phát
    hiện và giải quyết vấn đề.
    b. Cách tiến hành
    Cách thức tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
    Bước 1: Nhận biết vấn đề
    GV đưa người học vào tình huống có vấn đề hoặc GV có thể gợi ý người học tự
    tạo ra tình huống có vấn đề. Phát biểu vấn đề dưới dạng “mâu thuẫn nhận thức”,
    đó là mâu thuẫn giữa những cái đã biết với những cái chưa biết và HS muốn tìm
    tòi để giải quyết vấn đề mâu thuẫn đó.
    Bước 2: Lập kế hoạch giải quyết vấn đề
    9
    HS đề xuất giả thuyết giải quyết vấn đề, đưa ra các phương án và lập kế hoạch
    để giải quyết vấn đề theo giả thuyết đã đặt ra.
    Bước 3: Thực hiện kế hoạch
    Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề. Đánh giá việc thực hiện giả thuyết đặt ra
    đã đúng chưa, nếu đúng thì chuyển sang bước tiếp theo, nếu như chưa đúng thì
    quay trở lại bước 2 để chọn giả thuyết khác.
    Bước 4: Kiểm tra, đánh giá và kết luận
    GV tổ chức cho HS rút ra kết luận về cách giải quyết vấn đề trong tình huống đã
    được đặt ra, từ đó HS lĩnh hội được tri thức, kĩ năng của bài học hoặc vận dụng
    được những kiến thức, kĩ năng trong môn học để giải quyết vấn đề trong thực
    tiễn.
    c. Điều kiện sử dụng
    Dạy học giải quyết vấn đề có thể phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét dưới
    nhiều góc độ khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, HS sẽ huy
    động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận
    với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất. Để có thể áp dụng dạy học
    giải quyết vấn đề, GV cần lưu ý:
    – GV cần tạo ra tình huống có vấn đề phù hợp, thu hút HS vào quá trình tìm tòi
    để phát hiện và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, không phải nội dung dạy học nào
    cũng có thể phù hợp để xây dựng thành tình huống có vấn đề cho HS.
    – Nếu giải quyết vấn đề được sử dụng cho các nhóm, vấn đề cần đủ phức tạp để
    đảm bảo rằng tất cả các HS là thành viên trong nhóm đều phải làm việc cùng
    nhau để giải quyết.
    – Việc tổ chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo PPDH giải quyết vấn đề
    đòi hỏi phải có thời gian phù hợp.
    – Trong một số trường hợp, cần có thiết bị dạy học và các điều kiện phù hợp để
    thực hiện hiệu quả phương pháp giải quyết vấn đề, ví dụ các dụng cụ để làm thí
    nghiệm, các phương tiện tra cứu, khảo sát và thu thập thông tin…
    Dạy học giải quyết vấn đề có ưu thế hình thành các phẩm chất chủ yếu và các
    năng lực chung như sau:
    Bảng mô tả ý nghĩa của dạy học giải quyết vấn đề với phẩm chất chủ yếu
    và năng lực chung của HS
    10

    Phẩm
    chất
    Chăm chỉChủ động lập và thực hiện kế hoạch giải quyết vấn
    đề
    Trách nhiệmTự giác đề xuất giả thuyết và lập kế hoạch để giải
    quyết vấn đề theo giả thuyết đã đặt ra.
    Năng
    lực
    chung
    Tự chủ và tự
    học
    Tự quyết định cách thức giải quyết vấn đề, tự đánh
    giá về quá trình và kết quả giải quyết vấn đề.
    Giải quyết vấn
    đề và sáng tạo
    Chủ động đề ra kế hoạch, cách thức giải quyết vấn
    đề, cách thức xử lí các vấn đề phát sinh một cách
    sáng tạo khi giải quyết vấn đề nhằm đạt được kết
    quả tốt nhất.

    – Dạy học giải quyết vấn đề không phải là PPDH riêng biệt mà là một một tập
    hợp nhiều PPDH liên kết chặt chẽ và tương tác với nhau, trong đó việc đặt ra và
    hướng dẫn HS giải quyết vấn đề trong tình huống giữ vai trò trung tâm, gắn bó
    các PPDH khác. Trong dạy học giải quyết vấn đề, HS được đặt trong một tình
    huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề đó giúp HS lĩnh hội tri thức,
    kĩ năng và phương pháp nhận thức.
    – Khi vận dụng dạy học giải quyết vấn đề trong dạy học GDCD, cần chú ý lựa
    chọn các mức độ cho phù hợp với trình độ nhận thức của HS và nội dung cụ thể
    của mỗi bài học. Mức độ tham gia của HS càng nhiều thì HS sẽ càng tích cực,
    tuy nhiên đòi hỏi trình độ năng lực của HS càng cao.
    Ví dụ một số mức độ của dạy học giải quyết vấn đề:
    – GV nêu và giải quyết vấn đề
    – GV nêu vấn đề và cho HS tham gia giải quyết vấn đề.
    – GV nêu vấn đề và gợi ý HS tìm cách giải quyết vấn đề.
    – GV cung cấp thông tin cho HS, tạo tình huống để HS phát biểu
    vấn đề và giải quyết vấn đề.
    -HS tự phát hiện vấn đề, tự lựa giải quyết và tự đánh giá.
    Ví dụ minh hoạ: Chủ đề “Pháp luật và đời sống” (lớp 12)
    – Yêu cầu cần đạt “Phân tích, đánh giá được việc thực hiện pháp
    luật trong một số tình huống thực tiễn”
    – Tiến trình hoạt động
    11

    Giai đoạnHoạt động của GV và
    HS
    1- Nhận biết vấn
    đề
    – GV yêu cầu HS làm việc theo nhóm, đọc tình huống và
    xác định vấn đề cần đặt ra:
    Tình huống:
    Anh A lợi dụng đêm tối (24h) và sự mất cảnh giác của
    nhà bà B hàng xóm, đã đột nhập và lấy trộm: 1 laptop
    Macbook Air, 1 điện thoại di động Iphone X.
    Câu hỏi thảo luận:
    1. Phân tích hành vi của anh A.
    2. Hành vi của anh A là chưa thực hiện pháp luật theo
    hình thức nào?
    3. Hành vi của anh A có được pháp luật nghiêm cấm
    không? Tại sao?
    GV yêu cầu đại diện các nhóm trình bày. Từ đó xác định
    vấn đề cần giải quyết là
    Phân tích, đánh giá việc thực hiện pháp luật trong đời
    sống
    thực tiễn.
    2- Đề xuất
    giải pháp
    – GV yêu cầu HS thảo luận để đề xuất các phương án để
    tìm hiểu vấn đề. GV gợi ý tìm hiểu bản chất của tội trộm
    cắp tài sản, từ đó tìm hiểu các yếu tố cấu thành của tội
    này.
    – GV yêu cầu đại diện các nhóm đề xuất các phương án,
    tổng kết và định hướng bằng hệ thống câu hỏi:
    1. Hành vi của A có phải là hành vi chiếm đoạt tài sản
    của người khác không? Dấu hiệu nhận biết của tội trộm
    cắp tàisản.
    2. Có mấy hình thức thực hiện pháp luật? Phân biệt các
    hình thức đó.
    3. Thế nào hành vi trái pháp luật? Có phải chỉ có hành vi
    trái pháp luật là vi phạm pháp luật?

    12

    4. Chỉ ra các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật.
    3- Giải quyết vấn
    đề
    – GV yêu cầu HS thảo luận, thông qua tình huống để phân
    tích,
    đánh giá được việc thực hiện pháp luật trong đời sống
    thực tiễn.
    – GV yêu cầu các nhóm thảo luận, ghi kết quả ra giấy
    khổ lớn và trưng bày xung quanh lớp học như một phòng
    trưng bày tranh. Ghi lại những vấn đề mà nhóm còn băn
    khoăn, thắc mắc, cần được giải đáp từ phía giáo viên
    – GV tổng kết:
    + Hành vi của A: Chủ thể; khách thể; mặt chủ quan; mặt
    khách quan.
    + Hành vi trộm cắp tài sản của A là chưa thực hiện pháp
    luật theo hình thức tuân thủ pháp luật.
    + Hành vi của A được pháp luật nghiêm cấm vì xâm hại
    đến
    quyền tài sản của người khác mà pháp luật bảo vệ. Hành
    vi của A đáng bị lên án và phê phán.

    Như vậy dạy học giải quyết vấn đề có thể phát triển được khả năng tìm tòi,
    xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề,
    13
    HS sẽ huy động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi,
    thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất.
    Để có thể áp dụng dạy học giải quyết vấn đề, GV cần lưu ý:
    GV cần tạo ra tình huống có vấn đề phù hợp, thu hút HS vào quá trình tìm
    tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, không phải nội dung dạy học
    nào cũng có thể phù hợp để xây dựng thành tình huống có vấn đề cho HS.
    Nếu giải quyết vấn đề được sử dụng cho các nhóm, vấn đề cần đủ phức tạp
    để đảm bảo rằng tất cả các HS là thành viên trong nhóm đều phải làm việc cùng
    nhau để giải quyết.
    Việc tổ chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo PPDH giải quyết vấn
    đề đòi hỏi phải có thời gian phù hợp.
    Trong một số trường hợp, cần có thiết bị dạy học và các điều kiện phù hợp để
    thực hiện hiệu quả phương pháp giải quyết vấn đề, ví dụ các dụng cụ để làm thí
    nghiệm, các phương tiện tra cứu, khảo sát và thu thập thông tin…
    Dạy học giải quyết vấn đề có ưu thế hình thành các phẩm chất chủ yếu và các
    năng lực chung như sau:
    Bảng mô tả ý nghĩa của dạy học giải quyết vấn đề với phẩm chất chủ
    yếu và năng lực chung của HS

    Phẩm
    chất
    Chăm chỉChủ động lập và thực hiện kế hoạch giải quyết
    vấn đề
    Trách nhiệmTự giác đề xuất giả thuyết và lập kế hoạch để
    giải quyết vấn đề theo giả thuyết đã đặt ra.
    Năng lực
    chung và
    năng lực
    đặc thù
    Tự chủ và tự
    học
    Tự quyết định cách thức giải quyết vấn đề, tự
    đánh giá về quá trình và kết quả giải quyết vấn
    đề.

    14

    Giải quyết vấn
    đề và sáng tạo
    Chủ động đề ra kế hoạch, cách thức giải quyết
    vấn đề, cách thức xử lí các vấn đề phát sinh một
    cách sáng tạo khi giải quyết vấn đề nhằm đạt
    được kết quả tốt nhất.

    1.2. Dạy học dựa trên dự án
    a. Khái niệm
    Dự án một kế hoạch cần được thực hiện trong điều kiện về thời gian,
    phương tiện tài chính, nhân lực, vật lực xác định nhằm đạt được mục đích đã đề
    ra. Trong dạy học dự án, người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp,
    có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu.
    Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá
    trình học.
    b. Dạy học dựa trên dự án có các đặc điểm sau:
    Định hướng thực tiễn: chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống
    của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm
    vụ của dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng
    nhận thức của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp
    phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong
    những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác
    động xã hội tích cực.
    Định hướng hứng thú người học: Người học được tham gia chọn đề tài,
    nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú
    của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
    Mang tính phức hợp, liên môn: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều
    lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề
    mang tính phức hợp.
    Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp
    giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn,
    15
    thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng
    như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
    Tính tự lực của người học: Trong dạy học theo dự án, người học cần tham
    gia tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi
    hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu
    đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp
    với kinh nghiệm, khả năng của người học và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
    Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm,
    trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên
    trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng
    cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với
    các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án.
    Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm
    được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số
    trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực
    tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu bằng
    nhiều hình thức khác nhau với các quy mô khác nhau.
    c. Cách tiến hành: Dạy học dựa trên dự án cần được tiến hành theo
    ba giai đoạn:
    Giai đoạn 1: Chuẩn bị dự án
    Đề xuất ý tưởng và chọn đề tài: Đề tài dự án có thể nảy sinh từ sáng kiến
    của GV, HS hoặc của nhóm HS. HS là người quyết định lựa chọn đề tài, nhưng
    phải đảm bảo nội dung phù hợp với mục đích học tập, phù hợp chương trình và
    điều kiện thực tế. Để thực hiện dự án, HS phải đóng những vai có thực trong xã
    hội để tự mình tìm kiếm thông tin và giải quyết công việc.
    Chia nhóm và nhận nhiệm vụ: GV chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các
    nhóm HS và những yếu tố khác liên quan đến dự án. Trong công việc này, GV
    là người đề xướng nhưng cũng cần tạo điều kiện cho HS tự chọn nhóm làm việc.
    Lập kế hoạch: GV hướng dẫn các nhóm HS lập kế hoạch thực hiện dự án,
    trong đó HS cần xác định chính xác chủ đề, mục tiêu, những công việc cần làm,
    kinh phí, thời gian và phương pháp thực hiện. Ở giai đoạn này, đòi hỏi ở HS tính
    tự lực và tính cộng tác để xây dựng kế hoạch của nhóm. Sản phẩm tạo ra ở giai
    đoạn này là bản kế hoạch dự án.
    16
    Giai đoạn 2: Thực hiện dự án
    Giai đoạn này, với sự giúp đỡ của GV, HS tập trung vào việc thực hiện
    nhiệm vụ được giao với các hoạt động: như đề xuất các phương án giải quyết và
    kiểm tra, nghiên cứu tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, trao đổi và hợp tác với
    các thành viên trong nhóm. Trong dự án, GV cần tôn trọng kế hoạch đã xây
    dựng của các nhóm, cần tạo điều kiện cho HS trao đổi, thu thập tài liệu, tìm
    kiếm thông tin. Các nhóm thường xuyên cùng nhau đánh giá công việc, chỉnh
    sửa để đạt được mục tiêu. GV cũng cần tạo điều kiện cho việc làm chủ hoạt
    động học tập của HS và nhóm HS, quan tâm đến phương pháp học của HS… và
    khuyến khích HS tạo ra một sản phẩm cụ thể, có chất lượng.
    Giai đoạn 3: Báo cáo và đánh giá dự án
    HS thu thập kết quả, công bố sản phẩm trước lớp. Sau đó, GV và HS tiến
    hành đánh giá. HS có thể tự nhận xét quá trình thực hiện dự án và tự đánh giá
    sản phẩm nhóm mình và đánh giá nhóm khác. GV đánh giá toàn bộ quá trình
    thực hiện dự án của HS, đánh giá sản phẩm và rút kinh nghiệm để thực hiện
    những dự án tiếp theo.
    Điều kiện sử dụng
    Để có thể áp dụng dạy học dựa trên dự án, GV cần lưu ý một số điểm như
    sau:
    Dạy học dựa trên dự án chỉ phù hợp để dạy học những nội dung gần gũi
    với thực tiễn cuộc sống, có nhiều nội dung thực hành. Các nội dung mang tính
    khoa học, lí thuyết thuần túy sẽ khó triển khai bằng dạy học dựa trên dự án.
    Dạy học dựa trên dự án đòi hỏi thời gian phù hợp. Tùy quy mô dự án, thời
    gian có thể kéo dài trong khoảng vài tiết học, tuần học… Vì thế, GV cần khéo
    léo sắp xếp khi xây dựng kế hoạch năm học trong bộ môn và nhà trường.
    Dạy học dựa trên dự án có ưu thế hình thành các phẩm chất chủ yếu và
    các năng lực chung như sau:
    Bảng mô tả ý nghĩa của dạy học dựa trên dự án với phẩm chất chủ yếu và
    năng lực chung của HS

    Phẩm
    chất
    Chăm chỉThường xuyên thực hiện và theo dõi việc thực
    hiện các nhiệm vụ được phân công trong dự án.

    17

    Trung thựcCó ý thức báo cáo chính xác, khách quan kết quả
    dự án đã thực hiện được.
    Trách nhiệmCó ý thức hoàn thành công việc mà bản thân
    được phân công, phối hợp với thành viên trong
    nhóm để hoàn thành dự án.
    Năng lực
    chung
    Tự chủ và tự
    học
    Tự lựa chọn đề tài dự án, tự phân công nhiệm vụ
    cho các thành viên trong nhóm, tự quyết định
    cách thức thực hiện dự án, tự đánh giá về quá
    trình và kết quả thực hiện dự án.
    Giải quyết
    vấn đề và
    sáng tạo
    Chủ động đề ra kế hoạch, cách thức thực hiện dự
    án, cách thức xử lí các vấn đề phát sinh một cách
    sáng tạo nhằm đạt được kết quả tốt nhất.
    Giao tiếp và
    hợp tác
    Tăng cường sự tương tác tích cực giữa các thành
    viên trong nhóm khi thực hiện dự án.

    18
    Vận dụng các lí luận về các bước DHDTDA, các bước được tiến hành
    thực hiện đối với môn GDCD GV sẽ gợi ý một số vấn đề của bài học liên quan
    đến thực tiễn và kích thích sự tò mò của học trò. Sau đó, GV và nhóm HS sẽ
    cùng nhau thảo luận vấn đề và lựa chọn ý tưởng có liên quan đến nội dung của
    bài học. Một ý tưởng tốt sẽ dẫn đến một dự án tốt. GV cũng cần xây dựng bộ
    câu hỏi định hướng để thu hút HS bao gồm các câu hỏi khái quát, câu hỏi bài
    học và câu hỏi nội dung. Từ những tiêu chí đó, lựa chọn một số bài sau để tiến
    hành DHDTDA và gợi ý một số dự án sau:
    -Ví dụ: Ở chủ đề 1 lớp 11: Cạnh tranh, cung, cầu trong kinh tế thị trường”,
    để làm rõ yêu cầu cần đạt: “Giải thích được nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh;
    Phân tích được vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế; Phê phán những biểu
    hiện của cạnh tranh không lành mạnh”. Nội dung dạy học là “nguyên nhân dẫn
    đến cạnh tranh; vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế” GV có thể yêu cầu HS
    thực hiện dự án sau “Cạnh tranh giữa công ti Coca Cola và Pepsico trên thị
    trường. Những tích cực và hạn chế”
    GV chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm khoảng 5-7 HS), căn cứ vào những
    thế mạnh của từng HS để cùng nhóm phân việc cho hợp lí.
    + Bước 2. Xây dựng đề cương dự án GV hướng dẫn HS xác định mục tiêu,
    nhiệm vụ, cách thức tiến hành, kế hoạch thực hiện, những công việc cần làm,
    nguồn kinh phí thực hiện… Đây là công việc hết sức quan trọng vì nó mang tính
    định hướng hành động cho toàn bộ quá trình thực hiện, kết quả thu thập và đánh
    giá dự án. Ngoài ra, GV cũng cần chuẩn bị cho HS những tài liệu cần thiết để
    hỗ trợ trong quá trình thực hiện dự án như các tài liệu kĩ thuật số, tài liệu giấy,
    các nguồn tài liệu thamkhảo…
    + Bước 3. Thực hiện dự án đối với GV: Thực hiện theo dõi quá trình thực hiện
    của HS như tìm kiếm thông tin, phân tích những thông tin đúng và giải quyết
    những câu hỏi mà HS gặp phải trong quá trình thực hiện, hỗ trợ những kiến thức
    có liên quan tới đề tài.
    + Đối với HS: Các nhóm phân công nhiệm vụ cho mỗi thành viên và các thành
    viên thực hiện kế hoạch đã đề ra. HS sẽ tiến hành thu thập, xử lí thông tin từ các
    nguồn khác nhau rồi tổng hợp, tích lũy kiến thức.
    + Bước 4. Thu thập kết quả và trình bày dự án. Đây chính là giai đoạn các nhóm
    HS đã hoàn thành dự án của mình và có thể đem ra sử dụng. Kết quả thực hiện
    19
    dự án có thể viết dưới dạng ấn phẩm (bản tin, báo, áp phích, thu hoạch, báo
    cáo…) và có thể được trình bày trên powerpoint, thiết kế trang website… Các
    nhóm HS cần được tạo điều kiện để trình bày kết quả cùng với kiến thức mới mà
    họ đã tích lũy thông qua dự án. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa
    các nhóm trong lớp, GV hướng dẫn, GV trong tổ bộ môn và Ban giám hiệu.
    + Bước 5. Đánh giá dự án, rút kinh nghiệm GV và HS đánh giá quá trình thực
    hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm được rút ra cho việc thực hiện các dự án
    tiếp theo. Việc đánh giá có thể gồm đánh giá của GV, các sản phẩm của dự án,
    bài kiểm tra… Đối với GV, cần tổ chức cho HS trình bày kết quả và tổ chức cho
    các nhóm trao đổi ý kiến, đặt các câu hỏi yêu cầu nhóm dự án giải trình, góp ý
    cho nhóm thực hiện hoàn thiện dự án cho HS. Đối với HS, cần phải bảo vệ có
    sức thuyết phục dự án của mình, giải trình lí do lựa chọn dự án, tính khả thi và
    khả năng áp dụng vào cuộc sống của dự án.
    Ứng dụng: Ở chủ đề 1 lớp 11-Cạnh tranh trong kinh tế thị trường

    Ý tưởng
    của dự án
    Coca Cola và Pepsico là 2 công ty xuyên quốc gia có chi nhánh đặt
    tại Việt Nam và cùng hoạt động trong lĩnh vực nước giải khát và
    đang chiếm thị phần tương đối lớn. Tuy nhiên, hai công ty Coca
    Cola và Pepsico luôn cạnh tranh lẫn nhau về mẫu mã, chất lượng và
    giá cả thậm chí còn tung ra những chiêu quảng cáo để dìm hàng đối
    thủ của mình. Vậy cuộc cạnh tranh này có tác động tích cực và tiêu
    cực như thế nào với nền kinh tế nói chung và người tiêu dùng nói
    riêng không chỉ ở Việt Nam và thế giới.
    Vị trí của
    dự án
    Dự án này gắn liền với nội dung Giáo dục kinh tế ở chủ đề 1 lớp 11:
    Cạnh tranh trong kinh tế thị trường. Trong dự án này sẽ tập trung
    nghiên cứu để làm rõ nguyên nhân, mặt tích cực và hạn chế của
    cạnh tranh trong nội bộ ngành. Dự án đã gắn những kiến thức trong
    môn GDCD, với thực tiễn đang diễn ra trên thị trường. Từ đó còn
    góp phần lí giải những cuộc cạnh tranh tương tự như giữa OMO và
    Tide,Trà Phúc Long và Stabuck
    Dự kiến
    thực hiện
    Dự án được thực hiện ở lớp 11 và được triển khai vào thời điểm
    học sinh bắt đầu học kỳ.
    Thời gian dự kiến thực hiện: 2 tuần.
    Dự kiến báo cáo: trung tuần tháng 9.

    20

    Xây dựng bộ câu hỏi định hướng
    Câu hỏi
    khái quát
    Tại sao Coca Cola và Pepsico lại được coi là cuộc cạnh tranh dài
    nhất trong lịch sử?
    Câu hỏi
    bài học
    Cạnh tranh giữa Coca Cola và Pepsico đã có mặt tích cực và hạn
    chế gì đến nền kinh tế?
    Câu hỏi
    nội dung
    1. Cuộc cạnh tranh giữa Coca Cola và Pepsico bắt đầu từ bao giờ?
    2. Nguyên nhân nào dẫn đến việc hai đối thủ này cạnh tranh với
    nhau?
    3. Cuộc cạnh tranh này có diễn ra ở một thị trường khu vực hay
    không?
    4. Biểu hiện của việc cạnh tranh giữa Coca Cola và Pepsico?
    5. Những mặt tích cực của việc cạnh tranh này là gì?
    6. Việc cạnh tranh này có để lại những mặt hạn chế hay không?
    7. Tại thị trường Việt Nam, Coca Cola và Pepsico đã có chiến lược
    gì để lôi kéo khách hàng về phía mình?
    Xây dựng
    đề cương
    dự án
    Xác định mục tiêu: Mục tiêu cơ bản của dự án là hình thành và
    phát triển ở học sinh năng lực tìm hiểu và tham gia các hoạt động
    kinh tế – xã hội, năng lực giải quyết vấn đề mà cụ thể là:
    Về yêu cầu cần đạt: Nêu được nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh,
    mục đích của cạnh tranh, tính hai mặt của cạnh tranh. Ngoài ra, còn
    nêu được những biểu hiện cụ thể của cạnh tranh đang diễn ra trên
    thị trường; Phân tích tình huống, phát hiện vấn đề, thu thập và xử lý
    thông tin có liên quan đến cuộc cạnh tranh của Pepsico và Coca
    Cola, ứng dụng công nghệ thông tin vào quay phim, thiết kế
    website, làm bài báo cáo và khả năng làm việc nhóm,
    thuyết phục người khác,…
    Chuẩn bị
    điều kiện
    thực hiện
    dự án
    + Giáo viên cần chuẩn bị: Phòng học có máy chiếu hoặc bảng tương
    tác, hệ thống âm thanh, các phiếu đánh giá, theo dõi dự án. Ngoài
    ra, giáo viên có thể tham khảo về chuyên môn của tổ chuyên môn,
    giáo viên tổ khác có liên quan, ban giám hiệu, ý kiến của chuyên
    gia,…

    21

    + Học sinh cần chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ thực hiện dự án như
    máy vi tính, máy ảnh, máy quay phim, …
    + Nguồn tài liệu hỗ trợ: Sách giáo khoa GDCD 11, các tài liệu hỗ
    trợ giáo viên và do giáo viên cung cấp, các nguồn internet
    như:http://news.zing.vn/cac-dau-moc-cuoc-chien-tram-nam-giua
    coca-cola-va-pepsi-post465884.html.
    Thực hiện
    dự án
    Học sinh làm việc theo nhóm đã lựa chọn theo kế hoạch và trong
    thời gian 2 tuần, ngoài giờ lên lớp. Giáo viên theo dõi, hỗ trợ nhóm
    qua điện thoại, email, facebook cá nhân và mỗi tuần trực tiếp đến
    mỗi nhóm để điều chỉnh.
    Trong tuần 1: Thu thập thông tin
    Giáo viên: Hướng dẫn học sinh thu thập thông tin từ website, phỏng
    vấn học sinh, thầy cô, người dân và chuyên gia để hoàn thiện về nội
    dung.
    Học sinh: Tìm và đọc những tài liệu liên quan đến dự án, nghiên
    cứu kĩ bài học, tìm hiểu thực tiễn tại các cửa hàng tạp hóa, siêu thị,
    hệ thống cụm rạp chiếu phim, tiệm thức ăn nhanh có liên kết với
    Coca Cola và Pepsico, sử dụng bảng hỏi trên drive của google,
    phỏng vấn trực tiếp,…để tập hợp, lựa chọn nội dung phù hợp.
    Tuần 2: Xây dựng và hoàn thiện các sản phẩm của dự án
    Giáo viên: Hướng dẫn học sinh thực hiện xây dựng các sản phẩm
    của dự án như bài báo cáo trên Powerpoint hoặc Prezi, tờ rơi, tờ
    poster giới thiệu buổi báo cáo, thiết kế website cập nhật thông tin về
    dự án và những bước thực hiện báo cáo quá trình thực hiện dự án,
    trình bày sản phẩm của nhóm trước lớp, giáo viên và những người
    quan tâm.
    Học sinh: Triển khai việc thiết kế các sản phẩm của dự án, trao đổi
    với giáo viên theo lịch để được góp ý cho bài hoàn thiện hơn. Ngoài
    ra, học sinh báo cáo với giáo viên về quá trình thực hiện dự án và
    chuẩn bị in tờ rơi, poster, hoàn thiện website, phân công nhiệm vụ
    trong buổi báo cáo như báo cáo viên, người hỗ trợ, người đọc tài
    liệu để trả lời câu hỏi từ phía nhóm khác, giáo viên và những người
    quan tâm.

    22

    Báo cáo
    và trình
    bày sản
    phẩm
    Giáo viên và nhóm dự án sẽ thống nhất dành 1 tiết lên lớp để nhóm
    dự án báo cáo quá trình thực hiện dự án và công bố sản phẩm thực
    hiện.
    Giáo viên: Tổ chức cho nhóm dự án lên bào cáo và trình bày sản
    phẩm của dự án, đặt câu hỏi cho nhóm dự án về những vấn đề có
    liên quan đến dự án.
    Học sinh: Nhóm dự án báo cáo quá trình thực hiện dự án bằng bản
    trình chiếu Powerpoint hoặc Prezi, giới thiệu website, Video phỏng
    vấn trực tiếp cho các nhóm dự án khác, giáo viên và những người
    quan tâm theo dõi. Nhóm dự án cũng phải trả lời và giải trình các
    câu hỏi có liên quan đến dự án mà nhóm thực hiện.
    Đánh giá
    dự án
    giữa các
    nhóm
    Sau khi nhóm dự án báo cáo và trình bày sản phẩm của mình, giáo
    viên và nhóm dự án, các nhóm dự án khác sẽ tiến hành đánh giá dự
    án thông qua nhận xét, đánh giá bằng phiếu đánh giá, phiếu quan
    sát,…
    Học sinh: Tiến hành tự đánh giá phần làm việc của nhóm và đánh
    giá từng thành viên trong nhóm về khả năng hợp tác.
    Giáo viên: Hướng dẫn cho học sinh tự đánh giá và đánh giá nhóm
    dự án dựa vào các mục tiêu đề ra, các tiêu chí của sản phẩm dự án,
    phiếu đánh giá để đánh giá nhóm, đánh giá cá nhân.
    RUBRIC ĐÁNH GIÁ TỜ GẤP QUẢNG CÁO
    Nội dungĐầy đủThiếu ýSơ sài
    1.5 – 2.51.5 – 2.50.5 – 1 điểm
    Hình thức
    trình bày
    Đẹp, bắt mắt
    dễ xem, ấn
    tượng
    Đẹp, không
    ấn tượng
    Không đẹp,
    khó xem
    2 điểm1 – 1.5 điểm0.5 điểm

    23

    Khả năng
    làm việc theo
    nhóm
    Phối hợp tốtChưa tốtCó 1 – 2 n
    thực hiện
    ười
    2 điểm1 – 1.5 điểm0.5 điểm
    Tính sáng
    tạo
    Ý tưởng nhiều,
    tốt
    Ít ý tưởngMượn ý tưởng
    2 điểm1 – 1.5 điểm0.5 điểm
    RUBRIC ĐÁNH GIÁ TRANG WEB TỰ THIẾT KẾ
    Nội dung webĐầy đủThiếu ýSơ sài
    3 – 4 điểm1,5 – 2,5 điểm0,5 -1 điểm
    Cách trang trí
    web
    ĐẹpTương đốiChưa đẹp
    2 điểm1 – 1,5 điểm0,5 điểm
    Liệt kê các
    trang web khác
    Nhiều trangTừ 2 trang trở
    xuống
    Không liên
    trang web
    kết
    2 điểm1 – 1,5 điểm0,5 điểm
    Khả năng
    quảng
    cáo sản phẩm
    Lôi cuốn,
    hút
    Tương đốiChưa qu
    cáo được
    phẩm
    ảng
    sản
    2 điểm1 – 1,5 điểm0,5 điểm
    RUBRIC ĐÁNH GIÁ VIDEO

    24

    Nội dungSáng tạo, hấp
    dẫn
    Sáng tạo, thiếu
    hấp dẫn
    Sơ sài, khô
    hấp dẫn
    ng
    3 – 4 điểm1,5 – 2,5 điểm0,5 – 1 điểm
    Chất lượngĐẹp, rõ
    hấp dẫn
    Đẹp, rõ ràng,
    thiếu hấp dẫn
    Không đẹp,
    ràng, hấp d

    ẫn
    2 điểm1 – 1,5 điểm0,5 điểm
    Khả năng hoàn
    thiện sản phẩm
    Hoàn thiện đầy
    đủ
    Hoàn thiện một
    phần
    Không
    hoàn thiện
    thể
    2 điểm1 – 1,5 điểm0,5 điểm

    1.3. Dạy học cho học sinh thông qua sinh hoạt câu lạc bộ
    môn học theo chủ đề môn học.
    Theo quy định của Bộ Giáo dục, chương trình môn học, mỗi năm môn
    GDCD có 4 buổi sinh hoạt câu lạc bộ môn học vì vậy tôi luôn lựa chọn nội dung
    giáo dục pháp luật giao thông trong các chủ đề sinh hoạt vì hiệu quả mà nội
    dung mang lại cho học sinh là rất lớn. Tôi lập kế hoạch, xây dựng nội dung,
    chương trình sinh hoạt câu lạc bộ môn học.
    Các nội dung sinh hoạt câu lạc bộ do giáo viên và học sinh xây dựng như
    sau:
    25
    26
    27
    28
    29
    30
    31
    32
    33
    Một số tấm gương tiêu biểu trong học tập và làm theo
    tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh
    34
    1.4. Dạy học trải nghiệm sáng tạo ngoài không gian lớp học dự phiên
    tòa xét xử vi phạm luật giao thông đường bộ tại Tòa án nhân dân huyện
    Hải Hậu đạt được hiệu quả giáo dục cao trong giáo dục pháp luật cho học
    sinh

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Sử dụng Kĩ thuật mảnh ghép trong dạy học tích hợp phòng chống tham nhũng trong môn Giáo dục công dân ở trường THPT

    SKKN Sử dụng Kĩ thuật mảnh ghép trong dạy học tích hợp phòng chống tham nhũng trong môn Giáo dục công dân ở trường THPT

    Trong thời kì hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa như hiện nay, để đáp ứng
    được với yêu cầu của tình hình mới, để tạo ra được nguồn nhân lực có trình độ,
    có chất lượng, đặc biệt là để tạo ra những người công dân mới hội tụ đầy đủ năm
    phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm đòi hỏi nền
    giáo dục nước ta cần tăng cường và tích cực đổi mới.
    Cùng với việc đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là
    khâu hết sức quan trọng trong quá trình dạy và học. PPDH được hiểu là cách
    thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên và học sinh trong những điều
    kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học. Đổi mới PPDH là công
    cụ quyết yếu góp phần thực hiện mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo
    dục.
    Trường trung học phổ thông (THPT) với mục tiêu đào tạo, hình thành và
    phát triển toàn diện nhân cách cho thế hệ trẻ – những công dân tương lai, những
    người lao động mới phát triển hài hòa trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, thẩm
    mỹ và biết quý trọng lao động. Yêu cầu khách quan đó được quán triệt trong tất
    cả các chương trình và nội dung học tập của các môn nói chung, trong đó có
    môn giáo dục công dân (GDCD). Cùng với các môn khoa học khác, môn GDCD
    góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động mới, vừa có tri thức khoa học
    vừa có đạo đức, có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư
    tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, với chính bản thân mình. Hơn
    nữa, môn GDCD không chỉ cung cấp cho những công dân tương lai những tri
    thức vừa khái quát hóa, mà còn thông qua môn học giúp cho người học hình
    thành và phát triển phương pháp suy nghĩ và hành động phù hợp với những điều
    kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, của
    xã hội. Trong sứ mệnh cao cả của giáo dục, ngành giáo dục có nhiệm vụ quan
    trọng với sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình
    thành ý thức chấp hành pháp luật trong công dân, chống lại những biểu hiện
    tham nhũng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
    Giáo dục cho học sinh nội dung, ý thức phòng chống tham nhũng (PCTN)
    không chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành giáo dục mà còn góp phần trực
    tiếp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục.
    Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa nội dung PCTN
    vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo từ năm học 2013 – 2014, Bộ Giáo
    dục và Đào tạo đã đưa ra yêu cầu và hướng dẫn cụ thể việc tích hợp nội dung
    giáo dục PCTN trong môn học Giáo dục công dân cấp Trung học phổ thông.
    Việc tích hợp này nhằm trang bị cho học sinh trung học phổ thông những kiến
    thức về phòng, chống tham nhũng, qua đó nâng cao nhận thức cho học sinh về
    mục đích, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xây dựng được
    thái độ, ý thức đấu tranh, bài trừ tệ nạn tham nhũng trong xã hội.
    Thực tế cho thấy vấn đề đổi mới PPDH đã được triển khai từ lâu với nhiều
    hình thức và quy mô khác nhau. Tuy nhiên việc dạy và học môn GDCD vẫn chủ
    yếu được thực hiện theo phương pháp truyền thống, truyền thụ một chiều, học
    sinh hoàn toàn thụ động khi tiếp thu kiến thức, dẫn đến việc học trước quên sau.
    Đặc biệt là trong quá trình tích hợp PCTN, các mục tiêu đó, nội dung giáo dục
    PCTN được đưa vào dạy học trong các trường trung học phổ thông tập trung là:
    Khái niệm tham nhũng; những biểu hiện của tham nhũng; nguyên nhân, tác hại
    của tham nhũng đối với nhà nước và xã hội; thái độ ứng xử của học sinh đối với
    hành vi tham nhũng ít được chú ý, dễ dẫn đến tình trạng học sinh học xong mà
    vẫn không hiểu rõ. Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi đã xây dựng sáng kiến
    “Sử dụng kĩ thuật dạy học “Mảnh ghép” trong dạy học tích hợp phòng
    chống tham nhũng môn Giáo dục công dân ở trƣờng trung học phổ thông”
    với mong muốn trao đổi, chia sẻ với các đồng nghiệp đang giảng dạy môn
    GDCD, góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy và học tích hợp
    PCTN tại nơi chúng tôi đang công tác.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến :
    Trường THPT Ngô Quyền đã đưa nội dung tích hợp PCTN vào giảng dạy
    trong môn GDCD được nhiều năm học. Đây là một chương trình hay, được biên
    soạn hấp dẫn, phong phú, khoa học, nội dung đa dạng mà gần gũi, chú trọng
    phát triển toàn diện các nhận thức, kĩ năng, kiến thức về PCTN cho người học.
    Song nếu không đổi mới, không áp dụng các PPDH tích cực, giáo viên có thể sẽ
    rơi vào lối mòn cũ, dạy theo phương pháp truyền thống, thụ động dẫn đến hiệu
    quả việc dạy học tích hợp không đem lại hiệu quả.
    Tại trường THPT Ngô Quyền Một số tiết dạy vẫn được thực hiện theo
    phương pháp truyền thống. Nguyên nhân là do công tác đánh giá học sinh vẫn
    chủ yếu dựa trên kết quả của các bài kiểm tra đối với học sinh khối 10, 11 và các
    kì thi đối với học sinh lớp 12 nên trong quá trình giảng dạy, giáo viên chủ yếu
    tập trung vào dạy kiến thức để giúp học sinh đáp ứng được yêu cầu của các kì
    thi. Trong khi đó, đối tượng học sinh không đồng đều. Đa số học sinh có tâm lí
    coi môn GDCD là môn phụ, là môn xét tốt nghiệp là chính nên thường lơ là, ít
    chú ý trong giờ học. Tình trạng này làm cho một số giáo viên e dè, ngại đổi mới
    và chậm đổi mới.
    PPDH truyền thống là cách thức dạy học quen thuộc, được truyền qua
    nhiều thế hệ. Phương pháp này lấy hoạt động của người thầy làm trung tâm, là
    người thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri thức sống”. Học sinh là người nghe,
    ghi chép và nhớ máy móc hoặc thầy phát vấn, trò trả lời. Phương pháp này có ưu
    điểm là trong thời gian ngắn, giáo viên có thể truyền đạt được một khối lượng
    lớn các nội dung kiến thức, chủ động được thời gian và kế hoạch dạy học song
    lại làm học sinh dễ mệt mỏi, không hứng thú chủ động tích cực học tập, ít tư duy,
    ít thực hành, ít được rèn luyện các kĩ năng, hiệu quả giáo dục rèn luyện kiến
    thức kĩ năng sống cho học sinh không cao.
    Qua áp dụng thực tế cho thấy, kĩ thuật dạy học “mảnh ghép” là một kĩ
    thuật dạy học tích cực giúp học sinh hứng thú, tích cực, tự giác và tự tin tham
    gia hoạt động học tập.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Thực trạng sử dụng kĩ thuật mảnh ghép trong dạy môn GDCD
    Kĩ thuật dạy học “mảnh ghép” là một kĩ thuật hoàn toàn phù hợp và đáp
    ứng được yêu cầu của đổi mới và không còn xa lạ với người dạy. Tuy nhiên cho
    đến nay, kĩ thuật này chủ yếu được áp dụng ở một số môn khoa học xã hội như
    môn văn, môn địa lí, lịch sử, chưa được chú ý áp dụng nhiều trong dạy học
    GDCD.
    Kĩ thuật dạy học mảnh ghép đòi hỏi giáo viên phải tổ chức sắp xếp bàn ghế
    sao cho phù hợp với hoạt động, số lượng học sinh trong một lớp không quá đông.
    Điều này phần nào còn gây khó khăn khiến cho giáo viên ngại thực hiện.
    2.2. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
    2.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
    Khi nghiên cứu đề tài này, tôi đã thực hiện những nhiệm vụ sau:
    a. Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo, các tài liệu hướng dẫn dạy và học tích
    hợp PCTN trong môn GDCD ở nhà trường phổ thông.
    b. Tìm hiểu nghiên cứu các kĩ thuật dạy học tích cực, mà trọng tâm là kĩ
    thuật “mảnh ghép”.
    c. Áp dụng thử nghiệm.
    d. Dạy dự giờ, lấy phiếu ý kiến giáo viên dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm
    e. Quan sát thái độ của học sinh trong quá trình tham gia vào hoạt động học
    tập.
    f. Phân tích kết quả học tập của học sinh.
    2.2.2 Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu:
    Đề tài xoay quanh việc sử dụng kĩ thuật “mảnh ghép” vào dạy học tích
    hợp PCTN môn GDCD nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục
    công dân tại nơi công tác.
    Đối tượng nghiên cứu áp dụng đề tài là học sinh lớp 12A3 và lớp 10A1
    trường THPT Ngô Quyền (năm học 2021 – 2022)
    2.2.3 Mục đích nghiên cứu:
    Với mục đích tìm hiểu, áp dụng kĩ thuật dạy học “mảnh ghép” nhằm tìm ra
    PPDH hiệu quả, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của trường nơi đang công
    tác, đồng thời từng bước góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tích hợp
    PCTN trong trường THPT Ngô Quyền, dần đáp ứng mục tiêu của đề án đưa nội
    dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
    (gọi tắt là Đề án 137) từ năm học 2013 – 2014 tại các cơ sở giáo dục, đào tạo (từ
    cấp trung học phổ thông trở lên).
    Hi vọng sáng kiến khi được áp dụng sẽ góp phần giúp cho học sinh đam mê,
    hứng thú với bộ môn GDCD hơn, phát huy được năng lực toàn diện của học
    sinh: sự chủ động, tích cực tự học, khả năng làm việc nhóm, hợp tác giải quyết
    vấn đề, và khả năng thuyết trình trước đám đông. Đồng thời nâng cao kiến thức
    hiểu biết về nội dung tham nhũng, góp phần cho việc học môn GDCD của học
    sinh đạt hiệu quả, chất lượng.
    2.2.4 Phƣơng pháp nghiên cứu:
    a. Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết : nghiên cứu các văn bản,
    tài liệu về đổi mới, các tài liệu dạy học tích hợp theo PPDH tích cực.
    b. Phương pháp thực nghiệm : giáo viên tiến hành dạy thử nghiệm
    c. Phương pháp quan sát : quan sát học sinh thực hành trong các giờ học,
    đặc biệt là sự tham gia của từng cá nhân, thái độ của các em khi tham gia và sự
    tiến bộ của học sinh
    d. Phương pháp phân tích tổng kết đúc rút kinh nghiệm: tiến hành dạy mẫu
    cho tổ dự giờ, thông qua đó trao đổi, tổng kết rút ra kinh nghiệm.
    e. Phương pháp phân tích số liệu: so sánh kết quả kiểm tra chất lượng của
    hai lớp dạy học kì 1 và học kì 2
    2.3. Thế nào là kĩ thuật “mảnh ghép”?
    Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các
    nhóm nhằm:
    – Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề)
    – Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh.
    – Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành
    nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành
    nhiệm vụ ở Vòng 2).
    – HS được phân thành các nhóm, sau đó GV phân công cho mỗi nhóm thảo luận,
    tìm hiểu sâu về một vấn đề của bài học. Chẳng hạn: nhóm 1- thảo luận vấn đề A,
    nhóm 2- thảo luận vấn đề B, nhóm 3- thảo luận vấn đề C, nhóm 4- thảo luận
    thảo luận vấn đề D,….
    – HS thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công
    – Sau đó, mỗi thành viên của các nhóm này sẽ tập hợp lại thành các nhóm mới,
    như vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có đủ các “chuyên gia” về vấn đề A, B, C,
    D,…và mỗi “ chuyên gia” về từng vấn đề sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả
    nhóm về vấn đề mà em đã có cơ hội tìm hiểu sâu ở nhóm cũ.
    2.4. Cách tiến hành kĩ thuật “Mảnh ghép”
    Bƣớc 1: Chia nhóm
    – Chia lớp thành các nhóm từ 4 đến 8 học sinh hoặc hơn tùy vào số lượng
    của học sinh cụ thể mỗi lớp.
    – Mỗi học sinh ngồi vào vị trí của mình để thực hiện nhiệm vụ (cách xếp 2
    bàn ghép học sinh quay vào nhau là thuận tiện nhất cho việc trao đổi, thảo luận)
    Bƣớc 2: Giao nhiệm vụ vòng 1: Nhóm chuyên gia – làm việc độc lập
    Nhiệm vụ của từng nhóm phải được giao cụ thể, cần xác định rõ mục tiêu
    của hoạt động
    VÒNG 1: Nhóm chuyên gia
    – Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 người [số nhóm được chia = số chủ đề x n (n =
    1,2,…)]
    – Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ [Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2:
    nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C, … (có thể có nhóm cùng nhiệm vụ)]
    – Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng thời gian tùy theo quy định của
    giáo viên, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình vào
    phiếu học tập.
    – Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả
    lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành “chuyên
    gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm
    ở vòng 2.
    Vòng 1: nhóm chuyên gia
    Giáo viên phát phiếu học tập và hướng dẫn để học sinh làm việc cá nhân
    Kỹ thuật ” mảnh ghép”
    Bƣớc 3: Di chuyển lập thành nhóm mảnh ghép – vòng 2
    VÒNG 2: Nhóm các mảnh ghép
    – Hình thành nhóm 3 đến 6 người mới hoặc theo sĩ số lớp (1 – 2 người từ nhóm
    1, 1 – 2 người từ nhóm 2, 1 – 2 người từ nhóm 3…)
    – Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới
    chia sẻ đầy đủ với nhau
    – Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở vòng 1
    thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết
    – Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả
    Học sinh di chuyển tạo ra các nhóm mảnh ghép
    * Một số lƣu ý với kĩ thuật “Mảnh ghép” khi cho học sinh di chuyển tạo
    nhóm mới.
    – Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với nhiều chủ đề nhỏ trong tiết học,
    học sinh được chia nhóm ở vòng 1 (chuyên gia) cùng nghiên cứu một chủ đề.
    – Phiếu học tập mỗi chủ đề nên sử dụng trên giấy cùng màu có đánh số 1,2,…,n
    (nếu không có giấy màu có thể đánh thêm kí tự A, B, C, … . Ví dụ A1, A2, …
    An, B1, B2, …, Bn, C1, C2, …, Cn).
    – Sau khi các nhóm ở vòng 1 hoàn tất công việc giáo viên hình thành nhóm mới
    (mảnh ghép) theo số đã đánh, có thể có nhiều số trong 1 nhóm mới. Bước này
    phải tiến hành một cách cẩn thận tránh làm cho học sinh ghép nhầm nhóm.
    – Trong điều kiện phòng học hiện nay việc ghép nhóm vòng 2 sẽ gây mất trật tự,
    mất thời gian nhất là với tiết học đầu tiên mà lớp được thực hiện kĩ thuật này.
    Nếu thực hiện nhiều lần thì học sinh sẽ quen và sẽ di chuyển nhanh hơn, không
    nhầm nhóm.
    Bƣớc 4: Báo cáo kết quả
    Đại diện của nhóm trình bày hoặc lần lượt từng cá nhân trình bày ý kiến
    riêng của mình từ kết quả làm việc tại vòng 1- chuyên gia. Bản thân tôi thường
    yêu cầu học sinh lên bảng trình bày trước lớp để rèn cho học sinh kĩ năng thuyết
    trình trước đám đông cũng như sử dụng ngôn ngữ. Thỉnh thoảng tôi có áp dụng
    hình thức trình bày trước nhóm. Giáo viên sẽ đi quanh quan sát và giúp đỡ nếu
    cần.
    Bƣớc 5: Tổng kết
    – Hoạt động tổng kết theo hình thức nào tùy thuộc vào yêu cầu của từng
    hoạt động
    VD: Với trường hợp thuyết trình trước lớp, tôi thường yêu cầu cả lớp nhận
    xét sau đó giáo viên tổng kết vấn đề.
    Tuy nhiên trong quá trình áp dụng, tôi luôn cố gắng tìm tòi thay đổi hình thức
    một chút hoặc lồng ghép với các kĩ thuật khác để tạo hứng thú cho học sinh.
    Dưới đây là những gì tôi đã áp dụng vào trong giảng dạy và đúc rút kinh
    nghiệm.
    2.5. Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép vào dạy tích hợp phòng chống tham
    nhũng trong môn giáo dục công dân trung học phổ thông
    2.5.1. Lợi ích của việc sử dụng kĩ thuật “mảnh ghép” vào dạy tích hợp
    phòng chống tham nhũng trong môn giáo dục công dân trung học phổ
    thông
    Học sinh là trung tâm, chủ thể của hoạt động học tập khi tham gia vào
    hoạt động kĩ thuật “Mảnh ghép”
    Nếu như PPDH truyền thống, người dạy là trung tâm, hoạt động truyền thụ
    chiếm ưu thế, người học thụ động tiếp thu kiến thức thì ở PPDH tích cực sử
    dụng kĩ thuật “mảnh ghép” học sinh trở thành trung tâm, chủ thể của hoạt động
    học tập. Người dạy có vai trò đưa ra các tình huống nhiệm vụ, tư vấn chỉ dẫn
    định hướng cho học sinh. Học sinh tự tìm tòi nghiên cứu, vận dụng để giải quyết
    vấn đề của cá nhân và cùng nhau trao đổi hợp tác giải quyết vấn đề của nhóm, tự
    giác chủ động hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Không có tình trạng đọc
    chép, diễn thuyết một chiều, mà ở đây dạy học được thực hiện theo hướng phát
    huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Tuy nhiên với một lớp học
    đông, trình độ không đồng đều thì người giáo viên phải nỗ lực rất nhiều so với
    dạy theo phương pháp thụ động.
    Kĩ thuật mảnh ghép phát triển năng lực làm việc cá nhân kết hợp với
    năng lực làm việc nhóm
    Có thể thấy rằng, “mảnh ghép” là một kĩ thuật dạy học đơn giản, dễ thực
    hiện, có thể tổ chức trong tất cả các bài học, môn học, cấp học giống như học
    theo nhóm. Tuy nhiên kĩ thuật này khắc phục được những hạn chế của học theo
    nhóm.
    Trong học theo nhóm, nếu tổ chức không tốt, đôi khi chỉ có các thành viên
    tích cực làm việc, một số thành viên thụ động thường hay ỷ lại, trông chờ, “nghỉ
    ngơi” như người ngoài cuộc hoặc như một quan sát viên thì dẫn đến mất nhiều
    thời gian và hiệu quả học tập không cao.
    Trong kĩ thuật mảnh ghép đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá
    nhân. Mỗi cá nhân phải làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy
    nghĩ trả lời câu hỏi hay hoàn thành nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của
    mỗi cá nhân và viết vào phần phiếu học tập của mình được phát. Trên cơ sở
    những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến. Như
    vậy, hoạt động này đã khuyến khích năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề của
    học sinh, đồng thời tăng khả năng làm việc nhóm – một kĩ năng không thể thiếu
    của thời đại công nghệ 4.0.
    Ở hoạt động “mảnh ghép”, các cuộc thảo luận thường có sự tham gia của
    tất cả các thành viên và các thành viên có cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của
    mình, tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy
    hiệu quả học tập được nâng cao, không khí học tập sôi nổi nhưng giáo viên vẫn
    kiểm soát được lớp.
    Kĩ thuật mảnh ghép kích thích học sinh hứng thú tham gia vào các
    hoạt động học tập
    Có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được vai trò quan trọng của hứng thú
    trong quá trình học tập. Theo P.A. Rudich, trong hoạt động học tập và nghiên
    cứu, sự xuất hiện hứng thú là đặc biệt quan trọng. Hidi, (1990) cho rằng hứng
    thú là một yếu tố thúc đẩy quá trình học tập, giúp người học đạt được kết quả
    học tập tốt hơn. Theo ông, hứng thú cá nhân giúp người học tăng cường sự tập
    trung, gợi nhớ lại kiến thức, tính kiên nhẫn đối với bài tập được giao và sự nỗ
    lực để đạt được mục đích (Ainley, Hidi & Berndorff, 2002; Hidi, 1990; Hidi &
    Renninger, 2006).
    Hứng thú kích thích hoạt động của học sinh, làm cho người học say mê, từ
    đó đem lại hiệu quả cao trong hoạt động của mình. Hoạt động nào có hứng thú
    cao hơn, người thực hiện nó một cách dễ dàng, có hiệu quả cao, tạo ra xúc cảm
    tích cực mạnh mẽ đối với người tiến hành hoạt động đó. Họ sẽ tìm thấy niềm vui
    trong hoạt động, hoạt động sẽ trở nên nhẹ nhàng, ít tốn công sức hơn, có sự tập
    trung cao. Ngược lại, nếu giáo viên chỉ tiến hành hoạt động theo lối mòn truyền
    thụ tri thức một chiều, không đổi mới sáng tạo thì học sinh sẽ cảm thấy gượng
    ép, hoạt động trở nên nặng nhọc, khó khăn làm cho họ chán nản, mệt mỏi, chất
    lượng hoạt động giảm rõ rệt. Hứng thú học tập có ý nghĩa rất lớn đến kết quả
    học tập của học sinh. Usinxki cho rằng: “Trong học tập không có hứng thú mà
    chỉ dùng sức mạnh của sự cưỡng ép, nó sẽ làm cho óc sáng tạo của người ta
    ngày thêm mai một, nó sẽ làm cho người ta ngày một thờ ơ”.
    Qua nghiên cứu người thực hiện muốn khẳng định rằng: kĩ thuật dạy học
    mảnh ghép từ chỗ phát huy tính tự học sáng tạo của học sinh đã dần tạo hứng
    thú cũng như động lực học tập cho học sinh, giúp học sinh cảm thấy thoải mái tự
    tin sẵn sàng tham gia và hoàn thành nhiệm vụ.
    Kĩ thuật mảnh ghép tạo cơ hội cho học sinh rèn kĩ năng nói, đặc biệt
    là khả năng thuyết trình trước đám đông.
    Trong thời kì hội nhập quốc tế như hiện nay, có rất nhiều công việc, vị trí
    đòi hỏi người lao động phải có khả năng sử dụng vốn từ để giải quyết công việc
    hàng ngày cũng như để giao tiếp. Có rất nhiều các nhà tuyển dụng đều áp dụng
    việc tìm kiếm nhân viên bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp, mặt đối mặt. Vì
    vậy, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần quan tâm chú trọng đến việc rèn
    cho học sinh kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp và kĩ năng thuyết trình. Kĩ năng nói
    là một kĩ năng vô cùng quan trọng góp phần vào sự thành công của một quá
    trình giao tiếp. Qua quá trình áp dụng, bản thân tôi đã nhận thấy rõ, ở các tiết
    học có sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, học sinh không chỉ có viết mà còn được
    thực hành nói với nhóm, được trao đổi thảo luận và được báo cáo, thuyết trình
    kết quả làm việc của mình trước nhóm cũng như trước lớp. Thông qua hoạt động
    tích cực này, học sinh tự tin hơn khi giao tiếp, đặc biệt là thuyết trình trước đám
    đông.
    Kĩ thuật mảnh ghép giúp giáo viên kiểm tra đánh giá được năng lực
    học tập của từng học sinh, từ đó từng bước điều chỉnh PPDH phù hợp
    Có thể thấy rằng, đổi mới PPDH và đổi mới KTĐG là hai hoạt động có liên
    quan chặt chẽ với nhau. Đổi mới KTĐG là động lực đổi mới PPDH, vừa giữ vai
    trò động lực thúc đẩy quá trình dạy học lại vừa có vai trò “bánh lái” giúp giáo
    viên điều chỉnh phương pháp dạy và giúp học sinh thay đổi phương pháp học tập
    để phù hợp với hình thức, phương pháp kiểm tra nhằm đạt kết quả cao.
    Kĩ thuật mảnh ghép không chỉ là công cụ giúp học sinh hứng thú học tập
    mà còn là một kênh giúp giáo viên kiểm tra đánh giá năng lực học tập môn học
    GDCD của học sinh, phân loại được đối tượng học sinh. Hoạt động dạy và học
    luôn cần có thông tin phản hồi để điều chỉnh kịp thời nhằm tạo ra hiệu quả ở
    mức cao nhất thể hiện ở chất lượng học tập của học sinh. Kiểm tra thường xuyên
    giúp cho giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy học, đồng thời giúp cho học
    sinh hình thành được động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Kĩ thuật dạy học tích
    cực “mảnh ghép” đã làm tốt vai trò này.
    2.5.2. Nội dung minh họa các hoạt động có sử dụng kĩ thuật “Mảnh
    ghép” trong các tiết học tích hợp phòng chống tham nhũng của môn Giáo
    dục công dân
    BÀI 7: CÔNG DÂN VỚI CÁC QUYỀN DÂN CHỦ
    Môn: GDCD; Lớp: 12
    Tiết 3: Quyền khiếu nại và tố cáo
    I. Mục đích yêu cầu
    1. Năng lực đặc thù.
    Học sinh bài học này, học sinh có
    Năng lực điều chỉnh hành vi: Học sinh hiểu được khái niệm, nội dung cơ
    bản về quyền khiếu nại, tố cáo; phân tích đánh giá được các hành vi thực hiện
    đúng quyền khiếu nại, tố cáo của bản thân và người khác. Phê phán những hành
    vi vi phạm, không thực hiện đúng quyền khiếu nại và tố cáo của công dân.
    Năng lực tìm hiểu và tham gia các hoạt động kinh tế – xã hội: Phân tích
    đánh giá việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Tham gia và vận
    động mọi người thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
    2. Phẩm chất:
    Thông qua việc giảng dạy sẽ góp phần hình thành, phát triển cho học
    sinh các phẩm chất như:
    Trung thực: Thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của bản thân. Khiếu nại,
    tố cáo phải trung thực. Không được lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, làm hại
    người khác.
    Trách nhiệm: Tích cực thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo khi lợi ích của bản
    thân bị xâm phạm, khi cần bảo vệ các lợi ích hợp pháp của cộng đồng, của
    người khác, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.
    3. Nội dung tích hợp môn GDCD: tích hợp phòng chống tham nhũng vào
    nội dung quyền tố cáo.
    II. Thiết bị dạy học và học liệu
    – Sách giáo khoa, sách giáo viên Giáo dục công dân.
    – Thiết kế bài giảng Giáo dục công dân , NXB. Hà Nội, 2007, Hồ Thanh Diện:
    – Vũ Hồng Tiến – Trần Văn Thắng – Nguyễn Thị Hoa: Tình huống Giáo dục
    công dân, NXB. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh, 2008.
    – Dùng các dụng cụ dạy học trực quan như sơ đồ tư duy, máy chiếu, bảng
    phụ, bút dạ….
    – Băng đĩa, vi deo về một số nội dung liên quan đến bài học
    – Bộ luật Hình sự; Luật bầu cử; Luật khiếu nại, tố cáo….
    V. TỔ CHỨC DẠY HỌC
    a. Mục tiêu:
    – Kích thích HS tìm hiểu xem các em đã biết gì về quyền khiếu nại, tố cáo
    của công dân.
    – Rèn luyện năng lực tư duy cho HS
    b. Nội dung: Học sinh trả lời các câu hỏi qua phần thi Lật tranh tìm chữ
    c. Sản phẩm: học sinh giải đáp được các câu hỏi, kích thích hứng thú học tập
    của HS về chủ đề khiếu nại, tố cáo.
    1. Khởi động:
    d. Cách tiến hành:
    – GV: nêu thể lệ của trò chơi Lật tranh tìm chữ trên máy chiếu: học sinh dựa
    vào các hình ảnh gợi ý để trả lời nhanh các câu hỏi. Học sinh giơ tay trả lời.
    Câu 1: Kênh liên lạc của các cá nhân, tổ chức để người dân kịp thời phản
    ánh các thông tin được gọi là.
    Đáp án: Đường dây nóng
    Câu 2: An ninh ti vi có một chuyên mục chuyên đề tìm hiểu sự thật về các
    vấn đề nóng của xã hội, đó chính là Điều tra qua ……………………..
    Đáp án: Điều tra qua thư khán giả
    Câu 3: Hành vi của một người biết rõ một tội phạm đang được chuẩn bị,
    đang hoặc đã được thực hiện mà không báo với cơ quan có thẩm quyền thì có
    thể bị khởi tố về tội gì?
    Đáp án: Tội không tố giác tội phạm
    Câu 4: Khi không đồng ý với điểm bài thi tốt nghiệp đã được công bố, em
    có thể làm đơn gì?
    Đáp án: Đơn phúc khảo bài thi.
    – HS trả lời
    – GV: chính xác hóa đáp án và dẫn dắt vào bài mới: tất cả các đáp án: đường
    dây nóng, điều tra qua thư khán giả, tội không tố giác tội phạm, đơn phúc khảo
    bài thi đều hướng đến nội dung quyền dân chủ: khiếu nại, tố cáo.
    2. Hoạt động hình thành kiến thức

    Hoạt động cơ bản của giáo viên và HSNội dung bài học
    Hoạt động 1: Tìm hiểu quyền khiếu nại, tố
    cáo của công dân
    a) Mục đích: Giúp học sinh hiểu được thế nào
    là khiếu nại, tố cáo
    b) Nội dung: Học sinh tiến hành hành làm việc
    cá nhân để giải quyết một số vấn đề liên quan
    đến bài học mà giáo viên đưa ra, ghi lại các kết
    quả học sinh trả lời theo yêu cầu của giáo viên
    c) Sản phẩm: Thấy được khiếu nại, tố cáo là
    quyền dân chủ của công dân gắn với hình thức
    dân chủ trực tiếp, quyền này đã được ghi nhận
    trong hiến pháp và pháp luật.
    d) Cách thức tiến hành:
    – GV: sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép
    để tổ chức cho học sinh tìm hiểu toàn bộ nội
    dung quyền khiếu nại, tố cáo.
    – Chuyển giao nhiệm vụ học tập:
    Chia lớp học thành 3 nhóm và thực hiện kĩ
    thuật dạy học mảnh ghép theo hai vòng
    Vòng 1: nhóm chuyên gia (cả nhóm cùng
    chung một nhiệm vụ nhưng làm việc cá nhân)
    Phiếu học tập số 1: Nêu khái niệm và mục
    đích của khiếu nại, tố cáo. Lấy ví dụ về khiếu
    nại và tố cáo?
    Phiếu học tập số 2: Chủ thể nào có quyền
    được khiếu nại, được tố cáo. Vì sao có sự khác
    nhau đó. Chủ thể nào có quyền giải quyết
    khiếu nại, tố cáo.
    Phiếu học tập số 3: Quy trình giải quyết khiếu
    nại và giải quyết tố cáo gồm mấy bước. Nội
    dung chính của các bước đó là gì?
    Các học sinh trong nhóm làm việc cá nhân,
    điền câu trả lời vào phiếu học tập đã được
    phát.
    Vòng 2: Nhóm mảnh ghép
    Học sinh dựa vào số thứ tự được đánh dấu ở
    mặt sau của các phiếu học tập (1, 2, 3) lần lượt
    di chuyển tạo ra nhóm mới là nhóm mảnh
    ghép
    Học sinh làm việc nhóm, điền phần trả lời vào
    tờ giấy Ao
    Nội dung Khiếu nại Tố cáo1. Khái niệm2. Mục đích3. Chủ thể có
    quyền4.Chủ thể có
    thẩm quyền giải
    quyết5. Quy trình 4
    bước giải quyếtHọc sinh làm việc nhóm sau đó treo sản phẩm
    của nhóm lên bảng.
    GV gọi một nhóm làm việc tốt nhất lên
    thuyết trình, các nhóm khác nhận xét, bổ
    sung hoặc đặt thêm câu hỏi cho nhóm
    thuyết trình.
    GV kết luận: Trong khi thực hiện các
    quyền dân chủ, nếu phát hiện những vi phạm
    pháp luật của cán bộ, cơ quan nhà nước thì
    người dân có thể làm gì? Công dân phải làm
    3. Quyền khiếu nại, tố cáo của
    công dân
    a) Khái niệm quyền khiếu nại, tố
    cáo của công dân
    – Quyền khiếu nại là quyền công
    dân, cơ quan, tổ chức được đề nghị
    cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
    quyền xem xét lại hành vi hành
    chính khi có căn cứ cho rằng hành vi
    đó trái pháp luật, xâm phạm quyền,
    lợi ích của công dân.
    – Quyền tố cáo là quyền công
    dânđược phép báo cho cơ quan, tổ
    chức, cá nhân có thẩm quyền về
    hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ
    cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
    như thế nào để ngăn chặn những việc làm sai
    trái đó?
    – 2-3 HS trả lời
    – GV: nhận xét, kết luận về quyền khiếu nại,
    tố cáo của công dân.
    + Quyền khiếu nại ?
    Ví dụ: Một công dân A gửi đơn khiếu nại
    tới ông hiệu trưởng trường X về việc ông hiệu
    trưởng đã từ chối nhận con của công dân A
    vào trường mặc dù con công dân A đã có đầy
    đủ các điều kiện và công dân A đã thực hiện
    đầy đủ thủ tục hồ sơ theo quy định của nhà
    trường.
    + Quyền tố cáo?
    Ví dụ: Nếu em phát hiện một người có hành
    vi nhận hối lộ, tham nhũng em có thể tố cáo
    người đó với cơ quan có thẩm quyền.
    thiệt hại hoặc đe doạ đến lợi ích của
    nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
    của công dân, cơ quan, tổ chức.
    b) Nội dung quyền khiếu nại , tố
    cáo của công dân.
    * Người có quyền khiếu nại , tố
    cáo:
    Người khiếu nại: mọi cá nhân, tổ
    chức có quyền khiếu nại.
    Người tố cáo: Chỉ có công dân có
    quyền tố cáo .
    * Người có thẩm quyền giải quyết
    khiếu nại , tố cáo
    – Người giải quyết khiếu nại:
    + Người đứng đầu cơ quan hành
    chính có quyết định, hành vi hành
    chính bị khiếu nại; người đứng đầu
    cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ
    quan hành chính có quyết định,
    hành vi hành chính bị khiếu nại.
    + Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Bộ
    trưởng , Thủ trưởng cơ quan ngang
    bộ, Tổng Thanh tra Chính phủ, thủ
    tướng chính phủ.
    – Người giải quyết tố cáo:
    + Người đứng đầu cơ quan tổ
    chức có thẩm quyền quản lý người
    bị tố cáo, người đứng đầu cơ quan tổ
    chức cấp trên của cơ quan, tổ chức
    người bị tố cáo;
    + Chánh Thanh tra các cấp,
    Tổng Thanh tra Chính phủ , Thủ
    tướng Chính phủ.
    + Các cơ quan tố tụng ( điều tra,
    kiểm sát, tòa án) nếu hành vi bị tố
    cáo có dấu hiệu tội phạm hình sự.
    Hoạt động cơ bản của giáo viên và HSNội dung bài học
    *Quy trình khiếu nại và giải quyết
    khiếu nại ( phần này GV hướng
    dẫn học sinh tự học)
    Bước 1: Người khiếu nại nộp đơn
    khiếu nại đến các cơ quan, tổ chức,
    cá nhân có thẩm quyền giải quyết
    khiếu nại.
    Bước 2: Người giải quyết khiếu nại
    xem xét giải quyết khiếu nại theo
    thẩm quyền và trong thời gian do
    luật quy định.
    Bước 3: Nếu người khiếu nại đồng
    ý với kết quả giải quyết thì quyết
    định của người giải quyết khiếu nại
    có hiệu lực thi hành.
    Nếu người khiếu nại không đồng ý
    thì họ có quyền lựa chọn một trong
    hai cách: hoặc tiếp tục khiếu nại lên
    người đứng đầu cơ quan hành chính
    cấp trên, hoặc kiện ra Tòa Hành
    chính thuộc Tòa án nhân dân giải
    quyết.
    Bước 4: Người giải quyết khiếu nại
    lần hai xem xét, giải quyết yêu cầu
    của người khiếu nại.
    Nếu người khiếu nại vẫn không
    đồng ý với quyết định giải quyết lần
    hai thì trong thời gian do luật quy
    định , có quyền khởi kiện ra Tòa
    hành chính thuộc Tòa án nhân dân.
    *Quy trình tố cáo và giải quyết tố
    cáo gồm các bước sau:
    Bước 1 : Người tố cáo gửi đơn tố
    cáo đến cơ quan, tổ chức, các nhân
    có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
    Bước 2: Người giải quyết tố cáo
    phải tiến hành việc xác minh và giải
    quyết nội dung tố cáo.
    Bước 3: Nếu người tố cáo có căn
    cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo
    không đúng pháp luật hoặc quá thời
    gian quy định mà tố cáo không được
    giải quyết thì người tố cáo có quyền
    tố cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên
    trực tiếp của người giải quyết tố cáo.
    Bước 4: Cơ quan tổ chức, cá nhân
    giải quyết tố cáo lần hai có trách
    nhiệm giải quyết trong thời gian luật
    quy định.
    Hoạt động 2: Tích hợp nội dung giáo dục
    phòng chống tham nhũng
    *Mục tiêu:
    – HS hiểu được các nội dung về Công tác
    phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu
    nại, tố cáo, vận dụng được kiến thức vào giải
    quyết tình huống trong cuộc sống hàng ngày.
    – Rèn luyện năng lực tư duy, năng lực tự học,
    năng lực giải quyết vấn đề, năng lực quan sát.
    Năng lực giao tiếp, trình bày vấn đề và hợp
    tác, làm việc theo nhóm.
    * Tích hợp nội dung giáo dục
    phòng chống tham nhũng
    – Tố cáo là một kênh quan trọng
    trong phát hiện hành vi tham nhũng.
    Luật phòng, chống tham nhũng quy
    định những nguyên tắc chung và nội
    dung cơ bản của tố cáo hành vi tham
    nhũng. Luật quy định cơ chế bảo vệ
    người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của
    *Cách tiến hành:
    – GV: đưa ra thông tin thời sự:
    +Tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn còn diễn
    ra gay gắt, phức tạp ở một số địa phương.
    + Nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh
    khiếu nại, tố cáo là công tác quản lý Nhà nước
    trong một số lĩnh vực còn bất cập, nhất là
    trong lĩnh vực đất đai, nhà ở, xây dựng; chính
    sách đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư,
    một số chính sách về xã hội… chưa bảo đảm
    giải quyết hài hòa lợi ích người dân, Nhà nước
    và doanh nghiệp. Các đại biểu cũng cho rằng,
    việc vi phạm pháp luật của một số cán bộ thực
    thi công vụ, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà
    nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
    cá nhân cũng làm phát sinh khiếu nại, tố cáo.
    + Còn tồn tại nhiều vụ việc giải quyết
    chậm, sai sót về trình tự, thủ tục là lý do dẫn
    đến khiếu nại vượt cấp.
    – GV giảng giải:
    Khoản 1, 2, Điều 65 Luật phòng, chống
    tham nhũng năm 2005 quy định:
    1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
    trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để công
    dân tố cáo trực tiếp, gửi đơn tố cáo, tố cáo qua
    điện thoại, tố cáo qua mạng thông tin điện tử
    và các hình thức khác theo quy định của pháp
    người tố cáo và trách nhiệm của cơ
    quan, tổ chức, đơn vị trong tiếp nhận
    và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng,
    khen thưởng người tố cáo…
    – Luật phòng, chống tham nhũng
    năm 2005 quy định về tố cáo và giải
    quyết tố cáo hành vi tham nhũng với
    hai nhóm nội dung sau:
    + Thứ nhất, quyền của công dân
    trong việc tố cáo hành vi tham
    nhũng, trách nhiệm của công dân khi
    thực hiện quyền tố cáo.
    + Thứ hai, trách nhiệm của các cơ
    quan, tổ chức và những người có
    thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết
    tố cáo của công dân đối với hành vi
    tham nhũng.
    luật.
    2. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có
    thẩm quyền khi nhận được tố cáo hành vi tham
    nhũng phải xem xét và xử lý theo thẩm quyền;
    giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các
    thông tin khác theo yêu cầu của người tố cáo;
    áp dụng kịp thời các biện pháp cần thiết để
    bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe doạ,
    trả thù, trù dập người tố cáo hoặc khi người tố
    cáo yêu cầu; thông báo kết quả giải quyết tố
    cáo cho người tố cáo khi có yêu cầu.
    Về hình thức tố cáo, công dân tố cáo hành
    vi tham nhũng bằng các hình thức sau:
    – Tố cáo trực tiếp;
    – Gửi đơn tố cáo;
    – Tố cáo qua điện thoại;
    – Tố cáo bằng thông điệp dữ liệu.
    Hoạt động 3: Đàm thoại, thảo luận lớp để
    tìm hiểu trách nhiệm của công dân trong việc
    thực hiện các quyền dân chủ của mình.
    *Mục tiêu:
    – HS nêu được Trách nhiệm của công dân
    trong việc thực hiện các quyền dân chủ của
    mình và tôn trọng các quyền dân chủ của người
    khác.
    – Rèn luyện năng lực tư duy, năng lực phê
    4.Trách nhiệm của Nhà nƣớc và
    công dân trong việc thực hiện các
    quyền dân chủ của công dân
    a) Trách nhiệm của Nhà nước
    ( Đọc thêm)
    b) Trách nhiệm của công dân
    – Thực hiện quyền dân chủ tức là
    thực thi quyền của người làm chủ
    nhà nước và xã hội. Muốn làm một

    3. Hoạt động luyện tập
    GV: cho học sinh chơi trò chơi ai là triệu phú để củng cố nội dung bài học.
    a) Mục tiêu: Giúp học sinh nắm vững được khái niệm quyền khiếu nại, tố cáo

    phán, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
    giảiquyết vấn đề.
    * Cách tiến hành:
    – GV đưa ra câu hỏi :
    Theo em công dân có trách nhiệm thực
    hiện các quyền dân chủ như thế nào?
    – HS thảo luận lớp
    -3-4 HS đại diện trả lời
    – HS: Trao đổi, bổ sung ý kiến.
    – GV: kết luận:
    + Sử dụng đúng các quyền dân chủ của
    mình.
    +Không lạm dụng quyền dân chủ của mình
    để làm trái pháp luật.
    – GV đưa ra câu hỏi :
    Là học sinh, để thực hiện tốt các quyền dân
    chủ, em phải có trách nhiệm như thế nào?
    – HS thảo luận lớp
    -3-4 HS đại diện trả lời
    – HS: Trao đổi, bổ sung ý kiến.
    – GV: kết luận:
    *Sản phẩm: Kết quả thảo luận của học sinh.
    người chủ tốt thì trước tiên cần có ý
    thức đầy đủ về trách nhiệm làm chủ.
    – Không lạm dụng quyền dân chủ
    của mình để làm trái pháp luật.
    * Liên hệ: Trách nhiệm của học
    sinh:
    + Nâng cao trình độ hiểu pháp
    luật
    + Tuyên truyền, vận động mọi
    người…
    + Đấu tranh với hành vi vi phạm
    quyền dân chủ
    GV đƣa ra một thông điệp:
    Không được lợi dụng quyền khiếu
    nại, tố cáo để bịa đặt điều xấu, điều
    sai sự thật nhằm làm giảm uy tín,
    danh dự của người khác, như vậy sẽ
    mắc tội vu khống.

    của công dân và trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện quyền dân chủ
    của mình, biết hành động và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội,
    lên án hành vi tham nhũng…
    b) Nội dung: Học sinh trả lời các câu hỏi trắc nghiệm do giáo viên đưa ra.
    c) Sản phẩm: Học sinh đưa ra đáp án, dựa trên sự hiểu biết của bản thân và kiến
    thức vừa học

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT

    SKKN Kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Thứ nhất, Điều 2 Luật Giáo dục khẳng định: “Mục tiêu giáo dục là đào
    tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
    thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
    nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
    công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
    ”. Sự
    phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh quốc tế được đặc trưng bởi xã hội
    tri thức và toàn cầu hóa đã đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao
    động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới cho sự nghiệp giáo
    dục. Giáo dục cần đào tạo nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng được
    những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực
    hành động, tính năng động, sáng tạo và năng lực giải quyết các vấn đề
    phức hợp trong mọi tình huống của cuộc sống. Giáo dục cần đổi mới để đáp
    ứng được những yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, môn
    GDCD là môn học quan trọng góp phần hình thành, phát triển năng lực cần
    thiết cho mỗi công dân.
    Thứ hai, xuất phát từ vai trò của kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
    trong dạy học môn GDCD. Trong xu hướng dạy học hiện đại, người học là
    chủ thể trung tâm của quá trình học tập, phương pháp dạy học đã từng bước
    đổi mới theo hướng tích cực để đáp ứng nhiệm vụ giáo dục. Song hành với
    đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới kiểm tra đánh giá, bởi kiểm tra đánh
    giá năng lực môn GDCD là kiểm tra đánh giá theo chuẩn sản phẩm đầu ra,
    2
    không chỉ kiểm tra kiến thức mà quan trọng là khả năng vận dụng tổng hợp
    kiến thức, kĩ năng thái độ để giải quyết các vấn đề. Hoạt động dạy và học cần
    có thông tin phản hồi để điều chỉnh nâng cao chất lượng hiệu quả học tập.
    Hơn nữa, việc kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập sẽ giúp giáo viên, học
    sinh và phụ huynh có thông tin xác thực về quá trình học tập để kịp thời điều
    chỉnh nâng cao chất lượng học tập, hình thành năng lực cho người học.
    Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn kiểm tra, đánh giá môn học GDCD tại
    trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định. Những năm gần đây, trường
    THPT Nguyễn Huệ nói chung và môn học GDCD nói riêng đã thay đổi từng
    bước ở khâu kiểm tra đánh giá, chú trọng hơn khả năng vận dụng của học sinh
    và chất lượng học tập cũng cao hơn. Tuy nhiên, quá trình kiểm tra, đánh giá
    chưa được đồng bộ, còn diễn ra nhỏ lẻ, chưa bám sát mục tiêu giáo dục, chưa
    đáp ứng được nhu cầu đổi mới giáo dục phổ thông nên cần được tiếp tục cải
    tiến, hoàn thiện. Giáo viên còn chưa thành thạo trong lựa chọn cách thức,
    công cụ kiểm tra, đặc biệt là chưa xây dựng được ngân hàng đề kiểm tra, đánh
    giá đạt chuẩn.
    Xuất phát từ lí luận và thực tiễn trên, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Kiểm
    tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12
    ở trường THPT Nguyễn Huệ, Tỉnh Nam Định”
    làm sáng kiến báo cáo năm
    học 2022.
    II. Thực trạng ( Trước khi tạo ra sáng kiến)
    */ Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS hiện nay phần lớn GV cho
    biết vẫn thường xuyên chú trọng đánh giá kiến thức. Chỉ có số ít lần GV
    thường xuyên kiểm tra, đánh giá kĩ năng của HS và ít khi nội dung trong bài
    KT, ĐG là năng lực vận dụng tri thức vào giải quyết những vấn đề, tình huống
    nảy sinh từ thực tiễn. GV đã nghiên cứu, sử dụng đa dạng các hình thức kiểm
    tra, đánh giá trong quá trình dạy học ở THPT, trong đó kiểm tra viết, kiểm tra
    3
    vấn đáp được GV thường xuyên sử dụng, đa số GV lựa chọn sử dụng loại câu
    hỏi trắc nghiệm, câu hỏi tự luận để kiểm tra. Đặc biệt, hình thức phương pháp
    kiểm tra đánh giá trong dạy học môn GDCD thường là bài kiểm tra truyền
    thống, chưa chú trọng phương pháp quan sát, đánh giá qua hồ sơ học tập và
    đánh giá qua sản phẩm của học sinh. Và mặc dù dạy nhiều lớp, nhưng chỉ có
    1 đề kiểm tra cho mỗi đợt kiểm tra, nên không tạo tính công bằng cho học
    sinh giữa các lớp, chưa có ngân hàng đề xây dựng chuẩn xác, khoa học. Hơn
    nữa, trong hoạt động học tập GV chưa khuyến khích HS tự đánh giá và đánh
    giá đồng đẳng lẫn nhau. Nhiều giáo viên chưa tham khảo đánh giá của phụ
    huynh học sinh và đánh giá thông qua các hoạt động giáo dục khác.
    */ Nhiều học sinh ít hứng thú với môn GGCD, sở dĩ học sinh chưa tìm
    thấy niềm vui, sự hứng thú trong học tập GDCD là do chưa được rèn luyện
    những kĩ năng, cũng như khả năng vận dụng tri thức của môn học vào trong
    đời sống hằng ngày. Phần công dân với pháp luật được phân phối trong sách
    giáo khoa như sau:
    + Pháp luật và đời sống
    + Thực hiện pháp luật
    + Công dân bình đẳng trước pháp luật
    + Công dân bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
    + Bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo
    + Quyền tự do cơ bản của công dân
    + Quyền dân chủ của công dân
    + Pháp luật với sự phát triển của công dân
    4
    Những khó khăn nảy sinh khi học tập môn GDCD và cốt lõi là phần
    công dân với pháp luật: Học sinh phải nắm bắt và ghi nhớ khá nhiều khái
    niệm, thời gian thực hành còn ít, dẫn đến lối học tập thụ động. Để góp phần
    giải quyết những khó khăn trên, dựa trên thực tiễn đã giảng dạy, trong báo cáo
    này tác giả trình bày cơ sở lý luận của kiểm tra đánh giá năng lực học sinh và
    xây dựng ngân hàng đề kiểm tra đánh giá năng lực học sinh phù hợp với xu
    thế đổi mới của giáo dục.
    III. Giải pháp
    III.1. TÓM TẮT NỘI DUNG GIẢI PHÁP
    * Nhiệm vụ sáng kiến:
    – Nghiên cứu cơ sở lý luận việc kiểm tra, đánh giá năng lực HS trong dạy
    học môn GDCD ở trường THPT.
    – Điều tra, đánh giá thực trạng kiểm tra, đánh giá năng lực HS trong dạy
    học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định.
    – Đề xuất nguyên tắc, biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra đánh giá
    năng lực HS trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ,
    tỉnh Nam Định.
    – Tổ chức thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh
    Nam Định để đánh giá hiệu quả các biện pháp đã đề xuất.
    * Điểm mới- sáng tạo:
    – Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về kiểm tra, đánh giá năng lực học
    sinh của môn GDCD lớp 12.
    – Gợi ý ma trận, ngân hàng đề phục vụ cho việc dạy học môn GDCD
    lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, và giáo viên các trường THPT có thể
    tham khảo sử dụng.
    5
    III.2. NỘI DUNG GIẢI PHÁP:
    CHƯƠNG 1:
    CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ NĂNG
    LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 TRƯỜNG
    THPT NGUYỄN HUỆ, TỈNH NAM ĐỊNH
    1.1. Cơ sở lí luận về kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học
    môn GDCD lớp 12
    1.1.1. Một số vấn đề lí luận chung về kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
    1.1.1.1. Một số khái niệm về kiểm tra, đánh giá trong giáo dục
    – Đo lường
    “Đo lường là khái niệm chỉ sự so sánh một vật, hiện tượng với một
    thước đo hay chuẩn mực về các đại lượng đặc trưng như nhận thức, tư duy,
    kĩ năng và các phẩm chất nhân cách khác trong quá trình giáo dục. Và trình
    bày kết quả dưới dạng thông tin định lượng hoặc định tính. Trong giáo dục,
    đo lường là quá trình thu thập thông tin một cách định lượng, có thể thông
    qua việc thi kiểm tra để xác định mức độ HS biết được kiến thức một môn
    học hoặc mức độ hiểu biết về một vấn đề nào đó và kết quả thể hiện dưới
    dạng một đại lượng định” [30, tr12].
    – Kiểm tra
    Trong lĩnh vực giáo dục, theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Kiểm tra là bộ
    phận hợp thành của quá trình dạy học nhằm nắm được thông tin về KQHT
    của học sinh, củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học. Nội
    dung kiểm tra phải bám sát từng giai đoạn học tập” [19, tr175].
    Kiểm tra là quá trình xem xét, thu thập thông tin và đo lường để đưa ra
    các kết quả và so sánh, đối chiếu với các yêu cầu, mục tiêu hay chuẩn đã đề
    6
    ra, với mục đích là xác định xem cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được,
    những nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng, chi phối. Trong giáo dục, kiểm tra
    là hoạt động đo lường kết quả học tập sử dụng bộ công cụ phù hợp đã chuẩn
    bị trước để điều chỉnh nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
    – Đánh giá
    Đánh giá được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
    xã hội, tùy thuộc vào từng ngành và từng lĩnh vực cụ thể mà có các khái niệm
    đánh giá khác nhau. Gloulund N.E định nghĩa: “Đánh giá là một tiến trình có
    hệ thống của việc thu thập phân tích và giải thích thông tin nhằm xác định mức
    độ mà học sinh đã đạt được mục tiêu bài dạy” [13, tr4]. Theo Polonxki VN :
    “Đánh giá là sự xác định trình độ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh
    trong sự tương ứng với yêu cầu của chương trình học” [13, tr5].
    Theo Brown 1990 cho rằng: “Đánh giá đề cập đến một loạt các biện
    pháp liên quan được sử dụng để xác định một thuộc tính phức tạp của một cá
    nhân hoặc một nhóm cá nhân. Điều này liên quan đến việc thu thập và giải
    thích thông tin về mức độ đạt được các mục tiêu học tập của học sinh. Đánh
    giá cũng được sử dụng để xác định điểm yếu và điểm mạnh của cá nhân học
    sinh để các nhà giáo dục có thể cung cấp chương trình giáo dục hỗ trợ học tập
    chuyên biệt hoặc các dịch vụ xã hội” [26, tr6].
    Theo tác giả Trần Bá Hoành “đánh giá là quá trình hình thành những
    nhận định phán đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự phân tích những
    thông tin thu được. Đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm
    đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng
    cao chất lượng và hiệu quả công việc” [16, tr10].
    Trong giáo dục, đánh giá được hiểu là cách thức giáo viên thu thập và
    sử dụng thông tin trong lớp học của mình nhằm đưa ra phán xét, nhận định,
    quyết định để điều chỉnh hoạt động dạy và giúp HS học tập tiến bộ.
    7
    Như vậy, trong giáo dục kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của
    quá trình dạy học, là một bộ phận không thể thiếu của quản lí giáo dục, quản
    lí chất lượng dạy và học. Ở cấp độ nhà trường và lớp học, kiểm tra đánh giá
    phục vụ 3 nhiệm vụ cơ bản: Hỗ trợ cho hoạt động dạy, học của GV và HS;
    cho điểm từng cá nhân HS từ đó xác định kết quả học tập mà HS đạt được để
    phân loại HS, chuyển lớp, cấp bằng; là cơ sở để nhà trường giải trình với xã
    hội. Ở cấp độ chương trình đào tạo, kiểm tra đánh giá nhằm điều chỉnh đối
    với nội dung chương trình, phương pháp dạy học và phương pháp kiểm tra
    đánh giá… để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Mục đích cuối cùng của
    kiểm tra, đánh giá là nhằm nâng cao chất lượng của tất cả các hoạt động giáo
    dục. Vì vậy, kiểm tra, đánh giá cần phải mang tính dự đoán, giàu thông tin,
    chính xác khoa học và mang lại tác động điều chỉnh cho GV và HS.
    – Kiểm tra, đánh giá năng lực
    “Năng lực là những khả năng và kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể
    nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ,
    xã hội,… và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách
    nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt” [6, tr4].
    Theo Bemd Meier và Nguyễn Văn Cường (2011), “năng lực là khả
    năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các
    nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề
    nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh
    nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động” [5, tr27].
    Kiểm tra, đánh giá năng lực là quá trình GV tương tác với HS để thu
    thập các minh chứng về năng lực của HS. GV sử dụng các chuẩn đánh giá đã
    có để đưa ra kết luận về mức độ đạt hay không đạt về năng lực nào đó của
    HS. Đánh giá năng lực chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong
    những tình huống thực tiễn ứng dụng khác nhau, là biện pháp hữu hiệu nhằm
    8
    xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò to lớn trong việc cải
    thiện kết quả học tập của HS.
    1.1.1.2. Quan điểm hiện đại về KT, ĐG kết quả học tập, giáo dục theo hướng
    phát triển năng lực HS
    Trong suốt thế kỉ 20, hoạt động kiểm tra, đánh giá được xem là nguồn
    cung cấp các chỉ số thông tin về việc học tập của người học, và nó tuân theo
    những trình tự: GV thực hiện quá trình giảng dạy và kiểm tra kiến thức của
    HS, sau đó tiến hành kiểm ra, đánh giá HS, dựa trên các kết quả kiểm tra đó
    làm cơ sở cho các chuỗi hoạt động dạy học tiếp theo. Tuy nhiên, trước sự thay
    đổi của nhân loại và xã hội, khi sự phát triển của khoa học đã cung cấp những
    vấn đề bản chất quy luật của hoạt động học tập thì kiểm tra, đánh giá không
    chỉ dừng ở việc thu thập và phân tích dữ liệu về thành quả học tập của HS mà
    còn thực hiện các nhiệm vụ cao hơn với mục tiêu cuối cùng là sự tiến bộ
    không ngừng của người học. Dưới đây là một số quan điểm hiện đại về kiểm
    tra, đánh giá.
    – Đánh giá là học tập
    Đánh giá là học tập xem xét đánh giá với tư cách như là một hoạt động
    của quá trình học tập. HS cần nhận thức được các nhiệm vụ của hoạt động
    đánh giá cũng chính là nội dung của hoạt động học tập. Việc đánh giá cũng
    được diễn ra thường xuyên, liên tục trong cả quá trình học tập của HS. Đánh
    giá là học tập chủ yếu tập trung vào khả năng tự đánh giá của HS dưới sự
    hướng dẫn, kết hợp với sự đánh giá của GV qua hai hình thức đánh giá cơ bản
    là tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng.
    – Đánh giá vì học tập
    Đánh giá vì học tập diễn ra thường xuyên trong suốt quá trình dạy học
    nhằm phát hiện nhanh những thay đổi tiến bộ của HS, từ đó hỗ trợ, điều chỉnh
    hoạt động dạy học. Việc đánh giá nhằm cung cấp thông tin để cả GV và HS
    9
    điều chỉnh, cải thiện chất lượng dạy và học. Kết quả đánh giá không nhằm so
    sánh giữa các HS với nhau mà để làm nổi bật những điểm mạnh và điểm yếu
    của bản thân mỗi HS và cung cấp cho HS những thông tin phản hồi về từng
    giai đoạn học tập để tiếp tục duy trì phương pháp học của mình ở các giai
    đoạn học tập tiếp theo. Ở đây, không chỉ GV vẫn giữ vai trò chủ đạo trong
    đánh giá kết quả học tập mà những HS cũng được tham gia vào quá trình
    đánh giá ấy. HS có thể tự đánh giá bản thân hoặc đánh giá lẫn nhau dưới sự
    hướng dẫn của GV, qua đó họ tự đánh giá được khả năng học tập của mình để
    có kế hoạch điều chỉnh hoạt động học tập được tốt hơn.
    – Đánh giá kết quả học tập
    Đánh giá kết quả học tập có chức năng chủ yếu là tổng kết, xếp loại, lên
    lớp và chứng nhận kết quả. Đánh giá này diễn ra sau khi HS học xong một
    giai đoạn học tập nào đó nhằm xác định xem các mục tiêu dạy học có được
    thực hiện không và đạt được ở mức nào. GV là chủ thể của quá trình đánh giá
    và HS không được tham gia vào các khâu của quá trình đánh giá.
    Hình vẽ dưới đây thể hiện quan điểm đánh giá hiện đại so với đánh giá
    truyền thống [21].
    10
    Như vậy, với những quan điểm đánh giá nêu trên, việc đánh giá cần
    được tích hợp lồng ghép vào trong quá trình dạy học, GV khi đánh giá thường
    phải đặt ra và trả lời được những câu hỏi như: Sự hiểu biết của HS đang ở
    mức độ nào của trình độ tri thức? HS đã tiến bộ như thế nào so với chính bản
    thân HS? Tại sao có một số HS tiến bộ hơn những HS khác? Tôi có thể thiết
    lập kế hoạch giáo dục cho các nhóm HS khác nhau không?…
    1.1.1.3. Bản chất và một số yêu cầu của kiểm tra đánh giá năng lực
    – Bản chất của kiểm tra đánh giá năng lực học sinh:
    Phẩm chất và năng lực là hai yếu tố nền tảng trong cấu trúc nhân cách
    con người nói chung và là hai yếu tố cốt lõi góp phần tạo nên nhân cách của
    một con người nói riêng. Do đó, ở các giai đoạn khác nhau, ở trong mọi
    chương trình giáo dục được áp dụng, tuy có khác nhau về cấu trúc, phương
    pháp, hình thức và nội dung giáo dục… nhưng đều chung mục tiêu hướng tới
    hoàn thiện nhân cách.
    Đánh giá năng lực là quá trình GV tương tác với HS để thu thập các
    minh chứng về năng lực và sử dụng các chuẩn đánh giá đã có để đưa ra kết
    11
    luận về mức độ đạt hay không đạt về năng lực nào đó của HS. Đánh giá năng
    lực chú trọng khả năng vận dụng khoa học sáng tạo tri thức trong những tình
    huống ứng dụng khác nhau, là biện pháp quan trọng nhằm xác định mức độ
    thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò lớn trong việc cải thiện kết quả học tập
    của HS. Đánh giá năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong bối
    cảnh có ý nghĩa.
    Xét về bản chất thì giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức kĩ
    năng không có mâu thuẫn với nhau, mà đánh giá năng lực được coi là bước
    phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Đánh giá năng lực là
    đánh giá kĩ năng, thái độ, hành vi của người học. Ví như để chứng minh
    rằng HS có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho HS được
    tham gia giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn, thời sự.
    Khi đó HS sẽ vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở
    nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân ích lũy được từ
    những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội).
    Tuy nhiên, đánh giá năng lực có những điểm khác biệt cơ bản so với đánh
    giá kiến thức, kĩ năng.
    Có thể phân biệt sự khác biệt đó dựa theo bảng dưới đây:
    Bảng 1.1. “So sánh đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng” [18]

    Tiêu chíĐánh giá năng lựcĐánh giá kiến thức, kĩ năng
    Mục đích
    đánh giá
    – Đánh giá khả năng HS vận
    dụng các kiến thức, kĩ năng đã
    được học vào giải quyết vấn
    đề nảy sinh từ thực tiễn của
    cuộc sống;
    – Vì sự tiến bộ của HS so với
    chính mình.
    – Xác định việc đạt được kiến
    thức, kĩ năng theo mục tiêu của
    chương trình giáo dục;
    – Đánh giá, xếp hạng giữa những
    HS với nhau.
    Ngữ cảnh
    đánh giá
    – Gắn với ngữ cảnh học tập cụ
    thể và thực tiễn đời sống của
    HS.
    – Gắn với nội dung học tập (những
    kiến thức, kĩ năng, thái độ) học
    được trong nhà trường.

    12

    Nội dung
    đánh giá
    – Những kiến thức, kĩ năng,
    thái độ ở nhiều môn học,
    nhiều hoạt động giáo dục và
    những trải nghiệm của bản
    thân HS trong cuộc sống xã
    hội (tập trung vào năng lực
    thực hiện);
    – Qui chuẩn theo các mức độ
    phát triển năng lực của HS.
    – Những kiến thức, kĩ năng, thái
    độ ở một môn khoa học cụ thể;
    – Qui chuẩn theo việc HS đó có
    đạt hay không một nội dung đã
    được học.
    Công cụ
    đánh giá
    Nhiệm vụ, bài tập gắn với tình
    huống, bối cảnh thực tiễn.
    Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong
    tình huống hàn lâm hoặc tình
    huống thực.
    Thời điểm
    đánh giá
    Đánh giá ở mọi thời điểm của
    quá trình dạy học, chú trọng đến
    đánh giá trong khi học.
    Thường diễn ra ở những thời điểm
    nhất định trong quá trình dạy học,
    đặc biệt là trước và sau khi dạy.
    Kết quả
    đánh giá
    – Năng lực HS phụ thuộc vào
    độ khó của nhiệm vụ hoặc bài
    tập đã hoàn thành;
    – Thực hiện được nhiệm vụ
    khó và phức tạp hơn thì được
    xem là có năng lực cao hơn.
    – Năng lực của HS phụ thuộc vào
    số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay
    bài tập đã hoàn thành;
    – Càng đạt được nhiều đơn vị kiến
    thức, kĩ năng thì càng được xem là
    có năng lực cao hơn.

    Dựa vào bảng 1.1 ta thấy điểm khác biệt căn bản giữa đánh giá năng
    lực so với đánh giá kiến thức, kĩ năng là ở chỗ đánh giá kiến thức, kĩ năng chỉ
    xem xét việc HS ghi nhớ và tái hiện kiến theo mục tiêu của chương trình giáo
    dục, gắn với các nội dung được học trong nhà trường và kết quả đánh giá HS
    căn cứ vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập mà HS hoàn thành về đơn
    vị kiến thức, kĩ năng đó. Còn đánh giá năng lực là đánh giá dựa trên khả năng
    mà HS vận dụng tổng hợp kiến thức, kĩ năng đã được học vào để giải quyết
    vấn đề trong học tập hoặc trong thực tiễn cuộc sống của mỗi HS. Đánh giá
    năng lực căn cứ vào kết quả HS tham gia thực hiện nội dung chương trình của
    tất cả các môn học, các hoạt động giáo dục, nó là tổng hòa từ nhiều môn học,
    kết tinh cả kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức
    của HS.
    Đánh giá năng lực HS được hiểu là hoạt động thu thập minh chứng về
    13
    một học sinh trong một lĩnh vực học tập có giá trị nhằm hỗ trợ việc đánh giá
    về vị trí của HS trên đường năng lực từ mức thấp đến mức cao ghi nhận
    những gì HS đã biết và có thể thực hiện và những gì HS chưa biết, cần học
    tiếp một cách chủ động, tích cực. Qua đó, GV có thể điều chỉnh các hoạt động
    dạy học và báo cáo cụ thể kết quả học tập của HS một cách chính xác.
    – Một số yêu cầu khi đánh giá năng lực HS:
    + Đánh giá được tích hợp vào trong quá trình dạy học, giáo dục tức là
    chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học, giáo
    dục sang hướng tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, giáo dục. Xem đánh
    giá như là một phương pháp giáo dục hiệu quả nhằm liên tục thu được những
    thông tin phản hồi cho GV và HS, giúp cho GV có những quyết định phù hợp
    trong các thời điểm dạy học và giáo dục, giúp HS tích cực hơn trong học tập
    và trong tham gia các hoạt động giáo dục.
    + Chú trọng đánh giá quá trình và sự tiến bộ của HS, nghĩa là chuyển dần
    trọng tâm từ việc đánh giá kết quả cuối cùng sang đánh giá cả quá trình đảm bảo
    cho việc đánh giá toàn diện hơn, đầy đủ hơn, giảm sức ép cho học sinh trong
    đánh giá cuối kì.
    + Chuyển từ đánh giá kiến thức, kĩ năng đơn lẻ sang đánh giá tri thức
    tổng hợp, kĩ năng có tính phức hợp, tức là không chỉ đánh giá khả năng ghi
    nhớ và hiểu bài mà còn đánh giá khả năng hiểu sâu sắc, khả năng vận dụng
    kiến thức để giải quyết các vấn đề khác nhau và nhấn mạnh đến kĩ năng tư
    duy, giao tiếp làm việc nhóm, thể hiện những năng lực cần thiết. Đánh giá cần
    dựa trên nhiều thông tin đa dạng, phong phú, HS có thể tự đánh giá và đánh
    giá HS từ các chủ thể khác nhau.
    + Chuyển từ đánh giá một chiều chủ yếu là GV đánh giá HS sang đánh
    giá đa chiều (có thể là GV đánh giá kết hợp với HS tự đánh giá hoặc HS đánh
    giá chéo nhau và đánh giá thông qua nhà trường, phụ huynh và cộng đồng xã
    14
    hội). Vì vậy, mà kết quả đánh giá sẽ toàn diện, công bằng và khách quan hơn,
    đồng thời còn tạo cơ sở để hình thành cho HS năng lực tự kiểm tra, tự đánh
    giá, tự điều chỉnh hành vi của mình.
    + Kết hợp đánh giá bằng nhận xét và điểm số, chú trọng nhận xét sự
    tiến bộ của HS về thái độ, hành vi, kết quả thực hiện các nhiệm vụ học tập
    theo định hướng phẩm chất, năng lực người học.
    1.1.1.4. Hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá, năng lực HS
    – Một là, hình thức kiểm tra, đánh giá
    Trong thực tế, kiểm tra đánh giá thường xuyên và kiểm tra, đánh giá
    định kì là hai hình thức cơ bản được lựa chọn và vận dụng trong các nhà
    trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay. Điểm cốt lõi của các quan điểm hiện
    đại về đánh giá (đánh giá là học tập, đánh giá vì học tập, đánh giá kết quả học
    tập) được thể hiện và gắn kết chặt chẽ với mục đích đánh giá trong 2 hình
    thức đánh giá cơ bản nói trên.
    + Kiểm tra, đánh giá thường xuyên
    Kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện trong quá trình dạy
    học và giáo dục, nhằm kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện các
    nhiệm vụ học tập, rèn luyện của HS theo chương trình môn học, hoạt động
    giáo dục trong Chương trình GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành.
    + Kiểm tra, đánh giá định kì
    Kiểm tra, đánh giá định kì được thực hiện sau mỗi giai đoạn giáo dục nhằm
    đánh giá kết quả học tập, rèn luyện và mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của HS
    theo chương trình môn học, hoạt động giáo dục quy định trong Chương trình
    GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành. Về bản chất, đây là hoạt động kiểm tra,
    đánh giá mức độ thành thạo của HS về kiến thức, kĩ năng so với các yêu cầu cần đạt
    sau một giai đoạn học tập (giữa kỳ và cuối kì). GV sẽ dựa vào kết quả đánh giá định
    kì để xác định thành tích của HS, xếp loại HS và đưa ra kết luận giáo dục cuối cùng.
    15
    – Hai là, phương pháp kiểm tra, đánh giá
    GV sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục
    đích, thời điểm và yêu cầu của từng hình thức đánh giá. Mối quan hệ giữa
    hình thức, phương pháp và công cụ kiểm tra, đánh giá được thể hiện như sau:
    Bảng 1.2. “Mối quan hệ giữa hình thức, phương pháp và công cụ đánh giá”

    Hình thức
    đánh giá
    Phương pháp
    đánh giá
    Công cụ
    đánh giá
    Đánh giá
    thường xuyên
    (ĐG vì học tập;
    ĐG là học tập
    )
    Hỏi – đápCâu hỏi.
    Quan sátGhi chép các sự kiện thường
    nhật, thang đo, bảng kiểm.
    Đánh giá qua hồ sơ học tậpBảng quan sát, câu hỏi, phiếu
    đánh giá theo tiêu chí.
    Đánh giá qua sản phẩm học tậpBảng kiểm, thang đánh giá, phiếu
    đánh giá theo tiêu chí.
    Đánh giá
    định kì
    (ĐG kết quả
    học tập
    )
    Kiểm tra viết
    Đánh giá qua hồ sơ học tập
    Bài kiểm tra (câu hỏi tự luận, câu
    hỏi trắc nghiệm), bài luận, phần
    mềm biên soạn đề kiểm tra, bảng
    kiểm, phiếu đánh giá theo tiêu chí,
    thang đo.

    + Phương pháp kiểm tra viết
    Kiểm tra viết là phương pháp kiểm tra rất phổ biến, có thể được sử
    dụng với nhiều HS cùng một thời điểm, được GV sử dụng sau khi học xong
    một phần kiến thức của một chương hay nhiều chương, hoặc sau khi học xong
    toàn bộ chương trình môn học. Cơ sở nội dung cần kiểm tra có khả năng bao
    quát từ vấn đề lớn có tính chất tổng hợp đến vấn đề nhỏ, HS phải thể hiện câu
    trả lời bằng ngôn ngữ viết. Phương pháp kiểm tra viết có hai loại cơ bản là
    kiểm tra viết dạng tự luận và kiểm tra viết dạng trắc nghiệm khách quan.
    Kiểm tra viết dạng tự luận: Là phương pháp GV thiết kế câu hỏi, bài
    tập và hướng dẫn HS xây dựng câu trả lời hoặc làm bài tập trên bài kiểm tra
    viết. Một bài kiểm tra tự luận thường có ít câu hỏi, mỗi câu hỏi phải viết
    nhiều câu trả lời nên cần phải đầu tư nhiều thời gian để trả lời mỗi câu, nó
    16
    khuyến khích HS bộc lộ ý tưởng nào đó để trả lời các vấn đề đặt ra.
    Kiểm tra viết dạng trắc nghiệm khách quan
    Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi
    câu sẽ được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản hay một từ, một cụm từ.
    + Phương pháp quan sát
    Quan sát là phương pháp kiểm tra, đánh giá đề cập đến việc theo, xem
    xét HS thực hiện các hoạt động học tập hoặc nhận xét một sản phẩm do HS
    làm ra (quan sát sản phẩm).
    Phương pháp quan sát được tiến hành khi GV sử dụng thị giác phối hợp
    với các giác quan khác, xem xét quá trình học tập của HS một cách có ý thức,
    có mục đích, có kế hoạch để thu thập thông tin và đưa ra những kết luận trên
    cơ sở phân tích những thông tin ấy. Đây là một trong những phương pháp phổ
    biến của kiểm tra, đánh giá thường xuyên.
    Khi quan sát quá trình HS thực hiện nhiệm vụ học tập, GV phải chú ý
    đến những biểu hiện về mặt hành vi của HS như: sự tương tác (tranh luận,
    chia sẻ các suy nghĩ, biểu lộ cảm xúc,…) giữa các HS với nhau trong nhóm,
    nói chuyện riêng trong lớp, mất tập trung, có vẻ mặt căng thẳng, lo lắng, lúng
    túng,… hay tích cực hào hứng, giơ tay phát biểu xây dựng bài trong giờ học,
    hay ngồi im thụ động…
    Để tiến hành quan sát có hiệu quả, GV cần sử dụng các loại công cụ để
    thu thập thông tin từ HS như: Sổ ghi chép các sự kiện thường nhật, thang đo,
    bảng kiểm, phiếu đánh giá theo tiêu chí,…
    + Phương pháp hỏi – đáp
    Hỏi – đáp là phương pháp chủ yếu thứ ba mà GV thường sử dụng để
    thu thập minh chứng trong kiểm tra đánh giá trên lớp. Cách thức tiến hành
    của phương pháp này là GV đặt câu hỏi và HS trả lời câu hỏi (hoặc HS phản
    hồi thắc mắc để GV trả lời), nhằm rút ra những kết luận, những tri thức mới
    17
    mà HS cần hiểu, hoặc nhằm tổng kết, củng cố, kiểm tra mở rộng những kiến
    thức mà HS đã học.
    Phương pháp hỏi – đáp cung cấp rất nhiều thông tin chính thức và
    không chính thức về HS. Do vậy, việc chủ động, thành thạo các kĩ thuật đặt
    câu hỏi đặc biệt có hiệu quả đối với GV khi tiến hành đánh giá, nhất là khi
    cần ôn tập lại một chủ đề đã học trước đó. Hoặc trong một chủ đề mới, suy
    nghĩ xem HS có hiểu bài hay không và cần thu hút sự chú ý của một HS nào
    đó đang mất tập trung. GV có thể thu thập được thông tin mình muốn mà
    không cần đến bất kỳ một loại đánh giá viết nào.
    + Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập
    Hồ sơ là tập hợp các bài tập, bài kiểm tra, bài thực hành, phiếu quan
    sát, sản phẩm công việc, bằng video, ảnh,… đã hoàn thành một cách tốt nhất.
    Hồ sơ học tập được sử dụng như là minh chứng về quá trình học tập và sự tiến
    bộ của HS hoặc như là minh chứng về các tiêu chuẩn cần đạt.
    Hồ sơ học tập giúp phát triển kĩ năng tổ chức, kĩ năng thể hiện, thuyết
    trình,… của HS. Khi được GV giao nhiệm vụ học tập, động viên, khuyến khích
    tạo sản phẩm, HS sẽ tự tôn trọng thành quả học tập của mình, độc lập suy nghĩ,
    sáng tạo và tự thể hiện bản thân một cách rõ rệt. Thông qua hồ sơ học tập, HS có
    cơ hội thể hiện năng lực bằng những sản phẩm tốt nhất; lập sơ đồ về sự tiến bộ
    của mình; giám sát và điều chỉnh hành động và kế hoạch cá nhân; trao đổi học
    tập với người khác; tạo những thay đổi cần thiết để phát triển năng lực.
    + Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập
    Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập là phương pháp đánh
    giá kết quả học tập của HS, kết quả được thể hiện bằng các sản phẩm như
    câu trả lời, giải quyết tình huống, thực hành một kĩ năng, bảng sơ đồ tư
    duy, bài thuyết trình, tranh ảnh, video…. Như vậy, sản phẩm là các bài làm
    hoàn chỉnh, được HS thể hiện qua việc xây dựng, sáng tạo, hợp tác với
    18
    nhau thể hiện ở việc hoàn thành được hoạt động học tập một cách có hiệu
    quả. Các tiêu chí và tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm của HS là rất đa dạng.
    Qua đó mà GV có thể đánh giá được năng lực vận dụng kiến thức vào thực
    tiễn của HS.
    Đánh giá qua sản phẩm học tập giúp cho việc dạy học gắn với thực
    tiễn, kích thích khơi dậy hứng thú học tập của HS, làm cho môn học trở nên ý
    nghĩa hơn, HS học tập năng động hơn. Thông qua sản phẩm học tập, HS có
    thể tự đánh giá được trình độ kiến thức cũng như khả năng thực hiện của
    mình. Trọng tâm của đánh giá sản phẩm là hướng vào những gì HS đã làm
    nên HS có cơ hội để thể hiện điều đã học, kiến thức đã được tích lũy theo các
    cách khác nhau, nhờ đó mà phát huy được tính sáng tạo cho HS. Tuy nhiên,
    đánh giá qua sản phẩm học tập thường chịu tác động chủ quan từ GV, nên GV
    mất nhiều thời gian để xây dựng tiêu chí đánh giá, quan sát, phân tích, phản
    hồi kết quả đến từng HS.
    1.1.1.5. Công cụ kiểm tra, đánh giá năng lực HS
    GV phải nắm vững quy trình kiểm tra đánh giá, hiểu được bản chất, ưu
    nhược điểm và cách sử dụng của từng nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá.
    Đặc biệt phải xác định và biết cách thiết kế các công cụ đánh giá phù hợp với
    nội dung và phương pháp kiểm tra, đánh giá, đáp ứng được mục đích kiểm
    tra, đánh giá đã đặt ra. Do đó, GV trong quá trình dạy học một bài học hay
    chủ đề, cùng với việc lập kế hoạch dạy học thì nhất thiết phải xây dựng được
    kế hoạch kiểm tra, đánh giá và thiết kế được các công cụ kiểm tra, đánh giá
    theo kế hoạch đã xây dựng.
    – Một là, câu hỏi
    Câu hỏi là một trong các công cụ rất phổ biến được dùng trong kiểm
    tra, đánh giá. Câu hỏi có thể được sử dụng trong kiểm tra miệng, kiểm tra viết
    với các dạng: tự luận, trắc nghiệm khách quan, vấn đáp, bảng hỏi ngắn, thẻ
    19
    kiểm tra, bảng KWLH…
    Các loại câu hỏi và cách sử dụng :
    Thứ nhất, câu hỏi trắc nghiệm khách quan là một loại công cụ kiểm tra
    đánh giá những câu trắc nghiệm, sở dĩ nó mang tên là khách quan vì cách cho
    điểm mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người
    chấm. Tuy nhiên độ khách quan, công bằng cũng chỉ mang tính tương đối vì câu
    hỏi và các lựa chọn trong trắc nghiệm khách quan vẫn do GV thiết kế. Nếu
    người GV thiết kế trắc nghiệm không chuẩn xác cũng sẽ dẫn tới đo lường sai
    lệch trình độ của HS.
    Có nhiều loại câu trắc nghiệm khách quan, mỗi loại có ưu nhược điểm
    riêng, việc sử dụng loại trắc nghiệm nào phụ thuộc vào mục đích đánh giá,
    loại kiến thức cần đo lường và phụ thuộc và những điểm mạnh, điểm yếu của
    từng loại. Dưới đây là một số loại trắc nghiệm được sử dụng trong kiểm tra
    đánh giá:
    + Trắc nghiệm nhiều lựa chọn là loại trắc nghiệm thông dụng nhất, còn
    gọi là trắc nghiệm đa phương án.
    + Trắc nghiệm điền vào chỗ trống là loại trắc nghiệm đòi hỏi HS cung
    cấp câu trả lời một hay một ít từ cho một câu hỏi trực tiếp hay một câu nội
    dung một câu nhận định chưa đầy đủ.
    + Trắc nghiệm ghép đôi là loại trắc nghiệm thường có hai dãy thông tin
    gọi là các câu dẫn và các câu đáp. Chúng cần được ghép lại với nhau theo
    kiểu tương ứng một – một sao cho nội dung ghép lại là một câu đúng. Hai dãy
    thông tin này không nên có số câu bằng nhau để cho cặp ghép cuối cùng
    không chỉ đơn giản là kết quả của sự loại trừ liên tiếp.
    + Trắc nghiệm đúng sai là loại trắc nghiệm được trình bày dưới dạng
    một câu phát biểu và thí sinh trả lời bằng cách lựa chọn đúng (Đ) hoặc sai (S).
    Thứ hai, câu hỏi tự luận là loại công cụ được thiết kế để yêu cầu HS
    xây dựng câu trả lời hoặc làm bài tập, bài kiểm tra viết.
    20
    Thứ ba, câu hỏi vấn đáp là một dạng công cụ được sử dụng cho việc hỏi
    và đáp giữa GV và HS, câu hỏi vấn đáp có thể sử dụng ở mọi thời điểm dạy
    học, HS cần trình bày diễn đạt bằng ngôn ngữ nói. Tuỳ theo vị trí, mục đích,
    nội dung của bài học, người ta chia vấn đáp thành những dạng hỏi đáp cơ bản
    sau:
    + Hỏi – đáp gợi mở: là hình thức GV khéo léo đặt những câu hỏi gợi
    mở dẫn dắt HS rút ra những nhận xét, những kết luận cần thiết từ những sự
    kiện đã quan sát được hoặc những tài liệu đã học được.
    + Hỏi – đáp củng cố: được sử dụng sau khi thực hiện các hoạt động
    hình thành tri thức, kĩ năng mới, giúp HS củng cố được những tri thức và kĩ
    năng cơ bản nhất hệ thống hoá chúng theo hướng mở rộng và vận dụng những
    tri thức đã thu được, khắc phục tính thiếu chính xác của việc hiểu hàn lâm,
    máy móc tri thức.
    + Hỏi – đáp tổng kết: được sử dụng khi cần dẫn dắt HS khái quát hoá,
    hệ thống hoá những tri thức đã học sau một vấn đề, một phần, một chương
    hay một môn học nhất định
    + Hỏi – đáp kiểm tra: được sử dụng trước, trong và sau giờ học hoặc sau
    một vài bài học giúp GV đánh giá được nhận thức, kĩ năng của HS một cách
    nhanh gọn kịp thời để có thể bổ sung ngay nếu cần thiết.
    – Hai là, bài tập
    Bài tập là loại công cụ kiểm tra, đánh giá, trong đó chứa các vấn đề cần
    phải giải quyết. Bài tập thường được trình bày dưới dạng câu hỏi, bài tập có
    thể là một câu hỏi nhưng không phải bất kỳ câu hỏi nào cũng là bài tập. Để
    giải quyết bài tập HS phải căn cứ vào dữ liệu bài tập đã cho để tìm câu trả lời
    chính, phù hợp. Khi trả lời câu hỏi mà việc trả lời nó không chỉ đơn thuần là
    tái hiện kiến thức, không chỉ đòi hỏi sự nhớ lại đơn thuần mà nhằm hình
    thành kiến thức với chất lượng mới bằng các thao tác tư duy phức tạp thì nó
    21
    trở thành bài tập nhận thức. Bài tập nhận thức có yêu cầu cao hơn, nội dung
    có tính chất khái quát, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc mới giải quyết được
    qua đó giúp HS nâng cao trình độ lên một bước. Bài tập trong đánh giá phát
    triển năng lực HS là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống, trong đó
    chứa đựng những vấn đề mà HS cần phải quan tâm, cần tìm hiểu, cần giải
    quyết và có ý nghĩa giáo dục.
    1.1.2. Kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD lớp
    12
    1.1.2.1. Đặc điểm dạy học môn GDCD lớp 12
    Ở cấp THPT, môn GDCD tiếp tục “giúp HS phát triển các phẩm chất đã
    được hình thành, phát triển ở cấp trung học cơ sở: Có hiểu biết, tình cảm, niềm
    tin về những giá trị đạo đức của dân tộc và thời đại, đường lối phát triển đất
    nước của Đảng và quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
    dân; tích cực, tự giác học tập và tham gia lao động, sản xuất phù hợp với khả
    năng của bản thân; có trách nhiệm công dân trong thực hiện đường lối của
    Đảng và pháp luật của Nhà nước để góp phần bảo vệ, xây dựng Tổ quốc; tôn
    trọng quyền, nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật;
    nhận thức, hành động theo lẽ phải và sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chống
    các hành vi, hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [10].
    GDCD lớp 12 gồm mạch nội dung chính là Giáo dục Pháp luật. Phần
    Công dân với pháp luật cung cấp những hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò
    và nội dung của pháp luật trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội: Bình
    đẳng trước pháp luật, công dân với các quyền tự do cơ bản, công dân với các
    quyền dân chủ…. Những nội dung này giúp HS có thể chủ động, tự giác điều
    chỉnh hành vi cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác theo quyền
    và nghĩa vụ của công dân trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền
    22
    XHCN Việt Nam. Cụ thể:
    – Công dân bình đẳng trước pháp luật:
    + Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (bình đẳng về quyền,
    nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí).
    + Bình đẳng giới trong các lĩnh vực.
    + Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
    – Quyền dân chủ cơ bản của công dân:
    + Quyền và nghĩa vụ công dân trong tham gia quản lí nhà nước và xã hội.
    + Quyền và nghĩa vụ công dân về bầu cử và ứng cử.
    + Quyền và nghĩa vụ công dân về khiếu nại, tố cáo.
    + Quyền và nghĩa vụ công dân về bảo vệ Tổ quốc.
    – Quyền tự do cơ bản của công dân:
    + Quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
    + Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
    nhân phẩm.
    + Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
    + Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín.
    + Quyền và nghĩa vụ công dân về tự do ngôn luận, báo chí và tiếp cận
    thông tin.
    + Quyền và nghĩa vụ công dân về tự do tín ngưỡng và tôn giáo
    Đặc thù tri thức của môn GDCD lớp 12 đã quy định nội dung đánh giá
    đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu về hình thức đánh giá, phương pháp và
    công cụ kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực
    1.1.2.2. Vai trò của kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy học môn
    GDCD lớp 12
    Theo tác giả Phùng Đình Mẫn Thông qua KT, ĐG, GV và HS có thể
    hiểu được kết quả dạy học có đáp ứng được yêu cầu đề ra hay không để điều
    chỉnh, hoàn thiện quá trình dạy học tốt hơn[24, tr100].
    23
    Đặc thù tri thức cũng như mục tiêu dạy học của môn GDCD lớp 12
    không chỉ là căn cứ để định hướng cho hoạt động dạy học mà còn là căn cứ,
    là định hướng cho hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, kết quả học
    tập của HS. Đó là đánh giá mức độ đạt được của HS về các phẩm chất (yêu
    nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm) và các năng lực đặc thù
    (điều chỉnh hành vi, phát triển bản thân, tìm hiểu và tham gia các hoạt động
    kinh tế – xã hội) so với yêu cầu cần đạt của mỗi lớp học, cấp học nhằm xác
    định vị trí và ghi nhận sự tiến bộ của mỗi HS tại thời điểm nhất định trong
    quá trình phát triển của bản thân; đồng thời cung cấp thông tin để GV điều
    chỉnh hoạt động dạy học và cơ quan quản lí giáo dục thực hiện phát triển
    chương trình. Và giai đoạn cuối cùng để biết được kết quả học tập của cả một
    quá trình là KT, ĐG. Trong dạy học GDCD lớp 12, các thành tố của hoạt
    động dạy học có vai trò và vị trí khác nhau song lại có mối quan hệ biện
    chứng qua lại với nhau, thống nhất với nhau, hoạt động dạy học không thể
    hoàn thiện nếu thiếu bất cứ một nhân tố nào. Trong đó KT, ĐG có tầm quan
    trọng đặc biệt, đây là khâu khởi đầu cho một chu trình giáo dục, đồng thời
    cũng là khâu kết thúc của hoạt động giáo dục này để mở ra một hoạt động
    giáo dục khác cao hơn, tiến bộ hơn.
    Do đó, trong dạy học GDCD lớp 12, quá trình KT, ĐG không thể xem
    như là việc báo cáo có tính chất hình thức về tình hình học tập mà là hoạt
    động quan trọng của quá trình hình thành phẩm chất, năng lực. Nếu làm tốt
    KT, ĐG sẽ là một biện pháp cần thiết để hình thành năng lực cho học sinh qua
    đó nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn GDCD lớp 12 nói riêng và chất
    lượng dạy học cho cả quá trình học tập nói chung, nó là một phương tiện
    không thể thiếu để điều chỉnh sự học tập của HS, đẩy mạnh sự phát triển và
    giáo dục HS nên cần thiết KT, ĐG đặc biệt là KT, ĐG năng lực HS trong dạy
    học GDCD lớp 12, cụ thể:
    24
    Thứ nhất, KT, ĐG năng lực trong dạy học GDCD lớp 12 có tác dụng to
    lớn với việc phát triển toàn diện ở HS. Thông qua KT, ĐG năng lực giúp HS
    củng cố, mở rộng, bổ sung vốn tri thức, thúc đẩy hoạt động trí tuệ như: nhớ,
    hình dung, tưởng tượng, các thao tác tư duy phân tích, so sánh, tổng hợp. Phát
    triển năng lực giao tiếp, hợp tác; năng lực giải quyết tình huống, vấn đề nảy
    sinh từ thực tiễn cuộc sống. Từ đó, giúp HS nhận thức được điểm mạnh, điểm
    yếu của bản thân, có kế hoạch và thực hiện kế hoạch phát triển bản thân
    Thứ hai, KT, ĐG năng lực trong dạy học GDCD lớp 12 không chỉ có ý
    nghĩa về mặt bồi dưỡng nhận thức, rèn luyện kĩ năng mà còn có tác dụng giáo
    dục tư tưởng đạo đức, phẩm chất của HS. Nó giúp cho HS hình thành thói
    quen tự kiểm tra, tự nhận xét, tự đánh giá khả năng chiếm lĩnh tri thức của
    bản thân. Qua đó nâng cao ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện ý chí
    phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Quá trình KT, ĐG cũng giúp HS nâng
    cao hứng thú khi học tập, tránh cảm giác nhàm chán với nội dung pháp luật
    khô khan, khó nhớ. Đặc biệt, KT, ĐG còn giúp HS nhận thức được hành vi,
    đánh giá được hành vi của bản thân và người khác, điều chỉnh hành vi và nhắc
    nhở người khác điều chỉnh được cảm xúc, thái độ, hành vi phù hợp với chuẩn
    mực đạo đức, pháp luật.
    Như vậy, từ những phân tích trên cần thiết phải đổi mới kiểm tra đánh
    giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho người học.
    1.1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
    trong dạy học môn GDCD lớp 12
    Một là, năng lực của giáo viên
    Để thực hiện việc KT, ĐG năng lực của học sinh thực sự đạt được hiệu
    quả thì người GV đóng vai trò quan trọng và quyết định. Trong suốt quá trình
    giáo dục, người học là chủ thể trung tâm của hoạt động dạy học, GV là người
    định hướng và hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức. Với trình độ chuyên môn,
    kỹ năng và kinh nghiệm của mình, GV là người nắm bắt rõ nhất đối tượng HS
    25
    của mình đã đạt được kiến thức, năng lực gì? Còn cần bổ sung thêm những tri
    thức, rèn luyện hình thành năng lực hay không? Do vậy, trong các bài kiểm
    tra đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, GV bám sát với học sinh, thể
    hiện ở nội dung đề kiểm tra chính xác, khoa học, phù hợp với năng lực của
    từng nhóm học sinh.
    Để hoạt động kiểm tra đánh giá năng lực đạt hiệu quả cao, GV cần thực
    hiện tốt vai trò của mình như: Nắm vững chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu
    về thái độ đối với học sinh môn GDCD lớp 12; tự giác tham gia các lớp bồi
    dưỡng, tập huấn thường xuyên và định kì; tích cực vận dụng những kiến thức
    đã được bồi dưỡng để nâng cao chất lượng chuyên môn và phổ biến kinh
    nghiệm với đồng nghiệp. Thực hiện đổi mới KT, ĐG môn GDCD lớp 12 gắn
    liền với hướng dẫn học sinh tự KT, ĐG kết quả học tập. Tham gia dự giờ đồng
    nghiệp, tự giác tham gia hội giảng, GV giỏi, báo cáo kinh nghiệm chia sẻ, học
    hỏi nhằm trau dồi chuyên môn, tích cực nghiên cứu khoa học, tổng kết thực
    tiễn. Viết sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới KT và ĐG, ứng dụng công nghệ
    thông tin trong dạy học, học hỏi của giáo viên trường khác về khâu chuẩn bị
    giáo án và đề kiểm tra. Từ đó năng lực của giáo viên sẽ được nâng cao, đem lại
    chất lượng và hiệu quả phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh.
    Hai là, năng lực của cấp quản lí
    Để thực hiện đổi mới KT, ĐG năng lực học sinh trong dạy học môn
    GDCD lớp 12, các cấp quản lí cũng có vai trò. Nếu lãnh đạo nhà trường nhận
    thức đúng đắn và đầy đủ về tầm quan trọng của xu hướng đổi mới kiểm tra
    đánh giá đang diễn ra khá phổ biến, mạnh mẽ thì ban lãnh đạo nhà trường cần
    có kế hoạch lâu dài, đồng bộ, khoa học hoạt động KT, ĐG. Không ngừng
    quan tâm động viên, khuyến khích các giáo viên trong trường đổi mới việc
    KT, ĐG để mang lại hiệu quả tích cực, nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá
    cho học sinh lớp 12 trong từng môn học và cho học sinh của toàn trường.
    Ngoài ra, nhà trường cần nhân rộng những điển hình về đổi mới kiểm tra đánh
    26
    giá, nhân rộng ra toàn trường và những trường khác sẽ tạo ra không khí thi
    đua tích cực về đổi mới kiểm tra, đánh giá.
    Ba là, về phía tổ chuyên môn
    Đội ngũ tổ trưởng và các thành viên trong tổ chuyên môn có ảnh hưởng
    đến chất lượng KT, ĐG năng lực học sinh. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn,
    tổ trưởng quán triệt tinh thần để các GV thường xuyên nghiên cứu nắm vững
    chương trình GDPT của cấp học từ: mục tiêu, cấu trúc chương trình, nội
    dung, phương pháp dạy học, các hoạt động GD…và đặc biệt để hướng dẫn
    cho nhau, trao đổi nội dung cách thức, công cụ KT, ĐG phù hợp, để phân tích
    bàn bạc ma trận đề kiểm tra bám bào từng đối tượng HS cụ thể thì sẽ góp
    phần nâng cao được chất lượng của việc đổi mới KT, ĐG năng lực cho học
    sinh trong dạy học môn GDCD lớp 12.
    Bốn là, năng lực học sinh
    Học sinh là yếu tố không thể thiếu trong KT, ĐG kết quả học tập, bởi
    HS là người tham gia trực tiếp vào bài kiểm tra đánh giá để hình thành năng
    lực cho bản thân. Cho nên để đạt được hiệu quả trong việc thực hiện đổi mới
    phương pháp KT, ĐG theo hướng phát triển năng lực thì HS đóng vai trò rất
    quan trọng. Nếu HS có thái độ học tập nghiêm túc, luôn cố gắng nỗ lực phấn
    đấu cao nhất đạt được trí tuệ thì khi gặp một vấn đề nào khó hiểu trong môn
    GDCD lớp 12 không nên nản chí mà cần phải kiên trì tìm hiểu, học hỏi thầy
    cô, bạn bè và những người xung quanh thì chất lượng KT, ĐG cũng cao và
    hiệu quả học tập nâng lên rõ rệt. Bản thân HS chú trọng việc học tập bộ môn
    GDCD lớp 12 xem nó là môn học dạy cho ta nếp sống có kỷ cương, nề nếp,
    đó là bước đệm để mỗi HS hình thành và phát triển tốt các năng lực cần thiết.
    Năm là, cơ sở vất chất
    Hiện nay, cơ sở vật chất được xem như một trong những điều kiện rất
    quan trọng, cần thiết để thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Sự phát triển
    27
    nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và thiết bị dạy học thông minh đã và đang
    tạo ra tiềm năng giáo dục to lớn cho việc dạy học, là nhân tố quan trọng đặc
    biệt góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KT, ĐG trong việc hướng và phát
    triển năng lực cho HS. Các phương tiện dạy học hiện đại đã đem lại hiệu quả
    chất lượng mới cho việc đổi mới KT, ĐG kết quả học tập của HS. Do vậy, để
    đáp ứng yêu cầu của đổi mới KT, ĐG đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, trang
    thiết bị cần thiết, hiện đại như: phòng học đúng tiêu chuẩn, máy tính, máy
    chiếu, máy in, tranh, ảnh,…. Đối với KT, ĐG môn GDCD lớp 12 cần thiết có
    tivi và tranh ảnh để HS có thể thỏa sức sáng tạo trình bày, thuyết trình các bài
    kiểm tra, đánh giá qua sản phẩm học tập. Hơn nữa, sách giáo khoa và các tài
    liệu tham khảo là nguồn tri thức quan trọng, phong phú cần trang bị cho GV
    để bài kiểm tra được đa dạng, phong phú.
    1.2. Cơ sở thực tiễn về kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh trong dạy
    học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
    1.2.1. Đôi nét về trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
    Trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ là một trường nằm trên địa
    bàn Thành phố Nam Định, được thành lập từ năm 1976, có số lượng học sinh
    tương đối đông với hơn 1000 em học sinh, nhìn chung chất lượng học tập
    khá, là trường có điểm tuyển sinh năm học 2021-2022 cao thứ 4/57 trường
    THPT trong toàn tỉnh Nam Định. Khuôn viên nhà trường nằm ngay cạnh khu
    đô thị Dệt với hệ thống nhà máy Dệt cổ kính và lâu đời. Nhà trường có một
    cơ ngơi khang trang, với một hệ thống nhà cao tầng khép kín, đầy đủ tiện nghi
    như quạt điện, ánh sáng…cho 32 phòng học và có 4 phòng học bộ môn, 3
    phòng nghe nhìn,1 phòng giáo dục thể chất.
    Ban Giám hiệu Nhà trường hiện nay gồm có 3 thầy cô, các thầy cô
    trong Ban lãnh đạo Nhà trường là những thầy cô trẻ, làm việc nhiệt tình và
    khoa học. Với sức trẻ, sự quyết đoán và tinh thần dám nghĩ dám làm, các thầy
    28
    cô Ban giám hiệu liên tục cập nhật học hỏi, đổi mới và có nhiều kế hoạch
    chiến lược giáo dục và phát triển thiết thực. Nên nhiều năm liền, trường
    không có học sinh vi phạm đánh nhau và đạt được nhiều thành tích đáng tự
    hào. Nét nổi bật và cũng là tài năng lãnh đạo của Ban Giám hiệu là đã phân
    công nhiệm vụ cho đúng người đúng việc, để rồi đến với trường THPT
    Nguyễn Huệ sẽ thấy một không khí thi đua làm việc hăng say để cống hiến.
    Ngoài hoạt động giáo dục chính, thầy cô nào cũng có nhiệm vụ riêng như:
    Tham gia ban liên lạc cựu học sinh, ban nề nếp học sinh, nề nếp giáo viên,
    câu lạc bộ stem, câu lạc bộ truyền thông, ban tư vấn tâm lý học đường….Bên
    cạnh mục đích chính là hoạt động trí dục thì nhà trường luôn là sân chơi bổ
    ích để học sinh được học tập và phát triển toàn diện.
    Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường: Gồm 68 cán bộ, giáo
    viên, tất cả giáo viên của trường đều đạt chuẩn trình độ đại học, trong đó một
    số giáo viên đã và đang theo học các khóa cao học, nhằm không ngừng nâng
    cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng những yêu cầu ngày càng đổi
    mới của giáo dục, đất nước và đến nay đã có 13 thạc sỹ. Đội ngũ giáo viên
    dạy học môn GDCD là 2 cô giáo, các cô đều được đào tạo chuẩn chuyên
    ngành Giáo dục chính trị của Trường Đại học sư phạm Hà nội. Với tuổi đời
    và tuổi nghề còn trẻ, 2 cô giáo môn GDCD luôn cố gắng học hỏi, trau dồi
    chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm, từng bước thay đổi phương pháp dạy học
    tích cực để học sinh đóng vai trò chính là chủ thể hoạt động dạy học. Đặc
    biệt, cả 2 cô giáo luôn chú trọng đổi mới kiểm tra đánh giá, nên năm học
    2019-2020 chất lượng thi tốt nghiệp THPT của lớp 12 xếp thứ 3 toàn tỉnh.
    Học sinh của mái trường THPT Nguyễn Huệ đa số là học sinh của con
    em trong địa bàn thành phố Nam Định. Được thừa hưởng truyền thống hiếu
    học của con người trên mảnh đất Thành Nam lại được gia đình quan tâm giáo
    dục, có sự liên lạc và kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh nên các
    em khá chăm ngoan, có đạo đức tốt, tuân thủ pháp luật. Các em sử dụng công
    29
    nghệ thông tin, tiếp cận giáo dục tốt nên dễ dàng thích ứng với phương pháp
    đổi mới của giáo viên.
    Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp
    hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác giáo dục của trường THPT Nguyễn Huệ
    còn một số hạn chế như: khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tế đời
    sống của học sinh còn hạn chế; hơn nữa kinh phí giáo dục đầu tư cho hoạt
    động dạy học, mua sắm trang thiết bị dạy học hàng năm còn thấp so với yêu
    cầu thực tiễn đặt ra… và đó chính là những khó khăn mà toàn thể cán bộ, giáo
    viên, nhân viên và học sinh của nhà trường cùng cố gắng vượt qua.
    1.2.2. Thực trạng kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh lớp 12 trong dạy
    học môn GDCD trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
    1.2.2.1. Khái quát quá trình khảo sát
    Nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tôi tìm hiểu
    thực trạng việc KT, ĐG môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh
    Nam Định cụ thể như sau:
    Mục đích khảo sát: Nhằm đánh giá thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh
    giá trong dạy học môn GDCD lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cho học
    sinh trường THPT.
    Nội dung khảo sát: Nội dung điều tra tập trung vào các vấn đề:
    – Nhận thức của GV và HS về vị trí, vai trò của KT, ĐG theo hướng
    phát triển phẩm chất, năng lực.
    – Nội dung, phương pháp, hình thức KT, ĐG đang được áp dụng đối
    với môn GDCD lớp 12 trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định hiện nay.
    – Những khó khăn khi thực hiện đổi mới KT, ĐG để hình thành và phát
    triển năng lực cho học sinh.
    Các bước tiến hành điều tra:
    – Gặp gỡ, trao đổi với GV giảng dạy trực tiếp bộ môn GDCD.
    – Dự giờ GV, quan sát hoạt động dạy và học trên lớp.
    30
    – Trực tiếp lên lớp giảng dạy.
    – Phỏng vấn 03 cán bộ quản lí, 02 giáo viên dạy môn GDCD, 19 giáo
    viên tổ xã hội và 20 học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam
    Định. (Câu hỏi phỏng vấn ở Phụ lục 1,2)
    Đánh giá những đề kiểm tra được thực hiện trong những năm gần đây.
    Xử lý kết quả điều tra thu được, tác giả rút ra những kết luận sau:
    1.2.2.2. Kết quả nghiên cứu
    1.2.2.2. Kết quả nghiên cứu
    – Đối với giáo viên
    + Nhận thức của GV về sự cần thiết đổi mới KT, ĐG năng lực học sinh
    trong dạy học môn GDCD lớp 12 trường THPT Nguyễn Huệ, tỉnh Nam Định
    Khi được hỏi: “Thế nào là kiểm tra đánh giá năng lực học sinh”?
    Cô giáo N.T.T.T và nhiều giáo viên khác trong trường đều cho rằng: “
    Kiểm tra đánh giá năng lực là đánh giá kết quả học tập theo hướng tiếp cận
    năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những
    tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là
    đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh
    giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục
    theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm
    xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và
    năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập
    của học sinh”.
    Khi được hỏi về: Sự cần thiết của kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
    trong dạy học môn GDCD lớp 12 ? Các thầy cô Ban giám hiệu, thầy cô trong
    tổ xã hội và giáo viên dạy môn GDCD đều cho rằng KT, ĐG là hoạt động rất
    cần thiết của quá trình dạy học, thông qua kiểm tra đánh giá sẽ có được phản
    hồi kịp thời từ phía học sinh, từ đó điều chỉnh được các hoạt động dạy và học.
    31
    Nhà trường cũng đã có nhiều kế hoạch triển khai đổi mới KT, ĐG như: tổ
    chức cho giáo viên được đi tập huấn chuyên môn, khuyến khích giáo viên
    thực hiện KT, ĐG năng lực học sinh đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo dục.
    Như vậy, các thầy (cô) giáo đều nhận thức tương đối đúng và đầy đủ về kiểm
    tra, đánh giá năng lực học sinh.
    Khi được hỏi sự khác biệt giữa đánh giá năng lực và đánh giá nội dung
    trong dạy học môn GDCD, cô B.T.H cho rằng : “Đánh giá năng lực được coi
    là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Ví như để
    chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho
    học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi ấy
    học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà
    trường vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải
    nghiệm bên ngoài nhà trường để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy,
    đánh giá năng lực không hoàn toàn dựa vào chương trình giáo dục của từng
    môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh
    kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… năng lực
    của học sinh được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau
    và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người”. Có thể nói, các
    giáo viên của trường đã phân biệt khá rõ về kiểm tra đánh giá năng lực và
    đánh giá nội dung kiến thức.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Một số giải pháp giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào quá trình chuyển đổi số ở trường THPT

    SKKN Một số giải pháp giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào quá trình chuyển đổi số ở trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong những thập niên vừa qua, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công
    nghệ, cũng như bước đột phá của cuộc cách mạng 4.0 đã mở ra nhiều cơ hội cho
    tăng trưởng kinh tế, văn hóa. Xu hướng đầu tư cho các hoạt động sản xuất thông
    minh, xây dựng chính phủ điện tử, đô thị thông minh, công nghiệp và nông nghiệp
    thông minh… đã và đang trở nên phổ biến.
    Sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 từ 2020 là một biến cố lớn của nhân
    loại, tạo ra một khủng hoảng trên diện rộng, làm thay đổi thế giới trên nhiều lĩnh
    vực. Kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh, hạn chế tác động và phục hồi sau suy
    thoái kinh tế là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia. Đây cũng là cơ hội để các quốc
    gia đánh giá lại các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao nhận thức cộng đồng về
    các mối đe doạ nghiêm trọng từ các vấn đề môi trường và sức khỏe cũng như tận
    dụng những thay đổi từ đại dịch.
    Mục tiêu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành
    kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết
    kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học
    và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng
    bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm
    thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Trong bối cảnh đó, cuộc cách mạng công
    nghệ 4.0, với những đột phá chưa từng có về công nghệ, liên quan đến kết nối
    Internet, điện toán đám mây, in 3D, công nghệ cảm biến, thực tế ảo đã được dự
    đoán sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, Chính phủ, doanh nghiệp và người
    dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc
    và sản xuất.
    Cách mạng công nghệ 4.0 có tác động sâu rộng tới toàn cầu đặc biệt tạo ra
    thời cơ thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Đảng và chính
    phủ Việt Nam đã và đang tận dụng tối đa các yếu tố thuận lợi của cách mạng công
    nghệ 4.0, đề ra các chính sách để hòa nhập cùng với thời đại. Tháng 6 năm 2020,
    Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm
    2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu Việt Nam gia nhập nhóm 50 nước
    dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Chương trình nhấn mạnh người dân là
    trung tâm của chuyển đổi số. Vì vậy những lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan
    hằng ngày với người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp
    tiết kiệm chi phí cần được ưu tiên chuyển đổi số trước, trong đó có 8 lĩnh vực
    được ưu tiên hàng đầu trong triển khai thực hiện. Đó là: y tế, giáo dục, tài chính –
    2
    ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên
    và môi trường và sản xuất công nghiệp.
    Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về Ban hành
    Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày
    04/11/2013 Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về Đổi
    mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
    hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
    nhập quốc tế đã nêu rõ: “Đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho sự phát triển,
    từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ
    thông tin để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”.
    Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ về Ban hành
    Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày
    01/7/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
    về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển
    bền vững và hội nhập quốc tế cũng nêu rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
    tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
    lý điều hành của cơ quan nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
    sức cạnh tranh, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các
    ngành kinh tế, kỹ thuật, các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, giao thông, xây
    dựng, điện, thuế, hải quan, tư pháp…”. Và “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
    tin để đổi mới phương thức quản lý, nội dung và chương trình đào tạo, phương
    thức dạy và học nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng nguồn nhân lực,
    thúc đẩy xã hội học tập, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”.
    Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ
    điện tử khi đề ra giải pháp chủ yếu đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo là “Thực hiện
    các giải pháp để nâng cao chỉ số thành phần nguồn nhân lực của Việt Nam theo
    phương pháp đánh giá Chính phủ điện tử của liên hợp quốc, công bố thông tin
    trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ và hàng năm chủ động đề nghị phối hợp
    với các tổ chức quốc tế liên quan để cung cấp các số liệu này kịp thời, đầy đủ;
    Xây dựng phương án và hướng dẫn thực hiện qua mạng điện tử việc xét tuyển đầu
    cấp học (bao gồm cả xét tuyển đại học, cao đẳng) trên toàn quốc; xây dựng và
    đưa vào triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục; Đẩy mạnh xã hội hóa đào
    tạo các cấp học trên mạng và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học,
    sách giáo khoa điện tử”.
    Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra những yêu cầu mới về kỹ
    năng của người lao động. Những kỹ năng của người lao động có thể được phân
    thành 3 nhóm: Một là các kỹ năng liên quan đến nhận thức; hai là các kỹ năng về
    thể chất; ba là các kỹ năng về xã hội.
    3
    Trong đó, các kỹ năng liên quan đến nhận thức bao gồm: Tư duy phản biện,
    kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tự phê bình (self-reflection);
    khả năng sáng tạo tri thức, hay chiến lược học tập.
    Các kỹ năng về thể chất bao gồm: Kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng về cuộc
    sống, kỹ năng số.
    Các kỹ năng về xã hội bao gồm: Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan
    hệ, ứng xử. Trong cuộc cách mạng sản xuất mới, khi tri thức tồn tại khắp nơi, xuất
    hiện trong mọi mặt của cuộc sống và hoạt động sản xuất, việc áp dụng những kiến
    thức chúng ta được học trở nên quan trọng hơn rất nhiều so với bản thân những
    kiến thức đó.
    Ngoài ra, khi hằng ngày hằng giờ đều có những thay đổi về mặt công nghệ,
    ảnh hưởng đến đời sống thì khả năng thích ứng và khả năng giải quyết vấn đề một
    cách linh hoạt, sáng tạo là những chìa khóa để người lao động thành công trong
    thời đại mới.
    Hơn nữa, xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu cũng yêu cầu
    người lao động có những kỹ năng mang tính toàn cầu hơn. Cụ thể, để cạnh tranh
    trong thời đại mới, người lao động cần sử dụng được nhiều hơn một ngôn ngữ,
    những kỹ năng xúc cảm cũng cần được phát triển để người lao động có thể làm
    việc trong môi trường đa quốc gia với các đồng nghiệp đến từ nhiều nơi trên thế
    giới.
    Như vậy, có thể thấy, để thực sự thành công trong chuyển đổi số của mỗi
    quốc gia, trong đó với Việt Nam, người dân là trung tâm của chuyển đổi số thì để
    tạo nền tảng vững chắc và đưa đến thành công về thực chất và lâu dài thì chuyển
    đổi số trong giáo dục phải thực sự được ưu tiên và đặt lên hàng đầu.
    Trên cơ sở học tập các module chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ
    thông 2018 đặc biệt là Module 9, xuất phát từ hiệu quả của hoạt động dạy và học
    trực tuyến trong thời kỳ thích ứng linh hoạt, hiệu quả trong phòng chống dịch
    Covid -19; những hiệu quả bước đầu khi thực hiện các quy định mới về kiểm tra
    đánh giá theo Thông tư số 26/2020/TT –BGDĐT cùng với việc cho phép học sinh
    sử dụng điện thoại thông minh trong giờ học theo Thông tư 32/2020/ TT –
    BGDĐT, các văn bản chỉ đạo về chủ trương thực hiện chuyển đổi số trong giáo
    dục cùng với những định hướng trong chương trình giáo dục phổ thông 2018,
    nhóm tác giả đã và đang từng bước nỗ lực thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt
    động giáo dục mà mình tham gia và phụ trách, đồng thời tích lũy được nhiều kinh
    nghiệm, sáng kiến trong thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục.
    Từ những lý do trên, nhóm tác giả mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh
    nghiệm “Một số giải pháp giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào quá
    trình chuyển đổi số ở trường THPT”.
    4
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1.Thực trạng của quá trình thực hiện chuyển đổi số ở Việt Nam và
    chuyển đổi số từ phía học sinh trường THPT Mỹ Lộc – Nam Định.
    1.1.1. Thực trạng của công tác chuyển đổi số hiện nay ở Việt Nam
    Thứ nhất, thực trạng của việc sử dụng mạng Internet của người dân
    Việt Nam.
    Việt Nam hiện là một trong các quốc gia có tỷ lệ sử dụng internet tăng
    trưởng nhanh nhất ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tính tới tháng 1/2020,
    Việt Nam có 64 triệu người dùng Internet, chiếm hơn 66% dân số. Việt Nam cũng
    có tới 62 triệu người dùng MXH. Trong số đó, 96% người sử dụng tài khoản
    Youtube và 95% có tài khoản Facebook. Hơn một phần ba trong số người sử dụng
    Internet ở Việt Nam là người chưa thành niên và thanh niên (trong độ tuổi 15-24,
    theo số liệu của Unicef).
    Với số lượng người dùng như vậy, Việt Nam hiện đang đứng thứ 7 thế giới,
    lần lượt sau các nước: Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Brazil, Mexico và Philippines.
    Người dùng chủ yếu tham gia với các bài đăng video và hình ảnh hoặc sử dụng
    Facebook Messenger để nhắn tin với bạn bè, hoặc giao dịch mua bán online. Nội
    dung chủ đạo trên MXH này là các video giải trí với đối tượng độc giả chủ yếu
    cũng là lớp trẻ. MXH ở một khía cạnh nào đó đã làm thay đổi thói quen, tư duy,
    lối sống, văn hóa của một bộ phận học sinh sinh viên hiện nay vì đây là nguồn
    nhân lực có khả năng tiếp nhận những tiến bộ khoa học một cách nhanh nhạy nhất,
    đồng thời đây cũng là lực lượng chịu tác động của các phương tiện thông tin truyền
    thông nhiều nhất trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Bên cạnh những
    tích cực mà MXH mang lại khi nó lan tỏa nhiều thông tin, kiến thức giá trị, kết
    nối con người với nhau một cách nhanh chóng và thuận tiện… nhiều hệ lụy cũng
    đã xảy ra, nhất là với giới trẻ.
    Thứ hai, thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế
    Tại Hội thảo đổi mới sáng tạo: Kết nối chính sách với doanh nghiệp Việt
    Nam do Tạp chí Kinh tế và Dự báo diễn ra (tháng 12/2021), bà Bùi Thu Thủy,
    Phó Cục trưởng Cục phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã chỉ rõ
    thực trạng của việc chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay: Việt
    Nam có tỷ lệ thuê bao bang thông rộng (cả cố đinh và di động) tương đối tốt so
    với một số quốc gia trong khu vực (Thái Lan, Indonesia, Malaysia). Tỷ lệ các
    doanh nghiệp trực tuyến sử dụng thanh toán kỹ thuật số cũng ngang bằng với một
    số nước trong khu vực. Tuy nhiên, môi trường kinh tế số của Việt Nam vẫn còn
    hạn chế. Cụ thể là, tỷ lệ giao dịch kỹ thuât số của Việt Nam chỉ đạt 22%. Trong
    khi đó, ở Indonesia là 34% và Thái Lan là 62%. Đồng thời, tỷ lệ thanh toán online
    5
    khi mua sắm trên internet của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực
    (chỉ đạt 10%) so với 49% của Indonesia và 52% của Malaysia. Điều này có nghĩa
    Việt Nam đang bị lãng phí tài nguyên số. Việc sử dụng nguồn tài nguyên này chưa
    thực sự đem lại hiệu quả cao về kinh tế đất nước. Đồng thời bà Thủy đã chỉ rõ
    “chuyển đổi số là giải pháp mà các doanh nghiệp không thể không triển khai.
    Chuyển đổi số nhằm nâng cao năng lực, lợi thế cạnh tranh, tạo ra các giá trị mới
    cho doanh nghiệp”
    Tuy nhiên, theo khảo sát về những rào cản khó khăn của doanh nghiệp trên
    các lĩnh vực (1300 doanh nghiệp tham gia khảo sát) khi thực hiện chuyển đổi số
    là: thứ nhất là chi phí đầu tư, ứng dụng công nghệ còn cao (60,1%); thứ hai, hạn
    chế trong thay đổi thói quen và tập quán kinh doanh (52,3%); thứ ba, thiếu nguồn
    nhân lực để ứng dụng công nghệ số (52,3%); ngoài ra còn có các rào cản về cơ sở
    hạ tầng công nghệ số, thiếu cam kết và hiểu biết của người lao động, khó khăn về
    hệ thống an ninh mạng.
    Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực có nhận thức, tư duy
    và thói quen gắn liền với chuyển đổi số cũng như năng lực số cần có khi tham gia
    vào các lĩnh vực kinh tế, các loại hình doanh nghiệp thì yêu cầu đặt ra đối với
    Giáo dục và đào tạo cần thay đổi kịp thời, thực hiện chuyển đổi số ngay từ các
    nhà trường phổ thông để góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ
    năng, năng lực số phù hợp.
    Thứ ba, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục
    Giáo dục là 1 trong 8 lĩnh vực được ưu tiên triển khai trong chương trình
    chuyển đổi số quốc gia. Với quy mô hơn 53.000 cơ sở giáo dục đào tạo, 24 triệu
    học sinh, sinh viên và 1,4 triệu giáo viên, ngành Giáo dục và Đào tạo xác định
    chuyển đổi số có vai trò quan trọng để triển khai đổi mới căn bản, toàn diện công
    tác giáo dục và đào tạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả các hoạt động giáo dục, phấn
    đấu Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số
    trong giáo dục và đào tạo. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, thời điểm
    dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đã có 80% trường phổ thông, 240 cơ sở đào tạo
    tổ chức dạy học trực tuyến, trong đó có 79 cơ sở tổ chức quản lý dạy – học hoàn
    toàn qua mạng. Việc phát triển học liệu số cũng được Bộ GDĐT chú trọng triển
    khai. Đến nay đã có 5.000 bài giảng e-learning; 2.000 bài giảng dạy trên truyền
    hình, 200 đầu sách giáo khoa phổ thông, 200 thí nghiệm ảo và hơn 35.000 câu hỏi
    trắc nghiệm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều cuộc thảo, tập huấn, các
    diễn đàn nhằm thúc đẩy nhanh và toàn diện quá trình chuyển đổi số để đáp ứng
    đòi hỏi của nền kinh tế về nguồn nhân lực chất lượng cao có kỹ năng, năng lực số
    phù hợp.
    6
    1.1.2. Thực trạng của việc trang bị các phương tiện cần thiết cho việc
    chuyển đổi số trong học tập của học sinh trường THPT Mỹ Lộc.
    1.1.2.1. Về trang thiết bị từ phía nhà trường
    Trong các năm học gần đây, nhà trường và các bậc cha mẹ học sinh đã trang
    bị tương đối đầy đủ các thiết bị cần thiết để bước đầu thực hiện chuyển đổi số
    trong học tập. Nhà trường có một phòng học STEM có máy tính và các công cụ
    cần thiết hỗ trợ học tập, các phòng tin học, phòng học bộ môn cùng với 20 phòng
    học được trang bị ti vi thông minh và hệ thống mạng Internet băng thông rộng ở
    tất cả các dãy nhà. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi tạo ra môi trường học tập
    hiện đại tại chính các lớp học trong nhà trường, có khả năng kết nối Internet vạn
    vật (IOT).
    1.1.2.2. Trang thiết bị từ phía học sinh
    Theo điều tra xã hội học (từ ứng dụng MS Forms và Google Form), chúng
    tôi nhận thấy
    Với 1115 học sinh tham gia điều tra tại trường THPT Mỹ Lộc chỉ có 5 học
    sinh chưa có thiết bị thông minh để học tập (chiếm 0,45%), trong khi đó có tới
    1110 học sinh được trang bị các thiết bị thông minh (chủ yếu là điện thoại thông
    minh chiếm 67%, Laptop chiếm 19,55%, máy tính bàn chiếm 10%, Ipad chiếm
    3%).
    Như vậy phần lớn học sinh đã được trang bị các thiết bị thông minh để có
    thể tham gia vào quá trình học tập kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, học tập
    trực tuyến, từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi số trong học tập. Đây là điều
    kiện vô cùng thuận lợi cho học sinh trong việc lĩnh hội tri thức (thời kỳ thích ứng
    linh hoạt, an toàn với dịch Covid – 19) đồng thời góp phần tạo nền tảng cơ sở vật
    chất từ phía học sinh cho việc thực hiện quá trình chuyển đổi số.
    1.1.3. Thực trạng của việc nhận thức về chuyển đổi số và chuyển đổi số
    trong giáo dục từ phía học sinh trường THPT Mỹ Lộc
    Máy tính bàn Laptop Ipad Điện thoại thông minh Không có thiết bị
    7
    Qua việc điều tra xã hội học (thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn chuyên
    sâu), nhóm tác giả đã tiến hành phân tích dữ liệu đã thu thập và nhận thấy:
    Mặc dù hầu hết học sinh trong nhà trường đều đã được cha mẹ trang bị các
    thiết bị hiện đại để học tập đồng thời đã tham gia học trực tuyến trong thời kỳ
    thích ứng linh hoạt trong việc phòng chống dịch Covid -19, tuy nhiên nhiều em
    còn khá mơ hồ về việc chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục.
    Theo thống kê cho biết, có tới 11,9 % (chiếm 133/1115 học sinh tham gia
    điều tra) chưa từng nghe thấy chuyển đổi số và 48.7% (chiếm 543/1115 học sinh)
    ít nghe thấy chuyển đối số. Đây là con số đáng lo ngại bởi lẽ, các bạn học sinh
    phần lớn chỉ dùng điện thoại thông minh (hay các thiết bị hiện đại, thông minh
    khác) để phục vụ cho nhu cầu liên lạc thông thường hoặc giải trí, hoặc chỉ dùng
    như một phương tiện để đăng nhập một cách thụ động và bắt buộc vào lớp học
    trực tuyến mà không để ý đến các tính năng khác cũng như quan tâm đến sự khác
    biệt trong quá trình học. Trong số các bạn được điều tra, chỉ có 14,4% học sinh
    thường xuyên và rất thường xuyên biết đến và nhận thức được về quá trình chuyển
    đối số hiện nay.
    Tương tự như thế, khi nhóm tác giả đặt câu hỏi “Quan niệm của em về
    chuyển đổi số như thế nào?” thì vẫn còn một số bạn có quan điểm hạn chế khi cho
    rằng chuyển đổi số là quá trình “sử dụng công nghệ vào các lĩnh vực của cuộc
    sống” (chiếm 7,7%) sử dụng các thiết bị vào các lĩnh vực của cuộc sống (chiếm
    10.5%); hoặc đơn giản là “thực hiện số hóa để lưu trữ thông tin”. Tuy nhiên, đa
    số các em khi được hỏi đã xác định được “chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng
    thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức
    sản xuất dựa trên các công nghệ số” (chiếm 77.7 %). Điều này hoàn toàn không
    mâu thuẫn với câu hỏi khảo sát ở trên (khi có tới trên 50 % không biết hoặc ít biết
    về chuyển đổi số) vì khi tham gia khảo sát, các em học sinh đã bước đầu tìm kiếm
    các thông tin liên quan đến chuyển đổi số.
    Biểu đồ về mức độ quan tâm đến chuyển đổi số của học sinh

    Hoàn toàn không biết
    Thường xuyên biết đến
    Ít biết đến
    Biết đến rất thường xuyên
    Biết đến khá nhiều

    8

    Nội dung khảo sátTỉ lệ (Kháo sát
    1115 HS)
    Sử dụng thiết bị thông minh vào các lĩnh vực của cuộc
    sống
    7,7%
    Ứng dụng công nghệ vào các lĩnh vực của cuộc sống10,5%
    Thực hiện số hóa để lưu trữ thông tin (chuyển từ tài liệu
    dạng giấy sang các file mềm trên máy tính)
    4,1%
    “Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện
    của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và
    phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số”.
    77,7%

    Bảng khảo sát về quan niệm của học sinh về chuyển đổi số
    Điều này cũng tương tự về nhận thức của học sinh liên quan đến khái niệm
    chuyển đổi số trong giáo dục. Đa số các em đều cho rằng chuyển đổi số trong giáo
    dục là “thực hiện khai thác thông tin, số hóa bài giảng, thực hiện quản lý, giảng
    dạy và học tập trong không gian số”. Một số khác, tuy không đầy đủ nhưng cũng
    đã bước đầu nhận thức được chuyển đổi số trong giáo dục là việc sử dụng các
    phần mềm ứng dụng để thiết lập và tham gia vào các lớp học (điều này hiện đang
    phù hợp với tình hình dạy trực tuyến hiện nay). Tuy nhiên cũng có một số ít học
    sinh cho rằng chuyển đổi số trong giáo dục là việc thầy cô giáo sử dụng phần mềm
    Powepoint và các thiết bị thông minh như máy tính, máy chiếu, ti vi để dạy học.
    Đây là quan điểm đã trở nên lỗi thời và không phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ
    của công nghiệp 4.0 hiện nay.

    Nội dung khảo sátTỉ lệ
    (Kháo sát 1115
    HS)
    Thầy cô giáo sử dụng phần mềm ứng dụng powerpoint để
    dạy học
    5,0%
    Thầy cô giáo sử dụng các thiết bị (máy chiếu, ti vi, …) để
    dạy học.
    8,8%
    Dùng phần mềm ứng dụng để thiết lập và tham gia các lớp
    học trực tuyến
    13,3 %
    Thực hiện khai thác thông tin, số hóa bài giảng, thực hiện
    quản lý, giảng dạy, học tâp trong không gian số
    72,9 %

    Bảng khảo sát về quan niệm của học sinh về chuyển đổi số trong giáo dục
    9
    Khi được hỏi về tầm quan trọng của việc chuyển đổi số trong giáo dục, đã
    có tới 66 % số học sinh được hỏi cho rằng cần thiết và rất cần thiết phải thực hiện
    chuyển đổi số trong giáo dục. Trong khi chỉ có 1 số ít cho rằng không cần thiết và
    ít cần thiết. Đây là tín hiệu đáng mừng bởi các em đã bước đầu nhận thức được
    về xu thế khách quan của việc chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số trong
    giáo dục nói riêng.
    Về điều kiện đầu tiên để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục thành công
    thì cần nhiều yếu tố. Qua khảo sát, học sinh trường THPT Mỹ Lộc đã có nhiều
    quan điểm khác nhau trong đó, quan điểm sự thay đổi về nhận thức của giáo viên,
    học sinh và cha mẹ học sinh” (chiếm 10,5%) ngoài ra còn có các quan điểm khác
    như “sự đổi mới về thiết bị dạy học” (chiếm 17,8 %), sự đổi mới về phương pháp
    kiểm tra và đánh giá (chiếm 23,4%), sự hoàn thiện và đồng bộ về cơ sở hạ tầng
    (chiếm 20,8%). Mỗi quan điểm đều đúng khi đứng ở các khía cạnh khác nhau
    nhưng theo nhóm tác giả, thì yếu tố thay đổi tư duy của các đối tượng tham gia
    vào quá trình chuyển đổi số là quan trọng nhất bởi chỉ có thay đổi tư duy thì mới
    tạo ra động lực và điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương pháp kiểm
    tra đánh giá. Bản thân TS. Tôn Quang Cường, Trưởng khoa công nghệ giáo dục,
    Trường Đại học giáo dục cho rằng, một trong những khó khăn của quá trình
    chuyển đổi sang dạy và học trực tuyến là thay đổi tư duy, thói quen làm việc tại
    các cơ sở đào tạo. “Tôi cho rằng hiện cơ sở vật chất hạ tầng của các đơn vị hoàn
    toàn có thể sẵn sàng chuyển đổi số. Tuy nhiên, có cái khó khăn lớn nhất là sự do
    dự, chưa hiểu chuyển như thế nào thường có tâm lý e dè. Bên cạnh đó, câu chuyện
    chuyển đổi số đòi hỏi cả một hệ thống. Trong khi chúng ta một số khâu thì làm
    trước, một số khâu chưa kịp làm thì hệ thống trực tuyến khó đạt hiệu quả. Ba là
    vấn đề về chính sách, vì làm chuyển đổi số sẽ có những hy sinh, có những cái phải
    đóng góp mà chúng ta thiếu cơ chế tạo động lực thì đôi khi sẽ tạo sự cản trở trong
    quá trình chuyển đổi số”. Trong hội nghị Bộ trưởng thế giới số tháng 10/2021
    Không cần thiết
    Ít cần thiết
    Khá cần thiết
    Cần thiết
    Rất cần thiết
    Biểu đồ nhận thức về tầm quan trọng phải thực hiện
    chuyển đôi số trong giáo dục
    10
    cũng đã nhận định “Chuyển đổi số không chỉ chuyển đổi công nghệ mà là chuyển
    đổi tư duy”.
    Từ nhận thức về tầm quan trọng phải thay đổi về tư duy trong quá trình
    chuyển đổi số, phần lớn học sinh đã đánh giá được mức độ quan trọng của việc
    sẵn sàng tiếp nhận chuyển đổi số trong giáo dục từ phía người học. Có tới 56,1%
    học sinh cho rằng vai trò của sự sẵn sàng tiếp nhận của người học là quan trọng
    và rất quan trọng. Như vậy, bản thân các em đã nhận thức đúng đắn vấn đề muốn
    thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục thành công thì yêu cầu người học phải có
    nhận thức và tham gia tích cực, chủ động vào quá trình đó thì mới có thể thành
    công.
    Bên cạnh đó, nhận thức của giáo viên và cha mẹ học sinh về việc thực hiện
    chuyển đổi số trong giáo dục cũng vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, cha mẹ học sinh
    và giáo viên sẽ là người định hướng quan tâm và hỗ trợ cho học sinh trong quá
    trình đó. Có tới 60% số học sinh được hỏi cho rằng mức độ của giáo viên đối với
    việc thúc đẩy học sinh thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục là quan trọng và rất
    quan trọng. Khoảng 7% số học sinh chưa đánh giá đúng về vai trò của giáo viên
    trong hỗ trợ, thúc đẩy học sinh chuyển đổi số.
    Biểu đồ về quan điểm điều kiện đầu tiên thực hiện
    chuyển đổi số
    Sự thay đổi về tư duy Sự đổi mới về thiêt bị học tập
    Sự đổi mới về kiểm tra đánh giá Sự hoàn thiện về cơ sở hạ tầng
    Biểu đổ nhận thức về tầm quan trọng về mức độ
    tham gia của người học trong thực hiện chuyển
    đổi số
    Không quan trọng Ít quan trọng Khá quan trọng
    Quan trọng Rất quan trọng
    11
    Tương tự, có tới 65% học sinh đánh giá cha mẹ học sinh có tầm quan trọng
    trong việc tạo điều kiện cho học sinh thực hiện chuyển đổi số trong học tập. Đây
    là nhận thức hoàn toàn đúng đắn vì cha mẹ học sinh là một trong các lực lượng
    quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong giáo dục. Chỉ khoảng
    5 % số học sinh của cả hai trường hợp nhận thức chưa đúng vai trò của cha mẹ
    học sinh đối với chuyển đổi số.
    1.1.4. Thực trạng của quá trình tham gia chuyển đổi số của học sinh trước
    khi thực hiện dự án
    Thứ nhất, về việc sử dụng các phần mềm để tham gia học tập và trao
    đổi trực tuyến.
    Qua phiếu điều tra, nhóm tác giả đã thống kê được tỉ lệ học sinh sử dụng
    các phần mềm, cụ thể được phản ánh thông qua sơ đồ sau đây:
    Biểu đồ về mức độ chủ động sử dụng các phần mềm tiện ích
    Đối với học sinh trường THPT Mỹ Lộc số lượng học sinh sử dụng phần
    mềm Zoom, Google Meet, MS Teams chiếm số đông nhưng chủ yếu do nhà
    trường và giáo viên yêu cầu trong dạy học trực tuyến để thích ứng linh hoạt an
    toàn trong phòng chống dịch bệnh Covid – 19. Các phần mềm khác có được sử
    dụng nhưng cũng chưa nhiều và chưa thực sự phổ biến.
    Nguyên nhân của tình trạng này là do: Bản thân các giáo viên cũng ít đổi
    mới, chưa thực sự tham gia vào quá trình chuyển đổi số, chưa biết vận dụng linh
    12
    hoạt vào việc tổ chức các hoạt động học cho học sinh. Ngoài ra, bản thân các bạn
    học sinh chưa có tâm thế, chưa có sự chủ động sáng tạo tham gia vào các hoạt
    động học có ứng dụng công nghệ số. Bởi vậy, việc chuyển đổi số trong nhà trường
    từ phía học sinh mới chỉ dừng lại ở việc tham gia vào các lớp học trực tuyến do
    nhà trường và giáo viên tổ chức.
    Thứ 2, về việc sử dụng các tài liệu học tập
    Đối với học sinh trường THPT Mỹ Lộc, phần lớn học sinh vẫn sử dụng tài
    liệu giấy là chủ yếu (67,8% sử dụng thường xuyên và rất thường xuyên). Đối với
    tài liệu số dạng văn bản chỉ có 40,9% học sinh sử dụng thường xuyên và rất thường
    xuyên. Tỉ lệ này càng ít đi đối với tài liệu số dạng âm thanh (22,7%); tài liệu số
    dạng video (22,8%); tài liệu số theo bài giảng E – Learning (11,2%); tài liệu số
    về ngân hàng đề thi có thể chấm thi tự động (10,6%); phần mềm mô phỏng thí
    nghiệm ảo (3,9%).
    Biểu đồ về mức độ sử dụng các dạng tài liệu học tập của học sinh
    Đây là thực trạng khi học sinh và giáo viên chưa thực sự tham gia vào quá
    trình chuyển đổi số. Ngay cả trong thời kỳ học tập trực tuyến tại nhà để phòng
    chống dịch bệnh Covid -19, nhóm tác giả quan sát và thấy, phần lớn các thầy cô
    giáo vẫn gửi tài liệu giấy đến trường và học sinh theo thời gian quy định đến để
    lấy về hoàn thành nhiệm vụ học tập. Một số giáo viên khác có thể sử dụng zalo,
    Messeger để gửi tài liệu số dạng văn bản cho các nhóm học sinh và yêu cầu các
    bạn tải về và hoàn thiện bài tập vào vở. Điều này chứng tỏ việc giáo viên và học
    sinh bắt tay vào chuyển đổi số còn rất hạn chế.
    13
    Thứ ba, về mức độ chủ động và thành thạo của học sinh trong ứng
    dụng công nghệ số vào quá trình học tập
    Với việc thiết kế bài trình chiếu Powerpoint, số học sinh không biết chiếm
    21,6%, chưa thành thạo chiếm 42,2%, thành thạo chỉ chiếm 7,8%; Việc làm bài
    trực tuyến theo yêu cầu của giáo viên, số học sinh không biết chỉ chiếm 0.9%,
    chưa thành thạo chiếm 10,1%; còn lại hơn 80% học sinh đã khá thành thạo và rất
    thành thạo; Do trong mấy năm liên tiếp, học sinh ở các lứa tuổi khác nhau đều
    phải học trực tuyến do ứng phó linh hoạt với dịch Covid -19, vì vậy hầu hết các
    em đều đã thành thạo với việc tham gia vào các phần mềm học tập trực tuyến do
    thầy cô và nhà trường tổ chức. Chỉ có một số rất ít học sinh chưa thành thạo khi
    tham gia các lớp học này (chiếm 2,2%). Đây là thông tin đáng mừng vì đó là điều
    kiện cơ bản đầu tiên kích thích học sinh tham gia vào quá trình chuyển đổi số
    trong học tập và lao động trong tương lai.
    Tương tự, việc các em tìm kiếm các tư liệu trên Web đã tương đối quen
    thuộc (chiếm tới trên 90 % số các bạn tham gia khảo sát). Một vấn đề nhóm tác
    giả băn khoăn là, việc tìm kiếm các tư liệu trên Web rất đa dạng và phong phú, có
    cả những tư liệu mang tính khoa học, có cả những tư liệu còn thiếu chính xác.
    Điều này khi thực hiện phỏng vấn sâu đối với các đối tượng học sinh ở các khối
    lớp, nhiều em cũng có cùng băn khoăn với nhóm tác giả. Vậy làm thế nào để tất
    cả học sinh có thể đến với các tư liệu minh bạch, đã được kiểm chứng về mức độ
    chính xác, khoa học và có tính giáo dục cao; đồng thời có thể giúp học sinh tiết
    kiệm được thời gian tìm kiếm. Để làm được điều đó, cần có sự chung tay của các
    thày cô giáo và các thế hệ học sinh trong nhà trường nói riêng, của cả hệ thống
    giáo dục nói chung.
    Theo phiếu điều tra, việc xử lý các thông tin của các học sinh tại trường
    THPT Mỹ Lộc đã khá thành thạo trở lên (chiếm tới trên 80%); Tuy nhiên, trên
    thực tế, khi nhóm tác giả phỏng vấn sâu đối với các giáo viên đang trực tiếp giảng
    dạy tại trường THPT Mỹ Lộc, việc các bạn học sinh có thể tìm kiếm được tư liệu
    trên Web là phổ biến, nhưng việc xử lý các tư liệu đó, biến các tư liệu đó thành
    nội dung học tập, thành kiến thức tiếp thu của bản thân là còn rất hạn chế. Chỉ có
    một số ít học sinh khá giỏi mới thực sự xử lý được các thông tin này (tất nhiên
    vẫn cần có sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn).
    Việc hoàn thành các sản phẩm học tập số của học sinh theo thống kê tại
    trường THPT Mỹ Lộc là khá thành thạo (41%), thành thạo (35,3%), rất thành thạo
    (11,2%); Chỉ có khoảng 12% học sinh không biết hoặc ít thành thạo khi hoàn
    thành các sản phẩm học tập số. Tuy vậy, khi được phỏng vấn sâu, học sinh nói,
    việc hoàn thành sản phẩm học tập số mới chỉ dừng lại ở chụp ảnh bài tập hoặc
    làm các bài tập trực tuyến là chủ yếu. Chỉ có một số rất ít học sinh có thể thiết kế
    các bài tập theo bản trình chiếu Powerpoint hoặc dạng bài tập video,
    14
    Infographics…. Đây là điểm yếu trong của học sinh trong quá trình thực hiện
    chuyển đổi số.
    Biểu đồ về mức độ thành thạo kỹ năng sử dụng phần mềm
    Điểm yếu này được minh chứng rõ nét trong nội dung mà nhóm tác giả khảo
    sát về mức độ chủ động, sáng tạo trong việc tạo ra các sản phẩm học tập số (Chỉ
    có 3,2% học sinh trường THPT Mỹ Lộc được cho là rất thành thạo; trong khi đó
    có tới 26,5% học sinh không biết, và gần 40% học sinh chưa thành thạo trong việc
    tạo ra các sản phẩm số.
    Phần lớn học sinh cũng đã biết trao đổi, tương tác với nhau ở các nhóm học
    tập (cũng chiếm tới trên 80% đối với học sinh tham gia khảo sát). Phần lớn các
    em đều thực hiện trao đổi với nhau thông qua nhóm Zalo, Messenger, Gmail…
    Đây là một điều kiện vô cùng thuận lợi để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc
    chuyển đổi số trong giáo dục, bởi chính đối tượng học sinh đã quen thuộc với việc
    trao đổi với nhau trên không gian mạng.
    Ngoài ra việc tham gia khảo sát hoặc học tập ở một số trang Web hoặc phần
    mềm của học sinh đã tương đối phổ biến. Đây là tín hiệu đáng mừng cho quá trình
    chuyển đổi số trong giáo dục từ phía học sinh đồng thời rèn luyện năng lực tự học
    cho học sinh. Điều này chứng tỏ học sinh trong nhà trường đang từng bước chủ
    động tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
    Về mức độ chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi số trong giáo
    dục từ phía học sinh
    Việc học sinh được trang bị điện thoại và các thiết bị thông minh khác có
    khả năng kết nối Internet vạn vật cùng với việc trong suốt 3 năm học qua học sinh
    phải thích ứng linh hoạt với dịch bệnh Covid -19, số học sinh tích cực chủ động
    15
    sử dụng các thiết bị thông minh và tham gia các lớp học trực tuyến chiếm tỉ lệ khá
    cao. Điều này được minh chứng trong biểu đồ sau đây
    Biểu đồ về mức độ chủ động tham gia chuyển đổi số của học sinh
    Đồng thời với đó, các em cũng đã chủ động lưu trữ tư liệu học tập số, làm
    các bài tập số và tương tác với thầy cô giáo và bạn bè. Tuy nhiên số học sinh chủ
    động tạo ra các sản phẩm học tập số không nhiều (chỉ chiếm 6,2%).
    Về hình thức học sinh tham gia vào quá trình chuyển đổi số
    Có nhiều hình thức học tập mà học sinh có thể tham gia vào quá trình
    chuyển đổi số. Theo khảo sát của nhóm tác giả tại trường THPT Mỹ Lộc, số lượng
    các em tham gia theo hình thức trực tuyến (30,7%) và trực tiếp kết hợp với trực
    tuyến (58,9%) là chủ yếu. Số lượng các bạn học sinh thực tận dụng các ưu thế của
    chuyển đổi số trong giáo dục để tự học là rất ít (1,2%).
    Như vậy, việc học sinh tận dụng tài nguyên số để tự học, tự ôn luyện còn
    hạn chế. Điều đó chứng tỏ rằng nhận thức của các bạn học sinh về vai trò của việc
    tự học để phát huy năng lực bản thân còn chưa cao. Do đó, cần phải có giải pháp
    thúc đẩy sự hình thành và phát huy năng lực tự học của mỗi em trên cơ sở sự
    Biểu đồ các hình thức học tập tham gia vào
    chuyển đổi số
    Trực tuyến Trực tiếp Kết hợp trực tuyến với trực tiếp Tự học
    16
    hướng dẫn của các thầy cô và sự tận dụng nguồn tài nguyên số trong bối cảnh hiện
    nay.
    1.1.5. Thực trạng việc nhận thức về tác động của chuyển đổi số đối với quá
    trình dạy và học trước khi thực hiện dự án
    Thứ nhất, sự tác động của chuyển đổi số đối với hình thức dạy học
    truyền thống
    Có một số ít học sinh cho rằng việc thực hiện chuyển đổi số không thay đổi
    hình thức dạy học truyền thống (5,8%); một số khác cho rằng thay đổi hoàn toàn
    (8,9%). Đây là sự nhận thức hoàn toàn trái ngược nhau, điều đó chứng tỏ những
    bạn học sinh này thực sự chưa hiểu đúng đắn về chuyển đổi số. Tuy nhiên, rất
    nhiều học sinh đã nhận thức được việc chuyển đổi số đã thay đổi một phần
    (57,6%) hoặc hỗ trợ cho dạy học trực tuyến (27,7%). Đây là nhận thức đúng đắn,
    thực tế khi các em đang tham gia vào quá trình chuyển đổi số gắn liền với các
    hoạt động học mà bản thân đang chủ động hoặc chưa chủ động tham gia.
    Thứ hai, nhận thức về mức độ tác động tích cực của chuyển đổi số với
    quá trình học tập của học sinh
    Khi được tham gia vào quá trình chuyển đổi số trong học tập, nhiều học
    sinh trong nhà trường đã thấy được những tác động tích cực của nó đối với học
    sinh. Từ 65 đến 85% số các bạn tham gia khảo sát đã cho rằng việc thực hiện
    chuyển đổi số đã tăng mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học, có thể tiếp
    cận thông tin đa chiều, rút ngắn thu hẹp về khoảng cách (thời gian và không gian),
    tiết kiệm chi phí (học tập, sinh hoạt, tài liệu học tập), tăng tính tương tác, thực
    hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học, trải nghiệm đa giác quan để hiểu,
    để nhớ, bồi dưỡng kiến thức, khả năng nhận thức và tư duy người học. Số liệu này
    giúp cho nhóm tác giả thêm tự tin để đề xuất các giải pháp để thực hiện chuyển
    đổi số ở trường THPT Mỹ Lộc. Vì khi nhận thức được tác động tích cực, thì các
    em sẽ tự giác, chủ động, nhiệt tình tham gia vào các hoạt động học gắn liền với
    chuyển đổi số.
    Biểu đồ nhận thức về tác động tích cực của chuyển đổi số
    17
    Thứ ba, nhận thức về mức độ hạn chế của chuyển đổi số với quá trình
    học tập của học sinh
    Biểu đồ nhận thức về sự hạn chế trong quá trình chuyển đổi số
    Bên cạnh sự nhận thức về tác động tích cực, thì đa số các em cũng đã chỉ
    ra được một số hạn chế của chuyển đổi số đối với quá trình học tập của bản thân.
    Chính vì nhận thức được các hạn chế của quá trình chuyển đối số sẽ giúp các em
    có sự điều chỉnh hành vi, thái độ của mình cho phù hợp để khắc phục các hạn chế
    trên. Mặc dù vậy, vẫn có một số ít không nhận thức được hạn chế của quá trình
    này. Điều này có thể được lý giải bởi hai lý do sau đây: một là học sinh nghiêm
    túc học tập, không sa đà, lôi kéo vào các ứng dụng không phục vụ cho học tập,
    tiếp nhận được đầy đủ sự hướng dẫn của giáo viên, tận dụng nguồn tài nguyên số
    để hình thành và phát triển kỹ năng sáng tạo,…; hai là, học sinh không quan tâm
    đến việc chuyển đổi số hoặc là không để ý hay cho rằng công nghệ thông tin là
    chỉ có tác động tích cực đối bản thân mình, hoặc bản thân say mê quá độ với công
    nghệ thông tin, với Internet nên không nhìn ra các hạn chế.
    1.2. Các đề tài nghiên cứu về quá trình chuyển đổi số trong giáo dục
    Trong những năm gần đây, khái niệm “chuyển đổi số” và “chuyển đổi số
    trong giáo dục” đã được đề cập đến trong các buổi hội thảo, các bài viết và một
    số đề tài nghiên cứu. Ví dụ như: Đề án chuyển đổi số quốc gia – Dự thảo 1.0 (ngày
    4/4/2019): xác định thực trạng về chuyển đổi số ở Việt Nam và đề ra yêu cầu và
    chủ trương chuyển đổi số trong các lĩnh vực ở Việt Nam (trong đó có giáo dục)
    và có so sánh với một số nước trên thế giới; Đề tài “Thời chuyển đổi số, trí tuệ
    nhân tạo và khoa học dữ liệu” của Hồ Tú Bảo – Viện nghiên cứu cao cấp về Toán
    trường ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh trong đó có nêu lên lên các khái niệm số
    hóa, công nghệ số và thời chuyển đổi số; đề tài “Nghiên cứu về phương pháp học
    tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo trực tuyến mở
    giành cho đại chúng – MOOCS (Massive online open: Courses): Kinh nghiệm thế
    giới và ứng dụng tại Việt Nam; bài viết “Kinh tế số và chuyển đổi số tại Việt Nam
    18
    đề cập đến thời cơ và thách thức trong chuyển đổi số tại Việt Nam; bài viết về
    chuyển đổi số trong giáo dục thời kỳ Corona – Tạp chí Giáo dục – viết về thách
    thức chuyển đổi số; bài viết “chuyển đổi số và tác động của chuyển đổi số trong
    giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Phương Dung – Bộ môn Toán, học viện
    ngân hàng trên báo Công thương viết về lợi ích của chuyển đổi số đối với Chính
    phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng đồng thời chỉ ra tác động của chuyển đổi
    số đến cuộc sống; bài viết “ chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: thực
    trạng và giải pháp” đăng trên cổng thông tin điện tử Học viện cảnh sát nhân dân
    đã viết về nội dung, điều kiện, thực trạng và giải pháp của chuyển đổi số nhưng
    mới chỉ mang tính chất khái quát trong đào tạo nguồn nhân lực cấp đại học; Buổi
    tọa đàm “chuyển đổi số từ góc nhìn khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo”
    trong đó đề cập đến 3 cấp độ của chuyển đổi số: số hóa, ứng dụng công nghệ số,
    chuyển đổi số; tọa đàm “chuyển đổi số trong giáo dục đại học với chủ đề “Công
    nghệ cho tương lai” – cổng thông tin Bộ Giáo dục và đào tạo đã chia sẻ việc đào
    tạo trực tuyến qua nền tảng LMS và LCMS; Hội thảo “chuyển đổi số trong giáo
    dục: thực trạng và giải pháp” ngày 4/11/2021; Hội thảo “ Chuyển đổi số để vận
    hành giáo dục hiệu quả chất lượng hơn” ngày 23/11/2021 đã xác định quá trình
    chuyển đổi số không phải của một tổ chức, một cá nhân, một trường học mà là
    vấn đề toàn cầu. Vì vậy cần phải nắm bắt kịp thời khoa học kỹ thuật, công nghệ
    4.0 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đồng thời phải có sự nhận thức xuyên suốt
    và toàn diện; có sự kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến qua lớp học ảo; bài viết
    “Chuyển đổi số trong giáo dục – thách thức và thời cơ” của Đỗ Thị Ngọc Quyên
    đăng trên báo Tia sáng – một ấn phẩm của Báo Khoa học và phát triển nói về giáo
    dục mở, học liệu mới, khoa học mở đồng thời nhấn mạnh về sự cần thiết về số
    hóa học liệu, tài liệu, sách giáo khoa, số hóa dữ liệu người học và kiểm tra đánh
    giá kết quả đầu ra của học sinh và môi trường giáo dục số; bài viết “Xu hướng
    chuyển đổi số trong ngành giáo dục” đăng trên cổng thông tin của FPT viết về
    thực trạng, hành trình, khó khăn và các giải pháp trong đó nói đến giáo dục tích
    hợp, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và an toàn thông tin cho các
    cấp học, ứng dụng công nghệ số trong kiểm tra đánh giá đánh giá và chuẩn bị bài
    trước khi lên lớp, số hóa cá nhân đối tượng học sinh.
    Tất cả các đề tài và bài viết đều nhất trí trong quan điểm phải thực hiện
    chuyển đổi số trong các lĩnh vực trong đó có chuyển đổi số trong giáo dục và đào
    tạo. Tuy nhiên, các đề tài, các bài viết, các cuộc hội thảo, tọa đàm đều dừng lại ở
    khái niệm và chỉ ra một cách khái quát các giải pháp và các yêu cầu cần thực hiện
    của quá trình chuyển đổi số. Trong đó có một số đề tài, bài viết, hội thảo đề cập
    đến chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nhưng mới nghiên cứu, nhìn nhận học
    sinh, sinh viên ở góc độ là đối tượng (khách thể) mà không phải là người chủ động
    thực hiện (chủ thể) của quá trình chuyển đổi số.
    19
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    2.1. Cơ sở lý luận của việc thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục hiện
    nay
    2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào
    tạo
    Về phía Đảng
    Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
    XI năm 2013 đã thông qua Nghị quyết về Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và
    Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
    trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã chỉ rõ: Giáo dục và
    đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
    Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
    trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Phát triển Giáo dục và Đào tạo là nâng
    cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục
    từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
    người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
    hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Phát triển giáo dục và đào tạo phải
    gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học
    và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.
    Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
    phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
    nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
    dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
    năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo,
    tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
    dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
    dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
    ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo
    cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
    Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.
    Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng
    cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo.
    Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII (2021), Đảng đã thông qua nghị quyết về
    giáo dục trong đó nhấn mạnh tiếp tục kế thừa coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào
    tạo, vừa là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám sát xu thế phát triển của
    nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy
    mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đồng thời tiếp tục phát triển
    trên tinh thần mới phù hợp với tình hình đất nước và thế giới: “phát triển nguồn
    nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc
    20
    Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế “Chú trọng giáo dục phẩm
    chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước,
    tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ
    quốc”“ chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho
    phát triển kinh tế tri thức”, đào tạo con người “có kỹ năng sống, kỹ năng làm
    việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập
    quốc tế”.
    Về phía Nhà nước
    Thực hiện Nghị quyết 29- NQ/TW (2013) của Đảng, nước ta đã từng bước
    thực hiện quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đến năm 2019,
    Quốc hội nước ta đã ban hành Luật giáo dục. Tại Điều 2 đã xác định mục tiêu
    giáo dục là “phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn
    hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công
    dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
    và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng
    cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của
    sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”; tại Điều 4 chỉ rõ “Phát
    triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học,
    công nghệ, xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận
    giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”; Tại Điều
    7 nhấn mạnh “Phương pháp giáo dục phải khoa học, phát huy tính tích cực, tự
    giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực
    tự học và hợp tác, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”;
    tại Điều 16 quy định “Tổ chức, gia đình và cá nhân có trách nhiệm chăm lo sự
    nghiệp giáo dục, phối hợp với cơ sở giáo dục thực hiện mục tiêu giáo dục, xây
    dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh”.
    Tháng 6 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình “Chuyển
    đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, với mục tiêu Việt
    Nam gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Chương trình
    nhấn mạnh người dân là trung tâm của chuyển đổi số. Vì vậy những lĩnh vực có
    tác động xã hội, liên quan hằng ngày với người dân, thay đổi nhận thức nhanh
    nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần được ưu tiên chuyển đổi số
    trước, trong đó có 8 lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong triển khai thực hiện. Đó
    là: y tế, giáo dục, tài chính – ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và
    logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường và sản xuất công nghiệp. Trong
    đó, giáo dục là lĩnh vực cần ưu tiên có tác động xã hội liên quan trực tiếp và hàng
    ngày tới người dân. Giáo dục được chuyển đổi số thành công sẽ giúp thay đổi
    nhận thức con người một cách nhanh nhất mang lại hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho
    21
    nhiều hoạt động trong đời sống xã hội đồng thời tạo động lực chuyển đổi số cho
    các ngành nghề khác.
    Về phía Bộ Giáo dục và đào tạo
    Đến năm 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các thông tư nhằm
    triển khai Luật Giáo dục 2019 một cách hiệu quả. Trong đó, Thông tư
    26/2020/TT- BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 15/8/2020 về
    việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung
    học cơ sở và học sinh trung học phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số
    58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
    Đào tạo, tại Điều 1, khoản 3 đã sửa đổi, bổ sung Điều 7 của Thông tư 58/2011,
    cho phép việc “kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện theo hình thức
    trực tiếp hoặc trực tuyến thông qua: hỏi – đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí
    nghiệm, sản phẩm học tập”; việc “kiểm tra, đánh giá định kì, gồm kiểm tra, đánh
    giá giữa kì và kiểm tra, đánh giá cuối kì, được thực hiện thông qua: bài kiểm tra
    (trên giấy hoặc trên máy tính), bài thực hành, dự án học tập”. Tại Thông tư 32,
    Điều 37. Những điều học sinh không được làm, khoản 4 đã quy định học sinh
    không được “Sử dụng điện thoại di động, các thiết bị khác khi đang học tập trên
    lớp không phục vụ cho việc học tập và không được giáo viên cho phép”. Với quy
    định này đồng nghĩa với việc học sinh có quyền sử dụng điện thoại di động và các
    thiết bị thông minh khác trong giờ học phục vụ mục đích học tập nếu được giáo
    viên cho phép.
    Ngày 9/12/2020, tại Hà Nội, Bộ GDĐT tổ chức hội thảo “Chuyển đổi số
    trong giáo dục và đào tạo”. Hội thảo đã nhấn mạnh yêu cầu cần thiết phải tích cực
    phải chuyển đổi số trong giáo dục nhằm hướng tới việc đào tạo những công dân
    Việt Nam có kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số để trở thành công dân toàn cầu.
    Trong năm 2021, Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo,
    tọa đàm như: Chuyển đổi số trong giáo dục đại học với chủ đề “Công nghệ cho
    tương lai”; “Chuyển đổi số để vận hành giáo dục hiệu quả, chất lượng hơn”;
    “Chuyển đổi số trong giáo dục: thực trạng và giải pháp”. Bộ GDĐT đã nhấn mạnh
    ngành giáo dục rất quan tâm tới việc đào tạo những công dân Việt Nam có kiến
    thức, kỹ năng chuyển đổi số để trở thành công dân toàn cầu (có khả năng thích
    ứng sống và lầm việc tại nhiều quốc gia). Chính vì vậy, chuyển đổi số được ngành
    xác định là khâu đột phá, nhiệm vụ quan trọng cần chú trọng triển khai thực hiện
    những năm tới đây, nhằm rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo
    dục, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và đóng góp tích cực vào quá trình chuyển
    đổi số quốc gia. Chuyển đổi số trong giáo dục, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn
    mạnh là “phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ
    số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây
    dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp
    và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể
    22
    hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm
    chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20%
    nội dung chương trình…”.
    Về phía Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định
    Đối với Sở giáo dục và đào tạo Nam Định cũng đã ra nhiều văn bản chỉ đạo
    như: Kế hoạch số 120/KH-UBND ngày 31/12/2020 của UBND tỉnh Nam Định về
    việc Chuyển đổi số tỉnh Nam Định giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm
    2030; Kế hoạch số 122/KH-UBND ngày 22/10/2021 của UBND tỉnh về việc thực
    hiện Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 15/10/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
    Nam Định về chuyển đổi số tỉnh Nam Định đến năm 2025, định hướng đến năm
    2030; Kế hoạch số 480/KH-SGDĐT ngày 08/04/2021 về Chuyển đổi số ngành
    Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Nam Định giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến
    năm 2030: Công văn 1739 về ứng dụng công nghệ thông tin phát triển chính quyền
    số; Hướng dẫn 1804 về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin – chuyển đổi
    số; công văn 1638 về quy định thích ứng với linh hoạt với dịch Covid – 19. Tất
    cả các văn bản chỉ đạo trên đều chỉ rõ mục tiêu và yêu cầu cần thiết phải thực hiện
    chuyển đổi số trong giáo dục ở địa phương, trong đó có xác định mục tiêu xây
    dựng kho học liệu số của ngành (bài giảng điện tử e-learning, dữ liệu về đề thi, đề
    kiểm tra, đề ôn thi tốt nghiệp THPT quốc gia các môn học) được chia sẻ trực tuyến
    đáp ứng được 10% nhu cầu về tài liệu giảng dạy, học tập đối với giáo viên, học
    sinh và học viên.
    Như vậy, Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện lộ trình
    đổi mới toàn diện, liên tục, đồng bộ hệ thống giáo dục và đo tạo nhằm phát huy
    năng lực của người học đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và
    hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Trong đó, chú trọng đổi mới phương pháp
    dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
    vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
    chiều, ghi nhớ máy móc; gắn đổi mới giáo dục với tiến bộ khoa học công nghệ,
    phát triển khả năng sáng tạo, tự học của học sinh, khuyến khích học tập suốt đời,
    tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi
    hình thức, học tập suốt đời.
    Có thể thấy, việc thực hiện chuyển đổi số ở mỗi nhà trường phổ thông nói
    chung và chuyển đổi số từ mỗi học sinh nói riêng là một yêu cầu cần thiết góp
    phần thực hiện hiệu quả, thành công yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục của
    Đảng – Nhà nước và ngành Giáo dục đào tạo.
    2.1.2. Quan điểm về chuyển đổi số trong giáo dục
    2.1.2.1. Quan niệm chung về chuyển đổi số
    Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số. Mặc dù thuật
    ngữ này đã xuất hiện phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, tuy nhiên
    lại không có một định nghĩa chung nào cho tất cả.
    23
    Có quan niệm cho rằng “Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và
    toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản
    xuất dựa trên các công nghệ số”.
    Theo trang Tech Republic – Tạp chí trực tuyến, cộng đồng xã hội dành cho
    các chuyên gia công nghệ thông tin, khái niệm chuyển đổi số là “cách sử dụng
    công nghệ để thực hiện lại quy trình sao cho hiệu quả hơn hoặc hiệu quả hơn”.
    Theo Gartner chuyển đổi số là “việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi
    mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới”.
    Microsoft lại cho rằng “Chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ
    chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới”.
    Đối với FSI – doanh nghiệp chuyển đổi số hàng đầu Việt Nam: “Chuyển
    đổi số là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số, bằng
    cách áp dụng công nghệ mới như điện toán đám mây (Cloud), dữ liệu lớn (Big
    data), Internet vạn vật (IOT), …thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy
    trình làm việc, văn hóa công ty…”.
    Với Chuyển đổi số (Digital Transformation) trong tiếng Anh là “sự tích hợp
    các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng
    các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và
    cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc
    các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa của
    các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm
    cái mới và thoải mái chấp nhận các thất bại”.
    Do cách tiếp cận từ các góc độ khác nhau, quan niệm khác nhau nên cách
    diễn đạt của các định nghĩa trên không giống nhau. Nhưng, về nội hàm tất cả các
    định nghĩa trên đều có điểm chung: Chuyển đổi số (Digital Transformation) là
    việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện
    tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống,
    làm việc và liên hệ với nhau.
    Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang triển khai các chiến lược
    quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung chuyển đổi số rất rộng và đa dạng nhưng có
    chung một số nội dung chính gồm chính phủ số (dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu
    mở), kinh tế số (tài chính số, thương mại điện tử), xã hội số (giáo dục, y tế, văn
    hóa) và chuyển đổi số trong các ngành trọng điểm (nông nghiệp, du lịch, điện lực,
    giao thông). Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam nói chung và ngành
    Giáo dục và Đào tạo nói riêng cũng không thể thoát ly khỏi xu thế chung của thế
    giới.
    “Chuyển đổi số” (Digital Transformation) có thể dễ bị nhầm lẫn với khái
    niệm “Số hóa” (Digitizing). Để phân biệt hai khái niệm này, có thể hiểu rằng “Số
    24
    hóa” là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ
    thuật số (chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy
    tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số…);
    trong khi đó, “Chuyển đổi số” là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa,
    rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá
    trị mới hơn. Có thể xem “Số hóa” như một phần của quá trình “Chuyển đổi số”
    2.1.2.2. Quan niệm về chuyển đổi số trong giáo dục
    Chuyển đổi số trong ngành giáo dục là việc áp dụng công nghệ, cũng dựa
    vào mục đích, cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục và được ứng dụng dưới ba hình
    thức chính:
    Thứ nhất: Ứng dụng công nghệ trong lớp học như cơ sở vật chất lớp học,
    công cụ giảng dạy.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học thực hiện dự án nghiên cứu hoạt tính sinh học của dịch chiết cây xuyến chi Bidens Pilosa và ứng dụng trong xử lý một số bệnh nấm, côn trùng trên cây trồng đạt hiểu quả

    SKKN Hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học thực hiện dự án nghiên cứu hoạt tính sinh học của dịch chiết cây xuyến chi Bidens Pilosa và ứng dụng trong xử lý một số bệnh nấm, côn trùng trên cây trồng đạt hiểu quả

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Công văn số 3089/BGDĐT-GDTrH ngày 26/12/2018 về việc triển khai thực
    hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học nhằm hỗ trợ các trường phổ thông
    triển khai thực hiện có hiệu quả giáo dục Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán
    học (STEM); tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật.
    Hiện nay giáo dục STEM ngày càng được chú trọng quan tâm ở các nước
    phát triển bởi nó thúc đẩy sự hiểu biết của Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán
    học cũng như nâng cao khả năng tư duy của người học. Đồng thời, khối ngành
    STEM là một ngành nghề đang có sự thu hút lớn về nguồn nhân lực chất lượng
    cao, có mức lương trung bình cao hơn hẳn so với các ngành nghề khác. Bởi vậy
    tiếp cận với giáo dục STEM là một hướng đi đúng đắn, một khoản đầu tư có lãi
    giúp cho học sinh trang bị hành trang tốt nhất để thích ứng và phát triển trong kỷ
    nguyên công nghệ 4.0.
    Trong chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã cụ thể hóa mục tiêu
    giáo dục phổ thông, trong đó có mục tiêu: giúp người học làm chủ kiến thức phổ
    thông; biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời; có định
    hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; Riêng đối với chương trình giáo dục trung
    học phổ thông giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần
    thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý
    thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở
    thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham
    gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh
    toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới.
    Theo thống kê trên báo kinh tế (tháng 11 năm 2019), trong số gần 8 triệu
    học sinh đang theo học ở 2 bậc THCS và THPT, mới có khoảng 20.000 học sinh
    tham gia các dự án nghiên cứu khoa học (đạt tỷ lệ gần 0,3%), bình quân mỗi
    trường học có một học sinh tham gia. Ngoài ra, số lượng học sinh tham gia nghiên
    cứu khoa học chưa đồng đều, học sinh còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn.
    Nhằm đáp ứng nhu cầu trên, từ năm học 2019 – 2020, trường THPT Mỹ Lộc
    đã đặc biệt quan tâm giáo dục STEM và hướng dẫn học sinh tham gia nghiên cứu
    khoa học kỹ thuật. Chúng tôi được nhà trường tạo điều kiện tham gia lớp tập huấn
    “khóa tập huấn chuyên sâu về giáo dục STEM” trong dự án “Chương trình hỗ trợ
    đưa giáo dục STEM tới học sinh THPT” do trường Đại học VinUni, tập đoàn
    VinGroup tổ chức và tài trợ. Trường đã thành lập câu lạc bộ STEM với ba chuyên
    đề: robot và tự hành, toán ứng dụng, cảm biến và dữ liệu. Khi tham gia sinh hoạt
    trong câu lạc bộ giúp các em học sinh vận dụng các kiến thức đã được học vào
    2
    thực tế, từ đó giúp các em hiểu sâu kiến thức và nhận ra điểm mạnh của chính bản
    thân để phát huy. Không những thế khi các em tham gia câu lạc bộ còn được bồi
    dưỡng kỹ năng STEM. Từ những buổi sinh hoạt trong câu lạc bộ số lượng học sinh
    có năng lực, sở thích và hứng thú với các hoạt động tìm tòi, khám phá khoa học, kỹ
    thuật giải quyết các vấn đề thực tiễn ngày càng nhiều hơn. Từ đó, chúng tôi đã tạo
    điều kiện thuận lợi để học sinh tham gia nghiên cứu khoa học, kỹ thuật qua các dự
    án dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
    Đối với bản thân chúng tôi, là những nhà giáo chúng tôi luôn mong muốn
    học sinh biết cách vận dụng kiến thức đã được học của các môn Khoa học, Công
    nghệ, Kỹ thuật và Toán học để làm ra các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng
    ngày. Từ đó sẽ giúp các em rút ngắn khoảng cách kiến thức giữa lý thuyết và thực
    hành, các em cảm thấy yêu thích các môn học hơn. Và quan trọng nhất là khơi dậy
    và thúc đẩy được niềm đam mê, tìm tòi, khám phá, phát triển tư duy phản biện, xây
    dựng lập trường cho chính bản thân các em học sinh.
    Trong năm học 2020 – 2021, tại cuộc thi “Ngày hội STEM và cuộc thi khoa
    học kỹ thuật dành cho học sinh trung học” do Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Nam
    Định tổ chức, chúng tôi đã hướng dẫn hai em học sinh Nguyễn Cao Lộc, Trần Bá
    Tài nghiên cứu và tham gia dự thi với tên đề tài “Hệ thống rửa tay thông minh
    trong trường học”. Kết quả của cuộc thi, đề tài đã đạt được giải Ba cấp tỉnh.
    Đặc biệt, trong năm học 2021 – 2022, chúng tôi hướng dẫn hai em học sinh
    Nguyễn Thị Anh Thư và Trần Minh Anh nghiên cứu khoa học kĩ thuật với tên đề
    tài “Nghiên cứu hoạt tính sinh học của dịch chiết cây xuyến chi (bidens pilosa) và
    ứng dụng trong xử lý một số bệnh nấm, côn trùng trên cây trồng” tham gia trong
    cuộc thi “Cuộc thi khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học” do Sở giáo dục
    và đạo tạo tỉnh Nam Định tổ chức. Kết quả đề tài do chúng tôi hướng dẫn đã đạt
    được Giải Nhất lĩnh vực. Và là một trong hai sản phẩm được Sở giáo dục và đạo
    tạo tỉnh Nam Định chọn đại diện tham gia cuộc thi “Nghiên cứu khoa học, kỹ thuật
    cấp Quốc gia dành cho học sinh trung học”. Tại cuộc thi đề tài do chúng tôi hướng
    dẫn đã đạt được giải “Triển Vọng”.
    Từ quá trình đó, chúng tôi đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu để
    hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
    Với các lý do trên, chúng tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh nghiệm
    thuộc lĩnh vực “Lĩnh vực hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp” với đề tài:
    “Hướng dẫn học sinh thực hiện dự án: Nghiên cứu hoạt tính sinh học của dịch
    chiết cây xuyến chi (Bidens pilosa) và ứng dụng trong xử lý một số bệnh nấm,
    côn trùng trên cây trồng” với mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm trong
    quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học kỹ thuật áp dụng cho học sinh
    3
    trung học phổ thông tới bạn bè, đồng nghiệp giúp giáo viên và học sinh có thêm
    niềm đam mê, tự tin trong việc dạy và học theo định hướng giáo dục STEM cũng
    như trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thực trạng nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại các trường THPT
    Từ năm học 2017 – 2018 đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào các văn
    bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học chỉ đạo các địa phương trên
    toàn quốc tích hợp STEM trong quá trình thực hiện chương trình giáo dục phổ
    thông hiện hành ở những môn có liên quan.
    Trước đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai các phong trào, các cuộc thi
    trong nhà trường phổ thông theo hướng này, điển hình như: cuộc thi khoa học kỹ
    thuật dành cho học sinh trung học; vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết tình
    huống thực tiễn; sáng kiến giáo dục STEM – SchoolLAB dành cho học sinh trung
    học… Từ những chương trình thí điểm, những phong trào, cuộc thi này bước đầu
    đã có những tác động tích cực, lan tỏa, làm chuyển biến trong dạy và học tại các
    trường phổ thông trên cả nước. Trên cơ sở đó, học sinh được thực hành, trải
    nghiệm nhiều hơn, học tập gắn với cuộc sống thực hơn. Tuy nhiên, các phong trào
    vẫn dừng lại ở hình thức các cuộc thi, thao giảng mà chưa trở thành hoạt động
    thường xuyên, phổ biến và tự nguyện của giáo viên phổ thông.
    Thực trạng, việc triển khai giáo dục STEM ở các trường THPT, đặc biệt là
    hoạt động nghiên cứu khoa học, kỹ thuật diễn ra chưa thường xuyên trong năm học
    và chưa thu hút được đông đảo giáo viên, học sinh tham gia, bởi một số nguyên
    nhân sau đây:
    Thứ nhất là, sự hiểu biết của học sinh về phong trào nghiên cứu khoa học
    trong trường chưa đủ cả về chất và lượng.
    Thứ hai là, chưa có một kênh thông tin nào thường xuyên và mạnh mẽ đưa
    những nội dung về vấn đề này đến học sinh, vì thế các bạn học sinh hầu hết hoặc là
    coi nghiên cứu khoa học là khá xa vời, chỉ dành cho những học sinh xuất sắc,
    không phải là mình.
    Thứ ba là, chưa có những cơ chế thu hút học sinh tham gia các hoạt động
    nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, học sinh chưa hiểu rõ nghiên cứu khoa học là như
    thế nào, không biết bắt đầu từ đâu hay nghiên cứu những gì.
    Thứ tư là, điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nhiều
    trường chưa có phòng học STEM hoặc phòng thực hành để học sinh có nơi làm
    4
    việc nhóm, nghiên cứu, thí nghiệm. Mặt khác, với các nội dung học tập chuyên sâu
    hơn như khoa học máy tính, robotic, lập trình thì cần đầu tư kinh phí lớn hơn, nên
    đây cũng là những khó khăn không nhỏ cho triển khai dạy học STEM để từ đó các
    em có thể nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
    1.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng của cây xuyến chi
    Trên thế giới
    – Thành phần hóa học
    Trong chi Song nha (Binden L.), thành phần hóa học của loài Bidens pilosa
    L., được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhiều. Có khoảng 149 hợp chất
    được phân lập từ loài Bidens Pilosa L. Các chất này thuộc các nhóm như
    flavonoid, acetylenic, phenylpropanoid, terpenoid và nhóm chất kahcs. Trong đó,
    nhóm flavonoid đã được phân lập 57 hợp chất thuốc các nhóm chalcone, auron,
    flavon, flavonol, flavanol; Nhóm acetylenic đã phân lập được 34 hợp chất; Nhóm
    terpenoid đã phân lập được 25 hợp chất; Nhóm phenylpropanoid đã phân lập được
    19 hợp chất và 14 chất thuộc nhóm chất khác.
    – Độc tính của cao chiết: Theo Ezeonwumelu và CS [9] thử nghiệm độc
    tính của dịch chiết trong dung môi nước trên chuột. Cao chiết liều 10g/kg không
    gây ra độc tính. Đồng thời với liều 800 mg/kg dung liên tục trong 28 ngày không
    gây ra độc tính bán cấp.
    – Tác dụng sinh học:
    Theo kinh nghiệm dân gian của một số nước trên thế giới, loài B. pilosa
    được sử dụng để điều trị nhiều bệnh khác nhau, trong đó có cả những bệnh nan y
    như tiểu đường, ung thư. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu
    thành phần hóa học và thử nghiệm hoạt tính sinh học. Đến nay tác dụng sinh học
    của loài B. pilosa được phát hiện như tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, điều hòa
    hệ miễn dịch, chống oxi hóa, kháng ký sinh trùng sốt rét, ức chế tế bào ung thư và
    khối u, bệnh tiểu đường typ I, Typ II …. [6], [7], [10].
    Ở Việt Nam
    – Thành phần hóa học
    Theo kết quả nghiên cứu của Đỗ Đình Rãng [4], dịch chiết methanol từ lá và
    thân cây xuyến chi (đơn kim) thu hái ở khu vực Cầu Giấy – Hà Nội có chứa tannin,
    sterol, glycoside trợ tim, vết alkaloid và saponin. Một hợp chất là olean-1,2-en đã
    được phân lập từ dịch chiết n-hexan lá và thân cây xuyến chi. Hàm lượng tinh dầu
    có trong hoa là 0,093% (thể tích/khối lượng tính theo khối lượng hoa tươi) và tinh
    5
    dầu hoa có chứa α-pinen (34,14%), δ-3-caren (2,75%), limonen (6,34%), cisoxymen (12,23%), trans-oxymen (3,24%), trans-cariophilen (5,53%) và
    germacrene (4,43%).
    Năm 2020; Nguyễn Ngọc Chi, Nguyễn Diệu Linh, Võ Văn Lẹo đã công bố 3
    hợp chất được phân lập từ phân đoạn ethy acetat của phần trên mặt đất của cây
    xuyến chi gồm: uracil, centaurein và acid protocatechuic.
    – Độc tính: Theo kinh nghiệm dân gian rất nhiều người dân sử dụng lá ngọn
    và lá của cây xuyến chi xào để ăn.
    – Tác dụng sinh học: Theo Đỗ Đình Rãng, cặn dịch chiết methanol từ lá và
    thân cây có tác dụng kháng khuẩn trên cả vi khuẩn Gram (+) và Gram (-) là E.
    Coli, B. Subtilis, S. Aureus, P. Mirabilis, S. Typhi và 2 chủng âm là A. Niger, C.
    Albicans. Đồng thời dịch chiết trên mặt đất có tác dụng chống viêm cấp trên mô
    hình gây phù viêm bằng carrageenin và có tác dụng giảm đau trên cả 2 mô hình
    gây đau bằng acid acetic và mâm nóng.
    Như vậy hiện nay trên thế giới và Vệt Nam chủ yếu đi sâu nghiên cứu hoạt
    tính sinh học của cây xuyến chi ứng dụng dược liệu này trong quá trình trị bệnh
    cho con người, mà bỏ qua những nghiên cứu, công dụng đơn giản nhưng không
    kém phần quan trọng đối với môi trường sống và sức khỏe của con người. Vì thế
    cho nên chúng tôi đã hướng dẫn học sinh chọn lựa đối tượng nghiên cứu là ứng
    dụng dịch chiết để xử lý vi khuẩn và nấm gây hại trên cây thực vật, hướng dẫn học
    sinh chọn dung môi C2H5OH-700 với lý do an toàn cho học sinh THPT khi tiến
    hành các thí nghiệm.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Nội dung của sáng kiến là các bước chúng tôi đã thực hiện hướng dẫn học
    sinh áp dụng các kiến thức được học ở nhà trường, đặc biệt là các môn Hóa học,
    Sinh học, Công nghệ, Toán học và Tin học, giúp học sinh hứng thú hơn trong việc
    học và nhận thức rõ hơn vai trò thực tiễn của các kiến thức khoa học. Học sinh
    được trải nghiệm khám phá các ứng dụng của các môn khoa học trong thực tiễn
    đời sống, từ đó lan tỏa giúp học sinh đam mê nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Mục
    đích sâu xa hơn là để học sinh đưa kiến thức mình tiếp thu được gần với thực tế, từ
    đó thêm hứng thú với môn học, đồng thời có định hướng nghề nghiệp phù hợp với
    bản thân mình hơn trong tương lai.
    Chúng tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện dự án này theo tiến trình nghiên
    cứu sau:
    6
    Sơ đồ quy trình thực hiện dự án
    2.1. Tìm hiểu tổng quan về lý thuyết
    2.1.1. Kiến thức nền các môn Khoa học tự nhiên
    – Môn Hóa học:
    Học sinh sử dụng kiến thức về tách chiết hợp chất hữu cơ từ thực vật. Chúng
    tôi hướng dẫn học sinh sử dụng phương pháp ngâm dầm vì: Thứ nhất, nguồn
    nguyên liệu cây xuyến chi rất phổ biến, cây tự mọc, dễ dàng phát triển với các điều
    kiện khắc nghiệt của thời tiết. Thứ hai, không cần các trang thiết bị, dụng cụ thí
    nghiệm hiện đại, với điều kiện cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm ở tất cả các trường
    THPT hoặc ở hộ gia đình dễ thực hiện.
    Phân tích sơ bộ các nhóm chất hữu cơ: Theo phương pháp phân tích sàng lọc
    các nhóm hợp chất thiên nhiên có trong cây bằng phản ứng hóa học.
    Sử dụng bảng tín hiệu phổ hồng ngoại IR để xác định một số nhóm chức cơ
    bản có trong dịch chiết.
    Sử dụng phương pháp kết tủa để điều chế dung dịch Boocđo.
    – Môn Sinh học
    Tìm hiểu về một số vi khuẩn và nấm thường gây bệnh trên cây khoai tây.
    Sử dụng phương pháp khuếch tán giếng thạch để đánh giá hoạt tính kháng
    khuẩn, kháng nấm của dịch chiết.
    Sử dụng phương pháp đo mật độ quang (OD) để đánh giá hoạt tính kháng
    7
    khuẩn, kháng nấm của dịch chiết.
    – Môn Tin học
    Học sinh sử dụng kiến thức lập trình arduino để lập trình module cảm biến
    pH để đo nồng độ pH trong các mẫu.
    – Môn Công nghệ lớp 10
    Bài 18: Thực hành pha chế dung dịch Booc đô phòng, trừ nấm hại.
    2.1.2. Cây xuyến chi và hoạt tính sinh học ở thực vật
    2.1.2.1. Cây xuyến chi
    Đặc điểm thực vật
    Theo Lê Kim Biên [1], loài Đơn kim hay xuyến chi tên khoa học là Bindens
    Pilosa L. ở Việt Nam còn có một loài là Đơn buốt tỏa tia (Bidens Pilosa Var.
    radiata). Loài này khác với loài gốc kể trên ở chỗ: Đường kính cụm hoa đầu nhỏ
    hơn, các hoa ở viền ngoài gồm 5 – 6 cánh, dạng lưỡi nhỏ, phím lưỡi màu trắng, dài
    từ 8 – 15 mm. Trong khi đó loài gốc (Bidens Pilosa L.) có hoa ở viên ngoài, có thể
    có 7 hoặc 8 cánh, phiến lưỡi ngắn, chỉ khoảng 5 – 8 mm (ngắn hơn Var.radiata).

    Hình ảnh cây xuyến chi tại trường THPT Mỹ Lộc và tại xã Mỹ Thành

    Thêm một đặc điểm quan trọng nữa để phân biệt loài Đơn kim (xuyến chi)
    với loại đơn buốc tỏa tia là sự phân bố ở Việt Nam. Cụ thể cây xuyến chi phân bố
    rộng rãi ở khắp mọi nơi như: Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Phú Thọ, Hà Nội,
    Nam Định, …. [1] còn cây Đơn buốc tỏa kim mới chỉ thấy ở các tỉnh miền núi như
    Cao Bằng, Lạng Sơn, Đắc Lắc và Lâm Đồng [1].
    Theo nghiên cứu, quan sát của chúng tôi hướng dẫn học sinh, cây xuyến
    chi ở vườn trường THPT Mỹ Lộc và trên đồng ruộng xã Mỹ Thành thì đối tượng
    8
    nghiên cứu của nhóm chúng tôi hướng dẫn học sinh đề là loài cây xuyến chi hay
    Đơn kim (Bidens Pilosa L.) thuộc học Cúc (Asteraceae) ở Việt Nam.
    Phân bố
    Trên thế giới, cây xuyến chi được cho là có nguồn gốc ở Ấn Độ, ngoài ra
    còn phổ biến ở các nước Châu Phi và Châu Âu.
    Ở nước ta cây xuyến chi có mặt ở trên khắp cả nước từ các tỉnh Trung du
    và miền núi phía Bắc, khu vực đồng bằng đến các tỉnh Tây Nguyên rồi cả các tỉnh
    Đồng Nam Bộ. Loài cây này dễ mọc, dễ lan, trong mọi điều kiện thời tiết và trong
    mọi điều kiện thổ nhưỡng của Việt Nam.
    Công dụng của một số loài thuộc chi Song nha (Bidens L.)
    Các loài thuộc chi Song nha (Bidens L.) được tìm thấy nhiều nơi trên thế
    giới, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhân dân nhiều nước trên
    thế giới đã biết sử dụng một số loài trong chi này để điều trị bệnh. Tuy nhiên, việc
    sử dụng các loài thuộc chi Bidens vẫn chủ yếu theo kinh nghiệm dân gian tùy theo
    nhân dân từng địa phương. Cho đến nay, theo các tài liệu đã tổng hợp được thì mới
    chỉ thấy có một chế phẩm được bào chế từ loài Bidens Pilosa L., và có hai loài
    khác, có tên thương mại là CearGuardTM được thử nghiệm lâm sàng để điều trị
    viêm mũi dị ứng [8]. Dưới đây là công dụng của một số loài thuộc chi Song nha:
    – Cây xuyến chi có vị đắng, nhạt, hơi cay và tính mát nên có tác dụng tốt
    trong việc thanh nhiệt cho cơ thể, giải độc, sát trùng các vết thương, chống viêm.
    Nó thường được sử dụng để điều trị các bệnh như viêm họng, sưng họng
    phát sốt, viêm ruột, tiêu chảy, kiết lỵ hay các bệnh ngoài da như dị ứng, mày đay,
    ngứa, …. Trong dân gian người ta thường dùng cây xuyến chi để đắp trực tiếp vào
    những vết côn trùng cắn, rắn cắn nhờ khả năng chống viêm của nó.
    – Hoạt chất flavoness và polyynes được tìm thấy trong cây xuyến chi có tác
    dụng chống khối u ở những người bị bệnh ung thư phá triển.
    – Cây xuyến chi còn được xem là một loài thực vật có khả năng làm giảm
    các triệu chứng của đái tháo đường hiệu quả nhờ cytopoloyne và polyynes có trong
    cây.
    – Tinh dầu trong lá cây xuyến chi là một hợp chất chống oxy hóa mạnh có
    tác kháng khuẩn, kháng nấm.
    2.1.2.2. Hoạt tính sinh học thường có trong thực vật
    a) Flavonoid
    Định nghĩa
    9
    Flavonoid là dẫn xuất của phenol có hều hết ở người, động thực vật và vi
    sinh vật do đưa trực tiếp vào nguồn thức ăn. Bản thân con người không có khả
    năng tự tổng hợp được phenol. Flavonoid tham gia vào tất cả các quá trình trao đổi
    chất, sinh tổng hợp và quá trình enzyme. Về mặt cấu tạo, flavonoid là các
    polyphenol có tính axit, đính nhóm hydroxyl tự do ở các vòng.
    Trong thực vật, Flavonoid tồn tại chủ yếu ở hai dạng: dạng tự do (aglycol)
    và dạng liên kết với glucid (glycosid). Trong đó, dạng aglycol thường tan trong các
    dung môi hữu cơ như ete, axeton, cồn nhưng hầu như không tan trong nước, còn
    dạng glycoside thì tan trong nước nhưng không tan trong các dung môi không phân
    cức như axeton, benzene, chloroform.
    Định tính
    – Tác dụng của FeCl3: Tùy theo nhóm flavonoid và tùy theo số lượng của vị
    trí nhóm OH trong phân tử mà cho màu lục, xanh.
    – Tác dụng của kiềm: Nếu hơ tờ giấy thấm có nhỏ dịch chiết trên miệng lọ
    ammoniac thì có màu vàng tăng lên thùy theo nồng độ flavonoid và tùy theo nhóm
    flavonoid.
    – Tác dụng của NaOH: cho 2 ml dịch chiết vào ống nghiệm, cho 2 – 3 giọt
    dung dịch NaOH thì màu của dịch chuyển màu xanh.
    – Tác dụng của chì axetat: cho kết tủa với hầu hết các flavonoid phenol.
    – Phản ứng cyanidin (phản ứng Shinoda hay Willstater): Đây là phản ứng
    khử hay được sử dụng nhất để tìm sự có mặt của các dẫn chất nhóm flavonoid.
    Dung dịch flavonoid trong etanol, thêm bột Mg rồi từ từ nhỏ HCl đậm đặc. Sau 1
    đến 2 phút sẽ có màu đỏ cam.
    Tác dụng sinh học
    Hoạt tính sinh học của flavonoid: Có tác dụng với khối u và một số dạng
    ung thư như enpatin (3,5,3’-trihydroxy-6,7,4’-trimetoxyflavon), nâng cao tính bền
    của thành mạch máu như rutin, có tính dụng estrogen như glycoside quecxetin và
    kaempferol -3,3- ramnogalacto-7-ramnorid. Ngoài các tác dụng trên, flavonoid còn
    có các tác dụng khác như: chống dị ứng, chống co giật, giãn phế quản, giãn mạch,
    lợi mật, giảm đau có tác dụng diệt nấm, …. Một số dẫn xuất của flavonoid có tác
    dụng thông tiểu như quercetin (có trong lá diếp cá), kháng khuẩn như acvicularin.
    Đặc biệt, flavonoid còn có hoạt tính vitamin P, làm bền những mao mạch và giảm
    tính giòn của thành mạch.
    Các kết quả nghiên cứu khoa học đã kết luận rằng: tác dụng sinh học của
    flavonoid là do khả năng chống oxi hóa của chúng quy định. Do khả năng ức chế
    10
    quá trình oxy hóa của chúng có hiệu ứng chống u lành tính và u ác tính. Các
    flavonoid còn được ứng dụng rộng rãi để điều trị các bệnh nhiễm trùng như chống
    viêm loét dạ dày, viêm mật cấp tính và mãn tính, viêm gan, thận, thương hàn, lị.
    b) Saponin
    Định nghĩa
    Saponin còn gọi là Saponosid là một nhóm glycoside lớn, gặp rộng rãi trong
    thực vật. Saponin cũng có trong một số động vật như Hải sâm, cá sao.
    Tính chất
    – Saponin được dùng để chỉ nhóm glycosid có đặc tính chung là khi hòa tan
    vào nước sẽ có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch và tạo bọt. Dưới
    tác dụng của enzyme thực vật, vi khuẩn hoặc các axit loãng, saponin bị thủy phân
    thành genin (gọi là sapogenin) và phần glucid.
    Định tính
    Ðây là tính chất đặc trưng nhất của saponin do phân tử saponin lớn và có
    cùng một lúc một đầu ưa nước và một đầu kỵ nước. Người ta dựa trên hiện tượng
    gây bọt ở môi trường kiềm và acid để sơ bộ phân biệt saponin steroid và
    triterpenoid: lấy 1g bột nguyên liệu thực vật, thêm 5ml cồn, đun sôi cách thủy 15
    phút.
    Lấy 2 ống nghiệm đường kính bằng nhau, cho vào ống thứ nhất 5ml HCl 0,1
    N (pH=1) vào ống thứ hai 5ml NaOH 0,1 N (pH=13). Cho thêm vào mỗi ống 2-3
    giọt dung dịch cồn chiết rồi bịt ống nghiệm, lắc mạnh cả 2 ống trong 15 giây. Ðể
    yên, nếu cột bọt trong cả 2 ống cao ngang nhau và bền như nhau thì sơ bộ xác định
    trong dược liệu có saponin triterpenoid. Nếu ống kiềm có cột bọt cao hơn ống kia
    thì sơ bộ xác định là saponin steroid.
    Tác dụng sinh học
    – Saponin có tác dụng long đờm, chữa ho. Saponin là hoạt chất chính trong
    các dược liệu chữa ho như viễn chí, cát cánh, cam thảo, thiên môn, ….
    – Một số dược liệu chứa saponin có tác dụng thông tiểu như rau má, tuỳ giải,
    thiên môn, mạch môn, ….
    – Saponin có mặt trong một số vị thuốc bổ như nhâm sâm, tam thất và một
    số cây thuộc họ nhân sâm khác.
    – Saponin làm tăng sự thấm của tế bào; sự có mặt của saponin sẽ làm cho các
    hoạt chất khác dễ hòa tan và hấp thu.
    11
    – Một số saponin có tác dụng chống viêm. Một số có tác dụng kháng khuẩn,
    kháng nấm và ức chế virus.
    – Một số có tác dụng chống ung thư trên thực nghiệm.
    – Một số nguyên liệu chứa saponin dùng để pha nước gội đầu, giặt len dạ,
    xanh lụa.
    c) Tanin
    Định nghĩa
    Năm 1976: Tanin chỉ những chất chiết từ thực vật có khả năng kết hợp với
    protein của da sống động vật làm cho da biến thành da thuộc không thối và bền.
    Tanin là những hợp chất polyphenol có trong thực vật, có vị chát, dương tính
    với “thí nghiệm thuộc da” và được định lượng dựa vào mức độ hấp phụ trên bột da
    sống chuẩn.
    Pseudotanin là những chất phenol đơn giản như acid gallic, catechin, …. ở
    điều kiện nhất định cho tủa với gelatin và bị giữ một phần trên bột da sống.
    Phân loại
    Tanin thủy phân được hay tannin pyprogallic.
    Tanin ngưng tụ hay tannin pyrocatechic.
    Chiết xuất Tanin
    Tanin không tan trong dung môi kém phân cực
    Tan tốt cồn loãng, tan tốt nhất trong nước nóng.
    Sau khi chiết nước có thể kết tủa tannin bằng muối amonisulfat
    Tính chất Lý – Hóa
    – Tanin có vị chát, làm săn da, tan trong nước, kiềm loãng, cồn, glycerin và
    axeton, hầu như không tan trong dung môi hữu cơ.
    – Kết tủa với gelatin.
    – Kết tủa với muối kim loại.
    Định tính tannin trong dược liệu
    – Kết tủa xanh lá đậm với muối sắt (III) clorua.
    – Tủa bồn với nước brom.
    Tác dụng sinh học của Tanin
    12
    Ở trong cây: tannin tham gia vào quá trình trao đổi chất, quá trình oxy hóa
    khử, là chất polyphenol, tannin có tính kháng khuẩn nên có vai trò bảo vệ cho cây.
    Thuốc săn da, kháng khuẩn, chữa viêm ruột, tiêu chảy.
    Chữa ngộ độc đường tiêu hóa (tủa với alkaloid).
    Tanin có tác dụng đông máu nên dung đắp vết thương đề cầm máu.
    2.2. Thực tiễn
    2.2.1. Quá trình trồng rau, củ ở vụ đông xuân
    Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vụ Đông năm 2022, toàn
    miền Bắc đề ra kế hoạch trồng cấy hơn 400 nghìn ha cây rau màu, Riêng tỉnh Nam
    Định dự kiến gieo trồng 11.000 ha cây rau màu vụ đông, với các cây trồng chủ lực
    có giá trị và hiệu quả kinh tế cao như khoai tây, ngô, bí xanh, cà chua, khoai lang,
    cải xanh… Nhưng các loại rau màu vụ đông bị nhiều loại sâu bệnh phá hoại.
    Các loại sâu bệnh phổ biến trên cây khoai tây, rau cải xanh.
    2.2.1.1. Sâu bệnh trên rau cải xanh, su hào, cải bắp
    a) Sâu tơ, sâu xanh
    Sâu non mới nở bò lên mặt lá gặm biểu bì, tạo thành những rãnh nhỏ ngoằn
    ngoèo, sâu ăn thịt lá tạo thành những vết mờ trên lá. Sâu lớn ăn toàn bộ biểu bì lá,
    làm lá thủng lỗ chỗ, giảm năng suất và chất lượng rau. Khi mật độ sâu cao, ruộng
    rau bị hại xơ xác, chỉ còn trơ lại gân lá.

    Cây cải dưaCây su hào

    Sâu xanh, sâu tơ phá hoại nhiều nhất trên các loại rau như su hào, bắp cải, cải
    ngọt, cải bẹ xanh, … làm giảm năng suất của rau.
    Biện pháp xử lý
    – Thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, tỉa bỏ các lá già.
    13
    – Bố trí mùa vụ thích hợp, luân canh với cây không cùng ký chủ.
    – Dùng bẫy dính màu vàng theo dõi bướm sâu xanh, trồng xen với cây họ cà
    sẽ đuổi được bướm của sâu xanh.
    – Khi cần thiết có thể sử dụng các hoạt chất Abamectin, Emamectin
    benzoeate, Chlorantraniliprole, … kết hợp với dầu khoáng để phòng trừ.
    b) Sâu xám
    Sâu thường xuất hiện vào giai đoạn cây con trên tất cả các loại rau và gây
    hại trầm trọng nhất ở những vùng đất nhẹ, đất cát. Sâu non có tính giả chết, khi bị
    đụng vào chúng cuộn lại, lăn ra giả chết. Sâu xám thường cắn ngang thân cây sát
    mặt đất, làm thân bị khuyết hoặc bị cắn đứt thân và lá non.
    Sâu xám
    c) Rệp
    Rệp là một trong những đối tượng phá hại cây thường gặp ở rau cải, cũng
    như các loại cây hoa màu khác. Đây là một loại rệp nhỏ chỉ to bằng hạt vừng có
    màu vàng hoặc màu vàng xanh, thuộc họ nhà Aphididae. Chúng gây hại cho cây từ
    khi cây còn non đến khi cây trưởng thành. Loại rệp này sinh sản với số lượng rất
    lớn, lây lan rất nhanh tập trung chủ yếu ở các búp lá hoặc mặt sau của lá cải.
    Chúng chích hút nhựa cây, khiến cho cây phát triển còi cọc, lá héo vàng, khô, xoăn
    lại.
    Biện pháp xử lý
    – Nếu phát hiện thấy rau cải bị rệp, người trồng có thể dùng phương pháp thủ
    công là bắt rệp, ngắt bỏ lá bị rệp gây hại để tránh chúng lan sang các cây khác.
    Biện pháp này thường áp dụng cho rau cải được trồng với diện tích ít. Nếu diện
    tích trồng rau lớn, rệp phá hoại trên diện rộng thì cần phải phun thuốc để diệt rệp
    tránh lây lan bệnh sang những cây bên cạnh. Nếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thì
    cần phải đảm bảo thời gian cách ly thuốc trước khi thu hoạch.
    14
    – Rệp có tính kháng thuốc cao, nên người trồng cần phải phun kép cách nhau
    2 -3 ngày để nâng cao hiệu quả của thuốc.
    2.2.1.2. Các bệnh thường gặp trên khoai tây
    a) Bệnh thối ướt củ
    Bệnh thối ướt củ khoai tây do vi khuẩn Erwinia carotovova gây ra. Bệnh gây
    hại phổ biến trên các vùng trồng khoai tây trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên
    bề mặt củ bệnh, ở phần mô bệnh đôi khi thấy có nước bọt nước màu vàng, mùi thối
    khó ngửi. Nếu cắt củ bệnh sẽ thấy thịt củ bị thối nát, có mùi vàng nâu. Gây thiệt
    hại không nhỏ đến năng suất và chất lượng củ khoai tây.
    Triệu chứng gây bệnh thối ướt củ khoai tây.
    Triệu chứng gây bệnh thối ướt củ khoai tây
    – Trên củ khoai tây bị bệnh vỏ củ chuyển sang màu nâu, nâu sẫm, củ mềm.
    – Trên bề mặt củ bệnh xuất hiện bọt nước màu vàng, có mùi khó ngửi. Nếu
    cắt củ bệnh sẽ thấy thịt củ bị thối nát, có màu vàng nâu.
    Nguyên nhân gây bệnh thối ướt củ khoai tây
    – Bệnh thối ướt củ khoai tây do vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra. Đây là
    loại bệnh phổ biến và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với củ khoai tây trong quá
    trình bảo quản, cất giữ, chuyên chở và xuất nhập khẩu.
    – Nuôi cấy vi khuẩn Erwinia carotovora trên môi trường pepton saccaro,
    khoai tây – agar khuẩn lạc.
    – Vi khuẩn Erwinia carotovora phát triển thuận lợi trong phạm vi nhiệt độ
    khá rộng, nhiệt độ tới hạn chết là 500C, phạm vi pH cũng khá rộng từ 5,3 – 9,2,
    thích hợp nhất là pH = 7,2. Vi khuẩn có thể bị chết trong điều kiện khô và dưới ánh
    nắng.
    15
    – Vi khuẩn Erwinia carotovora xâm nhập chủ yếu qua vết thương và qua mắt
    củ. Vi khuẩn tồn tại trong đất, trong tàn dư củ khoai tây. Vi khuẩn lan truyền bằng
    dịch củ bệnh trong quá trình bảo quản. Trên đồng ruộng vi khuẩn lan truyền chủ
    yếu nhờ nước, gây hiện tượng thối đen gốc cây khoai tây.
    Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh thối ướt củ khoai tây
    – Bệnh thối ướt củ khoai tây phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt
    độ cao và ẩm độ cao.
    – Bệnh thường phát sinh, phát triển từ khi khoai tây mới thu hoạch và kéo
    dài trong suốt quá trình bảo quản khoai tây. Trong những tháng mùa hè bệnh thối
    ướt phát triển mạnh nhất, cao điểm của bệnh là vào các tháng 6, 7, 8.
    – Chất lượng củ và kỹ thuật bảo quản quan hệ chặt chẽ với bệnh thối ướt.
    Nếu củ khoai tây được chọn đủ điều kiện tiêu chuẩn: về độ lớn, đồng đều không
    sây sát vỏ, lấy củ ở những ruộng ít hoặc không bị bệnh đen chân và các loại bệnh
    khác nhau thì mức độ bị bệnh thối ướt về sau thường nhẹ.
    b) Bệnh héo xanh
    Bệnh héo xanh do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây ra, làm cây héo
    đột ngột, bệnh thường hại nặng trên cây đã trưởng thành, đang ra củ mạnh. Trên
    cây bị bệnh, lá vẫn còn xanh, có thể héo từng cành hoặc toàn cây.

    Hình ảnh cây khoai tây bị bệnh héo lá

    Triệu chứng gây bệnh héo lá xanh
    Lá cây bị bệnh có thể hồi phục một vài ngày vào buổi sớm và ban đêm khi
    sương xuống độ ẩm không khí cao. Đoạn thân, cành bị bệnh thường sùi nốt nhỏ
    16
    xung quanh. Nếu cắt đôi thân, cành cây bị bệnh nhìn rõ thấy bó mạch hoá nâu chứa
    dịch nhờn màu trắng đục. Bệnh lây lan rất nhanh, làm chết 30-70% số cây trong
    ruộng.
    Nguyên nhân gây bệnh héo lá xanh
    Vi khuẩn thích hợp trong điều kiện nhiệt độ 25-350C, mưa to, mưa dài ngày,
    ẩm độ đất, ẩm độ không khí tăng cao. Vi khuẩn xâm nhập, lây lan từ cây bệnh hoặc
    ngoài môi trường vào cây khoẻ qua vết thương trong quá trình thao tác bổ củ
    giống, bấm ngọn, tỉa lá hoặc do mưa to làm dập lá. Bệnh hại nặng trong vụ khoai
    sớm và khoai vụ xuân. Nguồn bệnh cho năm sau là vi khuẩn trong đất, vi khuẩn có
    thể sống lâu trong đất tới 5-6 năm và trên tàn dư cây bệnh vụ trước, đặc biệt có
    nhiều trong phân chuồng tươi chưa ủ.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Phát triển phẩm chất, năng lực học sinh lớp 11 theo hướng tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 thông qua các hoạt động

    SKKN Phát triển phẩm chất, năng lực học sinh lớp 11 theo hướng tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 thông qua các hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, và tổ chức sinh hoạt tại CLB STEM

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN TẠO RA SÁNG KIẾN
    Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cấp THPT là giai đoạn định hướng
    nghề nghiệp, giúp các HS có khả năng thích ứng với các điều kiện sống, học tập
    và làm việc khác nhau; thích ứng với những thay đổi của xã hội hiện đại; có khả
    năng tổ chức cuộc sống, công việc và quản lí bản thân; có khả năng phát triển hứng
    thú nghề nghiệp và ra quyết định lựa chọn được nghề nghiệp tương lai; xây dựng
    được kế hoạch rèn luyện đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp và trở thành người công dân
    có ích. Đó là mục tiêu hướng đến của chương trình giáo dục phổ thông 2018.
    Chương trình giáo dục phổ thông 2018 sẽ được áp dụng tại khối lớp 11
    THPT từ năm học 2023-2024, để chuẩn bị cho việc triển khai chương trình mới
    giáo viên được tập huấn theo các Modul, giáo viên đã được tiếp cận, học tập và
    hoàn thành các yêu cầu đề ra của chương trình bồi dưỡng giáo viên;
    Phát huy tính tính kế thừa có chọn lọc chương trình giáo dục phổ thông hiện
    hành, tiếp cận và chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc triển khai chương trình giáo
    dục phổ thông 2018 có hiệu quả, tác giả sáng kiến đã lựa chọn các đề tài hoạt động
    trải nghiệm, hướng nghiệp định hướng cho học sinh nghiên cứu ngoài thời gian
    chính khoá, hay tổ chức hoạt động tại câu lạc bộ STEM của nhà trường trong các
    năm học 2020-2021, 2021-2022 tạo tiền đề chương trình giáo dục phổ thông 2018
    được triển khai đồng bộ đủ đến các khối lớp trong các năm học tiếp theo;
    Báo cáo sáng kiến “Phát triển phẩm chất, năng lực học sinh lớp 11 theo
    hướng tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018 thông qua các hoạt động
    trải nghiệm, hướng nghiệp, và tổ chức sinh hoạt tại CLB STEM” là kết quả thực
    hiện khi giảng dạy môn vật lí tai nhà trường các năm học 2020-2021, 2021-2022,
    là nguồn tài liệu tham khảo cho việc thực hiện chương trình cũ cho các năm học
    còn lại, và khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới đồng đối với cấp
    THPT.
    2
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Chương trình giáo dục hiện hành (GDPT 2006) chú trọng xây dựng chương
    trình học về nội dung, nặng nề về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học
    sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tập trnng vào đánh giá, nhận xét phẩm chất
    năng lực học sinh, chưa chú trọng giúp học sinh hình thành và phát triển phẩm
    chất, năng lực của bản thân.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Nghiên cứu chương trình giáo dục phổ thông 2018
    Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, những phẩm chất, năng lực của
    học sinh được hình thành thông qua hình ảnh:
    Hình 1. Mô tả các thành tố về phẩm chất, năng lực chung
    của học sinh cần đạt theo chương trình giáo dục phổ thống 2018
    3
    2.1.1. Mô tả những yếu cầu chủ yếu cần đạt về phẩm chất của học sinh:
    * Yêu nước:
    – Tích cực, chủ động vận động người khác tham gia các hoạt động bảo vệ
    thiên nhiên;
    – Tự giác thực hiện và vận động người khác thực hiện các quy định của pháp
    luật, góp phần bảo vệ và xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    – Chủ động, tích cực tham gia và vận động người khác tham gia các hoạt động
    bảo vệ, phát huy giá trị các di sản văn hoá.
    – Đấu tranh với các âm mưu, hành động xâm phạm lãnh thổ, biên giới quốc
    gia, các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia bằng thái độ
    và việc làm phù hợp với lứa tuổi, với quy định của pháp luật; Sẵn sàng thực hiện
    nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
    * Nhân ái:
    – Yêu quý mọi người: Quan tâm đến mối quan hệ hài hoà với những người
    khác; Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, đấu tranh với những
    hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Chủ động, tích
    cực vận động người khác tham gia các hoạt động từ thiện và hoạt động phục vụ
    cộng đồng;
    – Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người: Tôn trọng sự khác biệt về lựa chọn
    nghề nghiệp, hoàn cảnh sống, sự đa dạng văn hoá cá nhân; Có ý thức học hỏi các
    nền văn hoá trên thế giới; cảm thông, độ lượng với những hành vi, thái độ có lỗi
    của người khác.
    * Chăm chỉ:
    – Ham học: Có ý thức đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, thuận lợi,
    khó khăn trong học tập để xây dựng kế hoạch học tập; Tích cực tìm tòi và sáng tạo
    trong học tập; Có ý chí vượt qua khó khăn để đạt kết quả tốt trong học tập.
    – Chăm làm: Tích cực tham gia và vận động mọi người tham gia các công việc
    phục vụ cộng đồng; Có ý chí vượt qua khó khăn để đạt kết quả tốt trong lao động;
    Tích cực học tập, rèn luyện để chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai.
    * Trung thực:
    – Nhận thức và hành động theo lẽ phải;
    – Sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt, điều tốt;
    4
    – Tự giác tham gia và vận động người khác tham gia phát hiện, đấu tranh với
    các hành vi thiếu trung thực trong học tập và trong cuộc sống, các hành vi vi phạm
    chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật.
    * Trách nhiệm:
    – Với bản thân: Tích cực, tự giác và nghiêm túc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức
    của bản thân; Có ý thức sử dụng tiền hợp lí khi ăn uống, mua sắm đồ dùng học tập,
    sinh hoạt; Sẵn sàng chịu trách nhiệm về những lời nói và hành động của bản thân.
    – Với gia đình: Có ý thức làm tròn bổn phận với người thân và gia đình; Quan
    tâm bàn bạc với người thân, xây dựng và thực hiện kế hoạch chi tiêu hợp lí trong
    gia đình.
    – Vơi nhà trường và xã hội: Tích cực tham gia và vận động người khác tham
    gia các hoạt động công ích; Tích cực tham gia và vận động người khác tham gia
    các hoạt động tuyên truyền pháp luật; Đánh giá được hành vi chấp hành kỉ luật,
    pháp luật của bản thân và người khác; Đấu tranh phê bình các hành vi vô kỉ luật, vi
    phạm pháp luật.
    – Với môi trường sống: Hiểu rõ ý nghĩa của tiết kiệm đối với sự phát triển bền
    vững; có ý thức tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; đấu tranh ngăn chặn các hành vi
    sử dụng bừa bãi, lãng phí vật dụng, tài nguyên; Chủ động, tích cực tham gia và vận
    động người khác tham gia các hoạt động tuyên truyền, chăm sóc, bảo vệ thiên
    nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
    2.1.2. Những yêu cầu cần đạt về năng lực chung của học sinh:
    * Năng lực tự chủ và tự học:
    – Tự lực: Luôn chủ động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân
    trong học tập và trong cuộc sống; biết giúp đỡ người sống ỷ lại vươn lên để có lối
    sống tự lực;
    – Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Biết khẳng định và bảo
    vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp với đạo đức và pháp luật;
    – Tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của mình: Đánh giá được những ưu
    điểm và hạn chế về tình cảm, cảm xúc của bản thân; tự tin, lạc quan; Biết tự điều
    chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân; Luôn bình tĩnh và có cách cư xử
    đúng; Sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời
    sống; Biết tránh các tệ nạn xã hội.
    – Thích ứng với cuộc sống: Điều chỉnh được hiểu biết, kĩ năng, kinh nghiệm
    của cá nhân cần cho hoạt động mới, môi trường sống mới; Thay đổi được cách tư
    5
    duy, cách biểu hiện thái độ, cảm xúc của bản thân để đáp ứng với yêu cầu mới,
    hoàn cảnh mới.
    – Định hướng nghề nghiệp: Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản
    thân; Nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển
    vọng của các ngành nghề; Xác định được hướng phát triển phù hợp sau trung học
    phổ thông; lập được kế hoạch, lựa chọn học các môn học phù hợp với định hướng
    nghề nghiệp của bản thân.
    – Tự học, tự hoàn thiện: Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã
    đạt được; biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế; Đánh
    giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng của bản thân;
    tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm
    vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho
    việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết; Tự nhận ra và điều chỉnh được những
    sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập; suy ngẫm cách học của mình,
    rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác; biết tự điều chỉnh
    cách học; Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá
    trị công dân.
    * Năng lực giao tiếp và hợp tác:
    – Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và thái độ giao tiếp: Xác định
    được mục đích giao tiếp phù hợp với đối tượng và ngữ cảnh giao tiếp; dự kiến được
    thuận lợi, khó khăn để đạt được mục đích trong giao tiếp; Biết lựa chọn nội dung,
    kiểu loại văn bản, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp khác phù hợp với ngữ
    cảnh và đối tượng giao tiếp; Tiếp nhận được các văn bản về những vấn đề khoa
    học, nghệ thuật phù hợp với khả năng và định hướng nghề nghiệp của bản thân, có
    sử dụng ngôn ngữ kết hợp với các loại phương tiện phi ngôn ngữ đa dạng; Biết sử
    dụng ngôn ngữ kết hợp với các loại phương tiện phi ngôn ngữ đa dạng để trình bày
    thông tin, ý tưởng và để thảo luận, lập luận, đánh giá về các vấn đề trong khoa học,
    nghệ thuật phù hợp với khả năng và định hướng nghề nghiệp; Biết chủ động trong
    giao tiếp; tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ khi nói trước nhiều người.
    – Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội; điều chỉnh và hoá giải các mâu
    thuẫn: Nhận biết và thấu cảm được suy nghĩ, tình cảm, thái độ của người khác;
    Xác định đúng nguyên nhân mâu thuẫn giữa bản thân với người khác hoặc giữa
    những người khác với nhau và biết cách hoá giải mâu thuẫn.
    – Xác định mục đích và phương thức hợp tác: Biết chủ động đề xuất mục đích
    hợp tác để giải quyết một vấn đề do bản thân và những người khác đề xuất; Biết
    lựa chọn hình thức làm việc nhóm với quy mô phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ.
    6
    – Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân: Phân tích được các công
    việc cần thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ của nhóm; sẵn sàng nhận công việc khó
    khăn của nhóm.
    – Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác: Qua theo dõi, đánh giá
    được khả năng hoàn thành công việc của từng thành viên trong nhóm để đề xuất
    điều chỉnh phương án phân công công việc và tổ chức hoạt động hợp tác.
    – Tổ chức và thuyết phục người khác: Biết theo dõi tiến độ hoàn thành công
    việc của từng thành viên và cả nhóm để điều hoà hoạt động phối hợp; biết khiêm
    tốn tiếp thu sự góp ý và nhiệt tình chia sẻ, hỗ trợ các thành viên trong nhóm.
    – Đánh giá hoạt động hợp tác: Căn cứ vào mục đích hoạt động của các nhóm,
    đánh giá được mức độ đạt mục đích của cá nhân, của nhóm và nhóm khác; rút kinh
    nghiệm cho bản thân và góp ý được cho từng người trong nhóm.
    – Hội nhập quốc tế: Có hiểu biết cơ bản về hội nhập quốc tế; Biết chủ động,
    tự tin trong giao tiếp với bạn bè quốc tế; biết chủ động, tích cực tham gia một số
    hoạt động hội nhập quốc tế phù hợp với bản thân và đặc điểm của nhà trường, địa
    phương; Biết tìm đọc tài liệu nước ngoài phục vụ công việc học tập và định hướng
    nghề nghiệp của mình và bạn bè.
    * Năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo:
    – Nhận ra ý tưởng mới: Biết xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức
    tạp từ các nguồn thông tin khác nhau; biết phân tích các nguồn thông tin độc lập để
    thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý tưởng mới.
    – Phát hiện và làm rõ vấn đề: Nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và
    cuộc sống; suy nghĩ không theo lối mòn; tạo ra yếu tố mới dựa trên những ý tưởng
    khác nhau; hình thành và kết nối các ý tưởng; nghiên cứu để thay đổi giải pháp
    trước sự thay đổi của bối cảnh; đánh giá rủi ro và có dự phòng.
    – Đề xuất, lựa chọn giải pháp: Biết thu thập và làm rõ các thông tin có liên
    quan đến vấn đề; biết đề xuất và phân tích được một số giải pháp giải quyết vấn đề;
    lựa chọn được giải pháp phù hợp nhất.
    – Thiết kế và tổ chức hoạt động: Lập được kế hoạch hoạt động có mục tiêu,
    nội dung, hình thức, phương tiện hoạt động phù hợp; Tập hợp và điều phối được
    nguồn lực (nhân lực, vật lực) cần thiết cho hoạt động; Biết điều chỉnh kế hoạch và
    việc thực hiện kế hoạch, cách thức và tiến trình giải quyết vấn đề cho phù hợp với
    hoàn cảnh để đạt hiệu quả cao; Đánh giá được hiệu quả của giải pháp và hoạt động
    7
    – Tư duy độc lập: Biết đặt nhiều câu hỏi có giá trị, không dễ dàng chấp nhận
    thông tin một chiều; không thành kiến khi xem xét, đánh giá vấn đề; biết quan tâm
    tới các lập luận và minh chứng thuyết phục; sẵn sàng xem xét, đánh giá lại vấn đề
    Những yêu cầu cần đạt về các năng lực chuyên môn (Năng lực đặc thù):
    – Năng lực khoa học: Nhận thức khoa học; Tìm hiểu tự nhiên, tìm hiểu xã
    hội; Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Năng lực khoa học được hình thành, phát
    triển ở nhiều môn học, hoạt động giáo dục, phù hợp với đặc điểm của mỗi môn học
    và hoạt động giáo dục.
    – Năng lực công nghệ Năng lực công nghệ: Nhận thức công nghệ; giao tiếp
    công nghệ; sử dụng công nghệ; đánh giá công nghệ; thiết kế kĩ thuật.
    – Năng lực thẩm mĩ:: Nhận thức các yếu tố thẩm mĩ; phân tích, đánh giá các
    yếu tố thẩm mĩ; tái hiện, sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mĩ.
    – Năng lực thể chất: Chăm sóc sức khỏe; vận động cơ bản; hoạt động thể dục
    thể thao.
    – Năng lực tin học: Sử dụng và quản lí các phương tiện công nghệ thông tin
    và truyền thông; ứng xử phù hợp trong môi trường số; giải quyết vấn đề với sự hỗ
    trợ của công nghệ thông tin và truyền thông; ứng dụng công nghệ thông tin và
    truyền thông trong học và tự học; hợp tác trong môi trường số.
    – Năng lực tính toán: Nhận thức kiến thức toán học; tư duy toán học; vận dụng
    kiến thức, kĩ năng đã học. Năng lực tính toán được hình thành, phát triển ở nhiều
    môn học, hoạt động giáo dục, phù hợp với đặc điểm của mỗi môn học và hoạt động
    giáo dục. Biểu hiện tập trung nhất của năng lực tính toán là năng lực toán học, được
    hình thành và phát triển chủ yếu ở môn Toán.
    – Năng lực ngôn ngữ: Các hoạt động nghe, nói, đọc, viết.
    2.2. Phân tích chương trình môn Vật lí lớp 11 GDPT hiện hành:
    Gồm 7 chương, 35 bài học, phân phối thành 70 tiết học (gồm cả các tiết kiểm
    tra định kỳ):
    Học kỳ I: 18 tuần học x 2 tiết/tuần = 36 tiết
    Học kỳ: II: 17 tuần x 2 tiết/tuần = 34 tiết
    Ở một số lớp, một số giai đoạn có thêm 1 tiết học tự chọn/tuần
    Như vậy, việc triển khai các hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp theo hình
    thức chính vẫn là GV định hướng cho HS tìm tòi, khám phá, nghiên cứu ngoài thời
    8
    gian chính khoá; trao đổi thảo luận thông qua nhóm riêng trên các ứng dụng mạng
    xã hội, và thông qua sinh hoạt CLB.
    2.3. Lựa chon phương pháp hình thưc tổ chức các hoạt động trải nghiệm
    hướng nghiệp:
    Trên cơ sở nghiên cứu phẩm chất năng lực theo chương trình giáo dục phổ
    thông tổng thể 2018, và việc thực hiện kế hoạch giảng dạy chương trình vật lí 11
    hiện hành, kết hợp với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường, tác gỉả chọn lựa hai
    hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm chính, nhằm phát triển phẩm chất, năng
    lực của học sinh, tiếp cận dần với yêu cầu cần đạt về phẩm chất năng lực của học
    sinh trong thời gian chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để thực hiện chương trình giáo
    dục phổ thông 2018 cho học sinh lớp 11 từ năm học 2023-2024, đó là:
    2.3.1. Phương pháp tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học tìm tòi khám phá:
    Với những yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực của học sinh có thể tóm tắt theo
    hình ảnh sau
    Hình 2. Phẩm chất, năng lực của học sinh cần đạt trong HĐ NCKH
    9
    2.3.2. Phương pháp tổ chức hoạt động thực hiện dự án: Với những yêu cầu
    cần đạt về phẩm chất, năng lực của học sinh có thể tóm tắt theo hình ảnh sau
    Hình 3. Phẩm chất, năng lực của học sinh cần đạt trong HĐ dự án
    2.4. Hình thức nghiên cứu:
    2.4.1. Phương pháp tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học
    Mực đích của phương pháp tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học là rèn
    luyện cho học sinh phẩm chất trách nhiệm, chăm chỉ, trung thực,…, phát triển năng
    lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, tự chủ và tự học, thích ứng với cuộc sống nhiều
    biến động, giáo viên định hướng học sinh nghiên cứu các vấn đề có ý nghĩa thực
    tiễn, gắn với vốn kinh nghiệm sẵn có của học sinh về thế giới xung quanh, các hiện
    tượng, sự việc nảy sinh trong các hoạt động và cuộc sống hàng ngày.
    Thời gian tổ chức hoạt nghiên cứu khoa học ngoài thời gian học tập chính
    khóa của học sinh.
    Các bước tiến hành:
    Bước 1: Chọn đề tài nghiên cứu
    Trên cơ sở giáo viên và học sinh cùng nhau chia sẻ, thảo luận, trao đổi và đưa
    ra nhận định các vấn đề, các câu hỏi, các hiện trạng cần nghiên cứu, nếu có thể tìm
    kiếm và phân tích tổng quan các nghiên cứu (ưu tiên các vấn đề có tính thời sự gắn
    với tình hình địa phương) từ đó đánh giá sơ lược nguyên nhân cũng như ý tưởng
    tác động vào vấn đề nghiên cứu, học sinh lựa chọn đề tài nghiên cứu cho cá nhân
    hoặc nhóm (có thể nhờ sự tư vấn hay định hướng của giáo viên).
    Bước 2: Xây dựng đề cương nghiên cứu
    10
    Đề cương NCKH cần làm rõ các vấn đề: xác định mục tiêu; nội dung và nhiệm
    vụ; phương pháp và phương tiện thực hiện; các đề mục nội dung và nguồn học liệu
    phục vụ cho nghiên cứu.
    Tên đề tài:
    1. Lí do lựa chọn chủ đề nghiên cứu, tìm tòi, khám phá
    – Nêu ngắn gọn lí do chọn đề tài nghiên cứu, tìm tòi khám phá, thực
    hiện dự án ….?
    2. Mục đích nghiên cứu
    – Mô tả những gì sẽ làm như thế nào để thực hiện và những kết quả
    gì được mong đợi
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    – Chỉ rõ được đối tượng nghiên cứu là gì?
    – Phạm vi nghiên cứu là giới hạn của nghiên cứu, kết quả nghiên
    cứu có thể áp dụng như thế nào, có tính có tính giáo dục ra sao?
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu
    – Nghiên cứu cơ sở lí luận, nghiên cứu thực tiễn, thực hiện điều xa,
    lấy phiếu hỏi, tổng hợp thông tin …
    – Cần khảo sát thông tin trong mạng Internet để biết nội dung nghiên
    cứu
    5. Phương pháp nghiên cứu
    – Phương pháp nghiên cứu lí luận: …
    – Phương pháp nghiên cứ thực tiễn: …
    – Phương pháp nghiên cứu điều tra thực tế: …
    – Phương pháp thông kê toán học: …
    6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài
    Dự kiến đặt ra phải liên hệ với mục tiêu nghiên cứu, có thể chứng minh
    bằng điều tra, khảo sát, điều tra làm thí nghiệm, sản phẩm dự thi …
    7. Thời gian thực hiện:
    Từ ngày … tháng … năm …. đên ngày … tháng … năm ….
    8. Dự trù kính phí cho hoạt động nghiên cứu (thực hiện dự án): ….
    11
    Bước 3: Xây dựng kế hoạch nghiên cứu
    Nội dung trình bày của bản kế hoạch, thông qua hỗ trợ của giáo viên, học sinh
    phải xác định rõ các mốc thời gian, nội dung công việc phải làm hay biện pháp thực
    hiện, các điều kiện hỗ trợ (vật lực, nhân lực, tài lực) và dự kiến sản phẩm phải đạt
    cho từng giai đoạn.
    Thiết kế mẫu kế hoạch hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp

    SỞ GD&ĐT NAM ĐỊNH
    TRƯỜNG THPT …….
    KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM, HƯỚNG NGHIỆP
    Tên đề tài: …. (Hoạt động nghiên cứu khoa học, tìm tòi, khám phá…)
    Mạch nội dung: Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
    Hình thức hoạt động: Nghiên cứu, tìm tòi, khám phá
    Thời gian: Từ ….. đến …..
    Đối tượng tham gia: Học sinh lớp 11
    Người phụ trách: GV hướng dẫn
    1. MỤC TIÊU
    Phẩm chất, năng lựcYêu cầu cần đạt
    1.1. Phẩm chất chủ yếu
    Chăm chỉTích cực tham gia các hoạt động hướng nghiệp
    Nhân áiCó trách nhiệm, tôn trọng ý kiến người khác
    1.2. Năng lực chung
    Năng lực giao tiếp và hợp
    tác
    Sử dụng ngôn ngữ (lí lẽ) và các yếu tố phi ngôn
    ngữ để thể hiện quan điểm của bản thân về việc
    chọn nghề;

    12
    1.3. Năng lực đặc thù
    Năng lực định hướng nghề
    nghiệp
    Xác định được vai trò, nội dung, cách thức của
    việc tìm hiểu bản thân, nhu cầu xã hội và các yếu
    tố tác động đến việc chọn nghề;
    Vận dụng một số cách thức tìm hiểu bản thân,
    nhu cầu xã hội, các yếu tố tác động đến việc chọn
    nghề
    ….

    2. CHUẨN BỊ:
    – Thời gian: …..
    – Địa điểm: …..
    – Phân công cụ thể cho các thành viên
    STTNội dung công việc chuẩn bịPhân công nhiệm vụ
    Phụ trách
    chính
    Hỗ trợ
    1
    2
    3
    4
    5
    ….....
    3. TIÊN TRÌNH THU THẬP, XỬ LÍ THÔNG TIN
    Nội dung thu thập
    thông tin
    Mục tiêu, mô tả hoạt độngĐánh giá hoạt
    động
    Hoạt động 1:
    ………..
    1. Mục tiêu hoạt động:
    ………….
    2. Cách thức hoạt động

    Ghi chú

    13

    Thời gian: Từ …
    Đến ………..
    ……….
    Hoạt động 2:
    ………..
    Thời gian: Từ …
    Đến ………..
    1. Mục tiêu hoạt động:
    ………….
    2. Cách thức hoạt động
    ……….
    Hoạt động 3:
    ………..
    Thời gian: Từ …
    Đến ………..
    1. Mục tiêu hoạt động:
    ………….
    2. Cách thức hoạt động
    ……….
    4. HỒ SƠ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU, TÌM TÒI, KHÁM PHÁ
    4.1. Nội dung:
    4.1.1.
    4.1.2.
    4.1.3. Phiếu thu thập, xử lí thông tin của các thành viên
    4.2. Hồ sơ khác:
    – Phiếu khảo sát. phiếu hỏi, ..
    – Phiếu đánh tự đánh giá của cá nhân (ví dụ mẫu phiếu):
    PHIẾU TỰ ĐÁNH GIÁ (CÁ NHÂN)
    Thông tin cá nhân
    – Họ tên: ……………………………………………
    – Nhiệm vụ trong nhóm: ……………………………
    – Điện thoại: …………………… gmail: …………………………;
    Nội dung tự đánh giá
    + Quy ước mức độ: Thấp nhất (không có): 0 → Cao nhất 10
    + Ghi minh chứng, ngắn gọn, thể hiện được mức độ đánh giá
    STTTiêu chíMức độMinh chứng
    1Tích cực tham gia cá hoạt
    động hướng nghiệp

    14

    2Có trách nhiệm, tôn trọng ý
    kiến của người khác;
    3Sử dụng ngôn ngữ (lí lẽ) và
    các yếu tố phi ngôn ngữ để
    thể hiện quan điểm của bản
    thân về việc chọn nghề;
    4Xác định được vai trò của
    việc tìm hiểu bản thân, nhu
    cầu xã hội và các yếu tố tác
    động đến việc chọn nghề;
    5Phân tích nội dung tìm hiểu
    bản thân, nhu cầu xã hội, các
    yếu tố tác động đến việc
    chọn nghề;
    6Vận dụng một số cách thức
    tìm hiểu bản thân, nhu cầu xã
    hội, các yếu tố tác động đến
    việc chọn nghề
    ........

    Bước 4: Thu thập, xử lí thông tin lí luận
    Trong bước 4 này, học sinh cần lập thư mục tài liệu liên quan đến đề tài, đọc
    tài liệu theo thư mục và từ nhiều nguồn, chọn lọc thông tin cần thiết, sắp xếp theo
    vấn đề, chủ đề, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa thông tin lí luận theo yêu cầu của
    đề tài.
    Bước 5: Thu thập, xử lí thông tin thực tiễn
    Thông qua sử dụng các phương pháp nghiên cứu như quan sát, phỏng vấn,
    khảo sát bằng phiếu,… học sinh tiến hành xử lí, sàng lọc số liệu thu nhận được sao
    cho khách quan và đáng tin cậy nhất để tiến hành phân tích thông tin thu nhận được
    từ thực tiễn.
    Bước 6: Đề xuất giải pháp hoặc tác động
    Căn cứ vào cơ sở lí luận và thực tiễn từ bước 4 và bước 5, HS đưa ra các giải
    pháp để tác động và cải tạo thực tiễn. Ở bước 6 này, học sinh đưa ra các tác động
    (hoặc can thiệp) vào thực tiễn; giám sát và thu thập số liệu trước và sau tác động,
    từ số liệu thu được, tiến hành phân tích kết quả từ dữ liệu.
    15
    Bước 7: Viết báo cáo
    Đây là bước chuyển tải kết quả nghiên cứu bằng văn bản, quy trình viết báo
    cáo gồm: viết nháp; viết bản thảo; viết bản chính và viết tóm tắt kết quả nghiên
    cứu. Nhóm học sinh cần viết rõ ràng và phản ảnh chính xác những thành quả mà
    hoạt động nghiên cứu khoa học của cá nhân hay nhóm đạt được. Trong đó, cần
    nhấn mạnh đến những kết quả mới mà đề tài đã thực hiện được so với những công
    bố trước đây.
    Báo cáo nội dung của HĐ NCKH, đảm bảo đủ các yêu cầu theo mẫu:
    Tên đề tài:
    Họ tên nhóm tác giả đề tài:
    1. Nguyễn Văn A ; học sinh lớp … trường THPT …
    Điện thoại: ………………….; gmail: ……………………..
    2. Nguyễn Văn A ; học sinh lớp … trường THPT …
    Điện thoại: ………………….; gmail: ……………………..
    ……………
    Giáo viên hướng dẫn nghiên cứu:
    …..
    1. Lý do chọn đề tài

    2. Mục đích của nghiên cứu

    3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng:
    Phạm vị nghiên cứu:
    4. Giả thuyết khoa học

    5. Nhiệm vụ nghiên cứu

    6. Phương pháp nghiên cứu
    ….
    7. Dự kiến đóng góp của nghiên cứu
    16
    8. Nội dung nghiên cứu

    Bước 8: Nghiệm thu và triển khai ứng dụng
    Đây là bước công bố kết quả nghiên cứu, yêu cầu học sinh trình bày khái quát
    toàn bộ sự kiện, thành tựu và vấn đề liên quan tới vấn đề nghiên cứu, yêu cầu cần
    đạt ở bước này là HS trình bày và giải thích được các nội dung cơ bản trong tiến
    hành và các sản phẩm đã đạt được. Ở bước, này cần thực hiện các công việc như:
    báo cáo kết quả nghiên cứu trước lớp, trước câu lạc bộ, trao đổi, thảo luận, nhận
    xét, giáo viên sẽ tổng kết chung, kết luận cuối cùng.
    2.4.2. Phương pháp thực hiện dự án
    Mục đích cơ bản của phương pháp tổ chức thực hiện dự án trong hoạt động
    trải nghiệm, hướng nghiệp là nhằm phát triển những phẩm chất của học sinh như
    trách nhiệm, chăm chỉ, trung thực…; phát triển cho học sinh những năng lực: NL
    thiết kế, NL tổ chức giải quyết vấn đề trong thực tiễn và định hướng nghề nghiệp.
    Các bước tiến hành phương pháp tổ chức thực hiện dự án:
    Bước 1: Chọn chủ đề và xác định mục đích của dự án
    Giáo viên có thể đề xuất các chủ đề của dự án hay cùng học sinh đề xuất, xác
    định chủ đề, đề tài và mục đích của dự án, đó là một tình huống có vấn đề chứa
    đựng một nhiệm vụ cần giải quyết liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời
    sống.
    Các chủ đề, đề tài có thể lựa chọn từ các ý tưởng của học sinh.
    Bước 2: Xây dựng kế hoạch dự án
    Trong bước này, học sinh với sự hướng dẫn của giáo viên xây dựng kế hoạch
    dự án gồm: mục tiêu dự án, xác định những nội dung công việc cần làm, nhiệm vụ
    cụ thể thực hiện các nội dung, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phân công công
    việc cho các thành viên trong trong nhóm.
    Bước 3: Thực hiện dự án
    Trong bước thực hiện dự án này, các nhóm học sinh tiến hành thực hiện kế
    hoạch dự án đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Các HĐ trí tuệ và HĐ thực hành, thực
    tiễn xen kẽ và tác động qua lại với nhau. Kiến thức lí thuyết, phương án giải quyết
    vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn và sản phẩm được tạo ra.
    17
    Bước 4: Tổng hợp kết quả và công bố sản phẩm
    GV và nhóm HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả dự án, từ đó rút ra
    những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo.
    Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng bài thu hoạch, bài báo
    cáo, trình diễn,… Sản phẩm của dự án có thể được trình bày trên PowerPoint, dạng
    ấn phẩm (bản tin, báo, áp phích) hoặc thiết kế trang Web… Sản phẩm của dự án có
    thể được trình bày giữa các nhóm HS, giới thiệu trên trang Wed của trường hay
    ngoài xã hội.
    2.5. Một số ví dụ báo cáo tóm tắt đề tài của các nhóm học sinh lớp 11 khi
    thực hiện hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp:
    2.5.1. VD1 đề tài “Tìm hiểu các phương pháp quan trắc nguồn nước ngầm
    bằng việc ghi nhận hạt tải điện được tạo ra trong môi trường nước, khảo sát thực
    trạng việc khai thác, sử dụng và nhận thức của người dân về nguồn nước ngầm ở
    các xã, thị trấn khu vực ven biển của tỉnh Nam Định”
    Tên đề tài:
    “Tìm hiểu các phương pháp quan trắc nguồn nước ngầm bằng việc ghi
    nhận hạt tải điện được tạo ra trong môi trường nước, khảo sát thực trạng việc
    khai thác, sử dụng và nhận thức của người dân về nguồn nước ngầm ở các xã,
    thị trấn khu vực ven biển của tỉnh Nam Định”
    Nhóm tác giả:
    1. Lã Quỳnh Anh Giới tính: Nữ
    Học sinh: Lớp 11A5 – Trường THPT Nguyễn Khuyến
    Gmail: quynhanh140105@gmail.com

    2. Vũ Thị Minh QuýGiới tinh: Nữ
    Học sinh: Lớp 11A5 – Trường THPT Nguyễn Khuyến
    Gmail: vuminhquy111@gmail.com
    3.. Nguyễn Việt TuấnGiới tính: Nam

    Học sinh: Lớp 11A1 – Trường THPT Nguyễn Khuyến
    Gmail: nguyenthanhluan31052903@gmail.com
    4. Hà Thanh Vân Giới tính: Nữ
    Học sinh: Lớp 11A3 – Trường THPT Nguyễn Khuyến
    18
    Gmail: vanha2372004@gmail.com
    5. Nguyễn Hiền Hảo Giới tính: Nữ
    Học sinh: Lớp 11A3 – Trường THPT Nguyễn Khuyến
    Gmail: hienhao18092004@gmail.com
    GVHD: Lã Văn Thanh
    1. Lý do chọn đề tài
    Chương 3 vật lí lớp 11 nghiên cứu về “Dòng điện trong các môi trường”
    chúng em đã nắm được kiến thức về dòng điện trong các môi trường, về các loại
    hạt tải điện và bản chất dòng điện trong các môi trường, giải thích được các hiện
    tượng tự nhiên như sự hình thành sấm, sét khi có mưa giông; ứng dụng hiện tượng
    mạ, đúc kim loại quý bằng phương pháp điện phân dung dịch quý; công nghệ bán
    dẫn…
    Một nguồn vật chất không thể thiếu cho cuộc sống, đó là nguồn nước, với
    môi trường nước có các loại hạt tải điện nào được tạo ra? Có thể dựa vào đặc tính
    của loại hạt tải điện sinh ra này để quan trắc nguồn nước không, hay khảo sát địa
    tầng địa lí, phân tích, đánh giá sự ảnh hưởng của môi trường đến nguồn nước ngầm
    như thế nào? …
    Với những băn khoăn và ý tưởng trên, kết thúc học chương 3 nhóm chúng
    em được sự hướng dẫn của thầy giáo bộ môn, tiến hành chọn đề tài “Tìm hiểu các
    phương pháp quan trắc nguồn nước ngầm bằng việc ghi nhận hạt tải điện được
    tạo ra trong môi trường nước, khảo sát thực trạng việc khai thác, sử dụng và
    nhận thức của người dân về nguồn nước ngầm ở các xã, thị trấn khu vực ven
    biển của tỉnh Nam Định”
    2. Mục đích nghiên cứu
    Tìm hiểu nghiên cứu đặc tính của các loại hạt tải điện sinh ra trong mạch
    nước ngầm, ghi nhận những kết luận có giá trị khoa học của các nghiên cứu về sự
    bổ cập nước ngầm và vai trò của nước ngầm với kết cấu hạ tầng của vùng địa lí
    khu vực tỉnh Nam Đinh.
    3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
    – Đối tượng nghiên cứu: Hạt tải điện được tạo ra trong môi trường nước,
    nghiên cứu thời gian hình thành để chỉ ra nguồn gốc bổ cập của nước ngầm, ảnh
    hưởng của mạch nước ngầm đến cấu trúc địa tầng.
    19
    – Phạm vi nghiên cứu: Ảnh hưởng của nước bề mặt đến sự khai thác và sử
    dùng nguồn đến nước ngầm.
    4. Giả thuyết khoa học
    Nếu các nghiên cứu khoa học, kết luận đã được thẩm định tin cậy về thời
    gian, lượng nước bổ cập từ nước bề mặt cho nước ngầm có thể đưa ra các khuyến
    cáo, tuyên truyền về việc sử dụng nước ngầm có mục đích, tích kiệm, an toàn trách
    các rủi ro cần thiết, và bảo vệ nguồn nước ngầm bằng việc bảo vệ môi trường, bảo
    vệ nước bề mặt.
    5. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Tìm hiểu các nghiên cứu quan trắc nước ngầm bằng phương pháp ghi nhận
    hạt tải điện được tạo ra;
    Tìm hiểu phương pháp ghi nhận hạt tải điện và phương pháp đo thời gian
    tính tốc độ bổ cập nước bề mặt cho nước ngầm;
    Khảo sát thực tế việc khai thác và sử dụng nước ngầm tại địa bàn thị trấn
    Thịnh Long, Hải Hậu, Nam Đinh.
    6. Phương pháp nghiên cứu
    Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lí luận tìm hiểu các phương pháp về
    quan trắc nước ngầm bằng phương pháp ghi nhận hạt tải điện;
    Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát thực trạng việc sử dụng nguồn
    nước và nhận thức của người dân về nguồn nước ngầm;
    Phương pháp thống kê, toán học: Tổng hợp tính toán lập biểu đồ về kết quả
    các phiếu hỏi, phiếu điều tra thông tin thực trạng sử dụng nguồn nước tại các nơi
    nước sử dụng chủ yếu được khai thác từ mạch nước ngầm (như các xã ven biển
    Hải Châu, Hải Hoà, Thịnh Long, …)
    7. Giả thiết đóng góp mới của nghiên cứu:
    Nghiên cứu tìm hiểu vai trò hạt tải điện tạo ra trong nước ngầm có thể ứng
    dụng trong việc quan trắc nước và nghiên cứu kết cấu địa tầng;
    Ghi nhận thực trạng việc sử dụng nước ngầm tại các xã, thị trấn ven biển,
    đưa ra các đánh giá, khuyến cáo về việc khai thác, sử dụng nước ngầm có hiểu quả,
    tránh lãng phí.
    8. Báo cáo tóm tắt nội dung nghiên cứu:
    1. Hạt tải điện electron
    Hạt tải điện electron, trong hạt nhân còn được ký hiệu theo ký hiệu của hạt
    20
    nhân ( -10e hay – ), mang điện tích âm;
    Các nghiên cứu khoa học, chỉ ra nguồn gốc hạt mang điện -10e được tạo ra
    trong nước ngầm chủ yếu là do sự phân rã phóng xạ của các đồng vị 13H và14 6C [1]
    1.1. Nguồn gốc của đồng vị phóng xạ 14 6C
    Đồng vị 14 6C được sinh ra trong vùng giữa tầng bình lưu và tầng đối lưu do
    phản ứng hạt nhân của nơtron thứ cấp trong vũ trụ với hạt nhân nitơ:
    14 1 14 1
    7 0 6 1 N n C p + → +

    (1.1)

    Nguyên tử 14 6C bị ôxi hóa tạo thành phân tử khí cacbonic (14CO2 ). Các phân
    tử khí 14
    CO2 này sẽ trộn với các phân tử khí 14CO2 không phóng xạ đi vào môi
    trường nước theo các quá trình với hàm lượng phần trăm các bon hiện đại theo sơ
    đồ (hình vẽ) sau [1]:

    Nước ngầm
    Nước ngầm
    TDIC 65-85%

    từ phản ứng hạt nhân của tia vũ trụ

    Khí quyển
    Quá
    trình
    Thực vật mùn
    100%Đất
    Mùn
    100%
    hòa tan
    Đại dương
    100%
    thuần túy
    Quá trình hóa học
    Trầm tích
    100%
    100%
    trong
    đất 0%
    hòa tan
    trong nước mưa

    Sói mòn/Sa lắng
    21
    Đồng vị 14C phân rã phóng xạ theo phương trình sau:
    14 14 0
    6 7 1 C N e → + –

    (1.2)

    Chu kỳ bán rã của 14C là T1/2 =5730 năm (trong phép tính toán sai số 40
    năm), năng lượng lớn nhất của bức xạ - là 156keV. Xác định độ phóng xạ của
    14C qua việc đo bức xạ của - . Theo phương trình (1.2) một bức xạ -10e ghi nhận
    được chính là độ phóng xạ 14C , theo lý thuyết về phóng xạ vật lí 12 thì tính được
    tuổi của nước ngầm theo hàm lượng của 14C theo công thức sau:
    0
    t
    H H e t = - (1.3)
    1/2
    0
    ln
    ln 2
    T Ht
    t
    H
     =

    (1.4)

    Với: H0; Ht là độ phóng xạ riêng của 14C trong nước ngầm ở thời điểm ban
    đầu và ở thời điểm t bất kỳ khi lấy mẫu nước;
     là hằng số phân rã, lien hệ với chu kỳ bán rã theo công thức
    1/2
    ln 2
    T
     =

    (1.5)

    1.2. Đồng vị phóng xạ Triti
    Triti là đồng vị phóng xạ của Hydrô, có chu kỳ bán rã là 12,43 năm. Triti
    phóng xạ hạt beta - (hạt -10e ) có năng lượng thấp E keV  max =18 . Người ta dùng
    đơn vị TU để chỉ hàm lượng của Triti trong nước. 1TU bằng tỷ số đồng vị 3H 1
    H
    trong nước, tương đương là 10-18; 1 lít nước có hàm lượng 1TU sẽ tạo ra 7,2dpm
    (bằng 0,12Bq).
    Nguồn gốc của triti trong nước
    -Thứ nhất: Do tương tác của nơtron được tạo ra từ tia vũ trụ, ở tầng trên của
    khí quyển với hạt nhân Nitơ theo phản ứng:
    1 14 12 3
    0 7 6 1 n N C H + → +

    (1.6.)

    Tốc độ của phản ứng trong phương trình (1.6) trong bầu khí quyển của trái
    đất cỡ 0,25/nguyên tử/cm3/s. Đồng vị triti (13H ) được hình thành bị Ôxi hóa bởi
    Oxi của tầng bình lưu để tạo thành nước theo phương trình:
    3 1 3
    1 2 H O H HO + →

    (1.7)

    Triti phân rã phóng xạ tạo thành đồng vị của alpha
    22
    3 3 0
    1 2 1 H He e → + –

    (1.8)

    – Nguồn gốc thứ hai: Triti được tạo ra ngay trong lòng đất, nơtron được sinh
    ra trong các phản ứng tự phát của Uranium và Th theo phương trình. Đồng thời,
    trong vỏ trái đất cũng có một đáng kể hạt nhân Li, cũng tạo ra 13H theo phản ứng
    1 7 3 3
    0 3 2 1 n Li He H + → +

    (1.9)

    Triti phân rã phóng xạ tạo thành đồng vị của alpha teo phương trình (1.8)
    3 3 0
    1 2 1 H He e → + –

    (1.10)

    Bằng việc xác định hàm lượng electron bằng buồng ion và đầu đo (detector)
    hiện đại, xác định được H0; Ht xác định được tuổi của nước ngầm thông qua cá
    định tuổi của các đồng vị 13H và 14 6C
    * Ghi nhận kết quả từ các công trình khoa học:
    Theo các công thức (1.4) cùng các nghiên cứu thực hiện phép đo thực hiện
    trong nước và gửi mẫu ra nước ngoài đo, kết hợp với các phần mềm tin học như
    Multis [1] ở các tài liệu [1, 2], các nhà khoa học xác định được:
    + Mô hình dòng chảy ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ nói chung, khu
    vực Hà Nội nói riêng;
    + Nước ngầm được bổ cấp chủ yếu bởi nước bề mặt (sông, hồ, ao, đại
    dương) và nước mưa;
    + Thời gian nước ngầm được bổ cấp từ nước bề mặt và nước mưa vào
    khoảng cỡ 2 chu kỳ bán rã của Triti (khoảng 20 – 30 năm).
    2. Tìm hiểu về các kết quả nghiên cứu nguồn nước ngầm tại khu vực
    tỉnh Nam Định
    – Phòng thủy văn đồng vị, thuộc Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân Hà
    Nội có đặt 2 công trình quan trắc tại TT. Liễu Đề (huyện Nghĩa Hưng) và tịa UBND
    xã Hải Tây (huyện Hải Hậu) đã tiến hành thu mẫu để phân tích tìm quy luật của
    dòng chảy và tuổi của nước ngầm, đánh giá chung vào đặc trưng của nước ngầm
    khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
    – Ngày 28/11/2009 Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước (QH
    & ĐTTNN) đã tiến hành xây dựng mạng quan trắc nước duới đất tại xã Hải Bắc,
    huyện Hải Hậu (Nam Định). Công trình thuộc dự án hỗ trợ kỹ thuật nguồn vốn
    23
    ODA của Chính phủ CHLB Đức “Tăng cường năng lực quy hoạch và điều tra nước
    ngầm tại các khu đô thị Việt Nam” do Trung tâm QH & ĐTTNN (CWRPI) và Viện
    Liên bang Khoa học Địa chất và Tài nguyên thiên nhiên CHLB Đức (BGR) thực
    hiện. Đó là các xã Yên Chính (huyện Ý Yên), Mỹ Thịnh (huyện Mỹ Lộc), Điền
    Xá, Bình Minh (huyện Nam Trực), Phương Định (huyện Trực Ninh), Giao Xuân,
    Giao Yến (huyện Giao Thủy), Hải Bắc, Hải Giang (huyện Hải Hậu) và Nghĩa
    Thành (huyện Nghĩa Hưng). Mỗi điểm quan trắc có 1 đến 3 công trình quan trắc.
    Các công trình quan trắc chủ yếu vào tầng chứa nước Holocen, Pleistocen và
    Neogen [2].
    Các kết quả quan trắc đã chỉ ra rằng, tình trạng khai thác và sử dụng nước
    ngầm ở Nam Định đang tiềm ẩn nhiều yếu tố không bền vững. Đó là hiện tượng
    nhiễm bẩn do nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp và nước thải làng nghề.
    Cũng trong quá trình khảo sát thực tế, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra, ở nhiều
    địa phương của tỉnh Nam Định xuất hiện tình trạng khai thác quá mức nước ngầm
    dưới độ sâu trên 100m dẫn đến tình trạng hạ thấp mực nước ngầm và đã có hiện
    tượng nhiễm mặn trong nước ngầm tại huyện Giao Thủy và Hải Hậu, Nghĩa Hưng
    Các chuyên gia và cố vấn của dự án đã kết luận hiện tượng suy thoái nước
    ngầm chỉ có thể được ngăn chặn nếu việc khai thác nước ngầm được duy trì ở mức
    ổn định.
    Đối với hiện tượng nhiễm mặn, phân tích của các chuyên gia đã đi đến thống
    nhất phương pháp cân bằng nước cho tầng chứa nước dưới sâu. Theo đó, khoảng
    42% lượng nước khai thác được thay thế bởi nước ngầm nhạt từ tầng chứa nước
    phía dưới và từ ranh giới phía Tây tỉnh Nam Định. 22% lượng nước khai thác được
    thay thế bởi nước ngầm từ biển và 36% lượng nước khai thác được thay thế bởi
    nước ngầm lợ/mặn từ tầng chứa nước phía trên mặt và từ ranh giới phía Đông Bắc.
    Đồng thời, cũng đưa ra khuyến cáo trong việc bảo vệ nước ngầm. Như vậy,
    vấn đề quản lý nước ngầm ở tỉnh Nam Định không còn đơn giản mà đã trở thành
    vấn đề cần hành động ngay, không chỉ khuyến cáo mà các chuyên gia Đức đưa ra
    cảnh báo rằng: Nam Định đang phải đối mặt với các thách thức trong quản lý nước
    ngầm. Trước hết là vấn đề kiểm soát được hoạt động khai thác nước ngầm. Muốn
    vậy cần kiểm soát hoạt động ngay từ cấp đăng ký và kiểm tra các giếng khoan khai
    24
    thác, Giấy phép khai thác không chỉ của hộ gia đình mà cả các doanh nghiệp khai
    thác nước ngầm phục vụ cho mục đích thương mại, công nghiệp.
    3. Nghiên cứu, điều tra việc khai thác và sử dụng nước ngầm TT. Thịnh
    Long huyện Hải Hậu
    Nhóm chúng em lựa chọn mẫu khảo sát là thị trấn Thịnh Long, bởi vì tại các
    xã Hải Hoà, Hải Châu, thị trấn Thịnh Long chưa có hệ thống nước sạch (chưa sử
    dụng khai thác nước bề mặt thay thế nươc ngầm) mà chủ yếu nguồn nước sử dụng
    trong nông nghiệp (trồng màu) và sinh hoạt là khai thác mạch nước ngầm, thông
    qua các giếng khoan sâu.
    3.1. Đặc điểm địa lí của khu vực thị trấn Thịnh Long
    – Bản đồ huyện Hải Hậu (thị trấn Thịnh Long)
    Hình 4. Bản đồ huyện Hải Hậu
    25
    -Tổng diện tích là: 1568ha;
    – Dân số khoảng: 16560 người;
    – Số hộ gia đình: 4910 hộ.
    Phía tây của thị trấn tiếp giáp với sông Ninh cơ, phía Nam và Đông Nam
    tiếp giáp với biển, phía Bắc giáp với Hải Châu, phía Đông và Đông Bắc tiếp giáp
    Hải Hòa. Phủ khắp thị trấn là hệ thống ao hồ dày đặc, do kế hoạch phát triển của
    địa phương, thị trấn tiến hành dồn điền đổi thửa, người dân vượt ruộng thành vườn
    và ao thuận lợi cho việc chăn nuôi canh tác.
    Trong tổng dân số của thị trấn có 6% là cán bộ, công chức người hưởng
    lương; 32% là đánh bắt hải sản xa bờ và đi biển; còn trên 40% là người làm nông
    nghiệp, có hai nghề chính là trồng lúa và trồng màu.
    Khu công nghiệp có nhà máy đóng tàu Thịnh Long, có các khu chế biến hải
    sản như Nước mắm Ninh Cơ; Nước mắm Phú Thịnh; Khu chế xuất sứa biển …và
    các khu chế xuất hạt cước nhựa.
    Trên tổng số 1568ha, thì có 180ha đất thổ cư (chiếm 11,3%); 1223ha đất
    vườn màu và ruộng lúa (chiếm 78%) còn lại diện tích mặt nước là 165ha (chiếm
    0,7%).
    Như vậy, nước ngầm được bổ cấp trực tiếp từ nước bề mặt (gồm nước biển,
    nước sông, nước ao hồ,và nước mưa) thời gian bổ cấp khoảng 20 năm, nước ngầm
    cổ có niên đại vào khoảng 300 – 400 năm [5, 6].
    3.2. Việc khai thác, sử dụng và quản lí nước ngầm tại thị trấn
    – Tại thị trấn đến nay, nước dùng cho sinh hoạt 100% là nước khai thác từ
    nước ngầm qua các lỗ khoan, trong số 4910 hộ thì còn có 200 hộ có nhà nghỉ tại
    khu du lịch, như vậy tổng số giếng khoan khai thác nước cho sinh hoạt là khoảng
    5000 giếng;
    Với nhu cầu sử dụng nước trung bình trong một ngày là 220 lít/ người, thì
    tổng khối lượng nước dùng cho sinh hoạt là 3570m3/ngày.
    26
    – Do đặc điểm của địa phương, thị trấn còn gần 3000 hộ có vườn màu, mỗi
    vườn màu có từ một đến hai lỗ giếng khoan chờ sẵn, khi bơm chỉ gắn máy vào
    bơm; các cây trồng tại đây chủ yếu là các cây ngắn ngày như dưa, các loại rau quả
    … nên việc tưới tiêu thường xuyên, nhiều giai đoạn trong năm do điện yếu nhiều
    hộ gia đình trong số này còn tưới nước cho cây trồng từ 1 giờ sáng; do việc tưới
    tiêu đã chuyển hoàn toàn từ sử dụng nước bề mặt (nước ao, hồ, sông) sang nước
    ngầm thông qua việc khai thác từ các giếng khoan với một số lượng lớn khoảng
    30.000m3/ngày.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT