dàn âm thanh hội trường, âm thanh lớp học, âm thanh phòng họp, loa trợ giảng

SKKN Vai trò của hiệu trưởng trong việc đổi mới nhà trường tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới

SKKN Vai trò của hiệu trưởng trong việc đổi mới nhà trường tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

VAI TRÒ CỦA HIỆU TRƯỞNG TRONG VIỆC ĐỔI MỚI NHÀ TRƯỜNG TIẾP CẬN
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
Đổi mới giáo dục trở thành nhu cầu cấp thiết có tính toàn cầu, để trang bị
cho thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc, năng lực thích ứng cao trước mọi
biến động của thiên nhiên và xã hội. Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Quốc hội ban hành NQ 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về đổi mới
chương trình sách giáo khoa phổ thông góp phần đổi mới căn bản, toàn diện Giáo
dục, Đào tạo. Ngày 27/3/2015 Thủ tướng Chính phủ Ban hành Quyết định 404 phê
duyệt đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông. Thực hiện Nghị quyết
của Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã tổ chức xây dựng Ban hành chương trình giáo dục phổ thông 2018 để nâng
cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ đáp ứng những đòi hỏi của thực tế và bắt nhập
xu thế chung của nhân loại.
Việc giáo dục toàn diện cho học sinh thế hệ mới – chủ nhân tương lai của nền
khoa học công nghệ hiện đại càng có vị trí quan trọng trong mục tiêu giáo dục:
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất học sinh, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội. Giáo dục gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công
nghệ, phù hợp với quy luật khách quan, chú trọng chất lượng và hiệu quả; Đổi mới
giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, chuẩn hóa, hiện đại hóa Giáo dục và Đào tạo;
Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa Giáo dục và Đào tạo; Chủ động hội nhập quốc
tế để phát triển Giáo dục và Đào tạo, đồng thời giáo dục phải đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc Tiểu học là bậc nền tảng, nó có ý
nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành nhân cách con người cũng là bậc
học nền tảng nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt
nền móng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng
lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và
những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt. Để đạt được mục tiêu
trên đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội
dung chương trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được về tâm sinh lý của trẻ,
về nhu cầu và khả năng của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một
cách linh hoạt phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng
học sinh. Là một cán bộ quản lý, tôi nhận thức bản thân giữ vị trí đặc biệt quan
trọng trong nhà trường, việc thực hiện thành công chương trình và sách giáo khoa
3
mới phụ thuộc vào sự quản lý hiệu quả của hiệu trưởng, đặc biệt nhiệm vụ chỉ đạo
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo định hướng phát triển năng lực, phẩm
chất. Hiện nay nhiệm vụ chung của toàn ngành là tiếp tục chỉ đạo việc quản lý, tổ
chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và định hướng phát triển năng lực học
sinh; Điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh Tiểu
học; Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát
triển năng lực; Căn cứ chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình lồng ghép giáo
dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh; Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong
học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích không gây áp lực cho học sinh; Tạo
điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình kiến thức, kỹ năng
môn học, các hoạt động giáo dục và phát triển năng khiếu. Trong quá trình thực
hiện đổi mới, vẫn còn không ít giáo viên bị ảnh hưởng nặng nề bởi phương pháp
dạy học truyền thống mà không hiểu rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tức là
dùng phương pháp dạy học mới một cách hợp lý để tạo cho người học lòng say mê
học tập, ham hiểu biết, óc tò mò để có khả năng và phương pháp tự học, tạo ra sự
phát triển mới một cách tự giác, tự chủ, nâng cao hiệu quả giáo dục phù hợp với
bối cảnh của xã hội mà vẫn giữ được sự ổn định trong hoạt động dạy học. Đổi mới
không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái hiện hành mà phải kế thừa phát huy
những thành tựu đã đạt được đồng thời tạo ra được sự phối hợp chặt chẽ giữa
phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp hiện đại. Xuất phát từ điều
kiện hoàn cảnh trên, tôi mạnh dạn báo cáo sáng kiến “Vai trò của Hiệu trưởng
trong việc đổi mới nhà trường tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới 2018”.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
1.1 Ưu điểm:
Trường đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ II và Ban giám hiệu nhà trường quan
tâm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường, mạnh dạn
đi đầu trong việc dạy thử nghiệm theo mô hình trường học mới Việt Nam. 100%
cán bộ, giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do
các cấp tổ chức nên đã nắm được việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và
cách đánh giá học sinh theo định hướng phát triển năng lực. Đa số giáo viên đã cải
tiến phương pháp dạy học, quan tâm làm và sử dụng đồ dùng dạy học, tích cực học
tập trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp. Giờ dạy đã phát huy được tính tích cực
của học sinh và quan tâm cá thể hóa đối tượng học sinh, đem lại kết quả khả quan
về chất lượng.
Cơ sở vật chất đáp ứng việc tổ chức dạy học hai buổi trên ngày đối với tất cả
các khối lớp, môi trường học tập đảm bảo an toàn. Học sinh có đủ sách giáo khoa
và đồ dùng học tập, ý thức học tập tương đối tốt.
Công tác xã hội hóa cũng đã huy động được sự tham gia của cha mẹ học
sinh và cộng đồng.
Các hoạt động ngoài giờ lên lớp, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao duy trì
có nề nếp.
4
1.2 Một số hạn chế:
Trong thời gian qua, hình thức tổ chức giáo dục trong giáo dục phổ thông
nói chung và trường Tiểu học nói riêng ở nước ta chủ yếu là dạy học trên lớp, chưa
coi trọng việc tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động trải nghiệm. Mặc dù giáo
viên của nhà trường đã được tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về dạy học
theo định hướng phát triển năng lực nhưng khi vào thực tế giảng dạy vẫn còn
nhiều giáo viên lúng túng trong khâu đổi mới phương pháp dạy học, dưới sự ảnh
hưởng của phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên chỉ lo vào phần việc của
mình, sợ không dạy hết bài, học sinh chưa tích cực tự học, trong tiết học giáo viên
chưa bao quát tốt lớp học và kịp thời phát hiện những khó khăn của học sinh để hỗ
trợ, truyền đạt nội dung ghi nhớ cho học sinh và yêu cầu các em học thuộc lòng,
chưa tổ chức để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức và thuộc bài ngay tại lớp. Đa số
học sinh còn phụ thuộc vào khuôn mẫu, bắt chước, chưa có ý thức chủ động, tự
giác học tập và sáng tạo. Mặt khác, giáo viên chưa nghiên cứu sâu về tâm lý từng
học sinh để có biện pháp giảng dạy và giáo dục tốt hơn, chưa quan tâm gây hứng
thú học tập cho học sinh. Phương pháp giáo dục nhìn chung còn lạc hậu, chưa chú
trọng dạy cách học và phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của học sinh.
Gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học là việc làm và sử dụng đồ dùng
thiết bị dạy học. Thế nhưng hiệu quả của phong trào làm và sử dụng đồ dùng, phát
huy hiệu quả các góc và các công cụ trong lớp học hiệu quả chưa cao, vẫn còn giáo
viên ít sử dụng, chưa quan tâm tổ chức làm đồ dùng, chưa khai thác triệt để thiết
bị, đồ dùng, tài liệu vào các tiết học và các hoạt động giáo dục mà còn dạy chay
hoặc chỉ sử dụng khi có người dự giờ. Khi sử dụng có giáo viên chưa linh hoạt sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ, còn khai thác một cách qua loa kém hiệu quả.
Trong quá trình chuẩn bị bài để dạy giáo viên chưa quan tâm điều chỉnh nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp và chuẩn bị đồ dùng.
Trang thiết bị dạy học hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu, việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học còn nhiều hạn chế cả về năng lực và điều kiện thực hiện.
Việc đánh giá học sinh giáo viên vẫn còn tùy tiện chưa thực hiện đúng
nguyên tắc và nội dung của Thông tư do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành. Đánh
giá chưa kịp thời động viên khuyến khích và giúp học sinh nhận ra nguyên nhân
sai để sửa chữa, đánh giá còn lẫn lộn năng lực chung với kiến thức, kỹ năng các
môn học, chưa bám vào chuẩn kiến thức, kỹ năng để đánh giá.
Cộng đồng và cha mẹ học sinh cũng đã quan tâm đóng góp các nguồn lực hỗ
trợ nhà trường tổ chức các hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, cha mẹ học sinh vẫn
còn không ít phó mặc trách nhiệm giáo dục học sinh cho nhà trường, vẫn tư tưởng
“ Trăm sự nhờ thầy”; sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động giáo dục học
sinh còn mờ nhạt. Nhà trường chưa huy động được sự tham gia tích cực của phụ
huynh học sinh và cộng đồng vào quá trình giáo dục học sinh, để tạo ra môi trường
giáo dục thuận lợi, đạt hiệu quả.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
5
2.1 Quản lý hoạt động dạy học: Nhà trường thực hiện đổi mới công tác
quản lý với phương châm chú trọng kỉ cương nề nếp, đề cao ý thức trách nhiệm,
lương tâm nghề nghiệp, khuyến khích sự sáng tạo, phát huy dân chủ trong trường
học thông qua các việc sau:
– Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và các văn bản chỉ đạo của ngành về
nhiệm vụ năm học.
– Việc xây dựng kế hoạch nhà trường: Hiệu trưởng căn cứ vào các văn bản chỉ đạo
của cấp trên và vận dụng cụ thể với đơn vị của mình để triển khai tới Hội đồng sư
phạm nhà trường về những nhiệm vụ trọng tâm trong năm học; từng cá nhân căn
cứ vào nhiệm vụ cụ thể của mình được phân công để xây dựng kế hoạch cá nhân;
tổ khối bàn bạc để xây dựng kế hoạch; nhà trường xây dựng kế hoạch trên cơ sở
tổng hợp ý kiến của từng bộ phận trong trường; Như vậy đảm bảo dân chủ trong
xây dựng kế hoạch, khai thác được trí tuệ, phát huy được tính tích cực trong từng
cá nhân; kế hoạch có tính thống nhất và khả thi.
– Nhà trường và tổ chuyªn m«n, cá nhân x©y dùng kÕ ho¹ch và triển khai hiệu quả,
tæ chøc thùc hiÖn d¹y häc theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất phï hîp
víi ®iÒu kiÖn cña ®¬n vÞ, víi nh÷ng néi dung thiÕt thùc ®Ó n©ng cao n¨ng lùc
chuyªn m«n, kÜ n¨ng sư ph¹m trong ho¹t ®éng d¹y häc, kÞp thêi th¸o gì nh÷ng khã
kh¨n vÒ: Đæi míi phương ph¸p d¹y häc theo hướng trải nghiệm môn Toán và
Tiếng Việt; C¸ch ®¸nh gi¸ häc sinh theo TT22/2016; Ra đề theo định hướng phát
triển năng lực và phẩm chất học sinh; Tổ chức, hoạt động và công cụ của Hội đồng
tự quản học sinh; Tăng cường phối kết hợp, huy động sự tham gia của phụ huynh
và cộng đồng vào quá trình giáo dục học sinh; Tích cực tự làm đồ dùng dạy học;
Triển khai hoạt động trải nghiệm, giáo dục kĩ năng sống; Điều chỉnh tài liệu hướng
dẫn học; Phương pháp và điều kiện dạy học theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột”
và dạy học Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch ; Rèn kĩ năng giao tiếp trong dạy
Tiếng Anh, sử dụng có hiệu quả phầm mềm dạy Tiếng Anh. §æi míi sinh ho¹t
chuyªn m«n theo nghiªn cøu bµi häc trung bình 2 lần/ tháng, ®¸nh gi¸ giê d¹y
chuyÓn hướng sang quan s¸t viÖc häc cña häc sinh ®Ó t×m ra biÖn ph¸p tæ chøc ®Ó
tÊt c¶ häc sinh ®Òu tÝch cùc tham gia vµo qu¸ tr×nh häc tËp, cã gi¶i ph¸p gióp häc
sinh gÆp khã kh¨n khi thùc hiÖn nhiÖm vô häc tËp và phát huy hết năng lực của
từng học sinh. Chỉ đạo cá nhân xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng thường xuyên có
hiệu quả.
– Chỉ đạo các hoạt động thí điểm: Nhà trường đã làm tốt công tác tuyên truyền đối
với lãnh đạo địa phương, nhân dân và giáo viên hiểu tính tích cực khi triển khai
hoạt động thí điểm, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện chương trình giáo dục phổ
thông mới 2018.
+ Dạy học theo mô hình trường học mới VNEN từ lớp 2 đếnlớp 5: Tập huấn GV
nắm vững đặc trưng của mô hình VNEN. Tổ chức tốt tuần làm quen VNEN đặc
biệt là lớp 2; hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học; tập huấn cho
trưởng nhóm học tập năng lực điều hành, giao việc, kiểm tra, giám sát; hướng dẫn
học sinh quy trình học cá nhân, cặp, nhóm; Tổ chức hoạt động tự khám phá, phát
hiện kiến thức, kĩ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác; giáo
viên chỉ hỗ trợ khi cần thiết, giáo viên khuyến khích mọi cố gắng nỗ lực, sáng kiến
và những tiến bộ dù nhỏ nhất của học sinh, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn. Đổi
6
mới tổ chức lớp học, tổ chức cho học sinh bầu Hội đông tự quản và hướng dẫn học
sinh biết xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của từng ban; tổ chức cho học sinh
trang trí không gian lớp học với các công cụ và các góc hỗ trợ hoạt động học tập,
giáo dục hiệu quả.
+ Dạy Tiếng Việt lớp 1 theo đúng quy trình, tuy nhiên cần vận dụng linh hoạt kết
hợp với phương pháp dạy học tích cực tăng cường rèn học sinh năng lực tự học, tự
đánh giá, tham gia đánh giá, giao tiếp với bạn trong quá trình học, tích cực hóa các
hoạt động học tập của học sinh.
+ Dạy học Mĩ thuật theo định hướng phát triển năng lực, tạo cơ hội để học sinh
được phát triển khả năng sáng tạo, năng lực đánh giá, phản biện…Giáo viên tổ
chức hiệu quả việc lưu trữ và trưng bày sản phẩm học sinh.
+ Dạy theo phương pháp Bàn tay nặn bột một số tiết đối với môn Khoa học và Tự
nhiên xã hội; chuẩn bị đầy đủ đồ dùng thực hành, thí nghiệm.
+ Môn Tiếng Anh tăng cường rèn năng lực giao tiếp cho học sinh. Dạy theo
chương trình mới lớp 1,2 dạy 2 tiết/ tuần, lớp 3,4,5 dạy 4 tiết / tuần.
– Chỉ đạo thực hiện các hoạt động ngoài giờ chính khóa: Nhà trường xây dựng kế
hoạch và chỉ đạo dạy 2 buổi / ngày tự học Toán, Tiếng Việt, đọc sách và tổ chức
câu lạc bộ Toán tuổi thơ, văn tuổi thơ, rèn kĩ năng sống và tổ chức hoạt động trải
nghiệm theo tài liệu của Sở. Thành lập các câu lạc bộ môn học để phát triển năng
khiếu cho học sinh đảm bảo tính tự nguyện tham gia, phát huy vai trò tự quản của
học sinh trong hoạt động, huy động sự tham gia tích cực của giáo viên, cha mẹ học
sinh và cộng đồng. Nhà trường xây dựng kế hoạch hoạt động của câu lạc bộ phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh và điều kiện nhà trường, địa phương. Hình
thức tổ chức đa dạng phong phú nhằm lôi cuốn học sinh tham gia, tạo điều kiện
cho các em phát huy kinh nghiệm vốn có của mình để trải nghiệm và sáng tạo. Tổ
chức và tạo điều kiện tốt nhất để học sinh tham gia ngµy héi STEM; Giao lưu câu
lạc bộ To¸n tuæi th¬, văn tuổi thơ, hùng biện Tiếng Anh, viết chữ đúng và đẹp, thi
vẽ tranh, giao lưu tìm hiểu về an toàn giao thông, văn nghệ, thể thao…Huy động
sự tham gia của cộng đồng hỗ trợ về nhân lực, vật lực, trí lực.
2.2 Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học:
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ hội để học
sinh tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Với phương pháp dạy học
kiểu mới vai trò của giáo viên chuyển đổi từ giảng giải, truyền thụ kiến thức
sang tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, học cá nhân, học theo nhóm,
đồng thời với việc theo dõi, giám sát, hỗ trợ đến từng học sinh. Giáo viên
tập trung nghiên cứu nội dung bài học và hoạt động học trong tài liệu hướng
dẫn học để điều chỉnh cho phù hợp với học sinh trong lớp, dự kiến tình
huống sư phạm, chuẩn bị đồ dùng dạy học… để tiết học đạt hiệu quả cao
nhất. Giáo viên tạo ra môi trường tích cực, cởi mở để đảm bảo học sinh tự
7
tìm tòi, suy nghĩ và chủ động nắm bắt kiến thức mới, tận dụng khả năng tổ
chức các hoạt động để giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng vào cuộc
sống. Giáo viên hướng dẫn, hỗ trợ học sinh tự học theo quy trình việc làm
cụ thể diễn ra liên tiếp, khuyến kích sáng tạo của học sinh, phát huy tối đa
khả năng của từng học sinh.
Học sinh không ngồi nghe giáo viên giảng mà dựa trên kiến thức và kinh
nghiệm của cá nhân, học sinh chủ động tự thực hiện nhiệm vụ học tập bằng
các việc làm cụ thể theo tài liệu hướng dẫn học hoặc hướng dẫn của giáo
viên, lắng nghe, trao đổi, phối hợp, hợp tác trong nhóm, trong lớp để tự lĩnh
hội kiến thức mới, rèn kĩ năng, hình thành năng lực, phẩm chất. Học sinh
được rèn luyện nhiều hơn về các kĩ năng nghe, nói, giao tiếp…kết hợp hoạt
động học ở lớp và hoạt động ứng dụng ở nhà, có nhiều cơ hội để học sinh
tham gia, bày tỏ ý kiến, phát huy theo khả năng của từng học sinh. Đặc biệt
học sinh yếu được quan tâm hỗ trợ nhiều hơn để tiến kịp các bạn, giáo viên
dạy theo quy trình 5 bước: Tạo hứng thú – Trải nghiệm- Phân tích- khám
phá- rút ra bài học – Thực hành củng cố – Ứng dụng.
Để thực hiện tốt việc dạy học thông qua trải nghiệm, giáo viên cũng cần phải
thật linh hoạt cho phù hợp với điều kiện thực tế:
Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh
Mục đích tạo tâm thế học tập cho học sinh. Giáo viên có thể đặt câu hỏi, câu
đố vui, kể chuyện, đặt một tình huống, tổ chức trò chơi…để kích thích sự tò mò,
khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học; Học sinh cảm thấy vấn đề nêu
lên rất gần gũi với các em.
Bước 2: Tổ chức cho học sinh trải nghiệm
Giáo viên lựa chọn nội dung kết nối kiến thức, kỹ năng học sinh đã biết có
liên quan đến bài học hôm nay, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng
thứ với bài học mới. Với những kiến thức, kinh nghiệm đã có, học sinh thực hiện
các hoạt động theo chỉ dẫn của tài liệu hoặc của giáo viên. Hoạt động này nhằm
bộc lộ cái học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp
học sinh có điều kiện nhận ra cái chưa biết và muốn biết. Từ đó học sinh suy nghĩ
và xuất hiện những quan niệm ban đầu của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập.
Giáo viên cần tổ chức các hình thức trải nghiệm thú vị, gần gũi với học sinh. Nếu
là tình huống diễn tả bằng bài toán có lời văn thì các giả thiết phải đơn giản, câu
văn phải hóm hỉnh và gần gũi với học sinh.
Bước 3: Phân tích- khám phá – rút ra kiến thức mới:
Học sinh tự thực hiện hoạt động, việc làm cá nhân, cặp đôi, nhóm theo chỉ
dẫn của tài liệu, của giáo viên để phát hiện và lĩnh hội kiến thức mới, kết nối kiến
thức cũ và kiến thức mới phát biểu, viết ra các kết luận, khái niệm, công thức
mới… Giáo viên cần dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp
học sinh thực hiện tiến trình phân tích, rút ra bài học. Có thể sử dụng các hình thức
thảo luận cặp đôi, nhóm… Để kích thích trí tò mò, sự ham thích tìm tòi, khám phá
phát hiện của học sinh. Giáo viên cần phải giúp học sinh hiểu con đường hình
8
thành kiến thức. Nên soạn những câu hỏi thích hợp, sử dụng đồ dùng dạy học giúp
học sinh đi vào tiến trình phân tích thuận lợi và hiệu quả; Đồng thời giáo viên cần
sử dụng sơ đồ tư duy hoặc nội dung cần mở rộng hay giúp học sinh biện pháp ghi
nhớ, khắc sâu kiến thức .
Bước 4: Thực hành bài học:
Nhằm giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kĩ năng vừa lĩnh hội
được. Học sinh tự thực hiện theo tài liệu hoặc theo nội dung yêu cầu của giáo viên.
Áp dụng trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết vừa học để giải quyết tình huống vấn
đề trong học tập. Ở mức độ cao hơn, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh kết nối và
sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết thành công tình huống hay
vấn đề tương tự tình huống/ vấn đề đã học. Giáo viên quan sát học sinh làm bài và
phát hiện xem học sinh gặp khó khăn ở bước nào. Giáo viên giúp học sinh nhận ra
khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, công thức, cách làm, thao tác cơ bản đã
rút ra ở bước 3. Tiếp tục ra các bài tập ở mức độ khó dần lên phù hợp với khả năng
của học sinh. Giáo viên tiếp tục quan sát học sinh làm bài và phát hiện những khó
khăn của học sinh. Giúp các em giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ lại với các
quy tắc, công thức, cách làm…. Có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng
cá nhân, nhóm, cặp đôi…
Bước 5: Ứng dụng
Giúp học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các tình
huống/ vấn đề mới, không giống với những tình huống/ vấn đề đã được hướng dẫn
hay đưa ra nững đề xuất, phản hồi hợp lý trước một tình huống/ vấn đề mới trong
học tập hoặc trong cuộc sống. Đây có thể là những hoạt động thực tiễn, giúp HS
tập dượt tham gia giải quyết các vấn đề của gia đình, địa phương, cộng đồng, tập
nghiên cứu… Giáo viên giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của các tri
thức đó khắc sâu kiến thức đã học. Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ,
cách hiểu của chính các em, tập diễn đạt có lí lẽ, lập luận.
* Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động:
– Trong lớp học:
Học sinh ngồi học theo nhóm 4 để thuận tiện cho việc trao đổi khi cần thiết.
Các hình thức làm việc được thực hiện theo tài liệu hướng dẫn học, tuy nhiên giáo
viên cần linh hoạt thay đổi cho phù hợp với thực tế dứới sự hướng dẫn trực tiếp
của giáo viên.
a. Làm việc cá nhân: Trước khi tham gia làm việc với bạn học, cá nhân luôn có
một khoảng thời gian thực hiện hoạt động để tự lĩnh hội kiến thức, chuẩn bị cho
hoạt động cặp đôi hay nhóm. Học sinh làm việc cá nhân phổ biến như: đọc mục
tiêu bài học, đọc văn bản, tự suy nghĩ trả lời câu hỏi hay giải bài tập, tự đánh giá,
nhắc lại cho nhớ. Giáo viên cần kiểm soát, đánh giá hỗ trợ kịp thời….Hoạt động cá
nhân là chủ yếu, HS chủ động nghiên cứu khám phá kiến thức, tự chuẩn bị những
gì cần thiết trước khi trao đổi trong cặp và trong nhóm. Trong quá trình làm việc cá
nhân có gì không hiểu HS có thể hỏi bạn ngồi cạnh hoặc nêu vấn đề ra nhóm cùng
trao đổi, nếu nhóm không giải quyết được thì có thể nhờ nhóm khác hay giáo viên.
9
b. Làm việc theo cặp: Làm việc theo cặp trong nhóm phù hợp với công việc như:
kiểm tra dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin, thực hành kĩ năng giao tiếp ( nghe,
đặt câu hỏi, làm rõ một vấn đề, đóng vai…). Học sinh nói cho nhau nghe; đánh giá,
nhận xét, chia sẻ, chốt ý đúng; nói cho nhau nghe kết quả cách làm để nhớ, để
thuộc. Học sinh đối chiếu so sánh kết quả, bổ sung cho nhau đúng hơn, đầy đủ hơn,
làm nền tảng cho sự chia sẻ trong nhóm lớn hơn.
c. Làm việc chung cả nhóm: Trong giờ học luôn có các hoạt động cả nhóm cùng
hợp tác. Ví dụ: Sau khi đọc một câu chuyện, trưởng nhóm sẽ dẫn dắt các bạn trao
đổi về một số vấn đề của câu chuyện đó; hoặc cùng nhau trao đổi một vấn đề phức
tạp cần nhiều ý kiến khác nhau; hay học sinh trong nhóm cùng nhau thực hiện một
hoạt động theo chủ đề với sự chuẩn bị và phân chia công việc rõ ràng…Nhóm học
tập giúp cho việc thu thập ý kiến và phát huy sự sáng tạo. Điều quan trọng là học
sinh phải cần biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia làm việc nhóm,
tránh ỉ nại vào bạn.
d. Làm việc cả lớp: Khi học sinh có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh một vấn
đề hoặc có những khó khăn mà nhiều học sinh không thể vượt qua, giáo viên có
thể tập trung cả lớp làm sáng tỏ các vấn đề đó bằng các câu hỏi gợi mở, bằng đồ
dùng dạy học…
Như vậy tùy vào tình hình chung của lớp để lựa chọn phương pháp, hình thức
nào cho phù hợp, hiệu quả; Sách hướng dẫn học chỉ là một gợi ý , không nên tuân
thủ một cách máy móc, cần linh hoạt đảm ảo tính hiệu quả và hứng thú học tập cho
HS.
Không dạy đồng loạt theo hướng định lượng thời gian, bắt học sinh theo kịp
tiến độ cùng các bạn trọng lớp.
– Tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học trong và ngoài nhà trường: Xây dựng
kế hoạch dạy ngoài không gian lớp học ví dụ: Tại vườn trường, sân trường các em
được sử dụng nhiều giác quan để quan sát cây cối phục vụ tìm ý cho bài văn miêu
tả; Tìm hiểu về các loài cây cối trong tự nhiên; Tại cơ sở sản xuất gần trường, các
ngành nghề gắn liền với cuộc sống của người dân; Tại các di sản văn hóa, lịch
sử…
2.3. Chỉ đạo đổi mới tổ chức, quản lí lớp học:
1.2.1.Thành lập Hội đồng tự quản học sinh:
Mô hình trường học mới theo hướng dân chủ hóa, hình thành năng lực và
phẩm chất cần thiết của học sinh, chuyển quan hệ giữa các học sinh sang quan hệ
hợp tác học tập và sinh hoạt chủ yếu theo nhóm/ lớp, dưới sự hướng dẫn, tư vấn
của giáo viên, học sinh tự xây dựng kế hoạch, tự quản lý, điều hành sinh hoạt tập
thể; Hướng tới phát huy tính chủ động, tự quản, sáng tạo, năng động, tự tin, hợp
tác… của học sinh.
Tổ chức lớp học theo mô hình thì mọi vấn đề về quản lí lớp học là do Hội
đồng quản học sinh thực hiện theo bộ máy tự quản như sau:
10
a. Hội đồng tự quản: Mỗi lớp thành lập một Hội đồng tự quản có: Chủ tịch
Hội đồng tự quản, các phó chủ tịch Hội đồng tự quản, các trưởng phó ban. Tùy
điều kiện, nhu cầu từng lớp học, các ban của Hội đồng tự quản được thành lập cho
phù hợp. Chẳng hạn: Đối với lớp ngồi học theo nhóm 4 học sinh, thì các ban được
thành lập khoảng 4 ban và mỗi ban phụ trách một hay nhiều nhiệm vụ (Ban học
tập, Thư viện- Văn nghệ – TT; Ban quyền lợi và đối ngoại; Nề nếp- Lao động- Vệ
sinh).
b. Cách thành lập Hội đồng tự quản: Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, phụ
huynh, học sinh tự thành lập Hội đồng tự quản, không do giáo viên áp đặt mà do
học sinh tự ứng cử , đề cử, tập thể lớp bình bầu, luân phiên theo tháng hoặc học kỳ
để nhiều học sinh được tham gia hoạt động tập thể. Tùy theo sở thích để mỗi học
sinh được tự nguyện là một thành viên của một ban nào đó.
c. Hoạt động của Hội đồng tự quản: Dưới sự cố vấn của giáo viên học sinh
chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động hoạc tập, sinh hoạt. Với sự dẫn dắt của
giáo viên, phụ huynh và cộng đồng học sinh được rèn luyện năng lực quản lý, lãnh
đạo, điều hành hoạt động giáo dục, học tập; các phẩm chất tự giác, tự trọng, tôn
trọng, trách nhiệm, tự tin, tích cực và nhiều kỹ năng sống được rèn luyện trong
hoạt động ở môi trường dân chủ, tự quản, thân thiện và mở rộng. Tạo điều kiện để
các em học sinh có thể đề đạt với giáo viên hay nhà trường các ý kiến thu thập từ
các bạn về hoạt động của trường, của lớp…
d. Công cụ của Hội đồng tự quản: Bàn ghế được bố trí để học sinh ngồi học
theo nhóm sao cho tương tác giữa giáo viên và học sinh ; học sinh với học sinh hợp
lý, không quay lưng lên bảng. Để Hội đồng tự quản hoạt động được hiệu quả cần
có các công cụ như: góc học tập, góc thư viện, góc môi trường, góc cộng đồng, góc
sinh nhật; hộp thư vui, điều em muốn nói, sơ đồ cộng đồng, bảng theo dõi chuyên
cần, bảng ghi danh…Giáo viên hướng dẫn giúp học sinh hiểu được mục đích và ý
nghĩa của các góc và công cụ của Hội đồng tự quản, tổ chức cho học sinh chủ động
tổ chức cùng nhau tạo ra các góc, công cụ của Hội đồng tự quản với những tài liệu
đồ dùng phong phú, thay đổi theo chủ đề học tập, tạo ra sản phẩm bằng những vật
liệu rẻ tiền dễ kiếm, đảm bảo tính thẩm mĩ, khoa học, huy động sự giúp đỡ của cha
mẹ và cộng đồng.
1.2.2. Các nhóm học tập:
Đối với lớp học truyền thống, học sinh ngồi học theo hướng đối diện với
giáo viên, cách ngồi này giúp giáo viên dễ dàng quan sát học sinh hơn nhưng lại
làm cho học sinh ngồi học thụ động, khả năng phát triển năng lực của học sinh bị
hạn chế do các em học sinh không được tự học mà chủ yếu ngồi nghe giảng và ghi
chép. Lớp học theo mô hình kiểu mới, học sinh được ngồi theo nhóm, được làm
việc với tài liệu và đặc biệt được tương tác với bạn có sự trợ giúp của giáo viên khi
cần thiết nên phát huy tối đa khả năng tự học, phát triển năng lực học tập và các kĩ
năng mềm rất hiệu quả. Học sinh có khả năng trình bày tự tin.
Tuy nhiên, đối với lớp học có sĩ số quá đông thì việc chia nhóm cần phải hết
sức linh hoạt, bố trí chỗ ngồi theo nhóm hợp lí, có thể từ 4-6 học sinh/nhóm, gồm
cả 3 đối tượng nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập
11
giữa các thành viên trong nhóm, mỗi nhóm có mặt thành viên của các ban. Giáo
viên làm việc tới từng học sinh, quan tâm sát sao đến từng đối tượng, bao quát lớp
gần gũi thân thiện với học sinh. Việc phân nhóm cần thực hiện sao cho giáo viên
có thể theo dõi, đánh giá hoạt động nhóm nhưng đồng thời cũng đảm bảo phát huy
tính tích cực của mỗi học sinh. Phát huy tốt vai trò của các thành viên trong Hội
đồng tự quản, đội ngũ nhóm trưởng trong các hoạt động. Thực hiện luân phiên
thành viên Hội đồng tự quản và đội ngũ nhóm trưởng để nhiều học sinh có cơ hội
thể hiện bản thân, được hợp tác với tất cả các bạn trong nhóm, trong lớp. Linh hoạt
điều chỉnh nhịp độ học tập theo từng đối tượng học sinh, phân loại và kèm cặp các
đối tượng học sinh một cách chủ động.
1.2.3. Lựa chọn đội ngũ nhóm trưởng:
Hoạt động nhóm mỗi học sinh đều được đặt câu hỏi cho các bạn khác trả lời
và trình bày ý kiến. Nên tất cả học sinh trong nhóm đều được luân phiên nhau làm
nhóm trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt động do giao
viên yêu cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc, không một học sinh
nào ngồi chơi. Tuy nhiên để tiết học thành công hay không thì phụ thuộc rất nhiều
vào các nhóm trưởng.
Vào đầu năm học giáo viên nên quan sát, chọn những học sinh mạnh dạn, có
khả năng giao tiếp tốt, có năng lực trong học tập hoặc những em có khả năng tổ
chức, quản lý tốt làm nhóm trưởng trước. Tổ chức hướng dẫn cho các em cách
thức điều hành nhóm. Khi các em đã làm được tốt thì các em hướng dẫn các bạn
trong nhóm hoặc làm mẫu cho bạn để từ đó các em luân phiên nhau làm nhóm
trưởng. Trường hợp đặc biệt, có thể cho sinh làm nhóm trưởng theo môn học mà
học sinh yêu thích, hoặc theo chủ đề bài học, không nên bỏ quên bất kì một học
sinh nào làm nhóm trưởng.
Đối với học sinh khối lớp 2 mới làm quen học nhóm, Nhà trường tổ chức
xây dựng chuyên đề một tiết học cụ thể và các nhóm trưởng lúc này sẽ là do các cô
giáo trong từng khối lớp đóng vai và được thực hiện lần lượt ở từng lớp trong khối
2. Sau mỗi tiết học giáo viên thảo luận để đi đến thống nhất những phương pháp
hay nhất để áp dụng trong những tiết tiếp theo. Bản thân giáo viên cần có tinh thần
huấn luyện đội ngũ nhóm trưởng trong từng tiết học thông qua việc bao quát nhóm
và hướng dẫn các nhóm hoạt động.
1.2.4.Huấn luyện đội ngũ nhóm trưởng:
Nhóm trưởng muốn điều hành tốt hoạt động nhóm thì phải hiểu rõ vai trò và
nhiệm vụ của mình. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ: Nhóm trưởng điều hành
mọi hoạt động của nhóm, thay mặt nhóm báo cáo kết quả hoạt động, xác định được
mục tiêu của hoạt động nhóm. Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm.
Nhóm trưởng phải huy động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết
nhiệm vụ nhóm và phải tạo ra những tương tác đa chiều giữa các thành viên trong
nhóm. Hướng dẫn các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó
khăn gặp phải. Biết quản lí, sử dụng thời gian hiệu quả; biết sử dụng, bảo quản tài
liệu học tập; biết tổ chức và quản lí nhóm…
12
2.4. Chỉ đạo đổi mới về đánh giá HS:
Đổi mới đánh giá học sinh là một yêu cầu tất yếu khi đổi mới mục tiêu giáo
dục. Thực tế học sinh Tiểu học cần sự động viên, khen ngợi, hướng dẫn, chỉ bảo ân
cần của giáo viên để các em tự tin, thích học và được học. Việc đánh giá bằng
điểm số có thể động viên được các em đã có kết quả học tốt nhưng lại gây áp lực,
dễ mặc cảm, tự ti đối với những em chưa biết cách học, kết quả học tập còn thấp.
Muốn nâng cao chất lượng thì phải tạo được động cơ bên trong của việc
học. Đó là phải làm cho học sinh tự tin, thích học, say mê sáng tạo trong quá trình
học để từ đó phát triển năng lực, phẩm chất của chính mình. Động cơ bên trong
được tạo ra và phát triển từ sự hấp dẫn của nội dung học tập, từ cách học hiệu quả,
từ cách đánh giá biết khuyến khích học sinh; Kết hợp với động cơ bên ngoài để
thúc đẩy sự học cho học sinh bằng phần thưởng ( quà, phiếu khen, hình mặt
cười…). Chính vì vậy, việc đổi mới đánh giá thường xuyên bằng nhận xét là một
biện pháp quan trọng giúp học sinh thích học và học tốt hơn.
Thực hiện đánh giá theo nguyên tắc vì sự tiến bộ của học sinh, không so
sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, cha mẹ học
sinh. Đánh giá ngay trong quá trình học tập , đánh giá sự hình thành, phát triển một
số năng lực, phẩm chất, phát huy hết nội lực, tiềm năng của từng học sinh. Giáo
viên biết được học sinh đạt kết quả bằng cách nào, vận dụng kết quả đó như thế
nào. Từ đó giáo tư vấn, hướng dẫn giúp đỡ kịp thời để học sinh hoàn thành nội
dung học tập và có phương pháp học tốt hơn. Bên cạnh đó, giáo viên cần hướng
dẫn để học sinh biết tự rút kinh nghiệm, biết quan sát và học theo cách học của
bạn, biết nhận xét, góp ý cho bạn; đồng thời hướng dẫn và khuyến khích cha mẹ
học sinh tham gia nhận xét, góp ý cho học sinh.
Giáo viên cân nhắc các đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh… của học sinh để
có nhận xét xác đáng, kịp thời, sao cho khích lệ được học sinh, làm cho các em
hứng thú học tập, đồng thời phải tư vấn, hướng dẫn giúp các em biết nhận ra những
hạn chế và biết hướng khắc phục. Các nhận xét, góp ý chủ yếu thông qua lời nói
trực tiếp, khi cần thiết giáo viên viết lời nhận xét phù hợp vào sản phẩm, bài làm
của học sinh. Lời đánh giá phải thật cụ thể tồn tại của học sinh và những ưu điểm
vượt trội học sinh đã làm được, tránh làm tổn thương học sinh. Chú trọng đánh giá
năng lực, khả năng vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết tình huống trong thực
tiễn.
Kết quả bài kiểm tra định kì giúp giáo viên đối chiếu với quá trình đánh giá
thường xuyên xem có phù hợp không. Nếu chưa phù hợp, giáo viên phải tìm
nguyên nhân, có thể phải điều chỉnh cả cách dạy để hướng tới kết quả học tập tốt
hơn. Đây cũng là kênh thông tin để nhà quản lí điều chỉnh công tác chỉ đạo.
2.5. Chỉ đạo đổi mới sự tham gia của cha mẹ học sinh và cộng đồng trong
quá trình giáo dục:
Nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh và cộng đồng để phụ
huynh và cộng đồng hiểu rõ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục học
sinh của nhà trường.
13
Tập huấn cho giáo viên cách phối hợp với phụ huynh và cộng đồng trong việc
huy động trẻ đến trường. Giáo viên cần phải tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh để
biết nguyên nhân những khó khăn cản trở việc học tập của học sinh; Từ đó, giáo

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ

Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

SGK, sách ôn thi, sách tham khảo giá rẻ


Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *