Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Phương pháp giải các bài Vật lí đáp ứng kì thi đánh giá năng lực đánh giá tư duy, học sinh giỏi cấp Tỉnh theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh

    SKKN Phương pháp giải các bài Vật lí đáp ứng kì thi đánh giá năng lực đánh giá tư duy, học sinh giỏi cấp Tỉnh theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Kỳ tuyển sinh vào các trường Đại học trong những năm gần đây, bên cạnh
    việc xét tuyển bằng điểm thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT), ngày càng
    nhiều trường Đại học sử dụng phương thức xét tuyển bằng điểm kỳ thi đánh giá
    năng lực (ĐGNL) hoặc điểm kỳ thi đánh giá tư duy (ĐGTD). ĐGNL là kỳ thi do 2
    trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh tổ
    chức, nhưng đã được gần 50 trường đại học sử dụng kết quả để xét tuyển. ĐGTD
    là kỳ thi do Đại học Bách khoa Hà Nội tổ chức với mục đích đánh giá khả năng tư
    duy, kiến thức của thí sinh để xét tuyển vào các chương trình đào tạo của trường.
    Mặc dù mới được tổ chức từ năm 2020, nhưng đến nay kỳ thi ĐGTD đã thu hút
    nhiều sự chú ý của các đơn vị, nhất là những trường cùng đào tạo khối ngành kỹ
    thuật. Hiện đã có 8 trường đại học công bố sẽ sử dụng kết quả kỳ thi đánh giá tư
    duy năm 2022 để tuyển sinh. Xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục tăng trong những
    năm tiếp theo.
    Ngoài ra, nhiều ngành tốp đầu ở các trường Đại học cũng luôn quan tâm và
    ưu tiên, có điểm cộng cho những thí sinh có IELTS, Khoa học kĩ thuật cấp Quốc
    gia, Giải học sinh giỏi văn hóa cấp Quốc gia, cấp Tỉnh, … Chính vì vậy, để có thể
    đủ điều kiện vào các trường Đại học tốp đầu thì phương pháp tư duy trong việc
    lĩnh hội kiến thức là vô cùng quan trọng.
    Trong phạm vi sáng kiến này, tôi xin đưa ra những định hướng phương pháp
    giải các bài Vật lí cụ thể đáp ứng kì thi Đánh giá năng lực – Đánh giá tư duy, học
    sinh giỏi cấp Tỉnh theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh;
    góp phần tăng tỉ lệ học sinh đỗ vào các trường Đại học tốp đầu.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP

    1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
      Những câu hỏi ở các kì thi ĐGNL, ĐGTD luôn gắn liền với kiến thức thực
      tiễn và rộng nhưng cũng không quá khó. Điều này đòi hỏi học sinh cần nắm chắc
      khối kiến thức cơ bản đã học ở trường, sau đó vận dụng khả năng của bản thân như
      phán đoán, tư duy logic, suy luận và phản biện, loại trừ,… là có thể giải quyết hiệu
      quả bài thi. Xu hướng của đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh cũng đang theo hướng đó.
      2
      Vì được tổ chức nhiều lần, nên kỳ thi đánh giá năng lực, đánh giá tư duy đã thu hút
      được một số lượng lớn các học sinh tham gia. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, số
      lượng học sinh đạt điểm cao trong kì thi đánh giá năng lực, đánh gia tư duy còn
      hạn chế. Cộng với việc nhiều trường đã xét tuyển thẳng hoặc xét tuyển ưu tiên đối
      với những học sinh đạt giải Nhất, Nhì, Ba cấp Tỉnh nên nhiều học sinh cũng đã nỗ
      lực hết mình cho cuộc thi này. Chính vì vậy, cách học và phương pháp học là rất
      quan trọng.
      Chính vì vậy mà tôi viết sáng kiến “Phương pháp giải các bài Vật lí đáp
      ứng kì thi đánh giá năng lực – đánh giá tư duy, học sinh giỏi cấp Tỉnh theo định
      hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh” với mong muốn đây sẽ là tài
      liệu tham khảo hiệu quả cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy,
      học tập; giúp học sinh có thể lựa chọn cho mình cách học phù hợp không chỉ để có
      thể vào được các trường đại học tốp đầu mà còn để đáp ứng được yêu cầu của
      chương trình giáo dục phổ thông 2018.
    2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
      2.1. TỔNG QUAN VỀ BÀI THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC, ĐÁNH GIÁ
      TƯ DUY – PHẦN THI VẬT LÍ
      Bài thi đánh giá năng lực HSA do Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học
      Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh tổ chức được thiết kế dưới dạng câu hỏi trắc
      nghiệm khách quan MCQ, tương tự như SAT của Mỹ hay TSA của Anh. Với thời
      gian 150 phút và 120 câu hỏi tích hợp kiến thức được học cùng những vấn đề thực
      tiễn thông qua: số liệu, dữ liệu, đoạn văn, công thức,… ; bài thi được chia làm 3
      phần chính: Tư duy định tính, Tư duy định lượng, Khoa học. Khi làm bài thi,
      thường những câu hỏi ở từng phần sẽ không được phân chia đều do máy trộn. Vì
      thế sẽ có những thí sinh gặp nhiều câu tư duy định tính mà câu tư duy định lượng
      hay câu khoa học lại ít và ngược lại.
      Bài thi đánh giá tư duy của Đại học Bách Khoa Hà Nội lại là sự tiếp cận với
      những phương pháp của các nước phát triển trên thế giới, hướng tới mục tiêu nâng
      cao chất lượng tuyển sinh của trường bằng cách đánh giá năng lực tư duy tổng thể
      của thí sinh. Cấu trúc bài thi chia làm 2 phần chính là phần bắt buộc và phần tự
      chọn. Phần bắt buộc gồm 3 bài tự luận và 25 câu trắc nghiệm khách quan để đánh
      giá khả năng trình bày, quy trình giải môn Toán trong 90 phút và 30 phút phần đọc
      hiểu để kiểm tra khả năng đọc hiểu của thí sinh về vấn đề kĩ thuật công nghệ như
      năng lượng, virus, … Phần tự chọn thí sinh được chọn bài Khoa học tự nhiên (90
      phút) hoặc bài Tiếng anh (60 phút – có thể qui đổi từ IELTS).
      3
      Phần thi Vật lí trong bài đánh giá năng lực, đánh giá tư duy, thậm chí đề thi
      học sinh giỏi Tỉnh hiện nay đã tăng phần nội dung đọc hiểu, liên hệ thực tiễn đòi
      hỏi học sinh phải hiểu được bản chất Vật lí mới có thể giải quyết hiệu quả. Sau đây
      tôi xin đưa ra một số ví dụ minh họa.
      Ví dụ 1: (ĐGTD – Đại học Bách Khoa Hà Nội):
      Vận tốc ánh sáng trong chân không có liên hệ với hai hằng số vật lý cơ
      bản là độ từ thẩm tuyệt đối của chân không và hằng số điện môi theo biểu
      thức sau: Cho đơn vị của hằng số điện môi là ( :
      Newton, đơn vị của lực). Đơn vị độ từ thẩm tuyệt đối của chân không (hằng số
      từ) là?
      A. B.
      C. D.
      Nhận thấy, công thức không hề có trong chương trình Trung học
      phổ thông, tuy nhiên phương pháp giải quyết bài toán chỉ đơn giản là dựa vào công
      thức bài cho, thay các đơn vị tương ứng là tìm được đáp án.
      Có , mà
      Nên
      Vậy đáp án là B.
      Ví dụ 2: (ĐGTD – Đại học Bách Khoa Hà Nội):
      Hai gương phẳng hợp nhau một góc có mặt gương
      quay vào nhau. Một vật nhỏ O nằm cách đều hai gương A và
      B. Số ảnh của O có thể nhìn thấy khi em quan sát (tính cả ảnh
      em nhìn vật O ban đầu) là?
      A. 24 B. 36 C. 48 D. 12
      Học sinh được học về đặc điểm, tính chất ảnh qua
      gương phẳng từ năm học lớp 7, lên cấp Trung học phổ thông
      trong sách lại không nói lại đơn vị kiến thức này, cho nên có
      học sinh chỉ nhìn thoáng đề thì nghĩ rằng mình không nhớ
      đơn vị kiến thức này nên bỏ qua và không tư duy đến cùng.
      4
      Nhận thấy những ảnh được tạo qua gương sẽ cách đều góc quay. Cứ một góc
      quay 150
      sẽ cho một ảnh.
      Vậy ảnh được tạo (tính cả ảnh nhìn vật ban đầu).
      Nên đáp án ta chọn là đáp án B.
      Ví dụ 3:
      Khi con ruồi và con muỗi bay, ta nghe được tiếng vo ve của muỗi mà không
      nghe được tiếng của ruồi là do?
      A. Tần số đập cánh của muỗi nằm trong khoảng từ .
      B. Muỗi đập cánh đều đặn hơn ruồi.
      C. Tần số đập cánh của ruồi nằm trong khoảng từ .
      D. Muỗi bay chậm hơn ruồi.
      Một trong những mục tiêu của các bài đánh giá năng lực, đánh giá tư duy là
      hiện thực hóa kiến thức sách vở vào những sự vật, hiện tượng thường ngày. Chẳng
      hạn, ở ví dụ 3, học sinh chỉ cần nắm được tai người nghe được những âm có tần số
      trong khoảng là có thể chọn được đáp án A.
      Ví dụ 4:
      Lưỡng cực điện xảy ra khi các điện tích dương và
      âm (ví dụ như một proton và một điện tử hoặc một cation
      và một anion) tách rời khỏi nhau và cách nhau một khoảng
      không đổi. Một phân tử hoạt động như một lưỡng cực điện
      chuyển động theo phương ngang với vận tốc không đổi vào
      điện trường đều theo phương thẳng đứng (như hình bên).
      Các điện tích âm và dương của phân tử đi vào điện trường cùng một lúc. Phát biểu
      nào là đúng về vận tốc của phân tử trong điện trường?
      A.Vận tốc theo phương ngang không đổi, vận tốc theo phương thẳng đứng tăng.
      B.Vận tốc theo phương ngang không đổi, vận tốc theo phương thẳng đứng bằng 0.
      C.Vận tốc theo phương ngang tăng, vận tốc theo phương thẳng đứng tăng.
      D.Vận tốc theo phương ngang tăng, vận tốc theo phương thẳng đứng bằng 0.
      Ví dụ 4 là một hướng đi khác. Đề thi đưa ra thông tin về lưỡng cực điện –
      chưa được đề cập đến trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, phương pháp làm ở đây là
      học sinh phải hiểu được về điện trường và lực điện trường:
      5
      Trước khi vào điện trường, phân tử chuyển động với vận tốc không đổi theo
      phương ngang nên vận tốc theo phương ngang không đổi, vận tốc theo phương
      thẳng đứng bằng 0. Lực điện tác dụng lên điện tích dương hướng thẳng đứng
      xuống. Lực điện tác dụng lên điện tích âm hướng thẳng đứng lên. Mà hai điện tích
      có độ lớn bằng nhau nên tổng hợp lực tác dụng lên phân tử bằng 0. Vì vậy, vận tốc
      theo phương thẳng đứng bằng 0.
      Ngoài ra, ở các đề đánh giá năng lực, đánh giá tư duy, nội dung đọc hiểu
      cũng rất được coi trọng. Dưới đây là một ví dụ minh họa.
      Ví dụ 5:
      Bài đọc – Vật liệu quang hướng
    3. Khi mặt trời thay đổi vị trí trên bầu trời, hoa hướng dương cũng liên tục tự
      đổi hướng theo hướng của mặt trời để hấp thụ ánh sáng nhiều nhất. Tương
      tự như vậy, giờ đây một loại vật liệu nhân tạo cũng có thể làm được điều đó.
    4. Theo công bố của các nhà nghiên cứu trên Tạp chí Công nghệ Na-nô Tự
      nhiên (Nature Nanotechnology), đây là vật liệu nhân tạo đầu tiên có khả
      năng quang hướng. Theo bài báo này, nhà vật liệu học Ximin He (Khoa
      Khoa học và Kỹ thuật Vật liệu, Đại học California, LosAngeles, Hoa Kỳ) và
      các đồng nghiệp của cô đã chế tạo được một loại vật liệu nhân tạo hình trụ
      giống như thân cây, được đặt tên là SunBOT, có khả năng tự di chuyển theo
      hướng mặt trờiđể thu được 90% ánh sáng mặt trời chiếu lên bề mặt ở góc
      75 độ. Các nhà nghiên cứu cho biết một ngày nào đó, vật liệu này có thể
      được dùng trong các ứng dụng như tối ưu hóa công suất các tấm pin mặt
      trời, khử muối trong nước, hoặc di chuyển rô-bốt.
    5. Một số nhà khoa học khác đã tạo ra các chất nhân tạo có thể uốn cong về
      phía ánh sáng, nhưng không có khả năng đổi hướng linh hoạt theo hướng
      mặt trời. Chúng không thể di chuyển vào vị trí tốt nhất để đón ánh sáng mặt
      trời. Trong khi đó, SunBOT có thể tự điều chỉnh, di chuyểnvào vị trí tối ưu cần
      thiết để hấp thụ các tia sáng mặt trời, ngoài ra chúng có thể thực hiện các
      điều chỉnh nhỏ để đổi hướng theo hướng mặt trời khi mặt trời thay đổi vị trí.
    6. Khả năng đó đến từ cấu tạo và hình dạng của SunBOT: một loại pô-li-me
      giống thân cây có đường kính khoảng 1 mm được phủ bởi vật liệu na-nô.
      Vật liệu na-nô có khả năng hấp thụánh sáng và chuyển nó thành nhiệt; khi
      đó các pô-li-me co lại để đáp ứng với nhiệt độ tăng.
    7. Khi Ximin He và các đồng nghiệp chiếu một chùm ánh sáng lên một trong
      những thân câynhân tạo này, phía được chiếu sáng nóng lên và co lại. Điều
      6
      đó khiến cho đỉnh của nó uốn congvề phía ánh sáng. Khi đó, mặt dưới được
      che khuất bởi thân cây và được làm mát, khiến SunBOT không di chuyển
      khỏi vị trí tốt nhất để hấp thụ ánh sáng. Quá trình này lặp đi lặp lại khi góc
      chiếu của chùm ánh sáng thay đổi.
    8. Ban đầu, để chế tạo SunBOT, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các hạt nanô vàng và hi- đrô-gien (mạng lưới các chuỗi pô-li-me có tính ưa nước).
      Nhưng các thử nghiệm với các vật liệu khác, chẳng hạn như ô-xít gra-phin
      và pô-li-me tinh thể lỏng, đã cho thấy các thành phần này có thể được trộn
      lẫn và kết hợp với nhau.
    9. Ông Seung-Wuk Lee, nhà nghiên cứu tại Đại học California, Berkeley,
      người không thamgia nhóm nghiên cứu cho rằng: “Nếu hiểu rõ về các vật
      liệu và nguyên tắc hoạt động của chúng, các nhà khoa học có thể sử dụng
      các vật liệu này trong các môi trường khác nhau cho các ứng dụng khác
      nhau”. Chẳng hạn, theo kết quả nghiên cứu của nhóm Ximin He, các
      SunBOT hi- đrô-gien có khả năng hoạt động trong môi trường nước.
    10. Theo Ximin He, SunBOT có thể được xếp thành hàng để bao phủ toàn bộ
      một bề mặt, tạo ra một khu rừng hoa hướng dương thu nhỏ. Bề mặt phủ
      bằng vật liệu này có thể giải quyết mộttrong những vấn đề lớn nhất về năng
      lượng mặt trời: đối với các vật liệu thông thường, việc đổi hướng liên tục
      theo hướng mặt trời là không thể. Các vật liệu ở yên một vị trí – như tế bào
      pin mặt trời trên một tấm pin mặt trời – chỉ hấp thụ khoảng 22% năng lượng
      mặt trời.
    11. Bằng cách tạo ra một vật liệu có thể hướng theo ánh sáng mặt trời, các
      nhà nghiên cứu có thể đã mở ra cánh cửa mới cho các thiết bị có khả năng
      hấp thụ tối đa năng lượng mặt trời, ngay cả khi mặt trời di chuyển. Ông
      Seung-Wuk Lee cho rằng: “Đây là một thành quả quan trọng mà các nhà
      nghiên cứu đã đạt được”.
      (Nguồn: “Vật liệu nhân tạo quang hướng đầu tiên giúp nâng cao hiệu suất các
      tấm pin mặttrời”, Sofie Bates, Tạp chí ScienceNews, 2019).
      Sau khi đọc bài đọc về vật liệu quang hướng, thí sinh hãy trả lời các câu hỏi sau:
      Câu 1: Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
      A. Giới thiệu về pin sử dụng năng lượng mặt trời.
      B. Giới thiệu về hoa hướng dương nhân tạo.
      C. Giới thiệu về vật liệu nhân tạo mới có khả năng quang hướng.
      7
      D. Giới thiệu về nhà khoa học Ximin He và cộng sự.
      Câu 2: Theo bài đọc, từ “quang hướng” ở dòng 5 có nghĩa là gì?
      A. Hướng về phía ánh sáng. B. Hướng của tia sáng.
      C. Hướng của hoa hướng dương. D. Hướng của mặt trời.
      Câu 3: Theo bài đọc, ai là người có tên trong công bố trên Tạp chí Công nghệ Nanô Tự nhiên?
      A. Sofie Bates. B. Ximin He.
      C. Seung-Wuk Lee. D. Ximin He và cộng sự.
      Câu 4: Vật liệu SunBOT có thể KHÔNG được sử dụng cho mục đích nào dưới
      đây?
      A. Di chuyển rô-bốt. B. Khử muối trong nước.
      C. Cải thiện hiệu suất pin mặt trời. D. Biến nước ngọt thành nước biển.
      Câu 5: Câu nào dưới đây mô tả rõ nhất về SunBOT?
      A. SunBOT là vật liệu nhân tạo có thể hướng theo ánh sáng mặt trời.
      B. SunBOT là vật liệu na-nô được nhúng trong vật liệu pô-li-me.
      C. SunBOT là một loại pô-li-me giống thân cây hướng dương.
      D. SunBOT là các hạt na-nô vàng và hi-đrô-gien.
      Câu 6: SunBOT hoạt động dựa trên cơ sở nào dưới đây?
      A. Tính ưa ánh sáng của vật liệu pô-li-me và vật liệu na-nô.
      B. Khả năng co lại vì nhiệt của pô-li-me và phản xạ ánh sáng lớn của vật
      liệu na-nô.
      C. Khả năng co lại vì nhiệt của pô-li-me và hấp thụ ánh sáng và sinh nhiệt
      của vật liệu na-nô
      D. Đặc tính mềm dẻo của vật liệu pô-li-me và na-nô vàng.
      Câu 7: Việc nhắc đến SunBOT hi-đrô-gien trong đoạn 7 (dòng 29-33) nhằm mục
      đích gì?
      A. Phản bác lại ý kiến của ông Seung-Wuk Lee.
      B. Minh họa cho ý kiến của ông Seung-Wuk Lee.
      C. Khẳng định SunBOT là do ông Seung-Wuk Lee chế tạo.
      D. So sánh với kết quả nghiên cứu trước đây của nhóm Ximin He.
      8
      Câu 8: Theo học giả Seung-Wuk Lee,
      A. các SunBOT hi-đrô-gien hoạt động trong nước rất quan trọng.
      B. chế tạo thành công SunBOT là thành quả khoa học quan trọng.
      C. Ximin He và các đồng nghiệp là các nhà khoa học tài năng.
      D. nâng cao hiệu suất của pin mặt trời là nhiệm vụ quan trọng
      Qua các ví dụ trên, tôi nhận thấy, phần thi Vật lí trong các đề thi đánh giá
      năng lực, đánh giá tư duy hiện nay và trong tương lai luôn chú trọng vào việc phát
      triển năng lực Vật lí và phẩm chất cho học sinh đáp ứng yêu cầu của chương trình
      phổ thông 2018. Ở các bài thi này, học sinh không chỉ phải nắm vững kiến thức cơ
      bản mà còn biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề
      có liên quan trong cuộc sống.
      Khi đạt điểm cao trong kì thi đánh giá năng lực, đánh giá tư duy thì học sinh
      có cơ hội lớn vào các trường đại học tốp đầu mà mình yêu thích. Hơn thế nữa, hiện
      nay, nếu học sinh đạt giải cao trong kì thi học sinh giỏi cấp Tỉnh thì cũng là một
      điểm cộng vào các trường đại học uy tín. Muốn đạt được nguyện vọng đó thì việc
      đầu tiên là học sinh phải thật chắc kiến thức nền tảng.
      Sau đây, tôi sẽ đưa ra một số dạng bài Vật lí hay gặp trong kì thi đánh giá
      năng lực, đánh giá tư duy, thi học sinh giỏi Vật lí 12 cấp Tỉnh và phương pháp giải
      tương ứng theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh.
      2.2. PHƯƠNG PHÁP GIẢI MỘT SỐ DẠNG BÀI VẬT LÍ PHẦN DAO
      ĐỘNG CƠ
      Trước hết, tôi xin đưa ra một ví dụ về câu hỏi đánh giá năng lực đã từng thi
      thuộc phần dao động cơ:
      Trong các công viên cây xanh hoặc
      khu vườn thông minh, quá trình tưới nước
      được tự động hóa bằng máy, việc kiểm soát
      thời gian tưới trong một khu vực nhất định
      cần được tính toán chính xác. Để tìm hiểu
      việc này, hãy xét một vòi nước đang tưới một
      mảnh vườn như hình bên. Vòi nước này dao động điều hòa với chu kì 60,0s làm
      cho dòng nước tưới lệch so với phương thẳng đứng một góc , góc thay đổi từ
      đến . Nước từ vòi sẽ đến mảnh vườn cần tưới khi góc lớn hơn hoặc
      9
      bằng . Thời gian mà mảnh vườn được tưới khi đầu vòi nước hoàn thành một
      dao động là?
      A. 40,0s B. 10,0s C. 50,0s D. 20,0s
      Với câu hỏi này, có một số thí sinh tưởng khó, thậm chí còn bỏ cuộc luôn từ
      đầu vì đề bài quá dài. Chỉ cần tập trung đọc hiểu đề, học sinh có thể thấy đây chỉ là
      một câu thông hiểu: Thời gian mà mảnh vườn được tưới khi đầu vòi nước hoàn
      thành một dao động sẽ tương ứng với thời gian đi từ đến trong một chu kì:
      . Vì vậy ta chọn đáp án D.
      2.2.1. Câu hỏi liên quan đến lực đàn hồi và lực kéo về
      A. Phương pháp:
    • Lực kéo về (lực hồi phục hay lực phục hồi):
       Lực hồi phục (lực kéo về) luôn có xu
      hướng đưa vật về VTCB (O).
       Có độ lớn tỉ lệ với li độ:
    • Lực đàn hồi:
       Lực đàn hồi luôn có xu hướng đưa vật về vị trí lò xo không biến dạng ( ).
       Có độ lớn tỉ lệ với độ biến dạng của lò xo:
       CLLX dao động theo phương ngang: Lực đàn hồi và lực kéo về là một (vì
      VTCB )
    • Khi lò xo dãn: Lực đàn hồi là lực kéo
    • Khi lò xo nén: Lực đàn hồi là lực đẩy
      (nén).
       CLLX dao động theo thẳng đứng:
       Trường hợp CLLX treo thẳng đứng:
    • Giá trị:
    • Độ lớn: với : độ biến dạng của lò xo.
    • : Lò xo dãn, là lực kéo (chọn chiều (+) như hình).
      10
    • : Lò xo nén, là lực nén.

      •  Trường hợp CLLX đặt ở dưới (mặt sàn), vật ở trên:
    • Lực đàn hồi cực đại là lực nén.
      -Lực đàn hồi cực tiểu (lực nén):
    • Lực kéo đàn hồi cực đại:
      lúc ở cao nhất
       Nếu lò xo chỉ chịu lực kéo được tối đa là F0 thì để lò
      xo không bị đứt:
       Thế năng đàn hồi của vật:
       CLLX dao động trên mặt phẳng nằm ngang:
    • Đồ thị Fđh(t) – Phương pháp tịnh tiến trục Ot:
    • Dành cho CLLX treo thẳng đứng
    • Xét về mặt giá trị
       Vậy chính là một hàm tuần hoàn tạo bởi một hàm dạng cos (sin) theo
      thời gian kết hợp với một hằng số .
       Đồ thị Fđh(t) khi tịnh tiến trục Ot lên hoặc xuống “ “đơn vị thì ta sẽ thu
      được đồ thị Fkv(t).
      Coi trục Ot’ là trục thời gian mới, từ đồ thị của một hàm tuần hoàn, ta thu được
      đồ thị dao động điều hòa Fkv.
      11
      Chẳng hạn:
       Đồ thị Fkv(t)  Đồ thị Fđh(t)
       Đồ thị Fđh(t) khi tịnh tiến trục Ot lên hoặc xuống “ “đơn vị thì ta sẽ thu
      được đồ thị Fkv(t).

    B. Ví dụ minh họa:
    Ví dụ 1: (ĐGNL – Đại học Sư phạm Hà Nội): Trong các trò chơi mạo hiểm, việc
    ứng dụng khoa học nhằm kiểm soát rủi ro đóng vai trò quan trọng. Nhảy bungee là
    một trong những trò chơi như vậy. Trong trò chơi này, người chơi đứng trên cầu ở
    độ cao nhất định so với mặt nước. Một đầu sợi dây được buộc chặt vào thân người,
    đầu còn lại được cố định vào thành cầu và sau đó người chơi nhảy xuống. Để đảm
    bảo an toàn, chiều dài tự nhiên của sợi dây (chiều dài dây khi không co, không
    dãn) được chọn theo khối lượng của người chơi trước khi nhảy để khi chạm tới mặt
    nước thì người có tốc độ bằng không. Giả thiết rằng sợi dây có tính đàn hồi, không
    xoắn trong quá trình người chuyển động. Khi người chơi có khối lượng 60 cân và
    thực hiện cú nhảy với tốc độ ban đầu không đáng kể từ vị trí có độ cao 40m so với
    mặt nước thì chiều dài tự nhiên của sợi dây là 20m. Bỏ qua khối lượng của dây,
    chiều cao của người và lực cản không khí. Gia tốc trọng trường .
    12

    1. Tính lực đàn hồi của sợi dây khi người ở vị trí cân bằng.
    2. Tìm hệ số đàn hồi của sợi dây và tốc độ lớn nhất của người chơi đó.
    3. Nếu người chơi có khối lượng 80 kg thì chiều dài tự nhiên của sợi dây
      phải bằng bao nhiêu mới đạt tiêu chuẩn?
      Coi rằng với hệ số đàn hồi và chiều dài tự nhiên của dây.
      Hướng dẫn giải:
    4. Tại VTCB, theo (II) Newton:
      Do bỏ qua lực cản của không khí nên cơ năng được bảo toàn. Tại điểm P ở li độ ,
      theo bảo toàn cơ năng: (1)
      Do khi chạm mặt nước nên:
      Hệ số đàn hồi của dây treo là:
    5. Cách 1: Tốc độ lớn nhất của người chơi đạt được khi tổng hợp lực tác dụng lên
      người bằng không, đó là tại VTCB. Tại VTCB, sợi dây dãn ra một đoạn
      . Thay vào (1), thỏa mãn phương trình
      . Từ đó tính được .
      Cách 2: Từ VT sợi dây không co, không dãn đến ngay trước khi người chơi chạm
      vào nước, người này coi như một chất điểm dao động điều hòa quanh VTCB với
      . Tại VTCB, sợi dây dãn ra một đoạn , do đó biên độ dao
      động là . Tốc độ lớn nhất của người chơi m/s
    6. Từ giả thiết , ta có (2)
      13
      với và , .
      Thay vào phương trình (2), giải và tìm .
      Phương trình có hai nghiệm: bị loại vì dây không có tác dụng
      trong trò chơi, tốc độ khi chạm nước , đã vi phạm giả thiết đã cho.
      thỏa mãn. Vậy cần dây dài .
      Ví dụ 2: Hai vật nhỏ M và N có khối lượng m
      và 4m được treo vào đầu hai lò xo giống nhau
      có độ cứng k, đầu kia của hai lò xo được treo
      vào cùng một giá treo. Lúc đầu giữ hai vật ở
      cùng một độ cao. Tại thời điểm t=0s, buông
      nhẹ để hai vật dao động điều hòa theo phương
      thẳng đứng thì chúng dao động ngược chiều.
      Bỏ qua lực cản không khí và lấy g=10m/s2
      . Hình bên là đồ thị biểu diễn độ lớn lực
      tổng hợp F tác dụng lên giá treo theo thời gian t. Tại , lực kéo về tác dụng
      lên vật M có độ lớn là?
      A. 0,1N B. 1N C. 0,5N D. 5N

    Hướng dẫn giải:

    • Chọn chiều dương hướng xuống dưới.
    • Vì nên O1 cao hơn O2.
    • Hai vật được buông nhẹ ở cùng một độ cao và chuyển động ngược chiều
      (1)
    • Lực tổng hợp tác dụng lên giá chính là lực đàn hồi
      của hai lò xo.
    • Tại thì
      (2)
    • Tại thì 2 vật ở biên dương
      14
      (3)
    • Tại thì 2 vật quay lại trạng thái chuyển động ban đầu
    • Thay vào (1), (2) và (3) giải hệ, ta
      được:

    • Ví dụ 3: Một CLLX treo thẳng đứng gồm vật nặng
      có khối lượng m và lò xo rất nhẹ có độ cứng k đang
      dao động điều hòa với biên độ A. Chọn chiều dương
      hướng xuống, g=10 m/s2
      . Đồ thị bên là

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Sử dụng phần mềm Storyline 3 trong việc thiết kế bài giảng E Learning bộ môn Vật lí 12

    SKKN Sử dụng phần mềm Storyline 3 trong việc thiết kế bài giảng E Learning bộ môn Vật lí 12

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN

    • Vai trò của Công nghệ thông tin (CNTT) trong cuộc sống hiện nay là không
      thể phủ nhận. CNTT được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới và hầu hết trong tất cả
      các lĩnh vực. Ngày nay từ các em bé, các thanh thiếu niên đến những người có tuổi
      đều đã tiếp cận với máy tính và công nghệ thông tin. Có muôn vàn lý do: họ học, sử
      dụng CNTT để vượt qua các kỳ thi trong trường học, họ sử dụng để cải thiện cơ hội
      việc làm và thăng tiến, họ sử dụng đơn giản là do họ muốn nghe nhạc, xem phim,
      chat với bạn bè nước ngoài v..v.. Nói chung, CNTT đã trở thành công cụ không thể
      thiếu với mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại. Nhận thức được điều đó, Bộ Giáo Dục
      đã khuyến khích tất cả các thầy cô giáo các cấp ứng dụng CNTT trong dạy học nhằm
      đổi mới phương pháp dạy và học. Đồng thời, CNTT chính thức được sử dụng trong
      tất cả các bậc học từ tiểu học và có mặt trong tất cả các kỳ thi quan trọng như thi
      chuyển cấp, thi trung học phổ thông quốc gia…để ra đề thi, tổng hợp số liệu, lưu hồ
      sơ văn phòng, trường học…. Là một giáo viên Vật lí, tôi luôn trăn trở làm sao để đổi
      mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học đặc biệt là đối với học sinh
      cuối cấp 12, giúp các em vượt qua kỳ thi quan trọng nhất đó là thi THPT quốc gia
      trong giai đoạn toàn xã hội đang nhiễm dịch và việc đi học tập trung càng khó khăn.
    • Học sinh THPT Nguyễn Khuyến nói chung và học sinh khối 12 nói riêng
      đều mong muốn có một mùa thi đạt kết quả tốt trong khi toàn xã hội còn phải căng
      sức ra chống dịch bệnh, do đó phần lớn thời gian các em sử dụng là học online ở nhà
      và không phải học sinh nào cũng hứng thú với việc ngồi nghe và làm theo yêu cầu
      của giáo viên trong những tiết học trực tuyến. Mặt khác, ảnh hưởng của đường truyền
      internet khi lớp học có số lượng đông đã làm tiết học thường xuyên bị ngắt quãng.
      Với sự nỗ lực không ngừng của Ban Giám Hiệu, đội ngũ giáo viên nói chung của
      toàn trường và tổ nhóm chuyên môn Vật lý, cá nhân tôi đã tham gia soạn giảng bài
      học E – Learning nhằm cung cấp một phương pháp khác để tiếp cận kiến thức cho
      các em. Và cùng với tinh thần vượt khó đại dịch của các em, các em đã đạt kết quả
      đáng khích lệ trong các kỳ thi chất lượng trong năm học cũng như trong kì thi THPT
      quốc gia. (Xếp thứ 3 toàn tỉnh trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2020 – 2021). Khi
      phân tích kết quả thi THPT tôi thấy hầu hết các em đã dành điểm ở những câu cơ
      bản, nhưng còn yếu ở câu khó như những câu cần nhiều đến kỹ năng tính toán, phân
      tích bản chất hoặc câu cần có thuật toán riêng để giải. Trước tình hình đó tôi xác
      định trong năm học này, bên cạnh duy trì các câu cơ bản, tôi cần đầu tư trang bị cho
      các em kiến thức về những câu có độ khó lớn hơn để giúp các em nâng cao điểm số
      và cần đưa vào rèn luyện cho các em cả ba khối với cách truyền tải khác có ứng
      dụng công nghệ thông tin trong khi các em vẫn còn phải đang học online dài. Một
      trong những phương pháp có ứng dụng CNTT đó chính là soạn bài giảng E –
      Learning. Tôi đã báo cáo chuyên đề về phương pháp soạn bài giảng E–Learning tại
      tổ nhóm chuyên môn và đã tham gia dự thi “Thiết kế bài giảng điện tử E- Learning”
      năm học 2021 – 2022 do Sở Giáo dục tỉnh Nam Định tổ chức và cũng đã đạt được
      giải Ba toàn tỉnh. Bài giảng cũng đã nhận được sự quan tâm và đánh giá cao từ các
      đồng nghiệp, học sinh và các em học sinh trong cộng đồng mạng. Từ báo cáo chuyên
      đề và bài giảng thực tế đó, tôi muốn tiếp tục phát triển lên và tổng hợp thành sáng
      2
      kiến kinh nghiệm với mong muốn chia sẻ được kinh nghiệm soạn giảng bài giảng E
      – Learning áp dụng trong tất cả các môn học với đông đảo giáo viên trong tỉnh nhà.
    • CNTT không chỉ quan trọng trong thiết kế bài giảng E-learning mà xét về
      lâu dài nó còn vô cùng quan trọng đối với việc đổi mới phương pháp dạy và học của
      giáo viên và học sinh. Hiện nay, nhiều học sinh tham gia sử dụng máy tính và khai
      thác internet chưa nhằm vào công việc học tập. Nhưng nếu có một bài học mà khuyến
      khích các em tương tác trực tiếp, tìm hiểu kiến thức trực tiếp như đang học với thầy
      cô giáo trên lớp thì có lẽ các em sẽ dễ dàng nhớ kiến thức đó lâu hơn, ứng dụng làm
      bài tốt hơn. Và rõ ràng, công việc sử dụng máy tính, điện thoại của các em ở nhà sẽ
      có ích hơn như: không sa đà vào game hoặc các văn hoá phẩm đồi truỵ khác. Khi
      các em khai thác được một bài giảng, sẽ có đường dẫn để các em tiếp cận với một
      bài giảng mới, kiến thức mới. Hoặc ngay đối với giáo viên chúng ta, việc thiết kế
      được bài giảng E – learning cũng giúp giáo viên tự tin hơn trong việc ứng dụng
      CNTT để đổi mới phương pháp dạy học. Hơn nữa, CNTT giúp cho cộng đồng giáo
      viên, học sinh kết nối gần gũi nhau hơn, dễ chia sẻ và trao đổi hơn trong học tập và
      cuộc sống.
    • Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng Công nghệ thông tin
      trong giảng dạy, tôi đã tìm hiểu và mạnh dạn ứng dụng thiết kế bài giảng E – learning
      cho bộ môn Vật lí để giảng dạy. Đó là lý do tôi chọn đề tài:
      “SỬ DỤNG PHẦN MỀM STORYLINE 3 TRONG VIỆC
      THIẾT KẾ BÀI GIẢNG E – LEARNING BỘ MÔN VẬT LÍ 12”
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến kinh nghiệm.
      Môn Vật lí là một bộ môn thực nghiệm, học sinh cần phải quan sát các hiện
      tượng diễn ra, sau đó hình thành lý thuyết, công thức có liên quan, và cuối cùng là
      làm thí nghiệm để kiểm chứng. Tuy nhiên, đối với phần kiến thức của khối 10 và
      khối 11, khi các em học về Vật lí cổ điển thì học sinh có thể quan sát được hiện
      tượng như: cơ học Newton, quang, lực, quãng đường …. Còn đối với phần kiến thức
      Vật lí 12 khi các hiện tượng không diễn ra trước mắt, các hiện tượng xảy ra với
      những chuyển động của những hạt, phần tử rất nhỏ thì nhiều học sinh lại gặp khó
      khăn. Ví dụ như khi dạy chương sóng và nói về các phần tử vật chất dao động, tôi
      thường phải vẽ trên bảng và ví dụ 1, 2 điểm trên sóng để mô tả dao động của chúng.
      Khi dạy bài sóng dừng, để nói về điểm nút và điểm bụng là luôn luôn cố định, còn
      sóng vẫn lan truyền thì nhiều học sinh cũng gặp khó. Các chương sau như chương
      hạt nhân, chương lượng tử ánh sáng cũng là một vấn đề mới mẻ với các em trong
      việc hình dung ra hiện tượng.
      Để giải quyết vấn đề về hiện tượng Vật lí, tôi cũng đã thiết kế bài giảng điện
      tử trên PowerPoint để mô phỏng lại các hiện tượng vật lí mà các em khó tưởng tượng
      để các em có thể hiểu được hiện tượng, từ đó mới tiếp cận được các công thức của
      bài. Tuy nhiên, khó khăn ở đây là bài giảng trên lớp thì phải đến tiết Vật lí mới được
      học, và khi triển khai học tập trên lớp thì mất khá nhiều thời gian như chuẩn bị công
      cụ hỗ trợ: máy tính, ti vi hoặc máy chiếu …. Đặc biệt là trong thời gian đầu năm
      3
      học, toàn tỉnh nói riêng và cả nước nói chung các em học sinh các cấp đều phải nghỉ
      ở nhà do dịch bệnh. Do đó, khả năng hiểu hiện tượng Vật lí (nhất là đối với học sinh
      khối 12) thật sự là một trở ngại lớn.
      Vì vậy, để các em có thể tự học, tự nghiên cứu được ở nhà hoặc ở bất cứ nơi
      đâu nhưng vẫn có thể tương tác được với bài học một cách chủ động, tương tác được
      với giáo viên như trả lời trực tiếp các câu hỏi gợi mở đến bài học của giáo viên, tôi
      đã nghĩ đến phương pháp E-Learning. Phương pháp E – learning nó không phải là
      một bài giảng điện tử như chúng ta vẫn đang thiết kế trên Powerpoint để giảng dạy
      trực tiếp ở trên lớp, nó cũng không giống như những bài giảng được quay lại để phát
      trên truyền hình hoặc các kênh sóng trên youtube. Đây thực sự là phương pháp hữu
      hiệu cho học sinh và cả giáo viên (đặc biệt là trong mùa dịch).
      Tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu để thiết kế bài giảng E – Learning Vật lí 12
      bằng phần mềm Storyline 3. Trước khi quyết định sử dụng phần mềm này, tôi cũng
      đã thử sức qua rất nhiều phần mềm để chế tạo bài giảng E – learning nhưng tôi nhận
      thấy từ LectureMarker, Violet hay mạnh hơn như IspringSuite cũng hay bị lỗi. Có
      thể gặp lỗi trong khi thiết kế bài giảng, có thể lại gặp lỗi khi xuất bản bài giảng…do
      có rất nhiều những cài đặt khác nhau trên máy tính để phục vụ cho việc thiết kế bài
      giảng, và chúng thường xung đột lẫn nhau nên dẫn đến lỗi. Phần mềm Storyline 3
      sinh ra chỉ chuyên dùng để thiết kế bài giảng điện tử E – Learning. Hay nhất là nó
      là một phần mềm chạy độc lập, nó có thể cho chèn vào một file Powerpoint hoặc
      cũng có thể xuất ra Powerpoint, do đó nó không hề bị mắc các lỗi như các phần mềm
      nêu trên. Mặt khác, giao diện làm việc của Storyline 3 lại rất giống với PowerPoint
      – một ứng dụng rất quen thuộc với giáo viên.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
      2.1. Khái niệm – đặc điểm của bài giảng E – learning.
      Bài giảng E-Learning là sản phẩm được tạo ra từ các công cụ tạo bài giảng
      điện tử, có khả năng tích hợp đa phương tiện gồm video, hình ảnh, đồ họa, hoạt hình,
      âm thanh, …, và tuân thủ một trong các chuẩn SCROM, AICC, HTML5…
      Trong những gần đây, E – learning đang trở thành một phương pháp học tập
      được rất nhiều người tin tưởng lựa chọn. E – learning là một trong những phương
      pháp học trực tuyến có sử dụng kết nối mạng Internet để phục vụ học tập. Thông
      qua hệ thống E – learning, người học có thể tham khảo các tài liệu học, đồng thời có
      thể trao đổi với giáo viên mà không cần phải gặp trực tiếp. Nói cách khác, hệ thống
      E – learning giống như một môi trường học tập bao gồm các công nghệ lưu trữ và
      truyền tải dữ liệu. Nhờ đó, người học có thể tương tác với nhau trực tiếp ngay trên
      hệ thống đào tạo trực tuyến.
      E-learning được hoàn chỉnh dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông, bao
      gồm: Công nghệ mạng, thiết kế – kỹ thuật đồ hoạ, các phép tính, công nghệ chuyển
      động, kỹ thuật mô phỏng,… Phương pháp E-learning, các phần mềm tao bài giảng
      E – learning hướng tới đối tượng chính là học sinh. Vì vậy, nó được thiết kế và phát
      triển phù hợp hoàn toàn với khả năng sử dụng của học sinh. Các công cụ làm bài
      giảng có khả năng hỗ trợ giáo viên trong việc truyền bá hình ảnh, âm thanh, chữ viết
      khi giảng dạy trực tuyến. Học sinh có thể tham khảo các tài liệu hoặc trao đổi trực
      4
      tiếp với giáo viên thông qua hệ thống giáo dục trực tuyến E-learning để việc tiếp thu
      kiến thức trở nên hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, hệ thống học tập trực tuyến này còn
      cho phép các cơ quan, nhà trường có thể quản lý và xử lý mọi thông tin nhanh chóng,
      thuận tiện và hiện đại hơn ( Hệ thống quản lí LMS )
      E-learning đang được sử dụng rộng rãi, và có xu hướng phát triển nhanh chóng
      trong tương lai gần. Rất nhiều nước trên thế giới đã và đang phát triển phương thức
      học tập này và đã rất thành công. Chính vì thế, đối với các trung tâm, tổ chức giáo
      dục thì đây là một yếu tố không thể thiếu được trong nền kinh tế tri thức.
      2.2. So sánh bài giảng e-Learning với các hình thức bài giảng khác.
      So với các hình thức dạy học truyền thống, dạy học trên truyền hình hay dạy
      học trên các slide PowerPoint thì bài giảng E – Learning có ưu điểm vượt trội hơn.
      Cụ thể:
    • Thời gian và không gian học không bị giới hạn: Học sinh có thể học tập mọi
      lúc, mọi nơi và không cần phải đến lớp theo một khung giờ cố định. Điều này giúp
      học sinh có thể tự điều chỉnh và quản lý thời gian học của mình một cách hợp lý
      nhất.
    • Sự hấp dẫn của bài giảng: Bài giảng E-learning trở nên sống động và thú vị
      hơn khi được kết hợp với âm thanh, hình ảnh hoặc những tình huống trò chơi khởi
      động, vận dụng, tổng kết bài học độc đáo, hấp dẫn. Điều này không chỉ giúp mang
      lại những cái nhìn trực quan cho người học mà còn kích thích họ tương tác với bài
      học.
    • Nâng cao khả năng giảng dạy, quản lý học sinh của giáo viên, của Nhà
      trường thông qua hệ thống đào tạo trực tuyến ( mọi thông tin đều được lưu tự động
      trên máy chủ ).
    • Nâng cao sự tự giác, chủ động học tập của học sinh: Do E-learning không
      rào cản về địa lý và thời gian, chính vì vậy học sinh có thể linh động sắp xếp thời
      gian học tập cho phù hợp. Học sinh sẽ tự chủ động tham gia học và lên kế hoạch học
      tập linh động và hiệu quả. Đồng thời nó cũng cho phép học sinh tiếp cận không giới
      hạn nguồn tài nguyên, các tài liệu có sẵn trên hệ thống.
      2.3. Phần mềm Storyline 3.
      2.3.1. Storyline 3 là gì?
      Trong thời điểm CNTT bùng nổ thì hiện nay, có rất nhiều các phần mềm được
      ứng dụng, sử dụng để thiết kế bài giảng điện tử như LectureMaker, Violet, Adobe
      Presenter, IspringSuite…v..v. Mỗi phần mềm đều có những ưu điểm và thế mạnh
      vượt trội của nó. Quan trọng là đáp ứng chuẩn quốc tế về E-Learning là SCORM,
      AICC, HTML5 ….
      Qua tìm hiểu, nghiên cứu, thực hành và sử dụng một số phần mềm để làm
      giáo án áp dụng trong giảng dạy, tôi thấy phần mềm Articulate Storyline 3 có nhiều
      ưu điểm tốt và dễ sử dụng nên tôi quyết định chọn phần mềm Articulate Storyline 3
      để thiết kế bài giảng E – Learning của mình. Storyline 3 là một ứng dụng chạy độc
      5
      lập (không phải là ứng dụng chạy trên nền tảng PowerPoint), nhưng nó cũng cho
      phép xuất bài bài giảng điện tử từ file PowerPoint.
      Hình 1: Giao diện phần mềm StoryLine 3
      2.3.2. Ưu điểm của phần mềm StoryLine 3
    • StoryLine 3 có giao diện thân thiện (giống giao diện PowerPoint), dễ sử
      dụng, chạy độc lập và là một phần mềm thiết kế bài giảng E-Learning chuyên nghiệp.
    • Là một công cụ soạn thảo mạnh mẽ, trực quan cho phép chỉnh sửa hình ảnh
      và video dễ dàng, nhanh chóng đồng thời có thể điều khiển được theo ý muốn trong
      quá trình học.
    • Cho phép tạo ra sự tương tác 2 chiều: Học sinh có thể tương tác trực tiếp với
      bài học để tiếp thu kiến thức tốt hơn.
    • StoryLine 3 cho phép tạo hình động, tạo quizzes với nhiều hình thức khác
      nhau, ghi lại màn hình cùng với vô vàn hiệu ứng slideshow khác.
    • Cho phép giáo viên có thể sử dụng lại các bài giảng đã thiết kế, xây dựng từ
      trước trên các phần mềm khác để “nhúng” vào bài giảng trên Articulate Storyline .
      2.3.3. Một số chức năng chính của phần mềm.
      File + New: Tạo 1 bản mới
    • Open: Mở 1 bản đang thiết
      kế dở
    • Import: Cho phép chèn:
      PowerPoint, câu hỏi nhanh
      hoặc 1 file Storyline khác …
    • Translation: Cho phép xuất
      file dưới các định dạng khác:
      Word …
      6
    • Save, save As: ch
      ức năng
      ghi, lưu …
    • Print: cho phép in trang.
    • Publish: Cho phép đóng gói
      bài gi
      ảng.
      Home + New Scene: cho phép m
      ở 1
      Scene m

      i
    • Preview: Cho phép xem
      trư
      ớc
      Insert + Có các ch
      ức năng chèn hình
      ảnh, âm thanh, video … như
      PowerPoint.
    • Chèn bi
      ểu tư
      ợng: Button,
      chèn câu h
      ỏi tr
      ắc nghi
      ệm các
      d
      ạng: Hotspot …
      Slides Cho phép tùy ch
      ỉnh các hi
      ệu
      ứng trên Slide đang thi
      ết k
      ế
      .
      Design Cho phép cài đ
      ặt đ
      ịnh d
      ạng,
      background cho bài.
      Transition Là các hi
      ệu
      ứng chuy
      ển slide
      (gi
      ống PowerPoint)
      Các ch
      ế
      đ
      ộ xem
      trư

      c
      Cho phép xem trư
      ớc bài
      gi
      ảng trên máy tính, máy tính
      b
      ảng hay đi
      ện tho
      ại (d

      c,
      ngang)…
      Triggers + Đây là ph
      ần hi
      ển th
      ị các
      thao tác c
      ủa bài thi
      ết k
      ế: t
      ất c

      các Triggers, hi
      ệu
      ứng và các
      Layers.
    • Khác v
      ới PowerPoint là
      Storyline s
      ẽ có th

      t
      ạo ra các
      Layers con cùng 1 lúc.
      7
      Slide làm
      việc
    • Là phần làm việc chính
    • Mọi thiết kế sẽ hiển thị trên
      Timeline làm việc (có thể
      chỉnh theo ý muốn của giáo
      viên thiết kế)
      2.3.4. Đóng gói sản phẩm
      Storyline 3 cho phép chúng ta xuất bản bài giảng ra nhiều định dạng chuẩn E
      – learning như: Web (HTML5), SCORM dùng cho hệ thống LMS, vào đĩa CD, xuất
      ra dưới dạng Word …
      Tuy nhiên, để thể hiện ưu việt của phần mềm, tôi thường chỉ xuất bản bài dạy
      dưới dạng Web – nhằm chia sẻ rộng rãi tới học sinh hơn, hoặc dạng chuẩn SCORM.
      2.4. Thực trạng dạy học E-Learning trên thế giới và ở Việt Nam
      Tại các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…, E – Learning đã được
      triển khai với quy mô sâu rộng với rất nhiều tính năng đi kèm với khóa học. Ở đó,
      họ rất linh hoạt trong việc học và thanh toán chi phí học tập. Ngoài ra nền tảng
      Internet, công nghệ hỗ trợ cho việc học trực tuyến là rất tốt.
      Tại Việt Nam, việc học trực tuyến mới chỉ bắt đầu phát triển trong một số năm
      gần đây và vẫn chưa được áp dụng một cách đồng đều ở các địa phương.
      Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã tiến hành thành lập một ngân hàng các bài
      giảng E – Learning các môn học của các khối, lớp trên trang https://igiaoduc.vn/
      nhằm hướng đến xây dựng một kho học liệu số. Tuy nhiên, để tiến hành được việc
      học trực tuyến qua bài giảng E-learning thì chúng ta cần rất nhiều công sức và thời
      gian, đồng thời xây dựng hệ thống internet với băng thông rộng được triển khai tới
      tất cả các trường học….
      2.5. Xây dựng, thiết kế bài giảng E – learning bằng phần mềm Storyline 3
      2.5.1. Cài đặt và Crack phần mềm Storyline 3
      Bước 1: Tải phần mềm Storyline 3 về máy tính và giải nén.
      Tôi đã cài một số phiên bản Sroryline. Tuy nhiên đến Storyline 3 này là tôi
      thấy ưng ý nhất. Vì vậy đã đưa lên driver cá nhân để lưu giữ lại:
      https://drive.google.com/drive/folders/1gZwbxlXBcM_JY-FjVfSzB2BdbaVNBAd?usp=sharing
      8
      Bước 2: Vào biểu tượng Storyline 3, chuột phải và chọn Run as administrator
      Bước 3: Tick vào ô I agree … và Install Now rồi đợi cho nó chạy.
      Bước 4: Khởi động phần mềm:
      Bấm vào Finish Kick đúp vào biểu tượng trên màn hình
      Bước 5: Crack phần mềm
    • Khi chưa Crack, phần mềm chỉ được
      dùng 30 ngày
    • Tắt phần mềm đi sau đó tiến hành
      Crack: Coppy toàn bộ các file có trong
      Foder Crack rồi Paste toàn bộ theo
      đường dẫn sau: This PC → Windows 10
      (C 🙂 → Program Files (x86) →
      Articulate → Storyline 3
      9
      Bước 6: Hoàn tất cài đặt. Khởi động lại phần mềm sau khi Crack.
      2.5.2. Xây dựng kịch bản bài giảng.
      Đây là công việc đầu tiên trước khi thiết kế bài giảng E – Learning.
      Bước 1: Do có thể Import PowerPoint vào
      trong Storyline nên ta có thể sử dụng bài giảng
      đã thiết kế sẵn nhằm tiết kiệm thời gian. Tuy
      nhiên, tôi lựa chọn cách tạo bài mới để không
      phải chỉnh sửa nhiều
      hoặc
      Bước 2: Chỉnh sửa nội dung cơ bản cho từng
      slide. Chèn logo trường học, hình ảnh giáo
      viên, màu sắc nền và giao diện
      Bước 3: Biên tập. Cụ thể là đưa video và âm
      thanh vào bài. Ví dụ âm thanh thuyết minh bài
      giảng; đưa gói câu hỏi bài tập tương tác (quiz),
      câu hỏi khảo sát và có thể ghép tệp âm thanh
      đã ghi sẵn sao cho phù hợp và logic.
      10
      Bước 4: Xem lại, đóng gói, xuất bản bài giảng.
      2.5.3. Chuẩn bị tư liệu cho bài giảng.
      Để bắt tay vào thiết kế, tôi đã tìm tòi và chuẩn bị những tư liệu cần thiết cho
      bài giảng của mình. Tư liệu đó là tất cả những âm thanh, hình ảnh, video, thí nghiệm
      … hay đó là các phần mềm chỉnh sửa để hỗ trợ tạo ra âm thanh … Mặt khác, đây là
      bài giảng mà học sinh sẽ học trực tuyến, do đó sẽ liên quan đến vấn đề bản quyền.
      Vì vậy tất cả các tư liệu tôi khai thác trên Internet đều p

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Nghiên cứu, chế tạo thiết bị thí nghiệm Vật lý 10 sử dụng cảm biến và ứng dụng chương trình ARDUINO

    SKKN Nghiên cứu, chế tạo thiết bị thí nghiệm Vật lý 10 sử dụng cảm biến và ứng dụng chương trình ARDUINO

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ộng giáo dục theo hướng tăng
    cường sự trải nghiệm, nhằm phát huy tính sáng tạo cho học sinh, tạo ra các môi
    trường khác nhau để học sinh được trải nghiệm nhiều nhất, đồng thời là sự khởi
    nguồn sáng tạo, biến những ý tưởng sáng tạo của học sinh thành hiện thực để
    các em thể hiện hết khả năng sáng tạo của mình. Nói tới trải nghiệm sáng tạo
    là nói tới việc học sinh phải kinh qua thực tế, tham gia vào hoặc tiếp xúc đến sự
    vật hoặc sự kiện nào đó và tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh
    thần, tìm ra cái mới, cách giải quyết mới không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã
    có.
    Việc sử dụng TN trong dạy học góp phần quan trong vào việc hoàn thiện
    những phẩm chất và năng lực của học sinh, đưa đến sự phát triển toàn diện cho
    người học. Trước hết, thí nghiệm là phương tiện nhằm góp phần nâng cao chất
    lượng kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo Vật lý cho học sinh. Nhờ thí
    nghiệm học sinh có thể hiểu sâu hơn bản chất Vật lý của các hiện tượng, định
    luật, quá trình… được nghiên cứu và do đó có khả năng vận dụng kiến thức vào
    thực tiễn của Học sinh sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn.
    Hiện nay các bộ thí nghiệm khảo sát chuyển động trong các trường phỏ
    thông tường dùng bộ thí nghiệm của công ty cổ phần phát triển miền núi, dùng
    đồng hồ đo thời gian không chính xác. Và gần như các bộ thí nghiệm đều
    không làm được, điều đó dẫn đến vệc giáo viên sẽ tìm ra giải pháp cho các thí
    nghiệm thực tế thông minh và hiệu quả hơn, hiện tai tôi đã hướng dẫn học sinh
    thiết kế bộ thí nghiệm đa năng để khảo sát các chuyển động Rơi tự do. Khảo sát
    Định luật II Newton và khảo sát về Lực ma sát các thí nghiệm đó sẽ được
    chúng em tích hợp trong cùng một bộ thí nghiệm. Bộ thí nghiệm sử dụng cảm
    biến để đo thời gian kết hợp với lập trình ARDUINO giao tiếp giữa cảm biến
    với máy tính. Kết quả không những được hiển thị trực tiếp trên màn hình LCD
    2
    mà còn đưa ra máy tính để phục vụ cho phòng học thông minh, việc đo
    các giá trị và tính toán trực tiếp các thông số trở nên đơn giản và chính xác hơn,
    bộ thí nghiệm sử dụng các vi mạch có tích hợp phần mềm có chế tạo cơ học
    đơn gản nên rất bền bỉ.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT:
    II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Hiện nay trong trường học:

    • Các bộ thí nghiệm khảo sát chuyển động thường không làm được vì chế
      tạo không chắc chắn với các vật rơi rễ làm bẹp các giá đỡ, đồng hồ đo thời gian
      là đồng hồ hiện số không chính xác, thường nếu hiện số thì nhảy rất loạn và
      khó có thể đo được.
    • Các bộ thí nghiệm của Đức và Hàn quốc rất đắt và cài đặt phúc tạp, có
      cho phép hiện đồ thị nhưng chưa phù hợp với chương trình SGK hiện hành.
      II.2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    1. Các thiết bị sẽ được sử dụng: . Đế inoc, Trụ hợp kim, các viên bi kim loại,
      Các kit ARDUINO bao gồm Kit Arduino Mega 2560 Cảm biến laser ánh sáng
      đỏ nhìn thấy cho X0, X1 và X2 Cảm biến ánh sáng, Màn hiển thị LED –
      LCD2004, Vỉ giao tiếp I2C, Nguồn 220V AC / 12V DC, Vỉ chuyển nguồn từ
      12V DC xuống 7V DC, Vỉ chuyển đổi 12V DC xuống 5V DC dòng 1A, Role
      5V DC, Nam châm điện 12-24VDC, Bộ mã hóa Encorder 334 xung, Hộp điều
      khiển
    2. Mục đích của việc tạo ra thiết bị:
    • Đo các thông số trực tiếp dựa vào các cảm biến sau đó kết quả sẽ được
      gửi ra màn hình LCD và máy tính, mà các sản phẩm trước đó phải sử dụng
      đồng hồ đo dẫn đến nhiều sai số.
    • Kết nối với máy tính để gửi các thông số đến toàn lớp học nếu sử dụng
      phòng học thông minh.
    • Tích hợp nhiều thí nghiệm trên một thí nghiệm.
    • Bộ thí nghiệm có kết cấu vững chắc và bền bỉ, phù hợp điều kiện kinh
      tế và có thể chế tạo rộng rãi.
      3
    • Sử dụng rất tiện lợi và cho kết quả chính xác.
    1. Ý tưởng của giải pháp:
      Căn cứ vào điều kiện thực tế, tôi đã hướng dẫn học sinh thiết kế bộ thí
      nghiệm tích hợp nhiều thí nghiệm trong cùng một bộ thí nghiệm dựa vào việc
      quy về đo quãng đường và thời gian, bằng hệ thống cảm biến và phần mềm
      ARDUINO, kết hợp màn hình LCD và kết nối máy tính.
      3.1. CÁC NỘI DUNG KIẾN THỨC LIÊN QUAN ĐẾN SẢN PHẨM
      Khoa học (Science):
    • Vật lý:
    • Các kiến thức về chuyển động thẳng đều, biếnđổi đều và rơi
      tự do.
    • Các kiến thức về Định luật Niuton, lực ma sát.
    • học: Tin vi điều khiển arduino cần được lập trình qua ngôn ngữ.
      Đây là bộ phận quan trọng nhất, là đầu não thu nhận tín hiệu và xử lí để
      điều khiển bộ phận khác.
      Công nghệ (Technology):
      Lắp ráp khung máy và hàn mạch điện tử, trang trí.
      Kĩ thuật (Engineering):
      Quy trình thiết kế kĩ thuật – bản vẽ kĩ thuật.
      Toán học (Math):
      Tính toán các thông số thí nghiệm
      3.2. PHÁC HỌA Ý TƯỞNG GIẢI PHÁP
      Cơ sở lý thuyết
      A. KHẢO SÁT RƠI TỰ DO.
    1. Và mục đích của thí nghiệm là đo gia tốc trọng trường g tại một nơi xác
      định.
    2. Cơ sở lý thuyết của thí nghiệm là dựa vào tính chất của chuyển động rơi
      4

    2
    2
    1 2.
    .
    2
    h
    h g t g
    t
    =  = Vậy để đo gia tốc g thì chúng em sẽ đo quãng
    đường và thời gian rơi.

    1. Tiến hành thí nghiệm
      a. Kết quả
      Lần đo
      S(m)
      Thời gian rơi t (s)
      i
      t
      2
      i
      t
      2
    2. i
      i
      i
      s
      g

    t

    1 2 3
    S1
    S2
    B. KHẢO SÁT LỰC MA SÁT
    Phần I. Khảo sát định lượng: Đo hệ số ma sát của trượt và so sánh với giá
    trị trong SGK

    1. Cơ sỏ lý thuyết
      Áp dụng định luật II Niutown ta có
      Với đối trọng M thì P T M a M g M a T − = → − = . . .
      Với vật trượt m.
      .
      . . . .
      .
      ms
      T m a T F m a m g T m a
      m g
      Mg ma
      mg
       


      − = → = − → =

    Vậy bằng việc đo quãng đường và thời gian, chúng sẽ tính được gia tốc và tính
    được hệ số ma sát
    M
    Lần đo
    S(m)
    Thời gian
    chuyển động t
    (s)
    s t
    2
    2.s
    a

    t

    Mg ma
    mg

    1 2
    S1
    S2
    5
    Phần II. Khảo sát mối quan hệ của lực ma sát vào áp lực N của vật
    Cơ sở lý thuyết
    Fms = µ.N Lực ma sát tỷ lệ thuận với áp lực N của vật lên mặt phẳng
    . T F m a F Mg ma − = → = − ms ms

    • Khảo sát sự phụ thuộc của hệ số ma sát vào áp lực N.
      Vật
      khối
      lượng
      m
      Lần đo
      S(m)
      s t
      2
      2.s
      a

    t

    Fms
    =Mg-ma
    Fms
    N
    100g S1
    200g S2
    Lần lượt thay đổi khối lượng vật TRƯỢT thì thu được nhận xét Lực ma sát tỷ
    lệ với áp lực
    Phần III. Khảo sát định tính

    1. Mục đích của thí nghiệm
    • Khảo sát sự phụ thuộc của hệ số ma sát trượt vào
    • Tình trạng vật liệu + Bản chất vật liệu.
    • Tốc độ của vật.
    • Diện tích tiếp xúc.
    • Đo hệ số ma sát trượt của vật liệu
      Khi đó em sẽ đưa bộ thí nghiệm sang trạng thái nằm ngang để điều chỉnh
      phương ngang chúng em đã gắn sẵn một livo trên bộ thí nghiệm
    1. Cơ sỏ lý thuyết
      Áp dụng định luật II Niutown ta có
      Với đối trọng M thì
      P T M a M g M a T − = → − = . . .
      Với vật trượt m.
      .
      . . . .
      .
      ms
      T m a Mg mg T F m a m g T m a
      m g mg
       
      − −
      − = → = − → = =
    2. Tiến hành thí nghiệm
      6
      a. Kết quả
    • Khảo sát sự phụ thuộc của hệ số ma sát vào Diện tích tiếp xúc
      Diện
      tích
      tiếp
      xúc
      Lần đo
      S(m)
      Thời gian
      chuyển động t
      (s)
      s t
      2
      2.s
      a

    t

    Mg ma
    mg

    1 2
    Mặt 1 S1
    Mặt 2 S2
    Thay đổi diện tích tiếp xúc thì thu được

    như nhau nên kết luận

    không
    phụ thuộc diện tích tiếp xúc

    • Khảo sát sự phụ thuộc của hệ số ma sát vào tốc độ.
      Vật
      khối
      lượng
      m
      Lần đo
      S(m)
      Thời gian
      chuyển động t
      (s)
      s t
      2
      2.s
      a

    t

    Mg ma
    mg

    1 2
    100g S1
    200g S2
    Lần lượt thay đổi khối lượng vật( gia trọng) thì thu được vận tốc khác nhau
    thì thu được

    như nhau nên kết luận

    không phụ thuộc diện tích tiếp xúc

    • Khảo sát sự phụ thuộc của hệ số ma sát vào bản chất và tình trạng vật
      liệu.
      Vật
      Lần đo
      Thời gian s t
      2
      2.s
      a

    t

    Mg ma
    mg

    7
    trượt
    S(m)
    chuyển động t
    (s)
    1 2
    Nhôm S1
    Gỗ S2
    Lần lượt thay đổi khối lượng vật( gia trọng) thì thu được vận tốc khác nhau
    thì thu được

    khác nha nên kết luận

    phụ thuộc vào bản chất vật liệu
    C. KHẢO SÁT ĐỊNH LUẬT II NIUTON

    1. Mục đích: Khảo sát bằng thực nghiệm sự phụ thuộc của gia tốc a vào khối
      lượng và lực tác dụng lên vật.
    2. Cơ sở lý thuyết
      Gia tốc của một vật tỷ lệ với hợp lực tác dụng lên vật và tỷ lệ nghịch với
      khối lượng
    3. Thiết bị thí nghiệm
      Cấu trúc của mô hình.
      •Phần cơ khí
    4. Tiến thành thí nghiệm:
      M
      mm
      Vật chuyển
      động
      Cảm biến gốc
      X0
      CB
      X1
      Ròng rọc + Cảm biến góc
      quay
      Giá trượt
      Đối
      trọng
      T
      P
      T
      CB
      X2
      8
      Sự phụ thuộc của gia tốc vào khối lượng( thay đổi khối lượng của xe lăn)
      Lần đo
      Khối
      lượng
      s t
      2
      2s
      a

    t

    m
    2m
    Giữ nguyên khối lượng gia trọng( F = T không đổi) thay đổi khối lượng m của
    vật chuyển động lần lượt là m; 2m; 3m. khi đó đo được các giá trị quãng đường
    và thời gian tương ứng. Kết luận gia tốc a tỷ lệ nghịch với khối lượng m
    Sự phụ thuộc của gia tốc vào lực( Thay đổi khối lượng của gia
    trọng nhằm mục đích thay đổi lực kéo)
    Lần đo
    Khối
    lượng
    s t
    2
    2s
    a

    t

    M
    2M
    Khi thay đổi M thì trọng lực thay đổi nên lực kéo thay đổi. Từ s và t tính được
    gia tốc a, rồi nhận xét a tăng theo tỷ lệ của lực F nên : kết luận a tỷ lệ với F

    3.3. LÊN PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ
    Cấu trúc mô hình.
    Mô hình thí nghiệm gồm: Gồm 3 phần.

    • Phần cấu trúc cơ khí
      9
    • Phần các linh kiện kit Arduino
    • Phần viết CODE điều khiển dựa trên các code của Arduino
      PHẦN CƠ KHÍ:
      Phần cơ khí được mô tả trong hình 1

    PHẦN ĐIỆN
    Các kit ARDUINO bao gồm bảng bên dưới
    Chức năng của các bộ phận

    • Trụ đứng và chân đế: Để đặt viên bi tròn đường kính 5mm, khối
      lượng m (gram)
    • Nam châm điện: để giữ bi.
    • Cảm biến tia laze X0 xác nhận gốc của viên bi.
    • Cảm biến laze X0 và X1 xác nhận thời điểm viên bi rơi.
    • Phần điện tử
      Nam châm điện hút bi
      sắt
      Cảm biến gốc X0
      Trụ đứng cao
      1M
      Cảm biến tức thời
      X1
      Cảm biến tức thời
      X2
      Chân
      đế
      10
    • Vỉ mạch Arduino R3
    • Cảm biến thu – phát ánh sang đỏ nhìn thấy cho X0.
    • Cảm biến thu – phát độc lập ánh sáng đỏ nhìn thấy cho X1 và X2
    • Màn hiển thị
      11
    • Nam châm điện 12-24VDC
    • Các linh kiện khác để kết nối.
    • Phần mềm của ARDUINO
      Nghiên cứu kiến thức nền
      Trên cơ sở các kiến thức chúng em được học ở phổ thông, với việc đọc
      nghiên cứu thêm tài liệu liên quan, hỏi thầy giáo phụ trách và mạng internet
      chúng em tìm hiểu được các kiến thức thuộc chương trình đang học tại nhà
      trường có liên quan đến bộ thí nghiệm cụ th

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường dạy học phần Cơ học Vật lý 10

    SKKN Tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường dạy học phần Cơ học Vật lý 10

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Năm 2021, Liên hợp quốc đã lựa chọn chủ đề “Hướng tới thập kỉ phục hồi hệ
    sinh thái 2021-2030” của Ngày Môi trường Thế giới ngày 5 tháng 6 hằng năm nhằm
    tập hợp sự đoàn kết của các quốc gia cùng nhau tham gia bảo vệ và hồi sinh các hệ
    sinh thái trên thế giới, hướng tới những lợi ích của con người và thiên nhiên. Cùng
    chung “nỗi lo” với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với
    tình trạng suy giảm và suy thoái đa dạng sinh học. Thực tế, đang cho thấy chúng ta
    phải chịu hậu quả vô cùng nặng nề khi mất đi sự cân bằng của hệ sinh thái. Biển hiện
    cụ thể nhất là dịch bệnh Covid-19, cũng là một trong những biểu hiện của sự mất đi
    cân bằng sinh thái. Những hiểm họa suy thoái môi trường đang ngày càng đe dọa
    cuộc sống loài người. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường đnag là vấn đề sống còn của
    nhân loại và của mỗi quốc gia. Do đó, mỗi quốc gia, các nhà chuyên gia, nhà khoa
    học, nhà quản lí… cần phải phân tích và đưa ra chủ trương kế hoạch dài hạn; cùng đó
    là sự nhận thức rõ ràng về vấn đề mỗi trường của mỗi cá nhân để đảm bảo “Bảo tồn
    để phát triển – Phát triển dựa vào bảo tồn”.
    Ở cấp Trung học phổ thông hiện nay, nội dung giáo dục môi trường được coi là
    nội dung chính thống, có hệ thống, có chất lượng với các mục tiêu sau:

    • Những hiểu biết bản chất của các vấn đề môi trường như : Tính phức tạp, quan
      hệ nhiều mặt, nhiều chiều, tính hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên,quan hệ chặt chẽ
      giữa môi trường và phát triển,….
    • Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn đề môi trường như một
      nguồn lực để sinh sống, lao động và phát triển của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia
      và quốc tế,… Từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn trước các vấn đề về môi trường,
      xây dựng quan niệm đúng về ý thức trách nhiệm, giá trị nhân cách,…
    • Trang bị tri thức, kĩ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực lựa
      chọn phong cách sống, thích hợp với việc sử dụng hợp lí và khôn ngoan các nguồn tài
      6
      nguyên thiên nhiên và tham gia một cách có hiệu quả việc giải quyết các vấn đề môi
      trường cụ thể nơi sinh sống và học tập.
      Mỗi môn học có vị trí khác nhau để thực hiện giáo dục giáo dục môi trường.
      Môn Vật lí, mặc dù không có các chủ đề nghiên cứu riêng về sinh thái, song đều có
      thể tìm được cơ hội đưa vấn đề giáo dục môi trường vào nội dung bài học. Điều quan
      trọng giáo viên phải được chuẩn bị các hiểu biết về vấn đề môi trường, hiểu sâu kiến
      thức bộ môn. Việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường vào môn học này giúp chúng
      ta có cái nhìn chân thật hơn về môi trường sống đang bị huỷ hoại nặng nề. Từ đó, giáo
      dục học sinh có ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường. Hơn thế, học sinh được tìm
      hiểu sâu hơn các kiến thức vật lí tạo ra cho các em niềm yêu thích, hứng thú với môn
      học, tự mình sáng tạo đề ra những giải pháp bảo vệ môi trường một cách hữu hiệu.
      Với các lí do trên, tôi nhận thấy việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong
      giảng dạy Vật lí là rất cần thiết và cấp bách. Nó nhằm trang bị cho học sinh một hệ
      thống kiến thức đầy đủ, có kĩ năng bảo vệ môi trường để các em trở thành lứa măng
      non bảo vệ môi trường sống của ngôi nhà chung – Trái đất. Tôi quyết định chọn sáng
      kiến “Tích hợp kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường dạy học phần cơ học vật lí
      10” để nghiên cứu và thực nghiệm.
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
      Thực trạng giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học Vật lí ở trường THPT
      trước khi áp dụng sáng kiến:
      Với mạng lưới phân bố rộng khắp mọi miền đất nước, nhà trường phổ thông có
      một vai trò đặc biệt quan trong trong công tác giáo dục môi trường và bảo vệ môi
      trường. Chính vì thế, trong những năm gần đây, ở trường THPT Trần Hưng Đạo, việc
      giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh được đánh giá lại và đã được quan tâm đúng
      mức. Các nội dung giáo dục môi trường đã được lồng ghép vào quá trình giảng dạy
      vào môn học. Tuy nhiên hoạt động lồng ghép này đối với bộ môn Vật lí lớp 10 chưa
      được dầy đủ và thường xuyên. Vì vậy hiệu quả giáo dục bảo vệ môi trường trong học
      sinh chưa cao, các em chưa thực sự có ý thức trong việc bảo vệ môi trường trong cuộc
      sống hàng ngày của các em.
      7
      Vậy nguyên nhân nào khiến việc lồng ghép kiến thức về môi trường vào bài
      trong môn Vật lí 10 còn hạn chế. Qua điều tra tìm hiểu tại trường Trung học phổ
      thông Trần Hưng Đạo tôi thấy có một số nguyên nhân sau:
    • Thời lượng cho 1 tiết học không dài;
    • Thực tế địa phương;
    • Tư tưởng cố thủ của học sinh về việc tiếp thu kiến thức nền, không đổi mới
      sáng tạo, chưa chịu tìm tòi;
    • Một số giáo viên còn chưa chịu thay đổi, chưa có nhiều hoạt động mới trong
      tiết dạy nên không gây được hứng thú với môn học cho học sinh;
    • Trong thời gian vừa qua do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, chương trình
      Vật li đã điều chỉnh theo hướng tinh giản khối lượng kiến thức và thời gian trên lớp
      dẫn đến cả giáo viên và học sinh đều không có cơ hội phát triển nội dung bài học để
      thực hiện giáo dục bảo vệ môi trường.
    1. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
      Giải pháp 1. Nắm vững các khái niệm, quan điểm và các nguyên tắc dạy học
      giáo dục tích hợp trong giờ dạy học Vật lí.
      1.1. Khái niệm giáo dục môi trường.
      Tại Hội nghị quốc tế về giáo dục môi trường do IUCN/UNESCO tổ chức tại
      Nevada (Mỹ). 1940. Các quốc gia tham dự Hội nghị đã thống nhất khái niệm:
      “Giáo dục môi trường là quá trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái niệm để xây
      dựng những kĩ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh giá đúng mối tương
      quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường vật lí xung quanh, giáo dục môi
      trường cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để đưa ra quyết định và tự hình thành quy
      tắc ứng xử trước những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường”.
      Đến năm 2000, Janathon Wigley đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi trường là một
      quá trình phát triển những tình huống dạy/ học hiệu quả giúp người dạy và học tham
      gia giải quyết những vấn đề môi trường liên quan, đồng thời tìm ra một lối sống có
      trách nhiệm và được thông tin đầy đủ”.
      Điều quan trọng nhất là trong các định nghĩa khác nhau này đều có các điểm cơ
      bản chung sau:
      8
    • Giáo dục môi trường là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian ở
      nhiều địa điểm khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng những
      phương thức khác nhau.
    • giáo dục môi trường nhằm thay đổi hành vi.
    • giáo dục môi trường liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về
      cách sống.
    • Trong giáo dục môi trường, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành
      động làm cơ sở.
      1.2. Vai trò và ý nghĩa của giáo dục môi trường.
      Đối với nội dung giáo dục bảo vệ môi trường ta quan tâm đến các vấn đề đáng
      chú ý hiện nay có liên quan trực tiếp tới các quá trình vật lí. Đó là tài nguyên rừng bị
      suy giảm, ô nhiễm nguồn nước, suy thoái và ô nhiễm đất, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm
      ánh sáng, sản xuất và sử dụng điện dưới góc độ bảo vệ môi trường, ô nhiễm phóng
      xạ,… Dưới góc độ khoa học vật lí, có thể nêu lên các quá trình vật lí như:
    • Tài nguyên rừng suy giảm do nạn chặt phá rừng trái phép, đốn cây dài hạn
      trồng cây ngắn hạn,.. hiện tượng mao dẫn của đất, quá trình quang hợp, thế năng,
      động năng dòng chảy của nước gây ra sự bào mòn đất
    • Ô nhiễm nước do chất thải qua các quá trình xử lí không đúng cách,thải trực
      tiếp ra nước sông ngòi
    • Môi trường đất ô nhiễm do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thiếu bền vững, các
      chất thải không qua xử lí, các chất độc tồn tại sau chiến tranh, sạt lở, xói mòn, mặn
      hoá và phèn hoá,…
    • Thiếu thốn không khí sạch: suy giảm tầng ozon, chất phóng xạ
    • Ô nhiễm tiếng ồn: do tập hợp những âm thanh có tần số và chu kỳ khác nhau
      gây chói tai, nhức đầu nguy hại sức khoẻ con người
    • Ô nhiễm ánh sáng: sự chiếu sáng gây ức chế trực tiếp tổn hại cho con người và
      sinh vật.
    • Sản xuất điện sử dụng bằng nguyên liệu gây hại môi trường tự nhiên, sử dụng
      lãng phí điện năng.
      9
      Các giải pháp bảo vệ nguồn tài nguyên tự nhiên: bảo vệ rừng (chống sói mòn
      đất, hạn chế khí nhà kính…), các biện pháp bảo vệ nước trong tự nhiên, phủ xanh đất
      chống đồi trọc, giảm sử dụng phương tiện cá nhân, sử dụng tiết kiện điện năng,…
      Giáo dục môi trường là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính
      quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị
      tạo điểu kiện cho họ tham gia và phát triển một xã hội vền bững về sinh thái
      Mục đích của giáo dục môi trường nhằm giúp học sinh vận đụng những kiến
      thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo tồn, sử dụng môi trường theo cách thức bền vững
      cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Nó cũng bao hàm việc học tập cách sử dụng công
      nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói,
      tận dụng các cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong sử dụng tài nguyên.
      Hơn nữa, nó còn bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng, có những động lực và cam
      kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể để giải quyết những vẫn đề môi
      trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
      Giáo dục môi trường giúp cho mọi người:
    • Hiểu bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo.
    • Nhân thức được ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như mối quan hệ mật thiết giữa
      chất lượng môi trường với sự tồn tại và phát triển của con người.
    • Có tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực, có những
      hành vi đối xử “thân thiện” hơn với môi trường.
      Hành động cụ thể:
      Hình 1. Ba mục tiêu của giáo dục môi trường
      1.3. Nguyên tắc dạy học tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường.
    • Khi thực hiện tích hiện tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào bài
      học vật lí, cần tuân theo các quy tắc sau:
      Hiểu biết về môi trường
      -Vấn đề
    • Nguyên nhân
    • Hậu quả
      Khả năng hành
      động
    • Kiến thức
    • Kỹ năng
    • Dự báo các tác động
      Thái độ đúng đắn với
      môi trường
    • Nhận thức
    • Thái độ
    • Ứng xử
      10
    • Xác định mục tiêu tích hợp: lựa chọn chính xác nội dung kiến thức tích
      hợp, sắp xếp hợp lý vị trí tích hợp cùng kỹ năng học tập nhằm đạt được mục tiêu kiến
      thức vật lí và giáo dục bảo vệ môi trường
    • Đảm bảo sự phù hợp: Có sự thể hiện hợp lí giữa nội dung giáo dục và
      phương pháp tiến hành, nội dung giáo giục phù hợp thực tế xã hội, tương đồng giữa
      mức độ kiến thức và trình độ học sinh, an toàn giưac khối lượng nội dung và thời
      lượng học tập.
    • Đảm bảo tính khoa học, thức thời: Các kiến thức được lựa chọn tích hợp
      vào nội dung bài học phải đáp ứng tính cáp thiết, thời sự của thời đại, phản ánh đúng
      bản chất sự việc, sự vật, phù hợp với lứa tuổi học sinh.
    • Đảm bảo tính khả thi: Học sinh có đủ trình độ, thời gian, điều kiện thực
      tế, phương tiện dạy học; giáo viên thì phải đáp ứng đủ điều kiện dạy học, kiến thức, kĩ
      năng để tổ chức, hướng dẫn, định hướng việc học tập của học sinh.
    • Đảm bảo tính ứng dụng: Với kiến thức giáo viên lựa chọn tích hợp giáo
      dục bảo vệ môi trường học sinh có thể nhận thức được và vận dụng, cao hơn và vận
      dụng giải quyết các tình huống trong thực tế hằng ngày.
    • Quy trình tổ chức dạy học tích hợp:

    Bảng 2: Quy trình tổ chức dạy hoc tích hợp

    1. Chọn chủ đề
    2. Xác định kiến thức
      cần thiết để giải quyết
      vấn đề
    3. Xác định vấn đề cần
      giải quyết
    4. Xác định mục tiêu
      dạy học
    5. Xây dựng nội dung
      hoạt động dạy học
    6. Tổ chức dạy học và
      đánh giá
      DẠY
      HỌC
      TÍCH
      HỢP
    7. Lập kế hoạch dạy học
      11
      Bước 1: Thông thường các chủ đề tích hợp sẽ được định hướng trong chương trình
      học. Tuy nhiên, trên thực tế giáo viên cần xác định chính xác đề tích hợp để phù hợp
      với trình độ của học sinh, thực tế địa phương và thời cuộc.
      Bước 2: Rà soát theo khung chương trình hiện có của phần Cơ học vật lí 10, các
      chuẩn kiến thức, kĩ năng, chuẩn năng lực để tìm ra các nội dung liên quan đến nhau
      với vấn đề môi trường.
      Tìm ra những nội dung liên quan đến vẫn đề thời sự của bảo vệ môi trường gắn
      nội dung học với thực tiễn, phổ biến, tương đồng với vố

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Một số giải pháp hướng dẫn học sinh học và thi Khoa học Địa lý bằng tiếng Anh

    SKKN Một số giải pháp hướng dẫn học sinh học và thi Khoa học Địa lý bằng tiếng Anh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay, ai trong chúng ta cũng hiểu được tầm quan
    trọng của tiếng Anh. Thông thạo ngôn ngữ này, các em học sinh sẽ nắm bắt được nhiều
    cơ hội tốt trong tương lai như du học ở các nước có nền kinh tế phát triển, làm việc tại
    nhiều các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, các công ty nước ngoài, có nhiều cơ hội để tìm
    việc làm với mức lương tốt…
    Xu hướng học các môn Khoa học bằng tiếng Anh phát triển nhanh chóng bởi nó
    mang đến nhiều lợi ích thiết thực về cơ hội thực hành ngoại ngữ và tiếp xúc với kiến thức
    Khoa học quốc tế hiệu quả nhất cho học sinh. Chương trình môn Khoa học có thể là
    những môn học riêng lẻ như: Toán, Lý, Hoá, Sinh, Sử, Địa, … hoặc có thể là một môn
    Khoa học chung kết hợp các kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau lại với nhau. Khoa
    học giúp học sinh hình thành tư duy logic, hiểu rõ các hiện tượng xảy ra hằng ngày trong
    đời sống quanh ta, phát triển khả năng phân tích, nâng cao các kỹ năng giải quyết vấn đề
    không chỉ trong học tập mà cả trong cuộc sống. Do đó, việc kết hợp giảng dạy kiến thức
    các môn Khoa học mà lại bằng tiếng Anh đã đem đến những ưu thế nổi bật khiến cho xu
    hướng học Khoa học bằng tiếng Anh ngày càng mở rộng. Việc học các môn: Toán, Lý,
    Hoá, Sinh, Sử, Địa …bằng tiếng Anh mang đến những lợi ích không thể chối bỏ như:

    • Hoàn thiện về kiến thức, kỹ năng tiếng Anh
    • Tạo nền tảng tiếng Anh ngữ học thuật vững chắc.
    • Tăng khả năng đọc hiểu và nghiên cứu sâu tài liệu quốc tế về chuyên ngành mình học.
    • Hỗ trợ cho việc học lên các chương trình đại học bằng tiếng Anh hoặc du học
      nước ngoài…
      Học các môn Khoa học bằng tiếng Anh không mới, mặc dù chưa được phổ biến
      rộng rãi, nhưng xu hướng học các môn Khoa học bằng tiếng Anh thì đang ngày càng nở
      rộ tại các trường công lập trong cả nước để nâng cao chất lượng giáo dục. Rất nhiều phụ
      huynh hiện nay có xu hướng cho con em mình học Khoa học bằng tiếng Anh, nhưng đa
      số họ chưa hiểu Khoa học bằng tiếng Anh bao gồm những gì? Việc học Khoa học mang
      đến những giá trị gì cho học sinh?
      Khoa học trong chương trình phổ thông bao gồm hai nhánh chính là khoa học tự
      nhiên và khoa học xã hội. Nếu như khoa học xã hội tập trung nghiên cứu văn học, lịch sử,
      địa lý, giáo dục pháp luật… thì khoa học tự nhiên xoay quanh các môn như vật lý, hóa
      học, sinh học… Ở cấp độ cơ bản mới tiếp cận, học sinh sẽ học dưới dạng khoa học vật
      chất (Physical Science), khoa học đời sống (Life Science), khoa học Trái Đất (Earth
      Science)… còn khi đạt đến trình độ nhất định, môn học sẽ được tách thành Vật lý
      (Physics), Hóa học (Chemistry), Sinh học (Biology), địa lí (Geographic)…. Khoa học
      bằng tiếng Anh không chỉ mang đến kiến thức chuyên môn mà còn giúp nâng cao khả
      năng tiếng Anh giao tiếp. Học sinh ngoài sở hữu trình độ chuyên môn còn sử dụng thành
      2
      thạo kỹ năng ngoại ngữ, đem đến nền tảng Anh ngữ chuyên ngành, giúp học sinh dễ dàng
      tìm hiểu sâu hơn tài liệu, thông tin về chuyên ngành học bằng tiếng Anh ở bậc cử nhân.
      Căn cứ vào chỉ thị số 3575/CT- BGĐT ngày 10/09/2014 của Bộ Giáo dục và Đào
      tạo về việc tăng cường triển khai thực hiện nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ trọng hệ
      thống giáo dục quốc dân cùng với công văn sô 3892/BDGĐT-GDTH ngày 28/08/2019
      của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn thực hiện nhệm vụ Giáo dục Trung học năm
      2019-2020; Quyết định số 2005/QĐ – UBND ngày 10/11/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh
      Nam Định về phê duyệt đề án dạy học ngoại ngữ trong các cơ sở giao dục phổ thông tỉnh
      Nam Định giao đoạn 2011-2020; Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 03/7/2019 của UBND
      tỉnh Nam Định về việc triển khai thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống
      giáo dục quốc dân giai đoạn 2019-2025; Quyết định số 1792/QĐ-UBND ngày 20/8/2021
      của UBND tỉnh Nam Định về việc Phê duyệt đề án Tăng cường giảng dạy tiếng Anh
      trong các trường phổ thông tỉnh Nam Định giai đoạn 2021-2026. Nhằm nâng cao năng
      lực ngoại ngữ cho học sinh THPT, sở Giáo dục đã phát động hội thi giải Toán và các
      môn khoa học bằng tiếng Anh trong đó có môn Địa lí.
      Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
      nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội
      nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang đổi mới
      mạnh mẽ theo hướng hội nhập quốc tế, từ đó mà học sinh hiểu được học các môn bằng
      Tiếng anh trong đó có môn Địa lí sẽ giúp mình hiểu rõ được mục tiêu là: Học để biết,
      Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Đồng thời tạo sân
      chơi giúp học sinh tự tin, mạnh dạn sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp và tham gia vào
      các hoạt động giao lưu, trải nghiệm, tham dự các cuộc thi khoa học bằng tiếng Anh trong
      và ngoài nước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tạo môi trường cho giáo viên giảng
      dạy môn các môn khoa học được giao lưu, học hỏi, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm giúp
      tăng cường năng lực tiếng Anh, phương pháp sư phạm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
      đối với các môn học này. Năm học 2018-2019, trường THPT Mỹ Lộc đã triển khai thực
      hiện nhiệm vụ củả giáo viên và học sinh với việc tham gia hội thi giải Toán và các môn
      khoa học bằng tiếng Anh trong đó có môn Địa lí.
      Từ thực tế giảng dạy bộ môn, tôi thấy môn Địa lí là bộ môn mang màu sắc của
      nhiều môn học khác nhau, nhất là trong thời kỳ hội nhập và bùng nổ thông tin. Thứ hai
      với mục tiêu để ngoại ngữ trở thành một ngôn ngữ chứ không phải là một môn học, nên
      tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh học và thi
      môn Địa lí bằng tiếng Anh lớp 11” .Với mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm
      trong quá trình thực hiện các biện pháp “hướng dẫn học sinh học và thi khoa học Địa lí
      bằng Tiếng Anh” cho học sinh và bạn bè đồng nghiệp đạt được kết quả tốt nhất.
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
      Trong một xã hội ngày càng toàn cầu hóa, việc bạn có thể nói hai hoặc nhiều ngôn
      ngữ là một lợi thế rất quan trọng trong học tập và làm việc, đặc biệt là môn Tiếng Anh.
      Thực tế hiện nay, đất nước ta đang trên đường nhập kinh tế quốc tế, xã hội đang sống
      3
      trong thời đại công nghệ 4.0. Với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế thị trường những
      năm qua đất nước ta đã thu hút rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đây là
      cơ hội rất tốt để các bạn học sinh có thể làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài trên
      chính quê hương mình. Mặt khác đây cũng là cơ hội cho nhiều học sinh Việt Nam có cơ
      hội du học, đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở các nước có nền kinh tế tiên tiến trên thế
      giới. Tuy nhiên, để nắm bắt được cơ hội này đòi hỏi học sinh Việt Nam không chỉ có
      kiến thức chuyên ngành tốt mà còn có kĩ năng tiếng Anh chuyên ngành tốt.
      Nhiều trường Đại hoc hàng đầu thế giới yêu cầu học sinh muốn nhận được học
      bổng của trường mình ngoài kết quả học tập tốt, đạt giải các cuộc thi tầm cỡ quốc gia,
      quốc tế thì cần phải có chứng chỉ tiếng ngoại ngữ: IELTS, SAT, TOEIC, TOEF
      Cambridge, ESOL, GRE, GMAT… ; viết bài luận bằng tiếng Anh với nhiều chủ đề của
      xã hội liên quan đến Địa lí như môi trường, tài nguyên, bảo vệ sinh vật, việc làm,…;
      đồng thời học sinh quay video nói bằng tiếng Anh để họ thấy được năng lực thực sự của
      học sinh đó về cả tiếng Anh, lẫn kĩ năng thuyết trình, kĩ năng tự tin và kiến thức về lĩnh
      vực mà học sinh trình bày. Hiện nay theo con đường này nhiều bạn học sinh đã tìm kiếm
      được học bổng và hoàn thành được ước mơ đi du học tại ngôi trường, đất nước mà mình
      mong ước.
      Trong xu thế này, nhiều trường đại học lớn trên đất nước ta để đón nhận được học
      sinh có chất lượng, có khả năng tiếp thu được những thành tựu mới của nền kinh tế hội
      nhập; để có đầu ra có chất lượng cao họ đã tiến hành tuyển đầu vào thẳng có các học sinh
      có điểm thi ngoại ngữ IELTS, SAT, TOEIC, TOEF Cambridge, ESOL, GRE, GMAT …
      cao, hoặc cộng điểm ưu tiên. Các trường đại học chọn chuẩn ngoại ngữ quốc tế để tuyển
      đầu vào nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn bị đội ngũ nhân sự đáp ứng các đòi hỏi
      cao của quốc tế là điều tất yếu. Nếu nhìn vào thực tế nhiều năm qua, sinh viên Việt Nam
      tốt nghiệp đại học nhưng vẫn bị các doanh nghiệp nước ngoài chê vì năng lực ngoại ngữ
      nói chung và tiếng Anh nói riêng còn kém, dù năng lực chuyên môn tốt. Chúng ta có thể
      cảm nhận được nỗi đau khó xoa dịu của các trường đại học. Chính các cử nhân, kỹ sư
      cũng cảm nhận rõ sự thiệt thòi này khi phải chấp nhận làm việc với mức lương thấp hơn
      năng lực và bỏ phí cơ hội tiếp tục học cao hơn hoặc làm việc ở những vị trí tốt hơn chỉ vì
      trình độ ngoại ngữ còn hạn chế.
      Về phía nhà trường, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Sở giáo dục và Đào
      tạo Nam Định về dạy tiếng Anh cho học sinh THPT, trong các năm học gần đây, trường
      THPT Mỹ Lộc đã có kế hoạch và triển khai công tác kết nối với các trung tâm dạy tiếng
      Anh để đưa giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh vào trong nhà trường giảng dạy. Việc
      đưa giáo viên nước ngoài vào dạy hàng tuần giúp học sinh được tiếp cận với kĩ năng
      nghe, nói, đọc viết được gần hơn, hiệu quả hơn. Ngoài ra học sinnh còn được tham gia
      sân chơi như : “Hùng biện tiếng Anh cấp tỉnh”. Tuy nhiên để để năng cao kĩ năng về
      tiếng Anh học sinh cần tiếp cận qua nhiều các kênh khác như: youtobe, học qua các trung
      tâm, tự học, học nhóm…. Với cuộc cách mạng công nghệ 4.0 học sinh được tiếp cận với
      nhiều cách học mới, tài liệu mới, môi trường học mới nhưng nhìn chung kiến thức tiếng
      Anh của học sinh của trường vẫn còn hạn chế.
      4
      Về phía cha mẹ học sinh, hầu hết gia đình học sinh THPT Mỹ Lộc đều sinh sống ở
      địa bàn nông thôn, đa số cha mẹ các bạn đều làm nông nghiệp kết hợp với làm thêm các
      nghề phụ khác nên việc đầu tư cho con học thêm tiếng Anh gặp khó khăn vì kinh phí học
      ngoại ngữ rất cao. Muốn con tự học ở nhà thì bố mẹ cần đầu tư cho con máy tính, kết nối
      mạng internet và nộp tiền qua các tài khản mạng để con có thể tham gia các khóa học
      trên mạng do đó rất tốn kém.
      Về phía học sinh, đa số học sinh cả ba khối trường THPT Mỹ Lộc đều đã biết đến
      việc mình có giỏi tiếng Anh rất quan trọng đặc biệt là các bạn nào có ý định đi du học,
      làm hướng dẫn viên du lịch, làm ngành luật, làm các tập đoàn lớn, các công ty nước
      ngoài, làm ở các tổ chức phi chính phủ … Hầu hết các em khi được hỏi về ngành nghề mơ
      ước và ngành nghề phù hợp với bản thân và xu hướng xã hội, các em có khả năng ngoại
      ngữ đều muốn thi ngành ngoại thương, thương mại, du lịch, ngân hàng, du học… nhưng
      điểm thi ngoại ngữ lại không được cao. Hạn chế lớn nhất của học sinh Việt Nam nói
      chung và học sinh trường THPT Mỹ Lộc nói riêng là kĩ năng nói và kĩ năng nghe. Thực
      tế nhiều năm qua, sinh viên Việt Nam tốt nghiệp đại học nhưng vẫn bị các doanh nghiệp
      nước ngoài chê vì năng lực ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng còn kém, dù năng
      lực chuyên môn tốt.
      Có thể nói trong thời đại hội nhập quốc tế, việc học sinh có trình độ tiếng Anh tốt
      cùng với chuyên ngành tốt là một điều kiện cực kì quan trọng giúp các em lựa chọn
      ngành nghề tốt, làm việc tốt và sống tốt. Để mỗi học sinh có sự định hướng đúng đắn
      nhất về nghề nghiệp trong tương lai cần phải có sự chung tay hỗ trợ của các lực lượng
      giáo dục trong nhà trường, sự hỗ trợ từ phía cha mẹ học sinh nhưng quan trọng nhất là ý
      chí ham học hỏi, vươn lên, trau dồi kiến thức là một trong yếu tố quyết định sự thành
      công về công việc trong tương lai. Thầy cô, cha mẹ, bạn bè là những nhân tố giúp các em
      có thể năng cao khả năng ngoại ngữ, giúp cho các em tự tin hội nhập với xu thế của toàn
      cầu và tìm ra được nghề phù hợp với năng lực của bản thân mình.
      Với mục đích tạo sân chơi giúp học sinh tự tin, mạnh dạn sử dụng tiếng Anh trong
      giao tiếp và tham gia vào các hoạt động giao lưu, trải nghiệm, tham dự các cuộc thi khoa
      học bằng tiếng Anh trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tạo môi
      trường cho giáo viên giảng dạy môn khoa học bằng tiếng Anh được giao lưu, học hỏi,
      trao đổi chia sẻ kinh nghiệm giúp tăng cường năng lực tiếng Anh, phương pháp sư phạm
      đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đối với các môn học này, tôi đã mạnh dạn lựa chọn vấn
      đề này để nghiên cứu.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
      Học tiếng Anh đã khó bây giờ học tiếng Anh theo chuyên ngành Địa lí học sinh
      cần phải có kiến thức chuyên sâu về môn Địa lí. Để giúp học sinh có thể học Địa lí bằng
      tiếng Anh ý tưởng bắt đầu từ việc muốn tạo sự mới mẻ, khơi gợi hứng thú cho môn học
      và tăng khả năng ngoại ngữ của học sinh cùng với đó là sở giáo dục đào tạo Nam Định
      phát động hội thi các môn khoa học bằng Tiếng Anh. Tôi đã chọn một số chủ đề Địa lý
      được đề cập nhiều trong sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh học bằng tiếng Anh với
      các chủ đề như vị trí (location), địa hình (Topographic), dân số (population), môi trường
      5
      (enviroment), kinh tế (economic), địa danh (sites), đại dương (Ocean), châu lục
      (Continents)… để học sinh đễ tiếp cận. Bên canh đó tôi tìm hiểu nhóm học sinh có trình
      độ tiếng Anh khá tốt yêu thích môn Địa lí kết hợp cùng với tôi để khám phá các chủ đề
      địa lí bằng tiếng Anh trong chương trình phổ thông và chương trình thi quốc tế. Để nâng
      cao kiến thức về tiếng Anh trong lĩnh vực Địa lí tôi đã liên hệ với thầy cô, bạn bè ở
      trường Đại học sư phạm Hà Nội đề có các tài liệu chuyên ngành, tài liệu tiếng Anh của
      môn Địa lí. Trong quá trình học tập tôi cũng đã liên hệ, tổ chức các buổi học với các học
      sinh cũ học giỏi tiếng anh ở các trường đại học Ngoại Thương, đại học Ngoại Ngữ Hà
      Nội, Đại học Sư Phạm Hà Nội qua nền tảng Google meet, Zoom, Zalo, Mersenger… để
      nâng cao khả năng giao tiếp, dịch thuật các từ chuyên ngành. Từ đó học sinh cũng thấy tự
      tin hơn trong khả năng nói, khả năng nghe tiếng Anh. Các bạn học trong nhóm không chỉ
      đơn thuần là học Địa lí mà còn được học tiếng Anh, được giao tiếp, được hiểu về học và
      làm nghề của một số bạn học tiếng Anh khóa trên. Trên cơ sở đó giúp học sinh hiểu được
      mình, tự tin trong việc học ngoại ngữ, trong lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cho bản thân
      hơn trong tương lai..
      2.1. Cơ sở lý luận của việc thi khoa học Địa lí bằng tiếng Anh
      2.1.1. Các công văn chỉ đạo.
      Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân,
      triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm
      đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của
      nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên
      Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng
      độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ,
      đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự
      nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
      Ngày 30 tháng 9 năm 2008 Thủ tướng đã ra Quyết định số 1400/QĐ-TTg của Thủ
      tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc
      dân giai đoạn 2008 – 2020″
    3. Mục tiêu chung
      Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân,
      triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm
      đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của
      nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên
      Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng
      độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ,
      đa văn hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự
      nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
    4. Mục tiêu cụ thể
      a) Triển khai thực hiện chương trình giáo dục 10 năm, bắt đầu từ lớp 3 môn ngoại ngữ bắt
      buộc ở các cấp học phổ thông. Từ năm 2010 – 2011 triển khai dạy ngoại ngữ theo chương trình mới
      6
      cho khoảng 20% số lượng học sinh lớp 3 và mở rộng dần quy mô để đạt khoảng 70% vào năm học
      2015 – 2016; đạt 100% vào năm 2018 – 2019;
      b) Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục nghề
      nghiệp cho khoảng 10% số lượng học sinh dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp vào năm
      học 2010 – 2011, 60% vào năm 2015 – 2016 và đạt 100% vào năm học 2019 – 2020;
      c) Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ đối với giáo dục đại
      học (cả các cơ sở đào tạo chuyên ngữ và không chuyên ngữ) cho khoảng 10% số lượng
      sinh viên cao đẳng, đại học vào năm học 2010 – 2011; 60% vào năm học 2015 – 2016 và
      100% vào năm 2019 – 2020;
      d) Đổi mới việc dạy và học ngoại ngữ trong chương trình giáo dục thường xuyên
      với nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với các cấp học, trình độ đào tạo, góp phần
      tích cực vào công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực, đội
      ngũ cán bộ, viên chức; thực hiện đa dạng hóa các hình thức học tập, đáp ứng nhu cầu
      người học.
      Phấn đấu có 5% số cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước có trình
      độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên vào năm 2015 và đạt 30% vào năm 2020.
      Ngày 22/12/2017 Quyết định số 2080/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
      Phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
      quốc dân giai đoạn 2017-2025 trong đó :
    5. Mục tiêu chung
      Đổi mới việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiếp tục triển
      khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo, nâng cao
      năng lực sử dụng ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu học tập và làm việc; tăng cường năng lực
      cạnh tranh của nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập, góp phần vào công cuộc xây dựng
      và phát triển đất nước; tạo nền tảng phổ cập ngoại ngữ cho giáo dục phổ thông vào năm
      2025.
    6. Mục tiêu cụ thể
    • Đối với giáo dục phổ thông:Đến năm 2025, phấn đấu 100% học sinh từ lớp 3 đến
      lớp 6 được học chương trình ngoại ngữ 10 năm (bắt đầu từ lớp 3 đến lớp 12).
    • Đối với giáo dục nghề nghiệp: Đến năm 2025, 50% các cơ sở giáo dục nghề
      nghiệp triển khai chương trình ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra và ngành, nghề đào tạo,
    • Đối với giáo dục đại học:Đến năm 2025, phấn đấu 100% các ngành đào tạo
      chuyên ngoại ngữ triển khai chương trình ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra và ngành đào tạo;
      80% các ngành khác triển khai chương trình ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra và ngành đào
      tạo; triển khai một số chương trình đào tạo giáo viên bằng ngoại ngữ.
    • Đối với các cơ sở đào tạo có ngành sư phạm ngoại ngữ: Đến năm 2025, phấn đấu
      100% sinh viên tốt nghiệp đạt yêu cầu theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên và khung năng
      lực giáo viên ngoại ngữ theo các cấp học và trình độ đào tạo.
      Đến năm 2025, phấn đấu hoàn thành việc xây dựng các chương trình bồi dưỡng
      năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (không bao gồm đội ngũ
      7
      giáo viên, giảng viên ngoại ngữ), ưu tiên các chương trình tự bồi dưỡng; tổ chức bồi
      dưỡng năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (không bao gồm đội
      ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ).
      Căn cứ vào chỉ thị số 3575/CT-BGDĐT ngày 10/9/2014 của Bộ Giáo dục và Đào
      tạo về việc Tăng cường triển khai thực hiện nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ trong hệ
      thống giáo dục quốc dân; Quyết định số 2658/QĐ-BGDĐT ngày 23/7/2018 của Bộ Giáo
      dục và Đào tạo về việc ban hành kế hoạch triển khai Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
      thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025 QĐ số 2005//QĐ-UBND ngày 10/11/2011
      của Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định về phê duyệt Đề án dạy và học ngoại ngữ trong các
      cơ sở giáo dục phổ thông tỉnh Nam Định giái đoạn 2011-2020. Công văn 3892 BGDĐTGDTrH ngày 28/08/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn nhiệm vụ Giáo dục
      Trung học năm 2019-2020; Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 03/7/2019 của UBND
      tỉnh Nam Định về việc triển khai thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
      thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2019-2025; Quyết định số 1792/QĐ-UBND
      ngày20/8/2021 của UBND tỉnh Nam Định về việc Phê duyệt đề án Tăng cường giảng dạy
      tiếng Anh trong các trường phổ thông tỉnh Nam Định giai đoạn 2021-2026, Sở GDĐT
      xây dựng kế hoạch tổ chức Hội thi giải Toán và các môn khoa học bằng tiếng Anh từ
      năm 2018 -2019 đến nay. Mục đích:
    • Tạo sân chơi giúp học sinh tự tin, mạnh dạn sử dụng tiếng Anh trong giao
      tiếp và tham gia vào các hoạt động giao lưu, trải nghiệm, tham dự các cuộc thi Toán và
      khoa học bằng tiếng Anh trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế;
    • Tạo môi trường cho giáo viên giảng dạy môn Toán và các môn khoa học
      được giao lưu, học hỏi, trao đổi chia sẻ kinh nghiệm giúp tăng cường năng lực tiếng Anh,
      phương pháp sư phạm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đối với các môn học này.
      Căn cứ vào các quyết đinh, chỉ thị, công văn và kế hoạch của các cấp; từ năm học
      2018-2019, trường THPT Mỹ Lộc cũng đã tiến hành tổ chức hướng dẫn học sinh khối 11
      (khuyến khích học sinh khối 10) tham gia hội thi giải toán và các môn khoa học bằng
      tiếng Anh trong đó có bộ môn Địa lí.
      2.1.2. So sánh giữa khoa học Địa lí và chương trình môn học Địa lí trong nhà
      trường phổ thông.
      Địa lí là một ngành khoa học có lích sử phát triển lâu đời, có tính đặc thù bới đó là
      một hệ thống khoa học gồm địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế – xã hội. Khoa học là quá trình
      nghiên cứu và thực nghiệm trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống con người. Khoa học bằng
      tiếng Anh được đưa vào chương trình giảng dạy dưới dạng phân môn tổng quát ở cấp 1
      và cấp 2 trước khi phân hóa thành các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí ở
      cấp 3. Chương trình Khoa học bằng tiếng Anh bao gồm các kiến thức từ cơ bản đến kiến
      thức nâng cao.
      Khoa học Địa lí vẫn được coi là một hệ thống gồm có hai ngành khoa học: Địa lí tự
      nhiên và Địa lí kinh tế – xã hội. Hai ngành đó đã được phản ánh trong chương trình môn
      Địa lí học ở nhà trường. Chương trình này gồm cả hai phần: Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh
      tế – xã hội. Trong Địa lí tự nhiên, học sinh được học những tri thức cơ sở về cả Địa lí tự
      8
      nhiên đại cương lẫn Địa lí tự nhiên các nước và các khu vực. Trong Địa lí kinh tế -xã hội,
      học sinh được học những tri thức về Địa lí kinh tế – xã hội đại cương và Địa lí kinh tế -xã
      hội khu vực.
      Toàn bộ những tri thức được chọn lọc, dạy trong nhà trường phổ thông nói chung
      đều được sắp xếp theo tính chất khoa học của địa lí: Địa lí tự nhiên học trước, Địa lí kinh
      tế – xã hội, các yếu tố đại cương được cung cấp làm cơ sở cho Địa lí khu vực, quốc gia.
      Những quan điểm, những học thuyết đúng đắn trong Khoa học Địa lí, đương nhiên sẽ
      được thể hiện trong nội dung chương trình, trong sách giáo khoa cũng như trong phương
      pháp dạy học ở nhà trường. Nói một cách đơn giản, học về địa lý chính là học về thế giới
      chúng ta đang sinh sống.
      Điểm khác biệt quan trọng nhất giữa khoa học Địa lí và môn Địa lí trong nhà trường
      là về mặt mục tiêu và nhiệm vụ mà chúng nhằm đạt tới. Một bên nhằm tới chân lí khoa
      học, một bên thì nhằm tới việc giáo dục thế hệ trẻ. Nếu khoa học Địa lí có nhiệm vụ chủ
      yếu là nghiên cứu, tìm ra những chân lí mới, phát hiện ra những quy luật địa lí tự nhiên
      và địa lí kinh tế -xã hội, giải thích sự phân hoá lãnh thổ ở các cấp quy mô khác nhau thì
      môn Địa lí trong nhà trường lại có nhiệm vụ chọn lọc và giảng dạy những tri thức, chân lí
      đã được tìm ra và được thừa nhận. Đồng thời, môn Địa lí trong nhà trường còn có nhiệm
      vụ phải rèn luyện cho học sinh một loạt các kĩ năng, kĩ xảo giúp cho học sinh có khả
      năngvận dụng tri thức địa lí một cách có hiệu quả vào thức tiễn cuộc sống.
      Môn Địa lí trong nhà trường còn khác với khoa học Địa lí về phạm vi và khối lượng
      tri thức. Khoa học Địa lí có một phạm vi tri thức vô cùng rộng lớn và phong phú. Khối
      lượng tài liệu đó không ngừng được mở rộng và tăng lên rất nhanh. Đương nhiên, không
      thể đưa toàn bộ khối lượng tri thức đó vào nhà trường để giảng dạy cho học sinh mà chỉ
      cần lựa chọn những kiến thức và kĩ năng cơ bản nhất, phù hợp với mục tiêu đào tạo của
      nhà trường nói chung, của từng cấp học nói riêng và phù hợp với trình độ nhận thức của
      từng lứa tuổi học sinh. Trong khi xác định phạm vi, khối lượng, chiều sâu và mức độ
      chính xác của tri thức, phải chú ý đến tính chất phổ thông của nhà trường và thời gian
      giành cho môn học trong kế hoạch giảng dạy. Về mặt này có sự phân biệt rõ ràng ranh
      giới việc đào tạo ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp. Những tri thức
      dạy ở các trường phổ thông, chủ yếu nhằm giúp cho học sinh học tập có kết quả và khi
      trường thành, họ làm tốt nhiệm vụ của người công dân, người lao động có văn hoá trong
      xã hội. Còn những kiến thức và kĩ năng dạy ở trường chuyên nghiệp chủ yếu là giúp cho
      học sinh có được một trình độ hiểu biết chuyên môn nhất định về ngành nghề được đào
      tạo. Môn Địa lí trong nhà trường còn có trình tự sắp xếp các tài liệu trước sau, ngang dọc
      khác với khoa học Địa lí. Trình tự đó trong khoa học được xác định thuần tuý bởi logic
      của bản thân khoa học, còn trình tự sắp xếp tài liệu trong môn học ở trường phổ thông thì
      chủ yếu lại do lôgic nhận thức và đặc điểm tâm lí, sinh lí học sinh quyết định.
      2.1.3. Cấu trúc của chương trình môn địa lý lớp 11 và phạm vi kiến thức của hội thi
      khoa học Địa lý bằng tiếng Anh
      Chương trình Địa lí 11 được chia thành 2 phần chính:
      A. Khái quát nền kinh tế – xã hội thế giới.
      9
      Phần này chương trình địa lí lớp 11 tìm hiểu về các vấn đề kinh tế – xã hội của thế
      giới nổi bật: như sự tương phản trình độ kinh tế – xã hội của các nhóm nước; cuộc cách
      mạng khoa học và công nghệ hiên đại; xu hướng toàn cầu hóa – khu vực hóa; một số vấn
      đề toàn cầu; một số vấn đề của châu lục và khu vực châu Phi, Mĩ La Tinh, Trung Á và
      Tây Nam Á)
      B. Địa lí khu vực và quốc gia
      Phần này chương trình giới thiệu địa lí kinh tế – xã hội của các tổ chức và khu vực
      như: Liên minh châu Âu (EU), khu vực Đông Nam Á; địa lí kinh tế – xã hội các quốc gia
      như: Hợp chúng quốc Hoa Kì, Liên bang Nga, Nhật Bản, Cộng hòa nhân dân Trung
      Hoa.
      Chương trình thi khoa học môn địa lí bằng tiếng Anh chủ yếu diễn ra vào chương
      trình học kì I, đầu học kì II nên ngoài chương trình địa lí lớp 11 cần hướng dẫn học sinh
      tìm hiểu thì giáo viên còn hướng dẫn các em tìm hiểu kiến thức địa lí của các chương
      trình lớp trước, các kiến thức địa lí mới cập nhật trên các phương tiện truyền thông. Vì
      đây là một môn khoa học, khi giải thích bất cứ vấn đề gì thì học sinh có cách nhìn nhận
      logic mọi vấn đề trong cuộc sống dưới góc độ khoa học chứ không mang tính cảm tính.
      2.1.4. Vai trò của việc học môn khoa học Địa lí bằng tiếng Anh.
      Học các môn bằng tiếng Anh nói chung và học địa lí bằng tiếng Anh nói riêng là
      một xu thế của nhiều nước. Đây là một nhu cầu cực kì thiết yếu của các bạn trẻ khi muốn
      trở thành một công dân toàn cầu. Công dân toàn cầu là những người sống và làm việc ở
      nhiều quốc gia khác nhau. Họ có thể có một hoặc nhiều quốc tịch khác nhau. Ban đầu là
      nhu cầu làm việc và quản lý của các công ty đa quốc gia. Những công ty này có chi
      nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở sản xuất, thí nghiệm… rải khắp các châu lục. Từ đội ngũ
      quản lý này đã manh nha hình thành những công dân toàn cầu đầu tiên. Muốn có cơ hội
      đo học sinh không những học giỏi một ngoại ngữ mà còn giỏi một số ngoại ngữ khác nữa.
      Ở trường trung học phổ thông Mỹ Lộc, ngoài tiết ngoại ngữ theo qui định (2 tiết/1
      tuần) và một tiết được học thêm với người nước ngoài thì trình độ ngoại ngữ của học sinh
      cơ bản đã được năng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập ngày nay. Tổ
      chức hội thi các môn khoa học bằng tiếng Anh nói chung và môn địa lí bằng tiếng Anh
      nói riêng giúp học sinh nhiều lợi ích như:
    • Không những nắm vững kiến thức chuyên môn địa lí mà còn giúp nâng cao kiến
      thức, kĩ năng về tiếng Anh trong lĩnh vực địa lí, đặc biệt là chương trình địa lí thế giới,
      địa lí khu vực và địa lí một số quốc gia. Giải thích các vấn đề kinh tế xã hội một cách
      logic trên cơ sở khoa học mà không mang tính cảm tính.
    • Nâng cao khả năng đọc, hiểu và nghiên cứu sâu tài liệu quốc tế về chuyên ngành
      địa lí.
    • Hỗ trợ cho việc học lên các chương trình đại học bằng tiếng Anh hoặc du học. Đây
      là xu hướng học đại học và làm việc ngày nay.
      10
    • Nâng cao khả năng ngôn ngữ: Học bằng một thứ tiếng khác thay vì tiếng mẹ đẻ rõ
      ràng giúp học sinh rèn luyện sự nhạy bén với ngôn ngữ. Bởi, nếu như ngày nào cũng
      được tiếp thu kiến thức cùng với loạt thuật ngữ bằng tiếng Anh kèm theo, nhất là đối với
      những môn nhiều thuật ngữ chuyên ngành như địa lí, chắc chắn bạn sẽ “lên trình” ngoại
      ngữ ngay mà chẳng cần phải vùi đầu vào việc học từ vựng – ngữ pháp cật lực.
    • Phát triển tư duy khoa học: Tư duy khoa học hoàn toàn khác biệt với tư duy nghệ
      thuật. Khi học địa lí bằng tiếng Anh, học sinh sẽ có cách nhìn nhận logic mọi vấn đề
      trong cuộc sống dưới góc độ khoa học, tôi luyện niềm đam mê cho những ai có mong
      muốn dấn thân vào nghiên cứu sau này.
    • Tìm kiếm học bổng du học: Du học là trải nghiệm đặc biệt mà phần lớn học sinh
      đều muốn chinh phục. Khi có được kiến thức khoa học bằng tiếng Anh vững chắc, bạn
      nhanh chóng đạt điểm cao trong các kỳ thi quốc tế, cánh cửa đại học không chỉ rộng mở
      mà còn hứa hẹn giúp bạn giành được những suất học bổng có giá trị.
    • Nâng cao triển vọng nghề nghiệp: Các ngành nghề liên quan đến địa lí bằng tiếng
      Anh hiện nay rất đa dạng và phong phú. Học sinh xuất sắc sẽ không phải lo lắng trong
      quá trình chọn trường chọn nghề trong tương lai vì cơ hội luôn sẵn có. Từ kiến thức về tự
      nhiên các em có thể tham gia vào các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi, thiết ké qui hoạch
      các công trình nông nghiệp, quản lí đất đai, bảo vệ môi trường. Với những kiến thức về
      tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới các em
      có thể tham gia hoạt động các ngành thương mại, du lịch, tài chính, giáo viên quốc tế,
      làm ở tập đoàn kinh tế lớn, các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế trực thuộc
      chính phủ, các dự án về kinh tế…Những học sinh có kiến thức tổng hợp và chuyên ngành
      có khả năng tham gia làm bản đồ, địa chất về thăm dò tài nguyên thiên nhiên, hay nghiên
      cứu nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, quản lí đô thi, quản lí xã hội
      Tại sao cần học các môn khoa học bằng tiếng Anh? Vì hầu hết các khoa học mang
      tầm quốc tế đều được viết bằng tiếng Anh, khi dịch ra ngôn ngữ khác ví dụ tiếng Việt thì
      độ chuẩn xác có thể giảm đi, và khi hướng tới trình độ khoa học được quốc tế công nhận
      thì bắt buộc phải hiểu được ngôn ngữ chuyên ngành bằng tiếng Anh; và đây là cơ hội để
      các em học sinh bước đầu tiếp cận với cách thức làm việc và tư duy khoa học quốc tế.
      Như vậy học địa lí bằng tiếng Anh sẽ giúp học sinh vừa có kiến thức bộ môn vừa
      nâng cao năng lực tiếng Anh trong lĩnh vực địa lí; giúp học sinh có nhiều cơ hội tìm việc
      làm, hội nhập quốc tế. Làm tốt điều này giáo dục nói chung và môn địa lí nói riêng đang
      góp phần rất to lớn trong đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay ở nước ta, đẩy nhanh quá
      trình hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng được một thế hệ “công dân toàn cầu” trong thời
      đại mới.
      2.2. Một số giải pháp dạy học địa lí tiếng Anh cho học sinh THPT Mỹ Lộc
      Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về học địa lí bằng tiếng Anh của học
      sinh THPT Mỹ Lộc, tôi đề xuất tới nhà trường và bản thân đã tham gia thực hiện các
      nhóm giải pháp sau đây:
      11
      2.2.1. Nhóm giải pháp học trực tiếp.
      Dạy học trực tiếp rất quan trọng. Hoạt động này diễn ra thường xuyên và có vai trò
      rất quan trọng trong việc tương tác giữa giáo viên và học sinh, học sinh với học sinh để
      NHÓM GIẢI PHÁP HỌC TRỰC
      TIẾP
      NHÓM GIẢI PHÁP
      HỌC TRỰC TUYẾN
      HOẠT ĐỘNG
      GIỮA GIÁO
      VIÊN VÀ HỌC
      SINH
      HOẠT ĐỘNG
      GIỮA HỌC
      SINH VỚI
      HỌC SINH
      TỰ HỌC QUA CÁC
      TẢNG TRỰC TUYẾN
      HỌC
      NHÓM
      VỚI GIÁO
      VIÊN
      HỌC VỚI
      CÁC BẠN
      KHÓA
      TRÊN
      Học các
      thuật ngữ
      Học các
      chủ đề
      Giải các
      bài thi
      Học
      thuật
      ngữ, và
      lám chủ
      đề
      Làm các
      đề thi.
      HÌNH THÀNH KIẾN THỨC KĨ NĂNG
      ĐỊA LÍ BẰNG TIẾNG ANH
      THAM GIA THI KHOA HỌC
      ĐỊA LÍ BẰNG TIẾNG ANH
      Sơ đồ nhóm giải pháp hướng dẫn học sinh học và thi khoa học địa lí
      bằng tiếng Anh cho học sinh THPT Mỹ Lộc
      12
      lĩnh hội các kiến thức, các kĩ năng đặc thù môn địa lí. Thông qua dạy trực tiếp học sinh
      có thể trao đổi với nhau; rèn các kĩ năng nói, viết, nghe, đọc tiếng Anh trong môn địa lí.
      2.2.1.1. Dạy Địa lí bằng tiếng Anh thông qua hoạt động giữa giáo viên và học sinh
      Thực hiện dạy Địa lí bằng tiếng Anh thông qua hoạt động trực tiếp giữa giáo viên
      và học sinh rất đa dang. Những buổi đầu giáo viên hướng dẫn học sinh học các thuật ngữ
      khoa học liên quan đến địa lí, tiếp sau đó là các buổi giáo viên trực tiếp hướng dẫn học
      sinh nắm các chủ đề cốt lõi của môn địa lí thi bằng tiếng Anh trong chương trình khối 11
      và cả chương trình địa lí các cấp dưới nữa. Khi nắm chắc được các thuật ngữ và nội dung
      chuyên đề được học và thi thì giáo viên hướng dẫn học sinh giải các bài thi quốc tế, trong
      nước, các đề thì giáo viên tự soạn để học sinh làm quen với các dạng bài, cách thức làm
      bài đồng thời cũng củng cố năng cao kiến thức chuyên ngành địa lí, kiến thức địa lí bằng
      tiếng Anh cho học sinh phổ thông.
      2.2.1.1.1. Dạy học Địa lí bằng tiếng Anh thông qua các buổi học thuật ngữ
      Mục tiêu:
      Thông qua buổi học, học sinh sẽ lĩnh hội được các thuật ngữ hay được sử dụng
      trong khoa học địa lí, hiểu được nghĩa và cách dùng thuật ngữ đó trong nội dung nào của
      bộ môn. Từ đây học sinh cũng nắm được thuật ngữ đó dịch sang tiếng Anh là từ gì và
      cách đọc ra sao. Như vậy ban đầu học sinh cũng hiểu được một phần cấu trúc của khoa
      học địa lí gồm 2 mảng chính là địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế – xã hội.
      Cách thức tiến hành:
      Bước đầu của những buổi học địa lí bằng tiếng Anh, tôi viết ra các thuật ngữ hay
      dùng trong môn địa lí thuộc hai lĩnh vực chính là địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế – xã hội
      Sau đó tôi dùng phần mền, từ điển Oxford đề dịch nghĩa các thuật ngữ này sang
      tiếng Anh và gửi cho các thầy cô dạy ngoại ngữ trong trường và các bạn học tiếng anh
      khóa trên thuộc trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Ngoại Thương, Đại học Sư phạm Hà
      Nội để kiểm tra độ chính xác của thuật ngữ. Tôi in ra một bản các thuật ngữ bằng tiếng
      Việt trước, cho học sinh xem qua, sau đó yêu cầu học sinh cho biết các thuật ngữ đó các
      em đã dịch được các thuật ngữ nào để nắm được khả năng tiếng Anh ban đầu của các em.
      Khi đã nắm được phần nào khả năng tiếng Anh của học sinh thì tôi hướng dẫn học sinh
      tìm các nguồn tra cứu tiếng Anh hay dùng: từ điên Tiếng Anh Oxford, Google dịch. Giáo
      viên giao nhiệm vụ cho học sinh đọc và dịch nghĩa cho nhau nghe bằng tiếng Anh. Ngoài
      ra khi học về chủ đề cùng với giáo viên thì học sinh sẽ cùng tra cứu các thuật ngữ mới về
      địa lí để hiểu nội dung bài học.
      Để giúp học sinh hiểu nghĩa của mỗi từ địa lí bằng tiếng Anh đó, giáo viên giảng
      đến đâu sẽ dùng hình ảnh, hình vẽ đề m

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 12

    SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 12

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    iên trong dạy và học, góp phần thúc đẩy việc cải
    tiến, nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời phát hiện những học sinh có năng
    khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước”
    (Điều 1- Quy chế thi chọn học sinh giỏi ban hành theo quyết định 3479/1997/QĐBGD & ĐT ngày 01/11/1997). Như vậy đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề
    cần thiết và cấp bách bởi vì hơn lúc nào hết đất nước đang cần những con người tài
    năng đón đầu tiếp thu những thành tựu khoa học mới, công nghệ hiện đại để phát
    minh ra những sáng kiến đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập
    đất nước hiện nay. Bồi dưỡng học sinh giỏi ở bậc THPT là phát huy hết khả năng
    phát triển “tiềm tàng” của học sinh, là tạo nguồn học sinh giỏi cho các cấp học tiếp
    theo, thực hiện chiến lược “bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”. Mặt khác kết quả bồi
    dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá năng lực chuyên
    môn của của giáo viên và sự phát triển của các nhà trường, mỗi học sinh giỏi không
    chỉ là niềm tự hào của cha mẹ, của thầy cô giáo mà còn là niềm tự hào của cả cộng
    đồng.
    Xong để có được sản phẩm học sinh giỏi ở các môn nói chung và môn Địa lí
    nói riêng, người giáo viên phải dày công nghiên cứu, trang bị cho học sinh về
    phương pháp học tập, về kiến thức kỹ năng tốt nhất phù hợp với từng đối tượng học
    sinh và từng địa phương.
    Chính vì thế trong những năm học gần đây, các đội tuyển học sinh giỏi của
    trường nói chung và đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí nói riêng luôn đạt được
    thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Để đạt được kết quả như trên,
    tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng
    học sinh giỏi môn Địa lí và đã đạt được kết quả trong quá trình giảng dạy. Tôi đã
    thực hiện sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh
    giỏi môn Địa lí 12”
    2

    1. Mục đích nghiên cứu
      Thông qua sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất
      lượng bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí 12” tôi mong muốn góp một
      tiếng nói giúp giáo viên, học sinh, phụ huynh thấy được tầm quan trọng của công
      tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lí nói riêng.
      Trong sáng kiến, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm, giải pháp của bản
      thân trao đổi cùng quý thầy cô đồng nghiệp, mong được các thầy cô tham khảo,
      nhận xét, góp ý, bổ sung để nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy, bồi dưỡng học sinh
      giỏi môn Địa lí 12 ở trường THPT hiện nay.
    2. Đối tượng nghiên cứu
      Đề tài này tôi đã sử dụng đối tượng nghiên cứu là các đội tuyển học sinh
      giỏi cấp tỉnh Địa lí 12 từ năm học 2018 – 2019 đến nay ở trường THPT Hoàng Văn
      Thụ- Nam Định.
    3. Phương pháp nghiên cứu
    • Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
    • Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
    • Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
    • Phương pháp quan sát, phỏng vấn, trao đổi với học sinh
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
      1.1. Thực trạng chung
      Môn Địa lí có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
      Bước sang thế kỷ XXI, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh
      mẽ. Càng giao lưu, hội nhập quốc tế, càng cần thiết phải có nguồn nhân tài, hướng
      tới thực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
      tài cho đất nước.
      1.2. Thực trạng đối với giáo viên và học sinh
    • Đối với học sinh
      Vấn đề quan trọng đầu tiên trong giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi đó là
      xác định đúng đối tượng học sinh cần chọn. Thông thường, giáo viên trực tiếp đứng
      lớp qua kinh nghiệm giảng dạy sẽ quan sát, chú ý những học sinh tiềm năng, tiếp
      cận và động viên các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi Địa lí 12. Những năm
      gần đây do tác động của kinh tế, xã hội và gia đình nên học sinh không hứng thú
      với các bộ môn khoa học xã hội – trong đó có môn Địa lí. Hiện trạng học sinh quan
      3
      niệm Địa lí là “môn phụ” diễn ra khá phổ biến nên ít có sự đầu tư học tập theo đúng
      yêu cầu bộ môn.
      Mặt khác đối tượng học sinh tham gia đội tuyển là học sinh đại trà, học sinh
      còn phải tập trung học nhiều môn văn hóa để thi THPTQG, đây là một vấn đề khó
      khăn, các em ít có sự đầu tư, không có nhiều thời gian học nhất là các em theo khối
      D, việc quan tâm chú trọng môn Địa lí là rất ít.
    • Đối với giáo viên
      Muốn đạt được kết quả tốt trong công tác dạy – học, vai trò của thầy cô giáo
      là rất lớn, phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều kiển học sinh phát triển tư duy
      nhất là tư duy độc lập, sáng tạo; biết tự tiếp thu tri thức từ nhiều nguồn trong đó
      phải kể đến việc giải các dạng câu hỏi trắc nghiệm và câu trả lời ngắn trong quá
      trình học bằng cách tự mình suy nghĩ, đặt vấn đề và giải quyết các vấn đề được đặt
      ra; kết hợp với trao đổi cá nhân , thảo luận nhóm, làm phong phú thêm kiến thức.
      Sau đó, người học tự kiểm tra đánh giá sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi với
      bạn bè và dựa vào kết luận của thầy cô, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện,
      đồng thời tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết
      vấn đề của mình. Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho giáo viên khi bồi dưỡng cho học sinh
      giỏi phần lớn là việc lựa chọn vấn đề tổng hợp, sâu rộng ,chuyên sâu.
      Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, trước sự đòi hỏi ngày
      càng cao của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông, của xã hội, giáo viên gặp
      rất nhiều khó khăn trước nhiệm vụ được giao. Để “nâng cao chất lượng bồi dưỡng
      học sinh giỏi “ là không hề đơn giản mà phải được đầu tư, đào tạo, phải dày công
      bồi dưỡng kiến thức cho các em một cách kĩ lưỡng, bài bản. Học sinh “năng khiếu”
      được phát hiện và bồi dưỡng sớm bao nhiêu thì sẽ thu được kết quả tốt bấy nhiêu.
      Nhưng bồi dưỡng học sinh như thế nào để có kết quả tốt là một vấn đề hết sức khó
      khăn đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị kỹ lưỡng…
      Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí trong các năm qua, tôi thấy
      rằng vấn đề quan trọng là giáo viên bồi dưỡng cần có quan niệm đúng về học sinh
      giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lí nói riêng. Bên cạnh đó cần trả lời cho
      câu hỏi “việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm mục tiêu gì?” để từ đó người giáo viên
      bồi dưỡng lựa chọn nội dung chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho thích
      hợp và đạt kết quả cao nhất.
      Theo giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Viết Thịnh, giảng viên khoa Địa lí trường Đại
      học Sư phạm Hà Nội, người được ví như “một trong những con chim đầu đàn” của
      ngành khoa học Địa lí kinh tế xã hội Việt Nam và cũng là người có nhiều năm tham
      4
      gia ra đề cho các trường Đại học, cao đẳng, thi học sinh giỏi Địa lí cho rằng “học
      sinh giỏi môn Địa lí chỉ cần học thuộc là chưa đủ, chưa chính xác và Địa lí là môn
      khoa học có đối tượng nghiên cứu phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lí
      không chỉ phân bố trên bề mặt Trái Đất mà cả không gian và trong lòng đất. Hơn
      nữa, các hiện tượng đó ở đâu và bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một
      cách độc lập nhưng lại có mỗi quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, người dạy
      và học địa lí cần có phương pháp tư duy, phân tích, nhận xét các hiện tượng địa lí
      theo quan điểm hệ thống”.
      Với quan điểm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lí là những
      học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận dụng được những hiểu
      biết, những kĩ năng Địa lí để giải quyết những nội dung cơ bản theo yêu cầu của đề
      bài, của thực tiễn sống và học sinh giỏi là những học sinh có năng lực độc lập suy
      nghĩ, vận dụng tốt những kiến thức, kĩ năng chắc chắn về địa lí.
      Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, có nhiều mục tiêu khác nhau tùy theo
      quan điểm của mỗi giáo viên và tùy theo môn học nhưng dù quan niệm như thế
      nào chung quy lại có những điểm tương đồng.
    • Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lí nói riêng nhằm
      phát triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của học sinh.
    • Bồi dưỡng sự lao động và làm việc một cách sáng tạo.
    • Phát triển các phương pháp, kĩ năng và thái độ tự học suốt đời.
    • Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
    • Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
    • Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, giáo dục
      tình yêu quê hương đất nước.
      Với những mục tiêu đó, chúng ta cũng thấy rằng việc bồi dưỡng học sinh
      giỏi hiện nay phần lớn giáo viên ít nhiều đã đáp ứng tương đối đầy đủ 6 mục tiêu
      trên. Điều này đã minh chứng kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên và
      những em đạt giải học sinh giỏi là những em hội tụ đầy đủ các mục tiêu trên.
      Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và môn Địa lí nói riêng được các
      nhà trường chú trọng. Có sự chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện về mặt thời gian, cơ sở
      vật chất, kinh phí cho hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, có chế độ khen thưởng
      kịp thời đối với học sinh cũng như cũng như các giáo viên có học sinh đạt giải. Đó
      là nguồn động viên lớn đối với thầy – trò, tạo môi trường thuận lợi cho giáo viên
      tiến hành hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi và các em học sinh được thỏa mãn
      niềm đam mê với bộ môn khoa học mà mình lựa chọn.
      5
      Tuy nhiên, môn Địa lí là một môn học ít được học sinh yêu thích, nên việc
      tuyển chọn học sinh vào đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí là hết sức khó khăn.
      Thông thường những em học sinh giỏi môn Địa lí là học sinh giỏi toàn diện, hoặc
      giỏi về khoa học tự nhiên, do đó các em không mấy hứng thú khi được chọn môn
      Địa lí để dự thi. Bên cạnh đó nhiều phụ huynh học sinh cho rằng đây là môn phụ
      nên ít khi được quan tâm, hoặc khi thấy con em mình đầu tư vào môn Địa lí cũng
      lấy làm khó chịu và thậm chí tỏ thái độ không đồng tình.
      Vì vậy để học sinh yêu thích môn Địa lí, hứng thú học Địa lí và tham gia học
      đội tuyển học sinh giỏi đạt kết quả cao giáo viên phải không ngừng tìm tòi, nghiên
      cứu tài liệu, lựa chọn các nội dung và phương pháp phù hợp. Đặc biệt, nếu các giáo
      viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi có sự đầu tư, tổng kết các nội dung , phương
      pháp mình đã thực hiện trong năm học để trao đổi, chia sẻ cùng đồng nghiệp và
      giúp các em học sinh có thêm một tài liệu tham khảo thì thực sự đó là những nguồn
      tài liệu và kinh nghiệm vô cùng quý báu và chắc chắn nếu việc làm này được thực
      hiện thường xuyên, kết quả thi học sinh giỏi môn Địa lí sẽ tăng lên đáng kể.
      Do đó, việc nghiên cứu và những đề xuất của sáng kiến kinh nghiệm “Một
      số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí 12” là hiệu
      quả, thiết thực, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của ngành của bản thân, của đồng
      nghiệp và học sinh yêu thích bộ môn Địa lí.
    1. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến.
      Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi tôi thực hiện các giải pháp sau:
      2.1. Thành lập đội tuyển
      2.1.1. Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển học sinh giỏi môn
      Địa lí
      Chuyện người thầy phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như người
      trồng hoa. Bông hoa đẹp bởi bàn tay người chăm bón, nâng niu. Nhưng đâu phải
      khi nào hoa cũng khoe sắc rực rỡ. Chỉ cần một cơn trở gió, một sự thay đổi tiết trời,
      một sự lãng quên bất cẩn của người là hoa kém sắc, cây không trổ bông. Có đồng
      nghiệp nói với tôi rằng, học sinh giỏi chỉ là “thiên bẩm”. Là người trực tiếp giảng
      dạy đã nhiều năm ở phổ thông, với tôi không nghĩ như vậy. Năng khiếu và tri thức
      văn hóa nói chung phải được bồi đắp theo năm tháng, gắn liền với sự nhạy bén của
      tố chất cá nhân. Người thầy phải là “chất xúc tác” trong quá trình biến đổi chất,
      người quản lí là nguồn động lực tiếp sức định hướng cho cả thầy và trò.
      Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi người thầy đóng vai trò quan trọng
      nhưng học sinh là yếu tố quyết định sự thành công. Thông thường những em có tố
      6
      chất thông minh, học lực khá – giỏi bao giờ cũng đăng kí học khối A, D. Ngoài ra
      xu thế hiện nay, học sinh theo ban xã hội ngày càng ít, vậy làm thế nào để học sinh
      say mê, thích học môn Địa lí? Điểm xuất phát phải bắt đầu từ người thầy , thầy
      phải coi bộ môn mình dạy như cái nghiệp của mình để chuyên tâm gắn bó và sáng
      tạo không ngừng. Ngoài năng lực truyền thụ tri thức lí luận khoa học, thầy phải
      nhập vai là minh chứng sống động trong thực tiễn để học sinh thấy được cái thú vị
      cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính định hướng và tính giáo dục cao. Niềm say
      mê ấy phải được bộc lộ qua từng bài giảng, trong từng câu chuyện đời thường và
      giải quyết những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc sống.
      Vì vậy tôi nhận thấy, giáo viên dạy đội tuyển môn Địa lí phải là người truyền
      được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dạy ở các em sự yêu thích môn học,
      niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn và đạt
      kết quả cao. Có thể nói đây là khâu quan trọng nhất tác động đến tâm lý học sinh vì
      nó quyết định việc các em sẽ học và thi như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi
      giáo viên vừa đóng vai trò là người thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các
      em, để phân tích và chỉ ra cho các em những lợi thế khi tham gia đội tuyển học sinh
      giỏi.
      Đối với bản thân tôi, cứ vào đầu mỗi năm học tôi khảo sát và ghi chép kết quả
      học tập của những em học sinh có thành tích học tập khá – giỏi của ban xã hội, đặc
      biệt là học sinh lớp 12A5,6 (khối D) và học sinh lớp khối C để lựa chọn và vận
      động các em tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí của trường.
      Bên cạnh đó, tôi còn sự thăm dò ý kiến của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên
      bộ môn. Giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi, người có sự quan tâm sâu sát học
      sinh nhất, họ có thể hiểu rõ tường tận về năng lực học tâp của các em học sinh, giúp
      đỡ động viên các em tham gia đội tuyển. Bên cạnh đó tôi cũng cần phải tham khảo
      ý kiến của các giáo viên bộ môn để tìm hiểu năng lực học tập của học sinh ở các
      môn học khác, kể cả các môn tự nhiên. Một học sinh giỏi môn Địa lí thì các em
      cũng học giỏi các bộ môn khác, nhất là các môn tự nhiên.
      Vậy vấn đề đặt ra là cần phải phát hiện những học sinh có khả năng giỏi Địa
      lí từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng từ khi nào? Trên thực tế, có nhiều trường khi
      chuẩn bị thi học sinh giỏi cấp tỉnh mới dồn sức, học gấp gáp, nhưng theo tôi việc
      phát hiện và chọn học sinh giỏi phải làm sớm, tổ chức bồi dưỡng phải thường
      xuyên ngay cả trong các tiết học, các môn học các em phải quan tâm, được uốn
      nắn và phát hiện.
      2.1.2. Giúp đỡ, động viên kích lệ các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp thời
      7
      Tham gia ôn luyện đội tuyển là quá trình nỗ lực bền bỉ và gắn bó giữa thầy
      và trò trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên phải thực sự là người có tâm với học
      sinh đội tuyển của mình. Sự quan tâm đó không chỉ dừng lại ở thái độ, lời nói, kiến
      thức, kinh nghiệm truyền đạt cho các em mà còn bằng cả tấm lòng không đơn
      thuần là tình thầy trò mà như một người thân thực sự của các em. Vì thế các em sẵn
      sàng chia sẻ với giáo viên về mọi mặt trong cuộc sông. Tôi nhớ năm học 2019-
      2020 có học sinh đội tuyển của tôi do bố mẹ không cho theo môn này mà bắt phải
      học các môn tự nhiên, nhưng vì thích và say sưa với khối C nên mỗi buổi đi học
      đội tuyển em ấy đều phải nói dối là đi học thêm các môn khác. Năm đó còn thi học
      sinh giỏi theo tổ hợp môn, 3 giáo viên Văn – Sử – Địa chúng tôi phải vận động phụ
      huynh, giải thích cho phụ huynh hiểu những lợi ích của việc học đội tuyển và mong
      nhận được sự ủng hộ của phụ huynh.
      Tôi thường động viên kích lệ học sinh trong mỗi giờ học, mỗi bài kiểm tra,
      mỗi lần thi thử với số điểm chưa được như mong đợi. Tóm lại giáo viên phải thực
      sự có “tâm” với đội tuyển học sinh giỏi của mình, hiện nay giáo viên có thể trao đổi
      cởi mở với học sinh qua mạng xa hội để hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em.
      Nhờ vậy nhiều học sinh và phụ huynh đã cảm nhận được sự gần gũi, sự tận tâm
      của giáo viên để học sinh nỗ lực cố gắng và đạt kết quả cao.
      2.2 Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển 1 cách khoa
      học, dúng hướng và có hiệu quả.
      2.2.1. Xây dựng chương trình
      Việc bồi dưỡng đội tuyển trước hết phải có kế hoạch, có kế hoạch khoa học,
      đúng đắn là 1 trong những yếu tố giúp việc bồi dưỡng được thuận lợi và hiệu quả
      cao hơn. Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết học ở lớp học bình thường vì
      ở lớp chúng ta dạy cho học sinh với các đối tượng khác nhau: khá, giỏi, trung bình
      và yếu kém. Song dạy cho học sinh giỏi là dạy để đưa học sinh đi thi. Đối tượng dự
      thi đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận thức. Vì vậy việc xây dựng nội dung
      chương trình là hết sức cần thiết. Đây là công việc quan trọng sau khi thành lập đội
      tuyển.
      Giáo viên phải lên kế hoạch cụ thể về: thời gian bồi dưỡng, nội dung, số
      lượng học sinh bồi dưỡng (mỗi đội là 3 học sinh đi thi chính thức nhưng chúng ta
      nên lấy 4-5 học sinh để lựa chọn và tạo ra sự cạnh tranh); chỉ tiêu phấn đấu đạt
      giải… và bản thân phải thực hiện nghiên túc theo kế hoạch.
      Giáo viên bồi dưỡng nên biên soạn tài liệu theo từng chuyên đề của nội dung
      bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí vì đây là biện pháp mang tính bền vững đối với
      8
      công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ thực tế kinh nghiệm bồi dưỡng những năm
      qua cho thấy nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi Địa lí 12 tập trung chủ yếu chương
      trình Địa lí 12 và lớp 11(phần kĩ năng) gồm các chuyên đề sau:
    • Chuyên đề 1: rèn luyện kĩ năng Địa lí (nhận dạng biểu đồ, Atlat, tính toán
      và nhận xét bảng số liệu, biểu đồ).
    • Chuyên đề 2: Địa lí tự nhiên.
    • Chuyên đề 3: Địa lí dân cư.
    • Chuyên đề 4: Địa lí ngành kinh tế (đến hết ngành công nghiệp)
      2.2.2. Phương pháp bồi dưỡng
      2.2.2. 1. Chuyên đề: rèn luyện các kĩ năng Địa lí: tính toán, bảng số liệu, nhận
      dạng biểu đồ, Atlat…..
    • Kĩ năng tính toán, bảng số liệu, nhận xét biểu đồ
      Trước hết tôi đưa ra các công thức tính toán và yêu cầu học sinh phải nhớ kĩ
      các công thức này để phục vụ cho các câu hỏi rèn kĩ năng nhận xét bảng số liệu và
      biểu đồ:
      CÔNG THỨC ĐỊA LÍ THƯỜNG GẶP
    1. Tính độ che phủ rừng (Đơn vị : %)
    2. Tính tỉ trọng trong cơ cấu ( Đơn vị : %)
    3. Tính năng suất cây trồng (Đơn vị: tạ/ ha)
    4. Tính bình quân lương thực theo đầu người ( Đơn vị: kg/ người)
      9
    5. Tính thu nhập bình quân theo đầu người ( Đơn vị: USD/ người)
    6. Tính mật độ dân số ( Đơn vị: người/ km2
      )
    7. Tính tôc độ tăng trưởng của một đối tượng qua các năm với năm đầu ứng với
      100 % (Đơn vị: %)
    8. Tính tốc độ tăng trưởng TB/Năm của một đối tượng trong một giai đoạn (Đơn vị:
      %)
    9. Tính biên độ nhiệt ( đơn vị: oC)
      10
    10. Tính cán cân xuất nhập khẩu (Đơn vị: USD, Tỉ đồng)
    11. Tính tỉ lệ xuất nhập khẩu ( Đơn vị: %)
    12. Tính tỉ lệ xuất khẩu (Đơn vị: %)
    13. Tính tỉ suất gia tăng tự nhiên (Đơn vị: %)
      Sau khi học sinh nhớ được các công thức này tôi yêu cầu học sinh vận dụng
      luôn để làm các câu hỏi trắc nghiệm. Có 2 dạng câu hỏi trắc nghiệm cho kĩ năng
      này: dạng 1: cho biểu đồ -> tính toán, nhận xét ; dạng 2 cho bảng số liệu tính toán
      hoặc nhận xét.
      Ví dụ :
      Câu 1: Cho biểu đồ:
      11
      GDP CỦA IN-ĐÔ-NÊ-XI-A VÀ MA-LAI-XI-A NĂM 2015 VÀ 2020
      (Nguồn số liệu theoNiên giám thống kê ASEAN 2021https://www.aseanstats.org)
      Theo biểu đồ, nhận xét nào sau đây đúng về sự thay đổi GDP năm 2020 so với
      năm 2015 của In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a?
      A. Ma-lai-xi-a tăng nhiều hơn In-đô-nê-xi-a.
      B. In-đô-nê-xi-a tăng nhanh hơn Ma-lai-xi-a.
      C. Ma-lai-xi-a tăng và In-đô-nê-xi-a giảm.
      D. Ma-lai-xi-a tăng gấp hơn 5 lần In-đô-nê-xi-a.
      Câu 2: Cho biểu đồ:
      TỈ LỆ SINH VÀ TỈ LỆ TỬ CỦA THÁI LAN VÀ MI-AN-MA NĂM 2020
      (Nguồn số liệu theo Niên giám thông kê Việt Nam 2020, NXB Thông kê, 2021)
      Theo biểu đồ, nhận xét nào sau đây đúng về tỉ lệ sinh, tỉ lệ tử, gia tăng tự nhiên
      của Thái Lan và Mi-an-ma?
      A. Tỉ lệ sinh của Mi-an-ma thấp hơn Thái Lan.
      B. Tỉ lệ tử của Mi-an-ma thấp hơn Thái Lan.
      C. Tỉ suất gia tăng tự nhiên của Mi-an-ma thấp hơn Thái Lan.
      D. Tỉ suất gia tăng tự nhiên của Mi-an-ma cao hơn Thái Lan

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên lớp 12

    SKKN Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên lớp 12

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
    Với tầm nhìn thời đại và tư duy toàn cầu, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
    Minh đã chỉ ra những mục tiêu của giáo dục là “đào tạo các em nên những người
    công dân hữu ích cho nước Việt Nam, phát triển toàn diện con người, thúc đẩy
    hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Dạy học là nhằm phát triển trí tuệ,
    phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Trong giáo dục, người học bao giờ
    cũng là trung tâm. Người luôn lưu ý những người dạy phải chú ý tới đặc điểm của
    đối tượng, phải “đóng giầy theo chân”, không phải “khoét chân cho vừa giầy”.
    Điều này đòi hỏi người thầy phải bám sát, hiểu rõ đặc điểm đối tượng người học để
    từ đó có phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá phù hợp, đảm bảo tính vừa
    sức.
    Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
    mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, xã hội
    thông tin, hình thành nền văn minh tri thức và tiến tới xây dựng một “ xã hội học
    tập” đã tạo ra những cơ hội lớn, đồng thời là những thách thức lớn đối với nền giáo
    dục hiện đại, nhất là trước yêu cầu cao hơn đối với việc hình thành phẩm chất,
    năng lực của con người trong thời đại mới. Giáo dục theo định hướng phát triển
    năng lực không chỉ là xu hướng phổ biến trên thế giới mà đó cũng là mục tiêu của
    công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
    Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 29-NQ/TW nhấn mạnh: Giáo dục và đào
    tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu
    tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình,
    kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
    đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường
    theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Phát triển giáo dục và đào
    tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá
    trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và
    phẩm chất của người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn. Vì thế,
    trong quá trình dạy học, giáo viên cần hình thành cho học sinh các năng lực chung
    và năng lực đặc thù ở các bộ môn. Ở Việt Nam, trong lộ trình thực hiện Chương
    trình giáo dục phổ thông mới, ở tất cả các môn học và hoạt động giáo dục đều
    hướng tới hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh: năng lực tự chủ và tự
    học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Như vậy
    có thể nói năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo là một trong những năng lực cốt
    lõi, cơ bản nhất cần hình thành và phát triển cho học sinh. Năng lực này giúp các
    em phát triển tư duy, suy luận lôgic, kĩ năng phát hiện và giải quyết các vấn đề mới
    nảy sinh trong cuộc sống. Việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề
    và sáng tạo cho học sinh sẽ góp phần giúp các em tự tin, chủ động, thích ứng tốt
    2
    khi bước vào cuộc sống. Đánh giá năng lực trong đó có năng lực giải quyết vấn đề
    và sáng tạo cũng là một trong những xu hướng tuyển sinh hiện tại và tương lai của
    nhiều trường đại học để tạo cơ sở đào tạo nguồn lao động chất lượng cao cho đất
    nước.
    Môn Địa lí ở cấp Trung học phổ thông là môn học có nhiều khả năng và cơ
    hội để hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Môn Địa lí
    lớp 12 cung cấp cho các em hệ thống kiến thức về Địa lí tự nhiên và kinh tế – xã
    hội của Việt Nam, trong đó phần Địa lí tự nhiên lớp 12 có nhiều vấn đề về tự
    nhiên, vấn đề về vai trò của các nguồn lực tự nhiên trong phát triển kinh tế, mối
    quan hệ giữa cuộc sống con người và thế giới tự nhiên tạo điều kiện cho các em
    phát triển tư duy lôgic, tư duy theo lãnh thổ, tư duy liên hệ, tổng hợp, vận dụng
    kiến thức đã học… để tìm hiểu, giải thích, đánh giá các mối quan hệ nhân quả
    trong tự nhiên, cũng như giữa thiên nhiên và hoạt động kinh tế của con người, các
    mối liên hệ trong dân cư, xã hội, kinh tế….để giải quyết vấn đề nhất là những vấn
    đề thực tiễn cập nhật, có tính thời sự của đất nước và địa phương.
    Để phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh, trong dạy
    học, cần sử dụng các phương pháp dạy học hợp lí kết hợp tăng cường sử dụng các
    công cụ kiểm tra đánh giá. Trong quá trình dạy học, giáo viên tăng cường tổ chức
    các hoạt động học tập tạo điều kiện cho học sinh được trao đổi, thảo luận, tranh
    luận, thuyết trình về các vấn đề trong học tập và thực tiễn. Việc sử dụng các công
    cụ kiểm tra đánh giá trên cơ sở đánh giá vì học tập và đánh giá là học tập sẽ giúp
    giáo viên phát hiện sự tiến bộ của học sinh, từ đó hỗ trợ, điều chỉnh quá trình dạy
    học, cung cấp cho học sinh các thông tin phản hồi để tiếp tục việc học của mình
    trong các giai đoạn tiếp theo. Đồng thời việc giáo viên tổ chức để học sinh tự đánh
    giá và đánh giá đồng đẳng, coi đó như là một hoạt động học tập để học sinh thấy
    được khả năng học tập, sự tiến bộ của chính mình so với yêu cầu cần đạt của bài
    học, từ đó thiết lập mục tiêu học tập cá nhân và lên kế hoạch học tập tiếp theo.
    Xuất phát từ những lí do trên, với mong muốn phát triển năng lực giải quyết
    vấn đề và tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá trình dạy và học môn Địa lí lớp
    12, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: Phát triển năng lực giải quyết vấn
    đề và sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên Việt Nam lớp


    1. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
    2. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
      Trên cơ sở nền tảng kiến thức địa lí đại cương về tự nhiên và kinh tế – xã hội
      ở chương trình Địa lí lớp 10. Chương trình Địa lí lớp 12 hiện hành cung cấp cho
      các em hệ thống kiến thức về địa lí tự nhiên, địa lí dân cư, địa lí các ngành kinh tế,
      địa lí các vùng kinh tế và tìm hiểu địa lí địa phương. Trong đó phần Địa lí tự nhiên
      gồm các chủ đề dạy học:
      Chủ đề 1: Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ.
      Chủ đề 2: Đặc điểm chung của tự nhiên.
      3
      Chủ đề 3: Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên.
      Trong phần Địa lí tự nhiên Việt Nam, học sinh được tìm hiểu về vị trí địa lí
      và phạm vi lãnh thổ, các đặc điểm chung cơ bản của tự nhiên: đất nước nhiều đồi
      núi; thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển; thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió
      mùa, thiên nhiên phân hoá đa dạng, vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên
      và bảo vệ môi trường. Các chủ đề này làm rõ những đặc điểm cơ bản nhất về vị trí
      địa lí, đặc điểm cơ bản của tự nhiên Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong các
      thành phần tự nhiên, sự phân hoá đa dạng của lãnh thổ cả theo chiều Bắc – Nam,
      Tây – Đông và theo độ cao địa hình, tạo cơ sở hình thành các miền địa lí tự nhiên
      với các đặc trưng lãnh thổ khác nhau, chi phối lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội
      của các vùng miền. Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên được xem như phần kết nối
      giữa con người và thiên nhiên trong khai thác, sử dụng và phát triển lãnh thổ một
      cách hợp lí theo hướng phát triển bền vững. Nhiều vấn đề thực tế về tài nguyên,
      môi trường nổi cộm đã được đề cập đặt ra cho học sinh những suy nghĩ, thái độ,
      hành động tham gia vào thực tế phát triển đất nước.
      Do vậy trong quá trình dạy và học môn Địa lí 12 phần Địa lí tự nhiên, ngoài
      yêu cầu hướng dẫn các em khai thác kiến thức, vận dụng các kĩ năng Địa lí thì một
      nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra là tổ chức các hoạt động học tập, kiểm tra đánh giá
      phải phát huy tính chủ động của người học, tạo điều kiện cho các em tham gia phát
      hiện, đề xuất giải pháp giải quyết các vấn đề, đánh giá giải pháp giải quyết các vấn
      đề trong học tập và đời sống tạo cơ sở cho sự định hướng nghề nghiệp trong tương
      lai của các em.
      Thực tế việc dạy và học Địa lí trong những năm qua đã có nhiều đổi mới tuy
      nhiên vẫn còn nặng về trang bị kiến thức và kĩ năng cho người học. Trong các giờ
      học, giáo viên chủ yếu vẫn là người thuyết trình, diễn giảng, học sinh là người
      nghe, nhớ và ghi chép. Việc tạo ra các tình huống, các vấn đề có tính mở gắn liền
      với thực tế của đất nước và địa phương để học sinh được chủ động tham gia vào
      các hoạt động học tập, được trao đổi, thảo luận, bày tỏ quan điểm của bản thân,
      vận dụng kiến thức, kĩ năng được học để giải quyết vấn đề, tìm kiến các giải pháp
      vẫn còn hạn chế. Việc sử dụng các công cụ đánh giá trong các hoạt động học tập
      để học sinh thấy được khả năng học tập, khả năng nhận thức, giải quyết vấn đề, sự
      tiến bộ học tập vẫn chưa phổ biến. Việc kiểm tra, đánh giá thường tiến hành ở các
      bài kiểm tra đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, mục đích đánh giá kiến
      thức và kĩ năng, thái độ người học. Do vậy việc tổ chức đánh giá chưa tạo ra được
      nhiều bối cảnh, cơ hội, tình huống, nhiệm vụ, …để người học vận dụng kiến thức,
      kĩ năng đã học cùng với các kinh nghiệm của bản thân để giải quyết các tình huống
      trong học tập hoặc trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi môn Địa lí, nội dung
      chương trình rất gần gũi với thực tiễn, thuận lợi để học sinh có thể phát hiện các
      vấn đề trong thực tế cuộc sống, lao động – sản xuất của đất nước và địa phương để
      làm sáng tỏ kiến thức, từ đó thúc đẩy việc nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo các giải
      4
      pháp để bảo vệ tự nhiên, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong phát triển
      kinh tế – xã hội của đất nước cũng như tại địa phương.
      Chương trình môn Địa lí trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
      được xây dựng theo định hướng phát triển năng lực, chú trọng tích hợp và thực
      hành, tích hợp giữa các kiến thức địa lí tự nhiên, địa lí dân cư, xã hội và địa lí kinh
      tế trong môn học; lồng ghép các nội dung liên quan (như giáo dục dân số, giới tính,
      tài chính, môi trường, di sản, an toàn giao thông …) vào nội dung địa lí, vận dụng
      kiến thức các môn học khác (Vật lí, Hoá học, Sinh học, Lịch sử…) trong việc làm
      sáng rõ các kiến thức địa lí; hội tụ kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để xây
      dựng thành các chủ đề có tính tích hợp cao như phát triển kinh tế biển đảo, phát
      triển bền vững, biến đổi khí hậu…Do vậy đặt ra yêu cầu cần phải đa dạng hoá
      phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, các công cụ kiểm tra đánh giá để phát
      triển các năng lực chuyên môn, góp phần vào hình thành các năng lực cốt lõi trong
      đó có năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    3. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
      2.1. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
      2.1.1. Năng lực và đặc điểm năng lực của học sinh.
      a. Khái niệm năng lực.
      Năng lực là một khái niệm trừu tượng, được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau.
      Dưới đây là một số quan niệm khác nhau về năng lực.
      Theo OECD “Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp
      và thực hiện thành công nhiệm vụ trong bối cảnh cụ thể”. Đây là khái niệm mang
      tính bao quát nhất, được dùng để đánh giá năng lực của học sinh trên gần 70 nước
      hiện nay, trong số đó có Việt Nam.
      Trong chương trình giáo dục trung học của bang Quebec (Ca-na-đa) năm
      2004, xác định “Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng
      dựa trên nhiều nguồn lực.
      Theo từ điển tiếng Việt: “Năng lực là khả năng làm tốt công việc”.
      Theo Bernd Meiner – Nguyễn Văn Cường: “Năng lực là khả năng thực hiện
      có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong
      các tình huống thay đổi thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ
      sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sẵn sàng hành động” .
      Theo chương trình GDPT tổng thể sau năm 2018 thì “Năng lực là thuộc tính
      cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn
      luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
      tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại
      hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
      Năng lực của HS là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ năng,
      thái độ… phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào
      thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra
      cho chính các em trong cuộc sống.”
      5
      Như vậy, năng lực là một thuộc tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của
      nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách
      nhiệm. Hai đặc điểm phân biệt cơ bản của năng lực là: (1) tính vận dụng; (2) tính
      chuyển đổi và phát triển. Đó cũng chính là các mục tiêu mà dạy học tích cực
      hướng đến.
      b. Đặc điểm năng lực của học sinh.
    • Năng lực của HS phổ thông không chỉ là khả năng tái hiện tri thức, thông
      hiểu tri thức, kỹ năng học được, … mà quan trọng là khả năng hành động, ứng
      dụng/vận dụng tri thức, kỹ năng học được để giải quyết những vấn đề của cuộc
      sống đang đặt ra với chính các em.
    • Năng lực của HS không chỉ là vốn kiến thức, kỹ năng, thái độ sống phù
      hợp với lứa tuổi mà là sự kết hợp hài hòa của cả 3 yếu tố này thể hiện ở khả năng
      hành động (thực hiện) hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động đạt mục
      đích đề ra (gồm động cơ, ý chí, tự tin, trách nhiệm xã hội…).
    • Năng lực của HS được hình thành, phát triển trong quá trình thực hiện các
      nhiệm vụ học tập ở trong lớp học và ngoài lớp học. Nhà trường được coi là môi
      trường giáo dục chính thống giúp HS hình thành những năng lực chung, năng lực
      chuyên biệt phù hợp với lứa tuổi, song đó không phải là nơi duy nhất. Những môi
      trường khác như: gia đình, cộng đồng … cùng góp phần bổ sung và hoàn thiện các
      năng lực của các em.
      2.1.2. Đánh giá năng lực.
      Đánh giá năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ của người học
      trong một bối cảnh có ý nghĩa. Cụ thể là đánh giá khả năng của học sinh vận dụng
      các kiến thức, kĩ năng đã được học vào giải quyết các tình huống trong học tập
      hoặc trong cuộc sống hàng ngày. Nhằm chứng minh người học có năng lực ở mức
      độ nào thì cần phải tạo ra bối cảnh, cơ hội, tình huống, nhiệm vụ,… để người học
      vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học cùng với các kinh nghiệm của bản thân để giải
      quyết. Thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, có thể đánh
      giá được khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của
      người học.
      Đánh giá năng lực có sự khác biệt so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Đánh
      giá kiến thức, kĩ năng là đánh giá xem xét việc đạt kiến thức kĩ năng của học sinh
      theo mục tiêu của chương trình giáo dục, gắn với nội dung được học trong nhà
      trường và kết quả đánh giá phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập
      đã hoàn thành về đơn vị kiến thức, kĩ năng. Còn đánh giá năng lực là đánh giá khả
      năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã được học vào giải quyết vấn đề trong học tập
      hoặc trong thực tiễn cuộc sống của học sinh và kết quả đánh giá người học phụ
      thuộc vào độ khó của nhiệm vụ và bài tập đã hoàn thành theo các mức độ khác
      nhau. Thang đo trong đánh giá năng lực được xác định theo các mức độ phát triển
      năng lực của người học, chứ không phải có đạt hay không một nội dung đã được
      học.
      6
      Nội dung Đánh giá năng lực
    1. Mục đích chủ yếu nhất – Đánh giá khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ
      năng đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của
      cuộc sống.
    • Vì sự tiến bộ của người học so với chính họ.
    1. Ngữ cảnh đánh giá. – Gắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn cuộc
      sống.
    2. Nội dung đánh giá. – Những kiến thức, kĩ năng, thái độ ở nhiều môn
      học, nhiều hoạt động giáo dục và những trải
      nghiệm của bân thân học trong cuộc sống xã hội
      (tập trung vào năng lực thực hiện).
    3. Công cụ đánh giá. – Nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh
      thực.
    4. Thời điểm đánh giá. – Đánh giá mọi thời điểm của quá trình dạy học,
      chú trọng đến đánh giá trong khi học.
    5. Kết quả đánh giá. – Năng lực người học phụ thuộc vào độ khó của
      nhiệm vụ hoặc bài tập đã hoàn thành.
      2.1.3. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
      a. Năng lực giải quyết vấn đề.
      Vấn đề là gì?
    • Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng
      chưa có quy luật cũng như những tri thức, kĩ năng sẵn có chưa đủ giải quyết mà
      còn khó khăn, cản trở cần vượt qua.
    • Một vấn đề thường được đặc trưng bởi ba thành phần như: Trạng thái xuất
      phát (không mong muốn), trạng thái đích (trạng thái mong muốn), sự cản trở (cần
      vượt qua).
      Có thể thấy vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích
      muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách
      nào, chưa đủ phương tiện để giải quyết. Khi đó tư duy sẽ trở nên cần thiết.
      Giải quyết vấn đề, năng lực giải quyết vấn đề.
      Giải quyết vấn đề là khả năng suy nghĩ và hành động trong những tình
      huống không có quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường có sẵn. Người giải
      quyết vấn đề có thể ít nhiều xác định được mục tiêu hành động, nhưng không phải
      ngay lập tức biết cách làm thế nào để đạt được nó. Sự am hiểu tình huống vấn đề,
      và lý giải dần để đạt mục tiêu đó trên cơ sở việc lập kế hoạch và suy luận tạo thành
      quá trình giải quyết vấn đề.
      Có thể thấy, giải quyết vấn đề là quá trình tư duy phức tạp, bao gồm sự hiểu
      biết, đưa ra luận điểm, suy luận, đánh giá, giao tiếp… để đưa ra một hoặc nhiều giải
      7
      pháp khắc phục khó khăn, thách thức của vấn đề. Trong quá trình giải quyết vấn
      đề, chủ thể thường phải trải qua hai giai đoạn cơ bản: khám phá vấn đề và tổ chức
      nguồn lực của chính mình (tìm hiểu vấn đề; tìm hướng đi, thủ pháp, tiến trình… để
      dần tiến tới một giải pháp cho vấn đề); thực hiện giải pháp (giải quyết các vấn đề
      nhỏ hơn ở từng lĩnh vực/nội dung cụ thể; chuyển đổi ý nghĩa của kết quả thu được
      về bối cảnh thực tiễn); và đánh giá giải pháp vừa thực hiện, hoặc tìm kiếm giải
      pháp khác.
      Năng lực giải quyết vấn đề là năng lực hoạt động trí tuệ của con người trước
      những vấn đề, những tình huống cụ thể, có mục tiêu và có tính định hướng cao đòi
      hỏi phải huy động khả năng tư duy và sáng tạo để tìm ra lời giải của vấn đề.
      Theo tiếp cận tiến trình giải quyết vấn đề và sự chuyển đổi nhận thức của
      chủ thể thì có thể hiểu năng lực giải quyết vấn đề là khả năng của con người nhận
      ra vấn đề cần giải quyết và biết vận dụng những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm
      của bản thân, sẵn sàng hành động để giải quyết tốt vấn đề cần đặt ra.
      Theo lý thuyết thông tin, năng lực giải quyết vấn đề được tiếp cận từ quá
      trình xử lí thông tin, nhấn mạnh tới suy nghĩ của người giải quyết vấn đề hay “hệ
      thống xử lí thông tin”, vấn đề và không gian vấn đề thì năng lực giải quyết vấn đề
      thể hiện khả năng của cá nhân (làm việc độc lập hoặc làm việc nhóm) để tư duy,
      suy nghĩ về tình huống vấn đề và tìm kiếm, thực hiện giải pháp cho vấn đề đó.
      Vì vậy, năng lực giải quyết vấn đề là khả năng cá nhân sử dụng hiệu quả các
      quá trình nhận thức, hành động và thái độ, động cơ, xúc cảm để giải quyết những
      tình huống vấn đề mà ở đó không có sẵn quy trình, thủ tục, giải pháp thông
      thường.
      b. Sáng tạo, năng lực sáng tạo
      Có rất nhiều quan niệm về sáng tạo. Theo từ điển Tiếng Việt thì: Sáng tạo
      nghĩa là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã
      có. Sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi theo những cách khác với thông
      thường.
      Theo tâm lý học thì: Sáng tạo đó là năng lực tạo ra những giải pháp mới
      hoặc duy nhất cho một vấn đề thực tiễn và hữu ích.
      Từ những kết quả nghiên cứu một số nhà tâm lý học đã cho biết: Sáng tạo là
      tiềm năng vốn có của mỗi người, khi gặp dịp thì bộc lộ. Chính vì vậy mà trong quá
      trình dạy học cần tạo cho học sinh có những cơ hội để phát huy năng lực sáng tạo.
      Vậy năng lực sáng tạo là gì?
      Đối với HS: “Năng lực sáng tạo là các khả năng của học sinh hình thành ý
      tưởng mới, đề xuất được các giải pháp mới hay cải tiến cách làm mới một sự vật,
      có các giải pháp khác nhau để giải quyết một vấn đề, sự tò mò, thích đặt các câu
      hỏi để khám phá sự thật xung quanh, năng lực tưởng tượng và tư duy sáng tạo…”
      Trên cơ sở những khái niệm nêu ở trên, theo chúng tôi năng lực giải quyết
      vấn đề và sáng tạo đối với HS Trung học phổ thông có thể hiểu như sau:
      8
      Là khả năng cá nhân giải quyết tình huống có vấn đề mà ở đó không có sẵn
      quy trình, thủ tục, giải pháp thông thường có sẵn, hoặc có thể giải quyết một cách
      thành thạo với những nét độc đáo riêng, theo chiều hướng luôn đổi mới, phù hợp
      với thực tế.
      2.1.4. Nghiên cứu về sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo trong giáo
      dục hiện nay
      Theo Chương trình giáo dục phổ thông mới, nghiên cứu những biểu hiện của
      năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của HS Trung học phổ thông hiện nay được
      thể hiện qua bảng dưới đây:
      Năng lực thành
      phần
      Biểu hiện/Tiêu chí
      Phát hiện và làm rõ
      vấn đề
      Phân tích được tình huống trong học tập, trong thực tiễn,
      phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề.
      Đề xuất, lựa chọn
      giải pháp.
      Thu thập và làm rõ các thông tin có liên quan đến vấn đề,
      đề xuất và phân tích được một số giải pháp giải quyết vấn
      đề; lựa chọn được giải pháp phù hợp nhất.
      Thực hiện và đánh
      giá giải pháp giải
      quyết vấn đề
      Thực hiện và đánh giá giải pháp GQVĐ. Suy ngẫm về cách
      thức và tiến trình GQVĐ để điều chỉnh và vận dụng trong
      bối cảnh mới.
      Nhận ra ý tưởng mới Xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ
      các nguồn thông tin khác nhau. Phân tích các nguồn thông
      tin độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý
      tưởng mới.
      Hình thành và phát
      triển ý tưởng mới
      Nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và thực tiễn;
      Suy nghĩ không theo lối mòn.Tạo ra yếu tố mới dựa trên
      những ý tưởng khác nhau. Hình thành và kết nối các ý
      tưởng. Nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi
      của bối cảnh. Đánh giá rủi ro và có dự phòng.
      Tư duy độc lập Đặt được nhiều câu hỏi có giá trị, không dễ dàng chấp nhận
      thông tin một chiều; Không thành kiến khi xem xét, đánh
      giá vấn đề; Quan tâm tới các lập luận và minh chứng thuyết
      phục; Sẵn sàng xem xét, đánh giá lại vấn đề.
      Để đánh giá năng lực GQVĐ và ST của học sinh THPT hiện nay, ngoài
      phương pháp đánh giá truyền thống như đánh giá chuyên gia (giáo viên đánh giá
      học sinh), đánh giá định kì bằng bài kiểm tra từ giáo viên cần chú ý đến các
      phương pháp đánh giá khác như phương pháp quan sát; phương pháp hỏi – đáp,
      phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập.
      Tuy nhiên tất cả các phương pháp đánh giá trên đều có yêu cầu phải chú
      trọng đánh giá khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống học tập (hoặc
      tình huống thực tế) và chú trọng đánh giá khả năng sáng tạo của học sinh.
      9
      2.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
      2.2.1. Khái niệm.
      Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là chú trọng tổ chức cho học
      sinh hoạt động học. Trong dạy học định hướng phát triển năng lực, HS là chủ thể
      nhận thức, GV có vai trò tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học tập của HS
      theo một tiến trình sư phạm hợp lý sao cho HS tự chủ chiếm lĩnh, xây dựng tri
      thức.
      2.2.2. Bản chất, nguyên tắc, đặc điểm của dạy học theo định hướng phát triển
      năng lực.
      a. Bản chất:
    • Tạo hứng thú nhận thức thông qua việc tổ chức cho HS các hoạt động để
      HS bộc lộ những hiểu biết ban đầu…về cái mới sẽ được học trong bài.
    • Tổ chức cho HS tìm hiểu về cái mới/kiến thức mới thông qua việc sử dụng
      các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để HS chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
    • Yêu cầu HS vận dụng/ứng dụng cái mới học được vào giải quyết các tình
      huống, các vấn đề thực tiễn.
      b. Nguyên tắc.
    • Nội dung dạy học, giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, thiết thực, hiện đại
    • Đảm bảo tính tích cực của người học khi tham gia vào hoạt động học tập.
    • Tăng cường những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS.
    • Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp
    • Tăng cường dạy học, giáo dục phân hóa
    • Kiểm tra, đánh giá theo năng lực là điều kiện tiên quyết trong dạy học phát
      triển phẩm chất, năng lực
      c. Đặc điểm.
    • Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh: Dạy học thông qua tổ chức
      liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp HS tự khám phá những điều chưa biết
      chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp xếp sẵn. Theo tinh thần
      này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến thức có sẵn mà là người tổ chức và chỉ
      đạo HS tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát triển kiến
      thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình
      huống thực tiễn…
    • Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
      Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức phương pháp để biết cách đọc
      sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có,
      biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,… Các phương
      pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương thức hành động, tuy nhiên cũng
      cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dự đoán, giả định. Cần rèn luyện cho
      HS các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đánh giá… để dần hình thành và
      phát triển tiềm năng sáng tạo của HS.
    • Tăng cường học tập cá nhân với học tập hợp tác.
      10
      Tăng cường phối hợp học tập cá nhân với học tập hợp tác theo phương châm
      “tạo điều kiện cho HS nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”.
      Điều đó có nghĩa, mỗi HS vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác chặt
      chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học
      trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và
      kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập
      chung.
    • Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
      Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến
      trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng
      phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức
      như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể
      phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
      2.3. Phát triển năng lực dạy học và sáng tạo trong dạy học chủ đề Địa lí tự
      nhiên lớp 12
      2.3.1. Cấu trúc nội dung chủ đề Địa lí tự nhiên Việt Nam
      Chủ đề Nội dung
      Địa lí
      tự
      nhiên
      Nội dung 1: Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ
    • Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ.
    • Ý nghĩa của vị trí địa lí Việt Nam
      Nội dung 2: Đặc điểm chung của tự nhiên.
    • Đất nước nhiều đồi núi: Đặc điểm chung của địa hình, các khu vực địa
      hình.
    • Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển: Khái quảt về biển Đông,
      ảnh hưởng của biển Đông đến thiên nhiên Việt Nam.
    • Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa: Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, các
      thành phần tự nhiên khác.
    • Thiên nhiên phân hoá đa dạng: Thiên nhiên phân hoá theo Bắc – Nam,
      theo
      Đông – Tây, theo độ cao. Các miền địa lí tự nhiên.
      Nội dung 3: Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên.
    • Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên rừng, tài nguyên
      đất và các tài nguyên khác.
    • Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai: Bảo vệ môi trường, một số
      thiên tai chủ yếu và biện pháp phòng chống.
      2.3.2. Mục tiêu dạy học chủ đề Địa lí tự nhiên lớp 12
      2.3.2.1. Mục tiêu chương trình Địa lí 12 hiện hành:
      a. Về kiến thức
    • Trình bày vị trí địa lí, giới hạn, phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
      11
    • Phân tích được ảnh hưởng của vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ đối với tự
      nhiên, kinh – xã hội và quốc phòng.
    • Phân tích các thành phần tự nhiên để thấy được các đặc điểm cơ bản của tự
      nhiên Việt Nam.
    • Đất nước nhiều đồi núi: Đặc điểm chung của địa hình, các khu vực địa
      hình.
    • Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển: Khái quát về biển Đông,
      ảnh hưởng của biển Đông đối với thiên nhiên Việt Nam.
    • Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa: Nguyên nhân, biểu hiện của tính chất
      nhiệt đới ẩm gió mùa thể hiện qua các thành phần tự nhiên (khí hậu, địa hình, sông
      ngòi, đất, sinh vật).
    • Thiên nhiên phân hoá đa dạng: Nguyên nhân, biểu hiện sự phân hoá thiên
      nhiên theo Bắc – Nam, theo đông – tây và theo độ cao địa hình.
    • Phân tích và giải thích được đặc điểm cảnh quan ba miền tự nhiên nước ta:
      Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, miền Nam Trung
      Bộ và Nam Bộ (phạm vi, đặc điểm cơ bản về tự nhiên).
      -Trình bày được một số tác động tiêu cực do thiên nhiên gây ra: Bão, ngập
      lụt, lũ quét, hạn hán, động đất (nơi thường xảy ra, nguyên nhân, hậu quả, biện pháp
      phòng chống).
    • Biết được sự suy thoái tài nguyên rừng và đất; một số nguyên nhân và biện
      pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường.
      b. Về kĩ năng.
    • Xác định được vị trí địa lí Việt Nam trên bản đồ Đông Nam Á và thế giới.
    • Sử dụng các bản đồ Tự nhiên, khí hậu, đất, thực động vật Việt Nam (hoặc
      Atlat Địa lí Việt Nam) để trình bày các đặc điểm nổi bật về địa hình, khí hậu, sông
      ngòi, đất đai, thực động vật và nhận xét mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng,
      trình bày đặc điểm của ba miền tự nhiên (về địa hình, k

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Xây dựng bộ tư liệu tranh biếm họa để giảng dạy chuyên đề Địa lí 10 Bộ sách Cánh Diều theo mô hình lớp học đảo ngược

    SKKN Xây dựng bộ tư liệu tranh biếm họa để giảng dạy chuyên đề Địa lí 10 Bộ sách Cánh Diều theo mô hình lớp học đảo ngược

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ền tảng văn hoá vững chắc và
    năng lực thích ứng cao với sự thay đổi của Thế giới. Đổi mới giáo dục đã trở
    thành xu thế mang tính toàn cầu.
    Trong chiến lƣợc đổi mới toàn diện ngành giáo dục, đổi mới phƣơng pháp
    dạy học cóý nghĩa quyết định. Các phƣơng pháp dạy học tích cực đƣợc áp dụng
    ngày càng nhiều và đều có mục tiêu là phát huy năng lực nhận thức, độc lập,
    sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề của ngƣời học. Dạy học theo mô hình
    lớp học đảo ngƣợc – Flipped classroom là một trong những phƣơng pháp dạy học
    tích cực, hiện đại và đáp ứng đƣợc các yêu cầu nêu trên. Thay vì giảng bài nhƣ
    thông lệ, giáo viên (GV) lại là ngƣời hƣớng dẫn; ngƣời học thay vì tiếp thu kiến
    thức một cách thụ động từ GV, sẽ phải tự tiếp cận kiến thức ở nhà, tự mình trải
    nghiệm, khám phá, tìm tòi các thông tin liên quan về bài học. Mô hình này giúp
    học sinh (HS) phát huy và rèn luyện năng lực tự học, tính chủ động của chính
    bản thân mà không còn thụ động trong quá trình khám phá tri thức.
    Trong quá trình giảng dạy theo mô hình lớp học đảo ngƣợc (LHĐN), việc
    sử dụng các loại bản đồ, tranh ảnh, đặc biệt là tranh biếm họa (TBH) đƣợc đánh
    giá là một công cụ quan trọng và có hiệu quả để đổi mới phƣơng pháp dạy học.
    Khi những hiểu biết mà bản đồ mang đến chỉ dừng lại ở những đƣờng biên giới,
    những địa danh và những sự vật Địa lí khô khan thì tranh ảnh lại chuyên chở
    một giá trị đặc biệt mang tính trực quan và tạo hứng thú rất lớn cho HS. Chính
    vì thế, việc thu thập nguồn TBH phong phú trên mạng internet và các nguồn
    sách báo, tạp chí để xây dựng thành một bộ tƣ liệu tranh, phục vụ cho quá trình
    3
    dạy học Địa lí nói chung, dạy học chuyên đề Địa lí 10 nói riêng, có một ý nghĩa
    rất lớn. Nó sẽ tạo ra một cái nhìn mới mẻ và khác biệt cho các vấn đề Địa lí
    tƣởng nhƣ khô khan, trừu tƣợng. Bộ tƣ liệu TBH cùng với các video bài giảng E

    • learning cũng góp vào kho học liệu số nhƣ một nguồn tƣ liệu hữu ích, cùng với
      sách điện tử, bài kiểm tra dƣới dạng tệp tin, các bài phát biểu, chƣơng trình
      truyền hình, cho đến các loại hình ảnh, đồ họa thông tin, video, phim ảnh, hay
      các trang web chia sẻ tài nguyên…khác để GV và HS có thể tham khảo, tra cứu.
      Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã có sáng kiến “ Xây dựng bộ tư
      liệu tranh biếm họa để giảng dạy chuyên đề Địa lí 10 (bộ sách Cánh Diều) theo
      mô hình lớp học đảo ngược”
      PHẦN II: MÔ TẢ GIẢI PHÁP
      I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
      Chúng ta đang sống ở những thập niên đầu của thế kỉ XXI, trong những
      thập kỉ qua, nền giáo dục của thế giới đã có những bƣớc chuyển biến mạnh mẽ
      cả về hình thức, nội dung, từ cách tổ chức quản lí trƣờng học cho đến phƣơng
      pháp giảng dạy của mỗi thầy cô giáo. Tuy giống nhau về mục tiêu nhƣng trình
      độ và sự phát triển về giáo dục của mỗi quốc gia có nhiều điểm khác biệt.
      Tại Việt Nam, công cuộc cải cách giáo dục hiện nay đang đƣợc tiến hành
      khá mạnh mẽ, quyết liệt. Một trong những mục tiêu của cải cách giáo dục là
      chuyển từ mô hình “lớp học truyền thống” sang mô hình “hiện đại”. Tuy nhiên,
      mô hình lớp học truyền thống vẫn đang đƣợc áp dụng chủ yếu ở tất cả các cấp
      học. Đó là mô hình lớp học với bảng đen phấn trắng, GV chuẩn bị kế hoạch bài
      dạy trƣớc khi lên lớp. Trong 45 phút học trên lớp, GV chủ yếu truyền thụ kiến
      thức, HS lĩnh hội tri thức thông qua việc học tại lớp và làm bài tập ở nhà. Mô
      hình này có nhiều ƣu điểm nhƣ: HS có thể nắm bắt đƣợc kiến thức cơ bản ngay
      trên lớp học, vấn đề gì chƣa hiểu HS có thể trao đổi trực tiếp với GV và với bạn
      bè. GV có thể nắm đƣợc lực học của từng HS để có những phƣơng pháp dạy học
      phù hợp với từng đối tƣợng HS. Trong thời lƣợng 1 tiết học, việc giao tiếp trực
      4
      tiếp giữa HS với HS, HS với GV sẽ góp phần hình thành năng lực và phẩm chất
      chủ yếu của HS. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ nhiều hạn chế:
    • Trên lớp, GV chủ yếu truyền đạt kiến thức mới, HS tiếp thu kiến thức
      một cách thụ động. Theo thang tƣ duy của Bloom (Benjamin Bloom, một giáo
      sƣ của trƣờng Đại học Chicago), thì nhiệm vụ này chỉ ở bậc nhận thức thấp (tức
      là “Biết” và “Hiểu”), thuộc “Low thinking”. Còn khi về nhà, HS lại phải làm
      những bài tập vận dụng – những nhiệm vụ thuộc bậc nhận thức cao của thang tƣ
      duy (bao gồm “Ứng dụng”, “Phân tích”, “Tổng hợp” và “Đánh giá”). Điều trở
      ngại ở đây là những nhiệm vụ bậc cao lại do HS và phụ huynh – là những ngƣời
      không có chuyên môn đảm nhận.
    • Mỗi bài học trên lớp đều có thời gian nhất định. GV phải dùng phần lớn
      thời gian trên lớp để giúp HS nắm đƣợc kiến thức, kỹ năng mới, sau đó HS làm
      bài tập về nhà để củng cố, hoàn thiện tri thức đã tiếp nhận trên lớp. Nhiều khi
      HS không có thời gian để kịp hiểu bài, giờ học sau đã phải chuyển sang bài học
      mới. Việc học nhƣ vậy lâu dần, khiến HS cảm thấy chán nản, không kích thích
      đƣợc tính chủ động, sáng tạo và hứng thú học tập của HS.
    • Việc kiểm tra đánh giá chủ yếu làm trên giấy, hạn chế rất nhiều khả
      năng tranh biện, sáng tạo của HS…
      Nhƣ vậy, mô hình lớp học truyền thống tuy có nhiều ƣu điểm nhƣng cũng
      bộc lộ không ít hạn chế. Thực tế tại trƣờng THPT Lƣơng Thế Vinh, mô hình này
      vẫn là mô hình dạy học chủ yếu.
      Tuy nhiên, hiện nay, ngành giáo dục đang có những thay đổi căn bản và
      toàn diện. Nhiều phƣơng pháp dạy học tích cực đã và đang đƣợc áp dụng linh
      hoạt. Đặc biệt trong hai năm học 2019-2020, 2020-2021, do dịch bệnh Covid 19
      diễn biến phức tạp, ngành giáo dục đứng trƣớc thách thức lớn, phải chuyển từ
      dạy học trực tiếp sang dạy học trực tuyến. Các trƣờng trung học phổ thông đã
      thích ứng để duy trì dạy và học linh hoạt, vừa đảm bảo phòng, chống dịch, vừa
      cung cấp kiến thức cho HS trong thời gian học trực tiếp tại trƣờng và trực tuyến
      tại nhà. Việc giảng dạy cùng lúc hai hình thức “online-offline” cũng là thách
      5
      thức với các thầy cô giáo để đảm bảo chất lƣợng giảng dạy. Trƣớc tình hình đó,
      mô hình dạy học LHĐN đã đƣợc áp dụng và bƣớc đầu đã mang lại những hiệu
      quả nhất định. Đến năm học 2022-2023, dịch bệnh Covid 19 cơ bản đã đƣợc
      khống chế, GV và HS đã đƣợc trở lại trƣờng dạy và học trực tiếp. Tuy nhiên,
      các hình thức và phƣơng pháp dạy học mới kết hợp với mô hình LHĐN vẫn cần
      đƣợc phát huy để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
      A. ĐẶT VẤN ĐỀ
      Trong những năm gần đây, dạy học Địa lí đã có những chuyển biến tích
      cực. Nhiều phƣơng pháp dạy học mới đã đƣợc áp dụng nhằm phát huy tính tích
      cực, chủ động và sáng tạo của HS trong quá trình học tập. Công nghệ thông tin,
      học liệu số và thiết bị công nghệ đã đƣợc đƣa vào trong dạy học, giáo dục ngày
      càng phổ biến nhằm hỗ trợ việc dạy, học và đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá
      HS trong môi trƣờng số hóa…
      Trong các phƣơng pháp dạy học tích cực, việc sử dụng tranh ảnh đƣợc
      đánh giá là một công cụ quan trọng và có hiệu quả để đổi mới phƣơng pháp dạy
      học. Các loại tranh ảnh rất phong phú, trong đó có một thể loại tranh có mức độ
      thể hiện rất sâu sắc, đó là tranh biếm họa. Ở các quốc gia phát triển nhƣ Anh,
      Đức, Hoa Kỳ, Pháp, Australia…TBH đã sớm đƣợc đƣa vào trƣờng học và trở
      thành một công cụ dạy học quan trọng hàng đầu để hình thành kiến thức, phát
      triển kĩ năng. Ở nƣớc ta, việc sử dụng TBH chƣa đƣợc ứng dụng và phổ biến
      rộng rãi trong quá trình dạy học.
      Thực tế dạy học Địa lí cho thấy nhiều vấn đề tự nhiên, kinh tế xã hội phức
      tạp không đƣợc phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc trong SGK với bản đồ và
      tranh ảnh thông thƣờng, thì chúng lại đƣợc thể hiện rõ nét trong TBH vì TBH
      thực sự là tấm gƣơng đầy màu sắc phản ánh các hiện tƣợng Địa lí về mặt tự
      nhiên và kinh tế – xã hội một cách mới mẻ. Với sức mạnh biểu đạt riêng biệt của
      mình, TBH còn có khả năng phản ánh những vấn đề dƣờng nhƣ rất rộng lớn,
      6
      phức tạp trên quy mô toàn cầu, liên lục địa hay đa quốc gia cũng nhƣ có khả
      năng tác động đến thái độ và hành vi của ngƣời học.
      Bên cạnh đó, để phát huy tính tích cực, chủ động học tập của HS, mở rộng
      hình thức học tập với sự linh hoạt về thời gian, không gian, sự phong phú, hấp
      dẫn trong những học liệu đa phƣơng tiện, mô hình LHĐN là một cách thức hữu
      hiệu để đƣa TBH vào giảng dạy Địa lí hiệu quả, nhất là Địa lí 10 nói chung và
      chuyên đề Địa lí 10 nói riêng trong chƣơng trình GDPT 2018. Đây là môn học
      trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về khoa học Địa lí, kiến thức Địa lí tự
      nhiên, kinh tế xã hội đại cƣơng, cũng nhƣ vận dụng những kiến thức đó vào
      cuộc sống để biết cách ứng xử với môi trƣờng tự nhiên và xã hội xung quanh,
      đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nƣớc trong thời đại mới. Tuy
      nhiên, chƣơng trình Địa lí 10 có khá nhiều những khái niệm trừu tƣợng, các khái
      niệm đó nếu đƣợc đƣa vào bài giảng bằng các hình ảnh trực quan, sinh động,
      mang tính châm biếm với hình thức học tập “ đảo ngược ” sẽ kích thích đƣợc sự
      hứng thú và yêu thích môn học của HS. HS sẽ làm chủ quá trình nhận thức của
      mình, từ đó giúp các em phát triển các phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu của
      chƣơng trình GDPT 2018.
      B.TÍNH MỚI, TÍNH KHÁC BIỆT CỦA SÁNG KIẾN
      Để đƣa tranh biếm họa vào giảng dạy theo mô hình lớp học đảo ngƣợc, tác giả
      đã xác định một số nội dung chủ yếu của sáng kiến nhƣ sau:
    • Tranh biếm họa là gì?
    • Khái niệm về tranh biếm họa
    • Phân loại tranh biếm họa
    • Lợi ích của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Địa lí
    • Nguyên tắc lựa chọn tranh biếm họa
    • Mô hình lớp học đảo ngƣợc:
    • Khái niệm về lớp học đảo ngƣợc
    • So sánh mô hình lớp học truyền thống và lớp học đảo ngƣợc
    • Những ƣu điểm của lớp học đảo ngƣợc
      7
    • Ứng dụng mô hình lớp học đảo ngƣợc trong việc giảng Địa lí 10 tại trƣờng
      THPT Lƣơng Thế Vinh
    • Xây dựng bộ tƣ liệu tranh biếm họa để giảng dạy chuyên đề Địa lí 10 theo
      mô hình lớp học đảo ngƣợc:
    • Xác định rõ những nội dung có thể sử dụng tranh biếm họa trong chuyên
      đề Địa lí 10 ( Bộ sách Cánh Diều)
    • Chủ động thu thập tƣ liệu tranh biếm họa để giảng dạy chuyên đề Địa lí 10
    • Một số công cụ hỗ trợ dạy học theo mô hình lớp học đảo ngƣợc
    • Kết hợp một số phƣơng pháp dạy học tích cực trong mô hình lớp học đảo
      ngƣợc
    • Quy trình dạy học theo mô hình lớp học đảo ngƣợc
    • Bảng tổng hợp bộ tƣ liệu tranh biếm họa để giảng dạy chuyên đề Địa lí 10
      (sách Cánh Diều) theo mô hình lớp học đảo ngƣợc.
    • Kế hoạch bài dạy minh họa: sử dụng TBH vào giảng dạy chuyên đề “Biến
      đổi khí hậu” theo mô hình LHĐN.
    • Bài giảng E-lerning minh họa sử dụng TBH vào giảng dạy chuyên đề “Biến
      đổi khí hậu” theo mô hình LHĐN.
      C. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƢỢNG ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
    1. Phạm vi :
      Năm học 2020 – 2021, 2021 – 2022, chúng tôi đã sử dụng tranh biếm họa
      để giảng dạy vào khối lớp 10 (chƣơng trình Địa lí THPT 2006) theo mô hình
      LHĐN và đã thu đƣợc những hiệu quả tích cực. Năm học 2022 – 2023, sách
      giáo khoa Địa lí 10 theo chƣơng trình GDPT 2018 đƣợc áp dụng ở khối lớp 10,
      trên cơ sở những kinh nghiệm đã có, chúng tôi đã xây dựng bộ tƣ liệu TBH để
      áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy chuyên đề Địa lí 10 bộ sách Cánh Diều.
    2. Đối tƣợng áp dụng
    • Học sinh các lớp 10 của trƣờng .
      8
    • Sáng kiến này cùng với bộ tƣ liệu tranh biếm họa và bài giảng E –
      learning có thể góp một phần vào nguồn học liệu số thêm phong phú, làm tài
      liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
      D. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC ÁP DỤNG
      SÁNG KIẾN VÀO GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ ĐỊA LÍ LỚP 10
      (SÁCH CÁNH DIỀU)
    1. Những thuận lợi:
    • Ban giám hiệu nhà trƣờng cùng các tổ, nhóm chuyên môn trong trƣờng
      quan tâm đến việc dạy – học của GV và HS, quan tâm đến việc đổi mới thƣờng
      xuyên hình thức và phƣơng pháp dạy – học.
    • 100% GV của trƣờng đạt chuẩn và trên chuẩn về đào tạo. Việc sử dụng
      công nghệ thông tin ngày càng đƣợc chú trọng, nên phần lớn GV đã biết ứng
      dụng công nghệ thông tin để khai thác nguồn học liệu số phong phú phục vụ quá
      trình giảng dạy tại trƣờng.
    • Cơ sở vật chất của trƣờng khá tốt, với đầy đủ máy tính, máy chiếu có kết
      nối internet, các phòng chức năng… thuận lợi cho việc dạy và học theo mô hình
      LHĐN
    • Đa số HS tích cực, chủ động, tự giác trong việc học tập và rèn luyện.
    • Bản thân chúng tôi luôn chủ động, tích cực trong việc giảng dạy và đổi
      mới phƣơng pháp dạy học, chủ động xây dựng các sáng kiến dựa vào kinh
      nghiệm của mình.
    1. Những khó khăn:
    • Nhận thức của một bộ phận GV, phụ huynh, HS về tổ chức LHĐN còn
      chƣa đồng đều.
    • Thời gian để GV và HS tổ chức LHĐN không nhiều do môn Địa lí 10
      chƣơng trình GDPT 2018 trung bình chỉ có 2 tiết/ tuần, chuyên đề Địa lí 10 có
      tổng 35 tiết/ cả năm nên để có thể tổ chức đƣợc LHĐN đòi hỏi cả GV và HS
      phải có sự chuẩn bị thật kỹ trƣớc khi lên lớp mới có đủ thời gian để hoàn thành
      bài học.
      9
    • Việc tổ chức LHĐN đòi hỏi phải có các phƣơng tiện dạy – học hiện đại
      nhƣ máy tính, điện thoại thông minh có kết nối Internet. Trong khi đó, nhiều HS
      hoàn cảnh gia đình còn khó khăn nên chƣa thể trang bị đầy đủ các phƣơng tiện
      đó, nhiều em phải lên trƣờng hoặc nhờ bạn bè để xem video bài giảng hoặc bài
      tập GV giao trƣớc khi lên lớp. Bên cạnh đó đƣờng truyền Internet không ổn định
      cũng ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng dạy – học của GV và HS
      E. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN:
    1. Tranh biếm họa là gì?
      1.1. Khái niệm tranh biếm họa:
      Thuật ngữ “tranh biếm họa” có gốc la-tinh là“Carrus” và trong tiếng Ý
      “caricare” nghĩa là “cường điệu“. Lần đầu tiên thuật ngữ này xuất hiện trong
      các bức tranh của họa sĩ ngƣời Ý Carracci từ những năm cuối thế kỷ XVI . Ở
      Đức, thuật ngữ “karikatur” có nghĩa là “tranh biếm họa” xuất hiện muộn và mãi
      sau mới đƣợc sử dụng rộng rãi vào giữa thế kỷ XIX. Theo từ điển tiếng Đức
      “tranh biếm họa” gồm hai lớp nghĩa: thứ nhất là “những bức tranh hài hước,
      phóng đại hoặc tương tự về một người, một vật hay sự kiện này thông qua sự hài
      hước hoặc nhấn mạnh châm biếm bằng cách chú trọng vào một số tính chất, đặc
      trưng để chế giễu”. Lớp nghĩa thứ hai ở cấp độ mạnh hơn nghĩa là “nhạo báng”.
      Ở Việt Nam, TBH đƣợc quan niệm “là một loại hình nghệ thuật có chính
      kiến rõ ràng dùng ngôn ngữ tạo hình đặc biệt vạch ra, biểu đạt một cách cường
      điệu, khuếch đại được các mâu thuẫn nội tại đối với các quan hệ chính trị, xã
      hội, giá trị đạo đức… trong sự hình thành và phát triển xã hội loài người”. Phần
      lớn TBH gắn liền với các sự kiện thời sự, chính trị, xã hội nóng quan trọng. Sức
      nặng của một bức TBH hay có giá trị hơn nhiều các bài bình luận, các bài diễn
      văn dài lê thê. Cho nên TBH đã từng đƣợc coi là “vũ khí sắc bén” trong nhiều
      lĩnh vực.
      (Nguồn: https://hoangthinga.wordpress.com/)
      Hiện nay TBH đã có mặt trong các ấn phẩm báo chí nhƣ Tuổi trẻ cười,
      Học trò cười, báo Sài Gòn Giải phóng có chuyên mục Biếm họa; báo Quân đội
      10
      nhân dân Cuối tuần duy trì chuyên mục Câu lạc bộ Chiến sĩ… Những tác
      phẩm biếm họa đã tạo đƣợc chỗ đứng và khẳng định giá trị, sức mạnh riêng có
      của nó trong truyền thông. Trong lĩnh vực giáo dục, TBH đang là một khía cạnh
      cần đƣợc khai thác có tác dụng truyền tải kiến thức trực quan, khắc sâu kiến
      thức, tạo nên nét chấm phá sinh động cho mỗi bài học.
      1.2. Phân loại tranh biếm họa
      Theo Dietrich Grünewald, ông chia TBH theo ba tiêu chí sau:
      – Xét trên tiêu chí lĩnh vực có: TBH về chính trị; TBH về kinh tế; TBH về
      quân sự; TBH về văn hóa…
      – Xét theo cách trình bày có hai loại: TBH hình ảnh và TBH có cả hình
      ảnh lẫn lời dẫn.
      – Xét theo mức độ thể hiện có bốn loại: TBH vắn tắt; TBH kỳ cục – khó
      hiểu; TBH tự nhiên và TBH sống động.
      Theo Wolfgang Marienfeld, TBH có thể đƣợc chia thành các loại nhƣ sau:
      – Theo cấu trúc thì có 3 loại: TBH về sự vật, sự việc; TBH một nhóm
      ngƣời, một tổ chức, quốc gia… và TBH cá nhân cụ thể .
      – Theo nội dung thì TBH đƣợc chia nhƣ sau: TBH về một sự kiện lịch sử,
      TBH về quá trình lịch sử và TBH về trạng thái .
      (Nguồn: https://hoangthinga.wordpress.com/)
      1.3. Lợi ích của việc sử dụng TBH trong dạy học Địa lí
      Bản thân TBH cũng là một loại kênh hình vì vậy nó có tính trực quan cao.
      Bên cạnh đó, TBH lại có yếu tố cƣờng điệu, sự hài hƣớc, lạ lẫm thu hút học sinh
      mà tranh minh họa đơn thuần không có đƣợc. Vì vậy, với TBH học sinh không
      đơn thuần chỉ quan sát tranh và liên hệ đến nội dung kiến thức mà còn phải lý
      giải, phân tích, giải thích, đánh giá những nội dung kiến thức đƣợc “cường điệu”
      trong tranh. Mặt khác, TBH cũng không “nặng nề”, không khô khan nhƣ bản
      đồ, lƣợc đồ. Mặc dù ít nhiều TBH mang tính chủ quan của tác giả nhƣng nó
      cũng có có ý nghĩa sƣ phạm to lớn, đặc biệt trong việc dạy học Địa lí trên cả ba
      mặt: kiến thức, thái độ và kỹ năng.
      11
      Về mặt kiến thức, HS khi xem xét một bức TBH, muốn hiểu đƣợc những
      biểu hiện trong đó nói lên điều gì, buộc HS phải đặt nó trong tổng thể kiến thức.
      Bên cạnh việc phải phân tích, HS phải thiết lập các mối liên hệ, các giả thuyết
      giữa hình ảnh và nội dung bài học để phán đoán và kết luận. Nhƣ vậy, khi sử
      dụng TBH, HS đƣợc tái hiện một lần nữa những kiến thức liên quan đến hình
      ảnh và qua quá trình suy luận, kiến thức dễ khắc sâu hơn rất nhiều so với việc sử
      dụng các kênh hình thông thƣờng.
      Ví dụ: Khi học chuyên đề Biến đổi khí hậu ( SGK chuyên đề Địa lí 10 –
      Cánh diều), nếu HS đƣợc xem hình ảnh thì chắc chắn các em tự đặt ra những
      câu hỏi suy luận và tìm cách giải thích: Băng tan và ngập lụt là do nguyên nhân
      nào? Hậu quả của nó là gì?
      Nguồn: https://dantri.com.vn/van-hoa/hoa-si-biem-hoa-viet-nam
      Về mặt thái độ, TBH mang đến sự hấp dẫn và cuốn hút HS bởi chính đặc
      thù của TBH. HS dễ bị lôi cuốn vào yếu tố hài hƣớc, trào phúng hay sự thể hiện
      biếm họa độc đáo trong bức tranh. HS từ chỗ tò mò, hiếu kỳ về những yếu tố đặc
      biệt trong tranh, đi đến muốn tìm hiểu nội dung ẩn giấu trong bức tranh đó là gì?
      Có một số TBH, khi mới nhìn HS có thể bật cƣời vì sự trào phúng của nó,
      nhƣng sau tiếng cƣời sảng khoái đó, các em sẽ phân tích, tổng hợp kiến thức,
      liên hệ để giải thích sự ẩn dụ trong đó. Sau cùng HS sẽ bày tỏ đƣợc quan điểm
      và thái độ của mình đồng tình hay phản đối với vấn đề đƣợc đề cập.
      12
      Về kỹ năng, việc sử dụng thích hợp các TBH đã thúc đẩy HS không thể
      làm việc đơn giản thông qua việc phân tích văn bản (kênh chữ) hay nghe giảng
      một cách đơn thuần mà nó đòi hỏi tổng hợp các kỹ năng: phân tích hình ảnh, đọc
      văn bản, liên hệ kênh chữ và kênh hình, phán đoán, liên hệ, suy xét và kết luận.
      Các nhà giáo dục học gọi chung quá trình phân tích một bức TBH là “sự giải
      mã”, bởi bức TBH càng đơn giản thì nó lại là sự mã hóa nội dung bằng hình ảnh
      ở mức cao nhất . Khi giải mã bức tranh, tức là HS đƣợc lần lƣợt thực hiện các kỹ
      năng nói trên, và khi lặp lại nhiều lần, các kỹ năng của HS sẽ trở nên thành thục.
      Mặt khác, tƣ duy độc lập, sáng tạo của HS đƣợc phát triển trong việc đánh giá
      TBH. Các hình ảnh mang yếu tố trực quan đánh thức tƣ duy, đƣa HS đi từ biết
      đến hiểu sâu sắc kiến thức.
      Với những thế mạnh của TBH thiết nghĩ việc đƣa TBH vào SGK và các
      chuyên đề Địa lí là thực sự cần thiết, nhƣ một luồng gió mới làm phong phú
      thêm các thiết bị dạy học và học liệu truyền thống.
      1.4. Nguyên tắc lựa chọn tranh biếm họa
      1.4.1. Cần đảm bảo phù hợp với nội dung bài học. Lựa chọn TBH phù
      hợp với mục tiêu của từng hoạt động.
      Ví dụ: Khi dạy chuyên đề “ Biến đổi khí hậu” hoạt động : “Tìm hiểu biểu
      hiện của biến đổi khí hậu”
    • Mục tiêu hoạt động: Trình bày đƣợc biểu hiện của biến đổi khí hậu.
    • Sản phẩm: Biểu hiện của biến đổi khí hậu
    • Nhiệt độ Trái Đất tăng
    • Lƣợng mƣa thay đổi
    • Nƣớc biển dâng
    • Gia tăng các hiện tƣợng thời tiết cực đoan
    • Tổ chức thực hiện:
      Bước 1: GV tổ chức trò chơi: Đặt tên cho tranh. GV đƣa ra 4 bức tranh
      13

    Hình 1: Nguồn//http://songngoc.com/ Hình 2: Nguồn: https://psa.vn

    Hình 3: Nguồn: https://dantri.com.vn Hình 4: Nguồn: https://images.app.goo.gl
    Bước 2: Hs trao đổi, thảo luận, phân tích

    • Hình 1: Trái Đất đang ốm và cần đƣợc chăm sóc vì nhiệt độ quá cao. Hình
      ảnh cho thấy nhiệt độ Trái Đất tăng
    • Hình 2: Trái Đất ở hai thái cực, nơi thì mƣa nhiều, nơi thì hạn hán, chứng tỏ
      lƣợng mƣa phân bố không đều và có sự khác biệt ở các địa điểm trên Trái Đất
    • Hình 3: Hai tảng băng đang nói chuyện với nhau, tảng băng lớn hỏi tảng
      băng bé sao gầy thế? Hình ảnh muốn nói về hiện tƣợng băng tan ở hai cực, nƣớc
      biển dâng
    • Hình 4: Thời tiết quá nóng, một bắp ngô đã không còn hình dạng nhƣ ban
      đầu vì không đƣợc che chắn. Cho thấy thời tiết nắng nóng cực đoan
      Bước 3: Đặt tên cho tranh
      Hình 1: Trái Đất ốm rồi
      14
      Hình 2: Kẻ ăn không hết, ngƣời lần chẳng ra
      Hình 3: Giảm cân bất đắc dĩ
      Hình 4: Hot: nhan sắc tàn phai
      Bước 4: GV: kết luận, chuẩn xác kiến thức về những biểu hiện của biến đổi
      khí hậu
      1.4.2. Cần đảm bảo tính vừa sức. Vì TBH có yếu tố cƣờng điệu, phóng
      đại và có cả sự khó hiểu nên khi lựa chọn cần chú ý đến đối tƣợng HS. Sử dụng
      một bức TBH quá phức tạp có thể đƣa đến sự kích thích tìm hiểu, nhƣng có thể
      là một “gánh nặng” khi nó quá sức HS, từ đó dẫn đến việc không đạt mục tiêu
      dạy học dự kiến cho nội dung đó. Đồng thời cũng không nên sử dụng quá ba
      TBH cho một nội dung kiến thức hoặc quá năm tranh trong một tiết học.
      Hình 5: Nguồn:https://dantri.com.vn/ Hình 6: Nguồn: https://vneconomy.vn
      Ví dụ: Khi dạy về chuyên đề “ Biến đổi khí hậu”, phần tác động và hậu
      quả của biến đổi khí hậu, thay vì sử dụng hình 5 khiến HS khó hình dung, GV
      nên sử dụng hình 6, HS sẽ thấy ngay đƣợc tình trạng hạn hán, thiếu nƣớc cho
      sinh hoạt và sản xuất
      1.4.3. Cần đảm bảo được độ tin cậy. Độ tin cậy của TBH thể hiện tính
      chân thực của nhân vật, sự kiện, hiện tƣợng đƣợc phản ánh trong tranh, giúp HS
      có đánh giá thấu đáo. TBH thƣờng phản ánh thực tế cuộc sống nên nếu nguồn
      tranh đƣợc sử dụng không đáng tin cậy sẽ tạo nên những thông tin sai lệch cho
      ngƣời học. TBH thƣờng mang tính chủ quan của ngƣời vẽ, nên khi sử dụng
      tranh vào bài học, GV cần tìm hiểu dụng ý của ngƣời vẽ, trích dẫn rõ nguồn
      trang, giúp HS tiếp cận tranh không chỉ trên lớp mà cả bên ngoài lớp học.
      15
      1.4.4. Cần đảm bảo nguyên tắc hài hòa với các loại kênh hình khác
      nhƣ: tranh, ảnh, bản đồ, lƣợc đồ, sơ đồ, bảng thống kê. TBH có thế mạnh lớn
      trong việc hấp dẫn, cuốn hút học sinh, có thể sử dụng trong tất cả các khâu của
      quá trình dạy học nhƣ khởi động, hình thành kiến thức mới hay củng cố. Tuy
      nhiên nó chỉ có thể phản ánh một khía cạnh nhất định của bài học, do đó sử dụng
      TBH cần kết hợp với các kênh hình khác để đạt đƣợc hiệu quả tối đa.
      Ví dụ: khi dạy chuyên đề “ Biến đổi khí hậu” hoạt động: Tìm hiểu nguyên
      nhân của biến đổi khí hậu. GV sử dụng hình 6 thì HS sẽ chỉ thấy đƣợc một số
      nguyên nhân gây biến đổi khí hậu đó là hoạt động công nghiệp, giao thông vận
      tải, còn các hoạt động phát thải khí nhà kính khác nhƣ năng lƣợng, nông nghiệp,
      công trình xây dựng và nhà ở, chất thải thì HS vẫn cần phải nghiên cứu dựa vào
      bảng kiến thức và biểu đồ trong SGK. Nên trong trƣờng hợp này, hình 7 đƣợc sử
      dụng nhƣ một ví dụ minh họa cho một trong những nguyên nhân của biến đổi
      khí hậu là phù hợp.
      Hình 7: Nguồn: https://cuoi.tuoitre.vn/
    1. Mô hình lớp học đảo ngƣợc:
      2.1. Khái niệm về mô hình lớp học đảo ngược:
      Lớp học lật ngƣợc hay lớp học đảo ngƣợc là một chiến lƣợc hƣớng dẫn
      học tập, và là một kiểu học tập kết hợp đảo ngƣợc môi trƣờng học tập truyền
      thống bằng cách cung cấp nội dung hƣớng dẫn học tập, thƣờng là trực tuyến, cho
      HS học tập ngoài giờ học trên lớp. Nó di chuyển các hoạt động, bao gồm cả
      16
      những hoạt động có thể đƣợc coi là làm bài tập về nhà, vào trong lớp học (trong
      giờ học). Trong một LHĐN, HS xem các bài giảng trực tuyến, hợp tác trong các
      cuộc thảo luận trực tuyến hoặc thực hiện nghiên cứu tại nhà, còn tại lớp HS đào
      sâu và vận dụng kiến thức với sự hƣớng dẫn của GV. “Lớp học đảo ngược là một
      mô hình truyền đạt trong đó các yếu tố bài giảng điển hình và bài tập về nhà
      được đảo ngược cho nhau. Học sinh (ví dụ như ở nhà) xem các bài giảng video
      ngắn trước buổi học. Trong khi đó, thời gian trên lớp dành cho các bài tập, đồ
      án, HS hỏi sâu hơn về nội dung bài giảng đã xem và tham gia vào các hoạt động
      thực hành, đồng thời GV kiểm tra khả năng áp dụng kiến thức của học sinh.”
      (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/)
      Mô hình LHĐN đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết về học tập tích
      cực (active learning). Đây là cách tiếp cận trong dạy học theo hƣớng để ngƣời học
      chủ động khám phá, tiếp cận kiến thức thông qua quá trình tƣơng tác. Phƣơng
      thức dạy học này tạo ra môi trƣờng khuyến khích tính tự chủ trong học tập cho
      ngƣời học vì họ có thể tìm hiểu trƣớc các kiến thức cần thiết chuẩn bị cho các bài
      học cũng nhƣ có thể tìm tòi trƣớc các vấn đề liên quan thay vì chờ đợi sự truyền
      đạt kiến thức của GV trên lớp. Thực hiện mô hình LHĐN sẽ góp phần rèn luyện
      tính tự học, phát triển nhận thức cho HS.
      Trong mô hình giảng dạy truyền thống trong lớp học, GV thƣờng là trọng
      tâm chính của một bài học và là ngƣời phổ biến chính thông tin trong suốt thời
      gian học. LHĐN chuyển sự hƣớng dẫn học tập sang mô hình lấy HS làm trung
      tâm, trong đó thời gian lên lớp đƣợc sử dụng để khám phá sâu hơn các chủ đề và
      tạo ra cơ hội học tập có ý nghĩa.
      2.2. So sánh mô hình lớp học đảo ngược với mô hình lớp học truyền
      thống
      Trong quá trình giảng dạy môn Địa lí ở lớp học truyền thống, GV thƣờng
      phải dành phần lớn thời gian trên lớp để giúp HS nắm đƣợc những kiến thức, kỹ
      năng mới, sau đó HS làm bài tập, thực hành tại lớp, giao bài tập về nhà để củng
      cố, hoàn thiện tri thức đã tiếp nhận đƣợc. GV cũng chƣa có điều kiện để ứng
      17
      dụng nhiều công nghệ thông tin trong giảng dạy, GV chủ yếu sử dụng atlat, bản
      đồ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, ít có điều kiện để sƣu tầm và sử dụng các
      nguồn tranh ảnh khác, nhất là tranh biếm họa phục vụ bài giảng. Vì vậy, lớp học
      truyền thống chƣa thực sự tạo cho HS tính chủ động, tích cực và có nhiều hứng
      thú trong học tập.
      Hiện nay, cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ. Vì
      vậy, việc dạy học kết hợp sử dụng phƣơng tiện dạy học nhƣ tranh ảnh, bản đồ,
      kết hợp với công nghệ thông tin nhằm thúc đẩy quá trình học tập bên ngoài lớp
      học là một xu thế đã và đang ngày càng phổ biến trong giáo dục trên thế giới.
      Tranh ảnh, đặc biệt là TBH, với sức mạnh riêng của nó, nếu đƣợc sử dụng
      thƣờng xuyên, kết hợp với mô hình LHĐN, sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ cách
      dạy và học của HS và GV các trƣờng THPT

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Xây dựng một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học phần Địa lý tự nhiên lớp 10 ở trường THPT

    SKKN Xây dựng một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong dạy học phần Địa lý tự nhiên lớp 10 ở trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong những năm gần đây, nền giáo dục của nước ta đang có bước chuyển
    mình mạnh mẽ với những đổi mới trong nội dung giảng dạy, phương pháp giảng
    dạy và hình thức kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
    phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đáp ứng yêu cầu hội
    nhập khu vực và quốc tế.
    Nghị quyết 29 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI cũng nêu rõ mục tiêu
    tổng quát của đổi mới giáo dục là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất
    lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng,
    bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam
    phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
    nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
    Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có
    cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm
    các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội
    hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội
    chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt
    trình độ tiên tiến trong khu vực….
    Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
    phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
    nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
    dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
    năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự
    học, khuyến khích học tập suốt đời”. Như vậy, giáo dục phổ thông nước ta đang
    chuyển từ chương trình định hướng nội dung sang tiếp cận năng lực của người
    học. Để đạt được mục đích này, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển
    từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận
    dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
    2
    Đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra
    trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, chú
    trọng kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động kịp thời nhằm
    nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Theo tinh thần ấy, các yếu tố của quá
    trình giáo dục trong trường phổ thông cần được đổi mới tất cả các mặt: nội dung
    dạy học, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá. Để thực hiện được các quan
    điểm hiện đại trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng
    phát triển phẩm chất, năng lực cần có các công cụ đánh giá hợp lý, hiện đại. Trước
    đây việc đánh giá học sinh chủ yếu dựa trên đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức
    và đánh giá một chiều giáo viên với học sinh. Công cụ đánh giá đơn điệu chủ yếu
    bằng hệ thống câu hỏi đóng, các đề kiểm tra, hồ sơ học tập của học sinh (vở ghi,
    bài tập, bài thực hành…).
    Vì vậy để đáp ứng được yêu cầu mới thì cần có những đổi mới, những đột
    phá trong việc thiết kế tiến trình dạy học của giáo viên. Việc đổi mới phương pháp
    dạy học đã được triển khai từ lâu và đã đạt được những hiệu quả nhất định trong
    việc thay đổi không khí giờ học, thay đổi ý thức người học và khả năng tiếp thu
    kiến thức. Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa hiệu quả của mỗi giờ học cũng như thực
    hiện được quan điểm hiện đại về kiểm tra đánh giá, tôi nghĩ cần có sự thay đổi
    trong việc thiết kế và sử dụng các công cụ đánh giá.
    Công cụ đánh giá trong môn Địa lí nói riêng và các môn học nói riêng rất đa
    dạng bao gồm:

    • Câu hỏi – bài tập – Thang đo
    • Bảng kiểm – Hồ sơ học tập
    • Phiếu đánh giá theo tiêu chí – Đề kiểm tra
    • Sổ ghi chép các sự kiện thường nhật
      Đánh giá cần chú trọng đến đánh giá quá trình để phát hiện kịp thời sự tiến
      bộ của học sinh và vì sự tiến bộ của học sinh từ đó điều chỉnh kịp thời hoạt động
      dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học. Thay vì chỉ giáo viên đánh giá học
      sinh thì học sinh có thể tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Vì vậy việc thiết kế
      các công cụ đánh giá hiện đại là rất quan trọng. Bản thân tôi là một giáo viên sau
      3
      khi được tham gia vào lớp tập huấn nội dung mô đun 3: “Kiểm tra, đánh giá học
      sinh THPT theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực”, tôi đã rất tâm huyết
      với nội dung xây dựng công cụ kiểm tra, đánh giá. Tôi nghĩ đây là một nội dung có
      nhiều cái mới và nhiều giáo viên có thể chưa hiểu hết được các công cụ cũng như
      việc sử dụng các công cụ này như thế nào cho hợp lý. Vì vậy trong năm học 2021
      – 2022, tôi đã nghiên cứu các tài liệu liên quan, học hỏi đồng nghiệp trong và
      ngoài trường để có thể hiểu rõ về các công cụ đánh giá, đồng thời xây dựng một số
      công cụ mới phục vụ cho việc giảng dạy, quan trọng hơn là để chuẩn bị cho
      chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ áp dụng cho năm học 2022- 2023 đối với
      lớp 10. Chương trình địa lí lớp 10 gồm 2 phần: địa lí tự nhiên và địa lý kinh tế – xã
      hội tuy nhiên trong nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh cảm thấy khó khăn
      hơn trong việc học địa lí tự nhiên do kiến thức trừu tượng và khó hiểu. Vì vậy
      trong phạm vi sáng kiến này tôi muốn xây dựng một số công cụ đánh giá được áp
      dụng vào các bài học của phần địa lí tự nhiên nhằm giúp các em học tốt hơn nội
      dung này và qua đó cũng đánh giá được phần nào năng lực được hình thành cho
      các em sau mỗi bài học. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tôi quyết định thực
      hiện sáng kiến : “Xây dựng một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm
      chất, năng lực học sinh trong dạy học phần địa lí tự nhiên lớp 10 ở trường THPT”
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
      Địa lí là một bộ môn khoa học đặc biệt bởi nó vừa mang tính khoa học tự
      nhiên, vừa mang tính khoa học xã hội. Mục tiêu của môn địa lí trong nhà trường
      phổ thông hiện nay không chỉ cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức khoa học địa
      lí mà còn hướng đến việc hình thành và phát triển những năng lực cần thiết cho
      các em. Những năng lực này giúp học sinh giải quyết các tình huống trong cuộc
      sống và nghề nghiệp, tăng cường giúp đỡ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để cùng
      phát triển, hội nhập. Tuy nhiên để hình thành được phẩm chất, năng lực cho học
      sinh không thể nhanh chóng trong một thời gian ngắn, do đó cần có các công cụ
      kiểm tra, đánh giá thường xuyên, liên tục để giúp học sinh hình thành và khắc sâu
      năng lực một cách hiệu quả.
      4
      Thực trạng hiện nay cho thấy các giáo viên trung học phổ thông nói chung
      về cơ bản đã hiểu được tầm quan trọng của kiểm tra, đánh giá trong dạy học và sự
      cần thiết phải đổi mới các công cụ đánh giá theo hướng phát triển năng lực, phẩm
      chất người học. Tuy nhiên ở góc độ thực hành, nhiều giáo viên vẫn chưa thực sự
      đánh giá thường xuyên người học, chưa chú trọng đến xây dựng kế hoạch đánh giá
      và sử dụng các công cụ đánh giá hiện đại. Mặc dù nhận thức được xu hướng đổi
      mới trong kiểm tra, đánh giá nhưng giáo viên vẫn chủ yếu đánh giá học sinh theo
      hướng cũ, bộc lộ nhiều hạn chế, chưa phát triển được hết phẩm chất và năng lực
      người học.
      Bản thân tôi trong những năm học trước, tôi tự nhận thấy việc kiểm tra,
      đánh giá kết quả học tập của học sinh còn nhiều hạn chế. Mục đích của kiểm tra,
      đánh giá vẫn chỉ tập trung vào đánh giá kết quả học tập của học sinh, xếp loại học
      sinh, cho điểm nhưng không phản hồi (hoặc có chữa bài, nhưng “áp đặt” cách giải
      đúng của giáo viên mà bỏ qua khâu phân tích sai sót/lỗi cho người học). Các công
      cụ đánh giá vẫn chưa được sử dụng phong phú: ví dụ khi đánh giá tôi hay đặt ra
      các câu hỏi đóng và bài tập cơ bản yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức trong sách
      giáo khoa, thỉnh thoảng đưa ra một số câu hỏi mở lấy thông tin, ý kiến học sinh.
      Bài tập thực tiễn và bài tập vận dụng rất ít. Công cụ tiếp theo là sử dụng hồ sơ học
      tập của học sinh, tôi thường kiểm tra vở ghi của học sinh để theo dõi việc ghi chép
      và đánh giá ý thức của học sinh trong mỗi giờ học, từ đó nhắc nhở các em ghi chép
      cẩn thận và đầy đủ hơn. Khi đánh giá định kỳ, tôi sử dụng công cụ phổ biến là các
      đề kiểm tra tự luận hoặc trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn ngoài ra cũng
      chưa sử dụng công cụ nào khác. Như vậy các công cụ mới như bảng kiểm, phiếu
      đánh giá theo tiêu chí, thang đo chưa được sử dụng phổ biến để đánh giá học sinh.
      Và tôi nghĩ việc sử dụng các công cụ truyền thống để đánh giá học sinh vẫn còn
      phổ biến trong các nhà trường THPT hiện nay.
      Vậy tại sao phần lớn giáo viên vẫn thường sử dụng các công cụ truyền thống
      trong đánh giá học sinh? Theo tôi nghĩ là vì nó không mất nhiều thời gian chuẩn
      bị, không khó khăn trong việc xây dựng, biên soạn và đánh giá kết quả người học.
      Tuy nhiên đứng trước yêu cầu phải đổi mới để đáp ứng được mục tiêu của
      chương trình giáo dục phổ thông mới thì bản thân mỗi chúng ta cần có sự đổi mới.
      Đổi mới từ cái nhỏ nhất đó chính là những công cụ đánh giá trong mỗi bài học để
      học sinh có hứng thú hơn khi tiếp nhận kiến thức, học sinh hiểu rõ mình cần phải
      làm gì sau mỗi bài học để tiến bộ hơn và học sinh được khách quan trong việc
      đánh giá bản thân mình và đánh giá bạn bè của mình. Hướng đánh giá được đa
      5
      chiều hơn không chỉ là giáo viên đánh giá học sinh mà học sinh có thể đánh giá lẫn
      nhau, học sinh tự đánh giá bản thân mình.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
      2.1. Lý luận chung về công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất,
      năng lực học sinh trong dạy học môn địa lí ở trường THPT.
      Công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh trong
      dạy học môn địa lí ở trường THPT rất đa dạng, gồm 7 loại công cụ:
      Hình 1: Các công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất,
      năng lực học sinh
      Trong phạm vi nghiên cứu của sáng kiến, tôi đặc biệt dành nhiều thời gian tìm
      hiểu về các công cụ tôi sử dụng phổ biến và có hiệu quả trong dạy học là: câu hỏi
      và bài tập, bảng kiểm và phiếu đánh giá theo tiêu chí (rubric) vì vậy tôi xin phép
      được trình bày cụ thể về ba loại công cụ này.
      2.1.1. Câu hỏi và bài tập
      Câu hỏi và bài tập là công cụ đánh giá mà trong đó học sinh trả lời câu hỏi
      (vấn đáp) hoặc viết câu trả lời (kiểm tra viết). Các bằng chứng thu thập được từ
      câu hỏi có thể giúp giáo viên phát hiện những quan niệm sai lầm của học sinh và
      sự phân hóa trình độ trong nhóm học sinh,… Loại công cụ này rất đa dạng có thể là
      câu hỏi bằng hình thức trắc nghiệm, câu hỏi tự luận, vấn đáp, viết báo cáo, vẽ
      tranh, viết bài luận,… Nhưng phổ biến nhất là câu hỏi tự luận và câu hỏi trắc
      nghiệm. Trong chỉ đạo dạy học và kiểm tra, đánh giá hiện nay, Bộ Giáo dục và
      6
      Đào tạo đang hướng dẫn thực hiện theo bốn mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận
      dụng và vận dụng cao. Theo tài liệu hướng dẫn bồi dưỡng giáo viên phổ thông cốt
      cán – Mô đun 3, câu hỏi và bài tập có 4 loại, tuỳ thuộc vào kế hoạch và mục đích
      dạy học mà có thể áp dụng các dạng câu hỏi và bài tập phù hợp.
      Hình 2: Sơ đồ các loại câu hỏi và bài tập
      2.1.1.1. Câu hỏi vấn đáp
      Sử dụng câu hỏi vấn đáp trong đánh giá kết học tập của học sinh là cách thức
      giáo viên đặt câu hỏi, học sinh trả lời hoặc ngược lại. Đây là phương pháp đặc
      trưng và phổ biến nhất trong dạy học nhằm thu nhận những thông tin chính thức và
      không chính thức về việc học của học sinh. Thông qua đó, người học nhận thức
      được nhu cầu học tập của bản thân và con đường để cải thiện, giáo viên kịp thời
      điều chỉnh việc hoạt động dạy học để đạt mục đích của yêu cầu bài học đặt ra, có
      điều kiện quan tâm trực tiếp tới từng học sinh, nhất là các đối tượng đặc biệt. Để
      có câu hỏi hiệu quả trong dạy học Địa lí ở nhà trường phổ thông, giáo viên cần chú
      ý tới một số vấn đề như:
    • Câu hỏi rõ ràng và súc tích để học sinh hiểu được chủ đích của câu hỏi.
    • Câu hỏi phải phù hợp nội dung bài học và với trình độ học sinh.
    • Câu hỏi phải khuyến khích học sinh trả lời, câu hỏi phải giúp học sinh huy động
      7
      kiến thức và kinh nghiệm đã có và kích thích tư duy sáng tạo.
    • Hạn chế câu hỏi yêu cầu học sinh thuộc lòng.
    • Tăng cường sử dụng câu hỏi mở, câu hỏi thực tiễn.
    • Câu hỏi phải tạo ra sự thu hút cả lớp và cho học sinh đủ thời gian chuẩn bị trả lời.
    • Giáo viên cần ứng đáp thích hợp với những câu trả lời của học sinh.
      Bảng 1: Những chú ý khi đặt câu hỏi
      Trong những chú ý này, để góp phần phát triển phẩm chất, năng lực cho
      người học, giúp người học tư duy nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, thảo luận nhiều
      hơn thì giáo viên cần tăng cường sử dụng câu hỏi mở, câu hỏi thực tiễn.
      Câu hỏi mở là câu hỏi có nhiều đáp án và khuyến khích học sinh suy nghĩ
      chứ không chỉ khôi phục thông tin trong trí nhớ. Câu hỏi mở giúp giáo viên thăm
      dò, lấy ý kiến của học sinh, giúp giáo viên biết được rõ hơn mức độ hiểu bài của
      học sinh. Câu hỏi mở đòi hỏi học sinh tư duy nhiều, khuyến khích học sinh tham
      gia, thảo luận. Câu hỏi mở thường được dùng trong phần giới thiệu bài, phát triển
      bài.
      Sau đây là một số kiểu vấn đáp gợi mở thường dùng trong dạy học Địa lí
      như:
    • Kiểu câu hỏi mở lấy thông tin là kiểu câu hỏi giúp học sinh có cái nhìn tổng
      quan hoặc đưa ra những băn khoăn về tình huống hiện tại.
    • Kiểu câu hỏi mở hỏi ý kiến là loại câu hỏi dùng để học sinh đưa ra ý kiến, suy
      nghĩ, tranh luận của mình về một sự kiện, chủ đề nào đó.
    • Kiểu câu hỏi mở giả định là loại câu hỏi giúp học sinh suy nghĩ vượt ra khỏi
      khuôn khổ của tình huống hiện tại.
    • Kiểu câu hỏi mở hành động là kiểu câu hỏi giúp cho học sinh đưa ra các giải
      pháp, các ý tưởng,… để sử dụng hiệu quả tài nguyên, phát triển bền vững, thích
      ứng với môi trường địa lí, thích ứng với sự thay đổi của tự nhiên, của xã hội cũng
      như các xu hướng phát triển kinh tế, các vấn đề đặt ra đối với bản thân, gia đình,
      cộng đồng, quốc gia, khu vực và thế giới.
      2.1.1.2. Câu hỏi trắc nghiệm khách quan
      Câu hỏi trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học
      tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Gọi là khách quan
      vì cách cho điểm (đánh giá) hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm. Dạng câu
      hỏi này có nhiều dạng câu hỏi: đúng – sai, điền khuyết, ghép đôi, đa lựa
      chọn,…Trong đó, dạng câu hỏi đa lựa chọn (nhiều lựa chọn) được sử dụng nhiều
      nhất trong đánh giá kết quả học tập của học sinh.
      8
    • Dạng câu hỏi đúng – sai: Là dạng câu hỏi đưa ra các phát biểu để học sinh
      đánh giá đúng hay sai hoặc để trả lời có hoặc không. Loại câu hỏi này thích hợp để
      học sinh nhớ lại một khối lượng kiến thức đáng kể trong một thời gian ngắn. Do
      đó, câu dẫn của loại câu hỏi này phải rất rõ ràng để học sinh có thể trả lời dứt
      khoát có hoặc không, đúng hoặc sai.
    • Dạng câu hỏi điền khuyết (điền vào chỗ trống): Là dạng câu hỏi đòi hỏi
      học sinh trình bày sự hiểu biết bằng cách viết một từ, một cụm từ hay một đoạn
      văn khoảng 4, 5 dòng. Phương pháp này thích hợp cho những học sinh gặp khó
      khăn về vốn từ. Khi thiết kế dạng câu hỏi này, giáo viên phải chú ý tới một số kĩ
      thuật như: từ cần điền phải là các từ khóa thể hiện nội dung, bản chất của sự vật,
      hiện tượng địa lí, đánh số thứ tự các ô trống cần điền, dự kiến các phương án học
      sinh sinh có thể điền (nhất là các từ đồng nghĩa).
    • Dạng câu hỏi ghép đôi: Ở dạng này thường có hai dãy thông tin, một bên là
      các câu dẫn và bên kia là các câu đáp, học sinh phải tìm ra các cặp tương ứng.
      Thường sử dụng dạng câu hỏi này để đánh giá học sinh về khả năng nhận biết sự
      khác biệt về đặc điểm của các đối tượng địa lí.
    • Dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn: Là dạng câu hỏi
      bao gồm một câu hỏi và các phương án trả lời. Trong các phương án trả lời, có một
      phương án đúng hoặc đúng nhất, các phương án còn lại là phương án sai/ phương
      án nhiễu. Dạng câu hỏi này có hai phần, phần dẫn và phương án trả lời.
      2.1.1.3. Câu hỏi tự luận
      Câu hỏi tự luận là dạng câu hỏi cho phép học sinh tự do thể hiện quan điểm
      khi trình bày câu trả lời cho một chủ đề hay một nhiệm vụ và đòi hỏi học sinh phải
      tích hợp kiến thức kĩ năng đã học, kinh nghiệm của bản thân, khả năng phân tích,
      lập luận, đánh giá,… và kĩ năng viết. Dạng câu hỏi này có nhiều ưu điểm trong việc
      đánh giá các năng lực tư duy bậc cao trong dạy học địa lí như: đánh giá thuận lợi
      và khó khăn của đối tượng địa lí, lí giải về sự tồn tại và phát triển của đối tượng
      địa lí, đưa ra quan điểm hoặc ý kiến cá nhân về xu hướng phát triển của đối tượng
      địa lí,… Kiểu câu hỏi tự luận thường có hai dạng: tự luận trả lời ngắn và tự luận
      trả lời dài.
      Như vậy, câu tự luận không có cấu trúc: là những câu hỏi cho phép học sinh
      tự do xác định nội dung, cấu trúc và phạm vi câu trả lời về một chủ đề cụ thể,
      trong khoảng thời gian nhất định, học sinh tự quyết định thực tế nào là thích hợp
      và làm thế nào để tổ chức, tổng hợp, đánh giá chúng. Câu hỏi này thích hợp với
      những mục tiêu kỹ năng, bao gồm cả khái niệm, tổ chức, phân tích và đánh giá.
      Câu hỏi tự luận có những ưu – nhược điểm sau:
      9
      Ưu điểm Nhược điểm
    • Là cách thức chủ yếu để đánh giá khả
      năng tổ chức, diễn tả và bảo vệ quan
      điểm của học sinh.
    • Có thể đánh giá các kỹ năng nhận
      thức, ở tất cả mức, bao gồm cả kỹ năng
      cao và kỹ năng ra quyết định.
    • Cũng có thể sử dụng để đo các kỹ
      năng phi nhận thức, ví dụ thái độ, giao
      tiếp,…
    • Tạo cơ hội để học sinh sắp xếp các ý
      tưởng để chứng tỏ khả năng tư duy và
      sáng tạo của bản thân.
    • Có thể sử dụng cả đánh giá định kỳ
      và đánh giá thường xuyên.
    • Chiếm nhiều thời gian để trả lời và
      chấm điểm; khó đạt sự khách quan khi
      chấm.
    • Chỉ kiểm tra một số lượng kiến thức
      giới hạn và chú trọng đến khả năng viết.
      Đồng thời nhiều khi câu trả lời vượt
      ngoài phạm vi khóa học, môn học.
    • Quá trình phản hồi diễn ra chậm, hầu
      như không kịp thời với tiến trình học
      tập.
      Bảng 2: Ưu điểm và nhược điểm của câu tự luận
      2.1.1.4. Bài tập thực tiễn
      Đối tượng của môn Địa lí có tính không gian, tính thời gian và có mối quan
      hệ với các sự vật hiện tượng khác, là các sự vật hiện tượng đang tồn tại và xảy ra
      ngay trong môi trường xung quanh học sinh. Do vậy, việc sử dụng các tình huống
      thực tiễn của môi trường xung quanh để tạo ra các tình huống có vấn đề, các bối
      cảnh là một trong những giải pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đổi
      mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực cho người học. Kiểu
      câu hỏi và bài tập đánh giá này, giúp cho giáo viên đánh giá được khả năng vận
      dụng kiến thức, kĩ năng,… đã học vào giải quyết vấn đề. Bài tập thực tiễn đều là
      các câu hỏi dựa trên các tình huống của đời sống thực, nhiều tình huống được lựa
      chọn không phải chỉ để học sinh thực hiện các thao tác về tư duy, mà còn để học
      sinh ý thức về các vấn đề xã hội, vấn đề toàn cầu.
      Dạng thức của câu hỏi phong phú, không chỉ bao gồm các câu hỏi lựa chọn
      đáp án mà còn yêu cầu học sinh tự xây dựng nên đáp án của mình. Các tình huống,
      ngữ cảnh trong bài tập thực tiễn trong dạy học Địa lí rất đa dạng, vì môn Địa lí có
      tính tích hợp và liên môn rất cao. Do đó, học sinh dễ dàng bộc lộ tư duy và quan
      điểm cá nhân, năng lực của bản thân khi giải các bài tập đó.
      Cấu trúc của kiểu bài này gồm 2 phần: Phần dẫn và phần câu hỏi.
      10
    • Phần dẫn: là phần mở đầu, phần để dẫn mô tả tình huống thực tiễn hoặc
      giả tình huống thực tiễn nhưng phải hợp lí. Các tình huống đó có thể là kênh chữ
      hoặc kênh hình được lấy từ thực tiễn sách, báo, tạp chí,,… hoặc tác giả tự viết,
      nguồn trích dẫn phải rõ ràng.
    • Phần câu hỏi: bao gồm nhiều kiểu câu hỏi được sử dụng:
    • Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn kiểu đơn giản, câu hỏi Đúng/
      Sai phức hợp, câu hỏi Có/ Không.
    • Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn.
    • Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài.
    • Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời.
    • Câu hỏi yêu cầu vẽ đồ thị, biểu đồ.
    • Câu hỏi yêu cầu học sinh dùng lập luận để thể hiện việc đồng tình hay bác bỏ
      một nhận định,…
      Các dạng câu hỏi và bài tập rất đa dạng, loại công cụ này được giáo viên sử
      dụng thường xuyên để đánh giá thường xuyên hay đánh giá định kỳ học sinh. Tuy
      nhiên cần áp dụng các dạng câu hỏi và bài tập cho linh hoạt và hợp lí nhằm khơi
      gợi sự hứng thú và sáng tạo trong quá trình tiếp thu kiến thức, phát triển phẩm chất
      và năng lực của học sinh
      2.1.2. Bảng kiểm
      Bảng kiểm là một trong những công cụ đánh giá có hiệu quả trong việc đánh
      giá theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Bảng kiểm là những yêu
      cầu cần đánh giá thông qua trả lời câu hỏi có hoặc không. Công cụ đánh giá này
      mang lại nhiều lợi ích trong việc đánh giá kĩ năng thực hành địa lí cho học sinh với
      các hành động cụ thể. Loại công cụ này cũng có thể sử dụng để đánh giá sản phẩm
      học tập của học sinh với các yêu cầu cụ thể mà một sản phẩm cần có.
      Lợi ích của việc sử dụng bảng kiểm trong đánh giá kết quả học tập của học sinh
    • Tạo thuận lợi cho việc ghi lại các bằng chứng về sự tiến bộ của học sinh trong
      một mục tiêu học tập nhất định.
    • Người học có thể tự đánh giá mức độ đạt được và chưa đạt được của mình và
      của bạn so với yêu cầu đặt ra.
      Thông qua đó, người học có thể tự điều chỉnh hoặc bổ sung những thao tác,
      kĩ năng, nội dung còn thiếu và hạn chế của mình. Do vậy, đây là loại công cụ có
      hiệu quả trong việc đánh giá sự tiến bộ của người học và đánh giá năng lực tìm hiểu
      địa lí. Bảng kiểm thường được xây dựng nhằm đánh giá sản phẩm học tập của học
      11
      sinh như: làm bài thực hành, vẽ biểu đồ, nhận xét, xử lý bảng số liệu…Khi
      xây dựng bảng kiểm cần chú ý những điều sau:
      Bảng 3: Những lưu ý khi xây dựng bảng kiểm
      2.1.3. Phiếu đánh giá theo tiêu chí (Rubric)
      Phiếu đánh giá theo tiêu chí là một tập hợp các tiêu chí được cụ thể hóa
      bằng các chỉ báo, chỉ số, các biểu hiện hành vi có thể quan sát, đo đếm được. Các
      tiêu chí này thể hiện mức độ đạt được của mục tiêu học tập và được sử dụng để
      đánh giá và thông báo về sản phẩm, năng lực thực hiện hoặc quá trình thực hiện
      nhiệm vụ của người học. Dạng công cụ này thường dùng để đánh giá sản phẩm
      học tập của học sinh, giúp học sinh có thể tự đánh giá sản phẩm học tập của mình
      và đánh giá sản phẩm của người khác.
      Loại công cụ này, mang lại lợi ích cho cả giáo viên và học sinh khi triển
      khai hoạt động đánh giá. Cụ thể như:
    • Đối với giáo viên:
    • Cụ thể hóa các tiêu chí quan trọng để người giáo viên tập trung vào những nội
      dung quan trọng;
    • Cụ thể hóa các tiêu chí để giáo viên có trọng tâm khi đánh giá người học;
    • Tăng tính nhất quán trong đánh giá;
    • Hạn chế tranh cãi khi đánh giá vì sự chủ quan của người đánh giá được giảm
      bớt nhờ các tiêu chí và cấp độ cho điểm rõ ràng;
    • Mang lại cho cả giáo viên và phụ huynh thông tin đầy đủ vể sự thể hiện năng lực
      của người học.
    • Đối với học sinh:
    • Làm rõ sự mong đợi của người dạy đối với hoạt động của người học;
    • Chỉ rõ những điểm quan trọng của một quy trình hay sản phẩm;
    • Giúp người học giám sát và tự nhận xét sản phẩm học tập của mình;
    • Mang lại cho người học thông tin đầy đủ về sự thể hiện năng lực của người học;
    • Mang lại thông tin đánh giá rõ ràng hơn cách đánh giá truyền thống bằng điểm
      số.
      Khi thiết kế phiếu đánh giá theo tiêu chí cần chú ý những vấn đề sau:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT