Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • Một số biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3 4 tuổi

    Một số biện pháp phát triển thẩm mỹ cho trẻ 3 4 tuổi

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • Một số biện pháp xây dựng video audio, hướng dẫn phụ huynh chăm sóc, giáo dục và vui chơi cùng trẻ trong thời gian nghỉ dịch covid 19 tại gia đình

    Một số biện pháp xây dựng video audio, hướng dẫn phụ huynh chăm sóc, giáo dục và vui chơi cùng trẻ trong thời gian nghỉ dịch covid 19 tại gia đình

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    Dịch bệnh COVD-19 kéo dài đã tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống
    xã hội, giáo dục là một trong những ngành chịu tác động, ảnh hưởng tiêu cực
    nhiều nhất của dịch COVID-19, đặc biệt là cấp học mầm non. Trong bối cảnh đó
    nhằm tích cực hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước đoàn kết, chung sức,
    đồng lòng, chống và chiến thắng đại dịch COVID-19” do Thủ tướng Chính phủ
    phát động; Tuyên truyền, vận động cán bộ, giáo viên, nhân viên tích cực thực
    hiện phong trào “Ngành Giáo dục và Đào tạo Nam Định chung tay đẩy lùi dịch
    bệnh Covid-19, vượt mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học
    2021-2022” của ngành Giáo dục; Thực hiện phương châm “Tạm dừng đến
    trường, không tạm dừng học”
    Tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp nên các cơ sở giáo dục
    mầm non tạm dừng việc đón trẻ đến trường tổ chức chăm sóc, giáo dục trực tiếp
    theo chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo. Việc ở nhà và tách khỏi môi trường
    giáo dục sẽ làm cho trẻ có một số ảnh hưởng nhất định, nhiều trẻ em gặp tình
    trạng chậm nói, ngại giao tiếp, khả năng kết nối, tương tác, tình cảm xã hội, vận
    động sức khỏe, sẽ gây ra các khiếm khuyết về tinh thần và thể chất. Thậm chí,
    khiến trẻ mắc bệnh trầm cảm, tự kỉ. Các hoạt động về thể chất giảm, làm giảm
    sức đề kháng của trẻ, tăng khả năng gặp các vấn đề về tim mạch và cân nặng. Về
    phát triển trí tuệ, việc thiếu vắng các tương tác xã hội đa dạng còn làm giảm chỉ
    số trí tuệ IQ, giảm các phản xạ xử lý thông tin từ môi trường…; ảnh hưởng
    nghiêm trọng đến việc đảm bảo chất lượng chương trình giáo dục mầm non, đặc
    biệt là việc chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi sẵn sàng vào học lớp Một. Do đó, việc triển
    khai hình thức kết nối, phối hợp, hướng dẫn, hỗ trợ phụ huynh nuôi dưỡng,
    chăm sóc, giáo dục trẻ em tại nhà là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết,
    2
    đặc biệt trong thời gian trẻ ở nhà tránh dịch bệnh covid 19, hình thức này giúp
    trẻ giữ thói quen học, chơi, sinh hoạt khoa học, đặc biệt là phát triển các kỹ
    năng, thể chất, thẩm mỹ, ngôn ngữ, nhận thức và tìm hiểu môi trường xung
    quanh. Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi lên 5 đang ở giai đoạn hết sức quan trọng, đây là
    bước chuyển tiếp vào lớp 1 của trẻ em. Vì vậy, các trường cần phối hợp, hướng
    dẫn, hỗ trợ phụ huynh lựa chọn những nội dung học tập phù hợp để trẻ có tâm
    thế sẵn sàng bước vào lớp học đầu tiên của cấp tiểu học.
    Để chủ động ứng phó với diễn biến khó lường của dịch COVID-19, ngay từ
    đầu năm học trường mầm non Trực Mỹ đã thực hiện theo công văn chỉ đạo
    Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Trực Ninh về việc chủ động xây dựng hai
    phương án tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ khi trẻ đến trường học
    trực tiếp và khi trẻ phải tạm thời nghỉ học tại nhà. Do đó, Trường mầm non Trực
    Mỹ đã linh hoạt thích ứng hiệu quả khi chuyển đổi hình thức tổ chức nuôi
    dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ trực tiếp sang hình thức phối hợp, hướng dẫn, hỗ
    trợ phụ huynh nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ tại gia đình.
    Để đảm bảo thực hiện Chương trình Giáo dục mầm non, ứng phó linh hoạt,
    hiệu quả với dịch Covid-19 Căn cứa vào điều kiện thực tế tại trường Mầm non
    Trực Mỹ trong thời gian học sinh nghỉ dịch Covid – 19 nhà trường đã chỉ đạo
    100% giáo viên chủ nhiệm lớp hình thành các nhóm qua mạng giữa giáo viên và
    các phụ huynh để chia sẻ, tư vấn việc nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ em. Các
    nhóm zalo, youtube, facebook, messenger… giữa giáo viên và các phụ huynh sẽ
    giúp chia sẻ, tư vấn việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non tại gia
    đình phù hợp với từng độ tuổi để trao đổi, nắm bắt tình hình sức khỏe hàng
    ngày; tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn phụ huynh thực hiện chế độ
    dinh dưỡng, sinh hoạt khoa học, hợp lý và tổ chức cho trẻ em hoạt động vui chơi
    tại gia đình, tư vấn việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em tại gia đình, đảm
    bảo an toàn, không ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và thể chất của trẻ em.
    3
    Là tổ trưởng phụ trách chuyên môn bản thân tôi nhận thức sâu sắc rằng để
    nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại nhóm, lớp mình đang phụ trách
    nói riêng, chất lượng của nhà trường nói chung đặc biệt là trong thời gian trẻ
    nghỉ dịch tại nhà, rất cần sự phối kết hợp chặt chẽ vào cuộc từ Ban giám hiệu,
    giáo viên và chính cha mẹ trẻ. Và đây chính là yếu tố thúc đẩy tôi nghiên cứu đề
    tài “Một số biện pháp xây dựng Video/audio hướng dẫn phụ huynh chăm sóc,
    giáo dục và vui chơi cùng trẻ tại gia đình trong thời gian nghỉ dịch Covid -19”.
    II. Mô tả giải pháp:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Ngay từ đầu năm học 2021-2022, tôi được nhà trường phân công nhiệm vụ
    dạy lớp 5 tuổi A1 với tổng số 33 trẻ. Thời điểm đó dịch bệnh covid còn đang
    căng thẳng ảnh hưởng đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non trên địa bàn
    tỉnh Nam Định. Nhà trường đã chỉ đạo tới toàn thể giáo viên chủ động xây dựng
    hai phương án tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ khi trẻ đến trường
    học trực tiếp và khi trẻ phải tạm thời nghỉ học tại nhà. Để có thể triển khai việc
    giáo dục trẻ tại nhà, tập thể giáo viên trường Mầm non Trực Mỹ đã phải nỗ lực
    tìm tòi và đưa ra các hình thức giáo dục cho phù hợp với tình hình mới.
    Do đó ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện, tổ chức cho
    giáo viên tham gia học tập chuyên môn về công tác công nghệ thông tin để xây
    dựng video ứng phó linh hoạt với diễn biến phức tạp của dịch bệnh.
    Phòng giáo dục và Đào tạo huyện Trực Ninh luôn quan tâm tạo điều kiện
    để bản thân tôi tham gia các lớp tập huấn chuyên môn của giáo viên cốt cán.
    Trên cơ sở đó, Ban giám hiệu đã tiến hành chọn, phân công giáo viên thực
    hiện xây dựng video hướng dẫn phụ huynh dạy trẻ tại nhà. Sau đó tận dụng các
    nền tảng mạng xã hội để đăng tải nhằm phổ biến rộng rãi đến tất cả phụ huynh
    những kiến thức cần thiết trong chăm sóc, giáo dục trẻ tại nhà. Bên cạnh đó, do
    đã có danh sách trẻ, số điện thoại của phụ huynh, nên đã tạo các nhóm/lớp trên
    Zalo để gửi các video này cho các phụ huynh”.
    4
    Mới đầu bản thân tôi và các đồng nghiệp còn bỡ ngỡ, không biết phải xuất
    hiện trong video, clip như thế nào cho đẹp và phù hợp, chưa thực sự tự tin trước
    máy quay, chưa biết sử dụng các phần mềm để chỉnh video. Ngoài ra để tạo ra
    được một video thì cần có đầy đủ các yếu tố về thời lượng, âm thanh, ánh sáng,
    cảnh quay, nội dung phù hợp. Trước những thực trạng đó thì cần có các giải
    pháp để tạo ra một video hoàn chỉnh.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    Biện pháp 1: Ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng video kết nối, hướng
    dẫn phụ huynh dạy trẻ tại nhà.
    Trong giai đoạn trẻ tạm dừng đến trường để phòng chống dịch bệnh Covid-
    19, thì việc ứng dụng CNTT vào công tác chuyên môn là vô cùng cần thiết. Với
    vai trò là tổ trưởng chuyên môn và là một giáo viên trực tiếp dạy trẻ, tôi luôn tìm
    tòi đưa những phần mềm công nghệ ứng dụng CNTT để kết nối với phụ huynh
    học sinh cũng như với trẻ từ việc tạo video clip, đến việc tạo phòng họp trực
    tuyến… Tôi đã phối hợp với ban giám hiệu có kế hoạch cụ thể về kế hoạch
    tương tác online, phân công thiết kế bài giảng, Để cùng nhau hỗ trợ, tháo gỡ khó
    khăn về khâu kĩ thuật trong quá trình quay, xử lý video, audio trước khi chia sẻ
    đến phụ huynh, nhà trường triển khai tập huấn hướng dẫn giáo viên cách sử
    dụng một số phần mềm quay, chỉnh sửa video, audio, kĩ thuật quay, ghi âm…;
    cách sử dụng phần mềm tương tác để tổ chức hoạt động sinh hoạt chuyên môn,
    trao đổi với phụ huynh như: zoom, google meet, zalo, facebook; hướng dẫn
    giáo viên xây dựng, sử dụng tài liệu, học liệu chuyên môn trực tuyến.
    5
    Hình ảnh cán bộ, giáo viên trường MN Trực Mỹ tham gia tập huấn hướng dẫn CNTT
    Tự tìm tòi, học hỏi các phần mềm trên mạng như: Camtasia, Canva, powerpoint,
    sử dụng phần mềm Cupcut hoặc Kinemaster để chỉnh sửa video. Cupcut hiện
    nay là phần mềm chỉnh sửa video trên điện thoại dễ sử dụng nhất, nhiều chức
    năng đáp ứng xu hướng nhất). Sử dụng canva để chình sửa ảnh chuyên nghiệp.
    Để ứng dụng có hiệu quả các phần mềm tôi đã tham khảo Youtobe xem hướng
    dẫn cách tạo ra các video hoàn chỉnh từ âm thanh đến chất lượng hình ảnh .
    Ứng dụng tốt công nghệ thông tin tôi đã tìm tòi lựa chọn các hình ảnh nền
    đẹp mắt phù hợp với độ tuổi mầm non tải về để tạo hình nền và tham khảo
    những bài nhạc hay, vui nhộn, lựa chon các hiệu ứng phù hợp để ghép vào
    video.
    Lựa chọn hoạt động phù hợp với nhóm tuổi, xây dựng kịch bản, viết lời
    dẫn, quay hình, tiếp đến là xử lý hậu kỳ để thành một bài giảng hoàn chỉnh, bảo
    đảm 4 yếu tố: theo chương trình khung của Bộ GD-ĐT, có tính khoa học, tính
    thực tiễn và tính giáo dục cao. Đó là những kỹ năng mới mà tôi cùng chị em
    đồng nghiệp đã phải tập huấn, học tập, nghiên cứu nhiều mới có được video đảm
    bảo chất lượng để gửi tới phụ huynh và trẻ.
    Việc ứng dụng tốt công nghệ thông tin đã giúp tôi chỉnh sửa về câu từ trong
    video, hình ảnh trong clip, những có vấn đề về hình ảnh, chất lượng âm thanh
    hay những nội dung bài giảng cần chỉnh sửa để mục đích duy nhất làm sao có
    được các video chất lượng tốt nhất.
    Biện pháp 2: Xây dựng kịch bản chuẩn bị công cụ ghi hình
    Để có một video hoàn chỉnh kết nối tới phụ huynh việc đầu tiên là tôi lựa
    chọn nội dung sau đó tiến hành xây dựng kịch bản, xây dựng các cảnh quay lần
    lượt từ đầu video cho tới khi kết thúc. Khi đã xây dựng kịch bản tôi sẽ tiến hành
    quay video dựa theo kịch bản đó.
    Kịch bản video kết nối với phụ huynh dạy trẻ tại nhà.
    6
    Hoạt động: Gấp quần áo
    Cảnh 1: Lời chào/lời mở đầu (30s)
    – Giới thiệu tên hoạt động, lứa tuổi trẻ có thể thực hiện
    – Chia sẻ với phụ huynh về mục tiêu của bài học/hoạt động. Vì sao nên cùng
    con thực hiện hoạt động này?
    Lời dẫn: Cô Mai rất vui khi được đồng hành cùng quý phụ huynh trong việc tổ
    chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non tại gia đình.
    – Trẻ nhỏ nên được phát triển tính ngăn nắp cẩn thận từ nhỏ. Để các con có thể
    tích cực hỗ trợ phụ huynh làm việc nhà, đồng thời gắn kết thêm tình cảm giữa
    phụ huynh và con cái, phụ huynh có thể cùng con làm một số công việc phù hợp
    ví dụ gấp quần áo. Sau đây là hoạt động phụ huynh tương tác, hướng dẫn con
    gấp quần áo.
    Mục tiêu bài học:
    – Giúp đôi bàn tay trẻ khéo léo, rèn luyện tính cẩn thận, gọn gàng, ngăn nắp.
    – Hình thành ở trẻ thói quen tự phụ vụ bản thân.
    – Khi được làm việc cùng phụ huynh sẽ tạo ra ở trẻ những cảm xúc tích cực, trẻ
    sẽ cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc.
    Cảnh 2: Giới thiệu các vật dụng cần chuẩn bị (15s)
    Chuẩn bị đạo cụ: – Một số quần áo trẻ thường mặc.
    – Bàn thấp hoặc thảm, giường.
    Cảnh 3: Cách thức thực hiện hoạt động (4 phút)
    Tiến hành:
    Cảnh 4: Trao đổi về một số lưu ý với phụ huynh khi thực hiện (1 phút)
    – Quần áo nhiều màu sắc, hình dạng giúp kích thích thị giác và khả năng khám
    phá thế giớixung quanh ở trẻ rất nhiều. Khi gập quần áo, trẻ cảm nhận được độ
    7
    cứng – mềm và nhẵn–xù xì của từng loại quần áo, giúp trẻ phát triển xúc giác tốt
    hơn. Với hoạt động gấp quần áo, phụ huynh ở nhà hoàn toàn có thể hướng dẫn
    con cách gấp các loại quần áo khác nhau như: áo dài tay, quần dài, áo khoác …
    Từ đó hàng ngày giao nhiệm vụ gấp quần áo cho con bằng cách khuyến khích
    con tự gấp quần áo của mình. Và đừng quên khen ngợi khi con hoàn thành công
    việc. Đặc biệt phụ huynh hãy dành trọn tâm trí, tận hưởng khoảnh khắc vui chơi
    và làm việc bên con.
    * Chuẩn bị công cụ ghi hình – thu âm:
    Chuẩn bị tốt các công cụ ghi hình – thu âm giúp tôi chủ động thực hiện tốt
    hơn, quá trình quay diễn ra mạch lạc không bị gián đoạn. Một số công cụ như
    chân máy, micro… không chỉ giúp video ổn định và đẹp hơn, mà còn tiết kiệm
    công sức cho tôi bớt những công việc phát sinh như cầm giữ máy, thu âm
    thêm…
    Tôi lựa chọn lựa chọn công cụ ghi hình và thu âm là điện thoại thông minh.
    Khi ghi hình và thu âm đáp ứng mục tiêu bài hướng dẫn tôi lưu ý nội dung sau:
    – Chuẩn bị dung lượng lưu trư lớn:
    + Trung bình mỗi video kéo dài 1 phút ở độ phân giải Full HD 1080p với 30
    khung hình/giây (tiêu chuẩn) sẽ chiếm khoảng 130MB bộ nhớ. Do đó để thu một
    video bải giảng khoảng 5 phút, tôi cần có sẵn tối thiểu 700MB bộ nhớ trong điện
    thoại thông minh.
    – Chuẩn bị địa điểm ghi hình
    – Bố trí cảnh quay phù hợp
    – Chuẩn bị đồ dùng
    Biện pháp 3: Xây dựng video, clip, dựa theo các tiêu chí về thời lượng, kỹ
    thuật và nội dung
    Để có một video khoa học, bắt mắt và đảm bảo về thời lượng, nội dung phù
    hợp tôi đã xây dựng video dựa vào các tiêu chí sau:
    + Thời lượng (từ 5 đến 10 phút)
    8
    Thời lượng từ 5- 10 phút là vừa đủ để phụ huynh có thể cùng trẻ tham gia vào hoạt
    động cùng giáo viên mà không nhàm chán, không ảnh hưởng nhiều đến thời gian của
    phụ huynh.
    + Kỹ thuật: Chất lượng, hình ảnh, ánh sáng , hiệu ứng, cắt ghép chỉnh sửa video
    hợp lí.
    Để có chất lượng hình ảnh đẹp cần điều chỉnh độ sáng của màn hình vừa
    phải, vừa đủ để nhìn rõ. Video cần đủ sáng để nhìn rõ biểu cảm khuôn mặt, khẩu
    hình và các thao tác hướng dẫn của giáo viên. Với cảnh quay sản phẩm, ánh
    sáng cần đủ để làm rõ các chi tiết như màu sắc, của sản phẩm. Muốn làm rõ hơn
    các chi tiết cho phụ huynh và trẻ xem có thể di chuyển máy quay thật chậm
    xung quanh sản phẩm đề cảnh quay thêm sinh động. Đảm bảo phòng quay có
    đầy đủ ảnh sáng
    – Khi quay video tôi luôn lưu ý:
    + Đặt máy quay cố định bằng kẹp hoặc chân quay điện thoại
    + Chú ý ánh sáng.
    + Không bao giờ quay video ở định dạng dọc (Quay định dạng khung hình
    ngang chữ nhật 16:9 rộng khung hình, thay vì khung hình vuông 4: 3 sẽ bị hẹp
    gây mất mĩ quan).
    + Quay video thành từng đoạn theo các phần đã chia, Nếu sai chỉ quay lại 1
    phần không quay lại từ đầu gây mất thời gian, căng thẳng.
    + Khi thực hiện các hoạt động cần quay cận cảnh cô thực hiện, nên quay riêng 1
    video cận cảnh cô thực hiện để chèn vào.
    Phân nhỏ các cảnh quay và chia lời dẫn thành nhiều cảnh nhỏ theo từng
    phần của bài hướng dẫn và quay từng cảnh, sau đó ghép lại. Cách này giúp tôi
    không cần nhớ quá nhiều lời thoại, có thể tập trung vào biểu cảm và diễn đạt nội
    dung thoải mái hơn, giúp video thêm sinh động và hấp dẫn.
    + Chất lượng âm thanh tốt

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ 5 6 tuổi hoạt động tạo hình

    Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ 5 6 tuổi hoạt động tạo hình

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Năm học 2021 – 2022 tôi được nhà trường phân công là giáo viên giảng dạy
    khối MGL (5 – 6 tuổi). Ở lứa tuổi này trẻ rất sáng tạo, thích khám phá và hoạt
    động tạo hình là một trong những hoạt động vô cùng hấp dẫn đối với trẻ mẫu giáo
    lớn nó giúp trẻ tìm hiểu thêm và khám phá một cách sinh động những gì mà trẻ
    nhìn thấy trong thế giới xung quan, với mỗi trẻ em nói chung trẻ Mầm non nói
    riêng đều có tâm hồn nhạy cảm với thế giới xung quanh. Thế giới xung quanh
    chứa đựng bao điều mới lạ, hấp dẫn. Trẻ thường tỏ ra dễ xúc cảm với cảnh vật
    xung quanh, trẻ dễ bị lôi cuốn trước những cảnh vật có nhiều màu sắc, hay một
    bức tranh sống động. Với đặc điểm như vậy nên năng khiếu của trẻ được nảy sinh
    ngay từ tuổi ấu thơ. Chính vì vậy việc giáo dục thẩm mỹ cần được bồi dưỡng
    ngay từ lứa tuổi MG để ươm những tài năng nghệ thuật trong tương lai.
    Trước hết hoạt động tạo hình giúp cho trẻ phát triển và tìm hiểu các đối
    tượng được miêu tả, để có được sự hiểu biết và hình dung về các đối tượng,
    nhằm phát triển ở trẻ khả năng hoạt động trí tuệ.
    Ngoài ra hoạt động tạo hình của trẻ trong trường Mầm non chính là một
    phương tiện phát triển thẩm mỹ cho trẻ, để hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu
    về hoạt động học tập, trong các hoạt động vẽ, nặn, xé, dán. Thông qua hoạt động
    này giúp trẻ phát triển các chức năng tâm lý, và khả năng tri giác các sự vật hiện
    tượng xung quanh, từ đó phát triển tư duy và quá trình đó làm phát triển óc
    tưởng tượng và ham muốn tạo ra cái đẹp sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng
    cao chất lượng giáo dục trong nhà trường đối với từng nhóm lớp, những sản
    phẩm trẻ tạo ra tuy rất đơn giản nhưng lại hàm chứa sự ngộ nghĩnh và sinh động
    trong việc tổ chức hoạt động tạo hình đã mang lại hiệu quả tốt vào việc phát
    triển nhân cách trẻ nhưng thật sự chưa đáp ứng và chưa phát huy hết những kỹ
    năng sáng tạo mà còn tính áp đặt, dập khuân máy móc vào sự linh hoạt của
    người giáo viên, khi tổ chức hoạt động tạo hình thì người giáo viên phải làm gì?
    Làm như thế nào? Để trẻ có thể mạnh dạn tự tin tạo ra những sản phẩm đẹp và
    mang tính sáng tạo.
    2
    Nhận thức được nhiệm vụ và trách nhiệm to lớn ấy của người giáo viên
    Mầm non trong giai đoạn phát triển hiện nay tôi đã trải qua một quá trình nghiên
    cứu và tìm tòi tích cực học hỏi và vận dụng một số kinh nghiệm nâng cao chất
    lượng cho trẻ động tạo hình. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số biện
    pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi hoạt động tạo hình”.
    II. Mô tả giải pháp kỹ thuật
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi
    hoạt động tạo hình”. tôi đã áp dụng tại lớp 5 tuổi C nơi tôi được phân công
    giảng dạy. Bằng những kinh nghiệm của bản thân và những kiến thức đã học hỏi
    được từ khi vào ngành tôi luông áp dụng những biện pháp tích cực qua công tác
    chăm sóc giáo dục trẻ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phát triển thẩm mỹ
    cho trẻ hướng đến việc: “Lấy trẻ làm trung tâm”.
    Đối với bản thân tôi, qua hàng năm tôi luôn bám sát các văn bản hướng dẫn
    của các cấp nên đó xây dựng kế hoạch lồng ghép các hoạt động lấy trẻ làm trung
    tâm, trường học thân thiện xanh, xạch, đẹp, an toàn vào công tác giảng dạy.
    Để tổ chức có hiệu quả trong hoạt động phát triển thẩm mỹ giúp trẻ ngày
    càng tích cực tham gia, tạo ra một hoạt động thật bổ ích đó là điều không đơn
    giản. Khi thực hiện đề tài này tôi nhận thấy ở lớp tôi có những thuận lợi và
    những khó khăn sau:
    a)Thuận lợi :
    + Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện
    thuận lợi cho giáo viên và học sinh trong các hoạt động giáo dục
    + Giáo viên trong cùng một lớp luôn quan tâm san sẻ những khó khăn, vất
    vả cùng với nhau.
    + Bản thân cũng có nhiều cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn luyện nâng
    cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, làm nhiều đồ dùng đồ chơi tự tạo theo chủ
    đề phục vụ cho các góc chơi.
    + Cơ sở vật chất khang trang, phòng học được xây dựng kiên cố có công
    trình vệ sinh khép kín, đồ dùng đồ chơi an toàn, phù hợp với điều kiện thực tế,
    3
    đáp ứng nhu cầu chơi của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ hoạt động tích cực, chơi mà
    học, học bằng chơi.
    + Luôn lồng ghép tích hợp một số môn học khác vào mỗi tiết học, tạo điều
    kiện cho các cháu được hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
    + Bản thân yêu nghề, mến trẻ, luôn tìm tòi những cái mới để giúp trẻ phát
    triển toàn diện, giúp trẻ thông qua các hoạt động hoàn thiện nhân cách của mình
    hơn, trau dồi cho trẻ thêm vốn hiểu biết một cách tự nhiên trong các hoạt động
    học và chơi.
    b)Khó khăn:
    + Trang thiết bị đồ dùng dạy học chưa phong phú, chưa hấp dẫn trẻ.
    + Sự quan tâm đến trẻ ở một số phụ huynh chưa đồng đều, còn xem nhẹ
    việc đầu tư cho trẻ hoạt động tạo hình: Với vị thế là vùng quê ven biển hầu như
    các bậc phụ huynh làm nghề tàu thuyền đánh bắt nên có rất ít thời gian quan tâm
    đến con em mình. Một số gia đình còn khó khăn,…
    + Trẻ ở lớp vẫn chưa đồng đều về chất lượng, có trẻ thì rất hứng thú còn có
    một số trẻ chưa có hứng thú tập trung, còn nhút nhát trong khi thể hiện ý tưởng
    của mình, chọn lựa góc chơi.
    + Số lượng trẻ đến lớp đông nên việc bao quát của giáo viên còn chưa sâu sát.
    +Một số trẻ kĩ năng tạo hình còn kém, trẻ chưa chủ động sáng tạo.
    + Việc sưu tầm đồ dung, vật dụng phục vụ cho môn tạo hình còn hạn chế.
    + Một vài năm vừa qua dịch bệnh covid hoành hành làm cho việc trẻ đến
    trường bị dán đoạn làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy học của cô.
    =>Từ nhận thức về tầm quan trọng của việc dạy trẻ học môn tạo hình và
    thực tế trẻ trên lớp, từ yêu cầu chỉ đạo của ngành về cải tiến phương pháp giảng
    dạy theo quan điểm tích hợp “lấy trẻ làm trung tâm” dựa vào kết quả mong đợi
    trên trẻ. Vì vậy tôi luôn suy nghĩ phải làm thế nào dạy trẻ tham gia hoạt động tạo
    hình để không còn tồn tại của phương pháp cũ và cần thiết tìm ra một số biện
    pháp nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình cho trẻ 5-6 tuổi nhằm giúp trẻ tích
    cực tham gia chơi, hoạt động tạo hình có hiệu quả.
    4
    *Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài
    Đầu năm học 2021 – 2022 tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh lớp
    5 tuổi C để nắm bắt được khả năng tạo hình của trẻ. Kết quả khảo sát như sau:

    Nội dung khảo sátTốtKháTrung bìnhYếu
    Số
    trẻ
    Tỷ lệ
    %
    Số
    trẻ
    Tỷ lệ
    %
    Số trẻTỷ lệ
    %
    Số trẻTỷ lệ
    %
    1.Khả năng chú ý616,71541,6925616,7
    2.Kỹ năng vẽ, cắt,
    xé dán, nặn, gắn
    ghép.
    513,81027,81027,81130,6
    3.Khả năng phối
    hợp màu
    513,8719,41438,91027,8
    4.Bố cục tranh513,8616,71541,61027,8
    5.Nhận xét sản
    phẩm
    38,3513,81027,81850

    + Qua quá trình quan sát ban đầu như trên, tôi thấy kết quả đạt chưa cao là
    điều tôi cần suy nghĩ làm thế nào để trẻ đạt hiệu quả cao và tạo cho trẻ một cách
    thoải mái tự tin, không gò bó, trẻ luôn hứng thú trong giờ học, tôi lên kế hoạch
    nâng cao kỹ năng vẽ của trẻ, trong giờ học tôi luôn quan tâm đến các cháu vẽ
    trung bình, vẽ yếu nhiều hơn bằng cách gợi ý từng bước, động viên kịp thời để
    tạo hứng thú cho trẻ .
    + Để hình thành kỹ năng vẽ, nặn, xé dán, gắn cho trẻ yếu, tôi lên kế hoạch
    rèn trẻ vào buổi chiều, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời. Trong giờ học vẽ tôi
    xếp những trẻ khá ngồi cạnh trẻ yếu để trẻ yếu học hỏi trẻ khá.
    5
    + Đối với trẻ khá, tôi gợi ý, khuyến khích trẻ phát huy trí tưởng tượng sáng
    tạo của trẻ để trẻ tạo ra nhiều bức tranh đẹp.
    + Vì vậy tôi luôn suy nghĩ phải làm thế nào dạy trẻ tham gia hoạt động tạo
    hình một cách hứng thú và tìm ra một số biện pháp hoạt động tạo hình cho trẻ 5-
    6 tuổi để góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng
    về lĩnh vực phát triển thẩm mỹ.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    – Sau khi thực hiện sáng kiến tôi đã đưa ra được các điểm mới khắc phục
    được những tồn tại, hạn chế của các giải pháp cũ như sau:
    +Giáo viên có sự chủ động, sáng tạo, có kế hoạch cụ thể, chi tiết, linh hoạt
    trong việc lựa chọn nội dung và hình thức tổ chức thực hiện các hoạt động tạo
    hình đạt hiệu quả giáo dục cao.
    +Tạo được môi trường giáo dục cho trẻ đa dạng, phong phú đạt kết quả,
    phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo, mạnh dạn tự tin cho trẻ.
    +Trẻ mạnh dạn tự tin linh hoạt trong các hoạt động tạo hình mà cô tổ chức,
    trẻ phát huy tối đa sự sáng tạo, hình thành được các kỹ năng một cách chủ động ,
    trẻ không còn thụ động trong các hoạt động mà phát huy được vai trò chủ thể
    của cá nhân.
    +Phụ huynh hiểu được ý nghĩa , lợi ích, tầm quan trọng của việc rèn luyện
    và phát huy khả năng sáng tạo, mạnh dạn tự tin trong các hoạt động tập thể cũng
    như trong sinh hoạt hàng ngày từ đó ủng hộ phối hợp với giáo viên trong chăm
    sóc giáo dục trẻ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
    =>Vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp phát huy khả năng sáng
    tạo, mạnh dạn tự tin qua các hoạt động tạo hình để áp dụng vào việc thực hiện
    việc nâng cao chất lượng giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ trong năm học
    2021 – 2022 được tốt hơn, hiệu quả hơn.
    2.1. Biện pháp1: Tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ vềnâng
    cao hất lượng lĩnh vực tạo hình cho trẻ
    – Để thực hiện tốtnhững biện pháp nâng cao hất lượng lĩnh vực tạo hình cho
    trẻ trước hết bản thân mỗi giáo viên mầm non cần nhận thức rõ về tầm quan
    6
    trọng của việc nâng cao hất lượng lĩnh vực tạo hìnhcho trẻ. Không ngừng tự học
    tập bồi dưỡng thường xuyên và nghiên cứu chương trình GDMN theo thông tư
    28/2016 và giáo dục trẻ mầm non theo độ tuổi mình đang dạy nhằm trang bị cho
    mình những kiến thức cơ bản nhất, từ đó nắm được đặc điểm thẩm mỹ, nhận
    thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội của trẻ, trên cơ sở đó mới lồng ghép,
    tích hợp việc hoạt động tạo hình cho trẻ một cách phù hợp. Ngoài ra, trẻ ở độ
    tuổi 5-6 tuổi thường có sự sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, rất thích bắt
    chiếc theo n gười lớn.Chính vì vậy những người trực tiếp dạy trẻ càng cần là
    sáng tạo trong hoạt động, trao dồi kiến thức kĩ năng mọi lúc mọi nơi.Đây là
    những yêu cầu rất cao và đòi hỏi người giáo viên cũng luôn phải tự sáng tạo, tìm
    tòi để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn.
    – Tham gia đầy đủ các đợt kiến tập và các chương trình bồi dưỡng chuyên
    đề do phòng giáo dục, cụm, trường tổ chức.
    – Đưa những nội dung nâng cao chất lượng lĩnh vực tạo hình cho trẻ vào
    thảo luận trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ, nhóm để tìm ra những biện
    pháp phù hợp nhất.
    – Tìm đọc tham khảo biện pháp nâng cao chất lượng lĩnh vực tạo hình cho
    trẻ trên sách báo, tạp chí, trang youtube mầm non như:
    + Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển nâng cao chất lượng lĩnh vực
    tạo hình .
    + Sách bé thực hành tạo hình.
    + Sách các hoạt động phát triển nâng cao chất lượng lĩnh vực tạo hình
    + Xem các chương trình dạy tạo hình cho trẻ trên báo, mạng internet…
    2.2. Biện pháp 2:Xây dụng nề nếp cho trẻ.
    – Nền nếp của trẻ là bước đầu của mọi tiết học. Nếu chúng ta không đưa trẻ
    vào nề nếp thì giờ học không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp, ngay ban đầu
    trẻ đã say mê với giờ học, luôn thể hiện cảm xúc, trí tưởng tượng cho hoạt động
    nghệ thuật. Tôi đã rèn nền nếp cho trẻ bằng cách: Xếp xen kẽ các cháu mạnh
    dạn với cháu nhút nhát, cháu nam xem kẽ cháu nữ. Chia lớp thành các tổ, đặt tên
    7
    cho mỗi tổ, luôn luôn động viên trẻ trong tiết học, uốn nắn tác phong ngồi học
    cho trẻ, trẻ ngồi đúng tư thế, không nói chuyện, không nói leo trong giờ học…
    + Ví dụ: Ở chủ đề bản thân bài vẽ trang phục bạn trai bạn gái, cô đã chia
    lớp thành 5 tổ ngồi xen kẽ nhau bạn có kĩ năng vẽ tốt ngồi với bạn có kĩ năng vẽ
    kém hơn, trẻ hay nói leo không cho ngồi cạnh nhau để trẻ có thể hỗ trợ lẫn nhau
    từ đó trẻ tập chung vào bài học hơn.
    (Ảnh: Giờ học tạo hình cắt, dán)
    8
    – Khi đã ổn định lớp tôi đi sâu vào việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ trong
    các hoạt động, khi trẻ có nề nếp, thói quen trẻ sẽ say mê với các hoạt động trong
    ngày. Trẻ có nề nếp trong các giờ hoạt động trẻ say mê không bị phân tâm, từ đó
    trẻ lĩnh hội được kiến thức mà cô chuyển tải, đặc biệt tạo cho trẻ mạnh dạn, tự
    tin, hồn nhên, biết biểu hiện tình cảm của mình thông qua các nội dung của các
    hoạt động trong ngày.
    Trong giờ học tạo hình tôi uốn nắn tác phong ngồi học cho trẻ từ tư thế
    ngồi đến cách cầm bút, cầm cọ vẽ tô màu sao cho đúng, không nói chuyện,
    không nói leo trong giờ học…
    (Ảnh: Giờ chơi ở góc nghệ thuật)
    Trẻ cầm bút bằng tay phải, tô màu từ trái qua phải từ trên xuống dưới
    Tô màu nước thì cầm cọ cao, xắn tay áo gọn gàng, tô hết màu rửa sạch bút
    tô màu khác.
    9
    (Ảnh: Giờ vẽ bằng bút lông chủ đề Covid)
    – Với những thói quen trên, trẻ đã có thói quen tốt trong việc xây dựng nề
    nếp học tập.
    2.3. Biện pháp 3:Tạo môi trường kích thích trẻ hứng thú hoạt động tạo
    hình và tích lũy kiến thức cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
    – Việc tạo môi trường và xây dựng góc nghệ thuật là một trong những biện
    pháp hỗ trợ đắc lực trong việc tạo hứng thú cho trẻ với hoạt động tạo hình, vì khi
    trẻ được hoạt động ở góc nghệ thuật thì cảm giác như là một thế giới riêng ở đây
    trẻ được tự do bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, khi xung quanh trẻ đều là những bài vẽ,
    nặn, xé dán do chính tay mình và bạn làm ra với những nguyên liệu thiên nhiên,
    phế thải có sẵn như: hạt na, vỏ hến, vỏ hướng dương, xốp, len màu vụn, giấy
    màu vụn, để sẵn ở góc, trẻ rất thích thú và muốn mình sẽ tự tạo ra những sản
    phẩm nghệ thuật đẹp.
    – Trong giờ học nói chung và trong hoạt động tạo hình nói riêng trẻ được sự
    thể hiện, cô luôn là người động vên, khuyến khich trẻ sáng tạo, thể hiện ý tưởng
    của bản thân, tình cảm, cảm xúc, về những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, hiện
    tượng trẻ muốn được lựa chọn, tăng cường các câu hỏi gợi ý, giúp trẻ củng cố và
    áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động
    viên khuyến khích trẻ suy nghĩ và thăm dò ý tưởng của từng trẻ.
    10
    Ví dụ:Với đề tài: Nặn một số con vật sống trong rừng.
    + Cô hỏi trẻ ý định sẽ nặn con gì? nặn con vật đó như thế nào?
    + Sau đó cho trẻ nêu lên những ý tưởng của mình, cô gợi ý để trẻ sáng tạo.
    Ngoài con vật này ra con sẽ nặn thêm những con vật nào khác nữa?
    + Cô cho trẻ thể hiện ý tưởng và óc sáng tạo của mình sau mỗi lần tạo hình là
    một phần nhận xét sản phẩm, lúc này trẻ sẽ nêu những sản phẩm của mình của bạn
    (Ảnh: Giờ nặn chủ đề động vật)
    – Ở hoạt động góc cô giáo thường xuyên thay đổi đồ dùng đồ chơi theo các
    chủ đề để trẻ có thể sáng tạo ở góc chơi, sáng tạo liên kết với các góc chơi khác
    11
    (Ảnh: Trang trí góc trưng bày sản phẩm ở lớp)
    12
    – Bên cạnh việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động tạo hình trong lớp thì môi
    trường ngoài lớp học cũng rất quan trọng đối với trẻ như dạo chơi ngoài trời,
    tham quan.
    – Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh để
    cung cấp các biểu tượng phong phú về đối tượng cho trẻ tự khám phá bằng cách
    huy động sự tham gia của các giác quan, các quá trình tâm lý khác nhau để lĩnh
    hội các khía cạnh khác nhau của sự vật.
    – Tạo cơ hội để trẻ khám phá các đối tượng (Quan sát, nghe, hỏi, tiếp xúc
    và miêu tả) và tự diễn đạt nhận thức và cảm xúc của mình về đối tượng.
    Ví dụ: Khi cho trẻ dạo chơi ngoài trời tôi cho trẻ quan sát bông hoa đang
    nở rực rỡ, những búp chồi non xanh mơn mởn, những giọt sướng long lanh đọng
    trên lá. Tôi có thể gọi hỏi trẻ nêu đặc điểm, cấu tạo và cảm nhận của mình về vẻ
    đẹp muôn màu của thế giới xung quanh.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 5 tuổi khi ở trường mầm non

    Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 5 tuổi khi ở trường mầm non

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • Một số biện pháp tổ chức cho trẻ 5 6 tuổi sử dụng nguyên vật liệu thiên nhiên trong hoạt động tạo hình

    Một số biện pháp tổ chức cho trẻ 5 6 tuổi sử dụng nguyên vật liệu thiên nhiên trong hoạt động tạo hình

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ nhạy cảm với những cái đẹp xung quanh.
    Thiên nhiên đẹp, được xem như những chất dinh dưỡng cho tâm hồn trẻ. Càng
    nhìn, càng nghe, càng được trải nghiệm với những màu sắc, âm thanh, nguyên
    vật liệu thiên nhiên bao nhiêu thì cảm giác, tri giác và các xúc cảm thẩm mỹ –
    những xúc cảm tích cực ở trẻ càng trở nên nhạy bén, tinh tế bấy nhiêu. Từ
    những xúc cảm tích cực làm nảy sinh ở trẻ lòng mong muốn làm một điều gì đó
    tốt lành để đem niềm vui đến cho mọi người. Trẻ bắt đầu mong muốn thể hiện
    trong các hoạt động hoạt động tạo hình. Từ đó, trẻ vừa cảm nhận được vẻ đẹp,
    sự đa dạng phong phú của thiên nhiên đem lại, đồng thời có thể sử dụng tất cả
    những gì có trong thiên nhiên như hoa, lá, hột hạt, vỏ cây, sỏi đá… để phát triển
    thị hiếu thẩm mĩ của trẻ.
    Hoạt động tạo hình ở trường mầm non giúp trẻ hình thành được các kỹ năng vẽ,
    tô màu, nặn, xếp, cắt, dán, chắp, ghép…Tuy nhiên nguyên liệu để cho trẻ sử
    dụng lại chưa phong phú. Trong khi đó chúng ta có thể sử dụng những nguyên
    liệu thiên dễ tìm kiếm, dễ sử dụng, lại không tốn kém đồng thời rất quen thuộc
    với trẻ, kích thích sự sáng tạo của trẻ, sự linh hoạt của giáo viên. Từ những nhận
    thức trên tôi đã nghiên cứu về đề tài “ Một số biện pháp tổ chức cho trẻ 5-6 tuổi
    sử dụng nguyên liệu thiên nhiên trong hoạt động tạo hình”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    1.1 Thuận lợi:
    – Bản thân tôi luôn nhận được sự quan tâm của Sở GD – ĐT Nam Định,
    Phòng Giáo dục – Đào tạo huyện Hải Hậu, Ban giám hiệu nhà trường và các
    đồng nghiệp. Trong năm vừa qua, tôi được tham dự lớp tập huấn chuyên đề
    “Nâng cao chất lượng sử dụng đồ dung đồ chơi trong hoạt động cho trẻ làm
    quen với tác phẩm văn học cho cán bộ, giáo viên trong Tỉnh” của Sở tổ chức tại
    Nam Định.
    1
    -Bản thân đã nắm chắc những kiến thức, phương pháp và cách tổ chức
    cho trẻ làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu thiên nhiên.
    – Trường, lớp có quy mô rộng, khuôn viên thoáng mát, hệ thống cây xanh,
    hoa, cây ăn quả phong phú, đa dạng đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho trẻ học
    tập và sáng tạo.
    – Lớp có 21 cháu cùng độ tuổi, được phân công 2 giáo viên. Trẻ đều tham
    gia hoạt động tạo hình tích cực.
    – Các nguyên vật liệu từ thiên nhiên phong phú về hình dạng, màu sắc, dễ
    tìm, dễ sử dụng, sẵn có trong tự nhiên, không mất tiền mua lại, góp phần bảo vệ
    môi trường…
    – Bản thân có tinh thần học hỏi, ý thức trách nhiệm trong công việc.
    1.2 Khó khăn:
    – Bên cạnh những thuận lợi trên tôi còn gặp một số khó khăn sau:
    – Xã hội ngày càng phát triển thì hàng loạt những nguyên liệu hiện đại, đắt
    tiền như: giấy màu các loại, mút xốp, nilon, vải, cước, đá quý…đã dần thay thế
    các nguyên liệu dân gian, nguyên liệu từ thiên nhiên như: vải vụn, lá cây, vỏ
    cây, tre nứa, mây, cói, hạt, hột, vỏ sò, vỏ hến…
    – Bản thân chưa linh hoạt, sáng tạo trong tới việc sử dụng các nguyên liệu
    hoa, lá, hột hạt trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ. Hơn nữa, tôi là một giáo
    viên mới ra trường nên còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức các
    hoạt động.
    – Bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động tạo hình.
    – Việc phối hợp với phụ huynh để sưu tầm nguyên lieu thiên nhiên phần
    nào còn hạn chế.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Xây dựng kế hoạch đầu năm
    Xây dựng kế hoạch giúp tôi chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện và thay đổi
    kế hoạch phù hợp với trẻ của lớp mình. Vào đầu mỗi năm học, khi nhà trường
    phân công lớp, tôi bắt đầu làm lên kế hoạch giáo dục năm học cho từng lĩnh vực,
    từng chủ đề. Đặc biệt, tôi luôn bám sát với tình hình thực tế của học sinh trong
    lớp để xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp.
    2

    Chủ đềTên đề tài
    1. Trường mầm non
    – Lễ hội trăng rằm
    – Trường mầm non của bé
    – Lớp học của bé
    – Làm tranh trường mầm non từ hột hạt
    – Làm đồng hồ, con sâu bằng lá chuối
    – Làm tranh từ cát
    2. Bản thân
    – Các giác quan của bé
    – Đồ dùng và trang phục của bé
    – Tôi cần gì để lớn lên và khoẻ
    mạnh?
    – Trang trí váy áo từ hoa, lá
    – Làm cây xương, một số loại quả rồng
    từ sỏi
    – Làm con trâu bằng lá mít
    3. Gia đình
    – Ngôi nhà bé ở
    – Họ hàng gia đình.
    – Đồ dùng gia đình của bé
    – Tranh gia đình từ lá, cành cây
    – Tô chữ cái trên sỏi
    – Làm người, chổi từ rơm rạ
    4. Nghề nghiệp
    – Cô giáo của em
    – Bác nông dân
    – Cô chú công nhân
    – Chú bộ đội
    – Bác sĩ
    – Tạo hình hoa từ các loại củ
    – Làm con lợn, con cá bằng bèo bồng
    – Làm con bướm, con cá bằng vỏ ngao
    – Tô màu trên vỏ trứng
    5. Động vật
    – Một số động vật nuôi trong gia
    đình
    – Động sống trong rừng
    – Động vật sống dưới nước
    – Chim và côn trùng
    – Tranh con gà từ hạt đỗ
    – Tranh con hươu cao cổ từ cành và lá
    cây khô
    – Làm con cá bằng lá cây
    – Làm con ong bằng vỏ ngao
    6. Giao thông
    – Phương tiện giao thông
    – Luật lệ giao thông
    – Vẽ ô tô trên sỏi
    – Tranh máy bay từ các loại hạt
    7. Thực vật – tết và mùa xuân
    – Ngày tết quê em
    – Cây xanh đâm chồi nảy lộc
    – Hoa quả mùa xuân
    – Một số loại rau
    – Một số loại lương thực
    – Làm cây đào từ cành cây khô
    – Làm con bướm bằng lá cây
    – Tranh các loại quả từ lá cây
    – Làm hoa bằng vỏ ngô
    – Làm con cá bằng lá dừa
    8. Nước và hiện tượng tự nhiên
    – Vòng tuần hoàn của nước
    – Đất, cát, sỏi đá
    – Không khí và ánh sáng
    – Các mùa trong năm
    – Làm cầu vồng từ lá cây
    – Tô màu mặt trời trên sỏi
    – Làm bông hoa bằng vỏ ngao.
    – Làm hoa từ vỏ lạc
    9. Quê hương – Đất nước – Bác
    Hồ
    – Quê hương yêu quý
    – Làm hoa từ hạt bí
    – Trang trí váy, áo từ các loại quả
    – trang trí mái tóc bằng hoa và lá cây

    3
    (Kế hoạch giảng dạy cho các chủ đề)
    2.2. Nghiên cứu phương pháp, tích lũy kinh nghiệm để nâng cao trình độ.
    Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm giảng dạy phần nào còn hạn chế, nên
    tôi luôn tự trau dồi kinh nghiệm cho bản thân bằng cách nghiên cứu phương
    pháp để nâng cao trình độ và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cho bản thân. Bên
    cạnh việc vận dụng tốt những kiến thức được đào tạo chuyên sâu trên giảng
    đường Đại học để giảng dạy cho trẻ trong lớp, bản thân tôi cũng tăng cường khả
    năng tự học bằng cách thường xuyên xin được dự giờ, tham khảo các tiết dạy
    của đồng nghiệp trong và ngoài trường, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên
    môn, hội thảo về lĩnh vực tạo hình nhằm nắm vững phương pháp, hình thức tổ
    chức cũng như có điều kiện đối chiếu những kiến thức lí thuyết đã học với thực
    tế. Từ đó rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
    Tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu nhà trường xin được tham gia
    các lớp tập huấn, chuyên đề của Sở GD – ĐT và Phòng GD – ĐT. Từ đó, tôi đã
    xây dựng các hoạt động tao hình cho trẻ để dạy hội giảng, chuyên đề. Tôi đã
    được tham gia tập huấn “Nâng cao chất lượng sử dụng đồ dung đồ chơi trong
    hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cho cán bộ, giáo viên trong
    Tỉnh”; tham gia lớp tập huấn các Modul ưu tiên trực tuyến trên mạng Internet
    do Bộ GD – ĐT tổ chức. Xung phong dạy chuyên đề hoạt động tạo hình lứa tuổi
    5 – 6 tuổi do trường Mầm non Hải Châu tổ chức….
    Với mong muốn tìm được các nguyên liệu thiên nhiên phong phú, đa dạng
    để trẻ sử dụng trong hoạt động tạo hình, tôi tham khảo trên ti vi, mạng Internet,
    các phương tiện thông tin như các chương trình “Mầm non Montessori” , “Mười
    vạn câu hỏi vì sao”, “Art for Kids Hub”, “Mufalo Potato”… sau đó chắt lọc
    những kiến thức phù hợp với trẻ mầm non, có thể truyền tải cho học sinh lớp
    mình để đưa vào hoạt động sử dụng các nguyên liệu thiên nhiên trong hoạt động
    tạo hình một cách tự nhiên hấp dẫn trẻ nhất.
    2.3. Cách thức sử dụng nguyên liệu thiên nhiên

    – Đất nước Việt Nam diệu kỳ
    – Bác Hồ và các cháu thiếu nhi
    – Làm hoa bằng vỏ hạt
    10. Trường tiểu học
    – Trường tiểu học hải châu
    – Bé chuẩn bị vào lớp 1
    – Tranh trường tiêu học bằng cành khô
    – Tranh cây mùa thu bằng cành và lá
    khô

    4
    Nguyên vật liệu thiên nhiên thường dùng làm đồ chơi và cho trẻ tạo hình
    trong trường mầm non được phân loại như sau: Nguyên liệu từ thiên nhiên vô
    sinh: đất, cát, sỏi, đá…; Nguyên liệu thiên nhiên nguồn gốc thực vật: rơm rạ, lá,
    hoa, rau, cành, hột hạt…; Nguyên liệu thiên nhiên nguồn gốc động vật: vỏ ốc,
    vỏ sò, vỏ trứng, lông các con vật (chim, gà, vịt). Đây là những nguyên liệu dễ
    kiếm, không mất tiền mua, rất an toàn với trẻ. Điều này rất thuận tiện cho tôi khi
    sử dụng những nguyên liệu này trong hoạt động tạo hình cho trẻ. Tranh làm
    bằng nguyên liệu thiên nhiên là một hình thức khó không chỉ với trẻ mà ngay cả
    với giáo viên bởi nó đòi hỏi phải có trí tưởng tượng phong phú và khả năng sáng
    tạo. Không chỉ thế còn đòi hỏi phải biết cách sử dụng nguyên liệu như thế nào
    cho đạt hiệu quả. Nên tôi thường hướng dẫn trẻ nhặt những lá cây, bông hoa đã
    già và rụng xuống (vào mùa thay lá của cây) hoặc lá ở những cành cây vừa chặt,
    hoa đã nở rộ để sử dụng trong họat động tạo hình. Tránh tình trạng cho trẻ bẻ lá,
    bẻ cành làm hỏng cây, thiếu sự giáo dục bảo vệ môi trường. Sau đây là một số
    yêu cầu cần thiết khi lựa chọn nguyên liệu thiên cho trẻ:
    – Đảm bảo vệ sinh, an toàn cho trẻ: Các nguyên liệu cần vệ sinh sạch sẽ
    trước khi cho trẻ sử dụng ( rửa sạch, phơi ráo nước, loại bỏ nguyên liệu héo úa,
    không còn nguyên hình)
    – Các nguyên liệu được sử dụng phải đảm bảo không độc hại, không có
    gai nhọn
    – Kích thước: Phải vừa tay trẻ, không quá to, không quá nhỏ.
    – Cách thức sử dụng nguyên liệu thiên nhiên trong từng loại hình hoạt
    động tạo hình:
    * Xếp dán tranh:
    + Nội dung: tạo ra những tranh theo mẫu, theo chủ đề.
    + Kĩ năng: Sử dụng kĩ năng xé, vò, cắt, dán.
    + Lựa chọn nguyên liệu và đồ dùng: Giấy nền, nhiều lá mỏng (có thể lá
    khô, lá tươi; lá cây, cánh hoa đã xử lý được ép khô vẫn giữ được màu, hột hạt
    khô, sỏi, vỏ trứng, vỏ ngao…), phối hợp với nguyên liệu khác…đựng trong rổ
    và được phân loại.
    + Đồ dùng: Kéo, hồ dán…
    * Chắp ghép làm đồ chơi
    5
    + Nội dung: tạo ra đồ chơi như: con mèo, con cá con châu chấu, con bọ
    dừa, con trâu…đồng hồ, vương miện, chiếc nhẫn……vv
    + Kĩ năng: Chắp, ghép, gấp…
    *Làm phụ liệu trong hoạt động nặn
    + Nội dung: Nặn theo các chủ đề như các con vật, hoa quả, đồ dùng…
    + Nguyên liệu và đồ dùng: Đất nặn là nguyên liệu chính, nguyên liệu
    thiên nhiên là phụ liệu để tạo thêm các chi tiết cho sản phẩm tạo hình.
    * Tạo hình tổng hợp.
    + Nội dung: Phối hợp các kĩ năng và nguyên liệu thiên nhiên để tạo ra sản
    phẩm tạo hình sáng tạo như các đồ chơi mô phỏng các đồ dùng, vật dụng.
    + Kĩ năng: Phối hợp các kĩ năng của vẽ, nặn, xé dán, chắp ghép…
    + Nguyên liệu và đồ dùng: Chuẩn bị phong phú, đa dạng các chất liệu tạo
    hình, trong đó có nguyên liệu thiên nhiên các loại là chủ yếu và đượ dựng, sắp
    xếp như một xưởng chế tạo
    2.4. Tổ chức các hoạt động tạo hình với các nguyên vật liệu tự nhiên.
    2.4.1 Tổ chức hoạt động học
    * Đề tài: Làm tranh trường mầm non từ hột hạt
    Khi thiết kế các hoạt động giáo dục thuộc lĩnh vực phát triển thẩm mĩ, tôi luôn
    chú trọng sử dụng nguyên liệu thiên nhiên như giờ học tạo hình. Ở chủ đề
    “Trường mầm non”, tôi đã mạnh dạn lên hoạt động “Làm tranh trường mầm non
    từ hột hạt”, đây là chủ đề đầu tiên của năm học.
    Các loại hột hạt là nguyên liệu phổ biến tại địa phương, để có nguyên liệu sử
    dụng cho hoạt động tạo hình này, tôi nhờ phụ huynh chuẩn bị cho trẻ các loại
    hạt như: đỗ xanh, đỗ đen, hạt gạo.
    Cách tiến hành:
    – Tôi cho trẻ nêu ý tưởng của trẻ
    – Trẻ dùng bút màu vẽ trường mầm non
    – Trẻ dán băng dính hai mặt đè lên hình vẽ, tôi nhắc trẻ dán cẩn thận, không dán
    chồng chéo băng dính lên nhau gây lãng phí.
    6
    – Trẻ tự chọn hạt để dán lên hình vẽ theo ý của mình
    (Hình ảnh trẻ làm tranh trường mầm non từ các loại hạt)
    * Đề tài: Thiết kế váy
    – Với chủ đề “Bản thân”, tôi cho trẻ thiết kế váy theo sự sáng tạo của bản thân
    trẻ. Bằng cách, tôi cho trẻ sưu tầm các loại hoa, lá cây, rau….Sau đó, trẻ dùng
    những nguyên liệu này để tạo nên những bộ váy đầy màu sắc sinh động.

    ( Hình ảnh trẻ trang trí váy từ hoa, lá cây, rau)

    7
    Để có được sản phẩm tạo hình phong phú, sáng tạo trẻ cần phải được bàn
    bạc, trao đổi những ý tưởng định thể hiện trong tranh với bạn bè, với cô. Để hoạt
    động tạo hình của trẻ thành công tôi thường chia trẻ thành những nhóm nhỏ. Tạo
    điều kiện cho trẻ được trao đổi, được lắng nghe ý kiến của bạn, của cô, được đưa
    ra những ý kiến của mình, trên cơ sở đó trẻ tự chọn cho mình cách thể hiện
    riêng, một phong cách riêng phù hợp với nhu cầu hứng thú của trẻ.
    2.4.2. Tổ chức hoạt động chơi ở các góc
    * Đề tài: Làm con trâu từ lá mít
    Tôi cùng trẻ chọn ra những lá mít to, dày, có đường gân và cuống lá hơi cứng,
    chuẩn bị một đoạn dây, kéo. Sau đó, tôi hướng dẫn trẻ cách làm: Dùng kéo cắt
    hoặc xé lượn theo gân lá (gần phía cuống lá) 2 đường để làm sừng trâu. Cuộn
    tròn 2 mép lá với nhau dùng dây buộc làm thân trâu. Buộc một đầu dây vào
    cuống lá, đầu kia luồn vào thân trâu. Vậy là đã có một con trâu làm bằng lá cây
    rất đơn giản. Tiếp theo , tôi để trẻ tự suy nghĩ về cách sử dụng dây để đầu con
    trâu chuyển động được.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • Một số biện pháp phát tổ chức hoạt động lao động cho trẻ 4 5 tuổi theo hướng trải nghiệm

    Một số biện pháp phát tổ chức hoạt động lao động cho trẻ 4 5 tuổi theo hướng trải nghiệm

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí
    tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chức năng tâm, sinh
    lí, năng lực và phẩm chất, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi
    dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở
    các cấp tiếp theo. Mục tiêu này có thể đạt bền vững khi tăng cường các hoạt động
    trải nghiệm trong trường mầm non. Điều này phù hợp với tinh thần chỉ đạo của
    Nghị quyết số 29-NQ/TW: “Các hoạt động giáo dục trong nhà trường cần thực
    hiện theo hướng tăng cường trải nghiệm, nhằm phát huy tính sáng tạo của học
    sinh, tạo ra các môi trường khác nhau để học sinh trải nghiệm nhiều nhất, đồng
    thời là sự khởi nguồn sáng tạo, biến những ý tưởng sáng tạo của học sinh thành
    hiện thực để các em thể hiện hết khả năng sáng tạo của mình. Đề cập tới trải
    nghiệm là nói tới việc học sinh phải kinh qua thực tế, tham gia hoặc tiếp xúc với sự
    vật hoặc sự kiện nào đó và tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần, tìm
    ra cái mới, cách giải quyết không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có”.
    Chương trình giáo dục mầm non sau chỉnh sửa (theo Thông tư số
    51/2020/TT-BGDĐT ngày 31/12/2020) cũng nhấn mạnh yêu cầu về phương pháp
    giáo dục mầm non: “Đối với giáo dục mẫu giáo, phương pháp giáo dục phải tạo
    điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới
    nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm
    “chơi mà học, học bằng chơi”.
    Hoạt động trải nghiệm ở trường Mầm non rất phong phú trong đó có hoạt
    động lao động theo hướng trải nghiệm. Như chúng ta đã biết hoạt động lao động là
    một loại hoạt động nhằm tạo ra những sản phẩm có ích cho xã hội, những giá trị
    vật chất và tinh thần cần thiết cho loài người. Đó là hình thức lao động cơ bản của
    người lớn, nó đòi hỏi những điều kiện thể lực và tâm lý cao, là nghĩa vụ của mỗi
    người đối với xã hội và bản thân. Lao động (đặc biệt là lao động công nghiệp) đòi
    4
    hỏi phải có một trình độ tư duy khoa học, nắm được quy luật của việc làm ra sản
    phẩm, lập được kế hoạch hành động của mình, nắm được kỹ thuật, có tính sáng
    tạo, tính kỷ luật… có nghĩa là đòi hỏi phải có một nhân cách vững vàng và tích cực.
    Tuy nhiên, những phẩm chất, kỹ năng, tâm lý của người lao động chưa thể có
    được ở tuổi mầm non nhưng những tiền đề của chúng đang được hình thành ở lứa
    tuổi này. Đặc biệt với trẻ 4 – 5 tuổi là giai đoạn giữa của tuổi mẫu giáo, nó nối tiếp
    tất cả những thành tựu đã có trước đây, kể cả mặt tốt cũng như mặt còn non yếu
    trong phát triển thể chất, nhận thức, kĩ năng, thái độ và sẽ tiếp tục hoàn thiện cùng
    với sự xuất hiện của những nhân tố mới ở lứa tuổi tiếp theo. Ý thức của trẻ đạt một
    bước tiến mới nhờ sự phát triển tình cảm và vốn hiểu biết ngày càng tăng. Vì vậy,
    trẻ có khả năng và nhu cầu muốn làm thay đổi một cách rõ nét quan hệ của trẻ với
    mọi người và với môi trường xung quanh, trẻ dần biết được trách nhiệm của mình,
    có ý thức hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ và cố gắng hoàn thành những công
    việc mà mình có thể làm được. Do đó, thông qua việc tổ chức hoạt động lao động
    theo hướng trải nghiệm là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển toàn
    diện, nhằm hình thành ở trẻ những năng lực của người lao động mới: yêu lao động,
    quý trọng người lao động, giúp trẻ nắm được các kỹ năng lao động đơn giản phục
    vụ cho sinh hoạt và chuẩn bị sau này cho trẻ tham gia vào đời sống lao động.
    Mặt khác, lao động là hoạt động quan trọng gắn liền với thực tiễn cuộc sống
    của trẻ. Qua lao động trẻ được phát triển chức năng tâm lý và hình thành nhân
    cách. Khi tham gia lao động cũng là dịp tốt để trẻ khám phá môi trường xung
    quanh, kích thích tính tò mò, khả năng quan sát, hình thành đức tính chăm chỉ, cần
    cù… của trẻ.
    Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, Sở, Phòng giáo dục và đào tạo, Ban giám hiệu
    nhà trường về việc thực hiện chuyên môn năm học 2021 – 2022. Là một giáo viên
    được phân công dạy lớp 4 tuổi tôi luôn có suy nghĩ mình cần phải làm một việc gì
    đó thiết thực trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, với mục đích giáo dục trẻ thật
    tốt để trở thành con ngoan, trò giỏi. Đây cũng chính là nhiệm vụ của tôi đề ra trong
    năm học này là đẩy mạnh “Tổ chức có hiệu quả các hoạt động giáo dục trẻ theo
    hướng trải nghiệm trong đó có hoạt động lao động theo hướng trải nghiệm”.
    5
    Đồng thời cũng là để chia sẻ với các bạn đồng nghiệp về những biện pháp
    thực tế tôi đã áp dụng và thấy có hiệu quả, để các bạn đồng nghiệp có thể tham
    khảo và áp dụng một cách hợp lý vào trường, lớp của mình và cùng nhau góp phần
    nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, ngành giáo dục Mầm non nói riêng.
    Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp tổ chức hoạt
    động lao động cho trẻ 4 – 5 tuổi theo hướng trải nghiệm”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    Tổ chức hoạt động lao động theo hướng trải nghiệm là một hình thức tổ chức
    giáo dục quan trọng trong trường Mầm non, mang hơi thở của tinh thần đổi mới
    giáo dục nhằm đạt được tốt nhất mục tiêu giáo dục hiện nay đó là hướng vào trẻ,
    lấy trẻ làm trung tâm cho mọi hoạt động. Thông qua các hoạt động lao động trải
    nghiệm trẻ được cung cấp các kiến thức, kĩ năng từ đó hình thành những năng lực,
    phẩm chất và kinh nghiệm cần thiết để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, giúp trẻ
    tiếp nhận các kiến thức một cách dễ dàng, tự nhiên.
    Trong quá trình thực hiện, bản thân tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
    * Thuận lợi:
    Được sự quan tâm, hỗ trợ và chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường
    trong việc “Tăng cường đổi mới các hoạt động chăm sóc, giáo dục theo quan điểm
    lấy trẻ làm trung tâm; tăng cường các hoạt động trải nghiệm, đẩy mạnh tích hợp,
    chú trọng hình thành và phát triển kỹ năng phù hợp với độ tuổi, yêu cầu của xã hội
    hiện đại và truyền thống tốt đẹp của dân tộc” cho các tổ, khối, các lớp bám sát xây
    dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với khả năng và thực tiễn để đạt hiệu quả cao
    nhất.
    Trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia, môi trường luôn được đảm bảo
    an toàn.
    Bên cạnh đó, Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện
    cho giáo viên được học tập những chuyên đề, phương pháp giáo dục mới, tổ chức
    các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ, tập huấn để giáo viên học hỏi, nâng cao trình độ
    chuyên môn.
    6
    Việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm nói chung và hoạt động lao động theo
    hướng trải nghiệm nói riêng được coi là một phương tiện giáo dục nhiều mặt cho
    trẻ. Thông qua hoạt động này tạo điều kiện cho tất cả trẻ được tham gia một cách
    tích cực, mang lại trẻ niềm vui sướng, tự hào về những thành quả mà mình làm
    được. Điều này tác động không nhỏ đến sức khỏe và tinh thần của trẻ.
    Bản thân là một giáo viên yêu nghề mếm trẻ tâm huyết, nhiệt tình, năng động
    trong mọi công việc. Ngay từ đầu năm, được sự hướng dẫn chỉ đạo của nhà trường
    tôi đã bắt tay xây dựng các biện pháp tổ chức các hoạt động lao động theo hướng
    trải nghiệm phù hợp với điều kiện và thực tế của lớp mình.
    Được sự ủng hộ nhiệt tình của Ban đại diện cha mẹ trẻ của lớp và tập thể hội
    đồng sư phạm nhà trường.
    Tuy nhiên cùng với thuận lợi, bản thân tôi còn gặp một số khó khăn.
    * Khó khăn:
    Trường tôi đang công tác thuộc vùng nông thôn nên cơ sở vật chất mặc dù có
    sự đầu tư của nhà nước, chính quyền địa phương và cha mẹ trẻ nhưng so với nhu
    cầu thì vẫn còn nhiều thiếu thốn.
    Về phía giáo viên, việc nhận thức tầm quan trọng trong việc tổ chức các hoạt
    động trải nghiệm cho trẻ còn hạn chế. Mặc dù tôi có tổ chức các hoạt động dạy và
    học theo hướng trải nghiệm nhưng chỉ mang tính chất chung chung trên lí thuyết
    và cũng chưa hề quan tâm đến hoạt động lao động vệ theo hướng trải nghiệm,
    không chú ý đến phương pháp, cách thức tổ chức, hướng dẫn trẻ làm như thế nào,
    có phối hợp tốt với nhau hay không. Từ đó, không kích thích sự hứng thú, tích cực,
    hăng say của trẻ, trẻ lười lao động, không thấy được tầm quan trong của lao động
    đối với bản thân, môi trường và thế giới xung quanh.
    Trong năm học này, do dịch bệnh Covid 19 diễn ra phức tạp, việc dạy và nghỉ
    học đan xen nên tôi bị gián đoạn công tác tổ chức, kiểm tra, đánh giá trẻ việc thực
    hiện các hoạt động lao động theo hướng trải nghiệm.
    Công tác phối kết hợp với cha mẹ trẻ trong việc tổ chức các hoạt động lao
    động theo hướng trải nghiệm ở nhà đạt hiệu quả chưa cao.
    Về phía cha mẹ trẻ, họ chưa thực sự hiểu và quan tâm đến việc tổ chức hoạt
    7
    động lao động theo hướng trải nghiệm. Khái niệm “Hoạt động lao động theo
    hướng trải nghiệm” cho trẻ có lẽ còn xa lạ và mới mẻ. Họ chưa hiểu mục đích và
    tầm quan trọng của hoạt động lao động. Một số cha mẹ quá nuông chiều cưng
    nựng con cái, thường làm thay cho trẻ từ việc nhỏ đến việc lớn nên khiến cho trẻ
    không có kỹ năng lao động nền tảng khiến cho giáo viên rất khó khăn trong việc
    giáo tổ chức các hoạt động lao động theo hướng trải nghiệm.
    Về phía trẻ, khả năng nhận thức của trẻ trong lớp không đồng đều, mỗi trẻ có
    một tính cách, một tâm lý khác nhau, đòi hỏi giáo viên phải áp dụng mỗi trẻ một
    hướng giáo dục khác nhau tu

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược Flipped Learning

    SKKN Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược Flipped Learning

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Những năm gần đây, sự bùng bổ về Internet và công nghệ đã đem lại tác
    động to lớn đối với nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, trong đó có cả giáo dục. Nhờ
    sự phát triển của công nghệ, ngày càng có nhiều công cụ, phần mềm được phát
    triển để hỗ trợ việc dạy và học của giáo viên và học sinh, đem lại những tiết học
    trực quan và sinh động hơn, có thể kể đến như:
    – Phần mềm trình chiếu bài học: Microsoft Powerpoint, Google Slide, Prezi,
    Microsoft Sway, Adobe Spark,…
    – Phần mềm tạo bài giảng e-learning: Adobe Presenter, Adobe Captivate,
    Articulate Storyline, iSpring Suite,…
    – Phần mềm tạo trò chơi trắc nghiệm: Quizizz, Kahoot!, Quizlet,…
    – Phần mềm hỗ trợ quản lý lớp học: ClassDojo, Edmodo, Google
    Classroom,…
    – Phần mềm tạo video hoạt họa: PowToon, Vyond, VideoScribe,… Các
    công cụ ngày càng phong phú và đa dạng, và dần được sử dụng rộng rãi trong
    các lớp học. Tuy vậy, việc sử dụng các công cụ đó trong dạy học như thế nào cho
    hiệu quả mới là điều quan trọng. Chính vì lẽ đó, các mô hình học tập (Teaching
    frameworks and models) kết hợp công nghệ vào dạy học đã được nghiên cứu và
    phát triển, giúp cho việc vận dụng công nghệ trong hoạt động dạy học ngày càng
    hiệu quả hơn:
    • Blended Learning
    • Reverse Instruction
    • Inverted Classroon
    • 24/7 Classroom
    • Flipped Learning
    Là một giáo viên trẻ, cùng với niềm yêu thích công nghệ, tôi luôn mong
    muốn đem công nghệ vào trong lớp học, tìm ra cách vận dụng sao cho hiệu quả.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    2
    Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tôi đã được tiếp cận với mô hình Học tập đảo
    ngược (Flipped Learning).
    * Một số nét cơ bản về mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    Mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning) là một mô hình học tập vận
    dụng công nghệ và Internet vào dạy học, được xây dựng và phát triển bởi hai nhà
    giáo dục Jonathan Bergman và Aaron Sams trong những năm 2005 đến 2007.
    Tuy vậy, những ý tưởng đầu tiên về một mô hình học tập đảo ngược đã xuất hiện
    từ rất sớm:
    – Ngay từ đầu những năm 1800, sinh viên của Học viện Quân
    sự Hoa Kỳ phải tự nghiên cứu bài học trước khi đến lớp (phương pháp
    Thayer).
    – Đến năm 1959, Robert T. Morrison yêu cầu sinh viên của
    mình đọc một số đoạn cụ thể trong giáo trình trước mỗi buổi học, và khi
    đến lớp, sinh viên và giảng viên sẽ đặt câu hỏi, thảo luận về những vấn đề
    xoay quanh nội dung trong sách.
    – Video và các bản thu âm bắt đầu được sử dụng để dạy học
    trong các trường đại học từ những năm 1970.
    – Năm 1995, Wesley Barker bắt đầu sử dụng học tập đảo ngược
    trong các khóa học của mình bằng cách đăng PowerPoint bài giảng lên hệ
    thống mạng nội bộ của trường và bắt đầu chia sẻ về hình thức học này từ
    những năm 2000.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    3
    – Đến năm 2012, thuật ngữ Học tập đảo
    ngược (Flipped Learning) mới chính thức được sử dụng
    khi cuốn sách “Flip Classroom: Reach every student in
    every class every day” (Lớp học đảo ngược: Tiếp cận và
    hỗ trợ học sinh mọi lúc, mọi nơi) của hai nhà giáo dục
    đồng thời là giáo viên dạy Hóa Jonathan Bergman và
    Aaron Sams được xuất bản. Cuốn sách đã đem mô hình
    Học tập đảo ngược đến với rất nhiều giáo viên ở các cấp học khác nhau.
    – Sau thành công của cuốn sách, hai nhà giáo dục Jonathan
    Bergman và Aaron Sams tiếp tục viết thêm các tài liệu khác để giúp giáo
    viên có thể vận dụng mô hình học tập này một cách hiệu quả vào từng môn
    học, từng cấp học, có thể kể đến như:
    • Flipped Learning for Math Instruction (Học tập đảo ngược trong dạy
    học môn Toán) – 2014
    • Flipped Learning: Gateway to Student Engagement (Thúc đẩy học
    sinh học tập thông qua mô hình Học tập đảo ngược)
    • Flipped Learning for Elementary Instruction (Học tập đảo ngược
    trong dạy học cấp tiểu học)
    • Flipped Learning for Social Studies Instruction (Học tập đảo ngược
    trong dạy học môn Khoa học Xã hội)
    • Flipped Learning for Science Instruction (Học tập đảo ngược trong
    dạy học môn Khoa học)
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    4
    • Flipped Learning for English Instruction (Học tập đảo ngược trong
    dạy học môn Tiếng Anh)
    Thông qua các tài liệu trên, mô hình
    Học tập đảo ngược ngày càng được phổ biến
    rộng rãi trên thế giới, được vận dụng trong việc
    dạy học tất cả các môn học, các cấp học từ Tiểu
    học đến Đại học. Ở Việt Nam, mô hình này
    cũng đang dần được biết đến và phổ biến.
    Nhận ra những ưu điểm của mô hình
    này, tôi đã tìm cách nghiên cứu và áp dụng vào
    lớp học của mình. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng, một số vấn đề khó khăn
    đã nảy sinh:
    – Làm sao để học sinh dễ dàng tiếp cận nội dung bài học?
    – Làm thế nào để đánh giá mức độ học tập online của học sinh
    một cách nhanh nhất?
    – Nếu trong quá trình học, học sinh có thắc mắc thì phải làm
    như thế nào? Để giải quyết những vấn đề trên, tôi đã tiếp tục nghiên cứu
    và xây dựng website
    “Lớp học của tôi” nhằm hỗ trợ việc áp dụng mô hình Học tập đảo ngược vào
    trong lớp học tiểu học một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Sau một thời gian thực
    nghiệm và đạt được những kết quả nhất định, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài
    này để báo cáo như một báo cáo sáng kiến kinh nghiệm: Đề tài
    Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược
    (Flipped Learning)
    * *
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    5
    *
    B – MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến
    1. Thực trạng vận dụng mô hình “Học tập đảo ngược” trên thế giới và
    Việt Nam trong dạy học
    – Hiện nay, với phương châm “lấy học sinh làm trung tâm”, các phương
    pháp dạy học tích cực đã và đang được vận dụng vào trong trường tiểu học, đem
    lại những tiết học sinh động, hiệu quả cao. Đặc biệt, với mô hình trường học mới
    VNEN, học sinh ngoài việc tiếp thu kiến thức còn được trau dồi các kĩ năng như
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    6
    tự học, thảo luận, trình bày ý kiến, làm việc nhóm,… Tính hiệu quả của các
    phương pháp giảng dạy hiện nay đã được chứng minh qua những thành tích đạt
    được trong từng năm học.
    – Tuy nhiên, giáo dục không ngừng thay đổi và phát triển, vì thế những mô
    hình giáo dục, phương pháp giáo dục mới luôn được nghiên cứu và vận dụng,
    nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Để phù hợp với xu hướng công nghệ hiện nay,
    các mô hình giáo dục kết hợp công nghệ ngày càng được chú trọng, và Học tập
    đảo ngược cũng là một trong số đó.
    – Kể từ năm 2012 đến nay, mô hình Học tập đảo ngược ngày càng phát triển
    và phổ biến trong các lớp học trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển,
    với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư. Nhờ vào tính linh hoạt và
    hiệu quả mà mô hình mang lại, các giáo viên, các nhà giáo dục đã không ngừng
    nghiên cứu và xây dựng những cách vận dụng mô hình trong dạy học từng môn,
    từng cấp học. Theo kết quả trả về trên trang Google Scholar – trang web tìm kiếm
    tài liệu mang tính học thuật (bao gồm luận văn, luận án, sách, nghiên cứu, bài viết
    học thuật từ các nhà xuất bản học thuật, giới chuyên môn, kho lưu trữ bản thảo,
    các trường đại học và các tổ chức học thuật khác), có hơn 16.000 tài liệu liên
    quan đến từ khóa “flipped learning” hoặc “flipped classroom”.
    Theo số liệu thông kê từ ERIC (The Education Resources Information Center –
    Trung tâm Thông tin Nguồn lực Giáo dục), số lượng nghiên cứu về Học tập đảo
    ngược ngày càng tăng theo các năm. Theo biểu đồ dưới đây, ta thấy năm 2019 có
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    7
    tổng cộng 229 nghiên cứu, đến tháng 7 năm 2020 có 97 nghiên cứu về Học tập
    đảo ngược được công bố.
    Không chỉ vậy, ngày càng nhiều giáo viên biết đến và đưa mô hình này vào lớp
    học của mình. Năm 2012, có hơn 28,000 giáo viên tham gia vào Flipped
    Learning Network Ning – Mạng lưới giáo viên vận dụng học tập đảo ngược trong
    dạy học và con số này ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của internet và
    các thiết bị di dộng.
    Tại Việt Nam, mặc dù đã được đưa vào trong giảng dạy ở các trường đại học từ
    lâu, nhưng mô hình Học tập đảo ngược mới chỉ được đưa vào vận dụng ở một
    vài trường phổ thông từ năm 2015. Một vài năm gần đây, đã có nhiều bài viết,
    nghiên cứu cũng như hội thảo, tập huấn về cách vận dụng mô hình này trong dạy
    học ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhờ sự phát triển của internet cùng với sự đầu tư
    về trang thiết bị mà Học tập đảo ngược đang dần phổ biến hơn trong các trường
    phổ thông và nhận được nhiều phản hồi tích cực cả từ phía giáo viên lẫn học sinh.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    8
    Tọa đàm “Lớp học đảo ngược – Kích hoạt sáng tạo thế hệ Z” do Trung tâm
    Hỗ trợ giảng dạy, Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục, ĐHQGHN tổ chức vào
    ngày 17/12/2019
    2. Những khó khăn khi vận dụng mô hình Học tập đảo ngược vào dạy học ở
    trường tiểu học Lộc An
    Thấy được những hiệu quả mà mô hình Học tập đảo ngược mang lại, là 1
    giáo viên, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi để vận dụng vào trong dạy học ở
    trường tiểu học Lộc An. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố nên việc vận dụng mô hình
    này vào dạy học vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn.
    – Khó khăn thứ nhất: Điều kiện trang thiết bị của học sinh.
    Mô hình Học tập đảo ngược là mô hình dạy học vận dụng công nghệ thông tin,
    học sinh phải xem trước nội dung bài học ở nhà qua mạng internet, vì vậy mỗi
    học sinh cần phải được trang bị các thiết bị có khả năng truy cập mạng. Tuy nhiên,
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    9
    do phụ huynh ở khu vực xã Lộc An đa phần là công nhân nên số lượng học sinh
    có máy vi tính là rất ít. Mặc dù vậy, với sự phát triển của công nghệ và mạng di
    động, hiện nay hầu như gia đình nào cũng có điện thoại thông minh có kết nối
    mạng. Vì vậy, cần phải sử dụng công nghệ sao cho học sinh có thể dễ dàng truy
    cập được trên điện thoại có kết nối mạng, mà không cần phải dùng đến máy vi
    tính.
    – Khó khăn thứ hai: Khó khăn về công nghệ
    Để vận dụng hiệu quả mô hình Học tập đảo ngược vào dạy học, giáo viên cần
    thực hiện rất nhiều công việc: upload bài giảng lên mạng, quản lý học sinh, kiểm
    tra, đánh giá, trao đổi, thảo luận,… Có rất nhiều công cụ giúp giáo viên thực hiện
    từng nhiệm vụ trên, tuy nhiên các công cụ này lại riêng lẻ và không có sự liên kết
    với nhau.
    Thông thường, giáo viên sẽ upload video hoặc tài liệu bài giảng lên Youtube
    hoặc Google Drive, sau đó gửi link bài giảng cho học sinh qua Facebook hoặc
    Edmondo. Sau đó, học sinh sẽ mở link bài giảng để xem, nếu có câu hỏi, thắc mắc
    cần trao đổi thì trao đổi trên Facebook và Edmondo, rồi làm những bài tập cơ
    bản được giao qua Kahoot!, Quizzizz hoặc Google Form.
    Trên đây là cách sử dụng các công cụ hỗ trợ mà các giáo viên ở Việt Nam thường
    sử dụng để vận dụng mô hình Học tập đảo ngược. Có thể thấy rằng, với mỗi
    nhiệm vụ cần thực hiện, giáo viÊn và học sinh lại phải sử dụng 1 công cụ khác
    nhau. Điều này gây khó khăn trong quá trình sử dụng cho học sinh, đặc biệt là
    những học sinh tiểu học. Mặc dù hiện nay, một số công ty đã xây dựng hệ sinh
    thái các công cụ để hỗ trợ giáo viên như Google, Microsoft nhưng các công cụ
    này vẫn là những công cụ riêng lẻ, chưa thực sử liên kết và thống nhất.
    – Khó khăn thứ ba: Khả năng tin học của học sinh tiểu học chưa thực sự tốt
    Việc vận dụng Học tập đảo ngược vào trong dạy học đòi hỏi học sinh phải có
    một trình độ sử dụng thiết bị và phần mềm tin học nhất định. Tuy nhiên, với các
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    10
    em học sinh tiểu học ở trường tiểu học Lộc An, khả năng tiếp cận cũng như sử
    dụng các công cụ tin học chưa thực sự tốt. Nếu các cộng cụ quá khó tiếp cận và
    sử dụng với học sinh thì kế hoạch dạy học sẽ không thể nào thành công. Chính vì
    thế giáo viên cần lựa chọn công cụ sao cho học sinh dễ tiếp cận và sử dụng nhất.
    Đặc biệt, với các em học sinh tiểu học, các em chưa có email, tài khoản mạng xã
    hội, máy vi tính,… nên việc vận dụng lại càng khó khăn. Với mỗi công cụ được
    sử dụng, giáo viên cũng đều phải dành thời gian hướng dẫn học sinh cách sử dụng.
    Vì vậy nếu có quá nhiều công cụ, hoặc các công cụ quá phức tạp thì sẽ tốn rất
    nhiều thời gian để hướng dẫn và cũng không đảm bảo được rằng đối tượng học
    sinh tiểu học có thể hoàn toàn sử dụng thành thạo.
    * *
    *
    II. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Nhận thấy những khó khăn trên, trong quá trình vận dụng mô hình Học tập
    đảo ngược vào trong dạy học tại trường tiểu học Lộc An, tôi luôn trăn trở với câu
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    11
    hỏi: “Làm thế nào để có một công cụ hỗ trợ đơn giản, dễ sử dụng, bao gồm đầy
    đủ các tính năng cần thiết cho việc đảo ngược bài học, nhưng lại phải phù hợp
    với điều kiện trang thiết bị cũng như khả năng sử dụng tin học của học sinh tiểu
    học?”
    Từ đó, tôi luôn nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu và xây dựng nên website Lớp học của
    tôi (lophoccuatoi.com) nhằm hỗ trợ một cách hiệu quả cho mô hình Học tập đảo
    ngược.
    1. Giới thiệu chung về website lophoccuatoi.com
    Yêu cầu đầu tiên của một ứng dụng công nghệ hỗ trợ học tập hiệu quả đó là tính
    dễ tiếp cận. Vì học sinh tại trường tiểu học Lộc An có rất ít em có máy vi tính,
    hơn nữa mục tiêu của Học tập đảo ngược là giúp học sinh có thể truy cập bài
    giảng mọi lúc, mọi nơi. Chính vì thế tôi lựa chọn xây dựng công cụ dưới hình
    thức website. Với hình thức này, học sinh chỉ cần 1 thiết bị có kết nối mạng (có
    thể là máy vi tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh, ti vi thông minh) là có
    thể dễ dàng truy cập mà không cần cài đặt bất kỳ một ứng dụng nào.
    Website lophoccuatoi.com được xây dựng bằng ngôn ngữ lập trình PHP, dựa trên
    nền tảng mã nguồn WordPress, giúp thuận tiện trong việc xây dựng và cập nhật
    sau này. Với mục đích xây dựng cho nhiều loại thiết bị truy cập nên website được
    thiết kế với giao diện thiết kế Responsive, hiển thị tốt trên tất cả
    Laptop, PC, Smartphone, Máy tính bảng, Smart TV.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    12
    Giao diện website trên máy tính
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    13
    Giao diện website hiển thị trên điện thoại
    2. Hệ thống quản lý học sinh
    Một trong những yếu tố hàng đầu của việc dạy học hiệu quả là quản lý
    học sinh. Mặc dù ở mô hình Học tập đảo ngược, học sinh xem trước bài dạy
    qua internet, nhưng việc quản lí học sinh vẫn là một nhiệm vụ vô cùng quan
    trọng.
    Hiện nay, đa số các giáo viên quản lí học sinh thông qua nhóm facebook,
    hoặc các ứng dụng quản lí lớp học online như Edmondo, Google Classroom,
    Microsoft Team,… Tuy nhiên, những ứng dụng này đều yêu cầu học sinh phải
    có email để đăng ký tài khoản. Với đối tượng học sinh tại trường tiểu học Lộc
    An, các em còn nhỏ, phụ huynh đa phần là công nhân nên việc tạo lập tài khoản
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    14
    thông qua email còn gặp khó khăn. Chính vì vậy, cần phải có biện pháp giúp
    học sinh quản lý tài khoản một cách dễ dàng hơn.
    Đối với website lophoccuatoi.com, giáo viên sẽ lập tài khoản cho từng em
    vào đầu năm học. Việc tạo lập và cung cấp tài khoản tới học sinh do giáo viên
    thực hiện, học sinh và phụ huynh chỉ cần nhận tài khoản và đăng nhập vào
    website. Để hỗ trợ việc tạo tài khoản nhanh chóng cho 1 lớp học, tôi đã xây
    dựng tính năng nhập danh sách tài khoản thông qua Excel để giảm bớt thời gian
    cho giáo viên.
    Điều thuận lợi ở đây cho học sinh là mỗi em chỉ cần duy nhất 1 tài khoản để
    học, làm bài tập cũng như trao đổi, thay vì việc phải tạo tài khoản riêng cho từng
    ứng dụng.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    15
    Giao diện đăng nhập vào website
    3. Hệ thống học tập online
    Việc đầu tiên để thực hiện đảo ngược lớp học đó là giáo viên quay bài
    giảng, đăng lên mạng để học sinh có thể truy cập và xem tại nhà. Để giải quyết
    vấn đề này, hiện nay giáo viên thường đăng tải bài giảng lên Youtube, Google
    Drive sau đó gửi link bài học cho học sinh. Đối với đối tượng học sinh tiểu học,
    cách làm này vướng phải một số khó khăn như sau:
    – Việc gửi link bài giảng cho từng học sinh là không thuận tiện, vì các em
    học sinh tiểu học chưa có tài khoản mạng xã hội hay email.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    16
    – Học sinh sẽ gặp khó khăn trong việc tìm lại bài giảng để xem lại sau này.
    Chính vì thế, cần phải xây dựng ứng dụng giúp học sinh dễ dàng truy cập và theo
    dõi tiến trình học của mình.
    Website lophoccuatoi.com được xây dựng dưới hình thức website học tập online.
    Khi truy cập vào website, học sinh sẽ chọn lựa môn học mình muốn để vào học.
    Với từng môn học, giáo viên xây dựng hệ thống bài giảng theo chương
    trình, các bài giảng được sắp xếp một cách có hệ thống theo tiến trình môn học.
    Nhờ đó, học sinh có thể dễ dàng theo dõi chương trình học, cũng như ôn lại các
    bài học cũ mà không phải mất thời gian tìm kiếm.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    17
    Giao diện chọn bài học
    Bên cạnh đó, với website lophoccuatoi.com, giáo viên dễ dàng tổng hợp
    các tài liệu đi kèm với nội dung bài giảng vào 1 bài học, thay vì gửi riêng lẻ
    từng tài liệu cho học sinh. Các tài liệu ở đây bao gồm video, hình ảnh, văn bản,
    các file tài liệu doc, pdf cũng như các file trình chiếu.
    Giao diện bên trong bài học cụ thể
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    18
    4. Chức năng làm bài kiểm tra trắc nghiệm và chấm điểm
    Kiểm tra – đánh giá là một yếu tố vô cùng quan trọng trong dạy học, giúp
    cho giáo viên nắm bắt được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh. Và trong
    mô hình Học tập đảo ngược, kiểm tra – đánh giá cũng là một phần không thể
    thiếu.
    Với cách học này, học sinh sẽ tự xem trước nội dung bài ở nhà. Vậy làm
    sao để giáo viên có thể nắm bắt được học sinh đó đã xem bài chưa, và mức độ
    tiếp thu bài học của học sinh đó ra sao? Vì vậy sau mỗi bài học cần có bài kiểm
    tra nhanh mức độ tiếp thu của học sinh.
    Hiện nay, các giáo viên thường tạo bài kiểm tra trên Kahoot!, Quizzizz,
    Google Form, Microsoft Form,… sau đó gửi link bài kiểm tra để học sinh thực
    hiện. Cũng giống như việc gửi link bài giảng, điều này không thuận tiện khi áp
    dụng trong trường tiểu học. Chính vì thế cần có công cụ giúp tích hợp bài kiểm
    tra ngay sau khi học sinh hoàn thành bài học.
    Chức năng làm bài kiểm tra trên website lophoccuatoi.com được xây
    dựng dựa trên nhu cầu trên. Các bài kiểm tra được tích hợp vào ngay sau
    mỗi bài học, để học sinh có thể tự đánh giá ngay mức độ hiểu bài của mình.
    Và để đa dạng hóa các câu hỏi kiểm tra, website được xây dựng với 6 dạng
    bài tập:
    • Single Choice (Trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trong đó có 1 đáp án đúng)
    • Multiple Choices (Trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trong đó có nhiều đáp
    án đúng)
    • ‘Free’ Choice (Dạng bài tập trả lời câu hỏi có nhiều đáp án đúng)
    • Sorting Choice (Dạng bài tập sắp xếp)
    • Matrix Sorting Choice (Dạng bài tập ghép đôi)
    • Fill in the blank (Dạng bài tập điền vào chỗ trống)
    • Assessment (Dạng bài tập lựa chọn mức độ)
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    19
    • Essay/Open Answer (Dạng bài tập Câu hỏi mở)
    Bên cạnh đó, website cũng được bổ sung chức năng giới hạn thời gian làm
    bài (ví dụ hoàn thành bài trong vòng 10 phút).
    Sau khi học sinh hoàn thành bài kiểm tra, hệ thống sẽ tự động chấm điểm
    theo các đáp án cho trước. Ở đây, giáo viên có thể chọn lựa cách chấm theo
    điểm, hoặc theo số phần trăm đáp án đúng trong bài. Nhờ đó, giáo viên có thể dễ
    dàng nắm bắt được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh.
    Tên sáng kiến : Xây dựng website học tập hỗ trợ mô hình Học tập đảo ngược (Flipped Learning)
    20
    Bảng kết quả hoàn thành bài kiểm tra của học sinh
    5. Chức năng trao đổi, thảo luận
    Trong quá trình học, học sinh sẽ không thể tránh khỏi có những
    thắc mắc về nội dung bài. Ngoài việc ghi lại các câu hỏi để đến lớp trao đổi
    cùng thầy cô, bạn bè thì học sinh cũng cần có một công cụ hỗ trợ cho việc trao
    đổi trực tuyến.
    Chính vì thế mà tôi đã tìm tòi để xây dựng chức năng hỏi đáp trên website của
    mình.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp phát huy tác dụng của bộ máy hội đồng tự quản

    SKKN Một số biện pháp phát huy tác dụng của bộ máy hội đồng tự quản

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    1. Lý do chọn đề tài:
    Mục tiêu của mô hình giáo dục mới là đào tạo con người Việt Nam phát
    triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe; hình thành và phát triển con
    người cả về nhân cách, phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
    xây dựng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
    Để đạt được những mục tiêu ấy thì giáo viên cần sự đóng góp không nhỏ
    của Hội đồng tự quản vì: HĐTQ rèn cho học sinh tính tự học, tự giác, tự quản,
    tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn với mục
    đích nhằm phát triển toàn diện học sinh cả về năng lực lẫn phẩm chất đạo đức, ý
    thức xã hội thông qua những hoạt động thực tế. Đảm bảo cho các em tham gia
    một cách dân chủ, tích cực, bình đẳng, đoàn kết, đồng thời chuẩn bị cho các em
    ý thức trách nhiệm khi thực hiện quyền và bổn phận của mình.
    Qua thực tế một số năm làm chủ nhiệm, bản thân tôi ý thức được với mô
    hình giáo dục mới sự thành công trong phát triển năng lực, phẩm chất đạo đức
    của học sinh không phụ thuộc nhiều vào giáo viên mà phụ thuộc rất lớn vào sự
    điều hành lớp của Hội đồng tự quản. Vì Hội đồng tự quản có hoạt động tốt thì
    mới có tác dụng tốt đến hiệu quả học tập và các phong trào thi đua của lớp.
    Xuất phát từ những lý do trên tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và mạnh dạn chọn
    viết sáng kiến: “Một số biện pháp phát huy tác dụng của bộ máy Hội đồng tự
    quản”
    2. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
    – Phạm vi nghiên cứu của tôi là: Các hoạt động của Hội đồng tự quản khối
    4 trong năm học 2019 – 2020
    – Đối tượng nghiên cứu của tôi là: học sinh lớp 4A năm học 2019 – 2020
    Trường Tiểu học Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
    2
    3. Mục đích nghiên cứu:
    Tìm những biện pháp để nâng cao chất lượng các họat động của bộ máy
    HĐTQ. Tạo mối quan hệ gần gũi, tình yêu thương, đoàn kết, mạnh dạn trong các
    họat động học tập và giao tiếp. Từ đó góp phần nâng cao chất lương giáo dục
    cho học sinh phát triển toàn diện cả về năng lực lẫn phẩm chất. Rèn được HĐTQ
    mạnh về mọi mặt.
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
    Để đạt được mục đích nghiên cứu, tôi xác định mình phải giải quyết các
    nhiệm vụ sau:
    – Tìm hiểu cơ sở lý luận về hội đồng tự quản.
    – Tìm hiểu thực trạng của bộ máy hội đồng tự quản trong khối 4 nói chung
    và của lớp 4A nói riêng.
    – Tìm ra một số giải pháp, đề xuất để phát huy tối đa tác dụng của bộ máy
    hội đồng tự quản.
    5. Phương pháp nghiên cứu.
    Một số phương pháp được áp dụng như sau: Điều tra, quan sát, khảo sát,
    thống kê, vấn đáp, hội thảo, giao lưu, thử chọn…
    II. Mô tả giải pháp:
    1. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến .
    1.1. Cơ sở lý luận
    – Hội đồng tự quản (HĐTQ) học sinh tiểu học là một biện pháp giáo dục
    nhằm thúc đẩy sự phát triển về năng lực và phẩm chất của học sinh thông qua
    các hoạt động thực tế của các học sinh.
    – HĐTQ học sinh giúp học sinh phát triển kỹ năng ra quyết định, kỹ năng
    hợp tác và kỹ năng lãnh đạo. Đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách
    nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình.
    – Hội đồng tự quản học sinh là sự làm quen, giai đoạn ban đầu để học sinh
    hướng tới trở thành người công dân tốt của xã hội dân chủ tương lai. Quan điểm
    3
    giáo dục mới là sớm đưa học sinh hòa nhập với xã hội, phải coi nhà trường như
    “xã hội” thu nhỏ, trong đó học sinh là những công dân làm chủ “xã hội” của
    mình. Quyền, trách nhiệm, bổn phận của công dân, được học sinh thực thi ngay
    trong trường, lớp với sự hỗ trợ thường xuyên của Hội đồng tự quản học sinh.
    Qua những cơ sở lý luận này, là giáo viên chủ nhiệm, tôi thấy việc phát
    huy tác dụng của HĐTQ là hết sức cần thiết.
    1.2. Cơ sở thực tiễn.
    Năm học 2019 – 2020, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
    4A với 38 học sinh. Tôi thấy:
    – Về phía học sinh, hầu hết học sinh lớp tôi chủ nhiệm rất rụt rè, nhút
    nhát, không tự tin, không mạnh dạn, không có kỹ năng quyết định, kỹ năng hợp
    tác chưa tốt, chưa biết quan tâm và chưa biết hỗ trợ bạn bè, chưa dám thể hiện
    mình. Có những học sinh nhiều vấn đề bản thân học sinh ấy biết nhưng không
    đủ tự tin, mạnh dạn để trình bày hoặc run quá mà trình bày ý kiến không được
    đầy đủ, rõ ràng, mạch lạc.
    – Về phía Hội đồng tự quản chưa biết cách lãnh đạo, chưa biết cách điều
    hành… Khi tôi gọi Chủ tịch hội đồng tự quản lên điều hành, em rất lúng túng,
    nói không gẫy gọn, không dứt khoát. Tôi gọi lần lượt các em có học lực giỏi lên
    điều hành thì cũng nhận được kết quả không tốt lắm. Thậm chí giáo viên còn nói
    trước rồi cho các em làm theo mà cũng không rõ ràng, mạch lạc. Đấy là giáo
    viên chủ nhiệm, ngày nào các em cũng tiếp xúc còn nếu gặp người lạ thì còn tệ
    hại hơn nhiều. Các thành viên trong HĐTQ không có niềm tin, không có uy tín,
    không có hứng thú với công việc mình làm. Vậy nên thành lập Hội đồng tự quản
    chỉ cho có chứ hoạt động chưa có hiệu quả.
    – Để biết được thực trạng cụ thể, tôi đã tiến hành khảo sát sau một tháng
    nhận lớp và thay đổi bộ máy Hội đồng tự quản liên tục, hai tuần thay đổi 1 lần
    để kiểm chứng. Tôi đã thu được kết quả như sau:
    + Về Hội đồng tự quản:
    4

    Chức danhTổngHoàn thành tốtthành HoànChưa hoàn thành
    SốTS%TS%TS%
    Chủ tịch-HĐTQ200%150%150%
    Phó chủ tịch HĐTQ4125%250%125%
    Các trưởng ban8112,5%225%562,5%

    + Về năng lực của học sinh (Theo kết quả bàn giao đầu năm):


    Số
    Năng lực
    Tự phục vụ, tự quảnHợp tácTự học, giải quyết vấn đề
    38TốtĐạtCCGTốtĐạtCCGTốtĐạtCCG
    102085201313241

    + Về phẩm chất của học sinh (Theo kết quả bàn giao đầu năm):


    Số
    Phẩm chất
    Chăm học, chăm
    làm
    Tự tin, trách
    nhiệm
    Trung thực, kỉ
    luật
    Đoàn kết, yêu
    thương
    TốtĐạtCCGTốtĐạtCCGTốtĐạtCCGTốtĐạtCCG
    38829182731025324131

    Qua nghiên cứu và khảo sát, tôi đã xác định được một số nguyên nhân
    như sau:
    a. Về phía học sinh.
    – Do các em ở vùng nông thôn không được thường xuyên tiếp xúc với các
    khu giải trí đông người như: Khu vui chơi, sở thú, siêu thị, rạp chiếu phim, công
    viên, nhà hàng, khách sạn… nên các em rất sợ sệt, nhút nhát, ít nói, nói nhỏ, tự
    ti vào năng lực của bản thân, không dám thể hiện, sợ nói ra bạn bè chê cười.
    5
    – Do bố mẹ phần lớn là nông dân thường xuyên bận bịu với công việc,
    không có thời gian quan tâm, gần gũi và dạy dỗ con cái.
    – Do hoàn cảnh gia đình, trong lớp tôi có 6 em có hoàn cảnh khó như: gia
    đình nghèo, học sinh mồ côi, bố, mẹ hoặc bản thân học sinh ốm đau thường
    xuyên, học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà… Tất cả
    những học sinh này đều thiếu thốn tình cảm, hoặc thiếu thốn vật chất, hoặc thiếu
    sự chăm sóc của bố mẹ. Những điều này đều ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
    triển tính cách của các em.
    – Do học nhau, các em thấy bạn nhút nhát, không nói, không làm thì mình
    cũng học theo.
    – Do học sinh còn ích kỷ, chưa đoàn kết, chưa biết tương trợ, hợp tác nhau
    trong mọi công việc vì các em chỉ quen và nghe theo sự hướng dẫn của giáo
    viên.
    – Hội đồng tự quản chỉ tập trung ở một số em nên giáo viên muốn nhân
    rộng để thi đua cũng khó.
    – Hội đồng tự quản chưa biết điều hành, tổ chức chưa hiệu quả, chưa linh
    hoạt, vẫn còn đang phụ thuộc nhiều vào sự hướng dẫn, điều hành của giáo viên.
    b. Về phía giáo viên.
    – Giáo viên còn quen cách dạy truyền thống, giáo viên là trung tâm.
    – Giáo viên chưa nắm vững tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh gia đình, đặc trưng
    của vùng miền.
    – Chưa nắm được mục tiêu của mô hình giáo dục mới.
    c. Phân tích ưu, nhược điểm của phương pháp cũ
    – Theo phương pháp cũ thì mọi hoạt động giáo viên là trung tâm, Giáo
    viên là người điều hành, quan sát, nhận xét, đánh giá mọi hoạt động của học
    sinh nên học sinh không mạnh dạn, tự tin, rất rụt rè, nhút nhát, rất sợ sệt khi
    phải nói, phải trình bày ý kiến của mình. Cán bộ lớp điều hành, giám sát, đánh
    giá, giúp đỡ các bạn trong mọi công việc không được tốt, không biết điều hành
    và quản lớp khi giáo viên đi vắng. Mọi hoạt động của lớp đều do giáo viên
    điều hành là chính.
    6
    * Xuất phát từ những thực trạng, những nguyên nhân trên là một giáo viên
    đang trực tiếp dạy lớp 4, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau đây, hy vọng
    sẽ giúp các em thêm mạnh dạn, đoàn kết, biết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và
    phát huy được tác dụng của bộ máy hội đồng tự quản cho lớp tôi.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Các giải pháp của sáng kiến:
    – Giải pháp 1: Giáo viên và học sinh phải hiểu được “Hội đồng tự quản”
    là gì? Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của “Hội đồng tự quản” học sinh là gì?
    – Giải pháp 2: Chuẩn bị tâm lí, tư tưởng cho học sinh trước khi bầu “Hội
    đồng tự quản” và tổ chức bầu “Hội đồng tự quản” của lớp:
    – Giải pháp 3: Giao nhiệm vụ cho HĐTQ.
    – Giải pháp 4: Hình thành một số kỹ năng điều hành cho các thành viên
    trong HĐTQ như những người thầy thứ hai:
    – Giải pháp 5: Tạo môi trường thân thiện giữa giáo viên với HĐTQ, giữa
    HĐTQ với các bạn trong lớp.
    – Giải pháp 6: Thường xuyên nêu gương các thành viên trong HĐTQ:
    – Giải pháp 7: Giáo viên tổ chức họp kín với HĐTQ.
    – Giải pháp 8: Tổ chức cho học sinh viết thư góp ý, chia sẻ với HĐTQ và
    viết phiếu đánh giá, nhận xét HĐTQ.
    – Giải pháp 9: Luân phiên thay đổi thành viên của HĐTQ .
    – Giải pháp10: Tổ chức cho HĐTQ giao lưu, học hỏi lẫn nhau.
    – Giải pháp 11: Xây dựng và phát huy tác dụng của một số góc hỗ trợ cho
    HĐTQ.
    – Giải pháp 12: Phối hợp với các cơ quan, đoàn thể, với phụ huynh, để
    khích lệ và giúp đỡ HĐTQ.
    *Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ: Tính mới
    trong đề tài nghiên cứu của tôi chính là phát huy tác dụng của bộ máy HĐTQ
    bằng cách: Khích lệ, tạo niềm tin, tạo uy tín, tạo hứng thú và bồi dưỡng kỹ
    năng, năng lực cho HĐTQ hoạt động có hiệu quả. Giúp HĐTQ biết nêu vấn đề,
    7
    biết giao nhiệm vụ, biết quan sát, biết hỗ trợ, giúp đỡ, biết nhận xét đánh giá,
    biết lãnh đạo các hoạt động của lớp trên tinh thần dân chủ, tôn trọng, tự tin, tự
    nguyện, tự giác, tương trợ, bình đẳng và đoàn kết.
    2.2. Cách thức thực hiện các giải pháp:
    2.2.1. Giải pháp 1: Giáo viên và học sinh phải hiểu “Hội đồng tự quản” là gì?
    Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của “Hội đồng tự quản” học sinh là gì?
    a. Mục đích:
    Giáo viên và học sinh phải nắm chắc được ý nghĩa, mục đích, nhiệm vụ,
    vai trò của “Hội đồng tự quản” thì mới có định hướng đúng đắn để thành lập
    được HĐTQ và hoạt động tốt được. Sau khi giáo viên và học sinh trong lớp
    nắm được từ đó các em mới định hướng được ý nghĩa, tác dụng và công việc
    mình sắp làm và xem với khả năng của bản thân thì mình có đủ phẩm chất, năng
    lực và uy tín để có thể tham gia được hay không.
    b. Hình thức tổ chức:
    Trước hết, giáo viên phải tìm hiểu và nắm chắc ý nghĩa, mục đích, nhiệm
    vụ, vai trò của “Hội đồng tự quản” thông qua các công văn, thông qua mạng
    Itenet, thông qua học hỏi đồng nghiệp và thực tế tình hình học sinh lớp mình chủ
    nhiệm.
    Sau đó giáo viên trau dồi, giảng giải, phân tích, hướng dẫn cho các em hiểu
    và nắm được ý nghĩa, mục đích, nhiệm vụ, vai trò của HĐTQ. Cụ thể:
    – “Hội đồng tự quản” là: Hội đồng tự quản là một tổ chức của học sinh,
    do học sinh thành lập ở từng lớp, dưới sự hướng dẫn của giáo viên và cha mẹ
    các em. Hội đồng tự quản và các Ban chuyên trách được thành lập theo một quy
    trình dân chủ và tự nguyện do các em học sinh tự đứng ra tổ chức, tự điều hành
    và phục vụ lợi ích học tập, giáo dục cho chính các em.
    – Mục đích thành lập ra“Hội đồng tự quản” là:
    + Thành lập HĐTQ học sinh là giúp học sinh được phát huy quyền làm
    chủ trong quá trình học tập, giáo dục. Nhằm thúc đẩy sự phát triển các em cả về
    phẩm chất và năng lực của học sinh thông qua những kinh nghiệm hoạt động
    8
    thực tế của các em trong lớp, trong trường và mối quan hệ với những người
    xung quanh.
    + Thành lập HĐTQ học sinh là vì học sinh và bởi học sinh để đảm bảo
    cho các em tham gia hoạt động một cách dân chủ và tích cực vào đời sống học
    đường; khuyến khích các em tham gia một cách toàn diện vào các hoạt động của
    nhà trường và phát triển lòng khoan dung, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp
    tác và đoàn kết cho học sinh.
    + Thành lập HĐTQ học sinh là giúp học sinh phát triển kỹ năng ra quyết
    định, kỹ năng hợp tác và kỹ năng lãnh đạo. Đồng thời cũng chuẩn bị cho các em
    ý thức, trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình.
    – Nhiệm vụ, vai trò của Hội đồng tự quản là:
    Các em có thể lãnh đạo, nắm bắt, điều hành, nhận xét, đánh giá mọi hoạt
    động của lớp, khi cần thiết mới cần Giáo viên trợ giúp.
    c. Hiệu quả:
    Việc làm này đã giúp học sinh lớp tôi thêm mạnh dạn, tự tin và hứng thú
    không bị sợ sệt với công việc của HĐTQ và chính học sinh đã thấy được HĐTQ
    không có gì xa vời và các nhiệm vụ không có gì là khó khăn quá đối với năng
    lực của học sinh tiểu học.
    2.2.2. Giải pháp 2: Chuẩn bị tâm lí, tư tưởng cho học sinh trước khi bầu “Hội
    đồng tự quản” và tổ chức bầu “ Hội đồng tự quản” của lớp:
    * Chuẩn bị tâm lí, tư tưởng cho học sinh trước khi bầu “Hội đồng tự quản”.
    a. Mục đích :
    Hình thành cho học sinh ý thức tự tin, tự nguyện, tự giác, tính bình đẳng,
    tính dân chủ và giúp các em thấy được sự cần thiết phải tham gia vào HĐTQ để
    hoàn thiện bản thân, để khảng định năng lực của mình và phát triển năng lực
    lãnh đạo ngay từ khi là học sinh tiểu học, làm tiền đề cho tương nai sau này.
    b. Hình thức tổ chức
    Trong một buối sinh hoạt lớp, trước khi tiến hành bầu HĐTQ của lớp,
    giáo viên chuẩn bị tâm lí, tư tưởng cho học sinh dưới hình thức trò chuyện, tâm
    9
    sự, giảng giải, thảo luận, phỏng vấn với học sinh cả lớp, để học sinh có tư tưởng
    vững vàng, tâm lý thoả mái, tự tin ứng cử và khi được đề cử.
    – Cụ thể giáo viên trò chuyện, tâm sự, giải thích, phân tích, giảng giải như
    sau:
    + Đây là HĐTQ học sinh, cho HS, vì HS, nên học sinh nào cũng có quyền
    ứng cử, đề cử dưới tinh thần nhiệt tình, tự nguyện, tự giác và được sự tín nhiệm
    của bạn bè. Tham gia HĐTQ sẽ giúp các em thêm mạnh dạn, tự tin. Tham gia
    HĐTQ sẽ giúp các em thêm khảng định khả năng điều hành của bản thân. Nếu
    không tham gia HĐTQ các em không có cơ hội thể hiện và phát huy năng lực
    của mình và để các bạn thấy được khả năng, năng lực của bản thân các em.
    + Những học sinh đã học tốt rồi thì cần tham gia để hoàn thiện bản thân
    thêm mạnh dạn, tự tin, dùng những hiểu biết của mình để giúp đỡ các bạn khác
    trong mọi lĩnh vực và hình thành, phát huy tố chất lãnh đạo ngay từ bây giờ, làm
    tiền đề cho tương lai.
    + Những HS học chưa tốt bằng bạn nhưng điều hành lớp thì có thể
    làm được, cũng nên tham gia ứng cử rồi mình vừa tham gia HĐTQ vừa cố gắng
    học tốt để phù hợp với chức danh mình đang đảm nhiệm.
    + Những học sinh học tập chưa tốt, chưa mạnh dạn, tự tin cũng cần phải
    tham gia để tạo cơ hội phát triển bản thân. Nhiều khi bản thân mình chưa bằng
    bạn nhưng thấy bạn làm được thì mình cũng phải học bạn, phải làm thử xem
    mình học bạn được bằng nào, mình hơn bạn ở chỗ nào …
    + Tham gia HĐTQ nếu làm tốt thì được tuyên dương và được các bạn học
    tập. Nếu làm chưa tốt thì cần rút kinh nghiệm để làm lại cho tốt chứ không có
    phê bình, khiển trách. Vì vậy học sinh nào cũng cần và có thể tham gia, miễn
    sao các em có được sự tín nhiệm của bạn bằng những lời lẽ thuyết phục hợp lí,
    bằng năng lực và phẩm chất sẵn có của mình để các bạn tin tưởng cho các em
    thử sức.
    + Được bầu vào HĐTQ là niềm tự hào cả về năng lực lẫn phẩm chất và sự
    tín nhiệm của bạn bè nên những ai đã được bầu thì là mình đã có uy tín với các
    bạn nên phải cố gắng làm cho thật tốt.
    10
    – Giáo viên tổ chức phỏng vấn, thảo luận với học sinh để nắm bắt tâm tư,
    nguyện vọng của học sinh mà giúp các em có định hướng đúng đắn trước khi
    bầu HĐTQ :
    VD: Em có muốn đảm nhiệm một chức vụ trong HĐTQ không? Vì sao?
    Năm học trước em đã là CT HĐTQ, năm học này em còn muốn đảm nhiệm
    chức vụ đó nữa không ? Em thích đảm nhiệm chức vụ nào trong HĐTQ? Vì
    sao? Nếu em được các bạn tín nhiệm bầu vào HĐTQ thì em phải học tập và tu
    dưỡng như thế nào? Vì sao? Nếu em được bầu vào HĐTQ em sẽ tham gia điều
    hành như thế nào ?…
    c. Hiệu quả. Qua việc trò chuyện, tâm sự, giảng giải, thảo luận, phỏng vấn với
    học sinh tôi thấy nhiều học sinh trong lớp tôi mong muốn được đảm nhiệm các
    chức vụ trong HĐTQ, đã có tư tưởng vững vàng, tâm lý thoả mái, tự tin để ứng
    cử vào HĐTQ. Các em đã xác định được HĐTQ không chỉ hình thành năng lực,
    phẩm chất mà nó còn là sự tín nhiệm, sự tin tưởng của bạn bè, là niềm tự hào và
    là môi trường cho các em rèn luyện hoàn thiện và phát triển bản thân.
    * Tổ chức bầu “ Hội đồng tự quản” của lớp:
    a. Mục đích :
    Học sinh được thể hiện quyền dân chủ của mình, học sinh được lựa trọn,
    được đề cử, ứng cử, được bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình. Học sinh được
    bầu vào HĐTQ thấy được sự tín nhiệm của các bạn đối với mình mà thực hiện
    nhiệm vụ được giao tốt hơn. Học sinh khác thì cũng có trách nhiệm hơn với sự
    lựa trọn của mình mà luôn ủng hộ, giúp đỡ và tuân theo sự chỉ đạo của HĐTQ,
    nhờ đó mà HĐTQ hoạt động sẽ có hiệu quả hơn.
    b. Hình thức tổ chức
    Sau khi chuẩn bị tâm lí, tư tưởng, phân tích, trao đổi suy nghĩ để học sinh
    tự nhận ra những ưu, nhược, thấy sự cần thiết của bản thân khi tham gia vào
    HĐTQ thì tôi tiến hành bầu HĐTQ. Các bước thành lập HĐTQ như sau:
    Bước 1: Tôi Dựa vào biên bản bàn giao lớp đầu năm. Tôi lấy ý kiến tư vấn của
    giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn năm trước và ý kiến tư vấn của học sinh
    trong lớp để nắm được số lượng học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học
    11
    tập và rèn luyện năm trước, số học sinh mạnh dạn, nhanh nhẹn, tự tin, tự giác,
    nói to, số học sinh nhiệt tình trong công việc tập thể và có năng lực lãnh đạo, số
    học sinh có thể nhờ sự giúp đỡ, tư vấn của phụ huynh…
    Bước 2: Xây dựng kế hoạch bầu cử :
    + Cơ cấu HĐTQ gồm: 1 chủ tịch HĐTQ, 2 hoặc 3 phó chủ tịch HĐTQ
    tùy theo tình hình của lớp và số lượng các ban.
    + Dự kiến ngày bầu cử.
    + Dự kiến chủ tọa.
    + Dự kiến thư ký.
    + Nhiệm vụ cụ thể để giao cho từng thành viên trong HĐTQ
    Bước 3: Học sinh tiến hành bầu cử. Cách tiến hành như sau:
    – Từ những phân tích trên, kết hợp với yêu cầu tư vấn hỗ trợ của phụ
    huynh giúp các em đã nhận năng lực của bản thân, từ đó tôi khuyến khích các
    em xung phong ứng cử.
    – Tiếp theo tôi cho học sinh trong lớp đề cử đối với những học sinh còn
    lưỡng lự và chưa đủ tự tin.
    – Các em được đề cử và ứng cử tiến hành thuyết trình tranh cử trước lớp
    để các bạn thấy điểm mạnh và phương hướng hoạt động của từng em mà bình
    chọn cho chính xác.
    VD : Tôi tên là Đàm Thị Ngọc Anh. Trong năm học trước tôi đã làm chủ
    tịch HĐTQ nhiều khóa. Bản thân tôi nhận thấy tôi đã làm rất tốt những nhiệm
    vụ mà cô giáo giao cho chủ tịch HĐTQ. Trong suốt thời gian đảm nhiệm chức
    vụ này, tôi luôn được các bạn ủng hộ và nghe theo. Tôi muốn tiếp tục được giữ
    chức vụ này. Mong các bạn hãy bình chọn cho tôi, Nếu được bình chọn tôi xin
    hứa sẽ cố gắng, lỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình.
    VD : Tôi là Trần Thị Bảo Yến. Trong năm học trước, tôi đã đảm nhiệm một
    khóa chủ tịch HĐTQ, ba khóa phó chủ tịch HĐTQ. Trong thời gian đảm nhiệm
    những chức vụ này tôi chưa thực sự nhiệt tình, nhiều khi còn sợ các bạn trêu và
    không nghe theo nên giao công việc cho các ban chưa rõ ràng, một số công việc
    hoàn thành chưa tốt. Tôi muốn tiếp tục được làm phó chủ tịch HĐTQ rất mong
    12
    muốn các bạn hãy bình chọn cho tôi thử sức và hoàn thiện bản thân mình hơn
    nữa, tôi xin hứa nếu được là phó chủ tịch HĐTQ tôi sẽ nhiệt tình, mạnh dạn, tự
    tin hơn và sẽ không làm các bạn thất vọng về khả năng điều hành của tôi nữa.
    – Các em tự biểu quyết theo quan điểm riêng của mình để thể hiện quyền
    dân chủ của mình và từ đó các em có trách nhiệm hơn với các chỉ đạo của
    HĐTQ.
    – Tiến trình và Kết quả bầu cử của lớp tôi được thể hiện ở biên bản sau:
    (Biên bản này được tôi sao lại của HĐTQ)

    Trường Tiểu học Nam ĐiềnCỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
    —-o0o—-

    BIÊN BẢN BẦU HỘI ĐỒNG TỰ QUẢN LỚP 4A
    NĂM HỌC 2019 – 2020
    Hôm nay vào hồi 14 giờ, ngày 6 tháng 9 năm 2020, tại Phòng học lớp 4A.
    I. THÀNH PHẦN THAM DỰ: Các thành viên có mặt:
    1. Giáo viên chủ nhiệm lớp: Cô Phạm Thị Mai.
    2. Hội trưởng Hội CMHS: Bà Nguyễn Thị Hồi.
    3. Chủ tọa : Bạn Đàm Thị Ngọc Anh.
    4. Thư ký : Bạn Phạm Thị Thùy Trang.
    5. Học sinh có mặt: 38 bạn. Học sinh vắng mặt: 0 bạn
    II. NỘI DUNG
    1. Chủ tọa tuyên bố mục đích cuộc họp: Cuộc họp nhằm bầu ra chủ tịch
    HĐTQ, phó chủ tịch HĐTQ và các trưởng ban.
    2. Thảo luận và biểu quyết về cơ cấu HĐTQ và tiêu chuẩn các thành viên
    trong HĐTQ:
    * Thảo luận biểu quyết về cơ cấu của HĐTQ sắp bầu:
    Kết quả như sau: 100% các bạn trong lớp nhất trí cơ cấu HĐTQ gồm:
    + Chủ tịch HĐTQ : 1 bạn
    13
    + Phó CT- HĐTQ : 2 bạn
    + Trưởng ban: 4 bạn
    * Thảo luận và biểu quyết về tiêu chuẩn lựa chọn các bạn có đủ tư cách, năng
    lực, trình độ để đảm nhiệm các chức vụ trong Hội đồng tự quản của lớp.
    Kết quả như sau: 100% các bạn trong lớp nhất trí tiêu chuẩn sau:
    * Tiêu chuẩn:
    – Những bạn học sinh có kiến thức kỹ năng năm học trước hoàn thành tốt,
    phẩm chất tốt.
    – Có khả năng tổ chức và hoàn thành tốt hoạt động giáo dục.
    – Nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc
    – Có sức khỏe tốt.
    3. Kết quả đề cử và ứng cử vào HĐTQ.
    – Kết quả: Ứng cử: 6 bạn. Đề cử: 4 bạn
    4. Ý kiến phát biểu tranh cử của từng bạn được đề cử, ứng cử để các bạn
    trong lớp tin tưởng mà bình chọn cho mình.
    5. Kết quả biểu quyết bộ máy HĐTQ:
    Sau thời gian thảo luận đi đến quyết định bầu cử theo biểu quyết:
    * Bầu chủ tịch và phó chủ tịch:
    – Chủ tịch HĐTQ: Đàm Thị Ngọc Anh. Số phiếu tán thành (38/38) đạt 100%.
    – Phó CT HĐTQ: Bùi Trần Minh Đức. Số phiếu tán thành (35/38) đạt 92%.
    – Phó CT HĐTQ: Trần Thị Bảo yến. Số phiếu tán thành (36/38) đạt 95%.
    * Bầu các trưởng ban :
    + Trưởng ban HT: Phạm Thị Thùy Trang. Số phiếu tán thành 34/38 đạt: 90%.
    + Trưởng ban VN- TDTT: Trần Thùy Chi. Số phiếu tán thành 30/38 đạt: 79%.
    + Trưởng ban Lao động – vệ sinh: Nguyễn Tiến Lộc. Số phiếu tán thành 29/38
    đạt 76%.
    + Trưởng ban thư viện – chuyên cần: Lê Thị Thu Phương. Số phiếu tán thành
    28/38 đạt 74%.
    6. Hội đồng tự quản ra mắt:
    7. Giáo viên chủ nhiệm giao nhiệm vụ và dặn dò:
    14
    8. Ông/ bà Hội trưởng hội CMHS chúc mừng và căn dặn thêm khi ở nhà.
    Thư ký cuộc họp thông qua biên bản và ký tên:
    Cuộc họp kết thúc vào hồi: 17 giờ cùng ngày./.

    CHỦ TỌA
    Đàm Thị Ngọc Anh
    Nam Điền, ngày 6 tháng 9 năm 2020
    THƯ KÍ
    Phạm Thị Thùy Trang

    Ảnh: HĐTQ ra mắt cả lớp
    c. Hiệu quả : Sau khi bầu HĐTQ tôi thấy tất cả học sinh đều phấn khởi, với
    những lựa chọn sáng suốt của mình. Các em được trúng cử cũng tự tin, tự hào
    hơn đối với vai trò, nhiệm vụ mình sắp phải đảm nhiệm.
    2.2.3. Giải pháp 3: Giao nhiệm vụ cho Hội đồng tự quản:
    a. Mục đích: Giúp cho HĐTQ nắm chắc được nhiệm vụ, công việc cụ thể của
    mình mà thực hiện và điều hành cho tốt. Giúp cho các học sinh trong lớp nắm
    được công việc của HĐTQ mà theo dõi, nhận xét, giúp đỡ, nhắc nhở các bạn
    trong HĐTQ làm tốt công việc của mình hơn nữa.
    b. Hình thức tổ chức:
    – Nhiệm vụ của mỗi em được giáo viên ghi rõ ràng trong cuốn sổ, sau đó
    tôi phát sổ cho các em và lần đầu tôi cho các em đọc to cho các bạn nghe nhiệm
    vụ của mình trong giờ sinh hoạt lớp,
    15
    – Trong một số giờ sinh hoạt lớp sau đó giáo viên cho các em nhắc lại
    nhiệm vụ của mình cho cả lớp nghe.
    – Giáo viên hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ một cách khoa
    học, cụ thể, rõ ràng.
    – Giáo viên yêu cầu mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Ngoài ra
    các thành viên trong HĐTQ phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ trong công việc
    chung.
    Ảnh: Sổ ghi chép của HĐTQ.
    Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em như sau:
    * Nhiệm vụ của Chủ tịch:
    – Theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, đánh giá, điều hành 2 phó chủ
    tịch và các ban hoạt động.
    – Hàng ngày điểm danh và ghi sĩ số của lớp lên bảng.
    – Điều khiển lớp xếp hàng chào cờ đầu tuần, xếp hàng tập thể dục, múa
    hát giữa giờ.
    – Quản lớp khi cần thiết như giờ truy bài, khi giáo viên vắng lớp.
    16
    – Tham gia các cuộc họp giao ban HĐTQ vào sáng thứ hai hàng tuần
    trong giờ ra chơi có sổ ghi chép.
    – Truyền đạt lại nội dung trao đổi, nhận xét và đề xuất của Tổng phụ trách
    với HĐTQ các lớp.
    – Phát động các phong trào thi đua chào mừng các ngày lễ lớn.
    – Lên kế hoạch cho các bạn trải nghiệm trong lớp, trên sân trường và
    ngoài vườn thực nghiệm.
    – Điều hành và rút kinh nghiệm trong giờ sinh hoạt lớp.
    – Đề nghị giáo viên tuyên dương, nhắc nhở cá nhân hoặc tập thể.
    Ảnh: HĐTQ quản lớp trong giờ tự học.
    Ảnh: HĐTQ tổ chức cho các bạn làm cờ thi đua.
    17
    Ảnh: HĐTQ tổ chức cho các bạn trang trí lớp.
    * Nhiệm vụ của phó Chủ tịch 1: (phụ trách ban học tập và ban Lao động – vệ
    sinh):
    – Theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, đánh giá, điều hành mọi hoạt
    động của ban Học tâp và ban Lao động- vệ sinh.
    – Tổ chức, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở cho các bạn truy bài, chữa bài,
    kiểm tra bài và ra bài tập cho các bạn khi cô giáo đi vắng.
    – Điều hành và kết hợp với ban học tập giúp đỡ các bạn trong học tập.
    – Phân công, đôn đốc, nhắc nhở, Kiểm tra các bạn trực nhật, làm vệ sinh
    sân trường, lớp học, chăm sóc vườn cây bồn cây.
    – Tham gia các cuộc họp giao ban HĐTQ vào sáng thứ hai hàng tuần
    trong giờ ra chơi có sổ ghi chép.
    – Rút kinh nghiệm hoạt động của 2 ban học tập và lao động vệ sinh trong
    tuần qua và nêu phương hướng về học tập và lao động vệ sinh trong tuần tới
    trong giờ sinh hoạt lớp.
    18
    Ảnh: Phó chủ tịch HĐTQ nêu phương hướng về HT và LĐVS trong 2 tuần tới.
    * Nhiệm vụ của phó Chủ tịch 2: (phụ trách ban Văn nghê – thể dục thể thao và
    ban Thư viện – chuyên cần):
    – Điều hành, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, đánh giá và chịu trách nhiệm
    mọi hoạt động của 2 ban Văn nghệ- thể dục thể thao và ban Thư viện – chuyên
    cần.
    – Dạy và điều hành cho các bạn chơi trò chơi.
    – Tổ chức sinh nhật cho các bạn theo tháng vào buổi sinh hoạt lớp tuần
    cuối cùng của tháng.
    – Lựa chọn và dạy các tiết mục Văn nghệ cho các bạn để sinh hoạt dưới cờ
    và chào mừng những ngày lễ lớn.
    – Nhắc nhở các bạn mặc đồng phục và đeo khăn quàng đúng quy định.
    -Tham gia các cuộc họp giao ban HĐTQ vào sáng thứ hai hàng tuần trong
    giờ ra chơi có sổ ghi chép.
    – Rút kinh nghiệm hoạt động của 2 ban Văn nghệ- thể dục thể thao và ban
    Chuyên cần trong tuần đã qua.
    – Nêu phương hướng về văn nghệ, thể dục thể thao và chuyên cần trong
    tuần tới trong giờ sinh hoạt lớp.
    19
    Ảnh: Phó CT HĐTQ tổ chức cho các bạn chơi trò chơi khởi động đầu giờ học.
    * Hội đồng tự quản thảo luận cùng các bạn trong lớp bầu ra các Ban (4
    Ban giúp việc cho Hội đồng tự quản) gồm: Ban Học tập, Ban Lao đông vệ sinh,
    Ban Văn nghệ-thể dục thể thao, Ban Chuyên cần-thư viện. Các Ban đều có
    trưởng ban và các thành viên. Mỗi Ban có một cuốn sổ theo dõi hoạt động. Các
    Ban làm việc dưới sự giám sát và điều hành của Hội đồng tự quản và giáo viên
    chủ nhiệm.
    Ảnh: Sơ đồ HĐTQ lớp tôi.
    Tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng ban như sau:
    20
    * Ban học tập có nhiệm vụ:
    – Phát sách vở và đồ dùng.
    – Kiểm tra bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo với cô giáo vào đầu các
    buổi học.
    – Tùy theo từng bài, từng nội dung, từng hoạt động giáo viên có thể để
    ban học tập lên điều hành, kiểm tra, đánh giá, nhận xét các bạn thay cho giáo
    viên.
    – Trong giờ tự học, giờ truy bài, giờ ra chơi… ban học tập còn có nhiệm
    vụ giúp đỡ các bạn yếu học tập.
    – Trong các tiết học, ngoài nhiệm vụ học tập của mình, các thành viên
    trong ban học tập còn phải quan sát, bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét
    đánh giá ý thức học tập của các bạn trong lớp.
    – Muốn làm được tốt các công việc đó, cuối mỗi buổi học, tôi thường mời
    ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học đạt hiệu quả cho học sinh lớp 4

    SKKN Biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học đạt hiệu quả cho học sinh lớp 4

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện giúp cho giáo viên và học sinh tổ
    chức hợp lý có hiệu quả quá trình giáo dục đối với các môn học trong nhà trường nhằm
    thực hiện chương trình dạy học. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị
    đồ dùng dạy học là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học
    sinh thực hiện mục tiêu dạy học. Hơn nữa thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực
    tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận
    thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành.
    Thực hiện công văn số 1241 của Sở Giáo dục và Đào tạo về việc Phát động
    “Phong trào tự làm đồ dùng dạy học, nâng cao hiệu quả các góc hỗ trợ giáo dục” năm
    học 2017-2018 nhằm mục đích:
    + Thứ nhất: Thúc đẩy phong trào tự làm đồ dùng dạy học, tạo môi trường học tập
    hấp dẫn, thân thiện, bền vững, góp phần đổi mới phương pháp đáp ứng yêu cầu phát
    triển năng lực và phẩm chất học sinh.
    + Thứ hai: Lựa chọn phổ biến và nhân rộng các đồ dùng sử dụng có hiệu quả góp
    phần nâng cao chất lượng giáo dục.
    Thực tế, làm và sử dụng đồ dùng dạy học đóng vai trò quan trọng góp phần cho
    sự thành công của việc dạy – học. Muốn học sinh nhớ bài lâu, hiểu bài sâu thì trước tiên
    người giáo viên phải biết cách làm và sử dụng tốt đồ dùng dạy học có hiệu quả, vận
    dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, khéo léo trong từng tiết dạy để học sinh tiếp thu bài
    học từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đồng thời giúp cho học sinh phát huy
    tính tò mò, năng động, sáng tạo, say mê trong giờ học.
    Trong quá trình dạy học, đồ dùng dạy học giảm nhẹ công việc của giáo viên và
    giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các đồ dùng thích hợp,
    người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy,
    làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo ra cho
    học sinh hứng thú với môn học.
    Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh tăng
    dần theo các cấp độ của tri giác: nghe – thấy – làm được (những gì nghe được không
    bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì tự tay làm)
    Đối với học sinh tiểu học, thiết bị dạy học lại càng đặc biệt quan trọng vì nó giúp
    các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn
    nội dung bài học, hình thành tốt kỹ năng kỹ xảo.
    3
    Nếu việc dạy chay, dạy suông làm cho người học thụ động không phát huy được
    tính tích cực, chủ động sáng tạo thì sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị sẽ là cầu nối giữa
    người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong việc thực hiện
    mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo và làm cho chất lượng giảng
    dạy và học tập được nâng cao.
    Bên cạnh đó, dù giáo viên nhận thức đúng ý nghĩa, tác dụng to lớn của đồ dùng
    dạy học trong quá trình hình thành kiến thức cho học sinh, nhiều giáo viên đã biết vận
    dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ các đồ dùng dạy học. Song cũng có nhiều
    giáo viên vẫn chưa hiểu rõ cấu tạo của bộ đồ dùng. Đặc biệt những thao tác kỹ thuật
    trong khi sử dụng đồ dùng dạy học theo những dụng ý sư phạm còn ít được giáo viên
    chú ý. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu chọn đề tài:“Biện pháp sử dụng đồ dùng dạy
    học đạt hiệu quả cho học sinh lớp 4”.
    II. Mô tả giải pháp:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    * Thuận lợi:
    – Năm học 2019 – 2020, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4B.
    Sĩ số lớp có 29 học sinh. Đa số học sinh ngoan, lễ phép với thầy cô, biết vâng lời, có ý
    thức kỉ luật cao. Biết phê bình, tự phê bình, có tinh thần thi đua trong học tập. Ý thức
    chấp hành nội quy của các em rất cao. Hầu hết các em đều tập trung tìm hiểu, suy nghĩ
    để trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài ở nhà, làm được các bài
    tập ứng dụng cuối bài, quan sát tranh ảnh và trình bày trên đồ dùng cho nên khi học các
    em luôn chú ý để hiểu nội dung bài học, tích cực thảo luận nhóm, đưa ra các tình huống
    có vấn đề và tìm cách giải quyết. Học sinh biết cố gắng học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau để
    nắm bắt kiến thức thông qua các hoạt động thảo luận, vấn đáp, đọc sách, quan sát đồ
    dùng, tranh ảnh,… các em đã mạnh dạn trình bày các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện
    chiếm lĩnh kiến thức của mình.
    – Lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy và học
    trong đó có việc làm và sử dụng đồ dùng tự làm của giáo viên.
    – Nhà trường có đội ngũ giáo viên bộ môn có chuyên môn vững vàng, nhiệt tình
    trong giảng dạy. Ban Giám Hiệu nhà trường luôn sát sao trong công việc, kịp thời, động
    viên, giúp đỡ giáo viên trong nhà trường khi gặp khó khăn.
    – Tôi luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ đồng chí giáo viên trong nhà
    trường, đặc biệt là giáo viên trong tổ, khối.
    – Nhà trường có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, khang trang. Tạo không khí
    phấn khởi trong học sinh và giáo viên; đảm bảo tốt cho công tác dạy và học.
    4
    – Được sự nhiệt tình phối hợp chặt chẽ của các bậc phụ huynh với giáo viên chủ
    nhiệm trong việc rèn luyện giáo dục học sinh.
    * Khó khăn:
    – Đồ dùng dạy học chưa đồng đều tất cả các bộ môn.
    – Sử dụng đồ dùng trong giờ học đạt hiệu quả thì đòi hỏi giáo viên cần phải đầu
    tư nhiều thời gian nghiên cứu bài, phải biết kết hợp khéo léo trong giờ dạy và phân bố
    thời gian hợp lí.
    – Phiếu học tập còn nặng nề về sao chép, chưa phát huy được hết khả năng của học
    sinh.
    – Đồ dùng thiết bị phục vụ cho dạy học còn hạn chế nên học sinh tư duy còn thụ
    động, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của mình.
    – Việc bảo quản đồ dùng dạy học còn khó khăn.
    Một góc nhỏ không gian lớp 4B trường Tiểu học Tam Thanh
    5
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Phát huy hiệu quả đồ dùng được cấp phát và tận dụng môi trường lớp học:
    Mục đích: Giáo viên trong nhà trường sử dụng triệt để các đồ dùng thiết bị được
    cấp phát từ đó có thái độ giữ gìn và bảo quản tốt các thiết bị đồ dùng đó. Biết sử dụng
    đúng mục đích và sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên.
    Nội dung: Sử dụng đồ dùng, các trang thiết bị được cấp phát. Tổ chức các hoạt
    động giáo dục trong và ngoài lớp học có sử dụng đồ dùng được cấp phát. Tận dụng tối
    đa không gian lớp học để học sinh được tiếp xúc với đồ dùng học tập và tạo ra sản
    phẩm mới; tận dụng không gian của các bức tường trong và ngoài lớp để trưng bày các
    sản phẩm của học sinh, các góc học tập và bảng ghi nhớ kiến thức.
    Biện pháp:
    Sử dụng hiệu quả đồ dùng được cấp phát và đồ dùng có trong trường.
    Sử dụng hiệu quả đồ dùng trước hết tôi thường chú ý đến việc sử dụng hiệu quả
    đồ dùng được cấp phát. Có nhiều hoạt động không nhất thiết giáo viên phải hì hục thiết
    kế đồ dùng thật kỳ công, tạo ra nhiều đồ dùng mới lạ mà quên hẳn những đồ dùng được
    cấp phát cũng có thể mang lại hiệu quả tương tự, thậm chí là cao hơn, còn đồ dùng đã
    làm ra thì lại thấy không cần thiết hiếm khi dùng đến.
    Ngoài việc sử dụng đúng chức năng, mục đích sử dụng đồ dùng, tôi còn chú ý
    nhiều đến việc sử dụng đồ dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường độ sử dụng đồ dùng.
    Hoặc trong việc sắp xếp, chọn vị trí đặt đồ dùng, đồ chơi tôi thường chú ý đến tính hợp
    lý của vị trí đồ dùng để hoạt động bảo đảm tính tự nhiên, khoa học.
    Ví dụ: Như trong các tình huống đặt câu đố với học sinh thì trước đó tôi chú ý
    không cho đồ dùng được đố ở nơi mà học sinh có thể nhìn thấy được cho đến khi có
    đáp án. Hay trong việc chuyển tiếp hoạt động, nếu đồ dùng không còn sử dụng cho các
    hoạt động tiếp theo thì cũng không đặt trong tầm quan sát của học sinh để tránh cho học
    sinh bị phân tâm, mất tập trung trong hoạt động kế tiếp.
    Tôi thường chú ý đến việc sử dụng đồ dùng giữa các hoạt động. Tôi thường tránh
    việc sử dụng lại đồ dùng quá 2 lần với cùng một cách thức sử dụng trong một chủ đề.
    Mặt khác tôi còn thêm thắt chi tiết cho đồ dùng cấp phát hoặc phối hợp với đồ
    dùng cấp phát để tạo thêm hiệu quả sử dụng mới cho đồ dùng
    Ngoài ra tôi còn tận dụng hiệu quả môi trường lớp học cũng như các đồ dùng
    khác trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho học sinh. Theo tôi việc sử dụng đồ
    dùng hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào việc sắp xếp, bố trí đồ dùng, đồ chơi trong
    6
    môi trường lớp học và tận dụng các đồ dùng trong lớp như đồ dùng phục vụ bán trú,
    hay chính đồ dùng cá nhân của học sinh.
    Ví dụ: Khi tổ chức các hoạt động tôi thường tận dụng tối đa không gian lớp để
    học sinh được hoạt động thoải mái, với từng nội dung hoạt động, tôi lựa chọn các đồ
    dùng tạo cho học sinh sự thuận lợi trong hoạt động.
    Tôi thường sử dụng không gian của các bức tường để trưng bày các sản phẩm của
    học sinh, các kiến thức ghi nhớ; các ghi nhớ không chủ đích, khi trưng bày cần chú ý
    tính khoa học, học sinh dễ lấy, dễ quan sát. Các đồ dùng dạy học thường xuyên được vệ
    sinh lau chùi cẩn thận tránh bụi bẩn và được cất gọn gàng trên góc học tập.
    7
    Ảnh minh họa: Một số bảng ghi nhớ không chủ đích
    2.2. Tự làm các đồ dùng dạy học và sử dụng có hiệu quả:
    Mục đích:
    + Thứ nhất: Thúc đẩy phong trào tự làm đồ dùng dạy học, tạo môi trường học tập
    hấp dẫn, thân thiện, bền vững, góp phần đổi mới phương pháp đáp ứng yêu cầu phát
    triển năng lực và phẩm chất học sinh.
    + Thứ hai: Lựa chọn phổ biến và nhân rộng các đồ dùng sử dụng có hiệu quả góp
    phần nâng cao chất lượng giáo dục.
    Biện pháp:
    Ngoài các thiết bị đồ dùng dạy học được cấp, tôi còn tự làm thêm các đồ dùng
    dạy học khác và sử dụng có hiệu quả trong từng môn học, từng giờ dạy, cụ thể:
    * Cây hoa dân chủ:
    a. Cấu tạo: Gồm cây hoa, chậu hoa
    b. Nguyên vật liệu: Cành cây; chậu hoa bằng sành; lá, hoa bằng nhựa; sáp quấn
    cành; dây thép nhỏ mềm; cát.
    c. Cách làm:
    – Cố định cành cây vào trong chậu cây, đổ cát vào ấn chặt để cành cây không bị
    đổ, nghiêng.
    – Gắn lá và hoa lên cành cây vào những điểm hợp lí để tạo thành cây hoa hài hòa,
    đẹp mắt (gắn bằng dây thép).
    8
    – Dùng sáp quấn cành quấn quanh cành cây khô để tạo màu xanh cho cành cây.
    d. Phạm vi sử dụng: Cây hoa dây chủ được dùng trong các tiết ôn tập của tất cả
    các môn học Toán, Tiếng Việt, Khoa, Sử, Địa…hoặc các buổi tổ chức Câu lạc bộ…với
    mục đích tổ chức trò chơi thi “Hái hoa dân chủ” hay ôn tập kiến thức cho học sinh (có
    thể sử dụng ở tất cả các khối lớp)
    e. Cách sử dụng: Câu hỏi ôn tập kiến thức được viết vào phiếu gắn vào các bông
    hoa trên cây hoa. Học sinh lên lựa chọn phiếu ở bông hoa nào thì sẽ trả lời câu hỏi trong
    phiếu đó (nếu trả lời đúng sẽ được khen thưởng)
    Ảnh minh họa: Cây hoa dân chủ
    * Bảng đơn vị đo đại lượng (4 trong 1):
    a. Cấu tạo: Bảng nhóm, thẻ giấy bìa màu ghi tên các đơn vị đo đại lượng (độ dài,
    khối lượng, diện tích, thời gian)
    b. Nguyên vật liệu: Bảng nhóm loại vừa, giấy bìa màu, bút lông dầu, băng dính 2
    mặt (loại dùng để dính quai dép)
    c. Cách làm:
    9
    – Kẻ lên bảng nhóm các khung trống của bảng đơn vị đo; giữa mỗi ô dán một mặt
    của miếng băng dính hai mặt.
    – Thiết kế các thẻ bằng giấy bìa màu ghi tên các đơn vị đo đại lượng; đằng sau
    mỗi thẻ gắn nửa kia của miếng băng dính hai mặt để khi dán lên ô trống trong bảng thẻ
    không bị rơi.
    d. Phạm vi sử dụng: Bảng đơn vị đo đại lượng được dùng trong các tiết hình
    thành các bảng đơn vị đo đại lượng: độ dài, khối lượng, diện tích, thời gian; mối quan
    hệ của các đơn vị đo đại lượng của lớp 3, 4, 5.
    e. Cách sử dụng: Khi giới thiệu về đơn vị nào trong bảng đơn vị đo đại lượng bất
    kì ta sẽ dùng thẻ từ để gắn lên ô tương ứng trên bảng trống. Việc có thể tháo rời các thẻ
    từ làm cho hiệu quả đồ dùng được nâng cao. Khi sử dụng xong trong việc hình thành
    bảng đơn vị đo khối lượng ta có thể tháo rời các thẻ từ và dùng vào việc hình thành các
    bảng đơn vị đo đại lượng khác. (Các thẻ từ có đủ bộ cho cả bốn bảng đơn vị đo: Khối
    lượng, Độ dài, Diện tích, Thời gian)
    Ảnh minh họa: Các bảng đo đại lượng
    10
    Ảnh minh họa: Cách sử dụng bảng đo đại lượng
    Ví dụ: Bài 11: Bảng đơn vị đo khối lượng (HDH Toán 4 tập 1A trang 39).
    *HĐ cơ bản: Nội dung 2
    Bước 1: Yêu cầu HS nêu tên các đơn vị đo khối lượng đã học: tấn, tạ, yến, kg, g.
    Bước 2: Giới thiệu đơn vị đề – ca – gam (dag), héc – tô- gam (hg) và mối quan hệ.
    Bước 3: Hình thành bảng đơn vị đo khối lượng.
    – Yêu cầu HS đọc tên các đơn vị đo khối lượng theo thứ tự từ lớn đến bé và
    ngược lại.
    – Mời một HS lên bảng gắn tên các đơn vị đo khối lượng theo thứ tự lừ lớn đến
    bé vào bảng đơn vị đo.
    – Một HS khác lên điền số thích hợp vào chỗ chấm để hình thành mối quan hệ
    của các đơn vị đo khối lượng trong bảng.
    * Ô chữ bí mật (có phiếu câu hỏi ):
    a. Cấu tạo: Bảng nhóm, giấy bìa màu
    b. Nguyên vật liệu: Bảng nhóm loại vừa, giấy bìa màu, bút dạ, nam châm
    c. Cách làm: Cắt giấy bìa thành các dải giấy hình chữ nhật có chiều rộng bằng
    cạnh của ô vuông trong bảng nhóm. Dùng bút dạ kẻ, chia các dải hình chữ nhật thành
    các ô vuông như trong bảng nhóm (các dải hình chữ nhật có thể chia thành hai ô vuông,
    ba ô vuông, bốn ô vuông, năm ô vuông…)
    d. Phạm vi sử dụng: “Ô chữ bí mật” sử dụng trong các tiết của môn Tiếng Việt,
    môn Khoa, Sử – Địa , trong các tiết học để tổ chức trò chơi kết nối hoặc sử dụng trong
    các tiết tổ chức Câu lạc bộ.
    11
    – Môn Tiếng Việt: như Bài 10B – tiết 1; Bài 10C – tiết 2; Bài 28B – tiết 1; Bài 28B
    – tiêt 3; Bài 35B – tiết 1) ; hoặc sử dụng trong các tiết trong có kèm theo bộ câu hỏi cả
    năm)
    – Môn Lịch sử:
    Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước
    Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh giành độc lập
    Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý
    Bài 5: Nước Đại thời Trần
    Bài 7: Chiến thắng Chi Lăng và nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê.
    Bài 8: Trường học, văn học, khoa học thời Hậu Lê.
    Bài 10: Phong trào Tây Sơn và Vương triều Tây Sơn (1771 – 1802)
    – Môn Địa lí:
    Bài 3: Tây Nguyên
    Bài 4: Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên
    Bài 6: Hoạt động sản xuất của người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ
    Bài 7: Thủ đô Hà Nội
    Bài 9: Hoạt động sản xuất của người dân ở Đồng bằng Nam Bộ
    Bài 11: Dải Đồng bằng duyên hải miền Trung
    – Môn Khoa học:
    Bài: Chúng ta đã học được những gì từ chủ đề con người và sức khoẻ.
    e. Cách sử dụng: Với từng bài cụ thể ô chữ sẽ được viết sẵn trên bảng nhóm rồi
    dùng các dải giấy bìa để che các ô chữ đi. Khi học sinh trả lời đúng ô chữ lúc đó người
    quản trò sẽ tháo dải giấy bìa ra để ô chữ xuất hiện. Với cách làm này chúng ta không
    phải tốn công kẻ bảng cho từng tiết.
    Ví dụ: Cñng cè kiÕn thøc vÒ thêi gian, nh©n vËt vµ sù kiÖn lÞch sö vÒ chiÕn th¾ng
    B¹ch §»ng do Ng« QuyÒn l·nh ®¹o n¨m 938 ở Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh
    giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm 938) HDH Lịch sử – Địa lí tập 1 trang 27.
    Cách tổ chức:
    Häc sinh cã thÓ chän bÊt kú « ch÷ nµo, kh«ng nhÊt thiÕt m¸y mãc chän lÇn l-ît
    c¸c « ch÷.
    C¶ líp chia thµnh 4 đến 6 ®éi ch¬i tùy theo số lượng HS. Mỗi nhóm là 1 đội.
    C¸c ®éi ch¬i lÇn l-ît chän tõ hµng ngang, quản trò sÏ ®äc gîi ý vÒ c¸c tõ hµng
    ngang, ®éi ch¬i nhanh chãng ®-a ra c©u tr¶ lêi. NÕu sai hoÆc sau 30 gi©y kh«ng cã c©u
    tr¶ lêi th× ®éi kh¸c ®-îc quyÒn tr¶ lêi.
    12
    Mçi tõ hµng ngang ®-îc 10 ®iÓm, tõ hµng däc ®-îc 30 ®iÓm. Trß ch¬i kÕt thóc
    khi cã ®éi t×m ra tõ hµng däc.
    §éi nµo cã ®iÓm cao h¬n th× ®éi ®ã th¾ng.
    Cụ thể: ¤ ch÷ gåm 8 tõ hµng ngang vµ 1 tõ hµng däc.

    THÂTBAI
    CÔLOA
    COCGÔ
    THUYTRIÊU
    ĐƯƠNGLÂM
    BĂC
    NGÔQUYÊN
    HOĂNGTHAO

    1. Hµng ngang số 1 – gồm 7 chữ cái: HËu qu¶ mµ qu©n Nam H¸n ph¶i nhËn khi sang
    x©m l-îc n-íc ta n¨m 938. (thÊt b¹i)
    2. Hµng ngang số 2 – gồm 5 chữ cái: N¬i Ng« QuyÒn chän lµm kinh ®«. (Cæ Loa)
    3. Hµng ngang số 3 – gồm 5 chữ cái: Vò khÝ lµm thñng thuyÒn cña giÆc. (cäc gç)
    4. Hµng ngang số 4 – gồm 9 chữ cái: Ng« QuyÒn ®· dùa vµo hiÖn t-îng thiªn nhiªn
    nµy ®Ó ®¸nh giÆc. (thuû triÒu)
    5. Hµng ngang số 5 – gồm 8 chữ cái: Quª cña Ng« QuyÒn. ( §-êng L©m)
    6. Hµng ngang số 6 – gồm 3 chữ cái: Qu©n Nam H¸n ®Õn tõ ph-¬ng nµy. (B¾c)
    7. Hµng ngang số 7 – gồm 8 chữ cái: Ng-êi l·nh ®¹o trËn B¹ch §»ng. (Ng« QuyÒn)
    8. Hµng ngang số 8 – gồm 9 chữ cái: T-íng giÆc tö trËn ë B¹ch §»ng. (Ho»ng Th¸o)
    (Từ khóa hàng dọc: BẠCH ĐẰNG)
    Ảnh minh họa: Trò chơi “Ô chữ bí mật”
    13
    Ảnh minh họa: Tập phiếu câu hỏi phục vụ trò chơi “Ô chữ bí mật”
    * Thẻ từ, thẻ câu của môn Tiếng Việt:
    a. Cấu tạo: Các thẻ từ, thẻ câu được in trên giấy bìa.
    b. Nguyên vật liệu: Giấy bìa màu.
    c. Cách làm: In các thẻ từ, thẻ câu lên giấy bìa rồi cắt rời (số lượng đủ cho các
    nhóm)
    d. Phạm vi sử dụng: Các thẻ từ, thẻ câu được sử dụng trong các bài cụ thể như
    sau:
    – Bài 2A-tiết 2 (2 bộ – thi hai nhóm)
    – Bài 4B- tiết 2 (7 bộ cho 7 nhóm)
    – Bài 5A- tiết 2 (2 bộ – thi 2 nhóm)
    – Bài 11B- tiết 1 (7 bộ cho 7 nhóm)
    – Bài 12A-tiết 2 (7 bộ cho 7 nhóm)
    – Bài 20A-tiết 1 (7 bộ cho 7 nhóm)
    – Bài 21A-tiết 1 (7 bộ cho 7 nhóm)
    e. Cách sử dụng: HS sử dụng các thẻ từ, thẻ câu để ghép từ, sắp xếp các sự việc
    của câu chuyện, sắp xếp các câu thành ngữ, tục ngữ thành các nhóm…trong hoạt động
    trò chơi, các hoạt động nhóm trong tiết học.
    14
    Ảnh minh họa: Các thẻ từ, thẻ câu.
    * Thẻ trống:
    a. Cấu tạo: Các thẻ trống bằng giấy bìa có dán băng dính
    b. Nguyên vật liệu: Giấy bìa màu, băng dính trắng loại khổ to.
    c. Cách làm: Cắt giấy bìa thành các thẻ hình chữ nhật sau đó dán băng dính lên để
    có thể sử dụng được nhiều lần.
    d. Phạm vi sử dụng: Các thẻ trống này được sử dụng chủ yếu trong môn Toán ở
    tất cả các khối, để học sinh viết số hoặc phân số.
    e. Cách sử dụng: Khi học sinh viết số lên mặt dán băng dính thì có thể dễ dàng
    xóa đi để sử dụng tiếp trong các bài sau.
    Môn Toán lớp 4: Bài 4, bài 5, bài 6, bài 7, bài 8.
    Ví dụ: Bài 4: Các số có sáu chữ số (HDH Toán 4 tập 1A trang 12)
    HĐ cơ bản:
    Hoạt động 1: Chơi trò chơi “ Đọc – Viết số”: (HĐ cặp đôi)
    – HS 1 sẽ dùng thẻ trống để viết số có năm chữ số rồi đố HS 2 đọc số mình vừa
    viết. Đổi ngược lại.
    – HS 1 đọc số có năm chũ số rồi đố HS 2 viết số đó vào thẻ trồng. Đổi ngược lại.
    15
    Ảnh minh họa: Thẻ trống
    * Thẻ hình:
    a. Cấu tạo: Miếng thẻ hình bằng giấy bìa
    b. Nguyên vật liệu: Giấy bìa màu
    c. Cách làm: Cắt giấy bìa thành các mảnh ghép để học sinh ghép hình
    d. Phạm vi sử dụng: Các thẻ hình này được sử dụng trong bài “Hình bình hành”
    và bài “Diện tích hình bình hành” của môn Toán
    e. Cách sử dụng: Trong bài “Hình bình hành” – Học sinh sử dụng các mảnh ghép
    để ghép hình rồi nhận biết hình bình hành và đặc điểm của hình bình hành. Trong bài
    “Diện tích hình bình hành” – Học sinh sử dụng các mảnh ghép của hình hình bình hành
    để ghép thành hình chữ nhật từ đó tìm cách tính diện tích hình bình hành dựa vào công
    thức tính diện tích hình chữ nhật đã học.
    Ví dụ: Bài 60 – Hình bình hành – HDH Toán 4/2A/trang 8.
    Hoạt động cơ bản: Chơi trò chơi “Ghép hình”
    – Học sinh sử dụng các mảnh ghép để ghép hình rồi nhận biết hình bình hành và
    đặc điểm của hình bình hành.
    16
    Ảnh minh họa: Thẻ hình
    * Dụng cụ thí nghiệm môn Khoa học:
    a. Cấu tạo: 2 nửa của chai nhựa: một phần miệng chai để lọc nước, một phần có
    đáy để đựng nước đã lọc. (có 7 bộ cho 7 nhóm)
    b. Nguyên vật liệu: Chai nhựa loại 1,5l; cát vàng, bông y tế.
    c. Cách làm: Cắt chai nhựa thành hai phần: phần có nắp để lọc nước, phần còn
    lại để đựng nước lọc. Dùng đinh nhọn đục các lỗ nhỏ trên nắp chai nhựa để cho nước có
    thể róc xuống. Lộn ngược phần nắp chai cho vào bên trong phần đáy chai. Cho một lớp
    bông y tế xuống phần nắp chai, sau đó đổ cát vàng lên trên lớp bông y tế. Như vậy là ta
    đã được một dụng cụ lọc nước.
    d. Phạm vi sử dụng: Sử dụng trong bài: Một số cách làm sạch nước của môn
    Khoa học 4.
    e. Cách sử dụng: Học sinh sử dụng dụng cụ lọc nước để làm thí nghiệm về cách
    lọc làm sạch nước.
    Ví dụ: Bài 16: Một số cách làm sạch nước – HDH Khoa học 4/tập 1/trang 89.
    *HĐ cơ bản: Thực hành làm sạch nước
    Học sinh sử dụng dụng cụ lọc nước để làm thí nghiệm về cách lọc làm sạch nước,
    sau đó ghi lại kết quả của thí nghiệm.
    17
    * Lưu ý khi sử dụng: Cát vàng trước khi cho vào dụng cụ thí nghiệm phải được
    rửa sạch. Sau khi làm thí nghiệm lớp bông sẽ bị bẩn ta phải thay lớp bông mới.
    Ảnh minh họa: Bộ lọc nước
    * Đồ dùng dạy học về phân số:
    a. Cấu tạo: Bông hoa bằng xốp, các phân số.
    b. Nguyên liệu: Tấm xốp, giấy bìa màu, …
    c. Cách làm: Cắt tấm xốp thành hình bông hoa rồi dán các phân số lên trên.
    d. Phạm vi sử dụng: Dùng cho học sinh học các bài về phân số, phân số bằng
    nhau, rút gọn phân số ở lớp 4.
    e. Cách sử dụng: Giáo viên dạy các bài về phân số giới thiệu cho học sinh tìm
    hiểu về cấu tạo của phân số; dạy bài phân số bằng nhau, rút gọn phân số – học sinh sử
    dụng tấm hình để ghép các phân số bằng nhau hoặc rút gọn phân số,.
    18
    Ví dụ: Bài 65: Phân số bằng nhau – HDH Toán 4/ 2A/trang 28.
    *HĐ cơ bản 3b. Chơi trò chơi ghép thẻ – Ghép các phân số bằng nhau, học sinh
    sử dụng tấm hình để ghép các phân số bằng nhau (GV có thể làm thêm một số phân số
    cho dạng).
    Ảnh minh họa: Đồ dùng dạy phân số
    * Chong chóng kì diệu:
    a. Cấu tạo: Chiếc chong chóng gồm có 6 cánh, trên 5 cánh có dán bìa trắng để
    ghi số và 1cánh có dán chữ MM (may mắn). Một chiếc trục xoay, một chiếc cán, đế
    dùng để cắm chong chóng .
    b. Nguyên vật liệu: Chong chóng làm bằng nhựa, bìa trắng hình tròn, cán làm
    bằng nhựa cứng, vỏ lon cô ca.
    c. Cách làm:
    – Tận dụng chong chóng của trẻ em.
    – Cắt giấy xốp làm kim quay
    – Dán các bìa trắng hình tròn lên cánh chong chóng
    – Vỏ lon cô-ca đựng cát làm đế cắm chong chóng

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa