Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Ứng dụng lý thuyết Holland trong công tác tư vấn định hướng nghề nghiệp đối với học sinh THPT

    SKKN Ứng dụng lý thuyết Holland trong công tác tư vấn định hướng nghề nghiệp đối với học sinh THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    “Hƣớng nghiệp” không còn là cụm từ quá xa lạ với chúng ta, nhất là
    trong bối cảnh xã hội hiện nay. Năm học 2022- 2023, là năm đầu tiên thực hiện
    chƣơng trình giáo dục phổ thông mới đối với khối THPT. Trong chƣơng trình
    này, hoạt động trải nghiệm, hƣớng nghiệp thuộc hoạt động giáo dục bắt buộc
    đƣợc tổ chức học từ lớp 6 đến lớp 12 với thời lƣợng 105 tiết/năm cho thấy tầm
    quan trọng của hoạt động này.
    Có thể nói, công tác hƣớng nghiệp nhằm phân luồng học sinh sau tốt
    nghiệp và định hƣớng nghề nghiệp cho các em rất quan trọng, đặc biệt là ở bậc
    THPT. Tuy nhiên, học ngành gì, học trƣờng nào để chọn đƣợc nghề nghiệp phù
    hợp với bản thân? là một câu hỏi lớn, trăn trở của nhiều học sinh và phụ huynh.
    Là một ngôi trƣờng ở địa bàn nông thôn, điều kiện tiếp cận với những kiến
    thức và thông tin về hƣớng nghiệp rất hạn chế thì câu hỏi này thực sự rất khó
    với gia đình và các em học sinh. Các em ít nhận đƣợc sự trợ giúp về phía gia
    đình, mà chủ yếu tự thân vận động. Sự đồng hành từ phía nhà trƣờng và thầy
    có thực sự là rất ý nghĩa, và đó cũng là trách nhiệm của mỗi giáo viên
    Mỗi mùa tốt nghiệp không chỉ lo bài vở mà học sinh của chúng tôi còn
    phải đối mặt với vấn đề lớn quyết định tƣơng lai, số phận của mình đó là chọn
    ngành, chọn nghề,… Trên thực tế nhiều em giải bài toán này sai ngay từ ban
    đầu. Thật xót xa khi học trò của mình sau khi ra trƣờng lại quay lại ôn tập để
    sang năm thi trƣờng khác, ngành khác vì lý do ngành đó không phù hợp với
    em. Thời gian của các em, tiền bạc của bố mẹ và quan trọng hơn là cơ hội của
    các em bị lãng phí. Đó là các em phát hiện mình sai sớm để sửa, thử hỏi nếu sai
    mà không kịp sửa thì sao? Ra trƣờng thất nghiệp, làm trái nghề, thậm chí mệt
    mỏi khi làm những công việc mà mình không đam mê, không yêu thích hoặc
    công việc đó không đảm bảo đƣợc cuộc sống cho mình
    Theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, có khoảng 60% sinh viên ra trƣờng
    làm việc trái với ngành đã đƣợc đào tạo, trong số đó có 47,6% làm trái ngành
    2
    vì không thích ngành mình đã học, điều này chứng tỏ công tác hƣớng nghiệp
    đã bị “bỏ quên” hoặc không mang lại hiệu quả nhƣ mong đợi.
    Chƣa kể những trƣờng hợp các em có năng khiếu, đam mê với những
    lĩnh vực của riêng mình nhƣng chƣa dám mạnh dạn chọn nghề phù hợp vì
    nhiều lí do nhƣ học lực, kinh tế. Hoặc đơn cử chọn đƣợc nghề phù hợp với bản
    thân nhƣng không biết lƣợng sức lên mất cơ hội vào đại học.
    Trong những năm gần đây, nhà trƣờng cùng ban lãnh đạo đã vào cnhữ,
    đã có nhiều giải pháp, nhiều hành động quyết liệt nhƣ mời chuyên gia về tƣ
    vấn hƣớng nghiệp cho các em, lồng ghép hoạt động hƣớng nghiệp vào hoạt
    động ngoại khóa và giảng dạy.
    Song ngƣời trực tiếp gần gũi và hiểu các em hơn cả là giáo viên. Hƣớng
    nghiệp sẽ hiệu quả hơn rất nhiều với sự tận tình, tâm huyết và hƣớng dẫn của
    thầy cô. Theo thông tƣ 28 ban hành 21/10/2009 hoạt động hƣớng nghiệp cũng
    là một trong những nhiệm vụ của mỗi giáo viên.
    Để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi chúng ta phải thực sự tâm huyết,
    có trách nhiệm. Vì bản thân giáo viên chúng ta không có chuyên môn, nghiệp
    vụ, không đƣợc đào tạo bài bản về lính vực này. Chúng ta phải nghiêm túc phát
    huy tinh thần tự học hỏi của mình.
    Có nhiều học thuyết đƣợc áp dụng trong hƣớng nghiệp dạy nghề nhƣ:
    Thuyết Mallow, thuyết cầu vồng, thuyết ngẫu nhiên có kế hoạch, thuyết kiến
    tạo nghề nghiệp…
    Thực tế, qua nhiều năm giảng dạy và làm công tác công tác chủ nhiệm,
    chúng tôi thấy lý thuyết Holland thực sự có hiệu quả cao trong công tác hƣớng
    nghiệp đối với học sinh THPT. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài: “Ứng dụng
    lý thuyết Holland trong công tác tƣ vấn, định hƣớng nghề nghiệp đối với
    học sinh THPT”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Lý thuyết Holland
    3
    John L.Holland (1919 – 2008) là tiến sỹ tâm lý học ngƣời Mỹ. Holland
    nổi tiếng nhất và biết đến rộng rãi nhất qua nghiên cứu lý thuyết lựa chọn nghề
    nghiệp. Bằng việc phân loại tính cách con ngƣời thành các nhóm cá tính khác
    nhau, TS.Holland đã cung cấp cho chúng ta một công cụ để lựa chọn nghề
    nghiệp phù hợp với sở thích, vừa giúp chúng ta định hƣớng công việc hiện tại
    để đạt đƣợc sự hài lòng.
    Học thuyết của Holland đã lập luận rằng: “Thiên hƣớng nghề nghiệp
    chính là sự biểu hiện cá tính của mỗi con ngƣời” và nó đƣợc phân loại thành 6
    nhóm ứng 6 loại cá tính, thƣờng đƣợc viết tắt là RIASEC, đƣợc gọi là Mã
    Holland (Holland codes), đƣợc diễn tả ở hai phƣơng diện: tính cách con ngƣời
    và môi truờng làm việc. Phân loại của ông đã đƣợc dùng để giải thích cấu trúc
    của cuộc sống, nghiên cứu về định hƣớng nghề khác nhau dựa trên 2 thang đo
    mà ông đã phát triển.
    6 loại tính cách và các kiểu môi trƣờng làm việc theo học thuyết của
    Holland đƣợc chúng tôi áp dụng phân tích trong tƣ vấn hƣớng nghiệp cho các
    em học sinh trong trƣờng THPT
    Theo Holland, tính cách con ngƣời đƣợc phân làm 6 nhóm, mỗi nhóm sẽ
    có ƣu điểm nhất định và có cơ hội phát triển tốt nhất khi đƣợc làm việc ở môi
    trƣờng tƣơng ứng, gọi tắt là RIASEC (những chữ cái viết đầu của 6 loại tính
    cách)
    R (Realistic: Thực tế) Ngành nghề phù hợp với nhóm này gồm: Các
    nghề về kiến trúc, an toàn lao động, nghề mộc, xây dựng, thủy sản, kỹ thuật,
    máy tàu thủy, lái xe, huấn luyện viên, nông – lâm nghiệp.
    I (Investigative: Có khả năng về quan sát, khám phá, phân tích đánh
    giá và giải quyết các vấn đề)Ngành nghề phù hợp với nhóm này gồm: Các
    ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên; khoa học xã hội; Y – dƣợc; khoa học
    công nghệ.
    A (Artistic: Có khả năng về nghệ thuật) Ngành nghề phù hợp với
    nhóm này gồm: Các ngành về văn chƣơng; báo chí; điện ảnh; sân khấu; mỹ
    4
    thuật; ca nhạc; múa; kiến trúc; thời trang; hội họa, giáo viên dạy Sử/Anh văn,
    bảo tàng, bảo tồn, …
    S (Social: Có khả năng về ngôn ngữ, giảng giải, thích làm những việc
    nhƣ giảng giải, cung cấp thông tin, sự chăm sóc, giúp đỡ, hoặc huấn luyện
    cho các ngƣời khác) Ngành nghề phù hợp với nhóm này gồm: Sƣ phạm; giảng
    viên, huấn luyện viên điền kinh; tƣ vấn – hƣớng nghiệp; công tác xã hội, sức
    khỏe cộng đồng, thuyền trƣởng, thầy tu, thƣ viện, bác sĩ chuyên khoa, thẩm
    định giá, nghiên cứu quy hoạch đô thị, kinh tế gia đình, tuyển dụng nhân sự,
    cảnh sát, xã hội học, bà đỡ, chuyên gia về X – quang, chuyên gia dinh dƣỡng…
    5
    E (Enterprise: Có khả năng về kinh doanh, mạnh bạo, dám nghĩ
    dám làm, có thể gây ảnh hƣởng, thuyết phục ngƣời khác; có khả năng
    quản lý) Ngành nghề phù hợp với nhóm này gồm: Các ngành về quản trị kinh
    doanh, thƣơng mại, marketing, kế toán – tài chính, luật sƣ, dịch vụ khách hàng,
    tiếp viên hàng không, thông dịch viên, pha chế rƣợu.
    C (Conventional: Có khả năng về số học, thích thực hiện những
    công việc chí tiết, thích làm việc với dữ liệu, theo chỉ dẫn của ngƣời khác
    hoặc các công việc văn phòng) Ngành nghề phù hợp với nhóm này gồm: Các
    ngành nghề về hành chính, quản trị văn phòng, kế toán, kiểm toán, thƣ ký,
    thống kê, thanh tra ngành, ngƣời giữ trẻ, điện thoại viên…
    Mỗi nhóm tính cách lại đƣợc Holand phân tích kĩ để tìm đƣợc công việc
    cũng nhƣ môi trƣờng làm việc tốt nhất
    Nhóm 1: NHÓM KỸ THUẬT (Kiểu thực tế cụ thể – thao tác kỹ thuật )
    * Đặc điểm.
    Những ngƣời ở nhóm kỹ thuật có sở thích và khả năng khám phá, sử
    dụng máy móc, làm những công việc sử dụng thao tác tay chân nhƣ các ngành
    nghề thuộc về cơ khí, ô tô, điện, tin học hoặc các ngành nghề đòi hỏi sự khéo
    léo của tay chân nhƣ thể thao, nấu nƣớng, chăm sóc cây xanh, thủ công mỹ
    nghệ…
    Khả năng của những ngƣời thuộc nhóm này cần phải đáp ứng các yêu
    cầu:
    – Thực tế – cụ thể
    – Thể lực tốt – suy nghĩ thực tế
    – Tƣ duy – trí nhớ tốt
    – Say mê, nghiêm túc thực hiện các quy trình kỹ thuật
    – Sáng tạo, khéo tay, tỉ mỉ.
    – Năng lực chú ý vững vàng.
    – Thị lực tốt.
    – Trí tƣởng tƣợng không gian tốt.
    6
    – Phản ứng cảm giác / vận động nhanh, chính xác.
    – Chịu đựng trạng thái căng thẳng.
    – Kiên trì, nhạy cảm.
    – Khí chất thần kinh ổn định.
    *Môi trƣờng làm việc tƣơng ứng.
    Các công việc liên quan đến điều khiển máy móc, đồ vật hoặc chăm sóc,
    bảo vệ vật nuôi, cây trồng; làm việc ngoài trời, đòi hỏi sự khéo léo chân tay khi
    sử dụng các công cụ, máy móc hoặc trong hoạt động thể thao.
    Nghề phù hợp điển hình: chăm sóc cây – con; điều khiển, sử dụng, sửa
    chữa máy móc; nghề thủ công; huấn luyện viên thể hình, cảnh sát, cứu hỏa…
    *Những người không phù hợp với công việc trên:
    – Dị ứng dầu mỡ, hóa chất.
    – Lao, hen, hẹp van tim, viêm thận.
    – Loạn thị, loạn sắc, mù màu.
    – Run tay và mồ hôi quá nhiều.
    – Tâm lý không ổn định.
    * Các ngành nghề đào tạo.
    Vận hành máy, chế tạo máy, cơ khí ứng dụng, tự động, bảo trì và sửa
    chữa ô tô, thiết bị điện, lắp đặt điện, bảo hành, sửa chữa điện, điện tử, tin học,
    xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản, mộc dân dụng,
    mộc mỹ nghệ, thể thao, nấu ăn, làm vƣờn và chăm sóc cây xanh, may mặc,
    thêu nghệ thuật, đan, móc, điêu khắc, nhân viên kỹ thuật phòng lab, tài xế, lái
    tàu…
    Điện, cơ khí, ô tô, công nghệ thông tin, kĩ thuật nấu ăn, kĩ thuật cảnh quan và
    môi trƣờng, kĩ thuật chăm sóc cây cảnh, may dân dụng, may công nghiệp, kĩ
    thuật làm vƣờn, kĩ thuật nuôi trồng thủy sản…
    Các công việc hoạt động thuộc nhóm kĩ thuật có từ công nhân bậc 2/7,
    3/7, công nhân kĩ thuật trình độ trung cấp nghề, kĩ sƣ thực hành, chế tạo, sản
    xuất, kiểm tra, điều khiển hệ thống, gia công, chế biến cơ hóa điện – điện tử, ô
    7
    tô, đầu bếp…
    Hiện nay, tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm
    Kĩ thuật tổng hợp hƣớng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phƣơng, các
    trƣờng trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, các trƣờng cao đẳng nghề, đại
    học vùng và Trung ƣơng
    Hiện nay, tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm Kĩ
    thuật tổng hợp hƣớng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phƣơng, các trƣờng
    trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, các trƣờng cao đẳng nghề, đại học
    vùng và Trung ƣơng
    Nhóm 2: NHÓM NGHIÊN CỨU
    * Đặc điểm.
    Những ngƣời thuộc nhóm này có khả năng phân tích, nghiên cứu rất sâu
    một vấn đề phức tạp. Họ luôn thích khám phá, tìm tòi, điều tra và tò mò về mọi
    thứ xung quanh đến mức phải tìm ra nguồn gốc và nguyên nhân của chúng.
    Thƣờng họ là những ngƣời hƣớng nội, không thích giao tiếp rộng.
    Những ngƣời thuộc nhóm này có khả năng phân tích, nghiên cứu rất sâu một
    vấn đề phức tạp. Họ luôn thích khám phá, tìm tòi, điều tra và tò mò về mọi thứ
    xung quanh đến mức phải tìm ra nguồn gốc và nguyên nhân của chúng.
    Thƣờng họ là những ngƣời hƣớng nội, không thích giao tiếp rộng
    – Có kỹ năng phân tích
    – Điềm tĩnh khi giải quyết công việc
    – Có thể tin tƣởng khi giao việc
    – Tò mò
    – Suy nghĩ độc lập
    – Hiểu biết rộng
    – Có óc sáng tạo
    – Làm việc lôgic
    – Chính xác
    – Sẵn sàng nhận công việc đƣợc phân công
    8
    – Đƣợc công nhận và kiến thức
    – Đóng góp kiến thức mới vào một lĩnh vực
    – Thể hiện trình độ kỹ năng cao
    – Thực hiện vấn đề phức tạp và nhiệm vụ đòi hỏi cao
    *Họ thƣờng thích làm những công việc nhƣ: Lập trình viên, kĩ thuật viên y
    tế, kĩ thuật viên phòng thí nghiệm, chăn nuôi, thú y, kỹ thuật viên phục hồi
    răng, chuyên viên nghiên cứu thị trƣờng, chuyên viên nghiên cứu các lĩnh vực
    khoa học tự nhiên, khoa học xã hội…
    Các ngành nghề trên đƣợc đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, các trƣờng
    trung cấp nghề, các trung tâm kĩ thuật tổng hợp – hƣớng nghiệp của địa
    phƣơng. Các ngành nghề này cũng đƣợc đào tạo trực tiếp tại đơn vị tuyển dụng
    sau một thời gian thực hành và làm việc trực tiếp tại đơn vị đó.
    * Các nghề nghiệp phổ biến phù hợp với nhóm này:





    Nhà sinh vật học.
    Nha sĩ/Dƣợc sĩ.
    Kĩ sƣ phần mềm.
    Nhà khảo cổ học.
    Nhà hóa học/vật lí học/địa lí học, nhà nghiên cứu (địa chất, sử, dân tộc
    học..),
    Bác sĩ, giảng viên đại học, thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên và
    khoa học xã hội…

    Các công việc này đƣợc đào tạo tại các trƣờng đại học, cao đẳng và các học
    viện trên toàn quốc.
    Nhóm 3: NHÓM NGHỆ THUẬT (Kiểu ngƣời sáng tạo, tự do, văn học,
    nghệ thuật )
    * Đặc điểm.
    Những ngƣời ở nhóm nghệ thuật rất thích và có khả năng làm việc thiên
    về tính chất nghệ thuật nhƣ văn chƣơng, vẽ, thiết kế mĩ thuật, đạo diễn, nghệ
    sĩ…
    9
    Đây là dạng nghề đang phát triển mạnh theo nhu cầu xã hội. Cùng trong nhóm
    này là các nhà văn, các biên kịch, nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ…
    Khả năng của ngƣời thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau
    (Sáng tạo – Tự do):
    – Sáng tạo, linh hoạt và thông minh.
    – Kiên trì, nhạy cảm.
    – Tinh thần phục vụ tự nguyện.
    – Có tính tƣởng tƣợng không gian và nhận biết tốt hình dạng vật thể.
    – Có khả năng sống thích ứng.
    – Diễn tả ngôn từ lịch sự, rõ ràng.
    – Hiểu biết về lịch sử, văn hóa, chính trị.
    *Môi trƣờng làm việc tƣơng ứng.
    Sáng tác trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, thủ
    công mĩ nghệ; biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, dẫn chƣơng trình.
    Nghề phù hợp điển hình: viết văn, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nghệ sĩ biểu diễn (nhạc,
    kịch, hát múa.), hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc hay nhà thiết kế mẫu, giảng viên
    văn học…
    *Những người không phù hợp với công việc trên:
    – Bệnh lao, truyền nhiễm.
    – Dị tật, nói ngọng, điếc.
    * Các ngành nghề đào tạo.
    Nhà văn, kiến trúc sƣ, họa sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên (điện ảnh, kịch,
    chèo, cải lƣơng, tuồng…) thợ thủ công mĩ nghệ (chạm khắc gỗ, thêu tranh, làm
    đồ gốm sứ, chạm bạc…), nhà báo, bình luận viên, dẫn chƣơng trình, ngƣời
    mẫu, nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ, đạo diễn, chuyên viên trang điểm, thiết kế thời
    trang, kiến trúc sƣ…
    Hiện nay,có tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm
    kĩ thuật tổng hợp hƣớng nghiệp của địa phƣơng, các trƣờng trung cấp chuyên
    nghiệp, các trƣờng đại học vùng và đại học trên toàn quốc.
    10
    Nhóm 4: NHÓM XÃ HỘI (Kiểu ngƣời linh hoạt, quảng giao – phục vụ xã
    hội)
    *Đặc điểm.
    Những ngƣời ở nhóm xã hội có sở thích và có khả năng làm việc, giao
    tiếp ngƣời với ngƣời, thích đi đây, đi đó. Cùng trong nhóm này là giáo viên, tƣ
    vấn viên, bác sĩ, luật sƣ…
    Khả năng của những ngƣời thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu
    (Quảng giao – Linh hoạt):
    – Có khả năng tổng kết, quy nạp, diễn dịch.
    – Biết lắng nghe, lắng nghe tích cực, có phản hồi.
    – Sáng tạo, linh hoạt, thông minh.
    – Tuyệt đối tôn trọng ý kiến thân chủ.
    – Năng lực chú ý vững vàng.
    – Kiên trì, nhạy cảm.
    – Lịch thiệp.
    – Thần kinh vững mạnh, tự kiềm chế tốt.
    – Tôn trọng mọi ngƣời.
    – Sức khỏe tốt, bền bỉ.
    – Có tính sáng tạo.
    – Tinh thần phục vụ tự ngnguyện
    *Môi trƣờng làm việc tƣơng ứng.
    Làm các công việc trong môi trƣờng mang tính xã hội cao, thƣờng xuyên
    giao tiếp với ngƣời khác hoặc có nhiều cơ hội giúp đỡ, huấn luyện, chỉ dẫn
    ngƣời khác.
    Nghề phù hợp điển hình: sƣ phạm, y khoa, dƣợc khoa, luật sƣ, tâm lí –
    giáo dục, du lịch, xã hội học…
    *Những người không phù hợp với công việc trên:
    – Lao.
    – Thiếu máu.
    11
    – Tâm thần không ổn định.
    – Bệnh truyền nhiễm.
    *Các ngành nghề đào tạo.
    Giáo viên các cấp, tƣ vấn viên, bác sĩ, dƣợc sĩ, y tá, dƣợc tá, nhân viên
    các công ty du lịch, hƣớng dẫn viên du lịch, luật sƣ, huấn luyện viên, tƣ vấn
    hƣớng nghiệp, dịch vụ khách hàng, cán bộ xã hội, cán bộ Hội Phụ nữ, nhân
    viên khách sạn/ Resort…
    Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ
    thuật tổng hợp hƣớng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phƣơng, các trƣờng
    trung cấp chuyên nghiệp và các trƣờng đại học vùng và Trung ƣơng
    Nhóm 5: NHÓM QUẢN LÝ (Kiểu ngƣời chủ động uy quyền – dựng nghiệp
    quản lý)
    * Đặc điểm.
    Những ngƣời ở nhóm quản lí có sở thích và khả năng làm việc thiên về ra
    lệnh cho ngƣời khác và lãnh đạo một nhóm ngƣời hay cả một tập thể lớn. Nghề
    thuộc nhóm này mang tính chất quản lí nhƣ công an, sĩ quan, quản trị kinh
    doanh, kĩ thuật công nghệ, quản lí chuyên nghiệp, điều hành hoạt động hệ thống
    có tầm cỡ ảnh hƣởng rộng lớn với nhiều con ngƣời, nhiều vấn đề ở cấp kinh tế,
    vĩ mô.
    Khả năng của những ngƣời thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu
    sau:
    – Chủ nghĩa – Uy quyền:
    – Nhà quản trị theo quan niệm mới, tránh đặc quyền, độc quyền.
    – Trí tuệ là một quyền lực.
    – Tính cách cƣơng nghị, biểu hiện từ vóc dáng đến tƣ thế đi đứng, ăn nói.
    – Là ngƣời có kĩ năng sống: hài hòa, thích ứng, sáng suốt, tỉnh táo, có hệ thần
    kinh vững , bình tĩnh xét đoán tình hình, đối tƣợng, có trí nhớ tốt, tập trung sâu,
    bền vững.
    * Đòi hỏi phải có các kĩ năng:
    12
    – Kiến tạo tổ chức.
    – Xây dựng giá trị mới cho tổ chức.
    – Tạo ra động lực hoạt động.
    – Không ngừng tự giáo dục và giáo dục thuộc cấp, xây dựng tổ chức học tập.
    *Môi trƣờng làm việc tƣơng ứng: Môi trƣờng làm việc mang tính chất quản
    lí, lãnh đạo, ra lệnh cho ngƣời khác và thực hiện các chức năng:
    – Điều hành chung.
    – Chủ trì sản xuất.
    – Điều phối thông tin, chiến lƣợc giao tiếp.
    – Giám sát từng giai đoạn; trợ giáo.
    – Tạo điều kiện hòa hợp và hội nhập.
    Nghề phù hợp điển hình: nhà lãnh đạo, chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành,
    hiệu trƣởng, luật sƣ…
    *Các ngành nghề đào tạo.
    Công an, sĩ quan quân đội, quản trị kinh doanh, kĩ thuật công nghệ,
    chủ doanh nghiệp, chuyên viên PR (pi-a), quản lí khách sạn, bếp trƣởng khách
    sạn cao cấp, quản lí giáo dục các cấp…
    Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ thuật
    tổng hợp hƣớng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phƣơng, các trƣờng trung
    cấp chuyên nghiệp, các trƣờng đại học vùng và đại học trên toàn quốc.
    Nhóm 6: NHÓM NGHIỆP VỤ (Kiểu ngƣời thận trọng, nề nếp – nghiệp
    vụ quy củ)
    *Đặc điểm.
    Những ngƣời ở nhóm nghiệp vụ có sở thích và có khả năng làm việc ở
    văn phòng, làm các công việc sổ sách nhƣ các ngành nghề về văn thƣ, hành
    chính, tài vụ, bƣu điện, tiếp tân….
    Nhóm nghề này đòi hỏi phải có hoạt động giao tiếp với nhiều ngƣời, với
    nhiều công việc, có nghiệp vụ, đƣợc huấn luyện từ trung cấp đến đại học
    trong doanh nghiệp, trong hoạt động phục vụ công cộng…
    13
    Khả năng của những ngƣời thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu
    cầu sau:
    – Nền nếp – thận trọng
    – Lĩnh hội diễn tả ngôn từ lịch sự, hấp dẫn, rõ ràng.
    – Thận trọng nhƣng nhanh nhẹn.
    – Ứng xử kịp thời, siêng năng.
    – Hiểu biết về lịch sử, chính trị, văn hoá, nghệ thuật…
    – Hiểu rõ ngƣời đối thoại.
    – Làm việc ngăn nắp, điều độ, không nhầm lẫn.
    – Có trí nhớ tốt.
    – Tự tin, biết điều tiết, kiềm chế. – Có khả năng hoạt động độc lập.
    – Giỏi ngoại ngữ và tâm lí ứng xử.
    – Xử lí thông tin tốt.
    *Môi trƣờng làm việc tƣơng ứng.
    Môi trƣờng làm việc mang tính chất giao tiếp sự việc với nhiều
    ngƣời, nhiều công việc, đòi hỏi có tính nghiệp vụ nhƣ lƣu trữ văn thƣ, kế
    toán, tài chính, tín dụng…
    Nghề phù hợp điển hình: nhân viên ngân hàng, kế toán, thƣ kí văn phòng,
    biên tập viên…
    * Những ngƣời không có khả năng làm công việc này:
    – Bệnh lao, bệnh truyền nhiễm.
    – Dị tật, nói ngọng, điếc.
    *Các ngành nghề đào tạo.
    Thƣ kí, nhân viên lƣu trữ, thƣ viện, nhân viên văn phòng, chuyên viên
    thuế, thủ quỹ, kế toán viên, tiếp tân, bƣu điện, nhân viên ngân hàng…
    Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại trung tâm kĩ thuật tổng
    hợp hƣớng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phƣơng, các trƣờng trung cấp
    chuyên nghiệp và các trƣờng đại học vùng, Trung ƣơng.
    14
    *Có thể tóm tắt lý thuyết Holland dựa trên phân tích tính cách, kĩ năng
    của cá nhân để đề xuất những ngành nghề phù hợp

    NHÓMTÍNH CÁCH /
    KỸ NĂNG
    NGHỀ
    NGHIỆP
    HOẠT
    ĐỘNG
    NGHỀ
    NGHIỆP
    HOẠT ĐỘNG
    GIẢI TRÍ
    Kỹ
    thuật
    (Realisti
    c)
    RThực tế, đáng
    tin cậy, đơn
    giản, coi trọng
    truyền thống,
    kiên gan, thao
    tác vận động
    khéo léo
    Thiên nhiên
    và Nông
    nghiệp
    Cơ khí, xây
    dựng, kỹ
    thuật, công
    nghệ
    Thể thao,
    quân
    sự,dịch
    vụbảo vệ
    Nghề thủ
    công
    Vận hành
    máy móc,
    sử dụng
    công cụ,
    xây dựng,
    sửa chữa
    Có hứng thú
    với máy móc,
    thiết bị, thao
    tác vận động,
    xây dựng, sửa
    chữa, cắm trại,
    lái xe, làm việc
    ngoài trời
    Nghiên
    cứu
    (Investi
    gative)
    IĐộc lập, sâu
    sắc, ham hiểu
    biết. Khả năng
    định hƣớng,
    khả năng tự
    học, tự tổ chức
    nghiên cứu, khả
    năng phân tích,
    viết, toán học.
    Nghiên cứu
    khoa học
    Toán học
    Vật lý, tự
    nhiên
    Y khoa
    Tiến hành
    nghiên
    cứu, thí
    nghiệm,
    khám phá,
    giải quyết
    các vấn đề
    trừu tƣợng.
    Có hứng thú
    với khoa học, y
    học, toán học,
    nghiên cứu,
    đọc sách, làm ô
    chữ, câu đố,
    khai thác
    internet.

    15

    Nghệ
    thuật
    (Artistic)
    ASáng tạo, độc
    lập, độc đáo,
    sức tƣởng
    tƣợng phong
    phú, khả năng
    âm nhạc, biểu
    diễn nghệ thuật.
    Viết và
    Truyền
    thông
    Nghệ thuật
    biểu diễn
    Nghệ thuật
    hình ảnh và
    tạo hình
    Nghệ thuật
    ẩm thực
    Soạn nhạc,
    biểu diễn,
    sáng tác,
    nghệ thuật
    tạo hình
    Thích tự thể
    hiện, thu thập
    các tác phẩm
    nghệ thuật,
    tham dự các
    buổi biểu diễn,
    tham quan bảo
    tàng, chơi các
    nhạc cụ, quan
    tâm đến truyền
    thông, văn hóa.
    Xã hội
    (Social)
    SThích hợp tác,
    rộng lƣợng,
    phục vụ ngƣời
    khác. Kỹ năng
    nói, nghe, giảng
    giải và các kỹ
    năng làm việc
    với ngƣời khác
    Khoa học
    xã hội
    Tƣ vấn và
    Giúp đỡ
    Nhân sự và
    Đào tạo
    Giảng dạy
    và Giáo dục
    Dịch vụ
    chăm sóc
    sức khỏe
    Tôn giáo và
    Tâm linh
    Giảng dạy,
    chỉ dẫn,
    đào tạo,
    chăm sóc,
    giúp đỡ,
    hỗ trợ
    Thích làm việc
    với con ngƣời,
    tham gia các
    hoạt động tình
    nguyện, đọc
    các sách hoàn
    thiện bản thân.

    16

    Mạnh
    bạo
    (Enterp
    rising)
    EQuyết đoán, tự
    tin, năng động,
    thích giao lƣu,
    ƣa mạo hiểm,
    cạnh tranh, địa
    vị, có khả năng
    gây ảnh hƣởng,
    thuyết phục và
    chỉ đạo ngƣời
    khác.
    Quản lý,
    kinh doanh
    Marketing
    và Bán hàng
    Chính trị và
    Diễn thuyết
    Luật
    Quản lý,
    bán hàng,
    thuyết
    phục
    Có hứng thú
    với lĩnh vực
    kinh doanh,
    chính trị, lãnh
    đạo, doanh
    nhân
    Tổ chức
    (Conve
    ntional)
    CSống thực tế, có
    tổ chức, ngăn
    nắp, tỉ mỉ,
    chính xác, tin
    cậy, ổn định,
    hiệu quả. Có
    khả năng làm
    việc với các dữ
    liệu, số liệu
    Quản trị văn
    phòng
    Tài chính,
    kế toán, đầu

    Công chức
    nhà nƣớc
    Phát triển
    phần mềm
    Thiết lập
    các thủ tục
    và hệ
    thống, tổ
    chức lƣu
    giữ tài
    liệu, sử
    dụng các
    phần mềm
    ứng dụng.
    Có hứng thú
    trong lĩnh vực
    tổ chức, quản
    lý dữ liệu, kế
    toán, đầu tƣ, hệ
    thống thông tin

    1.2. Bài trắc nghiệm của Holland sử dụng trong tƣ vấn hƣớng nghiệp cho
    học sinh
    – Bài trắc nghiệm của Holland gồm các câu hỏi ứng với 6 nhóm tính
    cách. Sau khi trả lời điểm số nhóm nào cao nhất đó chính là tính cách của
    ngƣời làm trắc nghiệm. Dựa vào phân tích chọn nhóm nghề phù hợp với mình.
    Bƣớc 1: Các ý liệt kê trong mỗi bảng hƣớng đến các tố chất và năng lực cá
    nhân. Với mỗi ý sẽ có nhiều mức độ phù hợp, tƣơng ứng với mỗi mức độ phù
    17
    hợp, sẽ đƣợc quy định một điểm số tƣơng ứng. Điểm số tƣơng ứng này do
    ngƣời làm trắc nghiệm đánh giá và tự cho điểm theo quy ƣớc sau.
    1. Bạn thấy ý đó chƣa bao giờ đúng với bạn – tƣơng ứng 0 đ
    2. Chỉ thấy ý đó chỉ đúng trong một vài trƣờng hợp – tƣơng ứng 1 đ
    3. Bạn thấy ý đó chỉ một nửa là đúng với bạn – tƣơng ứng 2 đ
    4. Bạn thấy ý đó gần nhƣ là đúng với bạn trong hầu hết mọi trƣờng hợp, chỉ có
    một vài trƣờng hợp là chƣa đúng lắm – tƣơng ứng 3đ
    5. Bạn thấy ý đó là hoàn toàn đúng với bạn, không thể nào khác đi đƣợc tƣơng
    ứng 4 đ
    Bƣớc 2: Cho điểm vào từng ý trong mỗi bảng, và cộng tổng điểm của từng
    bảng

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng và phát triển phong trào tập luyện môn Cầu lông cho học sinh và Câu lạc bộ cầu lông khu vực Trường THPT

    SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng và phát triển phong trào tập luyện môn Cầu lông cho học sinh và Câu lạc bộ cầu lông khu vực Trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Bác Hồ đã khẳng định mục đích của rèn luyện sức khoẻ dưới chế độ mới là để xây
    dựng một xã hội văn minh. Mục đích của GDTC là phát triển toàn diện thế hệ trẻ
    Việt Nam, thế hệ trẻ đó phải được phát triển thể chất có chủ đích để thực hiện mục
    tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước.
    Các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X của Đảng đã
    xác định những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn để chỉ đạo công tác TDTT trong
    sự nghiệp đổi mới trong đó: Phát triển TDTT là một Giải pháp tích cực để giữ gìn và
    nâng cao sức khoẻ, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, góp
    phần mở rộng giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh
    và quốc phòng của đất nước
    Trong hệ thống Giáo dục – Đào tạo của nước ta. Giáo dục thể chất là một bộ phận
    quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm đào tạo cho họ
    thành những chủ nhân tương lai của đất nước có nhân cách đạo đức tốt, trình độ
    chuyên môn cao, có sức khoẻ dồi dào, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
    Những năm qua công tác giáo dục thể chất trong các nhà trường luôn được Đảng,
    Nhà nước quan tâm cả về vật chẫn lẫn tinh thần thông qua việc đầu tư, tăng cường
    cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, cải tiến chương trình giảng dạy nhằm đáp ứng những
    yêu cầu trong thời đại mới. Trong các môn thể thao, Cầu lông là một môn thể thao
    có sức hấp dẫn, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện và
    thi đấu, từ lứa tuổi thanh thiếu niên, học sinh cho đến người cao tuổi. Thậm chí cả
    những người khuyết tật cũng có thể tham gia tập luyện môn thể thao này
    Trong những năm gần đây sự phát triển của TDTT nước nhà đã và đang lớn mạnh
    không ngừng. Song song với những môn thể thao khác thì môn thể thao Cầu lông
    cũng được chú trọng và phát triển. Cầu lông là một môn thể thao rất dễ chơi và nhiều
    đối tượng có thể tham gia. Cầu lông là môn thể thao đối kháng gián tiếp không va
    chạm trực tiếp bởi quy luật ngăn cách lưới, sân và không gian trên lưới, tính đối
    kháng cũng như căng thẳng, gay cấn qua từng quả cầu đánh trả. Bởi vậy phong trào
    cầu lông nước ta ngày nay đã phát triển sâu rộng từ thành thị đến nông thôn, trung
    du và miền núi, ở mọi lứa tuổi đều tham gia. Phong trào cầu lông đã có những bước
    phát triển mạnh mẽ và có nhiều tiến bộ về trình độ và môn Cầu lông đã được Bộ
    Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình giảng dạy chính thức trong các nhà trường
    THPT.
    Hiện nay phong trào tập luyện và thi đấu môn Cầu lông trong trường THPT B Nghĩa
    Hưng vẫn được duy trì thông qua các giờ học chính khóa của môn Thể dục, các buổi
    ngoại khóa, thậm chí ngay trong các giờ giải lao trong các buổi học. Tuy nhiên thực
    tế hiện tại cho thấy số lượng tham gia còn hạn chế nguyên nhân là do tác động của
    xã hội cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các trò chơi công nghệ số đang
    4
    thu hút hầu hết các em học sinh tham gia. Mặt khác, nhiều học sinh tập trung học văn
    hoá nhiều, lười vận động làm ảnh hưởng rất lớn đến phong trào tập luyện và thi đấu
    của các môn thể thao nói chung và môn Cầu lông nói riêng. Do đó phong trào tập
    luyện môn thể thao này vẫn chưa phát huy được trong trường THPT B Nghĩa Hưng
    Xuất phát từ thực tế nêu trên, với mong muốn đẩy mạnh phong trào tập luyện môn
    Cầu lông cho học sinh trường THPT B Nghĩa hưng nói chung cũng như CLB và quần
    chúng khu vực trường nói riêng, tôi tiến hành nghiên cứu và áp dụng “Một số giải
    pháp nâng cao chất lượng và phát triển phong trào tập luyện môn Cầu lông cho học
    sinh và CLB Cầu lông khu vực trường THPT B Nghĩa hưng”. Nhằm mục đích duy
    trì và nâng cao chất lượng học tập môn GDTC của học sinh nói chung và CLB Cầu
    lông nói riêng trong nhà trường.
    Mục đích của sáng kiến:
    Thông qua việc phân tích lý luận và đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn
    Cầu lông của học sinh trường THPT B Nghĩa hưng, sáng kiến xây dựng và áp dụng
    thực tế các nhóm Giải pháp thích hợp, có tính khả thi theo hướng nhằm phát triển
    phong trào tập luyện môn Cầu lông cho học sinh cũng như CLB Cầu lông trường
    THPT B Nghĩa Hưng.
    Mục tiêu của sáng kiến:
    Căn cứ vào mục đích đã đặt ra, sáng kiến giải quyết 2 mục tiêu sau:
    Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn Cầu lông của học sinh và
    CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa hưng
    Mục tiêu 2: Xây dựng và áp dụng thực tế một số giải pháp nhắm phát triển phong
    trào tập luyện môn Cầu lông cho học sinh cũng như phát triển CLB Cầu lông khu
    vực trường THPT B Nghĩa Hưng
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các cấp về công tác GDTC trong
    trường học
    GDTC trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu được của nền giáo dục xã
    hội chủ nghĩa. GDTC có tác dụng tích cực đối với sự hoàn thiện cá tính, nhân cách,
    những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất của học sinh nhằm đào tạo con
    người phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
    nước giữ vững an ninh quốc phòng.
    Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phong trào rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ
    đại, phát triển phong trào thể thao trường học; thường xuyên tập luyện và thi đấu các
    môn thể thao trong cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, học sinh trong trường học
    để nâng cao sức khoẻ, thể chất góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
    5
    – Góp phần thực hiện mục tiêu Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của
    Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
    và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
    trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; thực hiện Quyết định
    1076/QĐ-TTg ngày 17/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án
    tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2016-2020 và
    định hướng đến năm 2025, Quyết định số 641/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
    ngày 28 tháng 4 năm 2011 về việc phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm
    vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030
    Trong giai đoạn hiện nay mục tiêu của GDTC trong nhà trường các cấp là gắn
    liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo tinh thần nghị quyết
    Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng
    nhân lực, đào tạo nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có
    năng lực thực hành, tự chủ và năng động sáng tạo.
    Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác GDTC, coi như một mặt trong
    mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường xã hội chủ nghĩa. GDTC trong nhà trường
    các cấp còn giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến lược phát triển sự nghiệp
    TDTT.
    GDTC là bộ phận hữu cơ của mục tiêu Giáo dục và Đào tạo, đồng thời là bộ
    phận quan trọng của nền Giáo dục Việt Nam. GDTC trong trường học, đang cùng
    với thể thao thành tích cao, thể thao cho mọi người và các bộ phận thể dục thể thao
    khác, đảm bảo cho nền thể dục thể thao phát triển cân đối và đồng bộ, góp phần thực
    hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát triển TDTT Việt Nam.
    Các quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác xã hội hoá thể
    dục thể thao là:
    + Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng của xã hội. phát triển thể dục thể thao
    là một phương tiện hữu hiệu để phát triển con người toàn diện – đây vừa là mục tiêu,
    vừa là động lực phát triển xã hội. Thể dục thể thao góp phần tích cực nâng cao sức
    khoẻ, phát triển nhân cách con người, tạo ra lối sống lành mạnh, văn minh trong xã
    hội.
    + Thể dục thể thao Việt Nam phải là một nền thể thao phát triển và tiến bộ, có tính
    độc lập, khoa học và mang tính toàn dân.
    + Thể dục thể thao là sự nghiệp của quần chúng, là trách nhiệm của toàn xã hội. Mọi
    tổ chức Đảng, Chính quyền, Tổ chức xã hội ở các cấp phải coi trọng, có trách nhiệm
    phát triển thể dục thể thao.
    6
    Những quan điểm trên là căn cứ, cơ sở giúp cho việc hoạch định có hiệu quả trong
    mọi phạm vi hoạt động của thể dục thể thao, trong đó bao gồm cả hoạt động tổ chức,
    xây dựng quản lý các tổ chức xã hội về thể dục thể thao.
    1.2. Mục tiêu của công tác GDTC cho học sinh phổ thông.
    Mục tiêu của công tác GDTC cho học sinh phổ thông trong thời gian tới là:
    Góp phần phát triển hài hoà thể chất, sức khoẻ nâng cao thể lực, bồi dưỡng năng lực
    và kỹ năng vận động nhằm tăng cường hiệu quả học tập, lao động và sẵn sàng bảo
    vệ Tổ quốc của thế hệ trẻ Việt Nam.
    Góp phần tạo dựng cuộc sống văn hoá, tinh thần lành mạnh, hạn chế các tệ nạn xã
    hội, đào tạo và bồi dưỡng tài năng TDTT cho đất nước.
    Phấn đấu đưa việc dạy học thể dục nội khóa vào nề nếp và có hiệu quả trong nhà
    trường phổ thông.
    Tăng cường rèn luyện thể chất và đẩy mạnh công tác y tế học đường, giáo dục sức
    khoẻ và vệ sinh môi trường nhằm tích cực tạo điều kiện nâng cao sức khoẻ cho học
    sinh.
    Giáo dục và bồi dưỡng học sinh năng khiếu, phát hiện tài năng và phấn đấu nâng cao
    một bước thành tích thể thao học sinh phổ thông.
    GDTC là một trong năm mặt giáo dục toàn diện cho học sinh. Mặt khác, bản thân
    GDTC đã bao hàm các nội dung của giáo dục toàn diện, bởi vậy công tác GDTC
    trong nhà trường các cấp phải hướng vào thực hiện các nhiệm vụ chính sau:
    – Góp phần phát triển đúng đắn thể chất và củng cố sức khoẻ.
    – Phát triển tố chất thể lực.
    – Hình thành hứng thú bền vững và nhu cầu luyện tập một cách có hệ thống.
    Tuổi học sinh phổ thông vốn có những nét đặc thù, vì vậy trong việc chăm sóc
    và giáo dục học sinh nói chung cũng như trong GDTC nói riêng cho lứa tuổi này cần
    có những đặc trưng riêng: Học tập, vui chơi và vận động là hoạt động chủ đạo. Đó
    là những nhu cầu không thể thiếu được của học sinh phổ thông. Do vậy trong nội
    dung GDTC cho học sinh phổ thông cần ưu tiên trước hết cho các bài tập phát triển
    chung, bài tập phát triển sức bền, điền kinh (chạy, nhảy), các bài tập trò chơi vận
    động và một số môn thể thao như: Cầu lông, Đá cầu Bóng đá, Bóng bàn, Bóng rổ, …
    1.3. Công tác GDTC trong nhà trường THPT hiện nay.
    1.3.1. Nội dung chương trình môn học thể dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
    Có thể nói, từ lâu công tác GDTC trong nhà trường phổ thông đã trở thành
    mối quan tâm của Đảng, Nhà nước ta. Điều 20 của luật TDTT ghi rõ: “GDTC là môn
    học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận
    7
    động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần
    thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện trong nhà trường”. Trên thực tế, cán bộ ban
    ngành cùng các nhà trường đã tích cực xây dựng cơ sở vật chất, chuẩn hoá đội ngũ
    giáo viên thể dục, đưa việc nâng cao sức khoẻ, thể lực của học sinh trở thành mục
    tiêu quan trọng, xuyên suốt từ bậc tiểu học đến hết THPT. Theo quy định hiện nay
    đối với bậc THPT, môn thể dục có thời lượng là 02 tiết/tuần, mỗi tiết 45 phút, tổng
    cộng số thời gian là 70 tiết/năm học cho mỗi khối.
    1.3.2. Thực trạng công tác GDTC nói chung và công tác giảng dạy môn Cầu lông
    cũng như sự phát triển phong trào CLB Cầu lông tại trường THPT B Nghĩa hưng
    1.3.2.1. Thực trạng công tác GDTC của trường THPT B Nghĩa Hưng
    Trong những năm qua trường THPT B Nghĩa hưng thực hiện nghiêm túc quy
    định của Bộ Giáo dục Đào tạo về phân phối chương trình môn thể dục. Đội ngũ giáo
    viên TDTT thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nâng cao kiến thức để phục
    vụ cho nhiệm vụ giảng dạy, đã từng bước đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn
    nghiệp vụ.
    Đến nay nhà trường thực hiện tốt chương trình GDTC chính khoá có nề nếp
    theo quy định; thường xuyên có hoạt động TDTT ngoại khoá có nề nếp nhất là tổ
    chức các hoạt động thi đấu thể thao cho học sinh (Hội khỏe Phù Đổng cấp trường
    hằng năm và hoạt động giao lưu các CLB Cầu lông trong toàn tỉnh)
    Hình thức tổ chức và nội dung tập luyện TDTT của học sinh ngày càng đa
    dạng và dần đi vào nề nếp. Trong đó các sinh hoạt dưới hình thức nhóm TDTT có tổ
    chức, có người hướng dẫn ngày càng được phát triển.
    Công tác chỉ đạo điều hành tiếp tục được tăng cường, sát với thực tế, thể hiện
    ở việc lãnh đạo nhà trường thường xuyên kiểm tra giờ dạy của giáo viên, triển khai
    cho các ban dự giờ, rút kinh nghiệm, kiểm tra hồ sơ giáo án… đồng thời luôn cập
    nhật, quán triệt các văn bản về công tác GDTC và hoạt động TDTT trường học nhằm
    thúc đẩy lực lượng giáo viên chủ động trong công tác chuyên môn.
    1.3.2.2. Thực trạng công tác giảng dạy môn Cầu lông tại trường THPT B Nghĩa
    Hưng
    Cầu lông là môn thể thao được đưa vào chương trình THPT . Khi thực hiện
    theo phân phối chương trình, thời gian học môn Cầu lông chỉ vào khoảng 6-8 tiết cho
    cả 3 khối và một trong các khối có thêm nội dung Chạy bền. Mặc dù đã cố gắng tận
    dụng thời gian nhưng thời gian để các em tập luyện vẫn chưa được nhiều.
    Nhiều em học sinh đam mê môn học nhưng cũng chỉ có một số ít có điều kiện
    tập luyện. Tuy nhiên các em tập luyện đều vào thời gian ngoài giờ học ở trường và
    chủ yếu các em tập luyện là tự tập không có sự kèm cặp của các thầy cô, các huấn
    luyện viên nên các kĩ thuật động tác vẫn còn thiếu chính xác.
    8
    Có nhiều nguyên nhân khiến cho việc tập luyện môn Cầu lông chưa được phát
    triển như:
    – Do môn Cầu lông cần có dụng cụ cá nhân nên nhiều học sinh không có điều
    kiện để mua sắm dụng cụ tập luyện
    – Thời lượng học môn cầu lông chưa đủ để học sinh đủ trình độ tham gia đấu
    tập và thi đấu với nhau
    – Do điều kiện nhà trường chưa hỗ trợ được nhiều kinh phí để mua dụng cụ cho
    học sinh tập luyện
    – Giáo viên chuyên sâu chưa đủ đáp ứng được số lượng học sinh
    – Một số ít học sinh nữ còn ngại luyện tập với môn Cầu lông
    1.3.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc phát triển phong trào tập luyện
    Cầu lông của học sinh và phát triển CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa hưng
    1.3.3.1. Nhận thức của cấp uỷ Đảng, Ban giám hiệu, các ban ngành đoàn thể, các
    CB – GV – CNV trong trường THPT B Nghĩa Hưng đối với công tác Giáo dục thể
    chất.
    Trong nhiều năm qua công tác Giáo dục thể chất ở trường THPT B Nghĩa Hưng
    luôn được chi bộ Đảng, ban Giám hiệu và các ban ngành đoàn thể trong nhà trường
    quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện tích cực về cả vật chất và tinh thần. Quán triệt nghị
    quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước đối với công tác TDTT nói chung, công tác
    Giáo dục thể chất nói riêng, cấp uỷ Đảng, ban Giám hiệu và các ban ngành đoàn thể
    trong nhà trường đã khẳng định xây dựng và phát triển phong trào TDTT là một bộ
    phận trong chiến lược phát triển nhà trường.
    Trong những năm qua cấp ủy, ban Giám hiệu trong nhà trường đã quán triệt đường
    lối đổi mới của Đảng, của ngành, vận dụng vào thực tiễn nhà trường với các nhiệm
    vụ cụ thể sau:
    + Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền để không ngừng nâng cao nhận thức của
    các tổ chức đoàn thể, CB – GV – CNV và học sinh về nhiệm vụ duy trì và phát triển
    phong trào tập luyện và thi đấu các môn thể thao trong nhà trường để đáp ứng nhu
    cầu, nhiệm vụ mới.
    + Hoàn thành xây dựng quy hoạch phát triển các công trình phục vụ cho công tác
    Giáo dục thể chất. Đẩy mạnh xã hội hoá phục vụ cho các hoạt động TDTT. Huy
    động các nguồn lực đầu tư cho công tác TDTT, đa dạng hoá các loại hình hoạt động
    thể thao trong nhà trường, duy trì và phát triển đa dạng các môn thể thao học sinh,
    đặc biệt là những môn thể thao thế mạnh của nhà trường, của địa bàn dân cư nơi
    trường đặt địa điểm như Cầu lông, Điền kinh, Bóng chuyền, Bóng đá…
    + Phát triển mạnh, sâu rộng phong trào Thể thao học đường, đẩy mạnh thực hiện
    9
    cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Đặc biệt
    nâng cao chất lưọng giáo dục thể chất góp phần đào tạo con người mới phát triển
    toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mĩ. Thông qua các hoạt động của thể thao trong nhà
    trường phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho đội tuyển TDTT của nhà trường,
    của ngành GD&ĐT Nam Định.
    Đối với trường THPT B Nghĩa Hưng các môn thể thao nói chung và môn Cầu lông
    nói riêng dành cho CB – GV – CNV và học sinh đều được Chi bộ – BGH, Công
    đoàn, Đoàn Thanh niên đặc biệt quan tâm, thường xuyên tổ chức các giải thi đấu
    động viên khen thưởng kịp thời, tạo không khí sôi nổi trong tập luyện và thi đấu
    trong nhà trường.
    1.3.3.2. Công tác tổ chức quản lí.
    Đây là một nhân tố hết sức quan trọng, tổ chức quản lí không tốt sẽ không phát huy
    được hiệu quả. Khâu tổ chức quản lí chủ yếu về ba lĩnh vực:
    + Tổ chức quản lí con người
    + Tổ chức quản lí vật chất, dụng cụ sân bãi.
    + Phát huy sự hợp đồng hỗ trợ của nguồn lực bên trong và bên ngoài nhà trường
    Trong đó chủ yếu là đội ngũ cán bộ, giáo viên giáo dục thể chất, ngoài ra còn có
    đội ngũ hướng dẫn, BCH Công đoàn, BCH Đoàn trường, giáo viên chủ nhiệm…Nếu
    công tác tổ chức quản lí có sự phối hợp rộng rãi thì sẽ phát huy được sức mạnh cộng
    đồng.
    Vấn đề này đã được lãnh đạo của nhà trường chủ yếu là tạo điều kiện về thời gian
    và cơ sở vật chất cho việc tập luyện và công tác tổ chức các giải thi đấu và giao lưu
    giữa các CLB
    1.3.3.3. Trình độ và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên GDTC trường THPT
    B Nghĩa hưng
    Trong thời đại ngày nay khi thế giới bùng nổ cuộc cách mạng thông tin cũng như
    khoa học công nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt đã ảnh hưởng đến sự phát triển
    của TDTT làm cho sự tiếp cận trình độ của nhau ngày càng gần hơn. Sự đua tranh
    trên sàn đấu ngày càng căng thẳng và gay cấn hơn. đứng trước tình hình đó, nhiều
    nhà khoa học của các nước có nền thể thao tiên tiến như Trung Quốc, Nga, Mỹ,
    Inđônêsia, Malaisia, Singapore, Nhật… đã cho rằng các cuộc tranh tài thể thao ở
    thế kỉ XXI không chỉ còn là sự đua tranh về kĩ chiến thuật thể lực mà còn là sự đua
    tranh về trình độ trí tuệ của các vận động viên, huấn luyện viên.
    10
    Khoa học TDTT là một môn khoa học đã can thiệp, chịu ảnh hưởng hàng loạt các
    ngành khoa học khác như Sinh lí, Sinh học, Sinh cơ, Tâm lí, Quản lí… Đồng thời
    các môn khoa học này cũng không ngừng tiến bộ và phát triển. Đối mặt với tri thức,
    khoa học tiến bộ như vậy, nếu người giáo viên GDTC không chịu đổi mới, nâng
    cao trình độ tri thức thì khó có thể đào tạo được những tài năng trong lĩnh vực thể
    thao.
    Trường THPT B Nghĩa Hưng hiện có 8 giáo viên bộ môn GDTC – QPAN hiện
    đang sinh hoạt trong tổ Thể dục – QPAN – GDCD, tất cả đều đạt trình độ chuẩn.
    Lực lượng này là một yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển phong trào tập
    luyện TDTT nói chung và phong trào tập luyện CLB Cầu lông nói riêng của trường
    THPT B Nghĩa Hưng.
    1.4. Định hướng phát triển phong trào tập luyện môn Cầu lông của học sinh nói chung
    và CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa Hưng
    Trường THPT B Nghĩa hưng có những tiềm năng rất thuận lợi để phát triển phong
    trào tập luyện và thi đấu môn Cầu lông đó là:
    Cấp uỷ Đảng, Ban giám hiệu và các ban ngành đoàn thể trong nhà trường đều rất
    quan tâm đến việc phát triển TDTT nhằm nâng cao sức khoẻ cho học sinh, CBGV
    và quần chúng nhân dân. Điều này được thể hiện qua việc xây dựng, đầu tư cơ sở
    vật chất phục vụ cho tập luyện và thi đấu TDTT. Hàng năm có sự kiểm kê, duy tu,
    sửa chữa, bổ sung cơ sở vật chất phục vụ tốt nhất cho học sinh tập luyện. Hàng năm
    nhà trường đều dành một khoản tài chính lớn để tổ chức Hội khoẻ Phù Đổng cấp
    trường và tham gia các giải thi đấu thể thao học sinh cấp tỉnh. Nhà trường còn đưa
    công tác rèn luyện thân thể, công tác tham gia các cuộc thi đấu trong nhà trường trở
    thành một tiêu chí thi đua đối với học sinh và cán bộ giáo viên. Các cá nhân có thành
    tích thi đấu cao tại các giải đều được khen thưởng động viên kịp thời. Điều đó đã
    khích lệ tinh thần tập luyện và thi đấu của các em học sinh. Tuy nhiên số lượng học
    sinh tham gia vẫn chưa được nhiều như mục tiêu đặt ra mặc dù môn Cầu lông phù
    hợp với sự phát triển thể chất và thể lực của học sinh.
    Cầu lông là một môn thể thao quần chúng, dễ học, dễ chơi, nên số lượng người chơi
    từ già đến trẻ khá nhiều. Vì vậy đã tạo ra một lực lượng huấn luyện viên, hướng dẫn
    viên, vận động viên nghiệp dư rất lớn. Trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng nói chung,
    địa bàn trường nói riêng phong trào tập luyện và thi đấu môn Cầu lông diễn ra khá
    sôi nổi nên cũng đã thu hút được học sinh tham gia tập luyện và thi đấu nhằm rèn
    luyện thể chất và giải trí sau những giờ học căng thẳng.
    Môn Cầu lông là môn thể thao đòi hỏi trí thông minh, tính sáng tạo, sự quyết
    đoán và khả năng xử lý tình huống nhanh, chính xác. Những tố chất này lại rất phù
    hợp với sự phát triển về thể chất và tinh thần ở lứa tuổi học sinh, đặc biệt là lứa tuổi
    11
    học sinh THPT.
    Từ việc nghiên cứu, phân tích những cơ sở lý luận và các điều kiện thực tế, sáng
    kiến đã hình thành nên những cơ sở lý luận quan trọng trong việc tổ chức, quản lý
    phong trào tập luyện môn Cầu lông của học sinh trường THPT B Nghĩa hưng, định
    hướng cho các bước nghiên cứu tiếp theo của sáng kiến. Vấn đề này được thực hiện
    theo các bước sau:
    Bước 1: Phân tích, đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn Cầu lông
    của học sinh và CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa hưng bao gồm các yếu tố:
    + Truyền thống của trường THPT B Nghĩa hưng
    + Thực trạng phong trào TDTT Và Cầu lông nói riêng của học sinh trường
    THPT B Nghĩa hưng
    + Thực trạng cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ phục vụ cho phong trào tập
    luyện và thi đấu môn Cầu lông của học sinh.
    + Thực trạng đội ngũ giáo viên GDTC trong trường THPT B Nghĩa hưng
    + Sự phát triển của CLB và số lượng học sinh thường xuyên tham gia tập
    luyện trong CLB Cầu lông
    Bước 2: Để nâng cao hiệu quả phong trào tập luyện môn Cầu lông của học
    sinh trường THPT B Nghĩa hưng, cần nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cũng
    như khảo sát thực trạng công tác tổ chức, quản lý, tập luyện và nhu cầu, sự ham
    thích tập luyện TDTT nói chung và môn Cầu lông nói riêng của học sinh. Đồng thời
    thông qua việc tham khảo ý kiến của các cán bộ quản lý, các giáo viên để xây dựng
    các Giải pháp một cách có hiệu quả nhằm phát triển phong trào tập luyện môn Cầu
    lông và CLB Cầu lông đối với học sinh trường THPT B Nghĩa hưng đồng thời trong
    giai đoạn nghiên cứu này sáng kiến cũng tiến hành khảo sát, phỏng vấn các cán bộ
    quản lý, các giáo viên, trong và ngoài nhà trường. Xây dựng kế hoạch thực nghiệm
    và tiến hành thực nghiệm sư phạm một số giải pháp lựa chọn. Kết quả nghiên cứu
    của giai đoạn này là xác định được cơ sở lý luận, luận cứ khoa học cho việc lựa
    chọn, ứng dụng các Giải pháp phát triển phong trào tập luyện môn Cầu lông của
    học sinh trường THPT B Nghĩa hưng
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    2.1. Phân tích, đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn Cầu lông của học sinh
    và CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa hưng
    Để đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển phong trào tập luyện
    môn Cầu lông của học sinh trường THPT B Nghĩa hưng, sáng kiến đã tiến hành
    12
    khảo sát các yếu tố liên quan chủ yếu chi phối hiệu quả phát triển phong trào tập
    luyện môn Cầu lông của học sinh trường THPT B Nghĩa hưng đó là:
    1. Truyền thống về trường THPT B Nghĩa hưng
    2. Phong trào TDTT học sinh trường THPT B Nghĩa hưng nói chung và môn Cầu
    lông nói riêng
    3. Cơ sở vật chất, dụng cụ, trang thiết bị phục vụ cho phong trào tập luyện môn Cầu
    lông của học sinh và CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa hưng
    4. Đội ngũ giáo viên GDTC trường THPT B Nghĩa hưng
    5. Triển khai các hoạt động thi đấu Cầu lông cấp trường được tổ chức hàng năm .
    6. Sự phát triển của CLB, đối tượng tham gia tập luyện và số học sinh thường xuyên
    tham gia tập luyện môn Cầu lông trong trường THPT B Nghĩa hưng
    2.1.1. Truyền thống trường THPT B Nghĩa hưng
    Trường THPT B Nghĩa Hưng ngày nay tiền thân là trường cấp 3B Nghĩa Hưng
    được thành lập ngày 17 tháng 9 năm 1971 theo quyết định của Ủy ban quản lý tỉnh
    Nam Hà cũ.
    Khi đó, trường chỉ có 10 10/10 lớp. Khoá học 1971-1974 là khoá đầu tiên của trường,
    với 5 lớp trong 2 năm đầu.
    Đến nay, trường có tổng số 30 lớp ở ba khối 10, 11 và 12, mỗi khối 10 lớp. Tổng
    diện tích khu đất là 23.000 mét vuông. Năm học 2021-2022, toàn trường có khoảng
    1.118 học sinh.
    Trường tuyển sinh thông qua thi tuyển đầu vào. Học sinh phải thi đầu vào gồm 3
    môn theo quy định là Toán, Ngữ văn và Tiếng Anh. Trong năm học 2021 – 2022,
    Trường THPT B Nghĩa Hưng thông báo tuyển sinh 462 tiêu chí. Số điểm chuẩn là
    29,00. Đây là số điểm khá cao trong số các trường THPT top đầu thuộc tỉnh Nam
    Định.
    Cơ sở vật chất của trường đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Đến nay,
    trường đã xây mới một dãy phòng học 3 tầng khang trang, hơn 30 phòng học chính
    thể chất, 3 phòng thiết bị thí nghiệm, 2 giảng đường, 2 phòng máy tính công nghệ
    thông tin có truy cập Internet. Rất nhiều sách và một phòng y tế học đường. Ngoài
    ra, trường có một khu nhà ba tầng là nơi làm việc của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
    và các bộ phận văn phòng khác.
    Cơ sở vật chất đang phát triển nhanh chóng: đến nay trường có 2 dãy phòng học
    cao tầng, hàng chục phòng học kiên cố, 3 phòng thiết bị thí nghiệm, 2 phòng máy
    13
    tính truy cập Internet, 1 thư viện, 1 phòng y tế học đường khang trang, sạch đẹp và
    nhà hàng hiệu đẹp.
    Không chỉ hoàn thiện về cơ sở vật chất, những năm qua nhà trường còn không
    ngừng đầu tư xây dựng các công trình thể thao học sinh như:
    Nhà đa năng: nằm phía sau lớp học, các môn thể thao như cầu lông, bóng bàn, đá
    cầu, thể dục nhịp điệu… tổ chức nhiều hoạt động của trường.
    Sân bóng rổ: nằm ở phía đông của tòa nhà dạy học.
    2 sân cỏ nhân tạo: Năm học 2018-2019, trường cho phép xây dựng 2 sân bóng đá cỏ
    nhân tạo.
    Hình ảnh trường THPT B Nghĩa Hưng( năm 2022)
    Năm học 2007-2008: Lần đầu tiên trường đứng thứ 176 trong 200 trường THPT dẫn
    đầu cả nước về điểm thi đại học.
    Năm học 2010-2011: Quyết định số 1898 của Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định ngày
    31 tháng 10 năm 2011 chính thức công nhận trường THCS B Yixiong là trường đạt
    chuẩn Quốc gia.
    14
    Năm học 2015-2016 và năm học 2020-2021: Đoàn HSG nhà trường đạt giải Nhì kỳ
    thi HSG cấp THPT hàng năm do Sở GD & ĐT tỉnh Nam Định tổ chức.
    Năm học 2020-2021: Cờ thi đua được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. Ngoài
    ra, 1 sản phẩm của trường đã đạt giải nhì cuộc thi Sáng tạo thanh thiếu niên nhi
    đồng tỉnh Nam Định lần thứ VII, giải nhì cuộc thi thể dục thể thao cấp tỉnh. Nhiều
    CBGV được nhận bằng khen của Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng bộ GD&ĐT, Chủ
    tịch UBND tỉnh Nam Định, Giám đốc Sở GD & ĐT Nam Định và nhiều đồng chí
    được công nhận là CSTĐ cấp tỉnh, CSTĐ cấp cơ sở, giáo viên giỏi cấp tỉnh.
    Những năm gần đây, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp của trường luôn đạt hơn 99%, năm học 2016
    – 2017 và 2019 – 2020 tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là 100%. Trong khi đó, tỷ lệ trúng tuyển
    nguyện vọng 1 vào các trường đại học công lập 5 năm qua là trên 81%, năm học
    2019-2020 là 88,7%. Chính điều đó đã góp phần nâng cao dân trí, ươm mầm nhân
    tài cho địa phương, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    2.1.2. Phong trào tập luyện TDTT học sinh nói chung và CLB trường THPT B Nghĩa
    hưng
    Thực hiện chủ trương giáo dục toàn diện cho học sinh trong những năm qua công
    tác TDTT cho học sinh ở trường THPT B Nghĩa hưng luôn được sự quan tâm của
    cấp ủy Đảng, BGH và các đoàn thể trong nhà trường. Điều đó được thể hiện qua
    việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho các giờ học Giáo dục thể chất
    chính khoá và các hoạt động TDTT ngoại khoá. Trường THPT B Nghĩa hưng cũng
    đã có CLB Cầu lông hoạt động thường xuyên, là một trường có phong trào TDTT
    học sinh mạnh trong toàn tỉnh, điều đó được thể hiện qua kết quả của đội tuyển
    TDTT tham gia các kì Hội khỏe Phù Đổng, Đại hội TDTT ngành GD&ĐT tỉnh Nam
    Định, các kỳ thi học sinh giỏi TDTT tỉnh Nam Định, đội tuyển của nhà trường luôn
    đạt cờ toàn đoàn, nhiều học sinh đạt giải nhất, nhì, ba: Nguyễn Mai Hiếu, Nguyễn
    Hà Trung, Lê thị Thuý Hoà, Nguyễn Huy Hoàng, Nguyễn Thị Hằng, Vũ Văn
    Khiết…
    15
    Hình ảnh phong trào tập luyện Cầu lông của học sinh và CLB Cầu lông của
    trường (năm 2018- 2019 trở về trước)
    16
    2.1.3. Cơ sở vật chất, sân bãi dụng cụ phục vụ cho phong trào tập luyện môn Cầu
    lông của học sinh và CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa Hưng
    Cơ sở vật chất, sân bãi dụng cụ là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng
    trong việc phát triển và nâng cao thành tích thể thao. Như đã trình bày ở trên với sự
    quan tâm của cấp ủy Đảng, Ban giám hiệu nhà trường nên việc xây dựng và trang
    bị sân tập và cơ sở vật chất cho việc tập luyện môn Cầu lông hết sức thuận lợi nên
    đã thu hút được học sinh tham gia tập luyện và phát triển CLB
    Để có thể thống kê lại số liệu đánh giá thực trạng số lượng cơ sở vật chất,
    thiết bị, đề tài đã tiến hành thống kê số lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
    cho công tác tập luyện và thi đấu môn Cầu lông. Kết quả thu được qua khảo sát
    được trình bày qua bảng

    STTCơ sở vật chất, trang thiết bịSố lượng
    1Nhà đa năng (4 sân)04
    2Cột tự chế04
    3Cầu, vợt tập luyện0
    4Số sân thảm01

    Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng cơ sở vật chất, dụng cụ, sân bãi phục vụ tập
    luyện môn Cầu lông trong trường THPT B Nghĩa Hưng (năm 2018- 2019)
    17
    Qua số liệu khảo sát ở bảng 1 và thực tế, có thể rút ra một số nhận xét sau:
    Về số lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản đã có nhưng chưa đáp ứng
    được nhu cầu tập luyện và thi đấu của học sinh, 04 sân tập chất lượng không an toàn
    và chưa có cầu vợt để cho học sinh hoạt động tập luyện
    Từ thực trạng cơ sở vật chất trên có thể rút ra một nhận xét chung là muốn duy
    trì và phát triển phong trào tập luyện môn Cầu lông của học sinh và CLB Cầu lông
    trường THPT thì cần phải có giải pháp phát triển về số lượng, nâng cấp về chất
    lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ tập luyện phù hợp với tình hình thực tế,
    nhu cầu của học sinh và xu hướng hiện đại hoá.
    2.1.4. Thực trạng đội ngũ giáo viên GDTC, cộng tác viên trong trường THPT
    Có thể nói trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực thể thao người thầy
    hoặc huấn luyện viên đóng vai trò vô cùng quan trọng “Thầy giỏi mới có trò giỏi”.
    Điều đó đã được thực tế khẳng định.
    Như đã trình bày thì đội ngũ giáo viên GDTC của nhà trường đủ về số lượng và
    đều đạt chuẩn trong chuyên ngành GDTC, đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
    sự phát triển phong trào tập luyện môn của học sinh trường THPT. Kết quả khảo sát
    thu được ở bảng 2.

    Giáo viên GDTC trong nhà trườngĐội ngũ cộng tác viên tham gia
    công tác hướng dẫn tập luyện và thi
    đấu Cầu lông
    Số
    lượng
    Chuyên sâu
    Cầu lông
    Chuyên sâu
    khác
    Cộng tác viênCộng tác viên
    (Học sinh)
    8SLTrình
    độ
    SLTrình
    độ
    SLTrình
    độ
    SLTrình
    độ
    01ĐH7ĐH04Quần
    chúng
    TTC
    02Nổi
    bật

    (Thành viên
    CLB)
    Bảng 2: Đội ngũ giáo viên, huấn luyện viên và cộng tác viên trong trường
    THPT (số liệu năm 2019)
    18
    Qua số liệu trên cho thấy về lực lượng giáo viên, cộng tác viên là khá đông.
    Nhưng một bất cập là trong số đó có 01 giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành Cầu lông
    còn lại chỉ học Cầu lông trong chương trình đại học dưới hình thức phổ tu và tự
    nâng cao trình độ trong quá trình giảng dạy, thi đấu. Một thực tế nữa là số lượng
    cộng tác viên hướng dẫn được là khá đông nhưng những người này không qua
    trường lớp chính quy nào, tuy nhiên là những người yêu thích và đam mê môn Cầu
    lông tự tập luyện thường xuyên và tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm. Lực lượng
    này đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn những học sinh mới tập chơi Cầu
    lông
    Từ thực tế trên có thể nhận thấy, để khai thác tốt nguồn nhân lực giáo viên,
    cộng tác viên hướng dẫn thì cần phải quan tâm tạo điều kiện cho họ để họ có điều
    kiện phát huy khả năng đã có của mình. Như vậy mới góp phần phát triển phong
    trào tập luyện môn Cầu lông của học sinh và CLB Cầu lông trường THPT B Nghĩa
    hưng
    2.1.5. Triển khai các hoạt động thi đấu TDTT nói chung và Cầu lông cấp trường
    được tổ chức hàng năm.
    Vì là trường có phong trào học tập văn hoá khá tốt nên các giải thi đấu cũng
    chưa được tổ chức nhiều mà chỉ tổ chức giải Cầu lông trong khuôn khổ Hội khỏe
    Phù Đổng cấp trường cho học sinh, 20/11 cho CBGV, nhân viên
    Tuy nhiên số lượng các giải đấu chính thức trong nhà trường như vậy là quá
    ít, bên cạnh đó mặc dù là môn thể thao được lựa chọn giảng trong chương trình
    môn học Thể dục cấp THPT trong tỉnh Nam Định nhưng với số lượng tiết học quá
    ít, chưa đủ để học sinh tham gia thi đấu đạt hiệu quả cao nên những vấn đề nêu
    trên làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển phong trào tập luyện CLB Cầu
    lông trong nhà trường.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Nghiên cứu ứng dụng trò chơi Gíao dục quốc phòng vào  hoạt động ngoại khoá cho học sinh lớp 12 nhằm nâng cao chất lượng môn quốc phòng an ninh

    SKKN Nghiên cứu ứng dụng trò chơi Gíao dục quốc phòng vào  hoạt động ngoại khoá cho học sinh lớp 12 nhằm nâng cao chất lượng môn quốc phòng an ninh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
    hình mới đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với công tác
    GDQP,AN cho toàn dân nói chung, và việc đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học
    môn GDQP,AN cho HS ở các trường THPT nói riêng. Nghị định số 116/ 2007/NĐ
    – CP của Chính phủ nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ GDQP&AN là: “Nhằm góp phần
    đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết một số nội dung cơ bản về quốc
    phòng, an ninh; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm
    nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa
    xã hội, có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; có
    kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh; có kỹ năng quân sự, an ninh
    cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân,
    an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Để thực
    hiện được mục tiêu, nhiệm vụ nói trên thì công tác dạy học môn GDQP, AN cho
    học sinh hiện nay phải thường xuyên đổi mới theo hướng đa dạng, hiện đại, sát
    thực tiễn nhằm không ngừng phát huy tối đa tính tích cực, khả năng sáng tạo; rèn
    luyện năng lực tư duy, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, khả năng vận dụng kiến thức về
    công tác quốc phòng và an ninh linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả vào trong thực tiễn
    cho học sinh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã
    nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi
    dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và toàn dân, có nội
    dung phù hợp với từng đối tượng và đưa vào chương trình chính khoá trong các
    Trung tâm theo cấp học, bậc học”.
    Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
    giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
    quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được
    2
    cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành
    công việc chuyển từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang
    dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực
    và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về
    kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết
    vấn đề, chú trọng kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học để có thể tác động
    kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
    Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI:“Đổi mới chương
    trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
    hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng,
    giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
    năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
    Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo
    Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã khẳng
    định: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn
    luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự
    học của người học”.
    Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay
    đứng trước những vận hội, thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức
    đan xen. Tình hình thế giới, khu vực tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, khó
    lường. Trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá bằng âm
    mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
    trong nội bộ ta, kích động tư tưởng ly khai, bạo loạn lật đổ,…. Bối cảnh đó, đặt
    ra cho công tác giáo dục quốc phòng và an ninh những nội dung, yêu cầu mới,
    rất cao. Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện hơn nữa về nhận thức, ý
    thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, của cả hệ thống chính trị và toàn dân đối
    với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao
    chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh.
    3
    Khi nói về giáo dục, Đảng ta khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu,
    đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Các trường THPT là cái nôi trực
    tiếp đào tạo thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”. Trang bị cho học sinh đầy đủ
    hành trang trí tuệ để học sinh bước vào đời, trở thành công dân có ích cho quê
    hương, đất nước.
    Môn học GDQP,AN bậc trung học phổ thông với mục đích góp phần giáo
    dục toàn diện cho học sinh về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào
    và sự trân trọng đối với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân
    tộc, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; có ý thức cảnh giác trước
    âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết
    để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh
    nhân dân. Với mục tiêu giáo dục đó, môn học đã cung cấp cho học sinh những
    kiến thức và kỹ năng cơ bản như:
    – Hiểu được lịch sử truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta,
    của quân đội và công an nhân dân…. Giúp các em có những hiểu biết chung về
    Quốc phòng và An ninh.
    – Có kỹ năng tối thiểu về điều lệnh đội ngũ, thực hiện được các động
    tác từng người không có súng, biết điều khiển (chỉ huy) tập hợp các đội hình cơ
    bản của tiểu đội, trung đội. Biết xử lý đơn giản ban đầu các tai nạn thông
    thường, băng bó vết thương, cấp cứu chuyển thương…. Thông qua đó các em
    hiểu và thực hiện được các điều lệnh đội ngũ và chiến thuật bộ binh; hiểu biết
    thế nào là phòng thủ dân sự….
    Những kiến thức đó có thể áp dụng vào thực tế cuộc sống thông qua tổ
    chức một số trò chơi trong các buổi ngoại khóa, nên tôi lựa chọn sáng kiến:
    “Nghiên cứu ứng dụng trò chơi giáo dục quốc phòng vào hoạt động ngoại
    khóa cho học sinh khối 12 nhằm nâng cao chất lƣợng môn học Giáo Dục
    Quốc Phòng, An Ninh”.
    Với sáng kiến này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào việc giúp giáo viên
    giảng dạy môn GDQP, AN được hiệu quả hơn, học sinh tích cực chủ động trong
    4
    việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của môn học. Đây cũng là lý do tôi chọn sáng
    kiến này.
    II. Mô tả giải pháp
    1. Giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Cơ sở lý luận:
    Phát triển giáo dục là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
    nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
    người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
    vững. Muốn đào tạo nguồn lực con người đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã
    hội cần phải quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học
    sinh.
    Nói về giáo dục toàn diện, Rabơle (1494 – 1553) nhà tư tưởng, nhà giáo
    dục thời kỳ Phục Hưng đã từng nhấn mạnh: “Việc giáo dục phải bao hàm các
    nội dung trí dục, đạo đức, thể chất, thẩm mỹ… ngoài việc học ở nhà, còn có các
    buổi tham quan các xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp xúc với các nhà văn, các nghị
    sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần thầy và trò về sống ở nông thôn một ngày.”
    Trong phương pháp giáo dục hiện đại, trò chơi là một môn huấn luyện quan
    trọng. Nước Bỉ cũng đã thấy rõ sự quan trọng và ích lợi của trò chơi trong công
    tác giáo dục, nên đã đưa bộ môn trò chơi vào trong chương trình giáo dục quốc
    gia.
    Nền giáo dục Việt nam từ sau Cách mạng Tháng tám 1945 đến nay rất quan
    tâm đến vấn đề giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó hoạt động ngoài giờ
    lên lớp là một bộ phận không thể thiếu của quá trình giáo dục. Hoạt động ngoại
    khoá là một hình thức hoạt động dạy học ngoài giờ lên lớp, hoạt động giáo dục
    cơ bản được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức, được tiến
    hành xen kẽ với chương trình dạy học và diễn ra trong suốt năm học kể cả thời
    gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục. Hoạt động dạy học ngoại khoá giúp
    học sinh biết vận dụng những tri thức đã học để giải quyết các vấn đề do thực
    tiễn đời sống đặt ra; biết điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống cho phù hợp, biết
    nắm bắt những định hướng chính trị, xã hội, biết được những truyền thống đấu
    5
    tranh cách mạng, truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống văn
    hoá tốt đẹp của đất nước và những vấn đề nóng bỏng của thời đại như hoà bình,
    hữu nghị, hợp tác, dân số… Từ đó, rèn luyện cho mình những kỹ năng giao tiếp,
    kỹ năng ứng xử có văn hoá, những thói quen trong học tập, lao động; kỹ năng tự
    quản, tự tổ chức, điều khiển, nhận xét, đánh giá, hoà nhập và thực hiện một số
    hoạt động tập thể có hiệu quả khác.
    1.2. Cơ sở khoa học:
    1.2.1. Các khái niệm có liên quan đến sáng kiến:
    * Trò chơi nói chung:
    Chơi là một hoạt động hấp dẫn, phù hợp với sự phát triển tự nhiên của tâm
    lí và sinh lí tuổi trẻ (từ nhi đồng qua thiếu niên đến lứa tuổi thanh niên bước vào
    đời sống xã hội).
    Trò chơi nói chung là những hoạt động tích cực và tự giác của con người
    thông qua những luật lệ nhất định nhằm mục đích trước hết là chiến thắng.
    Trò chơi là một hoạt động tự nhiên và cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu
    cầu giải trí đa dạng của con người…, là một phương tiện giáo dục giúp cho cá
    nhân được rèn luyện giác quan, luyện ý chí và ý thức, tinh thần, tính tình… giúp
    cho tập thể có bầu không khí vui vẻ, thân ái…
    Hoạt động trò chơi đối với tuổi trẻ không chỉ là một cách giải trí, một cách
    thư giãn thần kinh sau những giờ học căng thẳng,…mà chính là một nhu cầu của
    tuổi trẻ ưa hoạt động, thích vui vẻ và giao tiếp, tiếp nhận sự hiểu biết kĩ năng
    qua hành động. Đó là biện pháp của tự bản thân thanh thiếu niên luôn luôn vươn
    tới sự hoàn thiện về hiểu biết, về tính cách để tự khẳng định mình. Đó thực chất
    là sự tự nguyện rèn luyện hết sức sinh động, không cảm thấy khó nhọc bị gò bó.
    Trò chơi là một trong những phương thức tổ chức hoạt động được sử dụng
    trong thực tiễn dạy hoạt động ngoài giờ lên lớp các phương thức như: Thảo luận
    nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề, giao nhiệm vụ, hoạt động nhóm nhỏ, diễn
    đàn.
    Như vậy, nội dung của trò chơi là vô cùng rộng lớn và phong phú. Nó bao
    gồm tất cả mọi hoạt động của con người thoả mãn những điều kiện kể trên. Với
    6
    khái niệm này chúng ta cũng có thể dễ dàng phân biệt được trò chơi với các hoạt
    động thể dục thể thao hoặc lao động sản xuất hay trò chơi hóa môn GDQP.
    Những yêu cầu của Giáo dục có tính hệ thống, trình tự trong nhà trường
    các cấp, môn Giáo dục quốc phòng sẽ được tuổi trẻ học sinh tiếp nhận, tự rèn
    luyện một cách thoải mái qua hoạt động “chơi”. Trò chơi hóa môn giáo dục
    quốc phòng là một việc làm tích cực góp phần giúp tuổi trẻ bước vào nhiệm vụ
    bảo vệ Tổ quốc một cách nhẹ nhàng, hiệu quả.
    * Trò chơi giáo dục quốc phòng bao gồm: Trò chơi rèn luyện lòng
    yêu nước, ý thức quốc phòng cho học sinh, sinh viên; Trò chơi rèn luyện tinh
    thần và các giác quan; Trò chơi rèn luyện sức khỏe và một số trò chơi quân sự
    ứng dụng trong nhà trường.
    – Mục đích, yêu cầu của trò chơi giáo dục quốc phòng là gì?
    Trò chơi giáo dục quốc phòng có mục đích rèn luyện lòng yêu nước, giáo
    dục ý thức quốc phòng dưới dạng vui chơi bằng các trò chơi nhỏ, trò chơi lớn và
    cuộc chơi tổng hợp dưới hình thức “hội trại thi tài” (cuộc chơi có tính tổng kết
    từng đợt huấn luyện môn học hay từng thời gian một vài năm nhất định).
    Trò chơi GDQP làm cho tuổi trẻ tự nguyện rèn luyện một số kỹ năng quân
    sự và tự rèn luyện tính cách cá nhân của từng học sinh, sinh viên, để tạo lập một
    nếp sống có tác phong quân sự: Luôn luôn sẵn sàng hành động. Hành động đó
    qua vui chơi mà thấm nhuần từ lòng yêu nước của truyền thống lịch sử dân tộc
    và lịch sử cách mạng bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kết hợp với các
    bài học chính khóa nên hành động có tính toán, có ý thức, có hiệu quả.
    – Phƣơng pháp “trò chơi hóa”: Là phần chương trình hoạt động ngoại
    khóa của chương trình môn học chính khóa giáo dục quốc phòng. Hoạt động
    ngoại khóa “trò chơi hóa” có một chương trình kĩ năng làm “cột sống” cho việc
    tổ chức các trò chơi, đảm bảo xuất phát từ sự tự nguyện hoàn toàn. Hiệu quả của
    nó tạo nên một tác phong quân sự: Có trật tự, có kỉ luật khi tuân theo luật chơi
    và chơi thật thà, có sự tháo vát, nhanh nhạy trong cách xử lí tình huống khi chơi,
    có tình bạn, đoàn kết hợp đồng trong sự phối hợp hành động, từ đó mà hướng
    7
    theo tinh thần “thượng võ” về lòng nhân ái trong cách ứng xử ngoài xã hội,
    trong trường học và gia đình.
    Phương pháp rèn luyện trong “trò chơi hóa” là sự tự giác rèn luyện thành
    thói quen bằng sự ham thích và tình cảm, do chơi đi chơi lại nhiều lần (qua sự
    luôn luôn đổi mới chủ đề của một cách chơi, hay thay đổi chút ít). Những thói
    quen tốt là những thuộc tính của quá trình hình thành phẩm chất của tính cách cá
    nhân, hình thành ý thức yêu nước, bảo vệ tổ quốc,…một cách tự nhiên và bền
    vững. Thói quen tốt là điều rất cơ bản cho việc hình thành dần ý thức và phát
    triển trí tuệ. Thói quen là kết quả của sự phản xạ có điều kiện. Điều kiện đó là
    hành động và các vật chứng về địa lí, về xã hội, về lịch sử, về sự giao tiếp, về
    thiên nhiên, môi trường,…
    – Nội dung các “trò chơi hóa”: “Trò chơi hóa” chương trình môn học GDQP
    có ba loại:
    + Loại trò chơi hóa một số môn tập trong chương trình chính khóa:
    Trong chương trình môn học GDQP có một số bài tập có thể “trò chơi
    hóa” thành hoạt động ngoại khóa để hỗ trợ cho các buổi giảng trên lớp.
    Ví dụ: Trò chơi: Khám phá sự tích anh hùng của các vị thánh thờ trong
    các đình, chùa, đền ở các địa phương (hỗ trợ cho bài giảng: Việt Nam đánh giặc
    giữ nước).
    Trò chơi: Cứu thương và chuyển thương (hỗ trợ cho bài: Kĩ thuật cấp cứu
    và chuyển thương)…
    Mỗi bài giảng hay bài tập đều có thể “trò chơi hóa” thành nhiều trò chơi
    khác nhau.
    + Loại trò chơi tập một số kĩ năng quân sự không có trong chương trình
    chính khóa nhưng có tác dụng bổ sung cho việc hình thành tác phong quân sự:
    Trò chơi tổng hợp tổ chức đi cắm trại một ngày và qua đêm.
    Các trò chơi: Sử dụng các cách buộc nút, điều tra địa hình, vùng dân cư, vẽ
    bản đồ, đọc và sử dụng bản đồ quân sự, sưu tầm cây cỏ, tìm phương hướng, ước
    lượng khoảng cách, số lượng, cách hành quân vừa đi vừa chạy, sử dụng thông
    tin mooc xơ, sê ma pho,…
    8
    Các loại trò chơi kĩ năng, khi thực hiện có phần tập kĩ năng và có phần chơi,
    vừa tập vừa chơi, chơi mà tập.
    + Loại trò chơi rèn luyện các giác quan và phát triển trí tuệ:
    Loại trò chơi có mục đích rèn luyện sự nhanh nhẹn, tháo vát, nhạy cảm,
    khéo léo và phát triển trí thông minh.
    Ví dụ: Trò chơi quan sát. Trò chơi bóng chuyền 6, trò chơi giải mã các mật
    thư, trò chơi “ai nhanh tay hơn”, trò chơi “câu nói của Bác Hồ”,…
    – Hƣớng dẫn chơi có tính nghệ thuật:
    Hướng dẫn chơi là cả một nghệ thuật về tâm lí và thực hành sao cho vui,
    hấp dẫn người chơi ngay khi mới nêu chủ đề và luật chơi, không phức tạp, dễ
    tham gia. Khi chơi không gây căng thẳng mệt nhọc mà thấy bổ ích. Chơi đi chơi
    lại một kiểu trò chơi có vẻ cũ nhưng vẫn giữ được tính hấp dẫn của nó, vì chủ đề
    luôn luôn mới. Người hướng dẫn chơi phải hiểu đối tượng, hiểu tình hình là chơi
    trên địa điểm rộng hay hẹp, trong nhà hay ngoài trời, chơi lúc mưa hay lúc nắng,
    có thể chơi lâu hay ngắn thời gian, chơi xen kẽ trò chơi cơ bắp với trò chơi trí
    tuệ,… Người hướng dẫn chơi phải rất nhạy cảm với các vấn đề trên như một bản
    năng nghề nghiệp. Ngoài chương trình chơi được định trước, có thể bất chợt cho
    chơi ngay đúng yêu cầu cần thiết. Như thế người hướng dẫn chơi phải có “vốn”
    trò chơi phong phú, có khả năng tạo ra trò chơi mới hoặc sáng tạo ra chủ đề chơi
    lôi cuốn được người chơi.
    ⃰ Hoạt động ngoại khóa là gì?
    Hoạt động ngoại khóa hay còn gọi là (hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp)
    là một trong những mảng hoạt động giáo dục quan trọng ở nhà trường phổ
    thông. Ngoại khoá là hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp, không quy định bắt
    buộc trong chương trình, là hình thức tổ chức dựa trên sự tự nguyện tham gia
    của những HS có hứng thú, yêu thích bộ môn và ham muốn tìm tòi, sáng tạo các
    nội dung học tập, dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm bổ sung, củng cố, mở
    rộng và nâng cao những kiến thức – kĩ năng bộ môn (ở đây là những tri thức
    GDQP, AN) đã được học trong chương trình nội khoá, đồng thời góp phần giáo
    dục học sinh một cách toàn diện. Chính vì vậy hoạt động ngoại khoá được xem
    9
    là một hình thức dạy học quan trọng, mang lại hiệu quả cao, là một trong những
    con đường để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “phát huy
    tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho
    người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
    vươn lên” (theo điều 5, khoản 2, chương 1 Luật Giáo dục Việt Nam – 2005).
    * Mục đích của ngoại khóa:
    – Hàng ngày, các em học sinh phải chịu áp lực rất nhiều từ việc học tập, rèn
    luyện nên ngoại khóa không chỉ là sân chơi giúp học sinh thư giãn, giải tỏa căng
    thẳng, tạo tinh thần thoải mái cho những giờ học tiếp theo mà bên cạnh đó còn
    giúp các em học sinh phát triển các kỹ năng, có thêm những bài học kinh
    nghiệm, có cơ hội thể hiện bản thân. Các hoạt động ngoại khóa mang lại nhiều
    lợi ích cho sức khỏe, giúp các em năng động hơn cả về thể chất lẫn tinh thần,
    tăng khả năng thích nghi với môi trường, có cơ hội rèn luyện tất cả các kỹ năng
    cần thiết trong quá trình học tập cũng như củng cố và bổ sung những kỹ năng
    thực hành xã hội. Đặc biệt, kỹ năng giao tiếp, ứng xử và giải quyết tình huống
    của các em học sinh được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, ngoại khóa còn tăng khả
    năng gắn kết, nêu cao tinh thần tương thân tương ái, ngoại khóa luôn khiến cho
    con người với con người gần nhau hơn. Còn giúp cho học sinh rút ngắn được
    khoảng cách giữa lí thuyết đã học trên lớp với động tác thực hành ngoài thao
    trường và biết vận dụng vào lĩnh vực công việc thực tế sau này, giúp học sinh
    củng cố, mở rộng các kiến thức đã học, tìm kiếm các kiến thức mới, phát triển
    hứng thú nhận thức môn học, do đó kiến thức, kỹ năng của các em vững chắc
    hơn, sâu hơn và rộng hơn, giúp học sinh tự học, tự rèn trong môi trường quân sự
    và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.
    – Chính vì vậy, song song với các hoạt động học tập chính khóa thì hoạt
    động ngoại khóa cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Nếu xem nhẹ hoạt
    động ngoại khóa không những nhà quản lý đánh mất đi tính toàn diện của quá
    trình giáo dục mà còn làm cho hoạt động dạy học trở nên đơn điệu, làm giảm đi
    hứng thú học tập của học sinh đối với môn học, kiến thức và kĩ năng của các em
    hình thành thiếu sâu sắc, không đủ độ rộng và tính vững chắc. Vì vậy, quản lý
    10
    và tổ chức các hoạt động ngoại khóa hiện nay cần phải được chú trọng cả về lý
    luận và thực tiễn, cần phải có những biện pháp quản lý đúng và phù hợp. Nhận
    thức rõ vai trò và ý nghĩa của hoạt động ngoại khóa nên đây là hoạt động luôn
    được Ban Giám Hiệu Trường chú trọng và coi đó là hoạt động không thể thiếu
    trong công tác quản lý, giảng dạy cho học sinh khi học tập tại trường.Tham gia
    hoạt động ngoại khóa có vai trò quan trọng và tác động tích cực đến học sinh.
    Việc thực hiện tốt hoạt động ngoại khóa sẽ giúp trường không ngừng cải tiến
    chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu GDQP, AN đã đề ra.
    1.2.2. Đặc điểm tâm, sinh lý cơ bản của lứa tuổi 17-18.
    Ở lứa tuổi này, cơ thể các em đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ trưởng thành,
    sự phát triển các chức năng sinh lý, tâm lý đã tương đối hoàn thiện, tạo điều kiện
    thuận lợi cho sự phát triển các năng lực hoạt động thể lực cũng như năng lực
    hoạt động tư duy.
    * Đặc điểm sinh lý cơ bản của lứa tuổi 17-18:
    Học sinh các trường phổ thông trung học thường ở lứa tuổi 17 -18, cơ thể
    các em đã phát triển. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình
    thường, hài hòa cân đối, cơ thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người
    trưởng thành. Nhìn chung ở tuổi này các em có sức khỏe và sức chịu đựng tốt
    hơn tuổi thiếu niên. Thể chất của các em đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ rất
    sung sức, nên người ta hay nói: „„Tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”. Sự phát triển thể
    chất ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách của
    các em, đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của
    các em
    * Đặc điểm tâm lý cơ bản của lứa tuổi 17-18 :
    Các em ở lứa tuổi này luôn tỏ ra mình đã lớn, đòi hỏi mọi người xung
    quanh coi trọng mình. Các em đã có sự hiểu biết, ưa hoạt động, có hoài bão ước
    mơ. Do quá trình hưng phấn chiếm ưu thế hơn quá trình ức chế nên các em tiếp
    thu cái mới nhanh nhưng lại dễ chán nản. Khi đạt được một số kết quả nào đó,
    các em dễ tỏ ra tự mãn, kiêu ngạo ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nâng cao
    kiến thức và điều đó sẽ tác động không tốt đến việc học tập. Trong quá trình học
    11
    cần nhắc nhở, chỉ bảo tận tình, ân cần, nhẹ nhàng động viên, khen thưởng kịp
    thời. Những em tiếp thu chậm thường hay tự ti, từ đó các em tỏ ra chán nản. Vì
    vậy, cần động viên khích lệ ngay, có định hướng để hiệu quả học tập được nâng
    lên. Một số em còn có thái độ coi thường lao động chân tay, thích cuộc sống xa
    hoa lãng phí, ăn chơi, đua đòi theo bạn bè…. Các em thích hướng đến tương lai,
    ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ. Cần phải nhắc nhở, phê bình, trấn
    chỉnh kịp thời, tạo điều kiện nâng cao tinh thần trách nhiệm của các em.
    1.3. Cơ sở thực tiễn:

    1.3.1.
    nghiệp giáo dục.
    Vị trí, vai trò của giáo dục quốc phòng, an ninh đối với sự

    Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục quốc phòng, an ninh “là bộ phận
    của nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc
    phòng toàn dân, an ninh nhân dân; là môn học chính khoá trong chương trình
    giáo dục, đào tạo trung học phổ thông đến đại học và các trường chính trị, hành
    chính, đoàn thể. Việc học tập, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh là
    quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức và của toàn dân…”. Trên thực tế bộ
    môn GDQP, AN là nội dung học tập đặc thù trong các trường học nhằm nâng
    cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
    quốc. Tầm quan trọng của giáo dục GDQP, AN trong trường phổ thông là ở
    chỗ đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu
    giáo dục toàn diện, tạo cho thế hệ trẻ có điều kiện tu dưỡng phẩm chất, rèn luyện
    năng lực, góp phần giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong
    sáng, có ý chí kiên cường. Môn học này còn có tác dụng rèn luyện tác phong
    nghiêm túc, tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật trong học sinh. Thông qua
    các giờ học lí luận, học sinh, sinh viên đã nhận thức đầy đủ hơn quan điểm,
    đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của Đảng, có nhận thức rõ
    hơn về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó,
    những giờ học thực hành lại trang bị cho các em những hiểu biết và những kỹ
    năng về đội ngũ đội hình, các chiến thuật cũng như một số loại vũ khí, khí tài,
    thông qua đó có thể biết cách phân biệt, sử dụng và trang bị cho mình những kỹ
    12
    thuật cơ bản để sử dụng được một số loại vũ khí thông thường và biết cách
    phòng tránh khi kẻ thù sử dụng vũ khí tấn công. Cùng với đó môn học
    GDQP,AN còn rèn luyện cho cho các em học sinh một số kỷ luật trong môi
    trường quân đội, hướng cho các em làm việc theo nguyên tắc, kỷ cương. Tạo cơ
    sở cho các em tu dưỡng và hoàn thiện kỹ năng sống của bản thân…
    Thực tế tại trường THPT Lý Nhân Tông tỉnh Nam Định trong những năm
    qua, công tác giáo dục Quốc phòng, an ninh cũng đã được các cấp, ngành và
    lãnh đạo nhà trường quan tâm, về cơ sở vật chất, trang thiết bị, quần áo quốc
    phòng lẫn tài liệu tham khảo… Với đội ngũ giáo viên tâm huyết với nghề, không
    ngừng học hỏi, đổi mới, sáng tạo trong phương pháp giảng dạy, đổi mới trong
    kiểm tra đánh giá, xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm khách quan,
    đánh giá một cách trung thực, nhằm mục đích nâng cao chất lượng học tập của
    học sinh nói chung và môn học GDQP, AN nói riêng của học sinh trong nhà
    trường. Thông qua những kiến thức được các thầy cô trang bị từ môn học, học
    sinh từ đó nhận ra ý thức, trách nhiệm của bản thân, của công dân đối với việc
    xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong phong trào “Thanh niên yêu Tổ quốc” trong
    những năm Trường Sa, Hoàng Sa dậy sóng 2015, học sinh toàn trường đã có
    những hoạt động thiết thực khẳng định chủ quyền biển đảo trong buổi lễ tổng
    kết và bế giảng năm học.
    Bên cạnh những thành tích đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn
    nhận những khó khăn, hạn chế mà bộ môn GDQP, AN trong các nhà trường
    đang gặp phải. Mặc dù có vai trò, vị trí quan trọng như vậy nhưng do nhiều
    nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, chất lượng dạy và học môn
    giáo dục quốc phòng trong nhà trường THPT thời gian qua còn bị xem nhẹ.
    Trong những năm học trước, thường thì môn giáo dục quốc phòng được các
    trường tổ chức dạy học tập trung trong thời gian ngắn vào đầu học kỳ 1, đầu học
    kỳ 2. Lý do nhà trường đưa ra khi chọn giải pháp học tập trung là để tạo điều
    kiện về mặt thời gian cho những môn học chính khóa. Giáo viên giảng dạy cả
    phần thực hành lẫn lý thuyết là các thầy cô giảng dạy môn giáo dục thể chất đảm
    nhiệm. Một số trường gần các Doanh trại quân đội thì mời giảng viên đến huấn
    13
    luyện, giảng dạy một số buổi… Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
    lượng giáo dục đối với bộ môn này. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng giảng
    dạy bộ môn giáo dục quốc phòng an ninh trong các nhà trường theo tôi cần tập
    trung giải quyết các vấn đề sau:
    – Cần có đội ngũ giáo viên được đào tạo chuyên sâu về quốc phòng an ninh
    để trực tiếp giảng dạy bộ môn này.
    – Sắp xếp thời khóa biểu cho bộ môn này như các môn học khác trong các
    trường THPT.
    – Nhà nước cần đầu tư nguồn kinh phí cho môn học để tăng cường cơ sở
    vật chất, thiết bị dạy học theo hướng thực hành là chính.
    – Cần biên soạn nội dung về quốc phòng an ninh thật khoa học để tránh
    chồng chéo, trùng lặp với một số bộ môn khác trong nhà trường như môn lịch
    sử, địa lý hay giáo dục công dân.
    1.3.2. Tầm quan trọng của GDQP trong trƣờng phổ thông.
    Giáo dục quốc phòng trong trường phổ thông góp phần giáo dục thế hệ
    tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường trong xây
    dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục quốc phòng là môn học nằm trong chương
    trình dạy học của các trường THPT và là một bộ phận quan trọng của công tác
    giáo dục quốc phòng toàn dân. Tầm quan trọng của môn học này là ở chỗ góp
    phần giáo dục thế hệ tương lai của đất nước có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên
    cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
    Những năm qua, cùng với những thành tựu vượt bậc của công cuộc đổi mới
    đất nước, công tác giáo dục quốc phòng, an ninh nước ta nhất là việc giảng dạy
    môn học này trong trường phổ thông luôn được Ðảng, Nhà nước, nhân dân
    chăm lo xây dựng, củng cố. Vì vậy, tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân
    gắn với thế trận an ninh nhân dân được giữ vững, công tác giáo dục quốc phòng,
    an ninh ngày càng được tăng cường, củng cố. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
    đã khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường
    xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”. Tư duy mới của Đảng ta về xây dựng
    nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong giai đoạn hiện nay được thể
    14
    hiện rõ ở việc tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, làm cho
    mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ
    Tổ quốc trong điều kiện mới.
    Có thể nói rằng, môn học giáo dục quốc phòng có một vai trò và ý nghĩa rất
    to lớn trong việc giáo dục và nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức của con người
    đặc biệt là học sinh – thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước. Trong điều
    kiện đất nước hội nhập và phát triển, việc nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiểu
    biết về kiến thức quốc phòng-an ninh là một nhiệm vụ thiết thực hơn bao giờ
    hết. Việc giảng dạy cho học sinh những kiến thức về quốc phòng – an ninh là
    một việc làm đúng đắn và rất có ý nghĩa. Nó sẽ giúp cho khối đại đoàn kết toàn
    dân và sức mạnh dân tộc không ngừng được củng cố và lớn mạnh, đáp ứng yêu
    cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
    Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục quốc phòng nói
    chung, môn giáo dục quốc phòng trong nhà trường nói riêng, trong thời gian
    qua, các cấp, các ngành đã có nhiều văn bản, Chỉ thị về việc nâng cao chất lượng
    dạy và học môn học này.
    Chẳng hạn như: Chỉ thị 12 CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng
    cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quốc phòng – an ninh trong tình
    hình mới; Nghị định 116/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/7/2007 về công
    tác giáo dục quốc phòng, an ninh; Chỉ thị số 57/2007/BGD&ĐT ngày 4/10/2007
    của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo về việc tăng cường công tác giáo dục
    quốc phòng, an ninh trong ngành giáo dục. Thông tư số 02/2017 TT-BGDĐT
    ngày 13/1/2017 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Chỉ thị 2018 thông tư 46/2020 và
    có hiệu lực ngày 11/1/2021.
    Để nâng cao chất lượng dạy và học môn giáo dục quốc phòng trong nhà
    trường, các đơn vị trường học và Sở giáo dục cần nghiêm túc thực hiện các văn
    bản, Chỉ thị trên bắt đầu từ việc xác định đúng đắn vai trò, vị trí của môn học
    này trong nhà trường.
    1.3.3. Thực trạng động cơ học tập môn GDQP,AN của học sinh
    khối 12 các trƣờng THPT hiện nay.
    15
    * Để điều tra tầm quan trọng của việc học môn GDQP,AN đối với học sinh
    khối 12 ở các trường THPT, tôi đã đưa ra câu hỏi số 1 như sau: „„Bạn có thích
    học môn GDQP,AN không?”
    * Để điều tra mục đích và nguyên nhân thúc đẩy việc học môn GDQP,AN đối
    với học sinh khối 12 ở các trường THPT, tôi đã đưa ra câu hỏi số 2 như sau:
    „„Mục đích học môn GDQP, AN của bạn để làm gì?”
    – Tôi in ra 280 phiếu phát cho học sinh lớp 12 để phỏng vấn ở các trường
    THPT khác nhau và kết quả thu về được 278 phiếu, cụ thể như sau:
    + Trường THPT Lý Nhân Tông – Yên Lợi – Ý Yên – Nam Định, là nơi tôi
    trực tiếp giảng dạy nên tôi trực tiếp phỏng vấn các em học sinh 12 qua phiếu
    phỏng vấn. Tôi phát ra 120 phiếu và thu về được 118 phiếu trả lời.
    + Trường THPT Mỹ Tho – Yên Chính – Ý Yên – Nam Định, tôi trực tiếp
    phỏng vấn các em học sinh 12 qua phiếu phỏng vấn. Tôi phát ra 80 phiếu và thu
    về được 80 phiếu trả lời.
    + Trường THPT Đỗ Huy Liêu – Yên Thắng – Ý Yên – Nam Định, tôi trực
    tiếp phỏng vấn các em học sinh 12 qua phiếu phỏng vấn. Tôi phát ra 80 phiếu và
    thu về được 80 phiếu trả lời.
    – Mẫu phiếu phỏng vấn được trình bày ở phụ lục 1 của sáng kiến.

    Nội dungTHPT Lý
    Nhân
    Tông
    (n = 118)
    THPT Mỹ
    Tho
    (n = 80)
    THPT Đỗ
    Huy Liêu
    (n = 80)
    Tổng số học
    sinh trả lời
    (n = 278)
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    I, Bạn có thích học
    môn GDQP,AN
    không?
    Rất thích.075,9312151518,753412,23
    Thích.2622,0320251822,56423,02
    Bình thường do hình
    thức học tập không
    hấp dẫn.
    3529,663037,5405010537,77
    Không thích.5042,371822,5078,757526,98

    16

    II, Mục đích học môn
    GDQP,AN của bạn
    để làm gì?
    Học để tiếp thu kiến
    thức, có sự hiểu biết
    rộng hơn.
    2117,81518,751012,54616,04
    Học vì tương lai của
    bạn.
    108,4712151316,253512,59
    Học để sẵn sàng bảo
    vệ quê hương, đất
    nước khi cần thiết.
    119,3212151721,254014,39
    Học để qua môn.7664,414151,25405015756,47

    – Nhận xét: Nhìn chung, tỷ lệ học sinh rất thích và thích học môn GDQP,
    AN chiếm tỷ lệ rất thấp là 35,25%, cụ thể như sau: Trường THPT Lý Nhân
    Tông chiếm 28,23%, trường THPT Mỹ Tho chiếm 40%, trường THPT Đỗ Huy
    Liêu chiếm 41,25%. Tỷ lệ học sinh bình thường do hình thức học tập không hấp
    dẫn và không thích học chiếm tỷ lệ rất cao là 64,75%, cụ thể như sau: Trường
    THPT Lý Nhân Tông chiếm tỷ lệ 72,03%, trường THPT Mỹ Tho chiếm tỷ lệ
    60%, trường THPT Đỗ Huy Liêu chiếm tỷ lệ 58,75%.
    + Các em còn chưa chú trọng vào việc học môn GDQP. Thực tế hiện tại
    cho thấy do tác động của xã hội cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin,
    các trò chơi công nghệ số đang thu hút hầu hết các em học sinh tham gia qua đó
    làm ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em học sinh. Tỷ lệ các em học
    chỉ nhằm mục đích để qua được môn học còn chiếm tỷ lệ cao 56,47%, cụ thể
    như sau: Trường THPT Lý Nhân Tông chiếm 64,41%, trường THPT Mỹ Tho
    chiếm 51,25%, trường THPT Đỗ Huy Liêu chiếm 50%. Còn học để tiếp thu kiến
    thức, có sự hiểu biết rộng hơn, học vì tương lai của các em hay học để sẵn sàng
    bảo vệ quê hương, đất nước khi cần thiết. thì chưa cao chiếm tỷ lệ 43,03%, cụ
    thể như sau: Trường THPT Lý Nhân Tông chiếm tỷ lệ 35,59%, trường THPT
    Mỹ Tho chiếm tỷ lệ 48,75%, trường THPT Đỗ Huy Liêu chiếm tỷ lệ 50%.
    Qua đó chứng tỏ đa số các em chưa nhận thức được mục đích học tập chủ
    yếu của mình.
    17
    * Đồng thời để điều tra những nguyên nhân khiến học sinh khối 12 ở các
    trường THPT chán, lười học môn GDQP, AN, tôi đã đưa ra câu hỏi như sau:
    “Những nguyên nhân nào khiến bạn chán, lười học môn GDQP, AN?”, tôi cũng
    thu được kết quả như sau:
    – Tôi in ra 280 phiếu phát cho học sinh lớp 12 để phỏng vấn ở các trường
    THPT khác nhau và kết quả thu về được 278 phiếu, cụ thể như sau:
    + Trường THPT Lý Nhân Tông – Yên Lợi – Ý Yên – Nam Định, là nơi
    tôi trực tiếp giảng dạy nên tôi trực tiếp phỏng vấn các em học sinh 12 qua
    phiếu phỏng vấn. Tôi phát ra 120 phiếu và thu về được 118 phiếu trả lời.
    + Trường THPT Mỹ Tho – Yên Chính – Ý Yên – Nam Định, tôi trực
    tiếp phỏng vấn các em học sinh 12 qua phiếu phỏng vấn. Tôi phát ra 80 phiếu và
    thu về được 80 phiếu trả lời.
    + Trường THPT Đỗ Huy Liêu – Yên Thắng – Ý Yên – Nam Định, tôi
    trực tiếp phỏng vấn các em học sinh 12 qua phiếu phỏng vấn. Tôi phát ra 80
    phiếu và thu về được 80 phiếu trả lời.
    – Mẫu phiếu phỏng vấn được trình bày ở phụ lục 1 của sáng kiến.

    Nội dungTHPT Lý
    Nhân Tông
    (n = 118)
    THPT Mỹ
    Tho (n = 80)
    THPT Đỗ
    Huy Liêu
    (n = 80)
    Tổng số
    học sinh
    trả lời
    (n = 278)
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    HS
    trả
    lời
    Tỉ lệ
    %
    Do cảm thấy môn
    học quá khó
    4033,9032403037,510236,69
    Do kết quả học
    không như mong
    đợi
    75,931012,5810258,99
    Do môi trường xã
    hội tác động
    65,084545145,04
    Do hoàn cảnh gia
    đình tác động
    21,6911,2522,551,79
    Do ham chơi6050,8528352632,511441,01
    Ý kiến khác32,5456,251012,5186,47

    18
    Nhận xét: Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của sự chán, lười học của học
    sinh là do ham chơi còn chiếm tỷ lệ cao 41,01%, cụ thể như sau: Trường THPT
    Lý Nhân Tông chiếm 50,85%, trường THPT Mỹ Tho chiếm 35%, trường THPT
    Đỗ Huy Liêu chiếm 32,5%. Rồi đến lý do cảm thấy môn học khó rồi đến kết quả
    không như mong muốn và sự tác động của môi trường. Điều đó chứng tỏ: hiện
    tượng chán học, lười học nhìn chung xuất phát từ chính bản thân các em (dễ bị
    lôi kéo, dụ dỗ; chưa quyết tâm, kiên trì và chưa quan tâm thực sự đến học tập).
    Ngoài ra, rất nhiều học sinh đưa ra ý kiến khác về nguyên nhân gây chán,
    lười học. Dưới đây là thống kê số ý kiến khác:
    + Do không có khả năng đối với môn học.
    + Do gia đình, thầy cô đặt quá nhiều hy vọng tạo áp lực lớn cho học sinh.
    + Do không giữ được ý chí quyết tâm học tập.
    + Khó tập trung học tập do nhiều yếu tố bên ngoài tác động.
    + Do môn học không đủ sức hấp dẫn với học sinh.
    + Do cuối cấp cần tập trung nhiều thời gian vào việc ôn luyện các môn tốt
    nghiệp, các môn thi đại học.
    + Do hình thức dạy học không hấp dẫn, không tạo ra hứng thú để học
    tập…
    1.3.4. Ƣu điểm, khuyết điểm của giải pháp trong sáng kiến :
    * Ưu điểm của giải pháp :
    Giải pháp là học mà chơi chơi mà học không tạo ra áp lực học tập về mặt
    tâm lý đối với học sinh nên học sinh có hứng thú hơn với môn học.
    Lượng kiến thức phong phú bao gồm cả lý thuyết và thực hành
    Giải pháp giúp học sinh tích cực , hào hứng hơn trong môn học cũng như
    các công tác ngoại khóa của trường đồng thời được rèn luyện tinh thần đoàn kết
    trong hoạt động nhóm và kỹ năng thăm quan,dã ngoại…
    * Khuyết điểm của giải pháp
    Kỹ năng giải mật thư hay các kỹ năng về Moree hay Simpore của học sinh
    còn yếu.
    Hoạt động nhóm ở học sinh còn chưa hết công suất .
    19
    – Do vậy thực hiện giải pháp này trong công việc giảng dạy cũng như hoạt
    động ngoại khóa là rất cần thiết tạo cho học sinh hứng thú và tích cực hơn với
    môn học, tăng khả năng làm việc nhóm cho học sinh, đồng thời các hoạt động
    tập trung, giúp học sinh nắm kiến thức nhanh và sâu hơn.
    * Điều kiện áp dụng giải pháp này là:
    + Về con người: được sự ủng hộ và tham gia tích cực các hoạt động giáo
    dục của các em học sinh khối 12, sự giúp đỡ đóng góp ý kiến, kinh nghiệm của
    Ban giám hiệu, đồng nghiệp giúp cho hoạt động thành công rực rỡ.
    + Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: Sử dụng không gian sân trường cũng
    như sân thể dục của nhà trường, phòng đa thiết bị, nhà đa năng và một số dụng
    cụ của nhóm thể dục.
    1.4. Chỉ ra tính mới của giải pháp trong sáng kiến.
    Giải pháp mà sáng kiến đưa ra là một hình thức học tập trong đó kết hợp
    học mà chơi chơi mà học, tạo không khí thoải mái không gò bó trong môn học,
    nhưng ngược lại lượng kiến thức các em tiếp thu và ghi nhớ được rất rộng và
    sâu. Cộng thêm với việc thi thoảng giáo viên có những món quà nho nhỏ như
    chiếc bút bi có hình con thú xinh sắn, quyển sổ ghi nhớ, tập giấy ghi nhớ, kẹp
    tóc mái nho nhỏ xinh xinh…. hay các món quà nho nhỏ khác động viên khích lệ
    những bạn tích cực, những bạn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó
    hiệu quả đạt được ở các buổi ngoại khóa là cực kỳ tốt.
    Giải pháp này được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai hướng song hành
    giữa hoạt động học môn giáo dục quốc phòng an ninh và hoạt động ngoại khóa.
    Ưu điểm của giải pháp này là rất chú trọng đến khả năng thoạt động nhóm, kỹ
    năng giao tiếp, làm chủ đám đông, làm chủ vấn đề, kĩ năng thực hành, vận dụng
    giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện . Đặc điểm của giải pháp này
    là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý
    tình huống.
    Nên với giải pháp này đã phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, ở
    đó giáo viên là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học
    tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo
    20
    nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy.
    Giải pháp này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao
    quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống, kích thích hứng
    thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó hệ thống hoá các
    vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu.
    Để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, trong quá trình nghiên
    cứu sáng kiến đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
    2.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.
    Đây là phương pháp được sử dụng nhằm hệ thống hoá các kiến thức có
    liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
    Trong quá trình nghiên cứu, sáng kiến đã phân tích và tổng hợp các sách
    và tham khảo tài liệu chuyên môn gồm: các chỉ thị, văn bản, quyết định của
    đảng và nhà nước về GDQP, AN…; Thông qua nghiên cứu tổng hợp các nguồn
    tài liệu khác nhau giúp sáng kiến xác định được những vấn đề khách quan và
    chủ quan cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Giúp sáng kiến khái quát có
    tính tổng hợp để tiến tới phát hiện những vấn đề có tính quy luật, tạo cơ sở cho
    sự sáng tạo lý luận và những luận cứ khoa học theo hướng tiến bộ phù hợp với
    thực tiễn của các trường trung học phổ thông. Các sách gồm có: Sách lý luận và
    phương pháp luận GDQP, AN, tâm lý học GDQP, AN, sinh lý học GDQP, AN,
    các tài liệu nghiên cứu khoa học GDQP, AN…thuộc thư viện Trường Đại học
    Vinh, thư viện một số trường trong tỉnh Nam Định, sách giáo trình Thể Thao
    Quốc Phòng và Trò Chơi GDQP của khoa GDQP, AN trường đại học Vinh.
    2.1.2. Phương pháp phỏng vấn toạ đàm.
    Được sử dụng trong quá trình tham khảo ý kiến nhằm thu thập thông tin
    phục vụ cho điều tra thực trạng, từ đó xác định, lựa chọn và xây dựng các
    phương pháp tổ chức, quản lý, giảng dạy cho học sinh các trường THPT. Thông
    qua phiếu hỏi và toạ đàm để tìm ra các biện pháp phù hợp nhất nhằm nâng cao

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Nâng cao chất lượng học tập thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo về lịch sử truyền thống cách mạng các địa phương vào giảng dạy bài 2

    SKKN Nâng cao chất lượng học tập thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo về lịch sử truyền thống cách mạng các địa phương vào giảng dạy bài 2: Luật Nghĩa Vụ Quân Sự Và Trách Nhiệm Của Học Sinh trong môn học giáo dục Quốc phòng và An ninh lớp 11 tại trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong giai đoạn giáo dục hiện nay, đổi mới phương pháp giảng dậy nhằm
    nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Một trong những
    quan điểm đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
    phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tự giác tích cực, chuyển
    mạnh quá trình giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
    lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn bó với thực tiễn. Khắc
    phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Chuyến từ học chủ yếu trên
    lớp sang tổ chức các hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
    khóa, nghiên cứu khoa học…đặc biệt nhấn mạnh hình thức học tập trải nghiệm”. Các
    hoạt động trải nghiệm giúp học sinh tăng cường khả năng quan sát, học hỏi và cọ xát
    với thực tế, thu lượm và xử lí thông tin lịch sử, truyền thống từ các địa phương, giúp
    học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong quá trình học tập, lĩnh hội, hình thành
    tri thức mới. Hoạt động trải nghiệm cũng làm cho nội dung giáo dục không bị bó hẹp
    trong chương trình sách giáo khoa mà gắn liền với thực tiễn lịch sử các địa phương,
    thực tiễn đời sống xã hội. Việc dạy học gắn lý thuyết với thực tiễn giúp học sinh
    trong quá trình trải nghiệm thể hiện được giá trị bản thân, thiết lập được mối quan hệ
    cá nhân với cá nhân khác và với tập thể, mối quan hệ giữa môi trường học tập và môi
    trường sống. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn học Giáo dục Quốc
    phòng và An ninh là một trong những môn học bắt buộc đối với học sinh THPT, giữ
    vai trò chủ chốt trong việc giáo dục ý thức, trách nhiệm của công dân đối với việc
    thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh,
    giúp học sinh phát triển các phẩm chất: Yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm;
    giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tinh thần nhân ái, nhân văn, ý thức trách nhiệm
    của công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh, an toàn
    và trật tự xã hội, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Góp phần phát
    triển ở học sinh các năng lực chung; năng lực tự chủ, tự học; năng lực hợp tác; năng
    lực giải quyết vấn đề sáng tạo thông qua các năng lực chuyên biệt như: năng lực nhận
    thức về các vấn đề quốc phòng, an ninh; năng lực vận dụng các kiến thức, kĩ năng
    đã học vào cuộc sống… chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh 11 có lượng
    kiến thức nhiều, đa dạng, phong phú, gồm những kiến thức về khoa học tự nhiên lẫn
    kiến thức khoa học xã hội và nhân văn. Có nhiều kiến thức liên quan đến lịch sử
    truyền thống của dân tộc, gắn liền với lịch sử và truyền thống địa phương các tỉnh,
    các huyện, các xã, phường và thị trấn; những thông tin thời sự trong nước, khu vực
    và thế giới; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
    nhà nước về thực 2 hiện nghĩa vụ quân sự trong thời bình; trách nhiệm, nghĩa vụ của
    công dân và học sinh đối với nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn
    vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong tình hình mới. Đó là chuỗi thông tin kiến thức vừa
    mang cơ sở lý luận khoa học vừa gắn liền với thực tiễn trong quá trình học tập, rèn
    luyện, tu dưỡng đạo đức và sinh hoạt của học sinh nơi đang sinh sống và học tập; tác
    động trực tiếp đến quá trình nhận thức và hình thànhlý tưởng cách mạng XHCN,
    truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào dân tộc, chủ nghĩa anh
    hùng cách mạng của nhân dân cho người học. Đây là nội dung giáo viên gặp rất nhiều
    khó khăn trong quá trình giảng dạy, đa số giáo viên chỉ chú trọng việc cung cấp kiến
    thức lí thuyết trong sách giáo khoa và trong Luật nghĩa vụ quân sự cho học sinh, rèn
    luyện kĩ năng làm các bài kiểm tra bằng hệ thống câu hỏi lí thuyết tự luận, trắc
    nghiệm, vấn đáp theo logic, khuôn mẫu, nhưng chưa quan tâm hoặc tìm hiểu chưa
    đúng mức những giá trị về lịch sử truyền thống của nhà trường và các địa phương
    nơi các em đang sinh sống, học tập để áp dụng vào trong quá trình giảng dạy. Những
    thiếu sót này làm cho bài giảng thiếu sinh động, xa rời thực tế, hạn chế về hiệu quả
    và thiếu tính logic trong thực tiễn, “Muốn học sinh tích cực trong học tập, hình thành
    lý tưởng cách mạng, tự hào về truyền thống và lịch sử của dân tộc mình, trước hết
    các em phải không ngừng học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, các em phải tự
    hào, trân quý bản thân và gia đình; tự hào về truyền thống, lịch sử của nhà trường và
    địa phương; tự hào, lĩnh hội, kế thừa và phát huy những truyền thống hào hùng, vẻ
    vang của dân tộc”. Với mong muốn từng bước thay đổi tư duy nhận thức và cách
    tiếp cận của học sinh đối với môn học GDQP – AN. không ngừng nâng cao chất
    lượng trong dậy và học môn học này tôi mạnh dạn đề xuất giải pháp với đề tài:
    “Nâng cao chất học tập thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo về lịch sử truyền
    thống cách mạng các địa phương vào giảng dạy chương trình giáo dục Quốc phòng
    và An ninh lớp 11 tại trường THPT
    1. Khái niệm về GDQPAN
    – QPAN là môn học trang bị kiến thức tổng hợp về vấn đề Quốc phòng –
    An Ninh, về các kỹ thuật quân sự để người học ý thức được những trách nhiệm
    của người lao động, người chiến sỹ với Tổ quốc.
    Giáo dục quốc phòng là môn học trực thuộc các trường THPT, ĐH, cao
    đẳng, được giảng dậy theo chương trình quy định, là môn học đặc thù và bắt buộc
    tại các cơ sở giáo dục.
    Vì vậy GDQP – AN được xác định là một trong những nội dung của nền
    giáo dục quốc gia, nhờ những nội dung đó mà nhà nước có thể xây dựng được
    những nội dung cơ bản cho nền quốc phòng toàn dân. Có ỹ nghĩa vô cùng to lớn
    trong việc đào tạo và rèn luyện con người thời kĩ XHCN.
    2. Vai trò và tầm quan trọng của môn GDQPAN trong nhà trường
    – Môn học GDQPAN là môn học có vai trò cao trong việc khơi dậy lòng
    yêu nước của thế hệ trẻ, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc khiến nhân dân có một
    niềm tin vững chắc vào Đảng và Nhà Nước.
    – GDQP giúp tăng cường sự đoàn kết trong nhà trường giữa học sinh với
    học sinh và giữa các mối quan hệ khác.
    – GDQPAN là một trong những nhiệm vụ góp phần đẩy mạnh giáo dục toàn
    diện cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tu dưỡng các phẩm chất, rèn luyện
    ý chí kiên cường và đạo đức trong sáng.
    Rèn luyện tính kỉ luật, tinh thần đoàn kết, tu dưỡng phẩm chất, tác phong
    nghiêm túc trong học tập.
    Thông qua những giờ học lý thuyết giúp học sinh, sinh viên sẽ nhận thức đầy
    đủ hơn quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của Đảng, có
    nhận thức rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
    Qua các giờ học thực hành trang bị cho các em học sinh hiểu biết và và kỹ
    năng về đội hình, đội ngũ, các chiến thuật cũng như một số loại vũ khí, khí tài.
    Thông qua đó có thể biết cách phân biệt, sử dụng và trang bị cho mình những kỹ
    thuật cơ bản để sử dụng được một số loại vũ khí thông thường, biết cách phòng
    tránh khi kẻ thù sử dụng vũ khí tấn công.
    Cùng với đó, môn học GDQPAN còn rèn luyện cho học sinh tính kỷ luật
    trong môi trường quân đội, hướng cho các em làm việc theo nguyên tắc, kỷ cương,
    tạo cơ sở cho thế hệ trẻ tu dưỡng và hoàn thiện kỹ năng sống, góp phần ngăn ngừa
    và phòng chống tện nạn xã hội xâm nhập vào trường học.
    2.1. Vai trò của hoạt động trải nghiệm đối với môn học
    Hoạt động trải nghiệm có vai trò rất quan trọng đối môn học GDQPAN
    trong chương trình lớp 11. Thông qua hoạt động trải nghiệm không chỉ giúp cho
    học sinh phát huy được vốn hiểu biết, kinh nghiệm mà còn góp phần hình thành
    kĩ năng và thái độ sống tích cực .
    2.2. Phát huy vai trò của người học
    Xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, những năm gần đây, nhu cầu
    đẩy mạnh giáo dục theo hướng hiện đại, lấy người học làm trung tâm ngày càng
    được quan tâm và chú trọng. Là một trong những trường giảng dậy môn giáo dục
    Quốc phòng – An ninh trong địa bàn Tỉnh nói chung và trên địa bàn thành phố nói
    riêng, trường đã THPT Trần Hưng Đạo đã có nhiều nỗ lực trong đổi mới phương
    pháp dạy học tích cực với phương châm “lấy người học làm trung tâm”; linh hoạt
    điều chỉnh kế hoạch, phương pháp tổ dậy học phù hợp, khoa học và ứng dụng
    công nghệ trong dạy học. Cùng với đó,tổ bộ môn ; tích cực nghiên cứu đề tài khoa
    học có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc.
    Có thể nói, đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm thì
    giáo viên sẽ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và thúc đẩy việc trực tiếp
    trải nghiệm đảm bảo quá trình học tập và lĩnh hội kiến thức của học sinh. Học
    sinh sẽ chủ động trở thành người tự tạo và thu thập kiến thức cho bản thân. Những
    kiến thức các em tiếp thu được không chỉ là những kiến thức từ trong nhà trường,
    mà còn là những kiến thức thực tế thông qua hoạt động trải nghiệm.
    Việc đổi mới phương pháp giáo dục, phát huy vai trò của người học, sẽ giúp học
    sinh có cơ hội phát huy tính chủ động tích cực của mình vào mục đích học tập,
    cho phép vận dụng những kiến thức thu thập được áp dụng thực hiện các dự án,
    thậm chí tự đánh giá kết quả của bản thân.Ngoài ra, học sinh chủ động lĩnh hội
    nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng thái độ theo
    chương trình, qua đó góp phần hình thành tính cách tích cực cho bản thân người
    học.học sinh được tiếp xúc với một số loại súng như súng trường AK, tiểu liên,
    lựu đạn.
    2.3. Hoạt động trải nghiệm
    Để nâng cao kiến thức giáo dục Quốc phòng – An ninh, các chương trình hoạt
    động trải nghiệm cho học sinh được tổ nhóm chuyên môn Giáo Dục Thể Chất – Giáo
    dục Quốc phòng và An ninh Trường THPT Trần Hưng Đạo triển khai với nhiều hình
    thức, đa dạng về nội dung. Cụ thể, đối với từng nội dung bài học.
    Đối với nội dung lý thuyết : Bài Luật Nghĩa vụ quân sự học sinh chủ động
    tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về liên quan đến Luật nghĩa vụ quân sự, Nội dung
    luật ban hành. Bài chủ quyền lãnh thổ học sinh tìm hiểu nội dung của lãnh thổ và
    chủ quyền lãnh thổ quốc gia, biên giới quốc gia và nhiệm vụ bảo vệ biên giới
    quốc gia.
    Về nội dung thực hành : học sinh sẽ được tiếp xúc với một số phương tiện
    vũ khí;súng, lựu đạn. Tìm hiểu, sưu tầm các loại vũ khí khác của lực lượng quân
    đội trong địa bàn tỉnh. Ngoài ra, học sinh sẽ được tham quan một số di tích lịch
    sử cách mạng trên địa bàn tỉnh; Tìm hiểu một số hoạt động bảo vệ an ninh quốc
    gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; từ đó thành lập các dự án nhỏ
    về đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
    Kỹ chiến thuật bắn súng tiểu liên AK học sinh được học trên lý thuyết
    pawer sau đó sẽ được học tập trực tiếp với giáo viên của tổ nhóm chuyên môn.
    Sau đó sẽ được Quan sát, trải nghiệm cách sử dụng bản đồ địa hình quân sự; Tiếp
    xúc với một số loại súng như súng trường AK, tiểu liên, lựu đạn, pháo cối… (có
    thể trải nghiệm khi tháo, lắp súng, bắn súng điện tử…).
    Bên cạnh đó, sinh viên còn được xem phim tài liệu về một số chủng loại vũ
    khí hủy diệt lớn như: Hạt nhân, sinh học, hóa học; tổ chức thực hiện việc sơ cứu,
    băng bó, vận chuyển người bị thương; luyện tập cùng với chiến sĩ về kĩ thuật từng
    người trong chiến đấu tiến công, chiến đấu phòng ngự và được trải nghiệm hoạt
    động bắn súng trên máy bắn tập súng tiểu liên AK.
    Nâng cao chất lượng giáo dục thông qua hoạt động trải nghiệm trong môn
    học Quốc phòng – An ninh là rất hợp lý và có thể đem lại hiệu quả cao. Từ đó,
    giúp học sinh trau dồi vốn hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân.
    Như vậy, để đẩy mạnh đổi mới phương pháp giáo dục trong thời gian tới,
    tổ nhóm chuyên môn tổ GDTC trường THPT Trần Hưng Đạo cần tiếp tục lựa
    chọn những hình thức đổi mới trong việc dậy học, phù hợp với các nguyên tắc
    giáo dục nhằm giúp người học đạt mục tiêu tốt nhất trong lĩnh hội các tri thức của
    môn học này. Đồng thời, kết hợp với việc nâng cao mức độ, hiệu quả sử dụng các
    phương tiện, thiết bị giáo dục hiện đại trong quá trình dạy học, nhất là đối với giáo
    dục kiến thức Quốc phòng – An ninh vốn là môn học có những đặc trưng riêng.
    3. Mục đích nghiên cứu
    Vận dụng kết quả các hoạt động trải nghiệm sáng tạo về thực tiễn lịch sử
    các địa phương vào giảng dạy môn GDQPAN lớp 11 và chủ chú trọng Bài 2:
    “Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh” chương trình Giáo dục Quốc
    phòng và An ninh lớp 11theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh THPT
    với mục đích:
    Đề xuất nội dung và quy trình dạy học Vận dụng kết quả các hoạt động trải
    nghiệm sáng tạo về thực tiễn lịch sử các địa phương vào giảng dạy Bài 2: “Luật
    nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh” chương trình Giáo dục Quốc phòng
    và An ninh lớp 11 theo tiếp cận dạy học trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THPT,
    góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học môn GDQP-AN cũng như phát triển năng
    lực của học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo.
    – Rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm việc theo nhóm một cách có hiệu quả từ
    đó hình thành năng lực hợp tác trong học tập và trong công việc hàng ngày.
    – Định hướng cho học sinh cách tìm tòi, khai thác các tài liệu liên quan đến
    vấn đề học tập và định hướng cách khai thác thông tin từ tài liệu thu thập được thông
    qua lịch sử Đảng bộ và thực tiễn các địa phương một cách có hiệu quả.
    – Giúp học sinh tự tin giao tiếp trước đám đông và khả năng thuyết trình
    các sản phẩm do chính các em tìm tòi, xây dựng và hoàn thiện.
    – Và hơn hết các em có thể tự hào về lịch sử hào hùng của nhà trường và
    địa phương nơi các em đang sinh sống và học tập, tự hào và trân quý những sản
    phẩm do chính tay mình làm ra và sử dụng những sản phẩm đó với nhiều mục
    đích khác nhau hoặc sẽ định hướng nghề nghiệp sau khi ra trường.
    – Xây dựng thêm các chủ đề dạy học theo nội dung hoạt động trải nghiệm
    sáng tạo thực tế vào các bài giảng học phần “Hiểu biết chung về quốc phòng an
    ninh” trong chương trình THPT để dạy tốt và học tốt môn Quốc phòng, an ninh.
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu
    – Tìm hiểu cơ sở lí luận về hoạt động trải nghiệm ở trường THPT.
    – Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa giáo dục quốc phòng an ninh
    lớp 11, cụ thể Bài 2: “Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh” chương
    trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh lớp 11 (theo thông tư số: 46/2020/TT –
    BGDĐT ngày 24 tháng 11 năm 2020 của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
    – Nghiên cứu các phương pháp và cách thức lồng nội dung vận dụng kết
    quả các hoạt động trải nghiệm vào nội dung bài học.
    – Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học chủ đề theo định hướng của chương
    trình giáo dục phổ thông mới năm 2020. (Chương trình giáo dục phổ thông môn
    giáo dục quốc phòng và an ninh, ban hành kèm theo thông tư số: 46/2020/TT –
    BGDĐT ngày 24 tháng 11 năm 2020 của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
    – Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra, đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của
    HĐTNST lịch sử truyền thống cách mạng và vận dụng kết quả vào dạy học bài 2.
    – Kết luận và đề xuất.
    5. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng: Học sinh khối 11 trường THPT Trần Hưng Đạo
    Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thời gian thực hiện đề tài :
    – Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh ba lớp 11A8, 11A9, 11A10 trường
    THPT Trần Hưng Đạo. Trong đó, hai lớp 11A9 và 11A10 là lớp thực nghiệm; lớp
    11A8 là lớp đối chứng. – Thời gian thực hiện: Trong năm học 2022 – 2023.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Cơ sở lí luận.
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một khái
    niệm mới trong dự thảo về “đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông
    sau năm 2015”. Để xác định được hoạt động trải nghiệm sáng tạo, cần xuất phát
    từ các thuật ngữ “Hoạt động”, “Trải nghiệm”, “Sáng tạo” và mối quan hệ giữa
    chúng với nhau. Tuy nhiên nó cũng không phải là phép cộng đơn giản của ba thuật
    ngữ trên, bởi trong hoạt động đã có yếu tố trải nghiệm, sáng tạo. Chỉ có những
    hoạt động giáo dục có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành phẩm chất và năng
    lực cho người học, dành cho đối tượng học sinh đảm bảo ba yếu tố Hoạt động –
    Trải nghiệm – Sáng tạo. Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới công
    bố ngày 21 tháng 7 năm 2017, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo
    dục trong đó trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong nhà
    trường hoặc trong xã hội dưới dự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó
    phát triển tình cảm, đạo đức, các kĩ năng và tich lũy kinh nghiệm riêng của cá
    nhân. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học, đồng
    thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng,
    mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kĩ
    năng khác nhau. Có nhiều cách hiểu khác nhau về trải nghiệm sáng tạo nhưng
    nhìn chung trải nghiệm sáng tạo được coi là hoạt động giáo dục, được tổ chức
    theo thức trải nghiệm và sáng tạo nhằm góp phần phát triển toàn bộ nhân cách học
    sinh. Trên cơ sở phân tích các khái niệm thuật ngữ có thể đưa ra các định nghĩa
    về hoạt động trải nghiệm sáng tạo như sau: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là
    hoạt động giáo dục, trong đó nội dung và cách thức tổ chức tạo điều kiện cho từng
    học sinh được tham gia trực tiếp và làm chủ thể của hoạt động, tự lên kế hoạch,
    chủ động xây dựng chiến lược hành động cho bản thân và cho nhóm để hình thành
    và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kĩ năng sống và
    những năng lực cần có của công dân trong xã hội hiện đại, qua hoạt động học sinh
    phát huy khả năng sáng tạo để thích ứng và tạo ra cái mới, giá trị cho cá nhân và
    cộng đồng”. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa dạng phong phú, cùng một chủ
    đề, một nội dung giáo dục có thể tổ chức nhiều hình thức khác nhau như câu lạc
    bộ, trò chơi, thảo luận, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, giao lưu đối
    thoại…Học qua trải nghiệm là quá trình tích cực và hiệu quả, là con đường quan
    trọng để gắn học với hành, lý thuyết với thực tiễn, hình thành và phát triển năng
    lực toàn diện, hài hòa cho người học, có sự phối hợp liên kết nhiều lực lượng giáo
    dục trong và 7 ngoài nhà trường, có thể thực hiện đối với bất cứ lĩnh vực tri thức
    nào, khoa học hay đạo đức, quốc phòng an ninh, kinh tế xã hội… Học từ trải
    nghiệm cũng cần được tiến hành có tổ chức, có hướng dẫn theo quy trình nhất
    định của nhà giáo dục thì hiệu quả của việc học qua trải nghiệm sẽ tốt hơn.
    2. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    2.1 Quan điểm Đảng về công tác GDQPAN
    Các văn bản pháp luật của nhà nước về GDQPAN nhất là chỉ thị 12- ct/tw
    của bộ chính trị về tang cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQPAN
    trong tình hình mới.
    Nghị định 13/2014/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi
    hành luật GDQPAN. Trên cơ sở đó, cơ quan quân sự, công an với vai trò làm
    nòng cốt đã tích cực phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội triển khai thực
    hiện với nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp. Hội đồng GDQPAN từ Trung
    ương đến cấp xã phường được thường xuyên củng cố, kiện toàn, hoạt động có nền
    nếp, hiệu quả, cơ quan thường trực thực hiện đồng bộ công tác giáo dục quốc
    phòng trên phạm vi cả nước.
    Công tác giáo dục quốc phòng cho học sinh và sinh viên các cấp học từ
    THPT đến ĐH, CĐ trên cả nước đi vào nề nếp, hiệu quả chất lượng được nâng
    lên.Hệ thống trung tâm GDQP cho sinh viên, các kế hoạch giảng dậy tại các nhà
    trường THPT cho học sinh đang phát huy tốt vai trò, chủ động xây dựng kế hoach
    giảng dậy. trang bị cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, nâng cao nhận thức, xác định rõ
    hơn nghĩa vụ, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
    Công tác GDQPAN trong giai đoạn hiện này của toàn Đảng, toàn dân và toàn
    quân đan xen với thời cơ, thuận lợi và khó khăn. Do đó công tác GDQPAN có
    những nội dung mới, yêu cầu mới cao đòi hỏi các cấp các nghành từ trung ương
    đến cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp và tập trung các vấn đề trọng tâm:
    – Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
    các văn bản quy phạm pháp luật về GDQPAN.
    – Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, vai trò của các
    ban, nghành, đoàn thể thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt
    động của hội đông GDQP và AN các cấp.
    – Đẩy mạnh đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao hiệu quả công tác giáo
    dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức QPAN.
    – Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện các trung tâm giáo dục quốc
    phòng đã được phê duyệt, coi trọng bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ dậy và học
    ở các trường THPT.
    2. Mục tiêu của Hoạt động trải nghiệm trong giảng dậy GDQPAN
    2.1. Mục tiêu trải nghiệm các môn học nói chung
    Hoạt động trải nghiệm, ở cấp trung học phổ thông giúp mỗi cá nhân khẳng
    định được giá trị riêng,phù hợp với chuẩn mực đạo đức trung, giúp học sinh thể
    hiện tình yêu đất. nước, con người, trách nhiệm công dân,.. bằng việc làm, hành
    động cụ thể và bằng các hoạt động cống hiến xã hội, phục vụ cộng đồng. Hoạt
    động trải nghiêm ơ cấp THPT giúp học sinh tiếp tục hoàn thiện những phẩm chất
    và năng lục chung của chương trình giáo dục. Đó là những phẩm chất và năng lực
    cơ bản của người lao động tương lai và người công dân toàn cầu.
    2.2. Mục tiêu trong môn học GDQPAN.
    Học chương trình GDQPAN giúp học sinh phát triển các phẩm chất: yêu
    nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tinh
    thần nhân ái, nhân văn, ý thức trách nhiệm của công dân trong công cuộc xây
    dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bảo đảm an ninh, an toàn trật tự xã hội, sẵn sàng bảo vệ
    Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
    Góp phần phát triển ở học sinh năng lực chung, năng lực tự chủ, tự học, năng lực
    hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo thông qua các năng lực chuyên biệt”
    như năng lực nhận thức các vấn đề về quốc phòng, an ninh, năng lực vận dụng
    các kiến thức, kĩ năng đã học vào cuộc sống.
    Giáo dục lịch sử, truyền thống địa phương khơi dậy truyền thống yêu nước,
    lòng tự hào tự tôn dân tộc cho học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo.
    Trường cấp III Mỹ Lộc trước đây- Trường Trần hưng Đạo ngày nay, đã trải
    qua 50 năm xây dựng và trưởng thành. Hơn 50 năm là cả một chặng đường dài cho
    sự phát triển đi lên của một mái trường. Đó là thời gian đủ để khẳng định nét đẹp
    truyền thống mà bao thế hệ thày và trò của nhà trường đã tạo dựng, phát triển để trở
    thành một điểm sáng trên bức tranh GD-ĐT của Tỉnh Nam Định.
    Năm 1966 tại ngôi làng thôn Lang Xá, Xã Mỹ Tiến, Huyện Mỹ Lộc đã
    được thành lập với 4 lớp: 2 lớp 8 và 2 lớp 9. Từ ngày thành lập đến nay trường đã
    5 lần di chuyển địa điểm
    Tháng 9/1966 đến tháng 11/1968 Lang Xá, Mỹ Tiến Nam Định
    – Tháng 12/1968 đến tháng 5/1970 Mỹ Hưng Nam Định
    – Tháng 6/1970 đến tháng 4/1972 Vĩnh trường Lộc Vượng
    – Tháng 4/1972 đến 2/1973 sơ tán lên Mỹ Hà, Mỹ Lộc Nam Định
    – 2/1/1973 đến 10/1974 khu triển lãm TP Nam Định
    – Tháng 10/1974 đến nay Vĩnh Trường, Lộc Vượng, thành phố Nam Định
    Để ghi nhận thành tích đạt được của nhà trường cà do đóng trên địa bàn quê
    hương Vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, theo quyết định số 325/QĐ ngày
    26/10/1982 tỉnh Hà Nam Ninh của UBND, Trường Phổ Thông cấp III Mỹ Lộc
    chính thức được đổi tên thành trường THPT Trần Hưng Đạo.
    Lịch sử ngôi trường mang tên vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo:
    Năm 1966 đến hết năm học 1974- 1975. Trong giai đoạn này nhà trường
    hòa cùng không khí sôi sực của cả nước khi tiến hành đồng thời 2 cuộc cách mạng:
    xây dựng, bảo vệ Miền Bắc Xã hội chủ nghĩa và tiến hành cuộc cánh mạng giải
    phóng dân tộc ở Miền Nam, hàng nghìn học sinh của trường đã nghe theo tiếng
    gọi của Tổ Quốc đã xếp bút nghiên hang hái lên đường nhập ngũ để bảo vệ Tổ
    Quốc với quyết tâm “ xẻ dọc trường sơn đi cứu nước”. Nhiều người đã trở thành
    dũng sỹ diệt mỹ, anh hùng lực lượng vũ trang và cũng có nhiều người đã anh dũng
    hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc như thầy giáo Trần Văn Long, học sinh Bùi
    Quang Thành, Trần Đình Phú, Nguyễn Văn Bật, Lương Xuân Ẩn Đỗ Văn Chới,
    Ninh Văn Đức …
    Về giảng dạy, học tập trường đã đạt thành tích cao, giữ vững được niềm
    tin yêu của nhân dân và phụ huynh, góp phần đào tạo những lớp người chuẩn bị
    cho công cuộc xậy dựng đất nước sau chiến tranh.
    Thời kì sau chiến tranh 1975 đến 1993 đây là giai đoạn nhà trường đang
    từng bước xây dựng đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, phát triển quy mô để từ một
    trường có quy mô nhỏ trở thành quy mô lớn nhất trong tỉnh. Chất lượng giáo dục
    của nhà trường được nâng lên góp phần đào tạo nhiều thế hệ học sinh trở thành
    cán bộ khoa học, bác sỹ, kỹ sư theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
    đại hóa đất nước.
    Trải qua hơn 50 năm xây dựng nhà trường là địa chỉ học tập tin cậy và chất
    lượng của con em trên địa bàn thành phố và các huyện lân cận.là địa bàn chiến
    lược quan trọng kể cả trong thời chiến, thời bình và đặc biệt là trong giai đoạn
    cách mạng hiện nay Trường được xây dựng và trưởng thành trên mảnh đất có
    truyền thống hiếu học, thông minh, cần cù chịu khó và giàu truyền thống lịch sử
    cách mạng. Có những đóng góp to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân
    tộc, thống nhất đất nước Trong kháng chiến thành phố Nam Định luôn làm tốt
    công tác hậu phương chi viện sức người và sức của cho tiền tuyến. Tháng 10/1949
    toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 90 làng chiến đấu. Tháng 9/1949 bdu kích toàn
    tỉnh có hơn 45.000 người có gần 9.000 người ghi tên tòng quân tháng 11/1968 các
    lực lượng vũ trang Nam Hà (tên gọi Tỉnh cũ) đã bắn rơi 86 máy bay phản lực của
    mỹ.
    Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền còn non trẻ và kháng chiến trường kỳ
    chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ quân và dân Hà Nam đã vượt qua mọi khó
    khăn, gian khổ, đoàn kết thống nhất ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh tổng
    hợp to lớn, sản xuất và chiến đấu giỏi, góp phần bảo vệ vững chắc quê hương và
    miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
    Vì vậy việc giáo dục lịch sử truyền thống cách mạng địa phương cho học
    sinh trong trường học là việc làm thiết thực, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
    chương trình giáo dục phổ thông.
    – Môn học GDQP – AN gắn liền với lịch sử truyền thống của dân tộc, lịch
    sử truyền thống của các lực lượng vũ trang nhân dân và lịch sử truyền thống cách
    mạng của nhà trường và các địa phương nơi các em đang sinh sống và học tập.
    Việc tổ chức lồng ghép giáo dục lịch sử địa phương vào chương trình GDQP –
    AN nhằm giáo dục cho học sinh hiểu được truyền thống văn hiến và cách mạng
    của quê hương; những hi sinh to lớn, cao cả của cha ông đi trước vì sự nghiệp xây
    dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, giúp HS hiểu đầy đủ hơn về đạo lý uống nước
    nhớ nguồn, mảnh đất, con người, truyền thống nơi mình sinh ra, lớn lên, sinh sống
    và học tập. Việc chú trọng giáo dục lịch sử truyền thống cách mạng địa phương ở
    trường THPT Trần Hưng Đạo còn góp phần hình thành nhân cách cho học sinh,
    khơi dậy truyền thống yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào tự tôn dân tộc; tinh
    thần cần cù, dũng cảm, lao động sáng tạo; tinh thần hiếu học, lạc quan, đoàn kết,
    ý thức gắn kết cộng đồng; giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho người học.
    3. Cơ sở thực tiễn.
    3.1.Thực trạng về nội dung chương trình.

    Trích kế hoạch giáo dục môn GDQP – AN lớp 11, năm học 2021 – 2022
    STTBài họcNội Dung – hướng
    dẫn thực hiện
    Yêu cầu cần đạt
    Bài 2: LUẬT NGHĨA
    VỤ QUÂN SỰ VÀ
    TRÁCH NHIỆM
    CỦA HỌC SINH (4
    TIẾT)
    Tiết 3 – PPCT
    Sự cần thiết ban hành
    Luật nghĩa vụ quân sự,
    giới thiệu khái quát về
    Luật NVQS 2015.
    – Hiểu được mục
    đích của việc ban
    hành luật NVQS,
    bản chất quá trình
    xây dựng và phát
    triểnQĐND theo
    chế độ NVQS
    Tiết 4 -PPCT
    Những quy định
    chung, chuẩn bị cho
    thanh niên nhập ngũ
    – Khái niệm SQ,
    ngạch SQ quân
    đội. – Nắm được
    trách nhiệm của
    SQ, HSQ.
    Tiết 5 – PPCT
    – Phục vụ tại ngũ trong
    thời bình. – xữ lý các vi
    phạm Luật nghĩa vụ
    quân sự
    – Nắm vững chế độ
    chính sách của SQ,
    HSQ và người
    thân. – Đối tượng
    tạm hoãn, miễn và
    không được làm
    NVQS. – Chế độ
    chính sách của
    HSQ, BS và người
    thân
    Tiết 6 – PPCT– HS nhận thức
    được trách nhiệm
    – Trách nhiệm của học
    sinh trong việc chấp
    hành Luật NVQS
    2015.
    của bản thân trong
    xây dựng, phát
    triển QĐND,
    BVTQ Việt Nam
    XHCN.

    Bài 2: “Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh” chương trình giáo dục
    Quốc phòng và An ninh lớp 11 được xây dựng dựng trên cơ sở các quan điểm sau:
    * Tính kế thừa và hiện đại
    – Nội dung chủ đề được xây dựng trên cơ sở các quan điểm, chủ trương
    đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
    xã hội chủ nghĩa. Được xây dựng dựa trên nền tảng lí luận và thực tiễn Luật có
    liên quan. 9 – Mục đích của việc ban hành Luật NVQS, nội dung cơ bản, trách
    nhiệm của công dân và học sinh trong việc chấp hành Luật NVQS 2015. Truyền
    thống kinh nghiệm dựng nước và đánh giặc giữ nước của cha ông ta qua các thời
    kỳ đến hiện nay.
    * Phát triển phẩm chất, năng lực chung, năng lực đặc thù
    – Nội dung chủ đề với thời lượng 4 tiết, mỗi tiết 45 phút xác định rõ các
    phẩm chất, năng lực có thể hình thành và phát triển ở học sinh khối 11 qua nội
    dung học: một mặt nội dung căn cứ vào yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực
    làm cơ sở và xuất phát điểm để lựa chọn nội dung truyền đạt; mặt khác nội dung
    hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực tự học, năng lực phát
    hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực giao tiếp hợp tác, năng lực
    quản lí, năng lực sử dụng CNTT,năng lực cốt lõi cho học sinh khối 11 thông qua
    việc hướng dẫn học sinh tiếp thu, vận dụng nội dung Luật NVQS vào thực tiễn.
    *Tính thực hành, thực tiễn
    – Nội dung chủ đề liên quan trực tiếp đến lịch sử truyền thống các địa
    phương, xác định lượng kiến thức có thể tổ chức huy động thông qua hoạt động
    trải nghiệm thực tiễn, vận dụng xây dựng kế hoạch và tổ chứccó hiệu quả để phát
    triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Giúp học sinh thấy được trách nhiệm trong
    việc thực hiện NVQS bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ vững chắcđộc lập, chủ quyền thống
    nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ngay tại địa phương, nhà trường nơi mình
    đang sinh sống và học tập.
    3.2.Thực trạng vận dụng kết quả HĐTNST vào dạy học chủ đề môn
    GDQP – AN ở trường THPT
    * Kết quả thăm dò tổng 16 GV trực tiếp giảng dạy bộ môn GDQP – AN, gồm 2
    GV dạy tại trường nơi tôi công tác và 14 GV giảng dạy tại các trường THPT trên
    địa bàn thành phố

    Kết quả khảo sát thực trạng HĐTNST môn GDQPAN ở trường THPT
    Tổng số GVGV đã
    áp dụng
    GV chưa
    áp dụng
    Đánh giá cuẩ GV về việc vận dụng
    kết quả HĐTNST trong giảng dạy
    môn GDQPAN
    Rất cần thiết10
    162
    (11%
    14
    (89%)
    Cần thiết5
    Không cần thiết1

    Về việc tổ chức các HĐTNST và vận dụng kết quả HĐTNST vào trong quá
    trình giảng dạy, thông qua số liệu đã thu thập, xử lý thể hiện trên biểu đồ và tiếp
    thu ý kiến, trao đổi trực tiếp với bạn bè, đồng nghiệp tôi rút ra một số kết luận như
    sau.
    Hình 1: Mức độ sử dụng các HĐTNST của GV
    GV đã áp dụng
    11%
    GV chưa áp dụng
    89%
    – Về mức độ sử dụng,trong tổng số 16 GV được khảo sát, chỉ có 2 GV từng
    tiến hành tổ chức, vận dụng kết quả hoạt động TNST cho học sinh trong chương
    trình GDQP – AN cấp THPT tại trường nơi tôi công tác, còn lại đa số GV chưa vận
    dụng kết quả HĐTNST vào trong quá trình giảng dạy. Đây có thể xem là một hạn
    chế của đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn GDQP – AN trên địa bàn nói
    riêng và toàn tỉnh nói chung. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục đang từng bước
    đổi mới căn bản và toàn diện, theo tôi việc tổ chức và vận dụng kết quả HĐTNST
    trong giảng dạy môn học GDQP – AN cần được chú trọng đầu tư xây dựng kế hoạch,
    tổ chức bài bản, thường xuyên, liên tục và có hiệu quả tốt, nhằm đem lại những hiệu
    ứng tích cực cho người học và toàn xã hội.
    – Về tính hiệu quả của TNST trong việc phát triển năng lực toàn diện cho
    HS, đa số GV đánh giá cao hiệu quả mà TNST đem lại. Có 15/16 GV (chiếm tỷ
    lệ 94,74%) được khảo sát lấy ý kiến đều thống nhất quan điểm việc tổ chức và
    vận dụng kết quả HĐTNST trong giảng dạy môn GDQP – AN là cần thiết và rất
    cần thiết trong giáo dục hiện nay. TNST là cơ hội để HS xâm nhập thực địa, nắm
    bắt được hệ thống Hầm, Hào, Lô Cốt, Ụ Súng, Đài quan sát và các căn cứ quân
    sự địa phương các huyện và thành phố . Hiểu được lịch sử, truyền thống của địa
    phương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ cứu nước từ 1945 – 1975.
    Rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử; phát triển các năng lực tư duy, sáng tạo, tiếp
    thu, lĩnh hội và phát huy những truyền thống vẻ vang của dân tộc, địa phương và
    nhà trường để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống; rèn luyện năng lực hợp tác, kĩ
    năng thuyết trình giữa đám đông, kĩ năng giải quyết vấn đề; giúp học sinh luôn tự
    tin, bản lĩnh, vững vàng trước mọi tình huống. Thông qua các hoạt động TNST
    giúp HS cũng cố và phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc,
    ra sức học tập, rèn luyện và tham gia tích cức các hoạt động QP, AN do trường và
    địa phương tổ chức, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và
    toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong thời kì mới. GV đã áp dụng 11% GV chưa
    áp dụng 89% Hình 1: Mức độ sử dụng các HĐTNST của GV.
    – Về hạn chế của việc vận dụng kết quả HĐTNST trong dạy học môn GDQP
    – AN: Hầu hết GV đều cho rằng, tổ chức và vận dụng kết quả HĐTNST cần nhiều
    thời gian để thực hiện. Vì là môn học phụ nên chưa được quan tâm, chỉ đạo đúng
    mức, học sinh ưu tiên thời gian học tập các môn chủ đạo nên việc tổ chức gặp
    nhiều khó khăn, xã hội và phụ huynh học sinh ít quan tâm và không phù hợp với
    hình thức tổ chức hội thao các cấp.
    * Kết quả thăm dò HS 3 lớp 11A8 (48 HS), 11A9 (44 HS) và 11A10 (
    40HS) trường THPT nơi tôi công tác thì cho thấy: Khi GV mới lập kế hoạch hoạt
    động và triển khai thực hiện, đa số HS ban đầu còn chưa thích nghi với dạy học
    TNST, chưa hiểu rõ được bản chất vấn đề, biểu hiện sự e ngại và có phần lo lắng
    vì sợ tốn nhiều thời gian, khó hoàn thành các nhiệm vụ do GV giao phó cho các
    tổ, nhóm và từng cá nhân, sợ ảnh hưởng đến kết quả chung trong học tập.
    Tuy nhiên, sau khi tham gia thì hầu hết các em đều rất thích thú, HS rất
    hứng thú với những kiến thức về Quốc phòng và An ninh liên quan đến thực tiễn
    lịch sử truyền thống cách mạng địa phương, nơi các em đang sinh sống và học
    tập. TNST là dịp các em được tận mắt chứng kiến các minh chứng của lịch sử,
    sống chung với những giây phút hào hùng của cha ông, căm phận trước tội ác của
    kẻ địch…Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ học tập, các em được giao lưu, học
    hỏi với các bậc lão thành cách mạng, người có công với Tổ quốc, các nhân chứng
    lịch sử, hiểu biết sâu sắc về lịch sử truyền thống của các địa phương, được cũng
    cố thêm truyền thống yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc và chủ nghĩa anh hùng
    cách mạng của nhân dân

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Nâng cao năng lực CĐCS đoàn kết nỗi lực vượt khó sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covid 19 góp phần thực hiện thắng lợi

    SKKN Nâng cao năng lực CĐCS đoàn kết nỗi lực vượt khó sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covid 19 góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Từ việc xác định vai trò nòng cốt của CĐCS
    “Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của
    người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị
    của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ,
    công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người
    lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ
    quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý
    kinh tế – xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
    chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình
    độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
    hội chủ nghĩa ”. (Điều 1 Luật Công đoàn 2012).
    Từ đó, chúng ta tìm hiểu về định nghĩa của Công đoàn cơ sở.
    “Công đoàn cơ sở là tổ chức cơ sở của Công đoàn, tập hợp đoàn viên công đoàn
    trong một hoặc một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, được công đoàn cấp trên trực tiếp cơ
    sở công nhận theo quy định của pháp luật và Điều lệ Công đoàn Việt Nam ”.(Theo điều 4
    của Luật Công đoàn 2012).
    Công đoàn cơ sở được thành lập tại các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh
    tế, những đơn vị sự nghiệp và các cơ quan Nhà nước, những tổ chức Chính trị – xã hội,
    những tổ chức chính trị – xã hội, những tổ chức xã hội có từ 5 đoàn viên trở lên, được công
    đoàn cấp trên các quyết định được công nhận.
    Công đoàn cơ sở là tổ chức cơ sở của công đoàn, tập hợp đoàn viên công đoàn trong
    một hoặc một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, được công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở
    công nhận theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều lệ Công đoàn Việt Nam” (Điều 4
    Luật Công đoàn 2012).
    Có thể nói: Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, là
    chỗ dựa vững chắc, là sợi dây kết nối quần chúng với Đảng.
    Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn trọng lẫn nhay,
    ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công đoàn hoạt động.
    Với tổ chức chính trị, xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc
    Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh chính trị, cùng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
    thể nhân dân là một bộ phận của hệ thống chính trị.
    Vị trí của Công đoàn Việt Nam được Hiến pháp và Pháp luật cùng toàn thể công
    nhân, viên chức, người lao động thừa nhận.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 4
    2. Từ việc xác định chức năng, nhiệm vụ của CĐCS
    Vai trò và chức năng của CĐCS có mối liên hệ khăng khít với nhau. Từ tính chất, vị
    trí, vai trò sẽ xác định chức năng CĐCS và khi thực hiện tốt chức năng sẽ làm cho vai trò
    Công đoàn ngày càng củng cố và nâng cao.
    Chức năng CĐCS mang tính khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí,
    nguyện vọng của mỗi đoàn viên, nó được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ chức
    Công đoàn. Không ai có thể tuỳ tiện gắn cho Công đoàn những chức năng không phù hợp
    với bản chất.
    Song, cũng không nên cố định một cách cứng nhắc chức năng Công đoàn. Cùng với
    sự phát triển của xã hội, chức năng CĐCS cũng phát triển, ở mỗi một điều kiện lịch sử – xã
    hội khác nhau, CĐCS thực hiện những chức năng khác nhau và nó luôn luôn được bổ sung
    những nội dung mới, ý nghĩa mới. Đồng thời sự phát triển chức năng không có nghĩa là phủ
    định, rũ bỏ các chức năng đã có của CĐCS.
    Các chức năng của CĐCS gắn chặt với các mặt hoạt động của đời sống xã hội: chính
    trị, tư tưởng, văn hoá – xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
    Công đoàn Việt Nam, CĐGD Việt Nam nói chung, cũng như CĐCS nói riêng có tính
    chất quần chúng và tính chất giai cấp của giai cấp công nhân và có 3 chức năng sau:
    Chức năng thứ nhất
    CĐCS đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC-LĐ
    trong đơn vị sự nghiệp.
    CĐCS thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích công nhân lao động vì: trình độ và
    kinh nghiệm quản lý của chính quyền các cấp còn non kém, bộ máy Nhà nước còn quan
    liêu, hành chính dẫn đến một số người, một số bộ phận thờ ơ trước quyền lợi của công nhân,
    viên chức và lao động, tình trạng tham ô, lãng phí, móc ngoặc, hối lộ, tham nhũng, vi phạm
    đến lợi ích, đời sống người lao động vẫn còn tồn tại không thể ngay một lúc xoá bỏ hết
    được. Vì vậy, Công đoàn phải là người bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức và lao động
    chống lại tệ nạn quan liêu, chống lại các biểu hiện tiêu cực. Đó là sự bảo vệ đặc biệt khác
    hẳn với sự bảo vệ trong chủ nghĩa tư bản.
    Đồng thời Công đoàn cũng bảo vệ chính lợi ích của Nhà nước – Nhà nước của dân,
    do dân, vì dân. Đấu tranh chống lại các thói hư tật xấu của một số người, nhóm người lạc
    hậu bị tha hoá, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, bảo vệ
    chính quyền Nhà nước.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 5
    Thực tế hiện nay của nước ta, trong điều kiện hàng hoá nhiều thành phần, các xí
    nghiệp tư nhân, liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công nhân, lao động làm
    việc trong sự quản lý của chủ xí nghiệp (không phải xí nghiệp quốc doanh), đã xuất hiện
    quan hệ chủ thợ, tình trạng vi phạm đến quyền, lợi ích công nhân lao động có xu hướng phát
    triển. VÌ vậy, chức năng bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức và lao động của Công đoàn có
    ý nghĩa hết sức quan trọng.
    Để thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích, CĐCS chủ động tham gia cùng chính quyền
    tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao động; Công đoàn tham gia trong
    lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, trong việc ký kết hợp đồng lao động của công nhân,
    lao động; đại diện công nhân, lao động ký kết thoả ước lao động tập thể; trong vấn đề
    thương lượng, giải quyết tranh chấp lao động; tổ chức đình công theo Bộ luật lao động.
    Quản lý và sử dụng quĩ phúc lợi tập thể và sự nghiệp phúc lợi tập thể; bảo hiểm xã hội; bảo
    hộ lao động; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công nhân, viên chức và lao động;
    phát huy dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội; phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ,
    thể dục, thể thao, du lịch, thăm quan nghỉ mát.
    Trong quá trình thực hiện các nội dung hoạt động nhằm thực hiện chức năng bảo vệ
    lợi ích cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc các vấn đề cơ bản như:
    Lợi ích người lao động gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của tập thể, sự tồn tại của
    Nhà nước chính là sự đảm bảo lợi ích cho người lao động. Lợi ích của người lao động
    không chỉ thuần tựu ở cơm ăn, áo mặc mà cao hơn là lợi ích chính trị (đại diện là Nhà
    nước), lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá, tinh thần, lợi ích trước mắt, hàng ngày, lâu dài, lợi ích
    cá nhân, tập thể, Nhà nước.
    + Nhà nước là người bảo đảm, Công đoàn là người bảo vệ lợi ích công nhân, viên
    chức và lao động. Đây là vấn đề quan trọng nói lên mối quan hệ khăng khít, biện chứng
    giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Đồng thời, nó là cơ sở nhận thức về lợi ích công nhân, viên
    chức và lao động trong điều kiện mới, thể hiện đúng bản chất cách mạng của Công đoàn
    Việt Nam.
    Chức năng thứ hai
    CĐCS tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia kiểm tra, giám
    sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế.
    Trong điều kiện giai cấp công nhân giành được chính quyền người lao động trở thành
    người chủ, họ có quyền và có trách nhiệm tham gia quản lý kinh tế, xã hội. VÌ vậy, vấn đề
    tham gia quản lý đã trở thành chức năng của Công đoàn, đặc biệt CĐCS. Tuy nhiên cần
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 6
    nhận thức rằng, CĐCS tham gia quản lý chứ không làm thay, không cản trở, không can
    thiệp thô bạo vào công việc quản lý của Nhà nước. Công đoàn tham gia quản lý thực chất là
    để thực hiện quyền của Công đoàn, quyền của công nhân, viên chức, lao động, và để bảo vệ
    đầy đủ các quyền lợi ích của người lao động.
    Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
    khi thực hiện chức năng tham gia quản lý Công đoàn cần quan tâm đến việc phát triển tiềm
    năng lao động, phát huy sáng kiến, cùng giám đốc, thủ trưởng đơn vị tìm nguồn vốn, thị
    trường để mở rộng sản xuất – kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động. Kiểm tra,
    giám sát hoạt động của chính quyền, chống quan liêu tham nhũng.
    Những nội dung CĐCS tham gia quản lý:
    * Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và lao động là
    biện pháp tổng hợp để họ trực tiếp tham gia quản lý.
    * Tham gia xây dựng chiến lược tạo việc làm và điều kiện làm việc cho công nhân
    lao động.
    * Tham gia xây dựng, hoàn thiện các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến người
    lao động như; tiền lương, tiền thưởng, nhà ở…
    * Tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo của công nhân, viên chức và LĐ.
    * Tham gia xây dựng, hoàn thiện các chính sách xã hội: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
    tế, chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, phong trào đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xãhội.
    * Vận động và tổ chức tốt Hội nghị cán bộ công chức, người lao động (đơn vị hành
    chính sự nghiệp) ở đơn vị.
    * Tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách liên quan đến quyền, lợi và nghĩa
    vụ của người lao động. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách của đơn vị.
    – Chức năng thứ ba, giáo dục, động viên CNVCLĐ phát huy quyền làm chủ đất
    nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
    Chức năng giáo dục của Công đoàn ngày càng mở rộng và phát triển thông qua hoạt
    động thực tiễn trong lao động sản xuất và tham gia các phong trào thi đua…góp phần cho
    công nhân, viên chức và lao động nhận thức và hiểu được lợi ích của họ gắn với lợi ích tập
    thể, lợi ích của xã hội. Muốn có lợi ích và muốn lợi ích của mnh được bảo vệ trước hết, phải
    thực hiện tốt nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ của người công dân đối với cơ quan, xí nghiệp và
    xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng ư thức lao động mới, lao động có kỷ luật và có tác phong
    công nghiệp. Nâng cao tinh thần tự giác học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ,
    rèn luyện tay nghề để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 7
    + Công đoàn tuyên truyền, giáo dục cho công nhân, viên chức và lao động vững tin
    vào đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng ta đã lựa
    chọn. Giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc, của địa phương (nhất là đối với công
    nhân lao động trẻ).
    + Tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giáo dục nâng cao đạo đức nghề
    nghiệp, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, xây dựng lối sống văn hoá lành mạnh,
    sống và làm việc theo pháp luật góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Với tinh
    thần thường xuyên cảnh giác và đấu tranh chống lại những âm mưu thù địch.
    Chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, trong đó chức
    năng bảo vệ lợi ích hết sức được coi trọng, mang ý nghĩa trung tâm, là mục tiêu hoạt động
    của Công đoàn Việt Nam; chức năng tham gia quản lý mang ý nghĩa phương tiện; chức
    năng giáo dục mang ý nghĩa tạo động lực tinh thần để đạt được mục tiêu.
    3. Yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
    Xuất phát từ mục tiêu tổng quát: tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu
    quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
    nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
    huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
    đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
    Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục trung học phổ thông của Đảng,
    Nhà nước Nghị quyết, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày
    09/6/2014 chương trình giáo dục trung học phổ thông có những định hướng đổi mới cụ thể
    như sau:
    Nghị quyết số: 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
    đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
    định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được Hội nghị Trung ương 8 (khóa
    XI) thông qua.
    Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết là Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
    nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được
    ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
    Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp
    thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính
    sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 8
    nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình,
    cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
    Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ
    Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát
    triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả,
    đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
    Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo
    dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
    4. Yêu cầu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục và đào tạo trong bối cảnh đại
    dịch Covid-19
    Năm học 2021 – 2022 là năm tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt
    Nam, Nghị quyết Đại hội XV CĐGD Việt Nam; Nghị quyết Đại hội XVII LĐLĐ tỉnh và
    Nghị quyết Đại hội XII CĐGD tỉnh, với chủ đề của năm 2021 “Tiếp tục nâng cao chất
    lượng hoạt động công đoàn cơ sở”, phát huy những kết quả đã đạt được của năm học trước,
    khắc phục khó khăn, tồn tại, hạn chế
    Năm học 2022-2023 toàn ngành Giáo dục tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Đại
    hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội
    và các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về GDĐT và hoạt
    động công đoàn; Chiến lược phát triển giáo dục 2021-2030, tầm nhìn 2045; Đồng thời là
    năm học diễn ra đại hội công đoàn các cấp tiến tới Đại hội XIII CĐGD tỉnh, Đại hội XVI
    Công đoàn tỉnh Nam Định và Đại hội XII Công đoàn Việt Nam. Thực hiện chủ đề năm học
    2022-2023 “Đoàn kết, nỗ lực vượt khó khăn, đổi mới sáng tạo, củng cố, nâng cao chất
    lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo”
    Vì vậy, tôi viết đề tài SKKN: Nâng cao năng lực CĐCS “Đoàn kết – nỗ lực vượt khó
    – sáng tạo” góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
    đào tạo” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 9
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SÁNG KIẾN
    1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CÔNG ĐOÀN TRONG TRƯỜNG THPT HIỆN
    NAY (TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIỂN)
    1.1. Về tình hình đội ngũ cán bộ, nhà giáo, người lao động (CBNGNLĐ)
    *Ngành GD &ĐT Nam Định
    – Năm học 2020-2021
    Tình hình đội ngũ: CĐGD tỉnh Nam Định trực tiếp quản lý, chỉ đạo 62 CĐCS, trong
    đó có 45 công đoàn trường trung học phổ thông công lập, 11 công đoàn trường trung học
    phổ thông dân lập và tư thục, 02trung tâm giáo dục thường xuyên, 01 Trung tâm Kỹ thuật
    tổng hợp- Hướng nghiệp- Dạy nghề, 01 Công đoàn Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định,
    01 Công ty Cổ phần sách và thiết bị trường học và 01 Công đoàn cơ quan Sở GDĐT,với
    3.745 đoàn viên. Phối hợp với LĐLĐ huyện/thành phố chỉ đạo ngành nghề 697 công đoàn
    cơ sở, trong đó có 226 công đoàn trường Mầm non, 226 công đoàn trường Tiểu học, 226
    công đoàn trường THCS, 9 TTGDNN-GDTX và 10 Công đoàn cơ quan Phòng GDĐT
    huyện, thành phố, với 24.399 đoàn viên.
    Thuận lợi: CĐGD tỉnh luôn được sự quan tâm chỉ đạo của LĐLĐ tỉnh, CĐGD Việt
    Nam, sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở GDĐT, các đơn vị trường học trong khối trực thuộc ổn
    định, nề nếp; Công đoàn các cấp trong ngành đều có quy chế phối hợp hoạt động giữa Công
    đoàn với chuyên môn cùng cấp; đội ngũ nhà giáo và người lao động ổn định.
    Khó khăn: Do dịch bệnh Covid-19, đời sống và việc làm của cán bộ, nhà giáo, người
    lao động (CBNGNLĐ)gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ sở giáo dục ngoài công lập;
    một số chính sách mới có ảnh hưởng lớn tới tâm tư, nguyện vọng của CBNGNLĐ (văn
    bằng, chứng chỉ, việc tuyển dụng lại…).
    – Năm học 2021-2022
    Tình hình đội ngũ: Công đoàn Giáo dục (CĐGD) tỉnh Nam Định trực tiếp quản lý,
    chỉ đạo 62 Công đoàn cơ sở (CĐCS), trong đó có 45 công đoàn trường trung học phổ thông
    công lập, 11 công đoàn trường trung học phổ thông dân lập và tư thục, 02 trung tâm giáo
    dục thường xuyên, 01 Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp- Hướng nghiệp- Dạy nghề, 01 Công
    đoàn Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định, 01 Công ty Cổ phần sách và thiết bị trường học
    và 01 Công đoàn cơ quan Sở GDĐT, với 3.755 đoàn viên. Phối hợp với Liên đoàn Lao động
    (LĐLĐ) huyện/thành phố chỉ đạo ngành nghề 702 công đoàn cơ sở, trong đó có 230 công
    đoàn trường Mầm non, 227 công đoàn trường Tiểu học, 226 công đoàn trường THCS, 9
    TTGDNN-GDTX và 10 Công đoàn cơ quan Phòng Giáo dục Đào tạo huyện, thành phố, với
    22.207 đoàn viên.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 10
    Thuận lợi: CĐGD tỉnh luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của LĐLĐ tỉnh, CĐGD
    Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ với Sở Giáo dục và Đào tạo (GDĐT); các đơn vị trường học
    trong khối trực thuộc ổn định, nền nếp, hưởng ứng nhiệt tình các hoạt động phong trào do
    công đoàn cấp trên phát động. Công đoàn các cấp trong ngành đều có quy chế phối hợp hoạt
    động giữa Công đoàn với chuyên môn cùng cấp. Tình hình đời sống và thu nhập của đội
    ngũ nhà giáo, người lao động ổn định.
    Khó khăn: Năm học vừa qua, do ảnh hưởng rất lớn từ dịch bệnh Covid-19, địa bàn
    hoạt động rộng, kinh phí hoạt động hạn chế, ngành chủ trương lồng ghép các cuộc thăm,
    kiểm tra … của các phòng chuyên môn, chức năng của Sở GDĐT với cơ sở nên công tác
    kiểm tra hoạt động CĐCS còn gặp nhiều khó khăn. Đồng thời do tình hình dịch bệnh kéo
    dài nên kế hoạch công tác công đoàn có sự thay đổi về hình thức và phương thức tổ chức,
    việc tổ chức các hoạt động thể thao, văn nghệ bị hạn chế.
    *Tại CĐCS THPT Lý Nhân Tông
    – Tổng số CBNGNLĐ: 47, trong đó nữ: 38 tỷ lệ 80,8%.
    Trong đó:
    + Số CBNGNLĐ hợp đồng:0;
    + Số hợp đồng giảng dạy, hợp đồng thỉnh giảng (với các đơn vị Tư thục, Dân lập):0
    + Số hợp đồng làm các công việc khác: 01 bảo vệ; 01 Y tế; 01 Thư viện; 01 Thiết bị
    – Tổng số đoàn viên công đoàn: 45, Nữ: 37 tỷ lệ 82,6%.
    So với cuối năm học 2020-2021: tuyển mới 0, chuyển đến 1, chuyển đi 3, nghỉ hưu 0
    – Số tổ công đoàn: 6
    10 năm – một chặng đường “vững mạnh”, Công đoàn Trường THPT Lý Nhân Tông
    được sự quan tâm, chỉ đạo của Chi Bộ Đảng cùng Ban giám hiệu nhà trường, lấy tri thức là
    hành trang, đoàn kết là sức mạnh, đã luôn phát huy tinh thần dân chủ, chắp cánh nâng tầm
    cho sự nghiệp giáo dục của nhà trường. Điển hình là không khí thi đua sôi nổi, tích cực
    hưởng ứng các phong trào thi đua “Hai tốt” với nội dung “Đổi mới, sáng tạo trong dạy và
    học” gắn với phong trào “Lao động giỏi, Lao động sáng tạo”, “Đổi mới, sáng tạo, hiệu quả
    trong hoạt động của tổ chức công đoàn”; cuộc vận động “Dân chủ- Kỷ cương- Tình thươngTrách nhiệm”, “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; cuộc vận
    động “Cán bộ, công chức, viên chức nói không với tiêu cực” với những nội hàm mới; tham
    gia xây dựng môi trường làm việc văn minh, dân chủ, thân thiện và sáng tạo trong các nhà
    trường theo mô hình “Trường học hạnh phúc”.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 11
    Từ những ngày đầu nơi đất núi gian khó mà nghĩa tình, Công đoàn trường THPT Lý
    Nhân Tông bịn rịn với 30 công đoàn viên, có sức mạnh rừng già thâm trầm, từng trải của
    đồng chí Phạm Văn Khoán, Trần Văn Tình, Nguyễn Xuân Vường…; có sức mạnh của lâm
    mộc vững chãi, thanh hương như đồng chí Hà Văn Hải, Nguyễn Thị Phương Loan, Bùi Như
    Toán, Phạm Thị Hương…; cộng hưởng những cành dương xỉ nhiệt huyết, đam mê của đoàn
    viên Phạm Thị Quỳnh, Ngô Khắc Tâm, Bùi Lệ Quyên, Đào Thị Diệu Linh, Nguyễn Thị
    Phương, Nguyễn Thị Thơ…
    Hiện nay, công đoàn nhà trường là mái ấm sum vầy của 47 công đoàn viên, hội tụ từ
    mọi nẻo đường quê như chốn mạc sơn hữu tình Nam Sơn, Thanh Thịnh, Phương Nhi – Yên
    Lợi, chùm Mai Thanh, Mai Vị – Yên Tân thơ mộng, sang mảnh đất An Hòa, An Tố, An
    Vân – Yên Bình quấn quýt, đến Lữ Đô, Mỹ Lộc, Cổ Đam – Yên Phương, Đại Lộc, Vạn
    Đoàn, Minh Sơn, Minh Thắng – Yên Chính, Bình Hạ, Bình Thượng, Đông Hưng – Yên Thọ
    cũng chen chân hội về … Công đoàn trường có 37 đoàn viên nữ, chiếm 82,6 %, luôn phấn
    đấu cho sự nghiệp giáo dục trong suốt thập kỉ vừa qua, với tất cả thanh xuân góp thêm
    hương, tỏa rạng sắc màu tri thức cho vườn xuân trường Lý khởi sắc, vươn mình.
    1.2. Ưu điểm
    Hiện nay tổ chức Công đoàn trong trường THPT Lý Nhân Tông đã trở thành lực
    lượng quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện các mục tiêu giáo dục
    toàn diện của đơn vị.
    CĐCS THPT Lý Nhân Tông nghiêm túc thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ năm học của
    CĐGD tỉnh Nam Định, ngành GD. CĐCS chú trọng xây dựng, vun đắp cho tổ chức ngaỳ
    càng vững mạnh, xây dựng ý thức kỷ luật lao động, nếp sống văn hóa trường học, giữ gìn và
    phát huy hiệu quả khối đoàn kết đơn vị.
    CĐCS cũng đã có những hình thức và nội dung sinh hoạt phong phú, hiệu quả, bước
    đầu khẳng định vị thế trong nhà trường. Từ đó CĐCS THPT Lý Nhân Tông thực sự góp
    phần thúc dầy, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường, đã được cấp trên ghi
    nhận, khen thưởng.
    Trong những năm qua, Công đoàn đã làm tốt công tác tiếp nhận các văn bản chỉ đạo,
    hướng dẫn của cấp trên và triển khai thực hiện có hiệu quả . Tiếp tục đổi mới công tác tuyên
    truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, phong cách, lối sống; nâng cao ý thức trách
    nhiệm, tinh thần gương mẫu, chuẩn mực của Nhà giáo và CBQLGD; tạo sự đồng thuận
    trong việc triển khai các chủ trương, quy định mới của Ngành, đặc biệt là việc triển khai
    chương trình GDPT mới.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 12
    Công đoàn nhà trường đã chủ động phối hợp chuyên môn vận động đoàn viên thực
    hiện đổi mới phương pháp dạy học, qua việc ứng dụng CNTT vào việc dạy học. 100% các
    đoàn viên là nhà giáo sử dụng giáo án điện tử tích cực, hiệu quả trong dạy học chuyên đề,
    sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, thao giảng, hội giảng đặc biệt là
    trong hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp tỉnh.
    Công đoàn đã tích cực tuyên truyền & lan tỏa những tấm gương điển hình về cán bộ,
    nhà giáo có những việc làm tốt với đồng nghiệp và học sinh, góp phần tăng cường khối
    đoàn kết cơ quan, phát huy truyền thống hiếu học của quê hương, “truyền lửa” cho các thế
    hệ học sinh như nhà giáo Phạm Văn Khoán, Hà Văn Hải, Bùi Như Toán, Phạm Thị
    Hương,…
    Công đoàn trường THPT Lý Nhân Tông chủ động phối hợp thực hiện đầy đủ, kịp thời
    các hoạt động chăm lo thiết thực, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho cán bộ nhà giáo người
    lao động, tham gia quản lý, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định. Ban chấp hành
    công đoàn đã tích cực tổ chức để CBNGNLĐ tham gia góp ý xây dựng Luật Công đoàn; phối
    hợp thực hiện tốt quy chế dân chủ; điều chỉnh, sửa đổi quy định, quy chế nội bộ theo hướng
    phúc lợi cao hơn cho người lao động; phối hợp tổ chức tốt Hội nghị nhà giáo, cán bộ quản
    lý,người lao động; tổ chức đối thoại, thương lượng; đảm bảo việc đối thoại định kỳ giữa
    người đứng đầu với CBNGNLĐ; tổ chức hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho
    CBNGNLĐ… Tiêu biểu có nhiều đồng chí được Tổng Liên đoàn Lao động, Công đoàn giáo
    dục Việt Nam, Công đoàn ngành, Giám đốc Sở GD&ĐT tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh
    khen tặng như đồng chí Hà Văn Hải, Nguyễn Thị Phương Loan, Nguyễn Thị Phương, Phạm
    Thị Quỳnh, Đào Thị Diệu Linh, Bùi Thị Lan…
    Công đoàn nhà trường luôn quan tâm và động viên kịp thời cho các công đoàn viên
    gặp hoàn cảnh khó khăn; tham gia các hoạt động từ thiện: Đền ơn đáp nghĩa, Vì người
    nghèo, Ủng hộ Quỹ chất độc da cam, Nghĩa tình biên giới hải đảo, đồng bào Sơn La, nhân
    dân miền Trung, phong trào “Hiến máu nhân đạo”… Ngoài ra, công đoàn đã gắn kết các
    thành viên bằng nhiều hình thức sinh hoạt như giao lưu văn nghệ, thi nấu ăn giữa các tổ,
    giao lưu thể dục thể thao, cô giáo tài năng duyên dáng, học tập trải nghiệm các tỉnh bạn với
    những văn hóa vùng miền đa dạng… Bên cạnh đó, công đoàn còn kết hợp với nhà trường,
    phát thưởng cho các cháu học sinh là con cán bộ giáo viên đạt học sinh giỏi các cấp và thi
    đỗ ĐH, CĐ, để khích lệ, động viên kịp thời. Có thể nói, trong 10 năm xây dựng và phát triển,
    Công đoàn nhà trường đã trở thành cầu nối giữa người sử dụng lao động với người lao động,
    thắp lửa đam mê, yêu nghề cho các thế hệ đoàn viên THPT Lý Nhân Tông.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 13
    Ban chấp hành công đoàn trường THPT Lý Nhân Tông hoạt động với tinh thần “dấu ấn
    khẳng định kết quả”, với phương châm “Lấy cơ sở làm mái nhà thương yêu – Lấy đoàn viên
    làm nòng cốt vận động – để Công đoàn vững mạnh, tin yêu trong quần chúng Lý Nhân Tông”.
    Công đoàn nhà trường nhiều năm được công nhận Công đoàn vững mạnh, vững mạnh xuất
    sắc; được Liên đoàn Lao động tỉnh, Công đoàn Giáo dục tỉnh tặng Bằng khen và Giấy khen.
    Tin tưởng rằng, trong sự nghiệp trồng người, Công đoàn THPT Lý Nhân Tông sẽ phát huy nội
    lực tập thể, là “rường cột” chắp cánh cho ngôi trường mang tên vị vua anh minh, hiển đạt vươn
    mình đổi mới trong những thập niên tới.
    1.3. Hạn chế
    – Một số chính sách mới có ảnh hưởng lớn đến tâm tư, nguyện vọng của CBNGNLĐ
    (văn bằng, chứng chỉ, việc tuyển dụng lại…)
    – Nhiều đoàn viên công đoàn sống xa trường, địa bàn rải rác như tại CĐCS THPT Lý
    Nhân Tông có những công đoàn viên ở thủ đô Hà Nội, thành phố Nam Định, huyện Vụ Bản,
    các xã Yên Lương, Yên Thắng…
    – Ảnh hưởng, tác động diễn biến phức tạp của đại dịch Covid -19 đến tâm lí & đời
    sống của CBNGNLĐ.
    Cụ thể:
    *Trên thế giới
    Đại dịch COVID-19 ghi nhận ca bệnh đầu tiên ngày 29/12/2019 tại Vũ Hán (Trung
    Quốc). Sau 3 tháng, trong bối cảnh dịch bệnh lan rộng, bùng phát tại 201 quốc gia và vùng
    lãnh với 856.505 người mắc, 42.089 người tử vong, ngày 31/3/2020 Tổ chức Y tế thế giới
    đã công bố đây là đại dịch. Đến nay sau 02 năm, đại dịch COVID-19 đã lây lan đến 224
    quốc gia, vùng lãnh thổ với 330 triệu ca mắc và 5,6 triệu ca tử vong.
    Hiện nay dịch COVID-19 vẫn diễn biến rất phức tạp, đặc biệt ngày 24/11/2021 biến
    chủng mới B.1.1.529 của vi rút SARS-CoV-2 lần đầu tiên ghi nhận tại Nam Phi (biến chủng
    Omicron ). Đây là nhóm biến chủng đáng quan ngại do làm tăng nguy cơ tái nhiễm, có thể
    né tránh miễn dịch, với độ lây nhiễm cao hơn nhiều so với chủng Delta, lây lan đối với cả
    người tiêm đủ 2 mũi vắc xin, tăng nguy cơ quá tải hệ thống y tế và tử vong nhiều người.
    Đến nay đã có ít nhất 127 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận các ca nhiễm biến thể
    Omicron, trong đó có các nước trong khu vực Đông Nam Á. WHO đánh giá Omicron là
    một biến thể đáng lo ngại và khuyến nghị các quốc gia thực hiện tăng cường giám sát và
    giải trình tự gen các trường hợp nhiễm; thực hiện các biện pháp y tế cộng đồng hiệu quả để
    giảm sự lây truyền của COVID-19 nói chung.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 14
    Theo WHO, biến thể Delta và Omicron là mối đe dọa kép làm gia tăng các ca mắc từ
    đó dẫn đến số ca nhập viện và tử vong tăng lên đột biến, tiếp tục gây áp lực lớn lên các nhân
    viên và hệ thống y tế12.
    Hầu hết các nước trên thế giới đã thay đổi chiến lược từ “không COVID- 19” sang
    thích ứng an toàn và áp dụng nhiều biện pháp nhằm ứng phó phù hợp với Omicron; không
    áp dụng biện pháp giãn cách xã hội trên phạm vi rộng, đồng thời đang thúc đẩy việc mở
    cửa, giao lưu, giao thương quốc tế: du lịch quốc tế, mở lại các chuyến bay thương mại quốc
    tế…
    *Tại Việt Nam
    Từ đầu năm 2020 đến nay, Việt Nam đã trải qua 4 đợt bùng phát. Quy mô, địa bàn và
    mức độ lây lan qua mỗi đợt đều có xu hướng phức tạp hơn13.
    + Giai đoạn 1 từ ngày 22/1/2020 đến 22/7/2020: Ghi nhận 415 ca mắc (309 ca trong
    nước và 106 ca nhập cảnh), không có tử vong16. Ca bệnh ghi nhận đầu tiên là trường hợp
    nhập cảnh từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc vào Việt Nam.
    + Giai đoạn 2 từ ngày 23/7/2020 đến ngày 27/01/2021: Ghi nhận 1.136 ca mắc (1.073
    ca trong nước và 63 ca nhập cảnh) với 35 ca tử vong do có bệnh lý nền nặng17. Các ca mắc
    tập trung ở Thành phố Đà Nẵng và các địa phương có yếu tố dịch tễ liên quan đến Đà Nẵng;
    đặc biệt dịch đã xâm nhập các khoa điều trị bệnh nhân nặng như hồi sức cấp cứu, thận nhân
    tạo, sau đó lan ra cộng đồng ở 15 tỉnh, thành phố.
    + Giai đoạn 3 từ ngày 28/01/2021 đến ngày 26/4/2021: Ghi nhận 1.301 ca mắc (910
    ca mắc trong nước và 391 ca nhập cảnh), không có tử vong18. Ca mắc đầu tiên được phát
    hiện khi nhập cảnh vào Nhật Bản, đây là công nhân từng làm việc trong cụm công nghiệp ở
    Chí Linh, Hải Dương sau đó tiếp tục lây lan ra cộng đồng tại 13 tỉnh, thành phố.
    + Giai đoạn 4 từ ngày 27/4/2021 đến nay: Ghi nhận 2.020.694 ca, trong đó có
    2.017.268 ca trong nước (99,8%),
    Đến cuối tháng 5/2021, dịch đã lây lan ra hơn 30 tỉnh, thành phố và bùng phát mạnh
    tại tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang; tấn công vào các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, nơi ở
    và sinh hoạt tập trung đông công nhân, cộng đồng dân cư nơi có công nhân lưu trú. Đến
    cuối tháng 6/2021, Bắc Ninh, Bắc Giang đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh. Trong thời
    gian này tại Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác cũng
    ghi nhận các ca bệnh không rõ nguồn lây.
    Từ ngày 11/10/2021, sau khi triển khai mạnh mẽ công tác tiêm chủng và chuyển sang
    thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, đến nay ghi nhận thêm
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 15
    1.183.884 ca mắc (1.182.232 ca trong nước, 1.652 ca nhập cảnh), trong đó 14.925 ca tử
    vong (tỷ lệ chết/mắc là 1,3%).
    Đến nay dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát trên phạm vi cả nước. Tất cả các tỉnh,
    thành phố đều đã chuyển sang trạng thái “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả
    dịch COVID-19” theo Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ.
    *Tác động của Covid -19 đến lao động, việc làm nói chung
    Mặc dù nỗ lực triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống xã hội, sớm
    khắc phục những khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội để đẩy nhanh quá trình phục hồi và
    phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, song người lao động bị ảnh hưởng tiêu cực không
    nhỏ bởi đại dịch Covid-19.
    Trong quý I năm 2022, tổng số hơn 16,9 triệu người bị tác động tiêu cực bởi đại dịch,
    có 0,9 triệu người bị mất việc, chiếm 1,2%; 5,1 triệu người phải tạm nghỉ/tạm ngừng sản
    xuất kinh doanh, chiếm 6,7%; 5,7 triệu người bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn
    việc, nghỉ luân phiên, chiếm 7,6% và 13,7 triệu lao động bị giảm thu nhập, chiếm 18,3%.
    Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ vẫn là hai vùng có tỷ lệ lao động bị ảnh hưởng
    nhiều hơn so với các vùng khác. Số lao động ở 2 vùng này cho biết công việc của họ bị ảnh
    hưởng do đại dịch chiếm lần lượt là 25,7% và 23,9%; cao hơn đáng kể so với con số này ở
    vùng Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, tương ứng là 18,8% và 14,4%. Thành thị
    vẫn là khu vực có số lao động chịu thiệt hại nhiều hơn nông thôn. Có 25,8% lao động khu
    vực thành thị bị ảnh hưởng tiêu cực, trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là 20,5%. Đa phần
    những người có công việc bị tác động xấu bởi đại dịch Covid-19 trong thời gian qua có độ
    tuổi khá trẻ, từ 25 đến 54 tuổi, chiếm 73,8%.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 16
    *Tác động của Covid -19 đến đời sống, việc làm của CBNGNLGĐ tại CĐCS ngành
    GD & ĐT nói chung và CĐCS THPT Lý Nhân Tông nói riêng
    Những năm học gần đây diễn ra trong bối cảnh tình hình dịch bệnh COVID-19 có
    những diễn biến phức tạp trên, ảnh hưởng lớn tới việc phát triển kinh tế – xã hội, đời sống
    của nhân dân trong tỉnh nói chung và các hoạt động của ngành Giáo dục nói riêng; là năm
    học tiếp tục triển khai Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục
    thực hiện Nghị quyết của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
    (GDĐT); năm học đầu tiên triển khai chương trình, sách giáo khoa lớp 1 theo Nghị quyết số
    88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
    thông.Đây cũng là năm học đầu tiên ngành GDĐT triển khai thực hiện các chỉ tiêu phát
    triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2020-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp.
    BẢNG 1
    PHẾU KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN CƠ SỞ TRONG ĐẠI DỊCH COVID – 19
    (Thời điểm trước khi áp dụng SKKN)

    TTNội dung khảo sátSố
    CĐV
    được
    khảo
    sát
    Số
    CĐV
    đồng
    ý
    Tỉ lệ
    (100
    %)

    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 17

    1Loại hình cơ quan, đơn vị mà anh/chị đang làm việc
    145100
    – Cơ sở giáo dục công lập12183,4
    -Cơ sở giáo dục ngoài công lập2417
    2Vị trí việc làm của anh/chị trong đơn vị là gì?145100
    – Công chức117,5
    – Viên chức (giảng dạy)10371,1
    – Nhân viên (y tế, thư viện, văn thư, thiết bị,…)3121,4
    3Anh/ chị có bị tác động/ ảnh hưởng của dịch Covid –
    19 không?
    145100
    – Ảnh hưởng nặng nề1913,1
    – Ảnh hưởng 1 phần12686,9
    – Không ảnh hưởng00
    4Anh/chị có được CĐCS cập nhật kịp thời các tri thức
    & hỗ trợ về quyền và lợi ích của người lao động trong
    tình hình dịch Covid-19 không?
    145100
    – Có7954,5
    – Không6645,5
    5Cơ quan, đơn vị anh/chị có nhóm Zalo công đoàn cơ
    sở không?
    145100
    – Có10169,6
    – Không4430,4
    6Anh/chị cảm nhận như nào về việc tổ chức hoạt động
    Công đoàn của CĐCS trong bối cảnh đại dịch Covid –
    19?
    145100
    – Linh hoạt, phong phú1510,3
    -Hoạt động cầm chừng11176,6
    – Nghèo nàn, đơn điệu1913,1

    Nhận xét:
    Từ kết quả bảng 1 – khảo sát trên có thể thấy Toàn ngành GD & ĐT Nam Định nói
    chung và hoạt động của CĐCS nói riêng đều chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid- 19.
    Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022
    Đào Thị Diệu Linh Trang 18
    Hiện tại, toàn ngành giáo dục tỉnh Nam Định có hơn 750 CĐCS, gần 30 nghìn cán
    bộ, nhà giáo, người lao động. Trong đó Công đoàn ngành giáo dục quản lý trực tiếp 62
    CĐCS với 3.745 đoàn viên,
    Hoạt động CĐCS THPT Lý Nhân Tông dưới tác động của đại dịch Covid_19. Trong
    suốt hai năm học, có tới 20 CBNGNLĐ được xác định là F1 thực hiện giãn cách. Chỉ tính
    riêng năm học 2021 – 2022, CĐCS trường THPT Lý Nhân Tông đã có tới 24 CBNGNLĐ
    dương tính với Covid -19, phải thực hiện cách ly y tế.
    Trong ngày đầu tiên học sinh trở lại trường, Ban Giám hiệu đã chỉ đạo tạm dừng sinh
    hoạt trực tiếp các buổi chào cờ đầu tuần vào thứ Hai để tập trung dọn vệ sinh, đảm bảo an
    toàn trường học; đồng thời giảm các cuộc họp trực tiếp đông người, tăng cường họp online:
    họp GVCN, họp tổ trưởng chuyên môn, họp hội đồng,…; linh hoạt giữa kế hoạch giảng dạy
    trực tiếp và trực tuyến…

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Vận dụng sáng tạo phương pháp Think Pair Share để tích hợp giáo dục một số kỹ năng sinh tồn cho học sinh trong tiết sinh hoạt lớp của giáo viên chủ nhiệm

    SKKN Vận dụng sáng tạo phương pháp Think Pair Share để tích hợp giáo dục một số kỹ năng sinh tồn cho học sinh trong tiết sinh hoạt lớp của giáo viên chủ nhiệm

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới
    2018
    Chương trình giáo dục phổ thông mới đang dần đi vào thực tế, đòi hỏi sự
    nỗ lực không ngừng của đội ngũ giáo viên, trong đó có giáo viên chủ nhiệm.
    Định hướng chung của chương trình mới chính là hướng tới mục tiêu mang tính
    chất cốt lõi: Phát triển phẩm chất và năng lực người học. Có thể hiểu một cách
    đơn giản: Phẩm chất là “đức”, Năng lực là “tài”. Phẩm chất được đánh giá bằng
    hành vi, năng lực được đánh giá bằng hiệu quả hành động.
    (Ảnh minh họa: Mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới).
    PHÁT
    TRIỂN
    PHẨM
    CHẤT,
    NĂNG
    LỰC
    CỦA
    NGƯỜI
    HỌC
    Yêu nước
    Nhân ái
    Chăm chỉ
    6
    Để thực hiện mục tiêu của chương trình giáo dục nêu trên, giáo viên nói
    chung phải là người tiên phong trong công tác đổi mới, trong đó có giáo viên
    chủ nhiệm.
    Giáo viên chủ nhiệm là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư
    phạm, là người thay mặt hiệu trường, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh
    quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình
    phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. Đối với
    học sinh và đối với tập thể lớp, giáo viên chủ nhiệm là người giáo dục, là người
    lãnh đạo gần gũi nhất. Giáo viên chủ nhiệm không chỉ là cầu nối giữa Ban giám
    hiệu nhà trường, giữa các tổ chức trong nhà trường, giữa các giáo viên bộ môn
    với tập thể học sinh, cầu nối giữa gia đình, nhà trường, xã hội mà còn là người
    song hành cùng các em học sinh, sống cùng vui buồn của tập thể lớp, thậm chí
    của từng cá nhân học sinh. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác, trong
    và ngoài nhà trường, giáo viên chủ nhiệm là nhân vật trung tâm để hình thành,
    phát triển nhân cách học sinh. Bởi thế, có thể nói, giáo viên chủ nhiệm giỏi
    không chỉ là người góp phần phát triển năng lực giúp các em tự chiếm lĩnh tri
    thức mà còn là một trong những nhân tố mang tính chất quyết định đến việc giáo
    dục kĩ năng sống, trong đó có kĩ năng sinh tồn cho học sinh – một kĩ năng luôn
    cần thiết trong mọi hoàn cảnh sống, nhất là trong thời kì hiện đại, khi xã hội
    ngày càng phát triển, và con người ngày cảng đối mặt với nhiều áp lực. Trong
    khá nhiều nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm, có thể nói, việc tích hợp giáo dục
    kĩ năng sinh tồn cho học sinh trong giờ sinh hoạt lớp là một vấn đề khá cấp thiết,
    không chỉ tác động trực tiếp trong việc hình thành phẩm chất nhân ái và trách
    nhiệm với chính bản thân mình và với cộng đồng, mà còn hình thành trong các
    em những năng lực chung trong năng lực cốt lõi mà chương trình giáo dục phổ
    thông mới hướng tới: Năng lực tự chủ và tự học, Năng lực giao tiếp và hợp tác,
    Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo …
    2. Xuất phát từ thực tế cuộc sống
    Kỹ năng sinh tồn có vai trò quan trọng với mỗi cá nhân con người, trong
    tình huống cụ thể, nó mang tính quyết định sự sống, sự tồn tại của mỗi chúng ta,
    7
    thậm chí là của cả cộng đồng, nhất là trong bối cảnh hiện nay – thập kỉ 20 của thế
    kỉ XXI – khi cả thế giới đang đối mặt với một số hiểm họa mang tính toàn cầu
    Lewis L. Dunnington (một nhà phát minh và họa sĩ người Mỹ) từng nói:
    “Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì mà ở chỗ
    ta có thái độ đối với nó ra sao, không phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở
    chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào”. Nghĩa là thái độ sống và kĩ
    năng mỗi con người sử dụng để ứng phó với những điều xảy ra hàng ngày hàng
    giờ mới chính là điều vô cùng quan trọng, làm nên ý nghĩa của cuộc sống.
    Có lẽ ai sống trong cuộc đời cũng đều mong sự bình yên, nơi cuộc sống
    diễn ra thật êm đềm với niềm vui và tiếng cười. Nhưng cuộc sống vốn đa sự – rất
    phong phú và phức tạp, vốn dĩ luôn xảy ra các tình huống bất ngờ đòi hỏi chúng
    ta phải có các biện pháp xử lý kịp thời nếu không muốn đem lại nhiều hậu quả
    đáng tiếc, có thể ảnh hưởng đến tính mạng, thậm chí làm mất đi cơ hội sinh tồn.
    Cuộc sống luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm: Tai nạn, hỏa hoạn, ngập lụt, động đất,
    dịch bệnh … – những dạng tai họa mà chúng ta ngay trong cuộc sống hiện nay
    đang phải đối mặt và trải qua.
    (Ảnh minh họa: Thế giới đã và đang oằn mình đối phó
    với lưỡi hái tử thần Covid 19)
    8
    (Bạn sẽ làm gì để có thể sinh tồn nếu mình là hành khách trên chuyến xe
    Nam Định trôi chìm giữa lũ miền Trung trong đêm tối tại huyện Bố Trạch tỉnh
    Quảng Bình ngày 19.10.2020?)
    Quả thật cuộc sống luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Chính bởi vậy, để ứng
    phó với mọi chuyện dễ dàng hơn thì mỗi người cần phải trang bị các kỹ năng
    sinh tồn cơ bản nhất.
    Con người được biết đến như loài sinh vật toàn năng sở hữu suy nghĩ, trí
    thông minh và tiếng nói. Một loạt những phát minh, hành trình con người dần
    chinh phục tự nhiên … đã khẳng định: Không có đỉnh cao nào là con người
    không thể vượt qua. Tuy nhiên, chúng ta cũng có những giới hạn riêng mà tự
    mình không nỗ lực thì khó có thể phá vỡ. Bởi vậy, bản thân mỗi người cần phải
    học hỏi không ngừng, trong đó có việc học hỏi và rèn luyện các kỹ năng tự bảo
    vệ mình trước nguy hiểm tính mạng hay còn được đến với tên gọi là kỹ năng
    sinh tồn. Việc trang bị cho mình những kĩ năng sống nói chung và kĩ năng sinh
    tồn cần thiết nói riêng là điều hết sức quan trọng, – nhất là trong tình hình hiện
    nay, khi dịch bệnh covid 19 vẫn đang có những diễn biến khá phức tạp trên toàn
    thế giới.
    9
    Kỹ năng sống nói chung và kỹ năng sinh tồn nói riêng giúp cho mỗi cá
    nhân tự chủ trong cuộc sống, biết xử lý những tình huống để sống an toàn,
    thích ứng trong mọi hoàn cảnh đồng thời vượt qua những khó khăn của cuộc
    sống. Nhưng kỹ năng sống nói chung và kỹ năng sinh tồn nói riêng không tự
    nhiên có, mà nó được hình thành phát triển trong quá trình dạy học, giáo dục và
    hoạt động trải nghiệm sinh hoạt hàng ngày, đồng thời được củng cố thường
    xuyên trong quá trình học tập, lao động và sinh hoạt của mỗi người. Thực tế
    trong những năm qua giáo dục kỹ năng sống, trong đó có kĩ năng sinh tồn đã
    được các nhà trường và các bậc phụ huynh thực sự quan tâm, tuy nhiên vẫn có
    tình huống đáng tiệc xảy ra: Có nhóm bạn trẻ bị chết ngạt trong gara ô tô vì
    thiếu hiểu biết về kĩ năng sinh tồn, có bạn ở lứa tuổi trung học phổ thông bị
    đuối nước thương tâm, những khó khăn tiêu cực sau khi dịch bệnh covid 19 xảy
    ra, phải giãn cách xã hội, ít ra ngoài là điều đáng suy nghĩ, con số tự tử ở lứa
    tuổi học đường đáng lo ngại vv… Điều đó càng cho thấy việc học tập và rèn
    luyện kĩ năng sinh tồn vẫn vô cùng cần thiết.
    Với những lí do thiết thực trên cùng với tính cấp thiết của vấn đề đặt ra
    trong cuộc sống; với niềm yêu thích nghiên cứu khoa học nói chung và mong
    muốn nghiên cứu về hành trình con người sinh tồn trong cuộc sống nói riêng,
    người báo cáo sáng kiến quyết định lựa chọn nghiên cứu về đề tài: “VẬN
    DỤNG SÁNG TẠO PHƯƠNG PHÁP “THINK, PAIR, SHARE” ĐỂ TÍCH
    HỢP GIÁO DỤC MỘT SỐ KĨ NĂNG SINH TỒN CHO HỌC SINH
    TRONG TIẾT SINH HOẠT LỚP CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM”
    Với việc tìm hiểu về kĩ năng sinh tồn, phân tích thực trạng của việc rèn
    luyện kĩ năng sinh tồn của học sinh, thực trạng về việc giáo dục kĩ năng sinh tồn
    cho học sinh lứa tuổi trung học phổ thông, người viết muốn đưa ra một vài giải
    pháp rèn luyện kĩ năng sinh tồn cơ bản cho học sinh trong một số giờ sinh hoạt
    lớp của giáo viên chủ nhiệm, tiến hành thực nghiệm ngay tại đơn vị công tác và
    sau đó mở rộng tới các trường học trong địa bàn trên huyện, tỉnh và xa hơn để
    bước đầu thấy được hiệu quả và tính ứng dụng của sáng kiến. Dù hiểu rằng cuộc
    sống luôn có những bất ngờ khó có thể đoán trước, việc dự đoán hết những tình
    10
    huống khó khăn hiểm nguy là điều không tưởng. Nhưng với việc chủ động rèn
    luyện những kĩ năng sinh tồn tích hợp trong hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
    trong giờ sinh hoạt lớp, người viết hi vọng giúp các em học sinh có thể tự tin,
    sẵn sàng đối mặt và chủ động vượt qua hoàn cảnh nguy hiểm khó có thể tránh
    gặp phải trong cuộc sống.
    ____________________________
    11
    PHẦN II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1. Sơ lược về thực trạng việc rèn luyện kĩ năng sinh tồn của con người trong
    cuộc sống nói chung
    Sinh tồn quả thật là bản năng của con người. Ai trong chúng ta cũng lớn
    lên từ vành nôi, cánh võng, từ lời ru của bà, lời kể chuyện của mẹ. Và thế giới
    tuổi thơ ai cũng từng biết đến hình ảnh của Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu
    cùng với lời khẳng định, một minh chứng hùng hồn: Con người có thể tồn tại
    giữa thế giới thiên nhiên hoang dã nếu thực sự có khát vọng sinh tồn và học cách
    sinh tồn bằng những kĩ năng nhiều khi nảy sinh ngay trong thực tế.
    ( Hình ảnh minh họa Mai An Tiêm
    và những bài học sinh tồn từ lời dạy của tác giả dân gian)
    Khi vua cha đày gia đình Mai An Tiêm ra một hòn đảo hoang vu: “An
    Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm
    dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển.
    Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chát chua và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy,
    ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra bờ biển mò con ngao,
    cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh
    chim. Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé không bắt
    được một cái lông. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn
    chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng
    12
    thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác
    giống chim muông bao nhiêu. Tuy vậy An Tiêm vẫn tin rằng một ngày kia, mình
    có thể làm cho đời sống khá lên.
    Một hôm có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi,
    bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì là một mảnh quả dưa
    bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm chim ăn được có lẽ người cũng ăn được,
    bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng ăn hết miếng dưa và nhặt hạt gói lại.
    Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một
    khoảnh đất mà gieo hạt xuống. Ít ngày sau mấy hạt da mọc mầm đâm lá, bò tỏa
    ra khắp khoảnh đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc mấy dây dưa
    lạ. Vợ chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc
    đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn
    mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.
    Một buổi sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng:
    “Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi một nơi,
    tất là có sự lạ. Anh ra xem thế nào!” An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay đi bỏ
    lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa về. Khi chàng bổ dưa
    ra, cả nhà lóa mắt vì mầu đỏ tươi của ruột dưa. Đây đó giữa mầu đỏ, có những
    hạt đen như hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa bé
    thèm nhỏ nước rãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm
    cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử.” Rồi sau đó An Tiêm lấy mấy
    quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non
    rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một
    hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để
    đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường
    ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh và cuối cùng được vua cha đón
    về đất liền….”
    Câu chuyện trên chỉ là một truyện cổ, nhưng rõ ràng trong nhiều bài học
    mà cha ông muốn gửi gắm, còn có bài học về kĩ năng sinh tồn mãnh liệt: Giữa
    đảo hoang, việc đầu tiên là phải tìm chốn ở để bảo vệ an toàn của mình, tìm
    13
    nước uống, kiếm cái ăn để tồn tại. Phải quan sát để thấy ăn gì cho an toàn (chim
    ăn được thì người cũng ăn được), phải tìm cách kết nối với thế giới loài người
    (thả trôi dưa xuống biển với hi vọng ai đó sẽ có thể thấy)… Những kĩ năng sinh
    tồn ấy không chỉ giúp con người tồn tại mà còn đạt được hạnh phúc, thành công.
    Rõ ràng quá trình tồn tại và thống trị thế giới đã khẳng định những năng
    lực ưu việt của con người so với những loài vật khác. Trong đời sống xã hội, con
    người muốn thành công, ngoài nhiệm vụ tích lũy tri thức vững chắc còn cần phải
    học hỏi và rèn luyện cho mình thật nhiều kỹ năng sống, kĩ năng sinh tồn mạnh
    mẽ. Vì cuộc sống luôn dành cho ta những bất ngờ. Tai nạn có thể ập tới từ mọi
    phía. Một trận mưa lớn có thể biến phố thành sông. Hỏa hoạn bất ngờ có thể đe
    dọa…. Cha mẹ, thầy cô và mọi người dù muốn tạo một môi trường an toàn
    nhưng không thể bao bọc các bạn ở lứa tuổi phổ thông hoàn toàn khỏi những
    chuyện bất ngờ ngoài tầm kiểm soát.
    Và trong thực tế, dù không nhiều song vẫn có con người nói chung, những
    bạn trẻ nói riêng thiếu kĩ năng sống, thiếu kĩ năng sinh tồn khi đối mặt với
    những bất ngờ và thử thách của cuộc sống ấy dẫn đến những hậu quả nghiêm
    trọng, thậm chí mất cả tính mạng. Đó là những khó khăn tác động từ ngoại cảnh.
    Một loạt những con số thống kê biết nói sau đây gióng lên một hồi chuông cảnh
    tỉnh về việc mỗi người cần rèn cho mình kĩ năng sống nói chung và kĩ năng sinh
    tồn nói riêng, nhất là giới trẻ.
    Hàng ngàn người vẫn thiệt mạng vì virus Corona chủng mới (SARS-CoV-
    2) gây bệnh viêm đường hô hấp cấp (COVID-19) trên toàn cầu: Số liệu trên
    trang web thống kê worldometers.info vào sáng 22/7 cho thấy trong 24 giờ qua,
    thế giới ghi nhận thêm 774.084 ca nhiễm và 1.411 ca tử vong do COVID-19.
    (https://dangcongsan.vn/the-gioi/tin-tuc; ngày 22/7/2022)
    Về tai nạn đuối nước: Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và
    Xã hội, “mỗi năm cả nước có hàng nghìn người bị đuối nước, trong đó có hơn
    2.000 trẻ em. Ước tính cứ 100.000 người có 5,9 người chết do đuối nước”.
    (https://laodong.vn/ 29/05/2019)
    14
    Về tai nạn do điện: “Nhiều năm gần đây, trung bình cả nước có đến 250
    người chết mỗi năm do các tai nạn về điện” (https://dantri.com.vn, 17/05/2005).
    Hàng chục vụ tai nạn về điện dẫn đến chết người, gây thương tích nặng tại các
    tỉnh, thành phố phía nam là lời cảnh báo trước sự chủ quan, thiếu hiểu biết về
    điện. (https://nhandan.com.vn/, ngày 24/08/2020)
    Về tai nạn giao thông: Tính cả 2 tháng đầu năm 2020, toàn quốc xảy ra
    2.368 vụ tai nạn giao thông, làm chết 1.125 người, bị thương 1.781 người
    (http://tuyengiao.vn/ngày 26.03.2020)
    Về tai nạn cháy nổ, hỏa hoạn: Từ tháng 7/2014 đến tháng 7/2018, cả nước
    đã xảy ra 13.149 vụ cháy, làm chết 346 người, bị thương 823 người; thiệt hại về
    tài sản ước tính 6.524,8 tỷ đồng (http://quochoi.vn/ ngày 13/11/2019).
    Về tai nạn bị động vật hoạng dại cắn: Hằng năm Việt Nam có khoảng
    400.000 người bị chó, mèo cắn phải điều trị dự phòng bằng vắc-xin dại. Đặc
    biệt, tiền vắc-xin ước tính hơn 300 tỷ đồng mỗi năm. (https://medlatec.vn ngày
    10/10/2005)
    Về tai nạn do chưa đủ hiểu biết: “Trên thế giới cũng như tại Việt Nam,
    từng ghi nhận nhiều trường hợp tử vong vì ngủ trong xe, kéo kín cửa kính và bật
    điều hòa. Xung quanh nguyên nhân dẫn đến tử vong, phần lớn là do người trong
    xe bị ngạt khí, hàm lượng oxi giảm dần”( http://www.antv.gov.vn, ngày
    23/08/2019)
    ….
    Những con số trên đến từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan, có
    những lý do không phải chỉ từ việc thiếu kĩ năng sinh tồn, nhưng vấn đề đặt ra
    là: Nếu mỗi người thực sự có những kĩ năng sinh tồn cơ bản, chắc chắn các con
    số đáng sợ kia có thể giảm đi ít nhiều.
    Một thực trạng đáng lo ngại nữa là không phải những khó khăn tác động
    từ bên ngoài mà còn có những khó khăn từ chính con người, trong mỗi con
    người. Đó tâm lý con người khi đứng trước những thử thách của cuộc sống.
    Stress, trầm cảm, trạng thái bất lực với chính mình … nhiều khi khiến chính con
    người từ bỏ khát vọng sinh tồn. Thật đáng sợ nếu ai đó đang có suy nghĩ tiêu
    15
    cực mà không thể chiến thắng chính mình, và không được giúp đỡ từ chính
    những người thân xung quanh. Một sự thật đáng sợ là đôi khi trong những tình
    huống cụ thể của cuộc sống, không ít người có suy nghĩ đến cái chết.
    Trong cuốn sách thu hút giới trẻ những năm gần đây:“Nếu biết trăm năm
    là hữu hạn”, chính tác giả Phạm Lữ Ân đã thú nhận: “Vào cái tuổi ẩm ương, tôi
    từng nghĩ đến cái chết. Có thể như một sự thử nghiệm, hay một ý nghĩ rồ dại
    nào thoáng chốc. Tôi đoán nhiều người khác cũng từng như thế. Nhưng tôi đã
    vượt qua được giây phút đó mà không đi đến kết cục đau lòng… Cho đến tận
    bây giờ, nỗi cô đơn thỉnh thoảng vẫn quay lại, đôi lúc nó phình to như vũ trụ
    muốn nuốt chửng lấy cuộc đời” (trang 183).
    Và ai có thể ngờ con người đầy tự tin có nụ cười tỏa nắng, chàng trai Nick
    Vujicic – chàng trai người Úc, một con người sinh ra đã thiếu tứ chi, cũng đã
    từng có lần suy nghĩ về cái chết? Nick Vujicic, ở tuổi 32, đã là một người đàn
    ông nổi tiếng khắp thế giới, diễn giả được chào đón trên hàng chục quốc gia, và
    có một gia đình hạnh phúc. Nhưng trước khi có được những thành công đó,
    Nick cũng từng tuyệt vọng và nhiều lần cố gắng tự tử.
    (Ảnh Nick Vujicic)
    16
    Chàng trai (có thể nói rằng) tuyệt diệu nhất hành tinh ấy cũng có lúc có
    suy nghĩ về cái chết. Đây là tâm sự của Nick: “Những năm tháng đầu tiên đến
    trường, khuyết tật tứ chi đã khiến Nick Vujicic trở thành mục tiêu châm chọc
    của bạn bè. Anh bị chỉ trỏ, chê cười, bị chọc phá vì “khác người”. Lúc đó Nick
    cảm thấy cô đơn, thất vọng triền miên và chỉ muốn tan biến khỏi cõi đời thật
    sớm, để thoát khỏi đau khổ.
    Nick tâm sự trong cuốn tự truyện đầu tay: “Bạn biết đó, ai bước vào giai
    đoạn cuối tuổi mới lớn cũng đều bỡ ngỡ và chênh chao, còn tôi, tôi hoàn toàn
    thất vọng về bản thân mình và cảm thấy mình sẽ không bao giờ là một người
    “bình thường” được. Không thể giấu đi đâu cái sự thật rằng cơ thể của tôi
    không giống như các bạn cùng lớp. Tôi đã cố gắng thực hiện các hoạt động rất
    bình thường như bơi lội, trượt ván, nhưng làm như thế chỉ càng khiến tôi ý thức
    rõ hơn rằng mình sẽ không bao giờ làm được những việc giản đơn mà hầu hết
    mọi người hiển nhiên đều làm được”. Hơn nữa anh cũng không thể ngăn được
    một số đứa trẻ tàn nhẫn gọi mình là “quái vật”, “người ngoài hành tinh”.
    Những năm tháng đầu tiên đến trường, khuyết tật tứ chi đã khiến Nick Vujicic
    trở thành mục tiêu châm chọc của chúng bạn trong trường. Anh bị chỉ trỏ, chê
    cười, bị chọc phá vì “khác người”.Cũng trong cuốn sách này anh chia sẻ: “Tất
    nhiên tôi là một con người và tôi mong muốn mình được giống như mọi người,
    nhưng dường như có rất ít cơ hội để tôi đạt được khát khao đó. Tôi cảm thấy
    mình không được chào đón trong cuộc đời này. Tôi muốn được chấp nhận.
    Nhưng không thể. Tôi muốn được hòa nhập. Nào có được đâu. Tôi thật sự bế
    tắc. Lòng tôi quặn thắt. Tôi chán nản, hay nghĩ quẩn và không tìm thấy lẽ sống
    cho cuộc đời mình”.Thời điểm đó, Nick cảm thấy mình là gánh nặng của những
    người xung quanh và tốt nhất là nên “biến đi”. Anh muốn thoát khỏi tủi nhục,
    muốn chết. Ý định tự tử vẫn còn đeo bám Nick, Nick lúc đó dự định ném mình từ
    trên cao xuống, có lúc còn muốn dìm mình ngay trong bồn tắm”
    Nhưng bằng sự động viên của cha mẹ và đặc biệt là sau khi đọc xong một
    bài báo viết về hình ảnh của một người cũng có hoàn cảnh như anh nên anh đã
    nỗ lực, vươn lên khẳng định mình trở thành một nhà diễn thuyết truyền cảm
    17
    hứng sống và kĩ năng sống và khát vọng sinh tồn mãnh liệt cho những con người
    thiếu may mắn như anh. Nhưng đó là Nick, khi đã tự mình chiến thắng suy nghĩ
    về cái chết và có sự giúp đỡ của những người thân.
    Thực tế đâu đó trong cuộc sống, dù rất ít, nhưng chúng ta không thể né
    tránh là có những bạn trẻ không phải chỉ thiếu kĩ năng sinh tồn mà khi đối diện
    với những áp lực, vẫn có bạn không có cả khát vọng sinh tồn như Nick trong
    những giây phút nào đó của cuộc sống. Và thật đáng sợ nếu những bạn trẻ đó lại
    thiếu sự quan tâm, sự nhạy cảm của người thân. Từ thực tế này, có thể thấy kĩ
    năng sinh tồn không chỉ đến từ chính mỗi con người mà còn từ sự giang tay giúp
    đỡ của mọi người xung quanh. Chúng ta không chỉ rèn kĩ năng sinh tồn cho
    chính mình, mà còn phải biết cách khơi gợi lên khát vọng sinh tồn cho mọi
    người xung quanh mình.
    Rõ ràng, kĩ năng sống nói chung và kĩ năng sinh tồn nói riêng có một vai
    trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người. Một con người có được
    những kĩ năng tốt đó sẽ thích nghi tốt hơn trong mọi hoàn cảnh sống, có thể ứng
    phó với mọi sự biến đổi bất thường trong cuộc sống, biến khó thành dễ, chuyển
    bại thành thắng, biến vất vả chông gai thành điều kiện, cơ hội để chạm tay vào
    chiếc cúp thành công như chàng trai tuyệt diệu Nick đã từng chia sẻ thông điệp
    sâu sắc từ chính cuộc đời bất hạnh mà vinh quang của mình trong hai cuốn tự
    truyện nổi tiếng: Cuộc sống không giới hạn và Đừng bao giờ từ bỏ khát vọng.
    Để đạt được điều đó, ngay bây giờ và ngay lúc này bạn phải rèn cho mình những
    kĩ năng sống và kĩ năng sinh tồn thiết yếu nhất.
    2. Thực trạng về việc rèn luyện kĩ năng sinh tồn của tuổi trẻ Trung học phổ
    thông Nam Trực từ góc nhìn học sinh, giáo viên, phụ huynh – nguyên nhân
    và các yếu tố chi phối
    Để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về việc rèn luyện kĩ năng sinh tồn của
    tuổi trẻ trường Trung học phổ thông Nam Trực, người báo cáo sáng kiến tiến
    hành tìm hiểu thực trạng vấn đề ở nhiều góc độ: Thực trạng về kĩ năng sinh tồn
    18
    từ phía học sinh, thực trạng về việc rèn luyện kĩ năng sinh tồn từ góc nhìn của
    người giáo viên, từ góc nhìn của phụ huynh… và đưa ra những đánh giá cụ thể.
    a)Thứ nhất: Thực trạng về kĩ năng sinh tồn từ phía học sinh.
    Tiến hành tìm hiểu thực trạng về kĩ năng sinh tồn từ phía học sinh
    bằng 2 hình thức: Khảo sát thống kê bằng bảng hỏi và phỏng vấn
    Bước 1: Tiến hành khảo sát để nhận định thực trạng kĩ năng sinh tồn đã
    có từ phía học sinh bằng phiếu khảo sát. Đối tượng khảo sát là 100 bạn học sinh
    bất kì của 3 khối 10,11,12. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là điều tra
    bằng phiếu khảo sát:
    Tiến hành phiếu khảo sát số 1 với mục đích khảo sát sự chủ động của học
    sinh và một số kĩ năng cần thiết của học sinh trước các tình huống hiểm nguy
    trong cuộc sống, tìm hiểu về những khó khăn mà chính các em học sinh gặp phải
    (hoặc chứng kiến)
    PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH – SỐ 1
    Câu 1: Không mở di động, mời bạn hãy ghi lại 5 số điện thoại cần thiết nhất với
    bạn để có thể liên lạc nếu cần (Số điện thoại của người thân)
    (1)…………………………………………………
    (2)………………………………………………..
    (3)…………………………………………………
    (4)………………………………………………..
    (5)…………………………………………………
    Câu 2: Bằng trí nhớ của mình, bạn hãy điền tiếp những số điện thoại khẩn cấp
    sau dùng để gọi ai và gọi khi gặp tình huống nào?
    Tổng đài 111: …………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………..
    Tổng đài 112: …………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………..
    Tổng đài 113: …………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………..
    Tổng đài 114: …………………………………………………………………
    19
    …………………………………………………………………………………..
    Tổng đài 115: …………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………..
    Câu 3: Giả định nghe thấy chuông báo cháy, bạn sẽ
    A. Hoảng sợ
    B. Hoảng sợ nhưng cố gắng giữ bình tĩnh
    C. Nhanh chóng chạy theo đám đông
    D. Thật bình tĩnh, phán đoán để lựa chọn hành động tiếp theo
    (Lựa chọn phương án đúng nhất)
    Câu 4: Giả sử bạn đang đứng trong thang máy cùng một người lạ và sau đó bạn
    nghi ngờ đó có thể là kẻ xấu, bạn sẽ
    A. Đứng thật xa và đối mặt với người lạ
    B. Hoảng sợ và bối rối
    C. Đứng quay lưng lại với người lạ
    D. Đứng dựa lưng vào bảng điều khiển và ấn tất cả số tầng mình sẽ đi qua
    (Lựa chọn phương án đúng nhất)
    Câu 5: Khi gặp dông gió bạn có thói quen tắt ngay điện thoại không?
    A. Có
    B. Không
    C. Tùy từng thời điểm, lúc nhớ lúc không
    (Lựa chọn phương án đúng nhất)
    Câu 6: Khi bạn bị bỏng, kĩ năng cấp cứu tức thời của bạn là:
    A. Ngâm bằng nước đá lạnh
    B. Dùng lòng đỏ trứng gà bôi lên vết thương
    C. Dùng kem đánh răng bôi lên vết bỏng
    D. Ngâm ngay vùng bị bỏng vào chậu nước nguội sạch
    (Lựa chọn phương án đúng nhất)
    Câu 7: Khi bạn có nỗi buồn, bạn sẽ tâm sự cùng
    A. Không ai cả
    B. Bố hoặc mẹ
    20
    C. Bạn thân hoặc thầy cô thân thiết hoặc một người thân ngoài bố mẹ
    D. Tổ tư vấn tâm lý hoặc gọi tổng đài tâm sự giấu mặt
    (Lựa chọn phương án bạn đã dùng gần đây nhất)
    Câu 8: Giả định trong tình huống đi học tập trải nghiệm, bạn bị lạc trong rừng,
    điện thoại không có sóng, bạn muốn uống nước vì quá khát, bạn sẽ
    A. Không uống bất cứ một loại nước nào dù khát đến mấy
    B. Uống nước đọng trên lá cây
    C. Uống nước ở nơi có lưu thông dòng chảy
    D. Uống nước trong các vũng nước không có lưu thông dòng chảy
    (Lựa chọn phương án đúng nhất)
    Câu 9: Bạn đã bao giờ gặp tình huống có thể sẽ nguy hiểm tới tính mạng của
    chính mình hoặc của người khác chưa?
    A. Đã từng B. Chưa
    Câu 10: (Dành cho các bạn đã từng gặp tình huống nguy hiểm tới tính mạng
    của chính mình hoặc của người khác, có thể tích nhiều đáp án)
    Điều khó khăn của bạn khi đối diện với tình huống nguy hiểm đã gặp
    hoặc chứng kiến là gì?
    A. Không nhận ngay ra tình huống nguy hiểm
    B. Không quản lý được cảm xúc nên còn hoảng sợ khá lâu
    C. Thấy mình còn thiếu kiến thức về tình huống đang gặp phải
    D. Còn hạn chế trong cách ứng phó nhanh để chính mình thoát hiểm hoặc
    hướng dẫn người khác thoát hiểm
    E. Ý kiến khác của bạn : …………………………………………………….
    Xin vui lòng cho biết một số thông tin (Có thể ghi hoặc không ghi)
    Họ và tên:…………………………………………
    Lớp………………………….
    Xin chân thành cảm ơn!
    21
    Phân tích những số liệu từ phiếu khảo sát số 1
    Câu 1: Về việc nhớ số điện thoại của người thân để liên lạc trong tình huống
    giả định bạn gặp tình huống nguy hiểm mà không có điện thoại

    Không nhớ: 15/100
    Nhớ 1 số: 20/100
    Nhớ 2 số: 32/100
    Nhớ 3 số: 16/100
    Nhớ 4 số: 11/100
    Nhớ 5 số: 6 /100
    Chiếm 15 %
    Chiếm 20 %
    Chiếm 32 %
    Chiếm 16%
    Chiếm 11 %
    Chiếm 6 %

    Câu 2: Về việc nhớ những đầu số số điện thoại khẩn cấp cần thuộc lòng ở
    Việt Nam.
    Tổng đài 111 là gì?
    Đây là Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em thường trực 24/24h, hoàn
    toàn miễn phí. Khi các bạn cần tư vấn hoặc thấy các nguy cơ, hành vi xâm hại:
    bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc… trẻ em, hãy gọi
    111.
    Tổng đài 112 là gì? Đây là tổng đài yêu cầu trợ giúp, tìm kiếm cứu nạn trong
    phạm vi cả nước. Khi các bạn cần sự trợ giúp về tìm kiếm cứu hộ cứu nạn trong
    các tình huống chủ yếu do thiên tai gây nên như bão lụt, lũ quét, lũ ống, sạt lở…
    hoặc những trường hợp trên sông, trên biển do tàu bè bị chìm, bị trôi dạt, bị hư
    hỏng mất phương hướng thì các bạn hãy gọi đến đầu số 112.
    Tổng đài 113 là gì?
    Đây là tổng đài khẩn cấp về an ninh trật tự, các vụ việc cướp giật, trộm cắp,
    đánh nhau, bạo hành, tai nạn giao thông
    Tổng đài 114 là gì?
    Đây là số tổng đài gọi cứu hỏa, cứu nạn trong trường hợp khẩn cấp. Khi gọi tổng
    đài thì chúng ta sẽ được hỗ trợ giải cứu trong các tai nạn bất ngờ: hỏa hoạn, cháy
    nổ hoặc bị mắc kẹt trong những tòa nhà, thang máy, dưới hầm mỏ…
    Tổng đài 115 là gì?
    22
    Tổng đài 115 là số gọi cấp cứu khẩn cấp trong những trường hợp sức khỏe
    nghiêm trọng. Khi gọi tổng đài thì chúng ta sẽ được hỗ trợ đưa đến bệnh viện để
    cấp cứu nhanh chóng để bảo vệ an toàn tính mạng. Riêng trường hợp thương
    tích có liên quan đến yếu tố phạm tội hoặc tai nạn giao thông thì mọi người hãy
    gọi 113 trước sau đó gọi 115.
    Nhưng thực tế con số thống kê sau khi tiến hành khảo sát, có:

    Không nhớ: 2 /100
    Nhớ 1 số: 1/100
    Nhớ 2 số: 40/100
    Nhớ 3 số: 42/100
    Nhớ 4 số: 3/100
    Nhớ 5 số: 12 /100
    Chiếm 2 %
    Chiếm 11 %
    Chiếm 42 %
    Chiếm 40%
    Chiếm 3%
    Chiếm 2 %

    Những con số thống kê trên cho thấy: Vẫn còn đâu đó những bạn trẻ
    phụ thuộc vào chiếc smatphone hiện đại, không có thói quen ghi nhớ điện
    thoại của người thân. Những đầu số khẩn cấp tại Việt Nam các bạn chưa biết
    hết. Điều này chứng tỏ các bạn chưa chủ động học hỏi để có kĩ năng sinh
    tồn. Vì bạn không thể trong tình huống nguy nan còn lên google tìm kiếm
    rồi mới gọi theo các số điện thoại khẩn cấp. 1,2 giây quý giá ấy có thể cứu
    được cả tính mạng con người, thậm chí nhiều người. Thực tế này cho thấy
    các bạn học sinh chưa đặt mình vào những tình huống giả định để có thể rèn
    luyện cho mình những kĩ năng sinh tồn thiết yếu. Sự phát triển của công
    nghệ 4.0 thực sự đưa cuộc sống đi lên, nhưng cần sử dụng nó một cách hiệu
    quả, nếu quá lệ thuộc vào máy móc công nghệ, bạn có thể sẽ phải trả giá rất
    đắt.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm lớp

    SKKN Giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm lớp

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Ngày nay kỹ năng mềm có tầm ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại trong sự
    nghiệp của mỗi con người nói chung và học sinh nói riêng. Theo thống kê,
    những người có được sự thành công chủ yếu chỉ có 25% là kiến thức chuyên
    môn, còn 75% là những kỹ năng mềm mà họ đúc kết được. Không giống với kỹ
    năng cứng mà con người có thể học, đo lường và xác định rõ ràng, kỹ năng mềm
    không chứa tính chuyên môn, không thể sờ nắm. Tuy nhiên chúng sẽ quyết định
    đến việc người đó có thể trở thành một nhà lãnh đạo tài ba hoặc một người thành
    công hay không. Nếu một người chỉ có kỹ năng chuyên môn giỏi thì chưa đủ để
    thành công trong công việc và cuộc sống. Có rất nhiều học sinh THPT, khi còn
    ngồi trên ghế nhà trường học rất giỏi, nhưng đến khi đi làm lại không đạt được
    thành công như mơ ước, như mong đợi của thầy cô, nhà trường và bố mẹ; hoặc
    có những em tiếp thu kiến thức rất tốt, nhưng lại không biết cách truyền tải được
    kiến thức mình có cho người khác hiểu, không biết cách giao tiếp, ứng xử với
    bạn bè, thầy cô và mọi người xung quanh. Đó là vì các em đang thiếu những kỹ
    năng mềm để kết hợp với kiến thức chuyên môn khi làm việc. Mà những kỹ
    năng này không thể có được trong một thời gian ngắn, nó phải được tiếp nhận và
    rèn luyện trong một thời gian dài, từ khi các em còn đang ngồi trên ghế nhà
    trường, cùng lúc với khi các em đang trau dồi kiến thức chuyên môn. Đối với
    các em, áp lực học hành là khá lớn vì các em phải chuẩn bị cho nhiều kỳ thi
    quan trọng sắp tới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phải rời bỏ hết mọi
    hoạt động ngoại khoá, mà thậm chí ngược lại, cần tích cực tham gia hơn nữa để
    trau dồi kỹ năng mềm- vốn cũng là thứ không thể thiếu khi chuẩn bị cho tương
    lai. Chúng ta phải giúp các em biết cân bằng thời gian học và hoạt động hợp lý
    để không bị áp lực và đạt được thành công cao nhất. Và người có thể giúp các
    em tiếp thu, lĩnh hội được nhiều nhất các kỹ năng mềm khi còn đang là học sinh
    THPT chính là giáo viên chủ nhiệm lớp. Với lí do trên tôi đã chọn đề tài: “Giáo
    dục kỹ năng mềm cho học sinh THPT thông qua công tác chủ nhiệm lớp”
    để áp dụng vào công tác chủ nhiệm lớp từ năm học 2019 – 2020 đến năm học
    2
    2021 – 2022 tại trường THPT Lương Thế Vinh và một số cơ sở giáo dục khác.
    Với đề tài này, tôi và các đồng nghiệp đã giúp được các em học sinh lớp chủ
    nhiệm của mình rèn luyện được các kỹ năng mềm, tạo tiền đề tốt cho các em
    trong công việc và cuộc sống sau này.
    II. Mô tả giải pháp
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Trong công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo hiện nay, đòi hỏi nhà
    trường, gia đình và xã hội không những cung cấp kiến thức cho học sinh mà còn
    giúp các em rèn luyện những kỹ năng cần thiết, trong đó có các kỹ năng mềm,
    qua đó phát triển tốt nhất phẩm chất, năng lực cho các em. Đặc biệt, trước những
    thách thức của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, kỹ năng mềm
    trở nên vô cùng quan trọng để mỗi cá nhân có thể tồn tại, phát triển, quản lý và
    làm chủ công việc cũng như cuộc sống của mình sau này. Cuộc cách mạng công
    nghiệp 4.0 đã và đang có sức hút và sự ảnh hưởng sâu rộng đến sự chuyển biến
    trong các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó đặc biệt có lĩnh vực giáo dục đào
    tạo, nơi cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Trong bối cảnh
    này, việc trang bị các kỹ năng mềm cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng
    nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước là rất cần thiết. Hiện
    nay, các trường THPT đã không ngừng đổi mới sáng tạo các phương pháp dạy
    học, kỹ thuật dạy học, kiểm tra đánh giá, dạy học theo hướng phát triển năng lực
    của học sinh, chú trọng phát huy các kỹ năng thực hành cho học sinh. Tuy nhiên,
    việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh trong trường THPT chưa được quan
    tâm đúng mức, thậm chí có trường thì việc giáo dục kỹ năng mềm mới chỉ dừng
    lại ở phần kế hoạch chung, chưa cụ thể, chưa giao trọng trách cho từng bộ phận.
    Các trường THPT còn đang coi việc giáo dục kỹ năng mềm là trách nhiệm của
    cấp học cao hơn, hoặc có thể coi đó là việc mà các em có thể tự tích lũy được
    trong cuộc sống. Đó là quan điểm không đúng, bởi vì kỹ năng mềm phải được
    tích lũy từ từ, trong một thời gian dài và dễ dàng giúp học sinh tiếp nhận hơn
    qua các hoạt động giáo dục. Đặc biệt, trong thời đại bùng nổ thông tin, mạng xã
    hội, công nghệ hiện đại, các em học sinh sau thời gian học chính khóa thường
    3
    chỉ làm bạn với máy tính, điện thoại thì việc đưa các em đến với các hoạt động
    tập thể để giáo dục các kỹ năng, đặc biệt các kỹ năng mềm là cực kì quan trọng.
    Chính vì vậy, việc nhận thức các kỹ năng mềm cần thiết cho học sinh và đề xuất
    những giải pháp hình thành và phát triển kỹ năng mềm cho học sinh trong
    trường THPT hiện nay là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. Thế nhưng,
    không ít giáo viên làm công tác chủ nhiệm vẫn còn thụ động, chạy theo đuôi các
    vụ việc. Phần lớn các công việc của giáo viên lệ thuộc quá nhiều ở sự nhắc nhở,
    chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường. Họ còn trông chờ, ỷ lại, chưa thể hiện sự
    chủ động của mình trong công tác chủ nhiệm. Các giáo viên chủ nhiệm chưa tin
    tưởng, mạnh dạn bố trí, giao việc cho các em học sinh để tạo điều kiện thuận lợi,
    qua đó đánh giá, động viên, khích lệ các em phấn đấu trở thành học sinh tốt và
    có được những kỹ năng mềm cần thiết. Trong quá trình chủ nhiệm, khả năng dự
    báo của một số giáo viên chưa tốt, chưa cụ thể hóa các nhiệm vụ, quy định trong
    Điều lệ trường phổ thông thành chương trình, kế hoạch, công việc hành động cụ
    thể, sao cho phù hợp tình hình thực tế của lớp, vì thế công tác chủ nhiệm kém
    phần phong phú. Nội dung, hình thức tổ chức các buổi sinh hoạt lớp thiếu đầu
    tư, nghèo nàn, nặng nề hành chính, không thu hút lôi cuốn học sinh …hiệu quả
    giáo dục kém. Trong các buổi sinh hoạt tập thể lớp, ngoại khóa chưa thấy giáo
    viên chủ động tổ chức cho các em tự thảo luận, tranh luận về một chủ đề thiết
    thực nào đó để giáo dục, như từ những mẩu chuyện người thật, việc thật có tính
    thời sự, gần gũi … giúp các em nhận thức hành vi đúng – hành vi sai, chân –
    thiện – mỹ, việc lợi – việc hại. Thông qua đó giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng
    mềm, lý tưởng sống cho các em.
    Trong quá trình tìm hiểu các phương pháp giáo dục kỹ năng mềm cho học
    sinh tôi đã nhận được những thuận lợi và gặp phải những khó khăn sau:
    -Thuận lợi: trường THPT Lương Thế Vinh nơi tôi công tác đã rất quan tâm
    đến việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh và đã tổ chức nhiều các hoạt động,
    phát động nhiều phong trào, triển khai nhiều cuộc thi, thành lập các câu lạc
    bộ…để giúp các học sinh rèn luyện được nhiều kỹ năng mềm.
    -Khó khăn: trước khi có sáng kiến này, tại nơi tôi công tác chưa từng có giáo
    4
    viên chủ nhiệm nào đưa ra được hệ thống những giải pháp đồng bộ, bài bản về
    việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh một cách hiệu quả. Về phía nhà trường,
    thì không có bộ phận nào có thể xây dựng được một kế hoạch giáo dục kỹ năng
    mềm cho từng lớp chủ nhiệm. Về phía gia đình học sinh, thì đa số không có điều
    kiện và thời gian để giáo dục kỹ năng mềm cho con.
    Chính vì vậy, tôi đã trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu, sách báo, mạng
    Internet…và xây dựng được một hệ thống các giải pháp giáo dục kỹ năng mềm
    để áp dụng cho học sinh các lớp chủ nhiệm.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    2.1. Tìm hiểu các quan điểm về kỹ năng mềm.
    Có khá nhiều quan niệm hay định nghĩa khác nhau về “Kỹ năng mềm” tùy
    theo lĩnh vực nghề nghiệp, góc nhìn chuyên môn, ngữ cảnh, phát biểu và thậm
    chí là việc đặt thuật ngữ này bên cạnh những thuật ngữ nào. Tác giả Forland,
    Jeremy định nghĩa: “Kỹ năng mềm là một thuật ngữ thiên về mặt xã hội để chỉ
    những kỹ năng có liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp, khả năng hòa
    nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng xử hiệu quả trong giao tiếp giữa người với
    người. Nói khác đi, đó là kỹ năng liên quan đến việc con người hòa mình, chung
    sống và tương tác với cá nhân khác, nhóm, tập thể, tổ chức và cộng đồng”. Nhà
    nghiên cứu N.J. Pattrick định nghĩa: “Kỹ năng mềm là khả năng, là cách thức
    chúng ta tiếp cận và phản ứng với môi trường xung quanh, không phụ thuộc vào
    trình độ chuyên môn và kiến thức. Kỹ năng mềm không phải là yếu tố bẩm sinh
    về tính cách hay là những kiến thức của sự hiểu biết lí thuyết mà đó là khả năng
    thích nghi với môi trường và con người để tạo ra sự tương tác hiệu quả trên bình
    diện cá nhân và cả công việc”.
    Tương tự như thế, một vài tác giả với tư cách là người sử dụng lao động hay
    huấn luyện cho rằng: Kỹ năng mềm là kỹ năng đề cập đến khả năng điều chỉnh
    chính mình, điều chỉnh những kiến thức và kỹ năng đã có để thích ứng với
    người khác và công việc trong hoàn cảnh thực tiễn. Michal Pollick tiếp cận dưới
    góc nhìn Kỹ năng mềm là một năng lực thuộc về trí tuệ cảm xúc: “Kỹ năng mềm
    đề cập đến một con người có biểu hiện của EQ (EmotionIntelligence Quotion),
    đó là những đặc điểm về tính cách, khả năng giao tiếp, ngôn ngữ, thói quen cá
    nhân, sự thân thiện, sự lạc quan trong mối quan hệ với người khác và trong công
    việc”. Kỹ năng mềm là thuộc tính của cá nhân tăng cường khả năng tương tác
    của cá nhân trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu suất của công việc và triển
    vọng nghề nghiệp. Kỹ năng mềm liên quan đến khả năng tương tác với người
    khác mà cụ thể là những người trong nội bộ hay những người bên ngoài cơ quan
    5
    để đạt được hiệu quả làm việc mà cụ thể là vượt chỉ tiêu được giao để góp phần
    thành công của tổ chức. Tác giả Giusoppe Giusti cho rằng: “Kỹ năng mềm là
    những biểu hiện cụ thể của năng lực hành vi, đặc biệt là những kỹ năng cá nhân
    hay kỹ năng con người. Kỹ năng mềm thường gắn liền với những thể hiện của
    tính cách cá nhân trong một tương tác cụ thể, đó là kỹ năng chuyên biệt rất
    “người” của con người”. Khái niệm kỹ năng mềm đề cập đến những năng lực
    thực hành xã hội, hay còn gọi là kỹ năng con người.
    Việc phân loại các nhóm kỹ năng cũng có nhiều cách khác nhau, trong báo
    cáo phát triển Việt Nam của Ngân hàng Thế giới, thì bộ kỹ năng của người lao
    động bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: Kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội và
    hành vi, kỹ năng kỹ thuật. Trong đó, kỹ năng xã hội và hành vi được đo lường
    bằng: kỹ năng mềm, kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, đặc điểm tính cách; cởi mở
    để trải nghiệm, tận tâm, hướng ngoại, biết cách tán đồng, ổn định về cảm xúc;
    kiểm soát bản thân, kiên trì, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tương tác cá nhân.
    Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng: “Kỹ năng mềm không đồng nhất với kỹ năng
    sống nhưng không phải là một phạm trù tách biệt với kỹ năng sống”. Điều này
    cũng được tác giả Nguyễn Thanh Bình khẳng định: “Kỹ năng sống, trong đó có
    kỹ năng mềm được coi như là một hợp phần quan trọng trong nhân cách và năng
    lực của con người sống trong xã hội hiện đại”. Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị
    Kim Thoa thì cho rằng: “Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng
    thuộc về trí tuệ cảm xúc như: một số nét tính cách (quản lí thời gian, thư giãn,
    vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới), sự tế nhị, kỹ năng ứng xử, thói
    quen, sự lạc quan, chân thành, kỹ năng làm việc theo nhóm… Đây là những yếu
    tố ảnh hưởng đến sự xác lập mối quan hệ với người khác. Những kỹ năng này là
    thứ thường không được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức
    chuyên môn, không thể sờ nắm, nhưng không phải là kỹ năng đặc biệt mà phụ
    thuộc chủ yếu vào cá tính của từng người. Kỹ năng mềm quyết định bạn là ai,
    làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc”. Như vậy, kỹ năng
    mềm là một khía cạnh của kỹ năng sống, nói về mối quan hệ giao tiếp, tương tác
    và giải quyết sự việc, vấn đề bằng trí tuệ xúc cảm (EQ). Kỹ năng mềm là thuật
    ngữ liên quan đến trí tuệ xúc cảm dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc
    sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ
    năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới.
    Những kỹ năng mềm rất cần thiết cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay.
    Bên cạnh những hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng mềm cũng là nhân tố quan
    trọng hàng đầu ảnh hưởng đến quyết định tuyển dụng của doanh nghiệp khi các
    em bước vào cuộc sống. Kỹ năng này thể hiện cách sống, cách tích lũy kinh
    nghiệm từ cuộc sống và trong xã hội hiện đại, đây được xem là chìa khóa vàng
    dẫn đến thành công. Trong xã hội hiện đại, có những em học sinh năng động, tự
    6
    tìm kiếm các cơ hội để học tập trau dồi các kỹ năng mềm cho bản thân. Nhưng
    phần nhiều các em chưa biết đến kỹ năng mềm cũng như chưa nhận thức đúng
    đắn tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong cuộc sống hàng ngày nên chỉ nghĩ
    rằng học thật giỏi là đủ và chắc chắn sẽ thành công khi vào đời. Quan điểm này
    không sai nhưng chưa đủ, các em học giỏi chuyên môn nhưng chưa chắc đã có
    thể thích ứng nhanh với công việc hay sự thay đổi về môi trường cuộc sống, môi
    trường công việc. Để hiểu rõ hơn về những kỹ năng mềm cần thiết cho học sinh,
    chúng ta sẽ tham khảo kỹ năng mềm mà một số nước tiên tiến trên thế giới đã và
    đang hình thành và phát triển cho học sinh, sinh viên sau đây:

    TTKỹ năng mềmNước áp dụng
    1Kỹ năng học và tự học
    Learning to learn
    Mỹ, Úc,Singapore
    2Kỹ năng lắng nghe
    Listening skills
    Mỹ
    3Kỹ năng thuyết trình
    Oral Communiscation skills
    Mỹ, Anh
    4Kỹ năng giải quyết vấn đề
    Problem solving skills
    Mỹ, Anh, Úc,Singapore
    5Kỹ năng tư duy sáng tạo
    Creative thinking skills
    Mỹ
    6Kỹ năng quản lý bản thân và tự tin
    Self management skills and self-confidence
    Mỹ, Úc,Singapore
    7Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp
    Personal and career development skills
    Mỹ
    8Kỹ năng đặt mục tiêu và tạo động lực làm
    việc
    Goal setting/motivation skills
    Mỹ
    9Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ
    Interpersonal skills
    Mỹ, Úc,Singapore

    Các kỹ năng mềm sau đây sẽ giúp ích rất nhiều trong công việc của một
    người sau khi được tuyển dụng:
    -Kỹ năng giao tiếp: Trong tất cả những kỹ năng mềm thì kỹ năng giao tiếp
    được đánh giá là kỹ năng quan trọng nhất. Việc có kỹ năng giao tiếp tốt không
    có nghĩa là bạn phải trở thành một nhà hùng biện xuất sắc hay một nhà văn giỏi.
    Nó chủ yếu dựa trên việc bạn thuyết phục người khác ra sao và kết quả đạt được
    như thế nào. Đây chính là một kỹ năng mềm vô cùng cần thiết trong công việc.
    Giao tiếp còn là cầu nối để bạn tạo dựng mối quan hệ với các đồng nghiệp. Điều
    quan trọng là bạn nên lựa chọn từ ngữ trong đối thoại để tạo được ấn tượng đối
    với người nghe. Bạn cũng đừng quên rằng một người giỏi kỹ năng giao tiếp
    cũng sẽ là một người biết lắng nghe người khác. Khả năng thành công của bạn
    7
    nằm ở trong tay bạn, giống như anh Phạm Thanh Hải – CEO công ty Cổ phần
    JobsGO đã từng chia sẻ: Để gọi được vốn thành công, các bạn phải dựa rất nhiều
    vào mối quan hệ chứ không thể chỉ có sáng tạo hay công nghệ xịn được. Ngoài
    ra để cải thiện kỹ năng giao tiếp có thể tham khảo một số đầu sách: Khéo ăn
    khéo nói sẽ có được thiên hạ, Nghệ thuật giao tiếp để thành công, Những đòn
    tâm lý trong thuyết phục, sức mạnh của ngôn từ,…
    -Kỹ năng làm việc nhóm và hợp tác: Những nhà tuyển dụng chắc chắn sẽ
    không bao giờ từ chối một người luôn hòa đồng và thể hiện được khả năng làm
    việc nhóm trong một tập thể. Điều kiện ở đây là bạn phải có sự kết hợp hài hòa
    với các thành viên trong nhóm để tạo ra được kết quả cuối cùng hoàn hảo nhất.
    Kỹ năng làm việc nhóm và hợp tác chính là chìa khóa cho sự thành công của
    bạn nơi công sở. Làm việc với những người khác và thể hiện sự tôn trọng, lịch
    sự và thân thiện đối với họ, kể cả đối với những người mà bạn không thích. Hãy
    tỏ ra có trách nhiệm với công việc của mình. Khi bạn làm việc độc lập, kết quả
    có tốt hay không sẽ chỉ có mình bạn là người chịu. Nhưng khi đã làm việc
    nhóm, nếu bạn ỷ lại vào người khác và không làm tròn trách nhiệm của mình,
    chính là bạn đang làm ảnh hưởng đến cả tập thể đó. Những người ngày đêm làm
    việc sẽ bị phủ nhận công lao. Bạn có phải là một người biết tiếp nhận những lời
    phê bình thành động lực để biến nó thành những bài học và kinh nghiệm cho
    bản thân không? Hãy dẹp bỏ đi thứ tự ái đang làm cản trở sự thành công của
    bạn. Nếu những lỗi lầm của chúng ta không được phát hiện và sửa chữa thì càng
    ngày nó sẽ càng tích tụ lại và khiến cho bạn trở thành con người bảo thủ. Có
    phải chẳng có ai thích người khác phê bình mình không? Sự thật là chẳng mấy ai
    thích nghe những lời như vậy, ít nhiều thì chúng ta cũng sẽ tìm ra những lý luận
    để phản bác lại họ. Tuy nhiên, hãy tự rèn luyện chính mình. Quan trọng là bạn
    phải thật bình tĩnh và đừng vội phản bác lại những lời mà mọi người góp ý cho
    mình. Cầu thị, lắng nghe sẽ giúp cho họ có những lời phê bình góp ý chân thành
    hơn để bạn hoàn thiện bản thân.
    -Khả năng thích nghi: Chẳng có nhà tuyển dụng nào muốn từ chối một ứng cử
    viên sáng giá có khả năng thích nghi và linh hoạt trong công việc hết. Bạn phải
    luôn tạo cho mình khả năng để bứt phá trong công việc để có thể xoay sở trong
    môi trường hiện đại như ngày nay. Bạn có phải là một người sợ thay đổi không?
    Nếu đúng thì bạn có thể đang là thành viên không giá trị trong team của mình
    đó. Những vị cấp trên sẽ không có thời gian để chờ đợi bạn thích nghi với thời
    đại đâu. Chính vì vậy hãy học cách thích nghi ngay từ ngày hôm nay. Chỉ khi
    bạn biết thích nghi, biết chấp nhận thay đổi thì mới có nhiều cơ hội cho bạn phát
    huy năng lực của mình.
    -Sáng tạo và tư duy: Khả năng tư duy và lối suy nghĩ sáng tạo luôn được đánh
    giá cao trong mọi công việc. Chắc chắn khi bước chân vào chốn công sở, không
    có ai dạy cho bạn những điều này hết, nếu có thì sẽ chỉ là hướng dẫn bạn nên
    làm như thế nào để hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Do đó kỹ năng sáng
    tạo và tư duy tốt do chính bản thân bạn nắm bắt được và khơi nguồn. Một công
    việc ngày nào bạn cũng lặp đi lặp lại, lúc nào cũng trong tình trạng dập khuôn
    thì sẽ chỉ mang đến kết quả giống như những lần trước. Hãy thử tìm cách sáng
    tạo, đổi mới nó, biết đâu bạn sẽ có khả năng thực hiện công việc đó nhanh hơn
    8
    và đem lại hiệu quả cao hơn. Mọi thứ không có gì là dễ dàng cả, hãy tự tin sáng
    tạo theo cách riêng của bạn. Lấy một ví dụ đơn giản trong excel, nếu bạn là
    người chưa sử dụng bao giờ, chắc chắn bạn sẽ chỉ biết đánh số theo thứ tự
    1,2,3,… Nhưng nếu có thời gian tìm tòi và phân tích hẳn là bạn sẽ biết cách
    đánh số nhanh hơn cách đánh thủ công bên trên.
    2.2. Lựa chọn các phương pháp giáo dục kỹ năng mềm trong trường THPT.
    Độ tuổi THPT là giai đoạn chuẩn bị bước ra cuộc đời nên đây là thời điểm
    quan trọng để đẩy mạnh giáo dục các em những kỹ năng mềm, làm hành trang
    vững chắc cho thành công trong tương lai. Giáo dục kỹ năng mềm tại các trường
    THPT hiện nay được lồng ghép vào các giờ học chính khoá và trong các hoạt
    động ngoài giờ lên lớp.
    Những hoạt động giáo dục ngoài giờ giúp học sinh thấy được tầm quan trọng
    của các kỹ năng mềm đối với lứa tuổi học sinh. Từ đó còn góp phần thúc đẩy
    thêm mối quan hệ tích cực giữa học sinh với giáo viên, giữa các em học sinh với
    nhau, đem đến hứng thú học tập và hơn cả là giúp các em có khả năng ứng phó
    tích cực trước các tình huống trong cuộc sống, sống lành mạnh và chủ động hơn.
    Sau đây là những phương pháp giáo dục kỹ năng mềm có thể đạt được hiệu quả
    tại cấp học THPT:
    2.2.1.Giáo dục kỹ năng mềm thông qua các hoạt động tuyên truyền, trao
    đổi, tọa đàm…
    Những bài học về kỹ năng mềm có thể được lồng ghép trong các tiết chào
    cờ, sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể của trường bằng những cách thức hoạt động
    cụ thể như: buổi chia sẻ – trò chuyện hai chiều, chương trình đóng vai theo tình
    huống bằng hình thức sân khấu hóa, các bài học cuộc sống được lồng ghép vào
    trong giờ giảng dạy,… Khi các em đi học, nếu chỉ nhận lại được mỗi kiến thức
    sách vở thôi thì việc giáo dục chưa đạt được hết hiệu quả của nó. Đến trường cốt
    là để gặp gỡ bạn bè, thầy cô và được tiếp cận với “xã hội thu nhỏ” để học cách
    sống trước khi bước ra đời thật rộng lớn.
    2.2.2.Giáo dục kỹ năng mềm bằng cẩm nang, sổ tay tuyên truyền
    Các lớp có thể đặt mua những cuốn sổ tay giáo dục kỹ năng mềm trên thị
    trường. Nội dung của sổ tay rất hữu ích với học sinh, tuyên truyền bao gồm các
    kiến thức về kỹ năng sống, kỹ năng mềm cần rèn luyện, cách thức rèn luyện.
    Cuốn sổ tay nhỏ dễ mang theo bên mình, nội dung dễ đọc, dễ tiếp thu sẽ có tác
    dụng rất tốt trong việc giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh THPT. Thật ra đối
    với kỹ năng mềm, nhiều người cho rằng phải thực hành thì mới hiệu quả. Tuy
    nhiên, cái gì cũng vậy, có nền tảng kiến thức trước sẽ giúp việc thực thi đi đúng
    định hướng và nhanh chóng đạt được thành công hơn.
    2.2.3.Giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh từ các hoạt động ngoài giờ lên lớp
    a. Hoạt động Văn hóa – Nghệ thuật
    Hoạt động văn hóa nghệ thuật bao gồm nhiều thể loại khác nhau như: Hát,
    múa, nhảy, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, thi kể chuyện,.. nhằm góp phần hình
    thành cho các em sự mạnh dạn, tự tin trước đám đông, rèn luyện kỹ năng thể
    hiện bản thân. Những hoạt động này sẽ rất tuyệt vời cho các em có năng khiếu
    thẩm mỹ và quan tâm đến nghệ thuật. Đây sẽ là cơ hội để các em được hoà mình
    vào nghệ thuật, kể cả khi có đứng trước sân khấu hay không. Bởi nếu không trực
    9
    tiếp biểu diễn thì các em hoàn toàn có thể làm đạo diễn, biên kịch, hậu cần,…
    những công việc vẫn sẽ bổ sung rất nhiều vào vốn kỹ năng của em.
    b. Hoạt động Thể dục thể thao
    Hoạt động này sẽ góp phần giúp các em rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm,
    tinh thần đồng đội cũng như thể hiện sự khéo léo, khoẻ mạnh và dẻo dai của
    mình. Vì trong các cuộc thi về vận động thể chất, các em sẽ phải ứng phó nhiều
    tình huống bất ngờ và bắt buộc phải giao tiếp với đồng đội để đề ra chiến lược
    và phối hợp nhịp nhàng với nhau. Những hoạt động như thế này không chỉ là
    giờ phút giúp các em xả stress sau tháng ngày dài học tập căng thẳng, mà còn
    khiến tình đoàn kết lên cao, cùng nhau tạo nên những kỷ niệm đáng nhớ của tuổi
    học trò.
    c. Hoạt động xã hội, công ích
    Thông qua các hoạt động này, học sinh sẽ hiểu thêm về giá trị của lao động
    và có tinh thần đóng góp cho cộng đồng nhiều hơn. Đây có thể là các buổi vệ
    sinh trường lớp, có thể là những chuyến đi tham quan, từ thiện,… Các em sẽ
    được quan sát cuộc sống xung quanh ở nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nhiều em
    sống sung sướng từ bé, nhờ những lần như vậy mà dần biết xả thân hơn, xốc vác
    hơn, chăm chỉ làm việc cùng mọi người, biết mình may mắn hơn rất nhiều người
    ngoài kia nên phải sống yêu thương, chan hoà và có trách nhiệm với cộng đồng.
    d.Cuộc thi khoa học – kỹ thuật
    Những hoạt động như cuộc thi tìm hiểu các danh nhân, các nhà khoa học,
    xây dựng đề án khoa học kỹ thuật hay hỏi đáp về các kiến thức nền về văn hoá –
    xã hội,.. sẽ rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghiên cứu sâu và tự khẳng định vốn
    kiến thức của bản thân. Các em có cơ hội được cọ xát với nhiều các bạn cũng có
    tầm hiểu biết “khủng” để giao lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm cùng nhau. Các
    cuộc thi như vậy cũng là sân chơi để sau đó các em có thêm những người bạn
    cùng sở thích, có động lực để tiếp tục phấn đấu trau dồi kiến thức.
    e.Hoạt động ngoại khóa
    Ngoài việc giúp học sinh hiểu sâu hơn về các kiến thức đã được học trong các
    giờ học chính khóa (kiến thức nền) thì các hoạt động ngoại khóa còn trau dồi
    cho các em rất nhiều kỹ năng mềm như: kỹ năng học và tự học, sự tự tin, khả
    năng thuyết trình, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tư duy sáng tạo, kỹ năng
    làm việc nhóm, khả năng thích nghi… và nhiều kỹ năng khác nữa. Các buổi
    ngoại khóa đều được gắn với một chủ đề và gắn với một số kiến thức nhất định
    nên rất thuận lợi đối với các học sinh có kiến thức nền tốt. Tuy nhiên, với những
    học sinh có kiến thức nền còn hạn chế thì để giải quyết được chủ đề của buổi
    ngoại khóa, các em sẽ phải tự nghiên cứu, bổ xung những phần bản thân còn
    thiếu, qua đó tăng cường khả năng tự học cho các em.
    f.Các cuộc thi phong trào
    Các cuộc thi phong trào sẽ giúp học sinh phát triển các kỹ năng mềm như: khả
    năng học và tự học, khả năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả
    năng thuyết trình…Mỗi một cuộc thi sẽ phát triển một nhóm kỹ năng mềm khác
    nhau, nếu khai thác tốt các cuộc thi này sẽ giúp học sinh rèn luyện được nhiều
    kỹ năng quan trọng, cần thiết.
    10
    2.2.4.Giáo dục kỹ năng mềm bằng cách thành lập các câu lạc bộ học sinh
    Những câu lạc bộ (CLB) được thành lập, tổ chức và hoạt động ngay trong
    môi trường nhà trường THPT như: CLB Bóng rổ, CLB Tiếng Anh, CLB
    Dancesport, CLB Bóng bàn, CLB báo chí, CLB sức khỏe giới tính, Câu lạc bộ
    MC, CLB thủ lĩnh đoàn, CLB thanh niên tình nguyện… Mỗi CLB có cách thức
    và nội dung hoạt động khác nhau, có khẩu hiệu và cả quy chế hoạt động riêng.
    Tham gia các câu lạc bộ này, các em học sinh sẽ trở thành những thành viên
    tích cực, hoạt động vì một mục đích chung. Các em được hòa mình vào một tập
    thể có nhiều điểm chung nên có thể thoải mái thể hiện thế mạnh của bản thân.
    Nhờ đó mà qua các câu lạc bộ, nhiều học sinh từ nhút nhát đã trở nên mạnh dạn
    hơn.
    Chưa dừng lại ở đó, nhiều câu lạc bộ còn có những đợt tuyển thành viên đầu
    vào chặt chẽ với yêu cầu nhất định về vốn kiến thức, vốn sống, tinh thần tích
    cực, chủ động, dám nghĩ dám làm. Trong suốt quá trình hoạt động câu lạc bộ,
    các thành viên cũng phải hoạt động tích cực, nhất là tham gia những công tác xã
    hội, tình nguyện, những hoạt động tập thể để rèn luyện bản thân ngày một tốt
    hơn, cống hiến được nhiều hơn. Tham gia những hoạt động này là cách để học
    sinh từng bước tự rèn luyện bản thân và gặt hái vô vàn kỹ năng mềm.
    2.3. Phân tích vai trò của GVCN trong việc giáo dục kĩ năng mềm.
    Theo điều lệ trường THCS, THPT và trường PT có nhiều cấp học, ban hành
    kèm theo thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ
    Giáo dục và Đào tạo, giáo viên chủ nhiệm có những vai trò sau:
    2.3.1.Thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học
    Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng
    để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học.
    Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ
    chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học
    tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp.
    Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh
    kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà
    trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.
    2.3.2.Người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết
    Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức,
    giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây
    dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng
    thành theo từng năm tháng.
    Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái
    với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh.
    Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên
    chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt.
    Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ
    nhiệm bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong
    suốt cuộc đời họ.
    2.3.3.Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp
    Vai tò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy
    11
    tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng
    thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng
    hàng năm.
    Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ
    nhiệm lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ.
    Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn
    thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể
    thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức
    của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và
    truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp.
    2.3.4.Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp
    Giáo viên chủ nhiệm lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần
    phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của
    các đoàn thể.
    Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham
    mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra ban lãnh đạo
    chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây
    dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.
    2.3.5.Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục
    Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà
    trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung,
    chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo
    viên chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục
    cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách có hiệu quả nhất.
    Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ
    nhiệm lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các
    hoạt động giáo dục cho học sinh trong lớp.
    Với vai trò chung được nêu rõ trong thông tư trên thì GVCN có vai trò cực
    kì quan trọng trong việc “Giáo dục kĩ năng mềm” cho học sinh.
    2.4. Tổ chức, triển khai các hoạt động giáo dục kỹ năng mềm trong lớp chủ
    nhiệm.
    Để có thể thực hiện tốt việc “Giáo dục kỹ năng mềm” cho học sinh lớp
    mình chủ nhiệm, trước hết giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức được tầm quan
    trọng của việc giáo dục kỹ năng mềm trong trường THPT, đồng thời phải thấy
    rõ được vai trò của bản thân đối với công việc này. Từ đó, người giáo viên chủ
    nhiệm sẽ có được cho mình những định hướng, kế hoạch trên cơ sở các kế hoạch
    chung của nhà trường, tìm hiểu đặc điểm của tập thể lớp mình chủ nhiệm để
    đưa ra các phương pháp cụ thể trong quá trình chủ nhiệm. Đồng thời, bản thân
    người giáo viên chủ nhiệm cũng cần trau dồi cho mình những kỹ năng cần thiết
    để áp dụng, điều chỉnh cho từng hoạt động cụ thể.
    Tôi đã thiết kế các bước để thực hiện giáo dục kỹ năng mềm cho học sinh
    THPT thông qua công tác chủ nhiệm bao gồm:
    12
    -Bước 1: Nghiên cứu kế hoạch giáo dục chung của nhà trường, để tìm hiểu
    xem những hoạt động nào có thể lồng ghép việc giáo dục kỹ năng mềm cho HS
    lớp chủ nhiệm.
    -Bước 2: Tìm hiểu, phân tích kỹ đặc điểm của lớp chủ nhiệm, từ đó tìm hiểu
    xem các em đang thiếu những kỹ năng mềm nào, những kỹ năng mềm nào là
    cần thiết cho các em, đối với từng em thì cần ưu tiên phát triển kỹ năng mềm
    nào.
    -Bước 3: Lập kế hoạch giáo dục kỹ năng mềm đối với từng hoạt động cụ thể.
    -Bước 4: Triển khai thực hiện kế hoạch
    -Bước 5: Rút kinh nghiệm cho từng hoạt động.
    -Bước 6: Theo dõi sự tiến bộ của các em sau này và rút ra nhận xét

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm

    SKKN Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Yêu cầu đổi mới từ chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
    Tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới ban hành kèm theo thông tư số
    31/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ GD&ĐT, hoạt động giáo dục ngoài giờ
    lên lớp được triển khai theo hướng trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm, hướng
    nghiệp trở thành một hoạt động giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, là sự tích hợp các
    hoạt động: Giáo dục tập thể, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục nghề phổ thông. Theo đó,
    việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong các nhà trường phổ thông cần phải thay đổi
    từ quan niệm đến cách tổ chức, từ nội dung đến hình thức, từ quá trình thực hiện đến cách
    đánh giá kết quả.
    2. Yêu cầu đổi mới trong thực tế thời đại số
    Trong thời đại số, công nghệ thay đổi từng ngày, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm và
    học sinh không ngừng trau dồi, cập nhật để vận dụng phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giáo
    dục hiện đại. Việc quản lí lớp học lúc này đã mở rộng về không gian lớp học, mở rộng về
    các nội dung hoạt động của lớp, yêu cầu cao hơn về khả năng thích ứng và giải quyết vấn
    đề trong những tình huống thực tiễn… Trong đó, Office 365 đang là bộ công cụ tích hợp
    nhiều ứng dụng được triển khai tạo tài khoản miễn phí trong các nhà trường. Rõ ràng,
    công nghệ thông tin đã tạo ra rất nhiều cơ hội để giáo viên có công cụ hiệu quả hơn khi
    quản lí lớp học, đồng thời cũng đặt ra thách thức rất lớn khi giáo viên chủ nhiệm phải tổ
    chức, quản lí lớp thực trong một môi trường ảo.
    Thực tế, việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh lớp chủ nhiệm sao
    cho hiệu quả là một thử thách! Để thu hút học sinh và đạt được mục tiêu giáo dục, hoạt
    động trải nghiệm vừa phải phù hợp với nguyện vọng chính đáng của các em, vừa mang ý
    nghĩa giáo dục; vừa kế thừa vừa đổi mới. Giáo viên có thể già đi theo năm tháng nhưng
    lứa tuổi học trò thì luôn luôn tươi trẻ; cái nhìn của giáo viên có thể ổn định dần theo tuổi
    tác nhưng cách nhìn nhận của mỗi thế hệ học trò không bao giờ có mẫu số chung. Thế
    nên, người làm công tác chủ nhiệm cũng luôn phải tự làm mới mình, làm mới cách
    nhìn của mình, làm mới hình thức tổ chức hoạt động của mình.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    2
    Ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước, trong đó có tỉnh Nam Đinh, học sinh đã nhanh
    chóng thích nghi với việc chuyển đổi từ học trực tiếp sang học trực tuyến và ngược
    lại. Theo đó, cách thức quản lí lớp học và tổ chức các hoạt động cho lớp chủ nhiệm của
    giáo viên cũng phải thay đổi linh hoạt. Tuy nhiên nhiều thầy cô vẫn xác định việc sử dụng
    các công cụ trực tuyến trong công tác chủ nhiệm chỉ mang tính chất ứng phó, là giải
    pháp tình thế. Trong khi đó, thực tế, việc quản lí, tổ chức lớp chủ nhiệm theo hình thức
    trực tiếp hay trực tuyến đều có những ưu thế riêng và những hạn chế đặc thù, không thể
    thay thế hoàn toàn cho nhau. Thực tế, việc kết hợp hợp 2 phương thức trực tuyến và
    trực tiếp là một xu thế tất yếu, kể cả khi các trường học đã trở lại trạng thái “bình thường
    mới”, học sinh đã đi học trực tiếp. Nếu ta biết kết hợp 2 phương thức này trong công
    tác chủ nhiệm sẽ phát huy được ưu thế và khắc phục được nhiều điểm hạn chế của
    từng phương thức.
    3. Mong muốn lan tỏa cảm hứng tích cực cho học sinh THPT trong bối cảnh dịch
    Covid-19
    Thế mạnh của các hoạt động trải nghiệm chính là tạo ra môi trường hoạt động tập
    thể để học sinh có sân chơi lành mạnh, vui vẻ, qua đó có thể tương tác, phát triển kĩ năng.
    Nhưng diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 đã khiến các hoạt động tập trung đông người
    bị hạn chế hoặc dừng hẳn. Việc học sinh nghỉ học để phòng, chống dịch đã khiến các em
    không trực tiếp gặp gỡ, kết nối. Trong thời gian đi học trở lại, các em vừa đi học vừa
    phòng dịch. Các hoạt động tập trung đông người phải hạn chế. Những ngày học trong
    mùa dịch vì thế mà cũng vơi đi không ít hào hứng và thực sự thiếu đi dấu ấn đáng nhớ
    với các em.
    “Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm”
    được đề xuất nhằm mục đích:
    – Tổ chức triển khai kịp thời, có hiệu quả các nội dung định hướng, các hoạt
    động của trường, lớp tới các em học sinh lớp chủ nhiệm.
    – Tạo cơ hội để học sinh linh hoạt tham gia các hoạt động trải nghiệm ở phạm vi
    tập thể lớp hoặc phạm vi cá nhân, khi đi học hoặc khi nghỉ, đảm bảo yêu cầu phòng,
    chống dịch.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    3
    – Tạo động lực học tập, tinh thần phấn chấn cho học sinh lớp chủ nhiệm trong tình
    hình dịch.
    – Tạo cơ hội để học sinh phát huy tinh thần tiên phong, sáng tạo, đoàn kết, sẵn
    sàng thích nghi trong thời đại số.
    – Kết hợp giữa trực tuyến và trực tiếp trong công tác chủ nhiệm trở thành một giải
    pháp tất yếu, được thực hiện thường xuyên, lâu dài trong bất kì hoàn cảnh nào, không
    phải chỉ trong mùa dịch Covid.
    – Đề tài đã tập trung vào một số vấn đề cốt lõi trong công tác chủ nhiệm kèm những
    hoạt động cụ thể, thiết thực, là gợi ý hữu ích cho việc triển khai hoạt động trải nghiệm
    theo tinh thần của chương trình giáo dục phổ thông mới.
    B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Hoạt động quản lí lớp
    1.1. Các giải pháp tự quản đã triển khai trong việc quản lí lớp
    * Căn cứ trên mức độ thay đổi của nội dung công việc, có thể phân chia công việc
    trong công tác tự quản trong quản lí lớp học thành 2 nhóm như sau:
     Quản lí các yếu tố tĩnh (hồ sơ, danh sách, văn bản chỉ đạo, kế hoạch
    chung của năm học, nội quy…): Ở nhóm này, các yếu tố khi ban hành ra
    không thay đổi hoặc ít thay đổi, mang tính cố định để GV và HS dễ dàng tra
    cứu hoặc đối chiếu khi cần.
     Quản lí các yếu tố động (kế hoạch cụ thể từng tuần thực hiện, danh
    sách/phiếu cập nhật thông tin, hồ sơ đánh giá quá trình và đánh giá kết
    quả hoạt động của học sinh…): Ở nhóm này, các yếu tố cần sự cập nhật
    hoặc điều chỉnh thường xuyên trong cả quá trình thực hiện.
    * Khi chưa kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, việc quản lí lớp của GVCN diễn
    ra như sau:
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    4
    – Đối với việc quản lí các yếu tố tĩnh (hồ sơ, danh sách, văn bản chỉ đạo, kế hoạch
    chung của năm học, nội quy…):
    + Việc phổ biến thông báo/văn bản tới học sinh trong lớp:
     Giáo viên chủ nhiệm hoặc cán bộ lớp thông báo trực tiếp, trình chiếu
    lên máy chiếu hoặc photo mỗi học sinh trong lớp 1 bản để theo dõi.
     Giáo viên chủ nhiệm hoặc cán bộ lớp gửi lên nhóm kín hoặc nhóm
    chat của lớp trên Facebook để các học sinh trong lớp theo dõi và có
    thể tìm lại khi cần.
    + Việc lưu trữ văn bản:
     GVCN lưu trữ dưới dạng file trên máy tính hoặc bản in:
    Hình ảnh file offline lưu trữ trong máy tính cá nhân
     GVCN đăng lên và có thể tìm kiếm lại trên Nhóm Facebook của lớp.
    Với ưu thế tiện lợi khi đăng tải, lan tỏa được đến nhiều người một
    cách nhanh chóng, đây là cách mà nhiều GVCN tận dụng để phát đi
    các thông báo cho lớp chủ nhiệm. Tuy nhiên sử dụng kênh này để lưu
    trữ một cách khoa học, thường xuyên lại là một vấn đề khác.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    5
    Hình ảnh các file lưu trữ trên nhóm Facebook của lớp
    – Quản lí các yếu tố động (kế hoạch cụ thể từng tuần thực hiện, danh sách cần
    cập nhật thông tin, hồ sơ đánh giá quá trình và đánh giá kết quả hoạt động
    của học sinh…):
    + Khi cần cập nhật các thông tin mà cần lấy ý kiến từ các cá nhân HS trong
    lớp, GVCN sử dụng các công cụ khảo sát trực tiếp hoặc trực tuyến. Với ưu thế là
    có thể nhắc nhở các thành viên làm đồng thời khảo sát, thì việc in các văn bản để
    các học sinh trong lớp điền trực tiếp vào các lựa chọn/ý kiến cá nhân rồi tổng
    hợp thủ công vẫn là cách phổ biến ở các nhà trường. Tuy nhiên, các công cụ
    trực tuyến lại phá huy ưu thế của mình trong việc tiết kiệm thời gian, chi phí, dễ
    dàng cho cán bộ lớp quản lí thời gian làm khảo sát của các thành viên. Trong số
    đó, Googledocs là công cụ phổ biến, được quen dùng hơn cả. Microsoft Forms
    là lựa chọn tối ưu không kém, nhưng mới chỉ phổ biến ở một số trường đã triển
    khai sử dụng Office 365. Các công cụ khác như Excel Survey, Mentimetor,
    Kahoot…cũng là các công cụ đã được GVCN và HS tiếp cận, sử dụng tùy vào tình
    huống cụ thể.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    6
    + Khi cần cập nhật thông tin mà không cần lấy ý kiến từ các cá nhân HS
    trong lớp thì GVCN trao đổi trực tiếp với tập thể trên lớp đồng thời tự cập nhật vào
    file offline.
    + Khi cần cập nhật kết quả thi đua của HS trong lớp sau mỗi giai đoạn,
    GVCN triển khai theo các quy trình đánh giá, bình bầu trên lớp rồi tự cập nhật kết
    quả lên file hồ sơ offline.
    + Việc lưu trữ và thông báo văn bản tới học sinh trong lớp:
     GVCN lưu trữ file offline trong máy tính cá nhân.
     Thông báo một cách trực tiếp trên lớp.
     Gửi file (dưới dạng không thể chỉnh sửa online) lên nhóm kín của lớp
    trên Facebook sau mỗi giai đoạn cập nhật để HS trong lớp nắm được.
    + Việc kết nối giữa GVCN và phụ huynh học sinh diễn ra qua hình thức trực
    tiếp (họp phụ huynh, trao đổi trực tiếp với phụ huynh) hoặc gián tiếp (qua điện
    thoại, zalo, Smas…).
    1.2. Đánh giá ưu điểm, hạn chế về các giải pháp quản lí lớp đã triển khai
    * Ưu điểm
    Thực ra, khi chưa kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, việc quản lí lớp khi học sinh
    đi học trực tiếp vẫn hiệu quả, thể hiện ở việc:
    – Việc thông báo, phản hồi và thực hiện công việc giữa giáo viên chủ nhiệm – học
    sinh vẫn diễn ra nhịp nhàng. Tiến độ công việc được đảm bảo.
    – Sự tương tác và kết nối giữa GVCN và HS ở nhiều việc vẫn diễn ra thường xuyên,
    kịp thời.
    – Việc lưu trữ hồ sơ của lớp chủ nhiệm vẫn đảm bảo yêu cầu.
    * Hạn chế:
    – Ở một số công việc, sự phản hồi của HS trong lớp không được kịp thời do HS
    không được nhìn thấy đánh giá trong cả quá trình, chỉ được biết kết quả ở cuối giai đoạn.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    7
    Ví dụ: Việc HS muốn đính chính những sai sót, nhầm lẫn về nề nếp, học tập trong sổ theo
    dõi của cán bộ lớp, đến cuối tuần HS mới được biết thông qua nhận xét tổng kết tuần.
    – Việc sắp xếp và tra cứu tài liệu trên nhóm Facebook: Do chưa phân file theo chủ
    đề nên các file lưu trữ trên nhóm rất lộn xộn, khó tìm kiếm.
    – Khi học sinh học trực tuyến, nếu không có các ứng dụng trực tuyến hỗ trợ, sự
    tương tác và kết nối giữa GVCN với cá nhân HS có thể đảm bảo nhưng kết nối với tập
    thể HS sẽ không thường xuyên, không kịp thời, khó đảm bảo được yêu cầu công việc.
    – Nhiều công việc còn mất nhiều thời gian và thủ tục khi thực hiện. Ví dụ: Việc cán
    bộ lớp ghi chép, theo dõi và cập nhật kết quả các mặt hoạt động của lớp hàng tuần.
    2. Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm của lớp chủ nhiệm
    2.1. Các giải pháp đã triển khai trong việc tổ chức hoạt động trải nghiệm của lớp
    chủ nhiệm
    * Hoạt động sinh hoạt lớp
    – Nội dung:
    + Ổn định tổ chức.
    + Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện nề nếp và học tập của lớp trong tuần
    vừa qua.
    + Thông báo kế hoạch một số hoạt động của trường và của lớp trong tuần
    học mới.
    + Khi HS học trực tuyến, việc tổ chức hoạt động theo chủ đề có thể được tổ
    chức, có thể bị trì hoãn so với khi đi học trực tiếp.
    – Giải pháp thực hiện:
    + GVCN đóng vai trò chủ đạo, là người cập nhật văn bản từ các tổ chức
    trong nhà trường, thông báo, triển khai hoạt động tới học sinh. Học sinh lắng nghe,
    nắm bắt thông tin.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    8
    + GVCN hoặc cán bộ lớp là người tổng hợp kết quả học tập và tình hình thực
    hiện nề nếp qua sổ theo dõi và cũng là người thông báo kết quả đó trong giờ sinh
    hoạt lớp. GVCN là người đánh giá, phân tích, định hướng giải pháp cho học sinh.
    + Khi không ứng dụng linh hoạt các phần mềm công nghệ, việc tổ chức trao
    đổi theo chủ đề dễ quay trở về chiếu slide + thuyết trình, nếu thực hiện nhiều lần
    sẽ gây nhàm chán.
    * Hoạt động trải nghiệm ngoài giờ học
    Các hoạt động diễn ra ngoài giờ học của học sinh chủ yếu là các hoạt động văn
    hóa, văn nghệ, thể dục thể thao hay việc chuẩn bị chương trình cho các ngày lễ lớn.
    – Khi học sinh đi học trực tiếp, trong bối cảnh học sinh tới trường phải đeo khẩu
    trang và thực hiện nghiêm ngặt việc cấm tập trung đông người, giữ khoảng cách an toàn,
    các hoạt động trải nghiệm sau giờ học cũng không được tổ chức để hạn chế việc tiếp xúc
    trực tiếp/gián tiếp giữa người – người.
    – Khi học sinh học trực tuyến, ai ở nhà nấy, việc hỗ trợ các em tổ chức một hoạt
    động tập thể lại càng khó khăn. Nếu có, chỉ có một số ít cá nhân học sinh năng động, tích
    cực tham gia hoạt động của trường/lớp, có năng khiếu MC/văn hóa văn nghệ, sử dụng
    điện thoại để tự ghi hình phần dẫn hoặc tiết mục của cá nhân. Không có hoạt động có cả
    lớp tham gia.
    2.2. Đánh giá ưu điểm, hạn chế về các giải pháp đã triển khai trong việc tổ chức hoạt
    động trải nghiệm của lớp chủ nhiệm
    * Ưu điểm
    Dù đi học trực tiếp hay trực tuyến, hoạt động trải nghiệm vẫn có thể diễn ra nhưng
    chủ yếu ở mức độ cá nhân để đảm bảo an toàn phòng chống dịch.
    * Hạn chế
    – Thời lượng, tần suất tổ chức các hoạt động trải nghiệm bị rút ngắn.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    9
    – Số lượng học sinh tham gia: Do lệ thuộc vào năng lực, điều kiện, hứng thú, sự tự
    nguyện của cá nhân HS nên hoạt động dành cho cả lớp tham gia chưa thể tổ chức.
    – Vai trò của học sinh: Sự kết nối bị hạn chế, cộng với việc học trực tuyến kéo dài dễ
    khiến HS thu mình lại, ngại giao tiếp, ngại thực hiện nhiệm vụ, ngại tham gia các hoạt
    động tập thể.
    – Yêu cầu về chất lượng tham gia: Khi HS học trực tiếp, do tình hình dịch, các hoạt
    động tập thể bị hạn chế về số người tham gia, hình thức và thời gian tổ chức nên chất
    lượng giảm đáng kể so với việc được tổ chức bình thường. Khi HS học trực tuyến, kể cả
    tổ chức chào cờ, sinh hoạt lớp online thì cũng khó có thể kiểm soát được chất lượng tham
    gia của học sinh, điều này bị lệ thuộc vào sự tự giác của các em. Mà muốn các em tự giác,
    giải pháp lâu dài nhất vẫn phải là thiết kế nội dung, hình thức hoạt động sao cho hay, làm
    cho các em thích, các em có nhu cầu tham gia. Mục tiêu giáo dục vì thế mới có thể đạt
    được.
    Tóm lại, việc triển khai công tác chủ nhiệm trên các phương diện: quản lí lớp
    học, tổ chức hoạt động trải nghiệm đã và đang được thực hiện. Tuy nhiên hình thức
    thực hiện chủ yếu vẫn dưới dạng trực tiếp. Hoạt động trực tuyến nếu có, chỉ là giải
    pháp tạm thời trong thời gian học sinh không đi học trực tiếp tại trường. Trên cơ sở
    những ưu điểm không thể phủ nhận của cả 2 hình thức trực tiếp và trực tuyến, trên
    cơ sở thực trạng đang diễn ra, rất cần giải pháp kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến
    để nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm trong nhà trường.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    Phải thừa nhận rằng, khi chưa kết hợp giữa trực tiếp và trực tuyến, công tác
    chủ nhiệm vẫn diễn ra hiệu quả ở nhiều công việc. Tuy nhiên với đòi hỏi mới của thời
    đại số, trong bối cảnh mới, việc tổ chức kết hợp trực tiếp và trực tuyến sẽ tiết kiệm thời
    gian và nâng cao hiệu quả làm việc cho GVCN. Cụ thể như sau:
    1. Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong việc quản lí lớp
    1.1. Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong việc tự lưu trữ, cập nhật văn
    bản, hồ sơ
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    10
    Trong quá trình quản lí lớp, có nhiều thông tin thường xuyên được cập nhật, ví dụ:
    Kế hoạch hàng tuần hoặc Theo dõi việc thực hiện nề nếp học trực tuyến/học trực tiếp của
    lớp.
    – Để HS trong lớp dễ cập nhật và theo dõi kế hoạch hàng tuần của lớp, GVCN có
    thể sử dụng Padlet hoặc OneNote. Để tránh việc bị hạn chế số trang và phải mua phiên
    bản nâng cấp của Padlet, trong khi đó Office 365 đang là bộ công cụ tích hợp nhiều ứng
    dụng được triển khai tạo tài khoản miễn phí trong các nhà trường, chúng tôi khuyến khích
    các thầy cô chủ nhiệm sử dụng One Note. One Note như 1 cuốn sổ có nhiều phần, mỗi
    phần có nhiều trang. GVCN có thể phân quyền cho các đối tượng khác nhau được xem/sửa
    ở từng trang khác nhau.
    Hình ảnh một trang trong cuốn sổ OneNote của lớp
    – Để tất cả HS trong lớp tiện theo dõi và phản hồi kịp thời về kết quả thực hiện nề
    nếp học trực tuyến/học trực tiếp của lớp, thay bằng sổ theo dõi bản in, GVCN sẽ tạo
    Sổ theo dõi nề nếp, học tập bằng Googledocs. Trong đó GVCN và lớp trưởng được
    quyền sửa. Các học sinh khác trong lớp được quyền xem. Học sinh sẽ phản hồi ngay với
    giáo viên chủ nhiệm qua Facebook, Zalo hoặc phản hồi trong tiết sinh hoạt lớp. Việc cập
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    11
    nhật sổ theo dõi online sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian cho thủ tục hành chính tổng
    kết tuần trong giờ sinh hoạt, từ đó lớp có nhiều thời gian hơn cho sinh hoạt chủ đề.
    1.2. Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong việc xây dựng nội quy của lớp
    Để khuyến khích học sinh chủ động tham gia vào việc xây dựng nội quy của trường,
    lớp, từ đó mỗi học sinh có trách nhiệm hơn với bản thân mình và tập thể, tạo sự hứng thú,
    dễ thuộc, dễ nhớ cho các em trong việc học nội quy, từ đó, các em tự giác hơn trong việc
    thực hiện nội quy nhà trường, tập thể lớp có thể tự xây dựng nội quy dưới sự hướng dẫn
    của GVCN.
    * Về nội dung:
    – Căn cứ trên Nội quy học sinh của nhà trường, Tiêu chí tính điểm thi đua của Đoàn
    trường, GVCN tổ chức lấy ý kiến các HS để các em đề xuất nội quy của lớp. Các link
    khảo sát online có sự kết hợp giữa trắc nghiệm và tự luận là giải pháp lấy ý kiến dân
    chủ và nhanh chóng cho việc này.
    – Căn cứ trên kết quả bình chọn và đề xuất của số đông học sinh trong lớp trên link,
    GVCN sẽ tổng hợp nội dung thành nội quy của lớp.
    – Về bố cục: Nội quy của các lớp yêu cầu có 2 phần:
    + Phần 1: Những điều học sinh phải thực hiện (là những điều quy định trong các
    văn bản)
    + Phần 2: Những điều học sinh nên thực hiện (là những nội dung cụ thể của thái
    độ, tình cảm, lối sống không quy định chi tiết trong các văn bản nhưng là những định
    hướng để học sinh có lối sống văn hóa, tích cực hơn)
    * Về hình thức thể hiện:
    Sau khi có nội dung của nội quy, lớp sẽ tiến hành thiết kế hình thức thể hiện nội
    dung đó.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    12
    – Lớp có thể phát động cuộc thi Thiết kế bảng nôi quy, trong đó những HS dự thi
    phải thiết kế hình thức thể hiện nội quy/slogan học tập sao cho sinh động, dễ thuộc, dễ
    nhớ (ví dụ: hình thức thơ, văn vần, câu đối, chơi chữ; kết hợp giữa chữ viết và hình ảnh
    minh họa…).
    – Sản phẩm dự thi sẽ là nội quy/ slogan học tập được thiết kế trên các phần mềm,
    lưu dưới dạng ảnh/video.
    * Cách sử dụng sản phẩm:
    – Có thể in các sản phẩm poster/áp phích, slogan phù hợp để treo/dán tại phòng học
    của lớp, vừa tạo hứng khởi học tập, vừa trang trí lớp.
    – Có thể truyền thông các sản phẩm trên mạng xã hội để kêu gọi bình chọn, nhằm
    tăng hứng thú cho những người chơi, đồng thời lan tỏa thông điệp của nội quy đến nhiều
    người hơn nữa.
    Cách thực hiện này sẽ tạo ra một môi trường học tập – nơi các em học sinh sẽ thực
    sự là trung tâm của các hoạt động giáo dục, được khuyến khích và tạo điều kiện để thể
    hiện năng lực cá nhân.
    1.3. Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong việc kết nối, tương tác giữa giáo
    viên – học sinh, giáo viên – phụ huynh
    * Kết nối giữa GVCN với học sinh
    Ngoài việc trao đổi trực tiếp, qua điện thoại và Facebook/Zalo cá nhân của học
    sinh, ngoài việc thông báo trực tiếp trên lớp tới tập thể, Teams và ứng dụng Nhóm kín
    trên Facebook có thể sử dụng làm kênh thông tin chính thống của GVCN với tập
    thế học sinh của lớp.
    – Cách sử dụng kết hợp 2 công cụ:
    + Facebook sẽ là nơi phát đi các thông báo ngắn gọn, hướng dẫn ngắn gọn. Các
    thông báo, hướng dẫn đó sẽ có diễn giải chi tiết hoặc có các văn bản đi kèm lưu tại các
    Folder tương ứng trên Teams.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    13
    + Lưu ý 1: Các thông báo trên Facebook cũng cần sắp xếp theo các chủ đề để HS
    và GV dễ tìm kiếm. Cách tạo chủ đề: Khi viết bài, chỉ cần gõ thêm
    #chủđềliênquanđếnbàiviết. Ví dụ: #thờikhóabiểu. #thongbao, #tiêmchủng (H.3).
    + Lưu ý 2: Do file tồn tại trên phần Tệp của Teams sẽ là file dùng chung, bất kì HS
    nào cũng có thể chỉnh sửa nên GVCN khi đưa file lên nên để định dạng PDF hoặc định
    dạng ảnh để tránh việc các HS trong lớp sửa trực tiếp trên văn bản mà GVCN đã gửi.
    Hình ảnh các file lưu trữ trên Facebook và trên Teams của lớp
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    14
    – Quy định về việc sử dụng kết hợp 2 công cụ:
    + Cần có nội quy sử dụng nhóm, trong đó nêu rõ nội dung đăng bài, cách phản
    hồi của các thành viên trong lớp khi nhận được thông báo.
    Nội quy do GVCN đăng trên nhóm lớp sau khi đã thống nhất với cán bộ lớp
    + Cần có quy định cụ thể về tần suất cập nhật thông báo trên nhóm lớp. Có
    nhiều công việc phát sinh, cần làm ngay, nhất là trong giai đoạn học sinh học trực tuyến.
    Các công việc đó lại đòi hỏi triển khai tới tất cả các học sinh trong lớp. Vì vậy, GVCN
    cần quy định rõ tần suất cập nhật thông báo trên nhóm lớp để HS trong lớp có ý thức hơn
    trong việc lĩnh hội thông tin. Nhóm Facebook có tính năng thống kê số người đã xem nên
    kể cả các bhọc sinh đọc mà chưa ấn Like/Thả tim thì cán bộ lớp và giáo viên vẫn biết
    được học sinh đã đọc tin chưa để kịp thời có kênh liên lạc khác tới những cá nhân học
    sinh đó.
    * Kết nối giữa GVCN – phụ huynh
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    15
    Do đặc thù của phụ huynh trong lớp, khi kết nối với phụ huynh, ngoài việc liên
    lạc trực tiếp, qua điện thoại và Facebook/Zalo cá nhân của phụ huynh, GVCN lựa chọn
    Forms và Smas làm kênh thông tin chính thống với phụ huynh.
    – Khi cần gửi các thông báo/lưu ý ngắn gọn, GVCN sử dụng Smas.
    – Khi cần triển khai các công việc cần lấy ý kiến của từng phụ huynh, GVCN sẽ sử
    dụng Forms.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm
    16
    * Thông thường, để triển khai công việc tới học sinh, nhất là các thông tin quan
    trọng, GVCN phải kết hợp vừa thông báo tới học sinh vừa thông báo tới phụ huynh
    để đảm bảo hiệu quả.
    1.4. Kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong việc cập nhật theo dõi thi đua
    của lớp
    Để tất cả học sinh trong lớp tiện theo dõi và phản hồi kịp thời về kết quả thực
    hiện nề nếp học trực tuyến/học trực tiếp của lớp, GVCN hoặc lớp trưởng sẽ tạo Sổ
    theo dõi nề nếp online bằng Googledocs. Trong đó giáo viên chủ nhiệm và lớp trưởng
    được quyền sửa. Các học sinh khác trong lớp được quyền xem. Học sinh sẽ phản hồi ngay
    với lớp trưởng và giáo viên chủ nhiệm qua Facebook, Zalo hoặc phản hồi trong tiết sinh
    hoạt lớp. Việc cập nhật sổ theo dõi online sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian cho thủ tục
    hành chính tổng kết tuần trong giờ sinh hoạt, từ đó lớp có nhiều thời gian hơn cho sinh
    hoạt chủ đề.
    Giải pháp kết hợp hình thức trực tiếp và trực tuyến trong công tác chủ nhiệm

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Sử dụng Arduino trong bài học STEM ở môn Công nghệ lớp 12, nền tảng cho dạy học theo chuyên đề học tập ở chương trình giáo dục phổ thông mới

    SKKN Sử dụng Arduino trong bài học STEM ở môn Công nghệ lớp 12, nền tảng cho dạy học theo chuyên đề học tập ở chương trình giáo dục phổ thông mới

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Ngày nay trong thời đại công nghệ 4.0. Khoa học công nghệ không ngừng
    phát triển, ngành tin học nói chung đã có mặt trong hầu như tất cả các ngành
    nghề từ đơn giản đến phức tạp. Công nghệ tin học đã giúp ích không nhỏ vào
    công việc giảng dạy và mang lại nhiều kết quả không nhỏ. Và Arduino là một
    nền tảng mã nguồn mở, được sử dụng để xây dựng các ứng dụng điện tử tương
    tác với nhau. Những mạch đơn giản tạo ra dưới sự hỗ trợ của Arduino không
    những giúp người học đặc biệt là các học sinh trung học phổ thông hứng thú,
    yêu thích điện tử, còn thúc đẩy sự phát triển các phẩm chất, năng lực cho học
    sinh, giúp các em có hành trang tốt nhất để thích ứng và phát triển trong thế kỉ
    21.
    – Ngoài ra, do đặc thù là môn công nghệ nên việc cho học sinh được nghe,
    nhìn và tận tay thực nghiệm là điều cần thiết. Và để thực hiện được điều đó thì
    bản thân giáo viên phải luôn không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên
    môn cũng như tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy –
    học góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục theo đúng mục
    tiêu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia và của Bộ GDĐT.
    Đặc biệt, trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 môn công
    nghệ có vai trò quan trọng, đặc biệt trong giáo dục STEM. Môn công nghệ phản
    ánh hai thành phần là T (technology) và E (engineering) trong bốn thành phần
    của STEM.
    Cùng với chương trình giáo dục phổ thông mới thì chương trình giáo dục phổ
    thông hiện hành cũng có các bài học liên quan, giáo viên có thể lồng ghép vào
    nội dung bài học giúp các em hiểu và nắm bắt được nội dung bài học nhanh hơn.
    Nhận thức được tầm quan trọng của Arduino cũng như nhu cầu của môn
    Công nghệ với giáo dục Stem nên bản thân tôi đã áp dụng và đưa ra sáng kiến
    thuộc lĩnh vực “Công Nghệ” với đề tài “Sử dụng Arduino trong bài học STEM ở
    môn Công Nghệ lớp 12, nền tảng cho dạy học theo chuyên đề học tập ở chương
    trình giáo dục phổ thông mới” với mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm
    trong quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện chuyên đề tới các bạn đồng
    nghiệp.
    2
    II. Mô tả giải pháp.
    1. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến.
    (Nêu hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới; phân tích ưu nhược điểm
    của giải pháp cũ để cho thấy sự cần thiết của việc đề xuất giải pháp mới nhằm
    khắc phục nhược điểm của giải pháp cũ).
    1.1. Nội dung chương trình giáo dục phổ thông hiện hành
    Trong sách giáo khoa công nghệ lớp 12 hiện hành thì phần kĩ thuật điện tử
    diễn ra hơn nửa năm học, với chương I, II giới thiệu về các linh kiện điện tử và
    một số mạch điện tử cơ bản. Ở hai chương này trên cơ sở giáo viên cho các em
    được nghe, nhìn và tận tay cầm các linh kiện cơ bản để biết về cấu tạo, thông số
    cơ bản cũng như nguyên lí làm việc của các linh kiện như: Điện trở, tụ điện,
    cuộn cảm, điốt, Tranzito… thì gần như 100% các em đều đã có những kiến thức
    nhất định về các linh kiện điện tử, và đây cũng là tiền đề để các em có thể triển
    khai, lắp ráp một số mạch đơn giản và cụ thể. Nhưng sang đến chương 3: MỘT
    SỐ MẠCH ĐIỆN TỬ ĐIỀU KHIỂN ĐƠN GIẢN đặc biệt là nội dung của bài
    13. KHÁI NIỆM VỀ MẠCH ĐIỆN TỬ ĐIỀU KHIỂN và bài 14: MẠCH ĐIỀU
    KHIỂN TÍN HIỆU thì nội dung này mặc dù khá hay nhưng chưa kích thích
    được sự tò mò, hứng thú của các em, do nội dung chỉ là trên sách vở, mang tính
    chất hàn lâm, giới thiệu nhanh, các em không được tận tay thực nghiệm, quan
    sát mặc dù giáo viên, học sinh có thể tự tay tạo ra được thiết bị đáp ứng được
    mục tiêu bài học.
    Nên yêu cầu đặt ra, nếu giáo viên có thể tổ chức một bài học STEM ở bài 13,
    14 Công Nghệ lớp 12 để thiết kế và tạo ra những sản phẩm về mạch điều khiển
    đơn giản dưới sự trợ giúp của máy tính thì thật là thú vị, Khi đó, các em vừa
    phát triển các phẩm chất, kĩ năng cho học sinh trong tiết học STEM, vừa tiếp thu
    kiến thức một cách chủ động, tích cực thì đây là điều mà giáo dục hiện nay đang
    hướng tới.
    1.2. Nội dung môn Công Nghệ trong chương trình giáo dục phổ thông mới
    Theo chương trình giáo dục phổ thông mới được đưa vào giảng dạy ở lớp 10
    trong bộ môn Công Nghệ có đề cập tới chuyên đề 2: “THIẾT KẾ MẠCH ĐIỀU
    KHIỂN CHO NGÔI NHÀ THÔNG MINH” với một trong các yêu cầu cần đạt
    là thiết kế và chế tạo được một hệ thống cảnh báo trong gia đình. Vậy để chuẩn
    3
    bị tốt cho quá trình giảng dạy chuyên đề này, thì bản thân giáo viên cần học tập,
    bồi dưỡng nâng cao kiến thức từ những tiết chuyên đề, bài học STEM trên nền
    tảng là các kiến thức, nội dung của chương trình mới, đồng thời tận dụng điều
    đó để đưa vào áp dụng, giảng dạy trong các bài học trong chương trình Công
    Nghệ lớp 12 cũ.
    Hiện nay, theo chương trình sách giáo khoa Công Nghệ lớp 10 mới, thì với
    mục tiêu bài học là yêu cầu cần đạt như đã nêu ở trên, thì ở bộ sách Cánh Diều,
    Bài 9. Dự án: “THIẾT KẾ HỆ THỐNG ĐIỀU KHIỂN CHỐNG TRỘM CHO
    NGÔI NHÀ THÔNG MINH” giáo viên có thể sử dụng bộ điều khiển trung tâm
    là mạch Arduino để triển khai, giúp học sinh có thể lắp ráp, thiết kế được một hệ
    thống điều khiển chống trộm cho ngôi nhà một cách đơn giản và dễ dàng nhất.
    Còn trong chương trình sách giáo khoa Công Nghệ lớp 10 bộ Kết Nối Tri
    Thức Với Cuộc Sống thì ở bài 6. Dự án: “THIẾT KẾ HỆ THỐNG ĐIỀU
    KHIỂN CHỐNG TRỘM CHO NGÔI NHÀ THÔNG MINH” cũng đã đưa ra
    nhiệm vụ là thiết kế một hệ thống an ninh cho ngôi nhà có chức năng phát hiện
    người di chuyển thì bật đèn, chuông báo động kêu, và để thực hiện được điều đó
    thì bộ sách đã đưa ra việc sử dụng Arduino để điều khiển toàn bộ hệ thống.
    Vậy câu hỏi đặt ra, tại sao giáo viên không thể tận dụng điều đó để học tập,
    nghiên cứu, phát triển chuyên môn. Đồng thời, áp dụng điều đó vào chương
    trình Công Nghệ lớp 12 cũ và chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trong chương trình sách
    giáo khoa Công Nghệ mới.
    1.3. Sự cần thiết của việc áp dụng Arduino vào các mạch điều khiển điện
    tử
    Khi nói đến Arduino thì các bạn nghiên cứu về điện tử hay các đồng nghiệp
    cũng như học sinh khi tham gia các cuộc thi về khoa học kĩ thuật gần như không
    còn xa lạ gì. Bởi lẽ, Arduino là một nền tảng mà mọi thiết bị phần cứng đều
    được làm sẵn và chuẩn hóa, ta chỉ việc chọn những thứ mình cần, ráp lại là có
    thể chạy được. Giống như một con người với “thể xác” đã được xây dựng sẵn,
    một hệ thống Arduino phải có “tâm hồn” để có thể “sống”. Và việc tạo ra “tâm
    hồn” ấy gọi là “Lập trình”. Tuy nhiên, ta sẽ không phải lập trình từ A đến Z.
    Mỗi thứ phần cứng “Arduino” đều có những đoạn lệnh đã được viết sẵn (gọi là
    4
    thư viện) do cộng đồng người dùng Arduino cùng phát triển. Nhiệm vụ của
    mình chỉ cần đọc và chỉnh sửa theo mục đích, ý muốn của bản thân.
    Chính vì tính tiện lợi và đơn giản cho người sử dụng mà Arduino đã được
    nhiều người lựa chọn từ học sinh, sinh viên, giáo viên, hay những người ham mê
    điện tử.
    Mặc dù, mới tiếp xúc thì việc học lập trình có vẻ khó khăn cho người mới bắt
    đầu, nhưng để tạo ra một đoạn code ngắn cho quá trình giảng dạy và khơi gợi
    khả năng hứng thú học tập của các em thì không quá khó.
    Ngoài ra, việc cho các em được tận tay lắp ráp, tận mắt quan sát còn kích
    thích khả năng hứng thú, tò mò, phát huy các năng lực cần thiết cho học sinh
    đồng thời giúp các em thấy được sự phát triển của khoa học công nghệ, truyền
    niềm yêu thích lĩnh vực điện tử tới học sinh.
    Một trong những điểm thuận lợi nhất của Arduino là rất dễ để bắt đầu. giá
    thành để mua một bo mạch Arduino không quá cao, và chỉ với một bo mạch đó,
    ta có thể sử dụng, nạp code cho các mạch khác nhau tùy theo yêu cầu, mục đích
    của hệ thống.
    1.4. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và giáo dục STEM trong
    chương trình giáo dục phổ thông mới.
    1.4.1. Mục tiêu xây dựng chương trình giáo dục phổ thông 2018
    Theo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 có đề cập: “Chương
    trình giáo dục phổ thông với mục tiêu giúp học sinh làm chủ kiến thức, biết vận
    dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định
    hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp”. Và theo từng giai đoạn thì mỗi cấp học
    sẽ giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực riêng.
    Đối với chương trình giáo dục trung học phổ thông thì trên cơ sở giúp học
    sinh phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp
    tiểu học, trung học cơ sở thì ở cấp trung học phổ thông còn giúp học sinh phát
    triển khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp
    phù hợp với năng lực và sở thích, khả năng thích ứng với những thay đổi trong
    bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới.
    1.4.2. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực
    5
    Chương trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho học sinh
    những phẩm chất và năng lực như:
    Về phẩm chất gồm: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
    Về năng lực chung gồm: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp
    tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    Về năng lực đặc thù thì được hình thành và phát triển qua một số môn học và
    hoạt động giáo dục. Như môn Công Nghệ thì giúp học sinh hình thành và phát
    triển năng lực công nghệ gồm các thành phần: Nhận thức công nghệ, giao tiếp
    công nghệ, sử dụng công nghệ, đánh giá công nghệ, thiết kế kĩ thuật.
    1.4.3. Giáo dục STEM trong chương trình mới
    Giáo dục STEM vận dụng phương pháp học tập chủ yếu dựa trên thực hành
    và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, các phương pháp giáo dục linh hoạt như:
    dạy học qua dự án – chủ đề, học qua trò chơi, hay học qua thực hành là phương
    pháp luôn được các môn học tích hợp STEM áp dụng.
    Trong chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục STEM vừa mang tính thúc
    đẩy giáo dục ở các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học, vừa thể
    hiện phương pháp tiếp cận liên môn, phát triển năng lực và phẩm chất cho người
    học.
    Và việc đưa giáo dục STEM vào các môn học nói chung và công nghệ nói
    riêng đem đến cho người học nhiều kết quả như: giáo dục STEM đề cao đến
    việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong
    mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt trước một tình huống có vấn
    đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa học. Để giải quyết
    vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc các môn học
    có liên quan đến vấn đề và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra.
    Ngoài ra, giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học,
    đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát
    minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải
    biết cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù
    hợp với tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.
    Như vậy, với các lí do về chương trình môn học, phần mềm Arduino cũng
    như sự cần thiết của giáo dục STEM mà chương trình giáo dục phổ thông mới
    6
    hướng tới thì tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài “Sử dụng Arduino trong bài học
    STEM ở môn Công Nghệ lớp 12, nền tảng cho dạy học theo chuyên đề học
    tập ở chương trình giáo dục phổ thông mới”
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    (Nêu vấn đề cần giải quyết; Chỉ ra tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới
    so với giải pháp cũ; nêu cách thức thực hiện, các bước thực hiện của giải pháp
    mới một cách cụ thể, rõ ràng cũng như các điều kiện cần thiết để áp dụng giải
    pháp; Nêu rõ khả năng áp dụng vào thực tế của giải pháp mới và mang lại lợi
    ích thiết thực; ngoài ra có thể nêu rõ giải pháp còn có khả năng áp dụng cho
    những đối tượng, cơ quan, tổ chức nào)
    Nội dung này bao gồm:
    Phần 1: Giới thiệu chung về Arduino.
    Trong phần này, tôi giới thiệu một cách tổng quan về mạch Arduino UNO
    như hình dạng, sơ đồ các chân và thông số kĩ thuật của Arduino, cũng như các
    bước lập trình và chạy chương trình cho Arduino UNO
    Phần 2: Một số nét khái quát về dạy học STEM
    Phần này, tôi trình bày đầy đủ cơ sở lý luận và các hình thức tổ chức giáo dục
    STEM. Từ đó, đưa ra quy trình xây dựng, quy trình thiết kế tiến trình về một bài
    học STEM cũng như một số kĩ thuật bổ trợ cho việc giảng dạy theo quy trình
    thiết kế bài học STEM.
    Phần 3: Xây dựng chủ đề STEM cụ thể
    Để hiểu rõ hơn về dạy học STEM, tôi đã thực hiện một chủ đề STEM cụ thể
    là “HỆ THỐNG SỬ DỤNG CẢM BIẾN VẬT CẢN HỒNG NGOẠI”. Ở đây,
    tôi đi sâu vào từng bước từ việc mô tả chủ đề đến mục tiêu và tiến trình dạy học.
    Mỗi một hoạt động được triển khai rõ ràng theo từng bước diễn ra trên lớp hoặc
    ngoài giờ lên lớp, có hồ sơ học tập của học sinh ứng với từng hoạt động.
    7
    2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ARDUINO
    2.1.1. Tổng quan về Arduino
    Hình 2.1.1. Hình dạng Arduino UNO
    Hình 2.1.2. Sơ đồ các chân kết nối của Arduino UNO
    Arduino UNO R3 được xây dựng trên vi điều khiển ATmega328P. Có tổng
    cộng 14 chân digital (từ chân số 0 đến 13), và có thêm 6 chân tín hiệu Analog
    được đánh kí hiệu từ A0 – A5. Ở các chân này, chân 13 là chân đặc biệt vì nối
    trực tiếp với led trạng thái trên board.
    Arduino nói chung, chứa tất cả mọi thứ cần thiết để hỗ trợ các vi điều khiển,
    chỉ cần kết nối nó với một máy tính bằng cáp USB hoặc một bộ chuyển đổi điện
    AC-DC hoặc dùng Pin.
    8
    Board Arduino có thể tự động reset nhờ phần mềm thay vì phải ấn nút reset
    trước khi tải lên. Phần mềm Arduino sử dụng khả năng này để cho phép nạp
    code lên thông qua nút Upload trong Arduino IDE.
    Ngoài ra, khi sử dụng board Arduino có một số lưu ý như:
    – Trong quá trình lắp ráp mạch, để tránh xảy ra sai sót, báo lỗi trong khi nối
    dây vào chân linh kiện hay khi lập code ta cần dựa vào sơ đồ các chân cũng như
    dựa vào thông số kĩ thuật sau:
    + Thông số kĩ thuật:

    Thông số kĩ thuậtArduino UNO R3
    Chip vi điều khiểnATmega328P
    Điện áp cấp nguồn5v
    Điện áp đầu vào (kiến
    nghị)
    7 – 12v
    Điện áp đầu vào (giới hạn)6 – 20V
    Digital I/O pins14
    PWM Digital I/O6
    Analog Input Pins6
    Cường độ dòng điện
    trên mỗi I/O pin
    20mA
    Cường độ dòng điện
    trên mỗi 3.3v pin
    50 mA
    SRAM2 KB
    EFPROM1 KB

    + Nguồn vào cho board có thể lấy trực tiếp từ máy tính qua cổng USB, cũng
    có thể qua nguồn ngoài thông qua jack cắm tròn 5.5×2.1mm hoặc 2 chân Vin và
    GND với mức điện áp khoảng 9v là hợp lý.
    + Nút reset: mang dòng mức thấp để thiết lập lại vi điều khiển.
    Khi làm việc với Arduino board, một số thuật ngữ sau cần được lưu ý:
    Flash Memory: bộ nhớ có thể ghi được, dữ liệu không bị mất ngay cả khi tắt
    điện. Về vai trò, ta có thể hình dung bộ nhớ này như ổ cứng để chứa dữ liệutrên
    board. Chương trình được viết cho Arduino sẽ được lưu ở đây. Kíchthước của
    vùng nhớ này thông thường dựa vào vi điều khiển được sử dụng, ví dụ như
    9
    ATmega8 có 8KB flash memory. Loại bộ nhớ này có thể chịuđược khoảng
    10,000 lần ghi / xoá.
    RAM: tương tự như RAM của máy tính, sẽ bị mất dữ liệu khi ngắt
    điệnnhưng bù lại tốc độ đọc ghi xoá rất nhanh. Kích thước nhỏ hơn
    FlashMemory nhiều lần.
    EEPROM: một dạng bộ nhớ tương tự như Flash Memory nhưng có chu kì ghi
    / xoá cao hơn khoảng 100,000 lần và có kích thước rất nhỏ. Để đọc /ghi dữ liệu
    ta có thể dùng thư viện EEPROM của Arduino.
    2.1.2. Các bước lập trình và chạy chương trình cho Arduino UNO
    Để thiết kế một hệ thống minh họa (hệ thống đếm sử dụng cảm biến hồng
    ngoại) ta cần thực hiện qua các giai đoạn sau:
    * Giai đoạn 1: Thiết kế mạch điện mô phỏng
    Ta sử dụng phần mềm Proteus để thiết kế, vẽ sơ đồ mạch điện cho hệ thống.
    Với Proteus cho phép người sử dụng mô phỏng hoạt động của hệ thống mà
    không cần phải lắp ráp trên thực tế.
    Hình 2.1.3. Hình ảnh vẽ mạch điện với proteus
    * Giai đoạn 2: Lập trình điều khiển theo yêu cầu (xây dựng code)
    * Giai đoạn 3: Nạp code cho Arduino
    Để nạp một chương trình đơn giản cho Arduino UNO, trước tiên ta cần cài
    đặt Arduino IDE và Arduino drive. Khi phần mềm đã xong, ta cần chuẩn bị
    phần cứng gồm một board Arduino UNO R3 và một dây cáp để kết nối với máy
    tính. Sau đó, cần thực hiện theo các bước:
    10
    Bước 1: Kết nối Arduino với máy tính qua dây cáp.
    Hình 2.1.4. Kết nối Arduino UNO R3 với máy tính
    Bước 2: Tìm cổng kết nối của Arduino Uno R3 với máy tính.
    Khi Arduino Uno R3 kết nối với máy tính, nó sẽ sử dụng một cổng COM để
    máy tính và bo mạch có thể truyền tải dữ liệu qua lại. Windows có thể quản lí đến
    256 cổng COM. Để tìm được cổng COM đang được sử dụng để máy tính và
    mạch Arduino UNO R3 giao tiếp với nhau, ta phải mở chức năng Device
    Manager của Windows. Tiếp tục mở mục Ports (COM & LPT), ta sẽ thấy cổng
    COM Arduino Uno R3 đang kết nối.
    Hình 2.1.5. Cửa sổ Device Manager Hình 2.1.6. Cổng COM3 của Arduino
    Thông thường, Windows sẽ sử dụng lại cổng COM3 để kết nối nên ta không
    cần thực hiện thêm thao tác tìm cổng COM này ở những lần nạp sau nữa.
    Bước 3: Nạp chương trình cho arduino uno r3.
    Trước tiên ta thử nạp chương trình có sẵn trong arduino IDE trước thông qua
    các thao tác sau.
    11
    Hình 2.1.7. Thao tác chọn board Arduino đang sử dụng
    Chọn board Arduino đúng theo board đang sử dụng, ở đây là Arduino UNO.
    Tiếp theo vào menu Tools -> Serial Port -> chọn cổng Arduino đang kết nối với
    máy tính.
    Hình 2.1.8. Chọn cổng COM cho arduino IDE
    Hình 2. 1.9. Xác nhận cổng COM
    Xác nhận cổng COM của Arduino IDE ở góc dưới cùng bên phải cửa sổ làm
    việc. Tiếp tục vào menu Tools chọn Programmer sau đó chọn AVR ISP.
    12
    Hình 2.1.10. Cửa sổ chọn AVR ISP
    Tiếp theo, ta nạp mã nguồn chương cho arduino uno r3.
    Hình 2.1.11. Chương trình mẫu của arduino IDE
    Ở đây, ta mở mã nguồn Blink có sẵn của Arduino IDE. Chương trình này có
    chức năng là điều khiển đèn LED 13 màu cam trên mạch Arduino Uno R3 nhấp
    nháy với chu kì 1 giây.
    Hình 2.1.12. Cửa sổ chương trình “Blink”
    13
    Cuối cùng, ta nạp chương trình bằng cách nhấn đúp chuột vào chổ chỉ của
    dấu mũi tên để chương trình được nạp vào arduino uno r3.
    Hình 2.1.13: Cửa sổ nạp chương trình vào Arduino
    2.2. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ DẠY HỌC STEM
    2.2.1. Cơ sở lý luận
    2.2.1.1. Khái niệm STEM
    STEM là thuật ngữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology
    (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học). Sự phát triển
    về Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học được mô tả bởi chu trình STEM,
    trong chu trình đó thì Science là quy trình sáng tạo ra kiến thức khoa học (Quy
    trình khoa học); Engineering là quy trình sử dụng kiến thức khoa học để thiết kế
    công nghệ mới nhằm giải quyết các vấn đề (Quy trình kỹ thuật). Toán là công cụ
    được sử dụng để thu nhận kết quả và chia sẻ kết quả đó với những người khác.
    Hình 2.2.1. Chu trình STEM
    Như vậy, giáo dục STEM là một phương thức giáo dục nhằm trang bị, phát
    triển các năng lực đặc thù cho học sinh thông qua những kiến thức khoa học gắn
    liền với ứng dụng của chúng trong thực tiễn.
    14
    Ngoài ra, còn phát triển cho học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề
    tạo cho học sinh động lực học tập, tăng sự tích cực và hăng say trong học tập.
    Đây là nhân tố quan trọng giúp học sinh duy trì định hướng nghề nghiệp và sự
    kiên trì trong các lĩnh vực STEM. Giáo dục STEM còn được xem có ảnh hưởng
    tích cực đến thành công trong học tập và thái độ của học sinh trong trường lớp.
    2.2.1.2. Các hình thức tổ chức giáo dục STEM
    Các hình thức tổ chức giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông
    gồm:
    Hình 2.2.2. Các hình thức STEM
    – Dạy học các môn khoa học theo bài học STEM.
    – Hoạt động trải nghiệm STEM
    – Hoạt động nghiên cứu khoa học và sáng tạo khoa học kĩ thuật.
    Trong đề tài này, tôi đề cập và đi sâu vào hình thức dạy học các môn khoa
    học theo bài học STEM. Đây là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong
    nhà trường. Bài học theo chủ đề STEM gắn liền với việc giải quyết tương đối
    trọn vẹn một vấn đề, trong đó học sinh được tổ chức tham gia học tập một cách
    tích cực, chủ động và biết vận dụng kiến thức vừa học để giải quyết vấn đề đặt
    ra, thông qua đó góp phần hình thành phẩt chất năng lực cho học sinh.
    Giáo viên thiết kế các bài học STEM để triển khai trong quá trình dạy học
    các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng tiếp cận
    15
    tích hợp nội môn hoặc tích hợp liên môn. Nội dung bài học STEM bám sát nội
    dung chương trình của các môn học nhằm thực hiện chương trình giáo dục phổ
    thông theo thời lượng quy định của các môn học.
    Học sinh thực hiện bài học STEM được chủ động nghiên cứu sách giáo khoa,
    tài liệu học tập để tiếp nhận và vận dụng kiến thức thông qua các hoạt động: lựa
    chọn giải quyết vấn đề; Thực hành thiết kế, chế tạo thử nghiệm mẫu thiết kế;
    Chia sẻ, thảo luận, hoàn thiện hoặc điều chỉnh mẫu thiết kế dưới sự hướng dẫn
    của giáo viên.
    2.2.2. Quy trình xây dưng bài học STEM
    2.2.2.1. Quy trình xây dựng bài học STEM
    Bước 1: Lựa chọn nội dung học
    Để lựa chọn được nội dung phù hợp ta cần căn cứ vào nội dung kiến thức
    trong chương trình môn học cũng như và tình hình thực tiễn để xác định chủ đề
    dạy học phù hợp với nhận thức, khả năng tiếp thu và mức độ hữu ích của chủ đề
    đối với người học. Đồng thời, ở bước này giáo viên cũng cần sử dụng kinh
    nghiệm, kiến thức cá nhân để đưa ra một vấn đề, tình huống chân thực, gần gũi,
    có tính thực tế cao để liên kết với chủ đề STEM định giảng dạy.
    Bước 2: Xác định vấn đề giải quyết
    Sau khi đã lựa chọn được chủ đề STEM và kết nối chủ đề ấy với một vấn đề
    đã và đang tồn tại trong thực tế, giáo viên cần xác định cụ thể nhiệm vụ mà học
    sinh cần giải quyết trong bài học này. Đó có thể là nhiệm vụ sử dụng kiến thức
    để xác định và giải quyết vấn đề, hoặc vận dụng kĩ năng để kiến tạo sản phẩm.
    Bước 3: Xây dựng tiêu chí của sản phẩm/ giải pháp giải quyết vấn đề
    Các tiêu chí đánh giá kết quả học STEM của học sinh là tiêu chuẩn quan
    trọng để định hình một hoạt động STEM được coi là thành công. Dựa trên
    những tiêu chí này, học sinh cũng dễ dàng điều chỉnh hoạt động của mình để đáp
    ứng được những yêu cầu của bài học. Đồng thời, giáo viên cũng dễ dàng đánh
    giá quá trình và kết quả học tập của học sinh.
    Muốn lập được các tiêu chí đánh giá kết quả học STEM của học sinh một
    cách chuẩn xác, giáo viên cần xác định rõ mục tiêu chính của bài học và những
    mục tiêu phụ mong muốn học sinh đạt được.
    Một số tiêu chí đánh giá kết quả học STEM như:
    16
    – Mức độ chuẩn bị cho bài học
    – Mức độ đóng góp, đề xuất ý tưởng
    – Khả năng thực hiện, triển khai ý tưởng
    – Chất lượng của sản phẩm STEM.
    Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học
    Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học được thiết kế theo phương pháp và kĩ
    thuật dạy học tích cực với các hoạt động học bao hàm các bước của quy trình kĩ
    thuật. Mỗi hoạt động học được thiết kế rõ ràng về mục đích, nội dung, dự kiến
    sản phẩm học tập mà học sinh phải hoàn thành và cách thức tổ chức hoạt động
    học tập.
    Các hoạt động học tập đó có thể được tổ chức cả ở trong và ngoài lớp học.
    Giáo viên có thể định hướng, hỗ trợ hoạt động học tập của học sinh bên ngoài
    lớp học bằng các bài học điện tử…
    2.2.2.2. Quy trình thiết kế tiến trình bài học STEM
    Quy trình thiết kế dạy học STEM được thực hiện theo 8 bước, quy trình này
    quan trọng vì nó cho phép người học thử nghiệm, có thể thất bại, hai điều này
    tạo cơ hội để người học có thể quay lại và cải thiện ý tưởng ban đầu, cung cấp
    cho người học những bài học và kinh nghiệm quý giá.
    Hình 2.2.3. Quy trình thiết kế bài học STEM
    17
    Tuy tiến trình bài học STEM tuân thủ theo quy trình thiết kế ở trên, nhưng
    các bước trong quy trình có thể không cần thực hiện một cách tuần tự mà thực
    hiện song song, tương hỗ lẫn nhau. Hoạt động nghiên cứu kiến thức nền có thể
    được tổ chức thực hiện đồng thời với việc đề xuất giải pháp; hoạt động chế tạo
    mẫu có thể được thực hiện đồng thời với thử nghiệm và đánh giá; hoạt động chia
    sẻ và thảo luận có thể thực hiện đồng thời với điều chỉnh thiết kế.
    Mỗi bài học STEM có thể được tổ chức theo 5 hoạt động dưới đây. Trong đó,
    hoạt động 4 và 5 được tổ chức thực hiện một cách linh hoạt ở trong và ngoài lớp
    học theo nội dung và phạm vi kiến thức của từng bài học.Mỗi hoạt động phải
    được mô tả rõ mục đích, nội dung, dự kiến sản phẩm hoạt động của học sinh và
    cách thức tổ chức hoạt động.
    Nội dung hoạt động có thể được biên soạn thành các mục chứa đựng các
    thông tin như là nguyên liệu, kèm theo các lệnh hoặc yêu cầu hoạt động để học
    sinh tìm hiểu để giải quyết vấn đề đặt ra trong các hoạt động; Cách thức tổ chức
    các hoạt động thể hiện phương pháp dạy học, mô tả cách thức tổ chức từng mục
    của nội dung hoạt động để học sinh đạt được mục đích tương ứng.
    Như vậy, ứng với quy trình thiết kế bài học ở trên, có thể khái quát thành 5
    hoạt động như sau:
    Hoạt động 1: Xác định vấn đề
    Giáo viên giao cho học sinh nhiệm vụ học tập chứa đựng vấn đề. Trong đó
    học sinh phải hoàn thành một sản phẩm học tập hoặc giải quyết một vấn đề cụ
    thể với các tiêu chí đòi hỏi học sinh phải sử dụng kiến thức mới trong bài học để
    đề xuất, xây dựng giải pháp. Tiêu chí của sản phẩm là yêu cầu hết sức quan
    trọng, buộc học sinh phải nắm vững kiến thức mới thiết kế, giải thích được thiết
    kế cho sản phẩm cần làm.
    Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất giải pháp
    Tổ chức cho học sinh thực hiện hoạt động trải nghiệm khám phá qua 1 số thí
    nghiệm hay hệ thống mạch nào đó liên quan đến chủ đề để học sinh có thể đúc
    kết một giả thuyết.
    Sau đó, học sinh tiếp tục nghiên cứu tài liệu, xem clip liên quan và tìm hiểu
    những kiến thức khoa học có liên quan để giải quyết vấn đề.
    18
    Cuối cùng, để đề xuất được các giải pháp thì học sinh cần thảo luận để cùng
    nhau đưa ra các ý tưởng, giải pháp liên quan đến chủ đề.
    tích cực, tăng cường mức độ tự lực tùy thuộc từng đối tượng học sinh dưới sự
    hướng dẫn một cách linh hoạt của giáo viên. Khuyến khích học sinh hoạt động
    tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức để sử dụng vào việc đề xuất, thiết kế sản phẩm.
    Hoạt động 3: Lựa chọn giải pháp
    Tổ chức cho học sinh trình bày, giải thích và bảo vệ bản thiết kế kèm theo
    thuyết minh (sử dụng kiến thức mới và kiến thức đã có); giáo viên nhắc lại các
    tiêu chí cho sản phẩm, góp ý, chú trọng việc chỉnh sửa và xác thực các thuyết
    minh của học sinh để học sinh nắm vững kiến thức mới. Đồng thời, các nhóm
    dựa trên các tiêu chí để đánh giá ưu, nhược điểm của giải pháp. Cuối cùng là lựa
    chọn giải pháp.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT