Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Ứng dụng CNTT nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Âm
    nhạc lớp 3

    SKKN Ứng dụng CNTT nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Âm
    nhạc lớp 3

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Âm nhạc là quà tặng đặc biệt của cuộc sống dành cho tất cả mọi người
    trên trái đất này, không phân biệt già trẻ gái trai, không phân biệt màu da sắc
    tộc, không phân biệt giữa người có năng khiếu âm nhạc hay không có năng
    khiếu âm nhạc. Âm nhạc để lại trong lòng người những khoảng lắng cần thiết
    để có thể làm vui hơn niềm vui, làm vơi đi những nỗi buồn, làm dụi đi những
    căng thẳng trong cuộc sống đời thường để tình người được lên ngôi với đầy ắp
    tình yêu thương và lòng nhân ái. Lứa tuổi thiếu nhi nếu không được sống
    trong môi trường âm nhạc sẽ là một thiệt thòi lớn cho các em.
    Nhà sư phạm lỗi lạc thế giới Xu Khôm – Linxki đã nhận định về âm
    nhạc và tác dụng của nó với trẻ em như sau:
    Tuổi thơ ấu không thể thiếu âm nhạc, trò chơi và truyện cổ tích. Thiếu
    những cái đó, trẻ em chỉ là những bông hoa khô héo. Âm nhạc dẫn dắt trẻ đi
    vào thế giới của những điều thiện, tạo được sự đồng cảm và là một phương
    tiện bồi dưỡng năng lực, trí tuệ mà không một phương tiện nào có thể sánh
    kịp. Thiếu giáo dục âm nhạc thì không thể phát triển trí tuệ của trẻ em một
    cách đầy đủ được.
    Sự yêu thích âm nhạc của trẻ diễn ra một cách tự nhiên như là một nhu
    cầu không thể thiếu. Để trẻ phát triển một cách toàn diện, phù hợp với xu thế
    của thời đại, bên cạnh những môn văn hóa, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa
    các môn nghệ thuật như Âm nhạc, Mĩ thuật vào chương trình phổ thông.
    Trong chương trình Âm nhạc cấp Tiểu học, phân môn chủ đạo và xuyên suốt
    là phân môn “Học hát”. Qua học hát, các em có ý thức về việc hát đúng cao
    độ, trường độ và tập hát diễn cảm để từ đó kết hợp vói các động tác phụ họa
    khi biểu diễn tại lớp cũng như các hoạt động âm nhạc khác, Học sinh được
    giáo dục tình cảm trong sáng, lành mạnh, phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc,
    có ý thức tích cực tham gia các hoạt động âm nhạc ở lớp, ở trường…
    4 4
    Là giáo viên dạy môn âm nhạc ở trường tiểu học, tôi nhận thấy tầm
    quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm giúp
    các em tiếp cận tốt hơn với kênh hình, kênh tiếng, Kênh chữ và tạo hứng thú
    học tập bộ môn là nền móng vững chắc để hình thành và phát triển các kĩ năng
    ca hát của các em. chính vì thế tôi lựa chọn đè tài:
    “Ứng dụng CNTT
    nâng cao hiệu quả giảng dạy môn âm nhạc lớp 3″
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
    Thông thường khi học hát, học sinh muốn hát đúng giai điệu, việc đầu
    tiên là các em phải tập trung nghe câu nhạc giáo viên thể hiện trên đàn hoặc
    nghe giáo viên hát mẫu để từ đó tiếp thu đường nét giai điệu, âm hình tiết tấu
    của từng câu hát. Đây cũng là một trong những phương pháp để phát triển tai
    nghe cho các em. Qua đó, các em sẽ dần hình thành trí nhớ âm nhạc cho mình.
    Nhưng phương pháp này cúng có hạn chế nhất định vì kém sinh động chưa
    thực sự hấp dẫn. Tôi nhận thấy, chính trong quá trình học hát, qua từng bài,
    các em được quan sát các hình thức trình bày bài hát với kênh hình, kênh
    tiếng, kênh chữ sinh động, đem lại cảm hứng học tập hơn, mức độ cảm thụ âm
    nhạc của các em từng bước được nâng cao, khả năng nắm bắt chính xác cao độ
    cũng như trường độ của bài hát được nâng lên rõ rệt.
    1.1. Thuận lợi:
    Trong thực tế giảng dạy bộ môn Âm nhạc ở trường tiểu học Lương Thế
    Vinh, tôi nhận thấy có những thuận lợi sau:
    1.1.1. Trường tiểu học Lương Thế Vinh được công nhận đạt chuẩn mức
    II và chuẩn Xanh – Sạch – Đẹp – An toàn, cơ sơ vật chất của nhà trường được
    nâng cấp khang trang. cảnh quan sạch đẹp, có phòng học riêng cho bộ môn âm
    5 5
    nhạc với các thiết bị phục vụ bộ môn tương đối đầy đủ và hiện đại như máy
    tính, máy chiếu…
    Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên và
    học sinh hoàn thành nhiệm vụ dạy và học.
    1.1.2. Hầu hết học sinh khối lớp 3 có cùng độ tuổi nên có sự đồng đều
    về nhận thức và đặc biệt các em rất thích học âm nhạc nên các em luôn có sự
    say mê, hứng thú đối với môn học.
    Những bài hát trong chương trình là những bài hát có lời ca hay, trong
    sáng, được viết ở các nhịp
    2 4
    ;
    3 4
    ;
    4 4
    với tiết tấu và hình thức âm nhạc đơn giản,
    giai điệu đẹp, âm vực các bài hát thường không quá quãng 9, phù họp với tâm
    sinh lý của học sinh lớp 3.
    1.1.3. Là giáo viên chuyên, được đào tạo cơ bản về âm nhạc, là giáo
    viên cốt cán bộ môn, đã được phòng giáo dục cử đi học lớp tin học phục vụ
    trong giảng dạy, tôi có cơ hội đem những kiến thức của mình giảng dạy cho
    học sinh và chia sẻ cùng đồng nghiệp.
    Là giảng viên cốt cán bộ môn Âm nhạc cấp tiểu học tỉnh Nam Định, tôi
    được tham gia trực tiệp các đợt tập huấn chuyên môn của Bộ GD – ĐT nên có
    điều kiện nắm bắt tốt hơn về nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy
    âm nhạc ở Tiểu học.
    1.2. Khó khăn:
    Tuy nhiên, trước khi ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình
    giảng dạy môn Âm nhạc tôi đã gặp những khó khăn sau:
    1.2.1. Các tư liệu, phần mềm ứng dụng về âm nhạc chưa nhiều và còn
    hạn chế về nội dung. Những ngày đầu máy tính trong phòng âm nhạc màn
    hình nhỏ và chưa được kết nối mạng internet.
    6 6
    Khi sử dụng một số phần mềm viết nhạc như Encore, Final, Sibelius
    chụp màn hình rồi insert vào trong Word hoặc PowerPoint thì hình bị răng
    cưa, in ấn và trình chiếu không được đẹp.
    Thời gian đầu, được tiếp xúc với công nghệ thông tin học sinh còn bỡ
    ngỡ, hiếu kì nên lớp học hơi ồn ào.
    1.2.2. Khi giảng dạy còn nhiều bài học sinh đã hát thuộc trước khi được
    học nhưng hát chưa chính xác cao độ và trường độ.
    * Trường họp 1:
    Thuộc bài hát nhưng có những chỗ không hát đúng trường độ, tiết tấu
    của bài:
    Ví dụ: Bài hát “Quốc ca Việt Nam” – Nhạc và lời: Văn Cao
    Khi tôi dạy đến câu “Đường vinh quang xây xác quân thù…”, tôi đàn
    cho học sinh nghe giai điệu 2 lần và hát mẫu 1 lần như sau:
    Hầu hết học sinh hát thành:
    Hoặc như câu hát: Tiến lên! cùng tiến lên, nước non Việt nam ta vững
    bền.
    #
    # # #
    7 7
    Học sinh hát thành:
    Trong bài hát: Em yêu trường em – Nhạc và lời Hoàng Vân
    Câu hát:
    Học sinh hát thành:
    * Trường hợp 2:
    Thuộc bài hát nhưng có những chỗ hát không đúng cao độ, làm cho giai
    điệu của bài hát không còn tính chính xác.Thuéc bµi h¸t nh-ng cã nh÷ng chç
    h¸t kh«ng ®óng cao ®é, lµm cho giai ®iÖu cña bµi kh«ng cßn tÝnh chÝnh x¸c.
    Ví dụ: Bài hát “Quốc ca Việt Nam” – Nhạc và lời: Văn Cao
    Câu hát: Vì nhân dân chiến đấu không ngừng, tiếng ngừng có cao độ là
    nốt La nhưng học sinh thường hát tiếng ngừng với cao độ là nốt Si giống với
    tiếng thù ở câu hát trước đó.
    1.2.3. Có bài hát các câu hát liền nhau giồng nhau về lời ca nhưng khác
    nhau về cao độ học sinh thường hát câu hát đó cùng một cao độ như nhau.
    Ví dụ: Bài hát Con chim non – Dân ca Pháp.
    2 câu hát: Hòa tiếng hát véo von
    # # 4 4 4 4
    8 8
    Hòa tiếng hát véo von
    Học sinh thường hát thành:
    1.2.4. Hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt có 6 thanh: huyền, sắc, nặng, hỏi,
    ngã và thanh không, vì vậy khi hát lời ca học sinh thường bị ảnh hưởng bởi
    cảm giác của dấu thanh làm cho sai cao độ.
    * Ví dụ: Bài hát Lớp chúng ta đoàn kết – Nhạc và lời Mộng Lân. Tiếng
    trò cao độ là nốt Pha nhưng khi tập hát bị cảm giác của dấu huyền các em
    thường hát thấp xuống nốt Rê.
    2. Mô tả giải pháp sau khi áp dụng sáng kiến.
    2.1. Giải pháp khắc phục việc thiếu tư liệu, phần mềm, phương tiện
    phục vụ giảng dạy âm nhạc và những hạn chế của các phương tiện, phần mềm
    viết nhạc sẵn có:
    Khi gặp những khó khăn như trên, tôi đã mất nhiều ngày tư duy, tìm
    kiếm tư liệu và thử áp dụng nhiều phương pháp để có cách truyền đạt tới học
    sinh sao cho đơn giản, dễ hiểu và sinh động. Qua một thời gia, với những trải
    # # # #
    9 9
    nghiệm của bản thân, tôi xin được trình bày những giải pháp mà tôi đã thực
    hiện trong việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả giảng dạy
    âm nhạc.
    Trước tiên tôi tham mưu với nhà trường để phòng âm nhạc được nối
    mạng internet và trang bị âm thanh, màn hình phù hợp, Với các thiết bị dạy
    học được cấp, tôi khai thác triệt để tính năng của đàn Piano và đàn phím điện
    tử trong giảng dạy bởi độ cao của đàn rất chính xác, hệ thống âm sắc và tiết
    tấu của đàn tương đối hoàn chỉnh tạo cho học sinh sự hứng thú say mê hơn khi
    học tập, âm nhạc thấm vào các em một cách tự nhiên hơn.
    Việc hát mẫu cũng được tôi kết hợp sử dụng thường xuyên, bởi khi thể
    hiện bài hát cần phải hát tròn vành, rõ chữ. Do đó, người giáo viên ngoài việc
    sử dụng đàn để xác định độ cao chuẩn xác cũng cần phải hướng dẫn học sinh
    hát đúng giai điệu, thể hiện được sắc thái của bài hát thông qua việc hát mẫu
    của mình và cho học sinh xem các video clip nhạc thiếu nhi tải trên mạng, đặc
    biệt là các bài hát có sử dụng dấu luyến và những ca từ khó phát âm để học
    sinh bắt trước. Khi được xem những hình ảnh sinh động đó các em rất hào
    hứng luyện tập
    Ngoài ra, việc chuẩn bị bài dạy là khâu quan trọng nhất, quyết định cho
    thành công của tiến trình dạy học trên lớp.
    Một số đồng nghiệp hỏi tôi: “Muốn trình bày trong Winword hoặc
    PowerPoint vừa tài liệu vừa bản nhạc thì phải làm thế nào? Nếu viết bằng
    Encore…, chụp màn hình rồi insert vào trong Word hoặc PowerPoint thì hình
    bị răng cưa, in ấn và trình chiếu không được đẹp”.
    Cách đây vài năm về trước, tạp chí “Làm Bạn Với Máy Vi Tính” có giới
    thiệu cách dùng font Musiqwik và Musisync để có thể viết nhạc ngay trong
    trình soạn thảo văn bản như Word chẳng hạn cho dễ trình bày và in ấn, nhưng
    bài viết chỉ nói thoáng qua. Tôi đã nhiều ngày tìm hiểu trên mạng internet qua
    các diễn đàn của những người làm âm nhạc để biết cách sử dụng và chia sẻ
    10
    10
    kinh nghiệm của mình cho các bạn đồng nghiệp trong việc soạn bài và
    trình bày tài liệu có kèm bản nhạc, thí dụ như hình minh họa dưới đây:
    Ngoài đồng lúa chín thơm. Con chim hót trong vườn
    Nốt nhạc và chữ viết rất sắc nét
    * Những điều cần nhớ khi soạn nhạc với ứng dụng này
    a) Trước hết, là các bản nhạc được viết ở ngay trên trang tài liệu này
    mà không cần phải dùng Encore, Final, Sibelius hoặc chương trình soạn nhạc
    nào khác cả. Bản nhạc ở đây thực chất là những phông chữ, cách dùng như
    bao phông chữ khác vậy, nghĩa là cũng có thể bôi đen để chọn, căn lề, tăng
    giảm kích thước v.v… Chúng ta thay vì dùng phông chữ (thí dụ như VNITimes) để gõ ra văn bản chẳng hạn, thì nay ta lại dùng phông chữ Musiqwik
    để gõ ra bài nhạc mµ thôi, chẳng hạn như gõ chữ A trong VNI-Times thì ra
    chữ A, nhưng gõ chữ A bằng font Musiqwik thì ra nốt Si móc đơn. Nguyên
    tắc chủ yếu là vậy.
    b) Tiếp đến, cần lưu ý là người thiết kế các font Musiqwik (nốt nhạc
    trong khuông) và font Musisync (nốt nhạc rời) chỉ để cho chúng ta tạm thời
    viết những bản nhạc thông thường như ở trên mà thôi, chứ khó sử dụng khi
    viết một bản giao hưởng. Vì vậy cho nên các bạn tuỳ cơ sử dụng làm sao cho
    thích hợp trong công việc. Bản nhạc có thể bao gồm hầu hết các ký tự âm nhạc
    và lời (vì lời chúng ta soạn bằng Word).
    c) Việc add fonts cũng bình thường như bao phông chữ khác. Sau khi có
    được fonts viết nhạc, trong thư mục sẽ có nhiều tập tin, nhưng các bạn chỉ cần
    3 phông chữ chủ yếu là Musisync, Musiqwik và MusiqwikB (icon có ký hiệu
    TrueType 2 chữ T lồng vào nhau), các bạn install 3 fonts đó vào thư mục
    Fonts của Windows là sử dụng được ngay như những phông chữ TrueType
    thông thường khác (có máy cần phải restart lại).
    ‘&=2===G==!==W=====K====K==!===Z==9===J==!===Z=====K====J==!==X==9=G=!
    11
    11
    d) Ngoài Word ra, bạn vẫn có thể dùng nó trong các chương trình khác
    như PowerPoint, Wordpad, Notepad, CorelDraw, Photoshop… chẳng hạn, vì
    nó là font TrueType. Khi in ra, các nốt nhạc và khuông nhạc rất sắc nét.
    Nhưng xin hãy cẩn thận là khi đem tài liệu ấy đi in ở những máy tính khác thì
    máy tính đó cũng phải có các fonts này mới được. Nhiều khi soạn ở nhà thì
    thấy nghiêm chỉnh, nhưng khi đưa sang máy khác để in hoặc trình chiếu thì lại
    không thấy đâu. Muốn để Word tích hợp sẵn Font nốt nhạc này vào trong văn
    bản, khi nhấn Save As để lưu, ta nhấn Tools menu – Save Options – Embed
    TrueType Fonts – OK – sau đó mới nhấn nút Save, lúc ấy tài liệu văn bản đã
    được nhúng Font nốt nhạc này vào nên ta có thể mang theo mở trên các máy
    tính khác thì sẽ hiển thị in ấn và trình chiếu chính xác. (Cách này cũng thường
    được áp dụng cho các font Thư pháp, có thể nhúng vào trong Word đưa sang
    máy tính khác dù không có font thư pháp ấy vẫn hiển thị và in ấn chính xác).
    12
    12
    e) Các fonts này được tác giả Robert Allgeyer thiết kế đã đặt sẵn cũng
    có thể nhúng (embed) vào trong tài liệu dạng PDF, cho nên đây là một lợi thế
    rất lớn. Nghĩa là nếu bạn soạn tài liệu (gồm văn bản và bản nhạc) trên
    Winword, bạn có thể dùng CutePDFWriter, chuyển file Word (*.doc) thành
    file dạng PDF thì rất tiện khi mang đi nơi khác, vì file PDF đã được nhúng sẵn
    fonts Musi này vào luôn rồi nên các máy tính khác không cần có font Musi
    này cũng vẫn đọc được và in ấn chính xác. Điều này rất tiện dụng vì hầu như
    ngày nay dạng PDF ở đâu cũng dùng, nhất là chuyển giao trên mạng Internet
    rất thuận tiện.
    * Cách viết nhạc trong Word
    Như tôi đã viết ở trên, bản nhạc ở đây cũng chỉ là phông chữ mà thôi,
    các ký tự trên bàn phím trong phông chữ này hiển thị mỗi nốt nhạc ở một vị trí
    khác nhau, ta muốn ghi nhạc thì ta cần biết ký tự nào trên bàn phím tương ứng
    với nốt nhạc nào. Quả thật không dễ dàng gì để nhớ cho hết ký tự nào là nốt
    gì, cho nên cách hay nhất là ký tự nào ta biết thì ta gõ trực tiếp, ký tự nào
    không nhớ thì ta dùng lệnh Insert symbols để chèn vào, symbols đây chính là
    phông chữ Musiqwik. Ta cũng có thể nâng cao kỹ năng trong Word bằng cách
    đặt nốt nhạc hay ký tự nào quen dùng thành phím tắt cho dễ sử dụng theo ý
    mình, bằng cách chọn nốt trong bảng Insert Symbol, click vào nút Shortcut
    key, click tổ hợp phím bạn muốn gõ tắt vào khung rồi OK là xong thôi.
    Để chèn nhạc, ngay trong tài liệu, bạn chọn insert Symbol, chọn trong
    khung Font là Musiqwik rồi nhấp đúp vào nốt nhạc mình cần, sau khi viết
    xong khuông nhạc có nốt (tức là dùng font Musiqwik), bạn nhấn Enter để
    xuống hàng và gõ lời nhạc bằng tiếng Việt với phông chữ bình thường.
    13
    13
    Theo hình trên là tôi đã đặt phím tắt Ctrl+Alt+W dùng để ghi vạch nhịp
    ngoài bên trái. Riêng một số ký tự khác khá quen thuộc thì chúng ta nên nhớ
    cho quen dần, thí dụ như khi dùng font Musiqwik, ta gõ dấu & thì nó thành
    khóa Son ngay, gõ dấu = thì nó thành khuông nhạc ngay, dần dần rồi ta quen
    và chắc chắn là sẽ nhanh. Trên bảng Insert Symbol, khi ta chọn một ký tự nốt
    nhạc thì các thông tin về nó sẽ hiển thị ngay bên dưới.
    Cách trên dùng để viết các nốt nhạc trên khuông, còn nếu các bạn muốn
    viết các nốt nhạc rời hoặc viết bài tập tiết tấu thì các bạn sẽ dùng font
    Musisync, cách dùng cũng như trình bày ở trên.
    Cách viết này chỉ dùng cho các bản nhạc để minh hoạ khi giảng dạy, vì
    khi viết cần nhiều thời gian hơn các phần mềm viết nhạc khác. Tuy nhiên khi
    dùng cách này thì in ấn hoặc trình chiếu các nốt nhạc sẽ rất đẹp vì các nốt

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Dạy học lịch sử lớp 4 theo định hướng Phát triển năng lực, phẩm chất bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo

    SKKN Dạy học lịch sử lớp 4 theo định hướng Phát triển năng lực, phẩm chất bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Lịch sử là một môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
    bản về một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian
    của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới ngày nay.
    Việc dạy môn lịch sử lớp 4 là bước đầu hình thành cho học sinh các kĩ
    năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn
    thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, trình bày kết quả
    bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ, vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời
    sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh những thái độ và thói quen: ham học hỏi,
    tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích
    văn hóa.
    Hiện nay ở cấp giáo dục tiểu học môn Lịch sử được tích hợp với môn Địa
    lí, nội dung của phân môn Lịch sử yêu cầu các em phải nắm bắt nhiều dự
    kiệnlịch sử theo từng thời kì, các diễn biến trận đánh, các ý nghĩa của từng sự
    kiện lịch sử. Nội dung các bài học lịch sử gần như chỉ cung cấp kiến thức khô
    khan mà không có các chi tiết, các câu chuyện hấp dẫn. Chính vì thế mà học
    sinh cũng chưa có hứng thú với môn học này và cũng khó có thể nhớ được sự
    kiện cần ghi nhớ hoặc ghi nhớ không lâu.
    Nhận thức được tầm quan trọng của những giá trị lịch sử đất nước có ý
    nghĩa to lớn trong việc giáo dục tư tưởng đạo đức hình thành những phẩm chất
    của con người mới Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa và hội nhập, trong
    những năm qua Bộ giáo dục đã có sự quan tâm đến giảng dạy lịch sử. Thế
    nhưng, trong thực tế khi dạy môn lịch sử đồ dùng còn thiếu, minh họa cho tiết
    dạy còn hạn chế. Vấn đề dạy lịch sử chưa hiệu quả vì còn nhiều khó khăn: video
    về các bộ phim lịch sử còn ít, đồ dùng trực quan hạn chế mà chủ yếu là sơ đồ,
    lược đồ trên giấy hơn nữa tâm lí của phụ huynh chỉ muốn con học Toán và
    Tiếng Việt nên chưa lôi cuốn các em thực sự vào tiết học và các em chưa ghi
    nhớ tiết học một cách chắc chắn.
    Nhiệm vụ đặt ra cho giáo viên dạy lịch sử ở trường Tiểu học, ngoài trang bị
    cho học sinh hệ thống những kiến thức cơ bản lịch sử dân tộc để hình thành thế
    4
    giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức cho học sinh còn cần thiết phải trang bị
    cho học sinh những hiểu biết sâu sắc về lịch sử đất nước. Qua đó, giáo dục lòng
    tự hào về quê hương dân tộc, hình thành lòng yêu nước, truyền thống quê hương
    cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động và thái độ ứng xử đúng
    đắn trong cuộc sống xã hội; giúp học sinh hiểu được sự phát triển hợp quy luật
    của tự nhiên và xã hội, vận dụng sáng tạo những hiểu biết vào hoạt động thực
    tiễn, xây dựng ý thức trách nhiệm xây dựng quê hương giàu đẹp. Bác Hồ kính
    yêu của chúng ta đã dạy:
    Dân ta phải biết sử ta
    Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
    (Hồ Chí Minh)
    Vậy làm thế nào để khắc để khắc phục những khó khăn và thực hiện tốt yêu
    cầu nhiệm vụ dạy học hiệu quả nội dung lịch sử thì giáo viên không thể không
    đổi mới phương pháp. Chỉ có đổi mới phương pháp theo hướng phát triển năng
    lực bằng phương pháptrải nghiệm sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức dạy học
    lịch sử mới có thể nâng cao hiểu biết của các em về những gì đã xảy ra trong
    quá khứ , những truyền thống tốt đẹp của đất nước để tự hào, để sống cao đẹp
    hơn và phấn đấu xây dựng cho quê hương xứng đáng với tầm vóc lịch sử của nó.
    Đồng thời giúp các em trở thành những con người tự tin, mạnh dạn trong giao
    tiếp góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, hoàn thành tốt mục tiêu giáo
    dục – đào tạo về lịch sử nước nhà.
    Xuất phát từ suy nghĩ đó và trong thực tiễn giảng dạy tôi đã nảy sinh và có sáng
    kiến: “ Dạy học lịch sử lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất
    bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo” với mong muốn “Học đi đôi với
    hành”; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường gắn với giáo dục gia đình
    và giáo dục xã hội” nhằm góp thêm một vài ý kiến về biện pháp để nâng cao
    hơn nữa chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở trường tiểu học. Qua đó góp phần
    nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục truyền thống cách mạng, tình yêu quê
    hương đất nước, lòng tự hào dân tộcvới mục tiêu và sự nghiệp đổi mới giáo dục,
    trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    A. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    1.Về chương trình sách giáo khoa.
    Chương trình Lịch sử lớp 4 với những kiến thức cơ bản quá nhiều với
    những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, phản ánh những vấn đề về sự phát
    triển các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước và giữ
    nước của dân tộc ta khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời
    Nguyễn năm 1858.
    Nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 gồm 8 giai đoạn:
    1.Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179).
    Gồm 2 bài.
    2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm
    938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập.
    3. Buổi đầu độc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài.
    4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài.
    5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài.
    6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1
    bài ôn tập.
    7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài.
    8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó có
    1 bài tổng kết.
    8 giai đoạn trên thuộc các dạng bài sau:
    +Dạng 1: Dạng bài về xây dựng nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền.
    +Dạng 2: Dạng bài về tình hình kinh tế – chính trị, văn hoá – xã hội
    + Dạng 3: Dạng bài về nhân vật lịch sử
    +Dạng 4: Dạng bài về các cuộc khởi nghĩa.
    +Dạng 5 :Dạng bài về hoạt động xây dựng, sản xuất phát triển kinh tế.
    +Dạng 6: Dạng bài về kiến trúc, nghệ thuật, văn hoá, khoa học, giáo dục
    +Dạng 7: Dạng bài ôn tập, tổng kết
    6
    Qua chương trình thông kê trên cho thấytrong 8 giai đoạn với 7 dạng bài,
    học sinh cần ghi nhớ từ giai đoạn từ 700 TCN đến năm 1858 là nội dung quá dài
    với nhiều sự kiện lịch sử cần ghi nhớ. Đối với các em học sinh lớp 4là khối
    lượng kiến thức còn nặng cần phải ghi nhớ. Các em phải nhớ, phải truyền tải rất
    nhiều sự kiện liên quan đến hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của từng
    giai đoạn lịch sử. Trong khi đó thực tế giảng dạy thì còn thiếu đồ dùng minh
    họa, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học chưa phù hợp với đối
    tượng học sinh hiện nay. Nếu như không lôi cuốn, hấp dẫn các em bằng phương
    pháp giảng dạy sáng tạo, kích thích sự say mê tìm tòi của HS sẽ dẫn đến học
    sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận và truyền tải thông tin, không
    gây hứng thú, hấp dẫn các em với môn học.
    2. Về Giáo viên
    – Giáo viên chưa sáng tạo trong phương pháp dạy học lịch sử chưa đổi mới
    phương pháp còn dạy theo phương pháp thông thường. Chưa sử dụng nhiều các
    phương pháp, hình thức tổ chức mang tính trải nghiệm.
    – Tâm lí giáo viên GV đôi lúc thấy học sinh chưa chú trọng về môn Lịch sử, bên
    cạnh đó giáo viên cũng nhận được những phản ánh từ phía phụ huynh nhiều về
    môn Toán, Tiếng Việt mà không chú trọng đến môn Lịch sử nên giáo viên cũng
    coi nhẹ về môn học này.
    – Tư liệu lịch sử về các nhân vật, sự kiện còn hạn chế, thiều đồ dùng minh họa,
    các hình thức dạy học chưa sáng tạo, bên cạnh đó các bộ phim phản ánh về lịch
    sử Việt Nam còn ít nên cũng kéo theo hạn chế trong phương pháp giảng dạy của
    giáo viên.
    3. Về phía học sinh.
    – Các em chỉ chú trọng đến các môn học Toán, Tiếng Việt chưa quan tâm đến
    môn Lịch sử.
    – Phương pháp dạy học của giáo viên chưa sáng tạo, thiếu đồ dùng tranh ảnh,
    phương tiện dạy học nên các em chưa hứng thú, yêu thích môn học này.
    – Các em cũng gặp phải một số khó khăn trong quá trình nhận thức như kiến
    thức Lịch sử nhiều, trừu tượng, khô khan, những dữ kiện lịch sử khó nhớ. Kĩ
    7
    năng đọc, kể, tường thuật của các em chưa tốt, do đó ảnh hưởng đến thời gian và
    tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa tự
    tin, học thụ động.
    4. Về phía phụ huynh
    – Phụ huynh thường quan tâm rất nhiều đến môn Toán và Tiếng việt.
    -Trong các cuộc họp phụ huynh, hay khi trao đổi với giáo viên, phụ huynh hầu
    như trao đổi về môn Toán và Tiếng Việt là nhiều.
    – Phụ huynh học sinh thường động viên con học môn Toán, Tiếng Việt và dành
    nhiều thời gian kèm cặp môn Toán, Tiếng Việt chứ chưa thật sự quan tâm đến
    việc học tập môn Lịch sử của con em mình.
    B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Để khắc phục được những thực trạng trên, bản thân tôi trong quá trình
    giảng dạy rất băn khoăn, trăn trở làm thế nào để học sinh học thuộc được bài
    lịch sử Việt Nam, thực sự yêu thích môn Lịch sử, hứng thú với môn học, nâng
    cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử. Bởi vì mỗi khi đợt kiểm tra đến các em
    có phản hồi lại rất ngại học vì rất nhiều kiến thức, ngại ghi nhớ, con không ghi
    nhớ được. Xuất phát từ những điều đó và để giải quyết được những vấn đề trên,
    tôi đã mạnh dạn áp dụng những giải pháp sau:
    Giải pháp 1: Giáo viên cần nắm chắc phương pháp dạy học Lịch sử theo
    định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
    Giải pháp 2: Một số hình thức tổ chức dạy học Lịch sử theo định hướng
    phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
    Giải pháp 3:Tiến trình lồng ghép các hình thức tổ chức trong một giờ
    dạy học Lịch sử hoặc trong buổi trải nghiệm tham quan.
    Giải pháp 4:Phối kết hợp với cha mẹ học sinh trong việc dạy học Lịch sử
    theo định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
    8
    Với các giải pháp trên tôi đã tiến hành như sau:
    Giải pháp 1.Giáo viên cần nắm chắc phương pháp dạy học Lịch sử theo
    định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm sáng tạo.
    Dạy học theo định hướng phát triển năng lực bằng phương pháp trải nghiệm
    sáng tạo là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng
    giúp học sinh từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục
    đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn
    hóa để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các vấn đề thực tế đặt ra trong
    toàn bộ cuộc sống của học sinh một cách sáng tạo và hiệu quả”.
    Giúp học sinh có những phẩm chất năng lực sau: trải nghiệm với các nhân
    vật, rèn các em mạnh dạn tự tin, rèn năng lực diễn xuất, rèn ngôn ngữ giao tiếp
    thông qua cách tái hiện lại các bài lịch sử bằng những hình thức như vẽ tranh,
    sân khấu hóa, sơ đồ tư duy, tham quan trải nghiệm sáng tạo.
    Thông qua việc tham gia vào các hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo học
    sinh được phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của bản thân. Hoạt
    động dạy học lịch sử địa phương theo hướng trải nghiệm sáng tạo còn nhằm
    giáo dục ý thức bảo vệ di sản, danh nhân, giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào
    truyền thống của quê hương…
    Với học sinh, giáo viên cần giúp các em hiểu: Thế nào là học Lịch sử theo
    hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo?
    Học Lịch sử theo định hướng hoạt động trải nghiệm sáng tạo giúp các em
    được chủ động tham gia vào tất cả các khâu của quá trình hoạt động: Từ thiết kế
    hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động phù hợp với
    đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân như sắm vai, trò chơi, thông qua sơ
    đồ tư duy,…. Các em được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng, được
    đánh giá, lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân,
    được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và
    của bạn bè,…
    Học Lịch sử thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn giúp các em
    tiếp xúc trực tiếp với các buổi học trải nghiệm qua tham quan, dã ngoại ở di tích,
    9
    nhà thờ, các buổi ngoại khóa, các cuộc thi tìm hiểu… nhằm giáo dục học sinh
    truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ di sản, phát triển trí tuệ,
    rèn luyện kỹ năng sống.
    Giải pháp 2: Các hình thức tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo.
    Hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường tiểu học rất
    phong phú và đa dạng. Cùng một chủ đề, một nội dung giáo dục nhưng hoạt
    động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ chức theo nhiều hình thức hoạt động khác
    nhau, tùy theo lứa tuổi và nhu cầu của học sinh, tùy theo điều kiện cụ thể của
    từng lớp, từng trương, từng địa phương. Mỗi hình thức hoạt động trên đều mang
    ý nghĩa giáo dục nhất định. Dưới đây là một số hình thức tổ chức của hoạt động
    theo định hướng phát triển năng lực và trải nghiệm sáng tạo:
    1. Dạy học lịch sử thông qua vẽ tranh bằng cách tích hợp liên môn
    2. Dạy lịch sử bằng hình thức tổ chức trò chơi học tập
    3. Sân khấu hóa tương tác
    4. Dạy học lịch sử bằng hình thức Sơ đồ tư duy
    5. Dạy học Lịch sử thông qua tổ chức hoạt động trải nghiệm bằng hình thức
    ngoại khóa tham quan trải nghiệm: như bảo tàng, khu di tích lịch sử đền Trần,
    cột cờ Nam Định
    1. Dạy học lịch sử thông qua vẽ tranh bằng cách tích hợp liên môn
    Dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực và trải nghiệm sáng
    tạo thông qua vẽ tranh là một hình thức tổ chức rất phong phú kích thích được trí
    tò mò, khám phá và qua đây học sinh cũng thể hiện được khả năng năng lực hội
    họa của mình. Đây là một hoạt động đòi hỏi người học là các em học sinh cần
    tích hợp giữa môn Mĩ thuật với môn Lịch sử. Qua đó các em có thể vận dụng
    hội họa để khái quát hóa lại các trận đánh, nhân vật lịch sử bằng những đường
    nét vẽ của mình để tái hiện lại sự việc thông kênh chữ trong SGK. Đối với hoạt
    động này có thể nói cần năng lực của các em tương tác trong nhóm rất cao mới
    tạo ra sản phẩm như ý muốn. Để làm được điều này khi tổ chức vẽ tranh, giáo
    viên cần cho học sinh lựa chọn hình thức trình bày của mình trên tranh vẽ theo
    nhóm. Với sự sáng tạo tuyệt vời của mình, học sinh lớp 4A1 đã biến nội dung
    10
    bài lịch sử “Chiến thắng Bạch Đằng” hay “Chiến thắng Chi Lăng”, Cuộc
    kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai…tưởng chừng khô khan trở nên độc
    đáo, dễ hiểu bởi những bức tranh do chính các em vẽ nên. Dưới đây là bức vẽ
    thú vị:
    Bức tranh vẽ Trận chiến trên sông Bạch Đằng của em Hoàng Nhật Minh 4A1
    Các em HS đều bày tỏ sự thích thú với việc học Lịch sử qua tranh vẽ .Với
    những sản phẩm đầy sáng tạo của học sinh, rõ ràng Lịch sử sẽ không hề nhàm
    chán nếu biết biến những điều tưởng như khô khan trở nên thú vị và giản dị
    trong mắt học trò.
    Ví dụ: Khi dạy một số bài: “Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê
    (giới thiệu chân dung nhân vật Nguyễn Trãi), Phong trào Tây Sơn và vương
    triều Tây Sơn (giới thiệu anh hùng Nguyễn Huệ- Quang Trung). Đây là những
    bài gắn với sự kiện và giai đoạn lịch sử với sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử
    tiêu biểu, vì vậy giáo viên cần sử dụng triệt để bằng cách vẽ lại chân dung các
    anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa mà em đã chuẩn bị tranh vẽ ở nhà, các
    hình ảnh để từ đó có sự so sánh vai trò của họ ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
    2. Dạy lịch sử bằng hình thức tổ chức trò chơi học tập
    Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần
    nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối
    11
    với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với
    nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi
    mà học, học mà chơi”.Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác
    nhau của hoạt động trải nghiệm sáng tạo như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào
    nội dung học tập, cung cấp và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các
    kĩ năng và củng cố những tri thức đã được tiếp nhận,… Trò chơi giúp phát huy
    tính sáng tạo, hấp dẫn và gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu
    kiến thức mới; giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo
    được bầu không khí thân thiện; tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn,…
    Dưới đây là một số trò chơi có thể tổ chức trong tiết học. Tùy từng bài học,
    giáo viên có thể thiết kế các trò chơi linh hoạt sao cho phù hợp để mang lại hứng
    thú cũng như hiệu quả học tập cao nhất đối với học sinh.
    *Trò chơi : Ai nhanh, Ai đúng
    – Mục đích: Học sinh nhớ nhanh được các sự kiện lịch sử, thời gian và địa danh
    lịch sử vào cuối tiết học.
    – Chuẩn bị: Các câu hỏi liên quan trong phạm vi bài học. Các câu hỏi và đáp án
    đều được chuẩn bị đủ trên giáo án điện tử.
    – Cách tiến hành: Chơi theo tổ, mỗi tổ được lựa chọn câu hỏi 3 lần, trả lời đúng
    1 câu trong 10 giây được 10 điểm, nếu đội lựa chọn không trả lời được đội kia
    giành quyền trả lời nếu đúng được 10 điểm, sai bị trừ 5 điểm.( Trò chơi này có
    thể áp dụng cho tất cả các bài học khi củng cố kiến thức).
    Ví dụ: Với bàiNhà Trần thành lập giáo viên tổ chức cho các em chơi trò chơi
    với các câu hỏi sau:
    Câu hỏi 1: Nhà Trần thay thế cho triều đại nhà nào?
    Câu hỏi 2: Nhà Trần thành lập năm nào?
    Câu hỏi 3: Tên một chức quan trông coi việc đắp đê.
    Câu hỏi 4: Thời Trần quy định con trai từ bao nhiêu tuổi trở lên phải dành một
    số ngày tham gia đắp đê?
    Câu hỏi 5: Nghề chính của nhân dân ta cuối thời Trần là nghề gì?
    12
    Câu hỏi 6: Tên nước ta dưới triều Trần là gì?
    Câu hỏi 7: Kinh đô dưới thời Trần ở đâu?
    – Tác dụng của trò chơi này: Học sinh có thể chọn bất kỳ ô chữ nào, không nhất
    thiết máy móc chọn lần lượt các ô chữ. Trò chơi này có thể tổ chức chơi cá
    nhân, nhóm hoặc cũng có thể chơi cả lớp bằng cách học sinh viết câu trả lời vào
    bảng con.
    *Trò chơi :Nối nhanh, nối đúng
    Ví dụ 1: Nối mốc các năm ở cột A với tên các cuộc khởi nghĩa ở cột B
    – Mục đích: Củng cố các cuộc khởi nghĩa của nhân ta chống lại ách đô hộ của
    các triều đại phong kiến phương Bắc.
    – Chuẩn bị: 2 tờ giấy có ghi đầy đủ các nội dung chơi, 2 bút dạ.
    – Cách tiến hành: Chọn hai đội chơi, mỗi đội có 9 học sinh.
    Giáo viên bật màn hình cho cả hai đội và cả lớp cùng quan sát, sau đó giáo
    viênphát cho hai nhóm, mỗi nhóm 1 tờ giấy có nội dung như trên màn hình, mỗi
    đội có 15 giây đọc các thông tin trên bảng. Sau khi giáo viên hô “1, 2, 3. Bắt
    đầu!” và tính giờ thì mỗi đội cử 1 em lên nối, nối xong em đó trở về đứng cuối
    hàng em thứ hai mới được lên. Cứ như vậy cho đến học sinh cuối cùng. Hết giờ
    đội nào nối đúng nhiều hơn, thời gian nhanh hơn, nối đẹp hơn đội đó là đội
    thắng cuộc.
    – Nội dung trò chơi Nối nhanh tay:

    A
    (Thời gian
    1.Năm 40
    2.Năm 248
    3. Năm 542
    B
    (Các cuộc khởi nghĩa)
    a. Khởi nghĩa Lí Bí
    b. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan
    c. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng

    4. Năm 548 d.Chiến thắng Bạch Đằng
    5. Năm 722 e. Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ
    6. Năm 766 g. Khởi nghĩa Triệu Quang Phục
    7. Năm 905 h. Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ
    8. Năm 931 i. Khởi nghĩa Bà Triệu
    9 Năm 938 k Khởi nghĩa Phùng Hưng
    Đáp án: 1-c; 2-i; 3-a; 4-g; 5-b; 6-k; 7-e; 8-h;9-d
    13
    – Tác dụng của trò chơi này: Học sinh được quan sát đáp án và nhận xét nhanh
    bài của các đội.
    Ví dụ 2: Khi dạy bài 20 Ôn tập (SGK Lịch sử – Địa lí, trang 53) về nối các
    sự kiện, hiện tượng lịch sử thì tôi dùng đồ dùng Đám mây kết nối này để củng
    cố cho các em về nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử mà các em đã được học
    trong học kì I.
    – Khi dạy xong bài 3 ôn tập, tôi đưa ra bài tập dưới đây, tổ chức cho các em
    chơi trò chơi. Có hai đội chơi, mỗi đội 3 HS lên bảng tham gia chơi để nối. Sau
    đó Cả lớp làm trọng tài nhận xét, đánh giá bài nối trên bảng của hai nhóm. GV
    chốt kiến thức.
    Sản phẩm của học sinh sau trò chơi
    Tìm hiểu lịch sử địa phương qua hệ thống trò chơi nối địa danh với danh
    nhân hoặc di tích lịch sử.
    – Mục đích: Củng cố về tên các nhân vật, các di tích lịch sử gắn liền với vị anh
    hùng dân tộc.
    14
    – Chuẩn bị: Các ảnh chụp danh nhân, anh hùng dân tộc, các di tích lịch sử liên
    quan đến nhân vật lịch sử hay sự kiện lịch sử, dây chunđể nối từ địa danh với
    bức tranh ảnh.
    – Cách tiến hành: Chọn hai đội chơi, mỗi đội có 3 học sinh.
    Giáo viên bảng Cùng nhau khám phá cho cả hai đội và cả lớp cùng quan
    sát, sau đó giáo viên phát cho hai nhóm, mỗi nhóm có các hình ảnh các di tích
    lịch sử, mỗi đội có 15 giây đọc các thông tin trên bảng và các bức ảnh chụp cầm
    trên tay. Sau khi giáo viên hô “1, 2, 3. Bắt đầu!” và tính giờ thì mỗi đội cử một
    em lên gài ảnh vào ô để ảnh có sẵn, sau đó em thứ hai lên dùng dây chun để kéo
    đến ảnh cần nối, nối xong em đó trở về đứng cuối hàng em tiếp theo được lên.
    Cứnhư vậy cho đến học sinh cuối cùng. Hết giờ đội nào nối đúng nhiều hơn,
    thời gian nhanh hơn đội đó là đội thắng cuộc.
    15
    Trò chơi Cùng nhau khám phá về lịch sử địa phương
    * Trò chơi: Ô chữ kì diệu
    – Mục đích: Củng cố kiến thức về thời gian, nhân vật và sự kiện lịch sử
    – Chuẩn bị: Các ô chữ, các câu hỏi và đáp án trên giáo án điện tử (màn hình)
    – Cách tiến hành: Ô chữ gồm 8 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc hoặc theo yêu
    cầu nội dung bài dạy. Cách chơi như sau:
    Cả lớp chia thành 4 đội chơi. Các đội chơi lần lượt chọn từ hàng ngang, giáo
    viên sẽ đọc gợi ý về các từ hàng ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời.
    Nếu sai hoặc sau 30 giây không có câu trả lời thì đội khác được quyền đoán.
    Mỗi từ hàng ngang được 10 điểm, từ hàng dọc được 30 điểm. Trò chơi kết thúc
    khi có đội tìm ra từ hàng dọc. Đội nào có điểm cao hơn thì đội đó thắng cuộc.
    Ví dụ: Khi dạy bài Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938.
    – Nội dung ô chữ và gợi ý cho từng ô chữ:
    1. Quân Nam Hán đến từ phương này. (Bắc)
    2. Hậu quả mà quân Nam Hán phải nhận khi sang xâm lược nước ta năm 938.
    (thất bại)
    3. Nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô. (Cổ Loa)
    16
    4. Ngô Quyền đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này để đánh giặc. (thủy triều)
    5. Quê của Ngô Quyền. (Đường Lâm)
    6. Tướng giặc tử trận ở Bạch Đằng. (Hoằng Tháo)
    7. Người lãnh đạo trận Bạch Đằng. (Ngô Quyền)
    8. Vũ khí làm thủng thuyền của giặc. (cọc gỗ)
    Ô chữ hàng dọc: Bạch Đằng
    – Tác dụng của trò chơi này: Thiết kế trò chơi này trên máy chiếu sẽ không mất
    nhiều thời gian, cả âm thanh như tiếng vỗ tay khen khi học sinh trả lời đúng.
    Học sinh có thể tự lựa chọn câu hỏi.
    * Trò chơi: Thử tài của bạn
    Trò chơi này có thể tổ chức dưới hình thức sân chơi “Rung chuông vàng”
    cho cả lớp trong giờ ôn tập hay hoạt động ngoại khóa).
    – Mục đích: Củng cố kiến thức về lịch sử trong cả một chương.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Xây dựng bộ thiết bị trò chơi Vui học môn Lịch sử và Địa lý với chủ đề Thành phố Nam Định trong trái tim tôi

    SKKN Xây dựng bộ thiết bị trò chơi Vui học môn Lịch sử và Địa lý với chủ đề Thành phố Nam Định trong trái tim tôi

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Giáo dục chính là cơ sở để đánh giá được trình độ dân trí cũng như sự phát triển
    của một quốc gia. Nền giáo dục Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc cải cách từ năm 1950
    đến nay. Theo đó, các bộ sách giáo khoa tiểu học cũng có nhiều lần sửa đổi, bổ sung.
    Mục tiêu hướng đến phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh. Từ đó, quan điểm giáo
    dục, các phương pháp giảng dạy, hình thức học tập cũng thay đổi để phù hợp với
    chương trình. Trải qua các cuộc cải cách giáo dục, nền giáo dục nước ta đã có những
    thay đổi và đang từng bước hoàn thiện dần để hòa nhập với nền giáo dục của các nước
    phát triển trên thế giới.
    Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới 2018 được coi là bước chuyển
    mình mạnh mẽ, thể hiện sự quyết tâm khoác lên một tấm áo mới cho nền giáo dục nước
    nhà của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình cũng đã bám sát thực tiễn tình hình nền
    giáo dục Việt Nam hiện nay; Kế thừa những thành tựu của nền giáo dục truyền thống
    trong mấy chục năm qua và tiếp thu, học tập kinh nghiệm một số nước có nền giáo dục
    phát triển trên thế giới. Đặc biệt chương trình đã chú trọng đến việc dạy học theo hướng
    phát triển năng lực, phẩm chất của người học.
    Trong chương trình GDPT tổng thể, Lịch sử và Địa lí ở tiểu học là môn học bắt
    buộc, được tổ chức dạy học ở lớp 4, lớp 5. Môn học được xây dựng trên cơ sở kế thừa,
    phát triển từ môn Tự nhiên và Xã hội các lớp 1, 2, 3 và là cơ sở để học môn Lịch sử và
    Địa lí ở THCS; đồng thời góp phần đặt nền móng ban đầu cho giáo dục về khoa học xã
    hội ở các cấp học trên.
    Chương trình môn Lịch sử và Địa lí tiểu học gồm các mạch kiến thức, kĩ năng cơ
    bản, thiết yếu về địa lí, lịch sử của địa phương, vùng miền, đất nước Việt Nam, các
    nước láng giềng và một số nét cơ bản về địa lí, lịch sử thế giới. Nội dung chương trình
    môn học này còn liên quan trực tiếp với nhiều môn học và các hoạt động giáo dục khác
    như: Đạo đức, Tiếng Việt, Hoạt động trải nghiệm… giúp học sinh vận dụng tích hợp
    4
    kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học và hoạt động giáo dục để giải quyết các vấn đề
    trong học tập và đời sống, phù hợp với lứa tuổi.
    Mảnh đất Thành Nam – phủ Thiên Trường xưa đã trải qua hơn 750 năm thành
    lập. Đây là mảnh đất không những là cái nôi văn hóa đặc trưng của vùng Nam đồng
    bằng Sông Hồng xưa mà còn là mảnh đất địa linh nhân kiệt, là nơi chứng kiến những
    chiến công lẫy lừng của các đại anh hùng hào kiệt thời Trần. Trải qua bao thăng trầm
    của lịch sử, thành phố Nam Định vẫn sừng sững như một bức tượng đài mang đậm hào
    khí Đông A, là biểu tượng của một vùng đất học nổi tiếng. Nam Định là vùng đất du
    lịch tâm linh, nơi chất chứa nhưng linh khí thiêng liêng của đất trời, nơi có nền văn hóa
    ẩm thực với những món ăn đã trở thành đặc sản. Tất cả đã hội tụ về đây để tạo nên
    những nét văn hóa đặc sắc của mảnh đất, con người Thành Nam.
    Là những người làm giáo dục, chúng tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của
    việc đưa những kiến thức lịch sử – địa lý của thành phố Nam Định vào trong nhà
    trường, nhằm giúp các em tiếp cận, hiểu biết rõ hơn về mảnh đất nơi mình sinh sống.
    Đó cũng là một trong cách giáo dục học sinh của trường Tiểu học Trần Nhân Tông
    chúng tôi để giúp các em hoàn thiện về những phẩm chất của một người công dân toàn
    cầu.
    Quan điểm giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 là dựa trên
    những việc học sinh làm, thực hành để các em tiếp thu nội dung bài học. Và dạy học
    trên thực tế địa phương cần có cái nhìn đúng đắn và sự chung tay vào cuộc của các cấp
    mà đặc biệt là các thầy cô giáo trong nhà trường – những người trực tiếp giảng dạy cho
    các em. Những giá trị lịch sử – văn hóa của mảnh đất Thành Nam cũng cần được gìn giữ
    và lưu truyền cho thế hệ mai sau để hậu thế luôn tự hào và có trách nhiệm dựng xây,
    bảo vệ truyền thống quê hương, đất nước. Trong bối cảnh cải cách giáo dục mạnh mẽ
    như hiện nay thì việc xây dựng và sử dụng bộ thiết bị trò chơi trong các hoạt động dạy
    và học các môn học nói chung, môn Lịch sử – Địa lý nói riêng càng trở nên cần thiết và
    cấp bách.
    5
    Với mong muốn tạo ra các đồ dùng dạy học kích thích được hứng thú, khơi gợi ở
    các em học sinh tình yêu đối với môn học, niềm tự hào về truyền thống, lịch sử địa
    phương và mảnh đất Thành Nam, nhằm mang đến cho học sinh hình thức học tập mới
    lạ và cũng là kênh để các quí thầy cô giáo tham khảo, bổ sung vào phương pháp dạy
    học của mình. chúng tôi đã mạnh dạn thực hiện sáng kiến kinh nghiệm với đề tài Xây
    dựng bộ thiết bị trò chơi “Vui học môn Lịch sử và Địa lý” với chủ đề “Thành phố
    Nam Định trong trái tim tôi” .Đề tài chúng tôi thực hiện cũng là cách hiệu quả hóa cho
    phương pháp dạy và học từ thực tế địa phương, làm cho những kiến thức vốn không xa
    rời với các em nhưng chưa được các em chú ý đến sẽ trở nên sống động và dễ tiếp cận.
    Chúng tôi cũng hi vọng rằng, đề tài này là một trang thông tin quảng bá cho hình ảnh
    thành phố Nam Định trên bản đồ du lịch. Đặc biệt trong dịp kỉ niệm thành lập hơn 750
    năm thành lập phủ Thiên Trường sắp tới, chúng tôi cũng mong đề tài của mình là tấm
    lòng thành kính của những người con mảnh đất Thành Nam để tri ân tới các bậc đại anh
    hùng hào kiệt qua các thời đại, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục của thành phố
    nói riêng, của tỉnh Nam Định nói chung.
    6
    II. Mô tả các giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Trường Tiểu học Trần Nhân Tông nằm trên khu đô thị Hòa Vượng – thành phố
    Nam Định. Trường được thành lập năm 2018 theo đề án xây dựng trường chất lượng
    cao của tỉnh. Năm học 2019 – 2020 là năm học đầu tiên nhà trường chính thức đi vào
    hoạt động. Nhà trường rất tự hào khi được mang tên một vị vua anh minh, lỗi lạc, vị
    Phật hoàng sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Chính vì thế chúng tôi nhận thức
    được vai trò, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà.
    Từ lâu, đồ dùng – thiết bị trong các hoạt động dạy – học có vai trò quan trọng và
    đã khẳng định được tính hiệu quả khi sử dụng. Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành phố
    Nam Định đã phát động nhiều phong trào phát huy hiệu quả của đồ dùng trong dạy học
    trong nhiều năm học và được các đơn vị nhiệt liệt hưởng ứng. Song cũng khá nhiều
    những đồ dùng thiết bị không đạt chất lượng, tham gia mang tính cho có và đối phó.
    Dưới góc độ nhà quản lý, giáo viên trực tiếp giảng dạy, chúng tôi nghiêm túc
    nhận thức được tầm quan trọng của thiết bị – đồ dùng trong các hoạt động dạy và học .
    Vì vậy đã nghiên cứu, xây dựng Bộ thiết bị trò chơi “Vui học môn Lịch sử – Địa lý”
    để nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và giáo dục học sinh về thực tế lịch sử – địa
    lý thành phố Nam Định nói riêng.
    Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện chúng tôi đã gặp một số thuận lợi và khó
    khăn sau:
    1. Thuận lợi
    – Cơ sở vật chất khang trang, quy mô lớn, được trang bị các thiết bị hiện đại cho
    công tác dạy và học: máy chiếu, bảng chống lóa, bộ bàn 2 chỗ ngồi, ghế 1 chỗ ngồi, bộ
    đồ dùng các môn học… Có các phòng chức năng riêng biệt, tạo điều kiện thuận lợi cho
    việc học tập của học sinh.
    – Đội ngũ cán bộ giáo viên có trình độ chuyên môn giỏi, 100% giáo viên có trình
    độ trên chuẩn. Các thầy cô giáo đều là những người có trách nhiệm; nhiệt tình, sáng tạo
    7
    trong các hoạt động chung và chuyên môn, nhanh nhạy khi tiếp cận những phương pháp
    mới; mạnh dạn tiên phong trong các hoạt động chung của Phòng Giáo dục.
    – Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến việc đổi mới phương pháp, hình
    thức dạy học; tạo cơ hội và khuyến khíc giáo viên tìm tòi, áp dụng các phương pháp dạy
    học tích cực để nâng cao hiệu quả giáo dục.
    – Từ đầu năm học, nhà trường đã chú trọng và phát động phong trào làm đồ dùng
    – thiết bị dạy học và đã có những sự tư vấn, quan tâm, hỗ trợ kịp thời cho giáo viên.
    Trong đó, việc lên ý tưởng xây dựng cho bộ đồ dùng thiết bị phục vụ cho môn Lịch sử –
    Địa lý liên quan đến địa phương được chúng tôi đặc biệt lưu tâm. Đặc biệt đối tượng sử
    dụng chúng tôi hướng đến không chỉ là học sinh khối 4 – 5 mà còn là những em học
    sinh khối lớp dưới.
    – Đại đa số học sinh của trường đều rất ngoan ngoãn, hứng thú với việc đến
    trường học tập. Một trong những điều các em yêu thích ngôi trường Trần Nhân Tông là
    được tự do sáng tạo trong các hoạt động học tập và ngoài giờ lên lớp. Nắm bắt được đặc
    điểm tâm lý lứa tuổi thích khám phá và tò mò, chúng tôi đã lên ý tưởng truyền tải nội
    dung kiến thức bài học qua hình thức trò chơi và bộ đồ dùng – thiết bị Vui học môn
    Lịch sử – Địa lý cũng được hình thành từ lý do đó.
    – Mảnh đất Thành Nam là mảnh đất địa linh nhân kiệt, mang đậm bản sắc văn
    hóa truyền thống của vùng Nam đồng bằng sông Hồng. Đây cũng là điều thuận lợi để
    chúng tôi khai thác những giá trị lịch sử – văn hóa nơi đây để truyền tải cho học sinh.
    – Trong phong trào làm đò dùng dạy học, không chỉ các giáo viên và học sinh
    nhiệt tình tham gia mà còn được sự cộng tác tận tình của đông đảo phụ huynh học sinh
    nhà trường.
    – Có thể nói, các phong trào chung của trường Tiểu học Trần Nhân Tông đều có
    sự đóng góp không nhỏ của các lực lượng khác ngoài nhà trường. Trong quá trình thực
    hiện đề tài này, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cấp lãnh đạo, các cơ
    quan đoàn thể trên địa bàn Thành phố Nam Định.
    8
    2. Khó khăn
    2.1. Về phía học sinh
    – Thực tế từ nhiều năm trở lại đây, học sinh không mặn mà với những môn khoa
    học xã hội, thậm chí trong nhiều năm, chất lượng thi tốt nghiệp THPT và các trường
    Đại học, môn Lịch sử có số lượng học sinh đạt điểm dưới trung bình ở mức cao nhất.
    Những kiến thức về Lịch sử – Địa lý của các em khá thiếu thốn. Nắm bắt được điều đó,
    chương trình cũng đã tích hợp nhiều nội dung kiến thức lịch sử – địa lý của địa phương
    vào môn học, để các em có cơ hội tìm hiểu những kiến thức lịch sử – địa lý tại địa
    phương mình sinh sống.
    – Trong giáo dục phổ thông ở nước ta sự gắn bó giữa “học” và “hành”, giữa lý
    thuyết và thực tiễn, giữa bài học và sự liên hệ với đời sống – xã hội… chưa thật sự được
    quan tâm đúng mức. Vì vậy, phần lớn học sinh đều bỡ ngỡ trước các tình huống, sự
    kiện thực tế, đặc biệt là những vấn đề môi trường nóng bỏng của địa phương, hoặc
    không biết đến những giá trị di sản thiên nhiên, lịch sử, văn hóa mà địa phương mình
    có… Học sinh càng ít cơ hội được hình thành và rèn luyện kỹ năng phân tích, giải quyết
    những vấn đề thực tế, kể cả kỹ năng sống.
    – Vì năm đầu tiên đi vào hoạt động, các học sinh từ khối 2 đến khối 5 đến từ
    nhiều trường khác nhau nên cán bộ, giáo viên mất nhiều thời gian để rèn nề nếp trong
    hoạt động và học tập để tạo nên văn hóa của học sinh trường Trần Nhân Tông.
    – Đối tượng học sinh có sự phân hóa (trình độ, lứa tuổi) nên khó khăn trong việc
    xây dựng nội dung, câu hỏi.
    – Đa số học sinh chưa chú ý đến những kiến thức về lịch sử – địa lý của địa
    phương nên khi được hỏi các em tỏ ra khá lạ lẫm.
    – Học sinh chưa được thực hành nhiều với bộ đồ dùng phục vụ cho việc học
    – Đa số đồ dùng của học sinh là do phụ huynh giúp đỡ nên chưa tạo ra màu sắc
    riêng.
    – Nhiều đồ dùng – thiết bị chưa có tính ứng dụng cao.
    9
    2.2. Về phía cán bộ – giáo viên
    – Giáo viên chưa có kiến thức lịch sử – địa lý địa phương chuyên sâu nên mất
    nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu.
    – Chưa thật sự quan tâm, dành nhiều thời gian cho việc dạy Lịch sử và Địa lý, đặc
    biệt là Lịch sử và Địa lý địa phương.
    – Chưa có tài liệu thống nhất chung về những nội dung liên quan đến Lịch sử và
    Địa lý địa phương cần cung cấp cho học sinh.
    – Thiết bị dạy học môn Lịch sử và Địa lí là các nguồn tư liệu phong phú, cụ thể,
    sinh động, giàu hình ảnh và giàu sức thuyết phục, không chỉ nhằm minh hoạ bài giảng
    của giáo viên mà còn hỗ trợ giáo viên tổ chức các hoạt động học tập, tự tìm tòi tri thức
    lịch sử, địa lí của học sinh một cách tích cực, sáng tạo. Bộ thiết bị dạy học tối thiểu môn
    Lịch sử và Địa lí bao gồm: mô hình hiện vật, tranh ảnh lịch sử, địa lí, băng ghi âm lời
    nói của các nhân vậtlịch sử,…; bản đồ, lược đồ; sơ đồ, các bảng thống kê,…; phim
    video; các phiếu học tập có các nguồn sử liệu; các mẫu vật về tự nhiên; các dụng cụ,
    thiết bị thông thường để quan sát tự nhiên; một số dụng.. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
    các nhà trường đều đang rất thếu các thiết bị dạy học cho môn học này. Trong quá trình
    giảng dạy, giáo viên chỉ khai thác được một số hình ảnh có sẵn trên mạng in- tơ- nét.
    – Việc tạo ra các thiết bị dạy học phục vụ môn học đòi hỏi công sức, thời gian và
    độ chính xác về kiến thức. Việc chọn nguyên vật liệu và xây dựng bộ thiết bị trò chơi
    cũng mất nhiều thời gian, công sức.
    2.3. Phụ huynh học sinh
    – Phụ huynh chưa thậtt sự xem trọng môn học, phần lớn vẫn nặng về điểm số, coi tọng
    môn Toán và Tiếng Việt.
    – Chưa hợp tác với giáo viên khi giúp học sinh hoàn thành các bài tập ứng dụng.
    – Quá bận rộn, ít có thời gian để tham gia cùng con trong các hoạt động ngoại khóa của
    nhà trường.
    10
    III. Các giải pháp
    Giải pháp 1:Khảo sát hiểu biết của học sinh về lịch sử – địa lý thành phố Nam Định
    Chương trình tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn I từ lớp 1 đến lớp 3,
    giai đoạn II từ lớp 4 đến lớp 5. Nội dung kiến thức của môn Lịch sử – Địa lý được triển
    khai ở lớp 4, 5 dựa trên những kiến thức của môn Tự nhiên và xã hội của các lớp dưới.
    Vì đây là bộ đồ dùng – thiết bị có thể sử dụng cho toàn bộ học sinh các khối nên ngay
    từ đầu năm học, chúng tôi đã tiến hành tuyên truyền đến phụ huynh và các em học sinh
    về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của môn Lịch sử – Địa lý; sự gắn kết giữa kiến thức
    lịch sử, địa lý thành phố Nam Định với nội dung bài học trong chương trình và đặc biệt
    giảng dạy kiến thức lịch sử, địa lý của địa phương bằng nhiều hình thức khác nhau như
    tham quan, hội vui học tập, trải nghiệm…
    Dựa vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sự hiểu
    biết của học sinh các kiến thức về lịch sử – địa lý thành phố Nam Định thông qua những
    bộ câu hỏi được thiết kế phù hợp.
    Ví dụ: Bộ câu hỏi dành cho khối 4, 5.
    Phần A: Lịch sử
    Khoanh tròn vào đáp án đúng (câu 1, 2, 3, 6, 7, 8)
    Câu 1: Triều đại nào đã xây dựng thành phố Nam Định xưa thành phủ Thiên
    Trường?
    A. Nhà Trần B. Nhà Lý C. Nhà Hậu Lê D. Nhà Đinh
    Câu 2: Bức tượng đài ở quảng trường mùng 3 – 2 (phường Vị Hoàng) là chân
    dung của ai?
    A. Vua Trần Nhân Tông B. Vua Trần Anh Tông
    C. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn D. Trần Quốc Toản
    Câu 3: Phủ Thiên Trường xưa có vị Trạng Nguyên trẻ nhất nước ta thời bấy giờ.
    Ông là ai?
    A. Lương Thế Vinh B. Đào Sư Tích
    C. Vũ Tuấn Chiêu D. Nguyễn Hiền
    11
    Câu 4: Em hãy nối thông tin của cột A và cột B cho phù hợp

    Cột ACột B
    1. Đền Trầna. Nơi thành lập Chi hội Việt Nam Thanh niên Cách
    mạng đồng chí Hội đầu tiên của tỉnh Nam Định.
    2. Chùa Phổ Minhb. Xây dựng vào thế kỷ XIX
    3. Cột cờ Nam Địnhc. Là nơi thờ tự 14 vị vua nhà Trần cùng với gia quyến
    và các quan lại đã có công phù tá nhà Trần
    4. Ngôi nhà số 7
    Bến Ngự
    d. Được vua Trần Thánh tông cho xây dựng, mở rộng
    với qui mô lớn hơn (năm 1262).

    Câu 5: Là người con trên mảnh đất Thành Nam – vùng đất địa linh nhân kiệt, là
    con cháu của các vị cua quan thời Trần, em có cảm xúc như thế nào?
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………….
    Phần B: Địa lý
    Câu 6: Thành phố Nam Định còn có tên gọi là gì?
    A. Thiên Trường B. Thành Nam
    C. Thành phố Dệt D. Cả 3 đáp án trên
    Câu 7: Cây cầu Đò Quan bắc qua con sông nào?
    A. Sông Hồng B. Sông Cầu C. Sông Đào D. Sông Ninh Cơ
    Câu 8: Hình trong ảnh là món ăn đặc sản gì của Nam Định?
    A. Bánh đa cua B. Bánh canh
    C. Bún thang D. Phở bò
    12
    Câu 9: Năm 1262, phủ Thiên Trường do vua Trần Thánh Tông đặt tên. Đến nay
    được bao nhiêu năm?………………………………………….
    Câu 10:
    a) Em hãy kể những tên phường (xã) trên địa bàn thành phố Nam Định mà em biết?
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    b) Trường Tiểu học Trần Nhân Tông nằm trên địa bàn phường (xã) nào?
    ……………………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    *Bộ câu hỏi dành cho lớp 1; lớp 2, 3 – Phụ lục 1
    Kết quả thu được khiến chúng tôi khá bất ngờ, cụ thể:
    – Không có học sinh nào trả lời đúng toàn bộ câu hỏi.
    – Đa số học sinh trả lời sai và có sự nhầm lẫn về câu trả lời. Đặc biệt câu hỏi về
    địa bàn của chính trường mình nằm trên phường (xã) nào các em cũng không biết.
    Qua cuộc khảo sát trên chúng tôi thấy lo ngại về sự hiểu biết các kiến thức về
    Lịch sử – Địa lý của thành phố Nam Định – nơi mà các em đang sinh sống. Điều đó đã
    thôi thúc chúng tôi nghiên cứu, tạo ra những nội dung và phương pháp giảng dạy để
    cung cấp những kiến thức lịch sử – địa lý địa phương cho các em. Đây cũng là căn cứ
    bước đầu để chúng tôi bắt tay vào xây dựng nên Bộ thiết bị – trò chơi “Vui học môn
    Lịch sử – Địa lý” với chủ đề “Thành phố Nam Định trong trái tim tôi”.
    Giải pháp 2: Nghiên cứu, thu thập những thông tin, tài liệu về lịch sử thành phố
    Nam Định
    1. Lịch sử hình thành
    Thành phố Nam Định có lịch sử hơn 750 năm hình thành và phát triển. Năm
    1262, nhà Trần đã xây dựng Nam Định thành thủ phủ Thiên Trường dọc bờ hữu ngạn
    sông Hồng. Năm1831, nhà Nguyễn đặt tên là tỉnh Nam Định. Dưới thời Nguyễn, Nam
    13
    Định là một thành phố lớn cùng với Hà Nội và Huế. Thời đó Nam Định còn có trường
    thi Hương,thi Hội, có Văn Miếu.
    Dưới thời Pháp thuộc, Nam Định được Toàn quyền Đông Dương công nhận là
    thành phố vào ngày 17/10/1921. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ
    tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quy định trong Sắc lệnh số 77
    năm 1945, Nam Định là thành phố đặt dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ). Từ năm 1945-1956,
    Nam Định là thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 3/9/1957, sáp nhập thành phố
    Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định.
    Đến ngày 06/11/1996, sau nhiều lần chia tách sáp nhập, thành phố Nam Định
    chính thức là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định đến ngày nay.
    Ngày 24/9/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 183/1998/QĐ-
    TTg công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại II.
    Ngày 28/11/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2106/QĐ-TTg
    công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Nam Định.
    Trong suốt thời kỳ lịch sử từ Thiên Trường cho đến Nam Định ngày nay, vùng
    đất này đã nhiều lần đổi tên như Thiên Trường, Vị Hoàng, Sơn Nam, Thành Nam rồi
    Nam Định.
    Tính đến năm 2019 gồm có 22 phường: Bà Triệu, Quang Trung, Nguyễn Du,
    Trần Hưng Đạo,Ngô Quyền, Cửa Bắc, Vị Xuyên, Vị Hoàng, Hạ Long, Trần Tế Xương,
    Trần Đăng Ninh,Cửa Bắc, Năng Tĩnh, Văn Miếu, Phan Đình Phùng, Trường Thi, Trần
    Quang Khải,Thống Nhất, Lộc Hạ, Lộc Vượng (phía Bắc Sông Đào), Cửa Nam (phía
    Nam Sông Đào), Lộc Hòa, Mỹ Xá và 3 xã ngoại thành Lộc An, Nam Phong, Nam Vân
    (phía Nam Sông Đào).
    Cùng với lịch sử hình thành và phát triển, Đảng bộ và nhân dân thành phố Nam
    Định luôn luôn tự hào về mảnh đất quê hương. Sự tham gia tích cực của mọi tầng lớp
    nhân dân Nam Định đã và đang góp phần tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp của một thành
    phố đang từng bước trở thành đô thị trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng, có vai
    trò quan trọng trong hệ thống đô thị Việt Nam.
    14
    2. Tìm hiểu các địa điểm du lịch
    Thành phố Nam Định được biết đến bởi những địa điểm du lịch là các di tích lịch
    sử hơn là các danh lam thắng cảnh. Tuy không có nhiều những khu vui chơi giải trí sầm
    uất nhưng thành phố Nam Định lại sở hữu những công trình kiến trúc mang đậm văn
    hóa tâm linh của một vùng Bắc Bộ xưa mà không nơi đâu có được. Có lẽ mọi thứ sẽ
    thay đổi theo qui luật nghiệt ngã của thời gian nhưng trang sử vẻ vang, oanh liệt của các
    bậc đại anh hùng hào kiệt thuở xưa trên mảnh đất linh thiêng Thành Nam sẽ trường tồn
    cùng với năm tháng.
    2.1. Đền Trần
    Có lẽ, đền Trần chính là điểm đến du lịch đầu tiên mà bất cứ ai khi đến thành phố
    Nam Định muốn đặt chân đến. Đền Trần được xây dựng vào năm 1695 trên nền Thái
    miếu cũ – tức là Phủ Thiên Trường xưa, nơi được coi là phát tích của vương triều
    nhà Trần và có dấu ấn của cuộc kháng chiến ba lần chống quân Mông – Nguyên của
    nhân dân ta. Hiện nay, đền nằm ẩn mình trên đường Trần Thừa, phường Lộc Vượng,
    thành phố Nam Định.
    Đền là nơi thờ tự 14 vị vua nhà Trần cùng với gia quyến và các quan lại đã có
    công phù tá nhà Trần như Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn…
    Đền Trần – Đường Trần Thừa – Phường Lộc Vượng
    Thành phố Nam Định
    15
    Nổi bật của đền Trần là được cấu trúc bởi ba công trình kiến trúc: đền Thiên
    Trường (đền Thượng), đền Cổ Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa có kiểu dáng chung
    và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa tiền đường 5 gian, tòa trung đường 5 gian
    và tòa chính tẩm 3 gian. Nối tiền đường và trung đường là kinh đàn (thiêu hương) và
    2 gian tả hữu vu..
    Cứ vào ngày 15 âm lịch tháng Giêng hàng năm, đền Trần tổ chức Lễ hội Khai
    ấn và phát ấn cho nhân dân. Lễ hội thu hút rất nhiều du khách có lẽ bởi sự linh thiêng
    ngàn năm của mảnh đất này.
    2.2. Chùa tháp Phổ Minh
    Chùa tháp Phổ Minh là công trình mở đầu cho kiến trúc Phật giáo thời Trần.
    Chùa được xây dựng từ thời Lý và được vua Trần Thánh tông cho xây dựng, mở rộng
    với qui mô lớn hơn (năm 1262).
    Phổ Minh, tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm).
    Chùa Tháp Phổ Minh – TP Nam Định
    Từ lúc xây dựng cho đến nay,
    chùa Phổ Minh đã trải qua gần một
    nghìn năm thăng trầm của lịch sử. Dù
    đã trùng tu nhiều lần nhưng chùa tháp
    Phổ Minh vẫn giữ được những nét văn
    hóa đặc trưng của triều Trần, triều Mạc
    như bộ cánh cửa bằng gỗ lim chạm rồng
    ở nhà bái đường, tháp Phổ Minh, đôi
    sấu ở tam quan, rồng ở thành bậc tiền
    đường, tháp và tượng Bà chúa Mạc…
    Trước đây, chùa có một chiếc vạc lớn
    bằng đồng đặt ở sân trước được coi là
    một trong bốn bảo khí quốc gia ( vạc
    16
    Đến nay, ngọn tháp chùa bằng gạch cao nhất Việt Nam vẫn sừng sững với thời gian.
    Năm 1305, ngọn tháp được vua Trần Anh Tông cho xây dựng cao 14 tầng, nặng khoảng
    700 tấn và cao gần 20 mét để cất giữ hạt xá lị của vua cha (vua Trần Nhân Tông).
    Sừng sững hơn 700 năm, tháp Phổ Minh vẫn hướng thẳng lên trên nền trời xanh
    thẳm, thể hiện ý chí hiên ngang bất khuất của hào khí người Việt – Hào khí Đông A –
    đã từng đánh bại 3 lần xâm lược quân Nguyên – Mông.
    Cùng với khu di tích đền Trần, chùa Phổ Minh cũng là một di tích lịch sử đặc
    biệt, không những của Nam Định mà còn của cả nước, một điểm hẹn văn hoá tâm linh
    của người Việt từ khắp mọi miền.
    Trong hệ thống đề chùa của thành phố thì một số chùa cũng được xây dựng lên
    để phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân như:
    *Chùa Cả
    Chùa Cả được xây dựng từ thời Trần có tên là Thánh Ân tự. Theo bài minh khắc
    trên chùa vào năm Cảnh Lịch thứ 6 đời Mạc Phúc Nguyên (1553) thì chùa trước đây xây
    ở Bến Ngự là nơi tu hành của một số hoàng phi, công chúa thời Trần. Đến thời Mặc Đăng
    Chính (1530-1539) nước sông Vị Hoàng lên to, bờ sông lở nhiều, người họ Trần ở đất Vị
    Hoàng chuyển chùa về một khoảng đất rộng, dựa vào rừng trúc, trông ra đầm sen.
    Chùa Cả – TP Nam Định
    17
    Chùa xây kiểu mới chữ Đinh, chính diện thờ Phật, bên phải dựng đền thờ thần
    Tản Viên, bên trái thờ Cao Mang Ðại vương, một vị tướng dưới trướng của Linh từ
    Quốc mẫu thời Trần, người đã giúp vua Trần phản công chiến lược thắng giặc Nguyên
    Mông lần thứ nhất. Đến thời Khải Định (1914-1925) chùa mới được trùng tu lại như
    ngày nay.
    *Chùa Vọng Cung
    Chùa Vọng Cung được xây dựng dưới thời Nguyễn. Chùa có kiến trúc khá đặc
    biệt: chính điện có thể chứa hàng trăm người. Hiện nay, trên con phố Trần Phú sầm uất
    lại tọa lạc một ngôi chùa cổ kính, trầm mặc quả là một điều thú vị, hiếm có.
    2.3. Ngôi nhà số 7 Bến Ngự
    Ngôi nhà số 7 Bến Ngự được coi là ngôi nhà cổ nhất Thành Nam hiện nay, đồng
    thời là nơi thành lập Chi hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đầu tiên
    của tỉnh Nam Định.
    Theo gia phả dòng họ Trần, ngôi nhà số 7 phố Bến Ngự (trước đây là số 49 phố
    Bến Gỗ) do cụ Trần Đình Lâm xây năm Kỷ Dậu 1849. Ngôi nhà gồm từ đường rộng 5
    gian và một số căn nhà phụ cận, mặt quay về hướng Đông. Đã 8 thế hệ sống trong ngôi
    nhà này, lớn lên và trưởng thành và gắng sức gìn giữ di sản của cha ông.
    Chùa Vọng Cung – TP Nam Định
    18
    Theo thông tin của trang điện tử tỉnh Nam Định, hồi đầu thế kỷ XX, đốc học Nam
    Định Nguyễn Thượng Hiền từng ở ngôi nhà này để liên lạc với các nhà nho yêu nước
    như Tăng Bạt Hổ, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến. Em trai Trần Bích San là Trần
    Bạch Lân tham gia phong trào Cần Vương và bị Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Ngôi nhà
    này cũng còn là cơ sở của các chiến sĩ cách mạng nổi tiếng Đinh Chương Dương, Lê
    Hồng Sơn – những người đã tổ chức, cử người sang Quảng Châu đầu những năm 20 của
    thế kỷ. Tiếp sau này, nhiều học sinh yêu nước đã đến đây học hỏi tìm đường cứu nước
    và trở thành những nhà chính trị xuất sắc, trong đó có các đồng chí Đặng Xuân Khu
    (Trường Chinh), Nguyễn Đức Cảnh…Nếu tính từ năm 1849 đến nay ngôi nhà đã đến
    tuổi 155 năm, là nơi tụ họp con cháu và giao lưu nhiều đời, nhiều thế hệ.
    Về mặt kiến trúc ngôi nhà đã giúp ta hiểu rõ nhà ở của dân Thành Nam đầu thế kỷ
    XIX như thế nào. Ngôi nhà cũng là một địa chỉ văn hoá quan trọng. Trong giai đoạn
    cách mạng 1930 – 1935 ngôi nhà này, vẫn là cơ sở ủng hộ và nuôi dưỡng cán bộ cách
    mạng, là nơi thành lập Chi hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên ở
    tỉnh Nam Định.
    Với giá trị nhiều mặt như đã nêu trên, ngôi nhà số 7 phố Bến Ngự vinh dự được
    Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
    Ngôi nhà số 7, Bến Ngự – TP Nam Định
    19
    2.4. Cột cờ Nam Định
    Cột cờ Thành Nam là một công trình kiến trúc cổ, có giá trị lịch sử và văn hóa và
    còn là biểu tượng cho sự bất khuất của thành phố Nam Định.
    Xây dựng vào thế kỷ XIX, cùng với cột cờ ở kinh thành Huế năm 1807, cột cờ
    Hà Nội năm 1812, cột cờ ở thành Bắc Ninh năm 1838. Cột cờ Thành Nam cao 23,84m,
    được xây dựng vào năm Gia Long thứ 11 (1812) ở phía nam nội thành, cách Vọng
    Cung chưa đầy 100m, thuộc vào hàng kiến trúc cao nhất trong Thành Nam thời bấy giờ.
    Cột cờ Thành Nam Định đã trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử. Ngày
    27/3/1883, tàu chiến của Pháp từ sông Đào bắn phá vào trong thành. Tại độ cao 11m ở
    cột cờ về phía Nam còn một vết đạn cắm sâu vào 4cm, đường kính 6cm. Thời kì hoạt
    động cách mạng bí mật, các cán bộ, đảng viên lấy cột cờ làm nơi sinh hoạt để bàn kế
    hoạch chỉ đạo phong trào. Năm 1967, Nam Định bị máy bay giặc Mĩ đánh phá ác liệt.
    Đỉnh cột cờ là nơi tổ quan sát máy bay do đồng chí La Vĩnh Hào chỉ huy làm nhiệm vụ
    viễn tiêu. Ngày 11/6/1972, khu vực cột cờ bị sập do máy bay Mĩ ném bom.
    Năm 1962, cột cờ Thành Nam đã được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích
    lịch sử – Văn hóa cấp nhà nước. Cột cờ Thành Nam, điểm du lịch ở Nam Định, không
    Cột cờ Thành Nam – TP Nam Định
    20
    thể bỏ qua với gần hai thế kỉ tồn tại đã chứng kiến bao sự thay đổi của đất nước và quê
    hương. Nơi đây đã gắn bó với biết bao thế hệ tuổi thơ Nam Định và trên hết nó còn là
    niềm tự hào của mỗi người con Nam Định khi nhắc về mảnh đất văn hiến này.
    2.5. Bảo tàng tỉnh Nam Định
    Nằm trên con đường Cột Cờ của thành phố, ngay cạnh cột cờ Nam Định, Bảo
    tàng tỉnh Nam Định là một điểm đến không thể bỏ qua. Bởi nơi đây lưu giữ những kỉ
    vật mang đậm nét văn hóa của một vùng đồng bằng Bắc Bộ xưa và những dấu tích
    kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ của nhân dân tỉnh Nam Định.
    Trong những năm học qua, ngành giáo dục thành phố chú trọng đến những hoạt
    động trải nghiệm để giáo dục học sinh. Học tập tại Bảo tàng tỉnh Nam Định là một
    trong những hoạt động bổ ích và đem lại hiệu quả thiết thực. Qua đây, các em sẽ hiểu
    hơn đất Thành Nam nói riêng, tỉnh Nam Định nói chung qua những thời kì lịch sử, để từ
    đó các em càng thêm yêu, tự hào về quê hương của mình hơn.
    2.6. Tượng đài Trần Hưng Đạo – Quảng trường 3 – 2
    Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một danh tướng thời Trần, cũng là
    danh tướng trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Những phẩm chất đáng quý cũng như tài
    năng kiệt xuất của Hưng Đạo Đại Vương đã khiến bao thế hệ nhân dân Việt Nam coi
    ông như vị Thánh và gọi là Đức Thánh Trần.
    Bảo tàng Tỉnh Nam Định
    21
    Hiện nay, có nhiều nơi lập tượng đài đề tưởng nhớ công ơn của ông với dân tộc.
    Trên mảnh đất Thành Nam này, tượng đài Trần Hưng Đạo được đặt uy nghi tại quảng
    trường mùng 3 – 2 (phường Vị Hoàng), càng trở nên ý nghĩa, thiêng liêng hơn bao giờ
    hết, bởi đây chính là quê quán của ngài (nguyên quán ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc,
    tỉnh Nam Định – TP Nam Định ngày nay). Nhân dân Thành Nam nói riêng đều mang
    trong mình một tấm lòng thành kính, không kể những ngày lễ, tết mà ngay cả những
    ngày thường, người dân đều thắp lên những nén hương để tri ân Đức Thánh, để cầu
    mong sức khỏe, bình an cho gia đình.
    2.7. Phố cổ Thành Nam
    Phủ Thiên Trường là kinh đô thứ hai của nhà Trần, là đô thị sầm uất dưới thời
    Pháp thuộc. Phố cổ Nam Định ra đời sau phố cổ Hà Nội. Xưa kia có tới 40 phố, trong
    đó 35 phố mang tên “Hàng” như Hàng Bát, Hàng Kẹo, Hàng Mâm, Hàng Tiện, Hàng
    Ghế, Hàng Sắt, Hàng Đồng,…
    Những con phố nhỏ nằm sát ngôi thành cổ và trải dài theo ven bờ sông Vị Hoàng
    (sông Đào, hay còn gọi là sông Nam Định) gắn liền với gần 800 năm phát triển của
    Thành Nam cùng các triều đại Trần, Hồ, Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn, thời kỳ Pháp
    thuộc và cho đến ngày nay. Phố cổ Thành Nam xưa ra đời chỉ sau phố cổ Hà Nội, cũng
    Tượng đài Trần Hưng Đạo – TP Nam Định
    22
    đẹp và sầm uất không kém Hà Nội 36 phố phường, hay phố cổ Hội An. Kiến trúc phố
    cổ Thành Nam là sự giao thoa giữa kiến trúc cổ điển Việt Nam, kiến trúc nhà liền kề
    mặt phố của đô thị cổ, kiến trúc Trung Hoa, kiến trúc phương Tây.
    Hiện nay, chỉ còn một vài con phố còn mang tên cổ như: Hàng Tiện, Hàng Cấp,
    Hàng Thao, Hàng Đồng, Hàng Sắt,… còn lại phần lớn đã được đổi tên. Các khu phố
    không còn buôn bán những mặt hàng truyền thống, tuy nhiên nó vẫn còn giữ được dáng
    vẻ cổ kính và in dấu một thời vàng son nơi đây. Đây là nét đặc sắc hiếm thấy mà không
    phải đô thị xưa nào ở Việt Nam còn giữ lại được
    3. Tìm hiểu ẩm thực, các hoạt động sản xuất
    3.1. Ẩm thực
    Việt Nam là thiên đường ẩm thực của thế giới. Nam Định đã ghi tên mình với
    những món ăn đã trở thành đặc sản, nổi tiếng mà bất cứ ai ghé thăm nơi đây đều tâm
    đắc, lưu luyến bởi những món ăn đã trở thành nét văn hóa.
    *Phở bò
    Có lẽ khi đi trên đường phố của bất cứ thành phố nào trong cả nước, chúng ta có
    thể thấy những tấm biển quảng cáo như “Phở bò Nam Định”. Thứ đặc sản này của
    thành phố Nam Định mang hương vị rất riêng mà không nơi đâu có được, cứ lặng lẽ len
    23
    lỏi khắp các thành thị, miền quê trên cả nước. Món phở bò đã trở thành bộ mặt cho văn
    hóa ẩm thực người Thành Nam.
    *Bánh gai
    Bánh gai là một trong những đặc sản ngon, nổi tiếng ở Nam Định. Khác với
    những nơi khác, vỏ bánh gai ở đây được làm từ lá chuối khô, bọc nhiều lần. Nhân bánh
    vàng ươm, bở của đỗ xanh, thơm ngậy của vị mỡ và dừa, phần bánh rất mềm, không lạo
    xạo và mang một mùi thơm đặc trưng của lá gai. Điều đặc biệt là ở đây bánh được trực
    tiếp sản xuất, lúc nào cũng mới, để ba ngày bánh vẫn mềm, dẻo và vị ngọt vừa phải.
    Thưởng thức thứ đặc sản Nam Định tuyệt vời này chắc chắn sẽ mang lại cho du khách
    những trải nghiệm tuyệt vời.
    *Kẹo lạc Sìu Châu
    Ngoài bánh gai thì kẹo lạc Sìu Châu cũng là đặc sản Nam Định nổi tiếng. Đến
    với Nam Định, khách thập phương không thể quên được vị thơm ngon, giòn tan của
    loại kẹo này.
    Với những nguyên liệu gần gũi, thân thuộc như lạc, vừng, đường, mạch
    nha…những nghệ nhân nơi đây đã tạo ra những chiếc kẹo Sìu Châu rất thơm, giòn đặc
    biệt. Cắn một miếng ta nghe thấy tiếng cộc rất nhẹ trong miệng, vị thơm bùi của lạc,
    vừng mới quyện với vị ngọt thanh của mạch nha cùng tan chảy ngay đầu lưỡi của quí
    vị. Thưởng thức một chiếc kẹo lạc Sìu Châu Nam Định chúng ta sẽ cảm nhận thấy được
    sự khác biệt về mùi vị, hương sắc mà không nơi đâu có được. Nếu ai tinh ý sẽ nhận ra
    được khi ăn kẹo không bị dính răng. Đây chính là sự cuốn hút cũng như tâm tình của
    người Thành Nam được gửi gắm qua món đặc sản dân dã này.
    *Chuối ngự
    Chuối ngự là một trong những đặc sản của vùng đất Nam Định thời xa xưa. Theo
    sử sách còn ghi thời vua Trần, từ phủ Thiên Trường đến ngoài thành Nam Định, nhiều
    vùng là quê hương, thái ấp của vua quan nhà Trần. Các vua quan Trần đánh giặc giỏi,
    24
    trị thủy tài, lại thương dân như con. Cảm kích trước công lao to lớn đó, dân làng Thành
    Nam đã trồng nên một loại sản vật quý để dâng vua đó là: chuối ngự.
    Chuối ngự mang cho mình một cái tên sang trọng giống như ngự bào (áo vua
    mặc), ngự mã (ngựa vua đi), ngự thiện (đồ ăn của vua). Quả chuối ngự nhỏ hơn các loại
    chuối khác. Khi chín có màu vàng óng như tơ, ruột vàng thơm ngon. Nếu nói về hình
    dáng thì chuối ngự là đẹp nhất, đều nhất, cân đối nhất. Chính vì những đặc điểm quí
    phái, thanh tao ấy nên chuối ngự đã trở thành món ăn để tiến các vua nhà Trần. Đó
    chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho tấm lòng của người dân Thành Nam dành lên
    các vị vua Trần đã có công giữ gìn non sông đất nước, lập nên nền độc lập thái hòa cho
    nhân dân.
    *Bánh Xíu báo
    Xíu báo có vỏ như bánh nướng nhưng mềm và thơm hơn, nhân bánh là thịt xá xíu
    được làm từ thịt thăn lợn ướp với Tỏi băm, ngũ vị hương, dầu hào, mật ong, cùng với
    gia vị đem rán kĩ đến khi có màu đỏ nâu sậm; rồi xắt hạt Lựu trộn với mộc nhĩ, mỡ lợn
    và nửa quả trứng cút (hoặc trứng gà) luộc. Thưởng thức xíu báo ngay lúc nóng bạn sẽ
    cảm nhận được vị thơm của thịt xíu, vị bùi bùi, béo ngậy của thịt mỡ cùng vị cay nồng
    của hạt tiêu…rất lạ và đặc biệt. Đối với mỗi thế hệ học sinh Thành Nam, xíu báo không
    chỉ là món quà vặt quen thuộc, bình dị, dân dã mà nó còn gợi nhắc kỉ niệm về một thời
    cắp sách tới trường và ở đâu đó, xíu báo còn là món quà cho người trở lại…

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho học sinh lớp 4

    SKKN Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho học sinh lớp 4

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    1. Lý do chọn đề tài:
    Ngay từ khi mới biết nhận thức, thế giới xung quanh luôn là điều mà con
    người khao khát tìm hiểu. Ở tiểu học, các kiến thức về tự nhiên và xã hội; sự vận
    động và phát triển cũng như mối quan hệ giữa chúng được trình bày một cách
    đơn giản, phù hợp với nhận thức của học sinh trong môn khoa học.
    Môn khoa học từ lớp 4 được xây dựng trên cơ sở tiếp nối và kế thừa những
    kiến thức của môn tự nhiên và xã hội được học từ lớp 1; 2; 3. Nội dung chương
    trình có cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo 3 chủ đề:
    – Con người và sức khỏe
    – Vật chất và năng lượng
    – Thực vật và động vật.
    Lê – nin từng nói: “Học, học nữa, học mãi”, câu nói đó luôn có giá trị ở
    mọi thời đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay đang hướng tới nền kinh tế tri thức,
    nó đòi hỏi mọi người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính
    vì vậy mà tinh thần tự học có vai trò vô cùng quan trọng.
    Trong lịch sử của dân tộc ta có rất nhiều tấm gương thành tài nhờ nỗ lực tự
    học của bản thân như trạng nguyên Nguyễn Hiền, Bạch Thái Bưởi, và tiêu biểu
    chính là vị cha già dân tộc Hồ Chí Minh. Người đã từng nói “Trong cách học,
    phải lấy tự học làm nòng cốt”. Khi phải bôn ba ở xứ người, Bác đã tự học tiếng
    Pháp mỗi ngày mười từ, và cứ thế. Người đã thông thạo không chỉ tiếng Pháp
    mà còn nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Trung Quốc, Nga, tiếng Anh…
    Như vậy có thể nói rằng, tự học, tự giải quyết vấn đề là một năng lực vô
    cùng cần thiết trong hoạt động sống của con người, giúp con người thành công.
    Nhưng trong thực tế ở tiểu học hiện nay, trong môn Khoa học lớp 4, nhiều học
    sinh học thuộc bài nhưng không hiểu bài dẫn đến tình trạng thuộc lí thuyết
    những không biết làm thực hành. Vì vậy việc chú trọng hình thành và phát triển
    các kỹ năng: quan sát, dự đoán, giải thích các hiện tượng tự nhiên và kĩ năng tự
    học hỏi mọi lúc mọi nơi và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống cần
    được giáo viên đặc biệt chú trọng trong mọi hoạt động học tập để dần tạo lập
    thói quen giúp học sinh thực hành những hành vi có lợi cho sức khỏe của cá
    nhân, gia đình và cộng đồng xã hội.
    Với những lí do trên, việc phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và tự
    học của học sinh là một đòi hỏi cấp thiết cần giải quyết. Đó là lí do tôi chọn đề
    tài: “Một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho
    học sinh lớp 4.”
    2
    2. Mục đích nghiên cứu.
    Trên cơ sở thực tiễn của việc học tập môn khoa học, giáo viên định hướng
    giúp học sinh phát huy tính chủ động, năng lực tư duy và đề ra biện pháp nhằm
    nâng cao tính tích cực chủ động tìm tòi kiến thức mới của học sinh.
    3. Nhiệm vụ nghiên cứu
    – Tìm hiểu thực trạng và những tồn tại trong quá trình học sinh học môn
    Khoa học dành cho học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 4.
    – Tìm hiểu các biện pháp và hình thức tổ chức dạy học mới thông qua dạy
    học tích hợp, lồng ghép các môn học nhằm kích thích sự sáng tạo, nhu cầu khám
    phá kiến thức mới đối với bộ môn Khoa học.
    – Đề xuất một số kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động dạy và học,
    giúp giáo viên lên lớp hiệu quả.
    4. Đối tượng nghiên cứu.
    Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là học
    sinh của trường tôi và đối tượng nghiên cứu trực tiếp là học sinh lớp 4 mà tôi đã
    trực tiếp giang dạy những năm qua.
    5. Phạm vi nghiên cứu
    Nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 4 của trường tiểu học nơi tôi đang
    công tác từ năm học 2018- 2019 cho đến nay.
    6. Phương pháp thực hiện
    Đọc, nghiên cứu các tài liệu, sách báo về các biện pháp tổ chức hoạt động dạy
    và học môn Khoa học ở trường Tiểu học. Đạt được mục đích nghiên cứu tôi đã
    sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
    Nghiên cứu thông qua việc thực hiện tổ chức dạy học môn Khoa học tại
    trường dựa theo những phương pháp cụ thể như:
    – Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
    – Phương pháp tìm hiểu thực tế.
    – Phương pháp quan sát.
    – Phương pháp trải nghiệm.
    – Phương pháp điều tra.
    7. giả thuyết khoa học
    Một số kinh nghiệm về dạy học và học phân môn khoa học ở lớp 4
    II. Mô tả giải pháp kĩ thuật.
    II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Như chúng ta đều biết không có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Việc
    người giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học mới vào việc dạy học các
    3
    môn học ở Tiểu học nói chung và môn Khoa học nói riêng chỉ nhằm mục đích
    hình thành cho học sinh năng lực tự học, giúp học sinh hình thành phương pháp
    học tập đúng đắn giúp họ thực sự trở thành chủ thể tìm kiếm tri thức.
    Chương trình môn khoa học lớp 4 đã chú trọng tới hình thành và phát
    triển các kỹ năng trong học tập các môn khoa học như quan sát, thí nghiệm,
    phán đoán, giải thích các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và kỹ năng sử dụng
    kiến thức khoa học vào thực tế cuộc sống hàng ngày của các em..
    Thế giới tự nhiên đối với các em luôn chứa đựng bao điều bí ẩn. Sự tác
    động của nó hàng ngày qua mắt các em làm các em lạ lẫm, khiến các em tò mò
    và mong muốn khám phá để hiểu biết về chúng. Chính trí tò mò ham hiểu biết
    khoa học sẽ là động cơ thúc đẩy các em học tập một cách tích cực. Sự hứng thú
    sẽ nảy sinh đam mê hoạt động và hoạt động sáng tạo . Điều này sẽ hình thành
    động cơ học tập (động cơ bên trong) của mỗi học sinh. Khi người giáo viên kích
    thích được năng lực tự học ở mỗi học sinh thì việc gợi mở và mang đến những
    kiến thức mới cho HS không còn là điều khó khăn nữa.
    Mục đích, yêu cầu của việc phát huy năng lực tự học môn Khoa học cho
    học sinh lớp 4:
    Mục tiêu của môn Khoa học lớp 4 là giúp học sinh có những kiến thức cơ
    bản ban đầu về sự trao đổi chất, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, các dạng
    năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành và phát
    triển cho các em những kỹ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí nghiệm
    thực hành khoa học đơn giản, gần gũi với đời sống sản xuất. Biết nêu thắc mắc
    và đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin để giải đáp, biết diễn
    đạt những biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích rút ra những
    dấu hiệu chung và riêng cùng một vài hiện tượng tự nhiên. Qua đó hình thành và
    phát triển thái độ cũng như hành vi đúng đắn như: ham hiểu biết khoa học, có
    thói quen vận dụng kiến thức đã học và đời sống, yêu con người, yêu thiên
    nhiên, đất nước, yêu cái đẹp; có ý thức và hành động để bảo vệ môi trường xung
    quanh.
    1. Những thuận lợi
    a) Đối với giáo viên (GV):
    Trường Tiểu học nơi tôi đang dạy là ngôi trường của “Ước mơ và lòng
    nhân ái”. Trường có cơ sở vật chất hiện đại, khang trang, sạch sẽ. Bên cạnh đó là
    sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn cùng với sự góp
    ý, chia sẻ thân tình của các đồng nghiệp.
    Mỗi thầy cô giáo trong trường đều là một tấm gương sáng về tinh thần tự
    học và sáng tạo. Đồng thời họ là những giáo viên có nhiều kinh nghiệm, nhiệt
    4
    tình và yêu nghề, luôn chủ động trong việc tìm kiếm và lĩnh hội các phương
    pháp dạy học tích cực, đặc biệt là dạy học theo mô hinh VNEN. Đó chính là môi
    trường thuận lợi cho giáo viên trong việc học hỏi, trau dồi kiến thức để giúp học
    sinh ngày càng chủ động, tự tin và sáng tạo.
    b) Đối với học sinh (HS):
    Thực tế các em học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng rất
    thích môn khoa học, bởi vì môn học này có vai trò rất quan trọng, nó trang bị
    cho các em một số hiểu biết có liên quan đến bản thân các em, đến lứa tuổi các
    em, giúp các em có ý thức, biết tự bảo vệ mình và phòng tránh được một số
    bệnh truyền nhiễm. Nó còn giúp các em có hiểu biết về thế giới tự nhiên, về môi
    trường xung quanh.
    Mặt khác, khi học môn này các em được tự mình làm thí nghiệm, tự dự
    đoán và rút ra kết luận cho bản thân. Ví dụ: Bài Âm thanh trong cuộc sống
    (Bài 22 – khoa học lớp 4). Nên các em thường hiểu bài và thuộc bài ngay tại lớp.
    Các em thường xuyên được tham gia học tập trải nghiệm nên rất tự tin, mạnh
    dạn trong giao tiếp. Hơn thế nữa, các em học sinh phần lớn được cha mẹ tạo mọi
    điều kiện tốt nhất cho con lên internet tìm kiếm thông tin, chuẩn bị đồ dùng cho
    hoạt động nhóm hoặc thực hành thí nghiệm.
    2. Những khó khăn:
    a) Đối với giáo viên:
    Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa phát huy hết tính tích cực, sáng
    tạo của học sinh. Đôi lúc giáo viên còn làm thay cho học sinh vì sợ mất thời gian
    mà đáng lẽ ra học sinh phải trực tiếp làm thí nghiệm.
    Trong hoạt động nhóm để làm thí nghiệm giáo viên chưa kiểm tra kịp thời
    những em thiếu tự giác trong học tập nên những em này ỷ vào các bạn trong
    nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng và không chịu học.
    Giáo viên thường gọi em khá, giỏi làm cho nhanh để khỏi mất nhiều thời
    gian.
    b) Đối với học sinh:
    Trong quá trình học tập, một số học sinh không chịu tập trung, không chú
    ý nghe giảng bài, không có sự tìm hiểu kiến thức hay sưu tầm tranh ảnh, vật mẫu
    để làm thí nghiệm. Một số học sinh chưa chủ động, còn dựa dẫm nhiều vào các
    bạn nhanh nhẹn, tích cực trong nhóm, chưa thể hiện và phát huy được hết khả
    năng của mình.
    Một số em lười đọc sách. Khi giáo viên hỏi các em không chịu trả lời mặc
    dù đó là những câu hỏi trong SGK mà ngồi làm việc riêng.
    Học sinh lười học bài phần cung cấp thông tin ở SGK và mục bạn cần
    biết, các em không chịu đọc nên không làm bài được.
    5
    Một số em ngại tiếp xúc, “giấu dốt” không dám thắc mắc, không muốn hỏi
    vì sợ bạn chê cười…Một số em xem “nhẹ” môn Khoa học, chủ yếu tập trung
    học Toán và Tiếng Việt vì thế dẫn đến kết quả không cao.
    Theo khảo sát thực nghiệm trên học sinh trong năm học 2018 – 2019 thì
    kết quả tôi thu được về số lượng học sinh chủ động, tích cực phát huy năng lực
    tự học môn Khoa học như sau:

    Học sinh
    (32 học sinh)
    Học sinh chủ động, tự tin, tích cực
    Số lượngĐầu năm họcCuối năm học
    1022

    Một khó khăn không thể không kể đến đó là các em sống ở rải rác các khu
    dân cư xa trường học không ở gần nhau. Chính điều này làm cho việc liên lạc,
    gắn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong việc chuẩn bị đồ dùng hay làm bài tập nhóm gặp
    không ít khó khăn.
    II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    Trong quá trình thực tiễn giảng dạy, tôi thấy vấn đề quan trọng nhất để
    học sinh phát huy được năng lực tự học trong một bộ môn đòi hỏi có sự hiểu
    biết thực tế, có sự chuẩn bị chu đáo trong mỗi hoạt động dạy và học của môn
    Khoa học lớp 4 là việc đòi hỏi người giáo viên cần lập kế hoạch hoạt động cụ
    thể cho từng nội dung bài học. Người giáo viên cũng cần dự đoán được hết các
    câu trả lời, các tình huống có thể sảy ra trong lớp học để có phương án xử lí kịp
    thời. Đồng thời lồng ghép các môn học trong cùng một bài dạy để kích thích nhu
    cầu khám phá và tự học hỏi của học sinh.
    1. Đối với giáo viên:
    – Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải thiết kế hệ thống câu hỏi và bài
    tập một cách rõ ràng. Tổ chức các hoạt động như: quan sát; làm thí nghiệm; trò
    chơi học tập…để động viên các em tham gia tích cực nhằm lĩnh hội kiến thức
    mới một cách nhẹ nhàng và có hiệu quả.
    – Dạy học môn khoa học cần chú ý phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo
    của học sinh, có thể lựa chọn phối hợp nhiều phương pháp dạy học như: thuyết
    trình, hỏi- đáp; thảo luận; trò chơi; động não; quan sát; thí nghiệm; thực hành.
    Đáng chú ý, người giáo viên cần giảm sự can thiệp và quyết định của mình lên
    hoạt động cá nhân để tự tìm ra kiến thức của học sinh dù thấy học sinh đang đi
    chưa đúng hướng, tăng cường sự tham gia của học sinh vào các hoạt động tìm
    tòi phát hiện ra kiến thức mới.
    6
    – Môn khoa học là môn học bước đầu hình thành cho các em một số kĩ năng
    quan sát; dự đoán và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống nên giáo viên
    phải đổi mới và lựa chọn nhiều phương pháp dạy cho phù hợp với đặc trưng bộ
    môn. Trong môn khoa học lớp 4 thường dùng một số phương pháp: quan sát, thí
    nghiệm, dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ, trò chơi học tập… là phương pháp
    đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy học môn khoa học.
    – Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ càng từ việc tự làm thử thí nghiệm trước
    khi lên lớp đến cách tổ chức, giao việc để tránh gây lộn xộn, hoặc học sinh
    không nắm bắt được yêu cầu kiến thức cần đạt được của bài học đó. Muốn vậy,
    giáo viên cần chú ý:
    + Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng học sinh hoặc nhóm học sinh.
    + Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn.
    + Có sự phân công kiểm tra cụ thể, nghiêm túc trước khi vào tiết học.
    1.1. GV hướng dẫn HS lập kế hoạch chuẩn bị đồ dùng
    Trước mỗi tiết học, GV dặn học sinh xem trước nội dung, dựa vào tranh
    minh họa trong SGK, các em tự nêu ý kiến cần chuẩn bị tranh ảnh hay dụng cụ
    thí nghiệm nào cần thiết cho bài học. Tôi dành thời gian 5 phút cuối tiết hướng
    dẫn học để Nhóm trưởng cùng các bạn trong nhóm sẽ bàn bạc lên danh sách đồ
    dùng cần chuẩn bị. Căn cứ vào nội dung kế hoạch dạy học, tôi bổ sung thêm
    danh sách đồ dùng cần chuẩn bị. Sau khi có danh sách đồ dùng, tôi yêu cầu các
    nhóm HS tự lên kế hoạch phân công người chuẩn bị, xác định thời gian hoàn
    thành. Việc làm này giúp các em biết lên kế hoạch cho việc sắp diễn ra, biết hợp
    tác, nâng cao tinh thần trách nhiệm ,…Và điều tôi đặc biệt muốn HS phải làm
    được khi lập kế hoạch là có trách nhiệm hoàn thành. Điều này, giúp các HS có
    thói quen tốt về thời gian, bước đầu biết quản lí thời gian hợp lí. Khi có thời
    gian cụ thể phải hoàn thành, chính các em là người tự thúc giục mình, chứ
    không cần người khác nhắc nhở.
    + Ví dụ minh họa : Bài 12: Nước có tính chất gì?
    CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG – NHÓM …
    Bài: Nước có những tính chất gì?

    STTĐồ dùngSố lượngPhân
    công
    Thời gian
    hoàn thành
    Bắt buộcCần
    mượn cô
    1Bình nước1 cáiMinh12/10

    7

    2Các loại chai lọ3 cáiLong
    3Cốc1 cáiDiệu
    4Thìa1 cáiDiễm
    5Khay1 cáixHải
    6Tấm nhựa1 tấmxAn
    7Khăn bông loại nhỏ1 cáiBình
    8Cát1 cốc nhỏHoàng
    9Đường1 cốc nhỏVũ Linh
    10Muối1 cốc nhỏDiệu

    1.2. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài trước khi học
    Đồng thời với việc hướng dẫn HS lập kế hoạch chuẩn bị đồ dùng thì việc
    tự chuẩn bị bài của mỗi HS là vô cùng quan trọng. Nó quyết định chất lượng học
    tập của các em. Tôi nhớ một câu nói rất ý nghĩa của Margaret Mead “Không nên
    dạy cho trẻ em những gì chúng phải suy nghĩ, mà dạy cho chúng cách suy
    nghĩ.”. Vì vậy tôi cho các nhóm tự thảo luận và chọn hoạt động nào trong bài
    các em có thể tự làm ở nhà và chỉ cần báo cáo kết quả trên lớp. Việc làm này
    giúp nâng cao khả năng tự học, tư duy phán đoán và tự đánh giá của các em.
    Để nắm sâu và mở rộng kiến thức thì mỗi HS sẽ tự đặt thêm các câu hỏi về
    nội dung trong SGK, đặc biệt tôi khuyến khích các em đặt câu hỏi phản biện để
    các em vừa nắm chắc kiến thức vừa rèn tính tự tin. Ngoài ra các em còn tự tìm
    kiếm thêm những nội dung liên quan đến kiến thức bài học. Trong lớp tôi, 100%
    các gia đình HS có máy tính kết nối mạng Internet và phụ huynh cũng luôn tạo
    điều kiện cho con lên mạng internet tìm kiếm thông tin cho bài học.
    Các em sẽ copy các đường link video hay thông tin trên mạng internet mà các
    em muốn cho cả lớp xem, rồi gửi qua Zalo cho tôi. (Tôi sẽ xem trước và quyết
    định nội dung sưu tầm của em nào sẽ trình chiếu trước lớp và thời gian trình
    chiếu). Tất cả những việc chuẩn bị của HS tôi cho phép các em ghi luôn vào vở
    Ghi Khoa- Sử- Địa. Công việc này giúp các em dễ dàng tổng hợp kiến thức, ghi
    nhớ lâu hơn và không gặp khó khăn vào mỗi đợt thi cử. Ở vở Ghi Khoa- Sử-
    Địa, các em có thể viết, vẽ hình minh họa, sử dụng sơ đồ tư duy, kẻ biểu bảng,
    dùng bút các màu để trình bày phần chuẩn bị của bản thân.
    8
    Hình ảnh minh họa Sơ đồ tư duy một số bài Khoa học
    do học sinh tự vẽ sau mỗi bài học
    1.3 GV kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục học sinh
    GV thống nhất với phụ huynh mọi việc GV giao về nhà cho HS chuẩn bị để
    phụ huynh cho phép con vào mạng internet tìm hiểu thông tin. Phụ huynh chỉ
    giúp đỡ khi thấy thật cần thiết. Khi phụ huynh hiểu việc làm của cô giáo là tốt
    cho con em mình thì họ sẽ tự nguyện đồng hành cùng giáo viên và giúp đỡ con
    kịp thời, đúng đắn. Từ đó giúp cho hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên
    có hiệu quả hơn. Để việc thông báo thông tin tới phụ huynh kịp thời, ngay từ
    đầu năm học, lớp tôi đã lập nhóm Zalo để liên lạc. Các hình ảnh hoạt động của
    HS trong tiết Khoa học cũng được tôi gửi tới phụ huynh kịp thời đã tạo được sự
    hưởng ứng, ủng hộ của phụ huynh HS, tạo cơ hội cho các con tham gia hoạt
    9
    động. Tôi lưu ý phụ huynh về việc kiểm soát việc sử dụng mạng internet của các
    con để đảm bảo các con sử dụng đúng mục đích, lành mạnh.
    Nhưng thực tế, không phải cứ hướng dẫn cách học là học sinh tự học được
    mà giáo viên cần có sự quan tâm khen chê kịp thời và khéo léo. Đối với HS
    hoàn thành phần chuẩn bị sẽ được nhận điểm cộng thi đua trong Classzoom
    (phần mềm quản lí HS, giúp GV tính thi đua, theo dõi HS, trao đổi thông tin với
    PH). Còn học sinh chưa hoàn thành phần chuẩn bị, thì đến lần thứ 2 tôi mới trừ
    điểm thi đua của các em. Tôi luôn quan tâm tìm nguyên nhân dẫn đến việc các
    em chưa hoàn thành phần chuẩn bị. Tùy từng tình huống mà có lời nhắc nhở,
    động viên kịp thời.
    Để kích thích được sự hứng thú của học sinh cũng như động viên các em
    tham gia vào các hoạt động học tập, tôi kết hợp cùng Ban phụ huynh lớp chuẩn
    bị trước những phần thưởng nho nhỏ để tặng các em khi các em tích cực tham
    gia học tập một cách có hiệu quả. Những điểm thưởng các em có được khi tham
    gia vào hoạt động học tập sẽ được quy đổi thành tiền Dojo dollar để các em đổi
    quà, tạo thêm niềm hứng thú và động lực giúp các em tích cực tham gia vào các
    hoạt động học tập tiếp theo.
    Hình ảnh minh họa GV chuẩn bị tiền Dojo dollar và danh mục quà tặng để
    HS lựa chọn.
    2. Đối với học sinh:
    2.1. Các em cần tự giác học tập: Khi học sinh ham học, ham hiểu
    biết và thích tìm tòi, phát hiện ra những cái mới trong cuộc sống xung quanh
    đồng thời có đầy đủ dụng cụ học tập và đồ dùng để làm thí nghiệm theo sự
    hướng dẫn của giáo viên thì các em sẽ càng thêm yêu thích môn học. Việc
    hoạt động nhóm lại càng đòi hỏi ý thức tự giác và tích cực tham gia của mỗi
    thành viên để tìm ra kết quả mà không thể ỷ lại vào bạn.
    10
    * Ví dụ bài 29: Nhiệt cần cho sự sống (Khoa học lớp 4).
    Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật. Học sinh làm việc theo nhóm :
    Phân loại ảnh động vật sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái đất như
    sau:
    + Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm.
    + Động vật sống ở vùng ôn đối.
    + Động vật sống ở sứ lạnh, băng tuyết quanh năm.
    + Động vật sống ở vùng ôn đối.
    + Động vật sống ở vùng nhiệt đối.
    + Động vật sống ở vùng sa mạc.
    – Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều động vật sinh sống hoặc động vật
    sinh sống).
    Trên cơ sở tranh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của nhiệt đối
    với đời sống động vật.
    2.2.Phân công nhiệm vụ của học sinh trong hoạt động nhóm:
    Các thành viên trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào các hoạt
    động của nhóm (mỗi nhóm chỉ nên có khoảng 4 đến 6 em).
    + Nhóm trưởng: Quản lí chỉ đạo, điều khiển nhóm hoạt động.
    + Thư kí nhóm: Ghi chép lại kết quả công việc của nhóm sau khi đạt được
    sự đồng tình của nhóm.
    + Báo cáo viên: Trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm.
    Khi bắt đầu mỗi hoạt động nhóm, học sinh bốc thăm thẻ nhóm (nhóm
    trưởng, thư kí nhóm, báo cáo viên, thành viên) để có điều kiện thể hiện khả năng
    ở các vị trí khác nhau.
    2.3. Học sinh được tạo cơ hội tự tìm kiếm kiến thức thông qua cách tổ
    chức các hoạt động trên lớp của giáo viên:
    Trước khi tổ chức cho học sinh học theo nhóm, GV cần giúp học sinh nắm
    rõ yêu cầu của hoạt động và thời gian kết thúc hoạt động đó. GV cần ước lượng
    đúng thời gian để học sinh có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Sử dụng đồng hồ
    đếm ngược cho mỗi hoạt động học sinh được giao sẽ giúp học sinh có trách
    nhiệm hơn trong hoạt động nhóm đồng thời phát huy được tính chủ động, tích
    cực để tìm ra kiến thức.
    + Ví dụ minh họa: Tìm hiểu âm thanh lan truyền trongkhông khí
    Bài 22: âm thanh cần cho sự sống (khoa học 4)
    *Mục tiêu: Học sinh làm thí nghiệm để nhận ra âm thanh lan truyền qua
    môi trường không khí, chất lỏng, rắn. Nêu được ví dụ chứng tỏ âm thanh lan
    truyền trong môi trường không khí, không truyền trong môi trường chân không.
    11

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3

    SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Cơ sở lí luận
    1.1. Cơ sở tâm lí học sinh Tiểu học
    – Tri giác của HS tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính
    không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan,
    đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, HS thích quan sát các sự
    vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác đã mang tính mục đích, có
    phương hướng rõ ràng.
    – Tư duy của HS tiểu học mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư
    duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư
    duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp
    4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp
    kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông HS tiểu học.
    – Về trí nhớ và sự phát triển nhận thức của HS tiểu học: Giai đoạn lớp 1,2 ghi
    nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý
    nghĩa. Nhiều HS chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các
    điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ
    tài liệu.
    Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.
    Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ
    định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các
    em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các
    em.
    Để khai thác tốt các đặc điểm này, GV cần phải phát triển tư duy và trí tưởng
    tượng của các HS bằng cách biến các kiến thức “khô khan” thành những hình ảnh
    có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào
    các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình
    nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện, thu hút HS bằng các hoạt động mới,
    mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích
    HS cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
    2
    1.2. Chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3
    Về kiến thức: HS có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
    – Con người và sức khỏe: tên, chức năng và giữ vệ sinh cơ quan hô hấp, tuần
    hoàn, bài tiết nước tiểu và thần kinh. Biết tên và cách phòng tránh một số bệnh
    thường gặp ở cơ quan hô hấp, tuần hoàn và bài tiết nước tiểu.
    – Xã hội: mối quan hệ họ hàng nội ngoại; một số hoạt động chủ yếu ở trường;
    biết một số cơ sở hành chính, văn hóa, y tế, giáo dục và một số hoạt động thông tin
    liên lạc, nông nghiệp, công nghiệp ở nơi HS đang sống…
    – Tự nhiên: biết được sự đa dạng, phong phú của thực vật, động vật; chức
    năng của rễ, thân, lá, hoa, quả đối với đời sống của cây và ích lợi đối với con
    người; biết vai trò của Mặt trời đối với Trái đất và đời sống con người, vị trí và sự
    chuyển động của Trái đất trong Hệ mặt trời; sự chuyển động của Mặt trăng quanh
    Trái đất; hình dạng, đặc điểm của Trái đất; biết hiện tượng ngày, đêm, các tháng,
    mùa trong năm.
    Về kĩ năng: bước đầu hình thành và phát triển cho HS các kĩ năng:
    – Ứng xử thích hợp trong các tình huống liên quan đến vấn đề sức khỏe của
    bản thân, gia đình và cộng đồng; viết vệ sinh và phòng chống bệnh tật )bệnh lao
    phổi, tim mạch, …)
    – Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập; biết diễn đạt những hiểu
    biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,…
    – Phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật,
    hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
    Về thái độ: hình thành và phát triển ở HS thái độ:
    – Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cả
    cộng đồng.
    – Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng kiến thức đã học vào đời sống.
    – Yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp, có ý thức bảo vệ môi
    trường xung quanh.
    * Nội dung môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3: Nội dung chương trình Tự nhiên
    và Xã hội lớp 3 gồm 3 chủ đề lớn: Con người và sức khỏe; Xã hội; Tự nhiên.
    3
    2. Cơ sở thực tiễn
    Nghị quyết 29/NQ-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng ngày 04 tháng
    11 năm 2013 về đổi mới căn bản , toàn diện nền giáo dục và đào tạo đã yêu cầu
    ngành giáo dục cần “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
    hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
    của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc”.
    Trọng tâm của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ
    thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt
    động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp
    của GV, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu
    cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong
    học tập.
    PPDH bằng Bản đồ tư duy được coi là một trong những PPDH tích cực.
    Phương pháp này nhằm hướng các em đến một phương cách học tập tích cực và tự
    chủ. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ
    mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư
    duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo. PPDH này giúp HS khắc sâu và ghi nhớ
    kiến thức tốt hơn, đồng thời đem lại những giờ học nhẹ nhàng, vui vẻ, lý thú mà
    vẫn đạt hiệu quả cao. Như vậy, đây là PPDH hướng vào người học, nó phù hợp và
    đáp ứng yêu cầu của đổi mới dạy học hiện nay.
    Hiện nay trên thực tế HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến
    thức máy móc HS chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân
    môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư
    duy logic và tư duy hệ thống. Đặc biệt sau đại dịch Covid- 19, chương trình giáo
    dục nói chung và chương trình giáo dục Tiểu học nói riêng phải giảm tải nên việc
    HS phải tiếp thu một lượng kiến thức nhiều hơn sẽ dẫn đến tình trạng các em hay bị
    quên và lẫn lộn các nội dung kiến thức với nhau. Sử dụng BĐTD (BĐTD) giúp các
    em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
    Môn học Tự nhiên và xã hội ở Tiểu học quán triệt quan điểm tích hợp, coi tự
    nhiên, con người và xã hội là một thể thống nhất có mối quan hệ qua lại. Trong đó,
    con người với những hoạt động của mình, vừa là cầu nối giữa tự nhiên và xã hội,
    4
    vừa tác động mạnh mẽ đến tự nhiên và xã hội. Chương trình có nhiều vấn đề được
    mở rộng, liên hệ với thực tiễn đời sống từ các nội dung lí thuyết, chú trọng đến các
    hoạt động quan sát, thực hành giúp HS tìm tòi phát hiện ra kiến thức và biết cách
    thực hiện những hành vi có lợi cho sức khoẻ cá nhân, gia đình và cộng đồng, thuận
    lợi cho việc triển khai bằng BĐTD.
    Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng ứng dụng BĐTD trong các nội
    dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân HS cũng như hiệu
    quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học
    môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3” nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
    3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
    Sáng kiến này được thực hiện tại lớp 3A, trường Tiểu học Trần Quốc Toản –
    nơi tôi chủ nhiệm và giảng dạy. Cụ thể tình hình như sau:
    + Tổng số HS: 36 em. Trong đó: 15 em nữ, 21 em nam.
    + Thời gian áp dụng : Từ tháng 8 năm 2019 đến tháng 6 năm 2020.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
    Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng dạy và học sử dụng BĐTD tại trường
    tiểu học Trần Quốc Toản trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội, và thu được một
    số kết quả cụ thể như sau:
    * Khảo sát nhận thức của giáo viên về sử dụng BĐTD:
    – Có 54.5% GV đã tìm hiểu, nghiên cứu hoặc được giới thiệu về BĐTD
    nhưng chưa hiểu sâu.
    – Chỉ có 27.2% GV hiểu rõ cấu trúc của một BĐTD cần ít nhất 3 thành phần
    cơ bản nào là: Ý chủ đạo/ hình ảnh trung tâm, các nhánh tỏa ra từ ý chủ đạo và sự
    phân cấp nhánh theo trật tự và từ khóa trên các nhánh.
    – Có 63.6% ý kiến cho rằng sử dụng BĐTD trong dạy học chỉ là lồng ghép
    trong dạy học, không thể thay thế các phương pháp khác.
    – Chỉ có 36.4% ý kiến cho rằng sử dụng BĐTD trong dạy học như một công
    cụ để truyền tải kiến thức.
    5
    Từ thực tế khảo sát trên cho thấy vẫn còn một bộ phận GV hiểu chưa thật sự
    đúng về bản chất, lợi ích của BĐTD trong dạy học đặc biệt đối với môn Tự nhiên
    và xã hội.
    * Khảo sát sự đánh giá của giáo viên về mức độ cần thiết của sử dụng BĐTD
    trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội:
    – Có 63.6% GV cho rằng việc ứng dụng BĐTD vào dạy học ở tiểu học là
    “Rất hữu ích”, chỉ có 9% GV cho rằng việc ứng dụng BĐTD vào dạy học ở tiểu
    học là “Không hữu ích”.
    – Có 81.8% GV đánh giá BĐTD sẽ thích hợp ứng dụng vào nhiều kiểu bài:
    dạy học kiến thức mới, ôn tập, củng cố, kiểm tra, đánh giá.
    – Có 63.6% GV cho rằng sử dụng BĐTD trong dạy học môn Tự nhiên và xã
    hội sẽ đem lại nhiều tác dụng với HS: ghi nhớ tốt kiến thức, hệ thống hóa được kiến
    thức, Phát triển năng lực tư duy, năng lực sáng tạo cho HS, rèn kĩ năng tự học, tăng
    cường kĩ năng làm việc theo nhóm, nâng cao khả năng tổ chức giải quyết vấn đề,
    giúp HS hứng thú, tích cực, chủ động.
    Như vậy phần lớn GV đều thấy được sự cần thiết sử dụng BĐTD trong dạy
    học môn tự nhiên và xã hội cho HS tiểu học.
    * Khảo sát về thực trạng dạy và học sử dụng BĐTD
    Tại trường tiểu học Trần Quốc Toản, cũng đã có những GV sử dụng BĐTD
    trong dạy học. Tuy nhiên, phần lớn GV chỉ lấy sẵn các nội dung BĐTD đã có sẵn ở
    mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút, song trong giáo án thì không thể hiện rõ từng
    bước tiến hành sử dụng BĐTD như thế nào, thông qua BĐTD thì GV chưa hướng
    dẫn cụ thể cho HS cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở BĐTD ra sao. Bên
    cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn GV gặp phải khi sử dụng BĐTD trong dạy học
    như: kĩ năng sử dụng các phần mềm vẽ BĐTD chưa tốt, sử dụng BĐTD phải đầu tư
    nhiều thời gian và công sức chuẩn bị giáo án, chuẩn bị các BĐTD trong bài học,
    nhiều GV cũng cho rằng thời gian dạy học trên lớp không phù hợp để sử dụng
    BĐTD…
    Về phía HS, hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo
    mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà GV nói. Hơn nữa chương trình lịch
    6
    sử quá rộng, kiến thức nhiều mà GV chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những
    gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho HS.
    * Khảo sát về thực trạng học sinh
    – Đối với HS lớp 3, các phẩm chất của các em đang được hình thành và phát
    triển, tuy nhiên những phẩm chất này chưa ổn định và chưa trở thành các nét tính
    cách. Năng lực tự chủ còn yếu, đặc biệt các em thiếu kiên nhẫn, chóng chán, khó
    giữ trật tự.
    – Các em đang được hình thành trong mọi hoạt động học tập, lao động, vui
    chơi. Cụ thể ở các em hình thành những nét tính cách mới như tính hồn nhiên, tính
    hay bắt chước những hành vi, cử chỉ của người lớn, tính hiếu động, tính trung thực
    và tính dũng cảm.
    Bằng phương pháp quan sát và phỏng vấn, tôi đã tiến hành khảo sát mức độ
    hứng thú và kĩ năng sử dụng BĐTD trong học tập của 36 HS lớp 3A trường tiểu
    học Trần Quốc Toản – nơi tôi đang giảng dạy, từ đó thu được một số kết quả cụ thể
    như sau:
    – Có 72.2% HS rất thích thú khi được sử dụng BĐTD trong quá trình học.
    – Có 41.7% HS tỏ ra dễ hòa hợp, thích thú khi được học và sử dụng BĐTD.
    – Có 16.7% HS còn lúng túng, chưa biết cách sử dụng BĐTD.
    Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số GV lúng túng cả
    về nội dung, biện pháp ứng dụng BĐTD vào dạy học cho HS. Nhận thức của nhiều
    GV còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ và lúng túng trong việc khai thác nội dung bài
    học nào có thể sử dụng BĐTD trong quá trình dạy và học. Nhà trường cũng đã có
    tổ chức một số hoạt động nhằm tăng cường hỗ trợ GV trong việc sử dụng các
    phương pháp, hình thức dạy học, có giới thiệu phương pháp sử dụng BĐTD nhưng
    còn chung chung, chưa đi sâu, chưa thể hiện thường xuyên rõ nét. HS khi được tiếp
    xúc với phương pháp dạy học mới thì phần lớn các em tỏ ra rất thích thú và hào
    hứng tham gia.
    Từ thực trạng nói trên, đề tài nghiên cứu để đưa ra một số giải pháp sử dụng
    BĐTD nhằm góp phần giúp GV nâng cao chất lượng dạy và học, đặc biệt với môn
    Tự nhiên và xã hội.
    7
    1.2. Bản đồ tư duy và vai trò trong dạy học Tiểu học
    1.2.1. Bản đồ tư duy
    Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được phát triển vào cuối thập niên
    60 của thế kỉ 20 bởi Tony Buzan, là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng
    ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để
    phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy
    tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định
    chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của một câu chuyện) thì não bộ còn có khả
    năng liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả
    năng này của bộ não.
    BĐTD là một phương pháp, lưu trữ, sắp xếp thông tin và xác định thông tin
    theo thứ tự ưu tiên bằng cách sử dụng từ khoá, hình ảnh chủ đạo. Mỗi từ khoá hoặc
    hình ảnh chủ đạo trong BĐTD sẽ kích hoạt những ký ức cụ thể và làm nảy sinh
    những suy nghỉ, ý tưởng mới.
    Cơ chế hoạt động của BĐTD là chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các
    mạng lưới liên tưởng (các nhánh), là một hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu,
    mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức… bằng
    cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự
    tư duy tích cực.
    1.2.2. Vai trò của Bản đồ tư duy trong dạy học ở Tiểu học
    BĐTD là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa
    lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu
    sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Cùng một chủ đề mỗi người có thể
    thể hiện nó theo một cách riêng. Chính vì vậy BĐTD sẽ phát huy được tối đa năng
    lực sáng tạo của HS và đặc biệt sẽ giúp được HS tiểu học hình thành và phát triển
    những yếu tố căn bản của năng lực cá nhân.
    BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc và các mạng lưới liên tưởng. Hiện
    nay, phương pháp dạy học phần lớn làm cho não trái của HS phát triển hơn não
    phải. Não phải thường ít được dùng đến, trong khi tiềm năng tư duy của não phải
    không thua kém, thậm trí còn vượt trội hơn so với não trái nếu tìm được quy luật
    làm việc của nó. BĐTD được xem là một công cụ giúp bộ não tư duy toàn diện và
    8
    khai thác được tiềm năng của não phải. Nhờ có sự liên kết giữa các ý tưởng với ý
    tưởng trung tâm nên BĐTD cho thấy mức độ bao quát, sâu rộng của vấn đề cần
    nghiên cứu. Điều đó giúp HS phát triển toàn diện theo đúng hướng của chương
    trình giáo dục phổ thông tổng thể đang hướng tới.
    Lí thuyết BĐTD gắn bó chặt chẽ với các nghiên cứu về hoạt động của não bộ
    con người, trong đó đề cao việc kết hợp sử dụng tất cả các tiềm năng thuộc về hai
    bán cầu não.
    Chức năng của hai bán cầu não [Nguồn: Internet]
    Việc ứng dụng BĐTD góp phần đổi mới phương pháp dạy học của GV ở
    nhiều mặt: hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập
    hệ thống hóa kiến thức cũng như lập kế hoạch công tác. GV có thể sử dụng BĐTD
    trong quá trình soạn giảng, bố cục nội dung bài dạy; vẽ sơ hoá kiến thức thông qua
    việc liên kết các mắt xích kiến thức cho từng bài, từng chương, từng phần kiến
    thức; hệ thống nội dung ôn tập để HS có cái nhìn tổng quát về kiến thức đã học, từ
    đó dễ dàng ôn tập và khắc sâu kiến thức hơn; cấu trúc trong ra đề kiểm tra bằng
    cách đưa ra các ma trận kiến kiến nhằm phân bố lượng kiến thức, mức độ kiến thức
    cần kiểm tra cho hợp lí; phân tích cách giải các bài tập định tính cũng như định
    lượng, đưa ra những kiến thức chính cần giải bài tập cũng như các kiến thức liên
    quan, từ đó đưa ra các bước giải trình tự và cách trình bày rõ ràng, lập luận chặt
    chẽ. HS vừa tham gia học vừa tự học để từ đó các em được hình thành các kĩ năng
    9
    thông qua các hoạt động. Từ đó giúp GV dạy học chương trình đặc biệt chuẩn bị
    cho dạy học chương trình giáo dục phổ thông mới vừa cung cấp kiến thức vừa phát
    triển hài hòa cả phẩm chất và năng lực HS.
    HS tiểu học đang trong độ tuổi trí tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện,
    đặc biệt bộ não đã có thể khắc sâu nhờ hình ảnh trực quan và ấn tượng, chính vì vậy
    việc sử dụng BĐTD trong dạy học HS tiểu học sẽ giúp các em học tập có nhiều
    hứng thú, tích cực, chủ động và sáng tạo hơn, việc học trở nên đơn giản, nhớ lâu,
    ngày càng yêu thích môn học và kết quả học tập tốt hơn.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Vấn đề cần giải quyết
    Khi sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học phù hợp với từng hoạt động sẽ
    giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức đặc biệt kích thích được
    sự hứng thú trong học tập của HS tiểu học nhằm phát triển năng lực HS. BĐTD là
    một công cụ dùng để phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu
    quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì
    vậy, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp, nhiều kĩ thuật nhưng chú trọng là tôi sử
    dụng BĐTD. Sau đây tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm có hiệu quả trong việc sử
    dụng BĐTD cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau.
    2.2. Tính mới, sự khác biệt của Bản đồ tư duy trong dạy học Tự nhiên và xã hội
    lớp 3
    Qua khảo sát bước đầu về phạm vi ứng dụng của BĐTD vào dạy học tự
    nhiên và xã hội 3 nói riêng và trong dạy học tiểu học nói chung, có thể kể đến một
    số điểm mới và khác biệt so với các kiểu dạy học khác như sau:
    * BĐTD giúp cả GV và HS lên kế hoạch làm việc (giảng dạy, học tập, trình
    bày…) một cách dễ dàng nhờ sự phát triển ý tưởng và móc nối chúng lại với nhau.
    Việc hoàn thành được BĐTD đồng nghĩa với khả năng đưa đến cái đích cuối cùng
    là những tiền đề và giải pháp hành động.
    * BĐTD góp phần khiến HS trở nên sáng tạo hơn vì trong quá trình xây
    dựng, HS phải vận dụng triệt để mọi tiềm năng về phân tích, liên tưởng, tưởng
    tượng và cảm thụ của chính bản thân mình.
    10
    * So với lối ghi chép liệt kê thông thường, lập một BĐTD sẽ tiết kiệm thời
    gian với các từ khoá ngắn gọn, các hình ảnh đơn giản mà vẫn phản ánh được tư
    tưởng chủ đạo của vấn đề, giúp HS ghi nhớ sâu các nội dung học tập.
    * Một BĐTD hoàn chỉnh có thể được xem là một bức tranh sống động gây
    hứng thú cho HS. Nó đem đến cái nhìn vừa tổng thể, vừa chi tiết, vừa ở tầm vĩ mô,
    vừa ở dạng vi mô về nội dung học tập, đặc biệt là các kiến thức tự nhiên xã hội rất
    gần gũi với thực tiễn đời sống của HS.
    * Nội dung vấn đề được phát triển bằng cách toả ra đồng thời theo nhiều
    hướng mà vẫn có sự phân cấp rõ ràng nhánh lớn, nhánh nhỏ; màu sắc, kích thước,
    kiểu chữ,… tham gia hỗ trợ khiến BĐTD phù hợp hơn với quy luật suy nghĩ của
    HS tiểu học, giúp HS nhớ nhanh và nhớ lâu những gì đã phát triển, mở rộng từ nội
    dung học tập ban đầu qua hình ảnh gốc…
    * Phạm vi triển khai của BĐTD là vô hạn. Nói cách khác, có thể vẽ ra bao
    nhiêu nhánh triển khai là tuỳ thuộc vào ý muốn và năng lực chủ quan của HS,
    không có giới hạn cụ thể về dung lượng với bất kì vấn đề trung tâm nào. Vì vậy,
    GV hay HS ngay từ đầu đã có thể tự do sáng tạo, không bị bó buộc vào bất kì
    khuôn khổ nào. Bất kì khi nào muốn dừng lại, HS có thể quay trở về để xem xét vai
    trò của từng yếu tố trong bản đồ để cân nhắc và sắp xếp lại vị trí, vai trò, tầm quan
    trọng của nó.
    * BĐTD tạo hứng thú và kích thích say mê ở cả GV và HS khi tiến hành dạy
    và học, việc triển khai các nội dung dạy học bằng BĐTD cũng đồng thời trở thành
    một trò chơi thú vị với con chữ, số, màu sắc, đường nét, hình ảnh,…
    Từ những ưu điểm kể trên, BĐTD hướng đến cái đích là giúp HS nhận thấy
    bản thân mình là một “chiếc máy ý tưởng” (theo Tony Buzan), cảm thấy được giải
    phóng về mặt trí tuệ và tính sáng tạo – những năng lực rất cần có trong môi trường
    giáo dục hiện nay, và cũng là một trong 10 năng lực cần phải trang bị cho HS trong
    chương trình giáo dục phổ thông 2018.
    2.3. Giải pháp ứng dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 3
    2.3.1 Sử dụng Bản đồ tư duy trong hoạt động khởi động
    Hoạt động khởi động diễn ra thường xuyên trong các tiết dạy. Vì vậy, hoạt
    động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động
    11
    trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn. Tùy theo mỗi tiết học và tuỳ
    theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà GV có thể áp dụng các hoạt
    động khác nhau. Sử dụng BĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần
    hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì thời gian đầu giờ tương đối ngắn nên các BĐTD
    tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu
    và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
    Một số cách triển khai nhánh trong Bản đồ tư duy
    GV có thể cho HS hoàn thành trọn vẹn BĐTD dưới hình thức cuộc thi chẳng
    hạn HS nào hay nhóm nào nhanh nhất, chính xác nhất hoàn thiện BĐTD sẽ được
    tuyên dương trước lớp. Hoặc GV chuẩn bị sẵn mô hình học tập ứng với nội dung
    của bài , hoặc khung BĐTD để HS tham gia điền hoặc dán thông tin lên phần kiến
    thức đó. Hoặc GV có thể thiết kế hoạt động đầu giờ của HS bằng việc thu hoạch,
    trưng bày các BĐTD HS đã thiết kế bài ở nhà để trưng bày trước lớp.
    12
    Học sinh hoàn thiện Bản đồ tư duy về Cơ quan bài tiết nước tiểu
    Sơ đồ trong bài:”Hoạt động tuần hoàn”
    13
    2.3.2. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới
    Dạy học Tự nhiên và Xã hội không chỉ đơn giản là cung cấp những kiến thức
    cơ bản mà còn bước đầu phát triển tư duy, năng lực suy nghĩ cho HS. Mục đích
    hướng tới là giúp HS có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học về Tự nhiên
    và xã hội vào giải quyết những nhiệm vụ, những vấn đề đơn giản trong thực tiễn.
    Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận
    dụng kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của
    trò là yếu tố quyết định. GV thường sử dụng hoạt động nhóm trong dạy học Tự
    nhiên và Xã hội nhưng GV chưa khai thác được hết ưu điểm của PPDH này do
    cách tổ chức hoạt động nhóm còn chưa hợp lí, cách phân công nhiệm vụ chưa phù
    hợp… dẫn tới hiệu của sử dụng chưa cao. Để HS tiếp thu kiến thức mới hiệu quả,
    việc sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới đã trở thành công cụ hỗ trợ
    hữu ích cho GV trong việc tạo hứng thú, tiếp thu hiệu quả của HS.
    14
    Học sinh hoạt động nhóm trong bài:”Các thế hệ trong một gia đình”
    Học sinh hoạt động trong bài: “Hoạt động nông nghiệp”
    15
    Như vậy,qua việc khai thác kiến thức mới có sử dụng BĐTD các em vừa nhớ
    hiểu kiến thức, vừa thấy hứng thú và thích thú hơn trong học tập và hiểu bài nhanh
    hơn. Trong dạy học kiến thức mới, BĐTD giúp HS dễ dàng liên tưởng, liên kết các
    mạch kiến thức đã học và phát triển ý tưởng để tìm kiếm kiến thức mới. Việc sử
    dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới hiệu quả nhất đối với bài học có liên quan
    đến kiến thức đã biết hoặc trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi dạy bài mới, tôi
    thường kết hợp sử dụng máy chiếu có phần mềm BĐTD để hoàn thiện kiến thức.
    Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ thì
    BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc GV và HS
    đã hoàn thành xong BĐTD cho bài học.
    Bản đồ tư duy bài:” Rễ cây”
    16
    Bản đồ tư duy bài:” Thân cây”
    Trong chương trình TNXH lớp 3, sau khi học xong 2 bài “ Thân cây” và “Rễ
    cây”, HS rất hay nhầm lẫn kiến thức. Đặc biệt sau khi nghỉ dịch, chương trình cắt
    giảm, dồn các bài lại khiến cho lượng kiến thức tiếp thu trong một tiết học của các
    em nhiều hơn. Các em dễ nhầm lẫn hơn. Khi sử dụng BĐTD sẽ giúp các em nắm
    chắc được kiến thức và không bị lẫn lộn giữa các kiến thức với nhau.
    Nếu như những GV nào không có điều kiện sử dụng máy chiếu hoặc sử dụng
    chưa quen máy chiếu thì hoàn toàn có thể sử dụng bằng bảng. GV có thể dành một
    góc bảng bên phải để cùng HS hoàn thiện BĐTD.
    Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó HS
    phải lên trình bày, thuyết minh thông qua BĐTD mà GV và HS hoặc nhóm mình đã
    hoàn thành. HS khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp
    17
    HS hoàn chỉnh BĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. GV giới
    thiệu BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung 1
    kiểu BĐTD, tôi chỉ chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét
    vẽ và hình thức (nếu cần).

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức lớp 4

    SKKN Các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức lớp 4

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về
    đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp và hình thành nhân cách, đáp
    ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
    nghĩa.
    Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo
    phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức
    cần thiết đối với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào
    tạo con người với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã
    hội.
    Đổi mới giáo dục hiện nay đang chú trọng hình thành và phát triển những
    năng lực cần thiết ở người học. Trong đó các kỹ năng là một thành phần quan
    trọng để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước. Học sinh không chỉ cần có kiến thức
    mà còn phải biết làm, biết hành động phù hợp trong những tình huống, hoàn
    cảnh của cuộc sống. Mục tiêu giáo dục của Việt Nam ở thế kỉ XXI là: học để
    biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống.
    Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu
    ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn thiếu hiểu biết sâu sắc
    về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động ….Đặc biệt là trong
    bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên
    chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào
    hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn,
    thách thức những áp lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kỹ năng sống tốt,
    các em dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai
    căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Chính là do các em thiếu
    2
    kỹ năng sống cần thiết như: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng từ chối, kỹ năng
    giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp …
    Để trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù
    hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh,
    tích cực loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các
    tình huống và hoạt động hàng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện
    tốt quyền, bổn phận của mình phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và
    đạo đức thì việc giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các
    em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ
    quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc
    sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích
    cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh.
    Để đáp ứng được mọi vấn đề về trên thì ngay từ khi các em bước chân vào
    trường mầm non, trường Tiểu học chúng ta cần giáo dục ngay những kỹ năng
    này, ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm như sau:
    “Uốn cây từ thủa còn non
    Dạy con từ thủa con còn thơ ngây”
    Giáo dục kỹ năng sống là một nội dung quan trọng và thiết thực trong chiến
    lược giáo dục toàn diện của một nền giáo dục tiến tiến. Giáo dục kỹ năng sống
    được tích hợp trong rất nhiều các môn học đặc biệt là môn Đạo đức. Môn Đạo
    đức ở trường tiểu học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo
    dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, là một môn học có
    nhiều khả năng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, cho nên tôi mạnh dạn trình
    bày:
    “Các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
    lớp 4 thông qua môn Đạo đức”.
    3
    II. Mô tả giải pháp kỹ thuật
    1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Sách giáo khoa
    Theo phân phối chương trình, tổng số tiết của môn Đạo đức lớp 4 là 28 tiết.
    So với những môn học khác như Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh,… thì đây là một
    trong những môn học chiếm thời lượng nhỏ. Tuy nhiên, vai trò của môn học này
    lại rất lớn trong việc hình thành nhân cách và các kỹ năng sống cần thiết cho học
    sinh, đặc biệt là trong xã hội phát triển mạnh mẽ và vô cùng phức tạp như hiện
    nay.
    Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm
    phát triển năng lực học sinh. Tuy nhiên, sách giáo khoa đang được sử dụng để
    dạy học lại là sách giáo khoa theo định hướng cũ.
    1.2. Về phía giáo viên
    Hiện nay, một số giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn
    Đạo đức trong việc hình thành nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh nên
    chưa thực sự quan tâm, đầu tư để giảng dạy môn học này.
    Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống thông qua môn Đạo đức, một số
    giáo viên chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh. Việc khuyến khích, khen
    thưởng, động viên các em còn ít và chưa kịp thời. Công tác tuyên truyền tới các
    bậc cha mẹ để phối kết hợp giáo dục kỹ năng sống cho các em chưa nhiều.
    Để việc rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức đạt hiệu
    quả thì việc chuẩn bị đồ dùng và các phương tiện dạy học phải tỉ mỉ và công phu
    mà kết quả lại không thấy được ngay nên một số giáo viên còn ngại thực hiện.
    Trong tiết học Đạo đức, giáo viên thường tập trung lo lắng cho những em
    có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung kém. Những học sinh này
    thường thụ động, không tập trung nghe cô hướng dẫn, không có khả năng tham
    gia hoạt động nhóm điều này làm học sinh không thể tập trung lĩnh hội những
    điều giáo viên dạy. Cho nên giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư để giúp
    học sinh có được những kĩ năng sống cơ bản.
    4
    1.3. Về phía học sinh
    Một số học sinh chỉ chú trọng học kiến thức nên khả năng ứng phó các tình
    huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít nhưng tính tự ti lại nhiều, thường nóng
    nổ gây sự lẫn nhau trước những tình huống đơn giản.
    Một số em được bố mẹ chiều chuộng, luôn đáp ứng mọi yêu cầu, đề nghị
    của các em. Một số em lại sống trong gia đình có hoàn cảnh đặc, bố mẹ biệt
    không hòa thuận, môi trường xung quanh phức tạp.
    Đối với học sinh tiểu học, khả năng ghi nhớ còn hạn chế. Một số học sinh
    làm trước nhưng quên sau. Một số em không kiên trì, nhẫn nại nên các kỹ năng
    sống đã được hình thành nhưng không được duy trì.
    1.4. Đối với phụ huynh
    Đa số phụ huynh chỉ quan tâm, khuyến khích và chú trọng đến việc dạy
    con mình biết đọc, biết viết, biết làm toán, học tiếng anh chứ không định hướng
    giáo dục và rèn luyện cho các con những kỹ năng sống cần thiết.
    Một số gia đình bao bọc, chiều chuộng và cung phụng con cái quá mức
    khiến trẻ không có khả năng tự phục vụ, hoặc có nhưng còn hạn chế.
    Một số gia đình bố mẹ mải mê công việc không chú ý đến con mình ăn
    uống, học hành và vệ sinh như thế nào?
    * Qua việc nghiên cứu và phân tích thực trạng, tôi thấy hiệu quả của việc
    giáo dục kỹ năng sống thông qua môn Đạo đức chưa cao. Có rất nhiều nguyên
    nhân dẫn đến tình trạng này nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các em học sinh
    chưa thực sự hứng thú với các tiết học Đạo đức, giáo viên chưa thực sự đầu tư
    cho các tiết dạy Đạo đức cũng như chưa phối hợp hiệu quả với phụ huynh trong
    việc rèn kỹ năng sống cho các em.
    5
    2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến
    Từ thực trạng và nguyên nhân trên, qua quá trình thực hiện, tôi đã đề ra 5
    giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
    qua môn Đạo đức:
    Giải pháp 1: Nghiên cứu chương trình, hệ thống và phân loại những kỹ
    năng sống cần giáo dục cho học sinh thông qua dạy học môn Đạo đức
    Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh cụ
    thể qua từng bài Đạo đức
    Giải pháp 3: Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục kỹ
    năng sống phù hợp
    Giải pháp 4: Thiết kế giáo án và thực hành tiết dạy Đạo đức có lồng ghép
    giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
    Giải pháp 5: Phối kết hợp tốt với phụ huynh trong việc rèn kỹ năng sống
    cho học sinh thông qua hoạt động ứng dụng
    2.1. Giải pháp 1: Nghiên cứu chương trình, hệ thống và phân loại
    những kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh thông qua dạy học môn Đạo
    đức
    2.1.1. Nghiên cứu chương trình
    Chương trình môn Đạo đức bao gồm một hệ thống chuẩn mực hành vi đạo
    đức và pháp luật cần thiết nhất, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học, được
    trình bày theo 5 mối quan hệ từ lớp 1 đến lớp 5. Cụ thể trong sách giáo khoa lớp
    4 gồm có 14 bài:
    * Quan hệ với bản thân:
    – Bài 1: Trung thực trong học tập.
    – Bài 2: Vượt khó trong học tập.
    – Bài 3: Biết bày tỏ ý kiến.
    – Bài 4: Tiết kiệm tiền của.
    – Bài 5: Tiết kiệm thời giờ.
    * Quan hệ với gia đình:
    6
    – Bài 6: Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ.
    * Quan hệ với nhà trường:
    – Bài 7: Biết ơn thầy giáo, cô giáo.
    * Quan hệ với cộng đồng, xã hội:
    – Bài 8: Yêu lao động
    – Bài 9: Kính trọng và biết ơn người lao động.
    – Bài 10: Lịch sự với mọi người.
    – Bài 11: Giữ gìn các công trình công cộng.
    – Bài 12: Tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo.
    – Bài 13: Tôn trọng Luật giao thông.
    * Quan hệ với môi trường tự nhiên:
    – Bài 14: Bảo vệ môi trường.
    Yêu cầu cần đạt của môn học: Sau khi học xong chương trình môn Đạo
    đức lớp 4, học sinh cần biết thực hiện tốt các chuẩn mực hành vi đạo đức, biết
    cách cư xử, dùng lời lẽ đúng trong mọi tình huống đối với các mối quan hệ với
    bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên.
    Về kiến thức: Biết nội dung và ý nghĩa của một số chuẩn mực hành vi đạo
    đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 4 trong quan hệ với gia đình,
    nhà trường; với những người xung quanh; với cộng đồng và xã hội; với hành vi
    và việc làm của bản thân; với môi trường.
    Về kĩ năng: Biết nhận xét, đánh giá các ý kiến, hành vi, việc làm có liên
    quan đến chuẩn mực đã học; lựa chọn cách ứng xử phù hợp; biết thực hiện các
    hành vi đã học trong thực tế.
    Về thái độ: Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; kính yêu thầy cô giáo; lịch sự
    với mọi người; kính trọng và biết ơn người lao động; trung thực và có ý thức
    vượt khó vươn lên trong học tập; có ý thức tiết kiệm; lịch sự bày tỏ ý kiến; có
    trách nhiệm bảo vệ của công; tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo; tôn
    trọng pháp luật; có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
    7
    2.1.2. Hệ thống và phân loại những kỹ năng sống cần giáo dục cho học
    sinh thông qua dạy học môn Đạo đức
    Môn Đạo đức giáo dục cho học sinh bước đầu biết sống và ứng xử phù hợp
    với các chuẩn mực biến nhận thức thành hành vi chuẩn mực thể hiện thông qua
    kỹ năng sống. Cụ thể:
    + Bước đầu trang bị cho học sinh các kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa
    tuổi.
    + Hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực;
    loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực.
    + Phát triển khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh.
    + Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ
    gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường.
    + Rèn cho học sinh biết cách giao tiếp và ứng xử phù hợp và linh hoạt
    trong cuộc sống hằng ngày.
    + Hướng dẫn học sinh biết cách phối hợp công việc của từng cá nhân khi
    làm việc đồng đội.
    + Kỹ năng sống giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính
    thực hành.
    + Biết sống tích cực, chủ động.
    + Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
    và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
    Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu chương trình, đối tượng học sinh cũng
    như môi trường sống xung quanh các em, tôi đã hệ thống và phân loại các
    nhóm kỹ năng sống cần được giáo dục lồng ghép trong các bài học Đạo đức
    như sau:
    * Nhóm kỹ năng nhận thức
    – Nhận thức bản thân.
    – Xây dựng kế hoạch.
    – Kỹ năng học và tự học.
    – Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo.
    – Giải quyết vấn đề.
    8
    * Nhóm kỹ năng xã hội
    – Kỹ năng giao tiếp.
    – Kỹ năng thuyết trình và nói được đám đông.
    – Kỹ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi.
    – Kỹ năng làm việc nhóm (làm việc đồng đội).
    – Kỹ năng lãnh đạo (làm thủ lĩnh).
    * Nhóm kỹ năng quản lý bản thân
    – Kỹ năng làm chủ.
    – Quản lý thời gian.
    – Giải trí lành mạnh.
    * Nhóm kỹ năng giao tiếp
    – Xác định đối tượng giao tiếp.
    – Xác định nội dung và hình thức giao tiếp.
    * Nhóm kỹ năng phòng chống bạo lực
    – Phòng chống xâm hại thân thể.
    – Phòng chống bạo lực học đường.
    – Phòng chống bạo lực gia đình.
    – Tránh tác động xấu từ bạn bè.
    Như vậy, thông qua môn Đạo đức có rất nhiều kỹ năng sống quan trọng sẽ
    được giáo dục cho học sinh.
    2.2. Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cần giáo dục cho học
    sinh cụ thể qua từng bài Đạo đức
    Trong môn Đạo đức, các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm,
    nếu dạy tốt các chủ đề, chủ điểm sẽ giúp học sinh bồi dưỡng nhuần nhuyễn các
    kỹ năng sống. Hình thành cách ứng xử linh hoạt cho các em trong cuộc sống. Vì
    vậy, trước khi thiết kế một bài dạy Đạo đức cụ thể, tôi đã lựa chọn và xác định
    những kỹ năng sống cần rèn cho học sinh cụ thể qua từng bài Đạo đức như sau:
    9
    Bài 1: Trung thực trong học tập
    – Kỹ năng tự nhận thức
    – Kỹ năng bình luận, phê phán
    – Kỹ năng làm chủ bản thân
    Bài 2: Vượt khó trong học tập
    – Kỹ năng lập kế hoạch vượt khó trong học tập
    – Kỹ năng tìm hiểu sự hổ trợ, giúp đỡ của thầy cô, bạn ben khi gặp khó
    khăn trong học tập
    Bài 3: Biết bày tỏ ý kiến
    – Kỹ năng trình bày ý kiến ở gia đình và lớp học
    – Kỹ năng lắng nghe người khác trình bày ý kiến
    Bài 4: Tiết kiệm tiền của
    – Kỹ năng bình luận, phê phán
    – Kỹ năng lập kế hoạch
    Bài 5: Tiết kiệm thời giờ
    – Kỹ năng xác định thời gian
    – Kỹ năng lập kế hoạch
    – Kỹ năng bình luận, phê phán
    Bài 6: Hiếu thảo với ông bà cha mẹ
    – Kỹ năng xác định giá trị tình cảm của cha mẹ dành cho con cái
    – Kỹ năng lắng nghe lời dạy bảo của cha mẹ
    – Kỹ năng thể hiện tình cảm yêu thương của mình với cha mẹ
    Bài 7: Biết ơn thầy giáo, cô giáo
    – Kỹ năng tự nhận thức giá trị công lao dạy dỗ của thầy cô
    – Kỹ năng lắng nghe lời dạy bảo của thầy cô
    – Kỹ năng thể hiện sự kính trọng, biết ơn với thầy cô
    Bài 8: Yêu lao động
    – Kỹ năng nhận thức giá trị của lao động
    – Kỹ năng quản lý thời gian để tham gia làm những việc vừa sức ở nhà và ở trường
    Bài 9: Kính trọng, biết ơn người lao động
    10
    – Kỹ năng tôn trọng giá trị sức lao động
    – Kỹ năng thể hiện sự tôn trọng, lễ phép với người lao động
    Bài 10: Lịch sự với mọi người
    – Kỹ năng thể hiện sự tự trọng và tôn trọng người khác.
    – Kỹ năng ra quyết định và lựa chọn hành vi vàlời nói phù hợp trong
    một số tình huống
    Bài 11: Giữ gìn công trình công cộng
    – Kỹ năng xác định giá trị văn hoá tinh thần của những nơi công cộng
    – Kỹ năng thu thập và xử lí thông tin
    Bài 12: Tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo
    – Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm khi tham gia các hoạt động nhân đạo
    Bài 13: Tôn trọng luật giao thông
    – Kỹ năng tham gia giao thông đúng luật
    – Kỹ năng phê phán những hành vi vi phạm luật giao thông
    Bài 14: Bảo vệ môi trường
    – Kỹ năng trình bày các ý tưởng bảo vệ môi trường ở nhà và ở trường
    – Kỹ năng thu thập và xử lí thông tin liên quan đến ô nhiễm môi
    trường và các hoạt động bảo vệ môi trường
    Ví dụ: Trong bài “Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ”.
    Khi khai thác truyện “Phần thưởng”
    GV: Đưa ra câu hỏi: “Theo em, bà của Hưng sẽ cảm thấy thế nào trước việc
    làm của bạn?
    HS: Thảo luận nhóm – sắm vai.
    HS: Các em tự phân vai trong nhóm: Một em đóng vai người bà, một em
    đóng vai người cháu và một em là người dẫn truyện.
    GV: Quan sát các nhóm làm việc, định hướng cho các nhóm còn lúng túng.
    GV: Các nhóm lên thể hiện trước lớp.
    GV: Cho học sinh tự nhận xét, đánh giá. GV nhận xét và chỉ ra kỹ năng các
    em đã được hình thành khi sắm vai.
    11
    Học sinh sắm vai khi khai thác câu chuyện “Phần thưởng”
    Thông qua việc sắm vai, học sinh được rèn kỹ năng biết cách thể hiện tình
    cảm yêu thương cũng như biết lắng nghe lời dạy bảo của cha mẹ, ông bà.
    Ví dụ: Khi dạy bài “Bảo vệ môi trường”
    Sau khi học sinh nắm được ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường và tác hại
    của việc môi trường bị ô nhiễm. Tôi cho học sinh xem một số hình ảnh bãi rác
    ngay gần trường.
    12
    Đó là bãi rác khu vực gần cổng trường của trường tôi công tác. Rất nhiều
    lần, nhà trường đã phối hợp với đoàn thanh niên của phường Thống Nhất để dọn
    sạch. Nhưng do khu vực đó không có nhà ở và ý thức của người dân chưa cao
    nên khu vực đó đã nhanh chóng trở thành một bãi rác. Sau khi xem những bức
    ảnh đó, tôi thấy được thái độ của các em là không đồng tình với những người
    không có ý thức bảo vệ môi trường. Từ đó các em mạnh dạn đưa ra các ý tưởng
    bảo vệ môi trường như: sẽ tham gia dọn rác và làm biển “Cấm đổ rác” cắm trên
    khu vực đó, tuyên truyền mọi người xung quanh nâng cao ý thức bảo vệ môi
    trường, … Với những ý tưởng trên thể hiện các em rất tích cực tham gia các hoạt
    động bảo vệ môi trường ở trường, lớp, gia đình và cộng đồng nơi sinh sống. Và
    đây là ý tưởng mà các em học sinh lớp tôi đã thực hiện được:
    Học sinh làm biển “Cấm đổ rác”
    13
    Học sinh tham gia dọn rác và tuyên truyền bảo vệ môi trường
    Như vậy, tất cả các bài Đạo đức lớp 4 đều có những kỹ năng sống cần thiết
    để hình thành cho học sinh. Thông qua những bài học đó giúp các em biết sống
    và ứng xử phù hợp trong mối quan hệ với bản thân, với mọi người, với quê
    hương, đất nước và với môi trường tự nhiên để trở thành con ngoan trong gia
    đình, học sinh tích cực của nhà trường và công dân tốt của xã hội.
    14
    2.3. Giải pháp 3: Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện
    giáo dục kỹ năng sống phù hợp
    Để một tiết dạy Đạo đức có lồng ghép giáo dục kỹ năng sống đạt hiệu quả
    cao thì trong quá trình thực hiện tiết dạy theo thiết kế, cần áp dụng hiệu quả các
    phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới, phù hợp với đặc trưng bộ môn.
    2.3.1. Các phương pháp dạy học mới
    a) Dạy học hợp tác nhóm
    Đây là phương pháp dạy học mới yêu cầu học sinh phải “Suy nghĩ nhiều
    hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa là trong quá
    trình tự học, tự tiếp cận kiến thức mới, học sinh phải suy nghĩ và làm việc một
    cách tích cực, đồng thời phải có mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trong
    nhóm trên con đường tìm tòi và phát hiện kiến thức mới.
    Quy trình thực hiện:
    + Làm việc chung cả lớp.
    + Làm việc theo nhóm.
    + Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp.
    Ví dụ: Dạy tiết 2 bài “Giữ gìn các công trình công cộng” tôi áp dụng
    phương pháp Dạy học hợp tác nhóm như sau:
    GV: Đưa ra các tình huống để học sinh thảo luận (mỗi tình huống sẽ đi
    kèm với tranh minh họa) và phân công cụ thể cho từng nhóm:
    1. Trong buổi sinh hoạt ngoại khoá, cô giáo dẫn cả lớp 4B đi thăm nhà văn
    hoá và bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ ở thôn, vừa đến nơi Nam và Hùng
    leo trèo lên bia đá còn Hải lấy gạch ném xuống ao, Dũng lấy dao khắc tên mình
    lên 1 thân cây gần đó.
    2. Gần đến Tết, Lan cùng mọi người trong xóm vệ sinh đường làng ngõ
    xóm, quét vôi lên các gốc cây.
    Ai là người không biết giữ gìn các công trình công cộng?
    Ai thực hiện tốt nhất? Đúng nhất? Nên? Không nên?
    HS: Làm việc cá nhân, chia sẻ cặp đôi rồi chia sẻ trước nhóm.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh Tiểu học

    SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh Tiểu học

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Sống có trách nhiệm với bản thân, biết quan tâm- chia sẻ yêu thương với
    gia đình và những người xung quanh, sống văn minh và sống có ý thức cộng
    đồng đã trở thành vấn đề cấp thiết được quan tâm kêu gọi thực hiện khá nhiều
    trong thời gian gần đây.
    Trong cuộc sống, việc thực hiện ý thức trách nhiệm với bản thân, với gia
    đình và cộng đồng đã trở thành một trong những thước đo giá trị đạo đức và
    phẩm cách của một con người, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển của
    xã hội. Từ xa xưa, cha ông ta đã từng nhắn nhủ: “’Thương người như thể
    thương thân”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”… và ngày nay, quan
    niệm ấy được thể hiện ở mức cao hơn: “Mình vì mọi người, mọi người vì
    mình”. Điều đó được thể hiện rõ nét trong sự tương trợ, gắn kết của các cá nhân,
    các tổ chức xã hội, sự tin tưởng vào đường lối của Đảng và Nhà nước mỗi khi
    đất nước gặp thiên tai, địch họa, hoặc khi đồng bào không may gặp cảnh cơ
    hàn…
    Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, ý thức cộng đồng của một bộ phận
    dân cư nước ta còn hạn chế. Không thể phủ nhận rằng có một thực tế rất đáng
    lưu tâm khi chúng ta không còn xa lạ với những rác thải và những đống ngổn
    ngang là dư âm còn lại sau những đêm pháo hoa tưng bừng đón giao thừa,
    những Hội chợ, những show trình diễn,…hay hình ảnh những bơm kim tiêm còn
    dính máu, những vỏ lon bia, nước ngọt, những túi ni lon xanh đỏ các màu khi
    nằm rải rác, khi lại chất đống trên những dãy phố đi bộ, công viên, bãi biển; hay
    hình ảnh những người sẵn sàng lấn làn, vượt ẩu, leo lên vỉa hè chỉ vì muốn
    nhanh hơn một chút khi tham gia giao thông; những nhân viên sẵn sàng bật điều
    hòa, chưng đèn điện sáng choang ngay cả khi rời khỏi nơi làm việc chỉ đơn giản
    vì đã có cơ quan trả tiền điện hàng tháng thay họ rồi;…
    Gần đây nhất, với những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid 19, có lẽ
    chưa khi nào ta thấy ý thức cộng đồng cần thiết và quan trọng đến như vậy. Bởi,
    4
    chỉ cần một người thiếu ý thức: không khai báo y tế, không cách ly theo đúng
    quy định, rồi trốn cách ly, tuyên truyền những thông tin sai sự thật, thì cả xã hội
    sẽ phải gồng mình lên chống dịch, tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch bệnh nhanh
    chóng trong cộng đồng, tốn kém rất nhiều nhân lực, vật lực, khiến cho nền kinh
    tế bị trì trệ và còn kéo theo rất nhiều hệ luỵ khác mà ta chưa lường hết được…
    Trong các nhà trường phổ thông, đặc biệt ở bậc Tiểu học, giáo dục ý thức
    cộng đồng cho học sinh giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách
    cho các em, giúp cho các em có được những thói quen, hành vi ứng xử văn minh
    trong các mối quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân đối với mọi người
    xung quanh và ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với bản thân mình.
    Xuất phát từ mục đích, yêu cầu và tầm quan trọng trong vấn đề giáo dục
    học sinh có lối sống lành mạnh và có trách nhiệm với cộng đồng, từng bước đáp
    ứng những nhu cầu cấp thiết của xã hội hiện đại, góp phần nuôi dưỡng những
    thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước có nhân cách phát triển toàn diện- những
    “công dân toàn cầu”, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Một số giải
    pháp nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh Tiểu học”.
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI CÓ SÁNG KIẾN
    Thời gian trước đây, mặc dù công tác ở các trường khác nhau trực thuộc
    các địa bàn khác nhau, song, chúng tôi cũng như phần lớn các giáo viên phụ
    trách hoạt động ngoài giờ và công tác thiếu nhi ở trường Tiểu học thường áp
    dụng các giải pháp cũ, đó là:
    – Dạy học thường chỉ bó gọn trong không gian lớp học, phương pháp chủ
    yếu là “truyền khẩu”, học sinh tiếp thu bài học một cách thụ động. Các tiết học
    được thực hiện ở ngoài không gian lớp học còn chưa được chú trọng đầu tư về
    thời gian, tâm sức…, do vậy chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và hứng
    thú của học sinh, thiếu tính thực tế.
    – Việc tích hợp dạy Âm nhạc, Thể dục với các môn học khác còn ít, hoặc
    không áp dụng, do đó chưa giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp
    kiến thức, kỹ năng, … thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau khi tham gia sinh hoạt
    cộng đồng.
    – Việc ứng dụng công nghệ thông tin và các giáo cụ trực quan trong dạy
    học, giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh còn hạn chế, đồ dùng dạy học
    nghèo nàn…
    – Việc áp dụng các nội dung được học trong hoạt động các Câu lạc bộ còn
    mờ nhạt, các buổi sinh hoạt tập thể còn mang quy mô nhỏ, ít được thực hiện
    theo các chuyên đề lớn gắn với thực tế…Vì thế, học sinh ít được trải nghiệm,
    thực hành để phát huy tính tích cực nhằm đạt được mục tiêu bài học một cách tối
    ưu. Trên cơ sở đó, việc phân hóa đối tượng học sinh, phát hiện và bồi dưỡng học
    sinh có năng lực vượt trội (thủ lĩnh) trong sinh hoạt cộng đồng còn hạn chế…
    Chúng tôi tự nhận thấy rằng, qua việc dạy học truyền thống, những giáo
    viên như chúng tôi khá thành công trong việc rèn cho học sinh những kiến thức,
    kỹ năng cơ bản của bài học, nhưng điều quan trọng hơn cả là hình thành và phát
    triển cho các em thái độ và ý thức khi giao lưu, tiếp xúc với môi trường sống
    xung quanh, sự mạnh dạn trình bày quan điểm đồng tình hay không đồng tình về
    một vấn đề nào đó mang tính thời sự của xã hội, … còn rất nhiều hạn chế. Bên
    6
    cạnh những học sinh mạnh dạn tự tin, thích tìm hiểu khám phá nội dung bài học,
    tham gia nhiệt tình các phong trào thi đua, sáng tạo trong giao tiếp cộng đồng;
    thì cũng có những em còn rất rụt rè, ngại thể hiện thể hiện bản thân mình trước
    đám đông, ít có sự sáng tạo trong quá trình học tập, vận dụng những kiến thứckỹ năng đã học trong việc tham gia các hoạt động ngoại khóa và sinh hoạt cộng
    đồng …
    2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    Với quan điểm xây dựng trường Tiểu học Trần Nhân Tông là “Ngôi trường
    của ước mơ và lòng nhân ái”, đích hướng tới trong quá trình xây dựng và phát
    triển của nhà trường- đó là rèn luyện cho các em học sinh có sức khỏe tốt, kiến
    thức vững vàng, kỹ năng nhạy bén, biết vận dụng những kiến thức đã học để giải
    quyết các tình huống trong thực tế cuộc sống và quan trọng hơn cả là biết sống
    nhân ái, biết yêu thương gia đình, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè, sống
    chân thành cởi mở với mọi người xung quanh, biết cách hành xử văn minh khi
    tham gia sinh hoạt cộng đồng.
    Để thực hiện được điều đó, chúng tôi đã nghiên cứu, thảo luận và thống
    nhất sử dụng các biện pháp sau trong quá trình giáo dục ý thức cộng đồng cho
    các em học sinh tại trường Tiểu học Trần Nhân Tông:
    Giải pháp 1: Lồng ghép Giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh trong
    các giờ học chính khóa (Tích hợp xuyên môn, liên môn)
    1.1. Việc giáo dục ý thức trách nhiệm với cộng đồng được diễn ra thường
    xuyên, liên tục, đều đặn và rất mềm dẻo được lồng ghép trong các tiết học Thể
    dục, đó là:
    – Giáo viên luôn nhắc nhở các em về ý thức trách nhiệm với bản thân mình
    thông qua việc rèn luyện sức khoẻ hàng ngày và các bài tập cô giáo dạy trên lớp.
    – Giáo viên nhắc nhở các em về kể lại hoặc hướng dẫn lại những người thân
    trong gia đình mình cùng giữ gìn sức khoẻ để gia đình mình cùng khoẻ mạnh.
    Đây là cơ sở của đất nước thịnh vượng, có sức khoẻ là có tất cả, khỏe để xây
    7
    dựng và bảo vệ Tổ quốc, khỏe để nắm bắt nhiều cơ hội nâng cao chất lượng
    cuộc sống.
    – Giáo viên chia sẻ các bài tập đơn giản như: bài tập thể dục phát triển
    chung, nhảy dây, các bài tập cơ bụng, cơ đùi, cơ lưng nhẹ nhàng, phù hợp với
    các thành viên trong gia đình, phù hợp với điều kiện không gian nhỏ hẹp trong
    nhà khi cả xã hội áp dụng giãn cách, chỉ ra ngoài khi có việc thật sự cần thiết.
    Hoạt động này không chỉ tạo hiệu ứng cho học sinh mà giáo viên và phụ huynh
    cũng tham gia tích cực bởi bảo vệ bản thân mình cũng chính là bảo vệ sức khoẻ
    của cộng đồng.
    1.2. Lồng ghép nội dung giáo dục ý thức cộng đồng trong các giờ học Âm
    nhạc tại trường Tiểu học.
    Trong chương trình Âm nhạc Tiểu học, căn cứ vào nội dung, kiến thức môn
    Âm nhạc, giáo viên có thể nghiên cứu để đưa ra các chủ đề tích hợp của các bài
    hát trong chương trình Âm nhạc từ lớp 1 đến lớp 5, hoặc liên hệ tới các môn học
    khác như: Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lí, Mỹ thuật, Đạo đức… để lồng ghép nội
    dung giáo dục cho các em học sinh có ý thức trách nhiệm với cộng đồng.
    BẢNG TÍCH HỢP NỘI DUNG GIÁO DỤC Ý THỨC CỘNG ĐỒNG
    CHƯƠNG TRÌNH ÂM NHẠC TIỂU HỌC

    CHỦ ĐỀLỚPTÊN BÀI HÁTMÔN TÍCH HỢPNỘI DUNG
    TÍCH HỢP
    MỨC
    ĐỘ
    TÍCH
    HỢP
    AN TOÀN
    TRƯỜNG
    HỌC
    3 5– Tiết 19: Học hát
    bài “Em yêu
    trường em” (Nhạc
    và lời: Hoàng
    Vân).
    -Tiết 16: Học bài
    hát do địa phương
    Tự nhiên và xã
    hội ( TNXH):
    Lớp 3, Tuần
    13:Một số hoạt
    động ở trường.
    Không chơi trò
    chơi nguy hiểm.
    Tiếng Việt:
    Tình yêu
    trường lớp, ý
    thức giữ gìn,
    bảo vệ tài
    sản của
    trường lớp.
    Không chơi
    đùa, nô
    Liên
    hệ

    8

    CHỦ ĐỀLỚPTÊN BÀI HÁTMÔN TÍCH HỢPNỘI DUNG
    TÍCH HỢP
    MỨC
    ĐỘ
    TÍCH
    HỢP
    tự chọn: “Mái
    trường nơi học
    bao điều hay”
    (Nhạc và lời: Bùi
    Anh Tôn).
    Luyện từ và câu:
    Lớp 5, tuần 24:
    Mở rộng vốn từ
    “Trật tự, an
    ninh”.
    nghịch gây
    mất an toàn
    cho bản thân
    và những
    người xung
    quanh.
    BẢO VỆ
    MÔI
    TRƯỜNG
    2 3 4 5-Tiết 26: Học hát
    bài: “Chim chích
    bông” (Nhạc: Văn
    Dung, lời thơ:
    Nguyễn Viết
    Bình).
    -Tiết 14: Học hát
    bài “Ngày mùa
    vui” (Dân ca
    Thái,lời mới:
    Hoàng Lân).
    – Tiết 4: Học hát
    bài “Bạn ơi lắng
    nghe” (Dân ca Ba
    na, Sưu tầm dịch
    lời: Tô Ngọc
    Thanh).
    -Tiết 2: Học hát
    TNXH:
    -Lớp 2, tuần 18:
    Thực hành giữ
    trường học sạch
    đẹp.
    -Lớp 3, tuần 18+
    19: Vệ sinh môi
    trường.
    Đạo đức:
    -Lớp 3, tuần
    28+29: Tiết kiệm
    và bảo vệ nguồn
    nước.
    -Lớp 4, tuần tuần
    30+31: Bảo vệ
    môi trường
    -Lớp 5: tuần
    30+31: Bảo vệ tài
    nguyên thiên
    nhiên.
    Chăm sóc,
    bảo vệ môi
    trường; giữ
    gìn tài
    nguyên thiên
    nhiên.
    Liên
    hệ

    9

    CHỦ ĐỀLỚPTÊN BÀI HÁTMÔN TÍCH HỢPNỘI DUNG
    TÍCH HỢP
    MỨC
    ĐỘ
    TÍCH
    HỢP
    bài “Reo vang
    bình minh” (Nhạc
    và lời: Lưu Hữu
    Phước).
    Tiếng Việt: Tập
    làm văn: Lớp 3,
    tuần 32: Nói, viết
    về bảo về môi
    trường.
    Tiếng Việt:
    Luyện từ và câu:
    -Lớp 5, tuần 12:
    Mở rộng vốn từ:
    “Bảo vệ môi
    trường”.
    AN TOÀN
    GIAO
    THÔNG
    1 2-Tiết 31: Học hát
    bài: “Đường và
    chân” (Nhạc:
    Hoàng Long, thơ:
    Xuân Tửu)- thay
    thế cho bài hát
    “Năm ngón tay
    ngoan”(Nhạc và
    lời: Trần Văn
    Thụ).
    -Tiết 19: Học hát
    bài “Trên con
    đường đến
    trường” (Nhạc và
    TNXH:
    -Lớp 1, tuần 20:
    An toàn trên
    đường đi học.
    -Lớp 2 , tuần 20:
    An toàn khi đi
    các phương tiện
    giao thông.
    Tiếng Việt:
    Luyện từ và câu:
    -Lớp 3, tuần 8:
    Mở rộng vốn từ
    “Cộng đồng”.
    Đạo đức :
    -Lớp 4, tuần
    Ý thức chấp
    hành nghiêm
    túc các quy
    định tham
    gia giao
    thông an
    toàn, nhắc
    nhở người
    thân cùng
    thực hiện.
    Liên
    hệ

    10

    CHỦ ĐỀLỚPTÊN BÀI HÁTMÔN TÍCH HỢPNỘI DUNG
    TÍCH HỢP
    MỨC
    ĐỘ
    TÍCH
    HỢP
    3 4lời: Ngô Mạnh
    Thu).
    -Tiết 32: Học bài
    hát do địa phương
    tự chọn: “Đường
    em đi” (Lời:
    Tường Văn –
    nhạc: Ngô Quốc
    Tính).
    -Tiết 15: Học bài
    hát tự chọn: :
    “Chúng em với an
    toàn giao thông”
    (Nhạc và lời:
    Hoàng Phong).
    28,29: Tôn trọng
    luật giao thông.
    HÒA
    BÌNH
    HỮU
    NGHỊ,
    ĐOÀN
    KẾT
    THÂN ÁI
    VỚI MỌI
    NGƯỜI
    1-Tiết 24: Học hát
    bài “Bà Còng đi
    chợ” (Nhạc và lời:
    Phạm Tuyên)-
    thay thế cho bài
    “Quả”(Nhạc và
    lời: Xanh Xanh).
    Đạo đức:
    -Lớp 1: tuần
    9+10:Lễ phép với
    anh chị, nhường
    nhịn em nhỏ.
    – Lớp 2, tuần
    28+29: Giúp đỡ
    người khuyết tật.
    -Sống chan
    hòa, thân ái ,
    biết giúp đỡ
    những người
    xung quanh.
    -Học tập Bác
    Hồ- tấm
    gương sáng
    Liên
    hệ

    11

    CHỦ ĐỀLỚPTÊN BÀI HÁTMÔN TÍCH HỢPNỘI DUNG
    TÍCH HỢP
    MỨC
    ĐỘ
    TÍCH
    HỢP
    XUNG
    QUANH
    3 4 5– Tiết 27: Học hát
    bài: “Tiếng hát
    bạn bè
    mình”(Nhạc và
    lời: Lê Hoàng
    Minh).
    -Tiết 28: Học hát
    bài “Thiếu nhi thế
    giới liên hoan”
    (Nhạc và lời: Lưu
    Hữu Phước).
    – Tiết 21: Học hát
    bài “Tre ngà bên
    lăng Bác” (Nhạc
    và lời: Hàn Ngọc
    Bích).
    -Lớp 3, tuần
    14+15: Quan tâm
    giúp đỡ hàng
    xóm láng giềng.
    -Lớp 4, tuần
    26+27: Tích cực
    tham gia các hoạt
    động nhân đạo.
    -Lớp 5:, tuần
    12+13: Kính già,
    yêu trẻ.
    Tiếng Việt:
    Luyện từ và câu
    -Lớp 4, tuần 3:
    Mở rộng vốn từ:
    “Nhân hậu, đoàn
    kết”.
    về tình yêu
    thương và
    lòng nhân ái.
    ỨNG XỬ
    VĂN
    MINH
    KHI
    THAM
    GIA CÁC
    SINH
    HOẠT
    CỘNG
    1 2-Tiết 1: Học hát
    bài “Quê hương
    tươi đẹp” (Dân ca
    Nùng, đặt lời: Anh
    Hoàng).
    -Tiết 21: Học hát
    Đạo đức:
    – Lớp 1: Tuần
    30+31: Bảo vệ
    hoa và cây nơi
    công cộng.
    – Lớp 2, tuần
    16+17: Giữ trật
    – Tán thành
    những hành
    vi đúng và
    không tán
    thành những
    hành vi
    không đúng
    Liên
    hệ

    12

    CHỦ ĐỀLỚPTÊN BÀI HÁTMÔN TÍCH HỢPNỘI DUNG
    TÍCH HỢP
    MỨC
    ĐỘ
    TÍCH
    HỢP
    ĐỒNG,
    THAM
    QUAN DI
    TÍCH
    LỊCH SỬ,
    DANH
    LAM
    THẮNG
    CẢNH
    3 4 5bài “Hoa lá mùa
    xuân” (Nhạc và
    lời: Hoàng Hà).
    -Tiết 21: Học hát
    bài “Cùng múa hát
    dưới trăng” (Nhạc
    và lời: Hoàng
    Lân).
    -Tiết 32: Học bài
    hát tự chọn: “Tổ
    quốc yêu thương”
    (Nhạc và lời:
    Trương Quang
    Lục).
    -Tiết 32: Học bài
    hát do địa phương
    tự chọn “Lời quê
    hương” (Nhạc và
    lời: Đoàn Bổng).
    tự, vệ sinh nơi
    công cộng.
    -Lớp 4: Tuần
    23+24:Giữ gìn
    các công trình
    công cộng.
    -Lớp 5, tuần 3+4:
    Có trách nhiệm
    về việc làm của
    mình.
    Tiếng Việt:
    Luyện từ và câu:
    -Lớp 3, tuần 26:
    Mở rộng vốn từ
    “Lễ hội”.
    -Lớp 5, tuần 26:
    Mở rộng vốn từ
    “Truyền thống”.
    Lịch sử: Lớp 5,
    tuần 32: Lịch sử
    địa phương.
    khi tham
    quan các di
    tích lịch sử,
    danh lam
    thắng cảnh.
    -Thực hiện
    ứng xử văn
    minh khi
    tham gia
    sinh hoạt
    cộng đồng.

    Kết luận: Như vậy, với đặc thù môn Thể dục, Âm nhạc, giáo viên có thể
    tích hợp kiến thức của các môn học khác để giải quyết các nhiệm vụ học tập như
    môn: Mỹ Thuật, Lịch sử, Địa lí, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Tiếng Việt…
    điều đó không chỉ đem lại không khí tươi mới, sự hấp dẫn cho các tiết học mà
    13
    còn góp phần giúp học sinh có những liên hệ và kinh nghiệm trong việc đưa
    những nội dung đã học để giải quyết các tình huống thực tế trong cuộc sống.
    Giải pháp 2: Tăng cường giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh trong
    các giờ sinh hoạt Câu lạc bộ
    Một trong những hình thức học tập mang lại sự sảng khoái, hiệu quả và
    được các em học sinh háo hức đón chờ- đó là các Câu lạc bộ. Đây là nơi mà các
    thành viên tham gia có thể chia sẻ những kinh nghiệm học tập cũng như các trải
    nghiệm thực tế…và được sự quản lý, điều hành một cách khoa học của Chủ
    nhiệm Câu lạc bộ, sự hỗ trợ tích cực của các trưởng nhóm.
    Câu lạc bộ tổ chức các hoạt động học tập, ngoại khoá nhằm rèn luyện, củng
    cố và bồi dưỡng kiến thức đã được học trên lớp và kiến thức thực tế, phát hiện
    và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về Thể thao, Âm nhạc và các lĩnh vực khác
    để sẵn sàng tham gia các phong trào hoạt động Đội và phong trào thiếu nhi do
    Sở Giáo dục, Phòng Giáo dục, Hội đồng Đội các cấp và nhà trường phát động.
    Từ khi được thành lập, hoạt động của các Câu lạc bộ như: Câu lạc bộ Võ
    thuật cổ truyền, Câu lạc bộ bóng đá, Câu lạc bộ cầu lông, Câu lạc bộ Zumba,
    Câu lạc bộ Họa mi… đã thu hút sự tham gia của đông đảo các em học sinh trong
    toàn trường. Với thời lượng 60 phút/ buổi, 1- 2 buổi/ tuần, các thành viên trong
    Câu lạc bộ đã được tập luyện đều đặn, bài bản. Khi cùng nhau tham gia các Câu
    lạc bộ, các em có cơ hội được rèn luyện tính kỷ luật, phát triển năng lực giao
    tiếp, hợp tác, tái hiện kiến thức, vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các yêu
    cầu đề ra một cách sáng tạo. Từ đó, tạo sự gắn kết, gần gũi, tinh thần đoàn kết,
    tương trợ lẫn nhau và có trách nhiệm trong các hoạt động được giao, tình thân
    bạn bè trở nên bền chặt hơn, hiệu quả của các buổi sinh hoạt Câu lạc bộ cũng từ
    đó mà nâng cao hơn.
    Không chỉ tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ của trường, nhiều em còn tập hợp
    những bạn có cùng sở thích, năng khiếu để tự thành lập những đội, nhóm
    (team): bóng đá, cầu lông, cờ vua, hùng biện (MC), dân vũ, nhảy hiện đại…và
    tự luyện tập, thậm chí còn mạnh dạn tham gia biểu diễn trong các phong trào ở
    các địa bàn khác. Những hoạt động này giúp các em có dịp thử sức và thể hiện
    14
    mình ở các sân chơi ngoài trường học, tham gia các sinh hoạt tập thể ở các địa
    bàn khác nhau. Đây là cơ hội để đánh giá chất lượng công tác giáo dục đạo đức,
    thẩm mỹ và thể chất, phát triển năng lực cho học sinh trong các nhà trường,
    tuyển chọn những học sinh có năng khiếu văn nghệ, thể thao, và các năng lực
    vượt trội khác, tạo nguồn để bồi dưỡng, tham gia các hội thi, hội diễn do các cấp
    phát động. Trên cơ sở đó, các em được rèn luyện và tự rèn luyện tinh thần trách
    nhiệm, ý thức thực hiện những hành vi ứng xử văn minh khi tham gia các sinh
    hoạt cộng đồng.
    Sản phẩm của các Câu lạc bộ chính là những phần thể hiện tự tin, ấn tượng
    của các em khi tham gia các phong trào cả trên sân khấu, trong các cuộc thi đấu
    và ngoài đời thường.
    15
    Kết luận: Hoạt động các Câu lạc bộ, các buổi sinh hoạt tập thể là sân
    chơi bổ ích giúp các em học sinh có cơ hội thể hiện mình với tinh thần “Học mà
    chơi, chơi mà học”. Qua đó, năng lực tái hiện- ứng dụng và sáng tạo Âm nhạc,
    Thể thao cũng như kiến thức các môn học khác của học sinh được hình thành và
    phát triển, góp phần giáo dục các em tình yêu quê hương, đất nước, mái trường,
    thầy cô, bạn bè, ông bà, cha mẹ, và giúp cho các em thêm yêu thích hoạt động
    giáo dục trong nhà trường, giúp các em được thư giãn để bước vào các môn học
    khác hiệu quả hơn, sống nhân ái và có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và
    cộng đồng.
    Giải pháp 3: Lồng ghép Giáo dục ý thức cộng đồng cho học sinh trong
    các hoạt động ngoài giờ lên lớp, phát huy hiệu quả của dạy học gắn với trải
    nghiệm sáng tạo, tăng cường thực hành, trải nghiệm địa phương (di tích
    lịch sử văn hoá địa phương)
    Các hình thức trải nghiệm trong tiết Âm nhạc, Thể dục tương đối phong
    phú, đa dạng.
    Ví dụ 1: Với môn Âm nhạc lớp 5- Tiết 32: Học bài hát do địa phương tự
    chọn “Lời quê hương” (Nhạc và lời: Đoàn Bổng). Giáo viên có thể tích hợp với
    phân môn Luyện từ và câu (Tiếng Việt): tuần 26: Mở rộng vốn từ “Truyền
    thống” và môn Lịch sử lớp 5, tuần 32: “Lịch sử địa phương”, đưa các em đến
    học tập- trải nghiệm tại khu quần thể di tích Đền Trần, không chỉ giúp đổi mới
    không gian lớp học, mang lại hiệu quả khi thẩm thấu nội dung bài học; mà còn
    16
    giúp các em được tìm hiểu, khắc ghi lịch sử, văn hóa truyền thống của quê
    hương Nam Định; hiện thực hóa tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc bằng
    những suy nghĩ và việc làm cụ thể thiết thực, góp phần bảo tồn, phát huy truyền
    thống quê hương, đó là:
    + Biết xếp hàng, trật tự di chuyển vào khu quần thể di tích, biết cách đặt
    câu hỏi để tìm hiểu và ghi chép những thông tin cần thiết. Từ đó, các em có thể
    lý giải được vì sao trong bài hát “Lời quê hương”, tác giả Đoàn Bổng lại viết:
    “Ai qua nơi ấy Phủ Thiên Trường
    Nghe tiếng người xưa vọng bốn phương
    Nhắc nhở cháu con quê Nam Định
    Giữ nền văn hiến của quê hương
    Quê hương ta đó, gian khó còn nhiều
    Mà sao ta thấy rất đẹp và đáng yêu…”
    + Các em biết thể hiện quan điểm tán thành những hành vi đúng và không
    tán thành những hành vi không đúng khi tham quan các di tích lịch sử, danh lam
    thắng cảnh.
    + Các em biết thực hiện ứng xử văn minh khi tham gia sinh hoạt cộng
    đồng, như: có thái độ trang nghiêm, thành kính khi đến khu thờ tự tôn nghiêm,
    bản thân luôn thực hiện nghiêm túc cũng như nhắc nhở mọi người xung quanh
    chấp hành các nội quy khi tham quan di tích lịch sử, tham gia sinh hoạt cộng
    đồng (giữ trật tự, di chuyển theo hàng, giữ vệ sinh, bảo vệ tài sản chung,….)
    17
    Hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường Tiểu học là hoạt động không thể
    thiếu khi giáo dục “Kỹ năng mềm” cho học sinh, bởi đây chính là nơi các em có
    nhiều cơ hội được thể hiện năng lực bản thân và tự rèn luyện mình thông qua
    chuỗi các hoạt động phong phú, đa dạng và hấp dẫn. Ở trường Tiểu học Trần
    Nhân Tông, hoạt động ngoài giờ lên lớp được thiết kế bám sát theo chủ đề- chủ
    điểm ngay từ đầu năm học, và được triển khai thường xuyên, linh hoạt theo từng
    tuần, từng tháng, luôn có những điểm nhấn, điểm mới cả về cách thức tổ chức và
    nội dung giáo dục cần chuyển tải:

    Giáo dục
    ý thức
    trách
    nhiệm
    Trách nhiệm với bản
    thân
    Trách nhiệm với gia
    đình
    Trách nhiệm với
    nhà trường và xã
    hội
    Trách nhiệm
    với môi
    trường sống
    Tháng
    7,8:
    Ngôi
    trường
    mới của
    em
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình.
    – Tự giác thực hiện
    nghiêm túc nội quy
    của nhà trường và
    các quy định quy
    ước của tập thể, giữ
    vệ sinh chung, bảo
    vệ của công.
    – Giữ gìn tất cả
    những đồ dùng
    – Có ý thức
    chăm sóc, bảo
    vệ cây xanh và
    con vật nuôi có
    ích.
    – Có ý thức giữ
    gìn bảo vệ môi
    trường, không
    xả rác bừa bãi.

    18

    – Tự thực hiện vệ sinh
    cá nhân, tự giác xếp
    hàng, không làm ảnh
    hưởng đến mọi người
    xung quanh.
    trong trường, không
    làm bẩn; học cách
    sử dụng các đồ dùng
    trong trường, trang
    trí lớp học sạch đẹp,
    – Không gây mất trật
    tự đánh nhau, cãi
    nhau.
    – Nhắc nhở bạn bè
    thực hiện nội quy
    trường lớp.
    – Quan tâm đến công
    việc của cộng đồng,
    tích cực tham gia
    hoạt động tập thể,
    hoạt động cộng
    đồng.
    – Tôn trọng và thực
    hiện các nội quy
    công cộng, chấp
    hành tốt quy định
    pháp luật về giao
    thông.
    – Không đồng
    tình với những
    hành vi hủy hại
    môi trường
    thiên nhiên.
    Tháng 9:
    Em yêu
    mùa thu
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không
    không ảnh hưởng đến
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình
    -Tích cực tham gia
    các hoạt động tập
    thể, các sự kiện lớn:
    Lễ Khánh thành
    trường và Khai giảng
    năm học mới; Tết
    Trung thu.
    – Cùng cô giáo trang
    trí các góc thân thiện
    trong lớp học..
    -Tăng cường chăm
    Giáo dục các
    em tình yêu
    dành cho văn
    hoá truyền
    thống thông
    qua các hoạt
    động: tổ chức
    trung thu
    truyền thống,
    rước đèn, hát
    các bài hát
    thiếu nhi về

    19

    mọi người xung
    quanh.
    sóc vườn trường, góc
    môi trường lớp học.
    trung thu, làm
    đèn ông sao,
    nặn tò he, viết
    thư pháp.
    Tháng 10:
    Mẹ và cô
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không
    không ảnh hưởng đến
    mọi người xung
    quanh.
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình.
    -Giáo dục cho các em
    tình yêu với những
    người phụ nữ thân
    thiết bên mình, đồng
    thời giáo dục về bình
    đẳng giới và tôn trọng
    phụ nữ trong xã hội
    văn minh thông qua
    các hoạt động: tự làm
    đồ handmade tặng bà,
    tặng mẹ, tặng cô…
    -Tích cực cùng các
    thầy cô giáo và các
    bậc phụ huynh tham
    gia tập huấn kỹ năng
    phòng cháy chữa
    cháy và thoát hiểm
    an toàn dưới sự
    hướng dẫn của lực
    lượng phòng cháy
    chữa cháy tỉnh Nam
    Định.
    Sự kiện
    “Chiến binh
    xanh cùng
    Kun bảo vệ
    môi trường”
    Giáo dục ý
    thức bảo vệ
    môi trường
    thông qua các
    hoạt động:
    Đóng kịch
    tuyên truyền,
    tập dân vũ, thu
    nhặt rác, tiết
    kiệm nước, tiết
    kiệm điện,…
    Tháng 11:
    Tri ân
    thầy cô
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không ảnh
    hưởng đến mọi người
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình.
    Tổ chức thi báo ảnh
    “Ấn tượng Trần
    Nhân Tông” lưu lại
    những khoảng khắc
    đẹp của thầy cô, bạn
    bè và mái trường
    giúp em thêm kính
    thầy, mến bạn và yêu
    trường, từ đó có
    trách nhiệm với bản
    thân, với gia đình và
    nhà trường.
    Chăm sóc cây
    xanh vườn
    trường, góc
    môi trường lớp
    học, giữ vệ
    sinh chung.

    20

    xung quanh.
    Tháng 12:
    Học tập
    và rèn
    luyện theo
    tác phong
    anh bộ
    đội Cụ Hồ
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không ảnh
    hưởng đến mọi người
    xung quanh.
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình.
    Tổ chức Hội khoẻ
    Phù Đổng cấp
    trường với nhiều
    môn thể thao phong
    phú trải đều các khối
    lớp, từ đó giáo dục
    tinh thần thể thao
    cao thượng, đoàn
    kết, ý thức giữ gìn và
    chăm sóc sức khoẻ,
    tập thể thao theo
    gương Bác Hồ vĩ
    đại, dân cường thì
    nước thịnh.
    Chăm sóc cây
    xanh vườn
    trường, góc
    môi trường lớp
    học, giữ vệ
    sinh chung.
    Tháng 1:
    Mùa xuân
    mới
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không ảnh
    hưởng đến mọi người
    xung quanh.
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình
    Hoạt động chào
    xuân:
    -Lễ hội áo dài.
    -Thời trang tái chế.
    -Phát động “Tết
    trồng cây”.
    -Tìm hiểu về Tết cổ
    truyền của người
    Việt Nam, vẽ tranh,
    làm bưu thiếp và lời
    chúc đầu xuân
    mới,….
    – L

    Trải nghiệm
    Đền Trần.
    Ý thức bảo vệ
    môi trường.
    Ý thức tham
    gia giao thông.
    Giáo dục ý
    thức khi tham
    quan các nơi
    văn hoá, thờ tự
    tôn nghiêm.
    Ý thức ứng xử
    với các di sản.
    Tháng 2:
    Em là
    mầm non
    của Đảng
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    Hoạt động gói bánh
    chưng:
    -Tập rửa lá, đãi đỗ,
    đãi gạo, lau lá, đồ đỗ,
    ướp thịt.
    -Thực hành gói bánh
    – Tìm hiểu về lịch sử
    hình thành và phát
    triển của ĐảngCộng
    sản Việt Nam.
    -Chăm sóc bảo
    vệ cây xanh
    vườn trường,
    góc môi trường
    lớp học.

    21

    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không ảnh
    hưởng đến mọi người
    xung quanh.
    cùng thầy cô và cha
    mẹ.
    -Luộc bánh, trông và
    tiếp nước cho nồi
    bánh chưng.
    -Vớt bánh, ép bánh,
    bảo quản.
    -Thực hiện nghi lễ
    cúng gia tiên…
    Tháng
    3+4:
    Chung tay
    đẩy lùi đại
    dịch
    Covid 19
    Đeo khẩu trang khi ra
    ngoài, thường xuyên
    rửa tay sạch sẽ bằng
    xà phòng hoặc dung
    dịch nước sát khuẩn,
    ăn thức ăn được nấu
    chín,…
    -Không ra ngoài khi
    không có việc thực sự
    cần thiết, giữ khoảng
    cách với người khác
    tối thiểu 2 mét.
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình.
    – Làm sạch không
    gian sống.
    Tổ chức chiến dịch
    chung tay ủng hộ
    các chiến sỹ tuyến
    đầu chống dịch
    Chiến dịch “Điều
    phi thường nhỏ bé”
    với nhiều bài thơ,
    bức tranh, bức thư
    tràn đày tình cảm
    của cô và trò.
    Làm sạch
    không gian
    sống.
    Giữ khoảng
    cách an toàn.
    Tháng 5:
    Đội ta lớn
    lên cùng
    đất nước
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân.
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không ảnh
    hưởng đến mọi người
    xung quanh.
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình
    – Thực hiện các biện
    pháp phòng chống
    Covid khi đến
    trường.
    -Giáo dục truyền
    thống Đội qua các
    bài hát, chương trình
    “Phát thanh măng
    non”.
    -Giáo dục học sinh
    học tập và rèn luyện
    theo gương Bác Hồ.
    -Chăm sóc cây
    xanh, giữ gìn
    khuôn viên
    trường lớp sạch
    đẹp.
    -Rèn ý thức kỷ
    luật khi tham
    gia các sinh
    hoạt cộng
    đồng.

    22
    Ví dụ:
    – Nhân dịp kỷ niệm 37 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982-
    20/11/2019), nhằm giáo dục học sinh tình cảm biết ơn, tri ân tới các thầy cô
    giáo, nhà trường đã tổ chức thành công chuỗi các hoạt động chào mừng để lại ấn

    Tháng 6:
    Vui tết
    thiếu nhi
    – Có ý thức giữ gìn vệ
    sinh, rèn luyện thân
    thể, chăm sóc sức
    khoẻ.
    – Có ý thức sinh hoạt
    nề nếp.
    – Có ý thức bảo quản
    và sử dụng hợp lý đồ
    dùng của bản thân
    – Tự vệ sinh, tự giác
    xếp hàng, không ảnh
    hưởng đến mọi người
    xung quanh
    – Có ý thức bảo quản,
    giữ gìn đồ dùng cá
    nhân và gia đình.
    – Không bỏ thừa đồ
    ăn, thức uống, có ý
    thức tiết kiệm tiền
    bạc, điện nước trong
    gia đình.
    -Tuyên truyền về ý
    nghĩa ngày 01-6
    trong chương trình
    “Phát thanh măng
    non” hàng tuần.
    – Chuỗi sự kiện chào
    mừng 1-6:
    Trải nghiệm múa rối
    nước.
    Tổ chức hội thi các
    môn thể thao: cờ
    vua, bóng bàn, cầu
    lông, bật xa
    Tổ chức ăn tự chọn
    cho học sinh theo
    lớp.
    Tổ chức giáo dục
    STEM.
    Tổ chức giải bóng
    đá- Cup “Ngôi sao
    Trần Nhân Tông”
    với đầy đủ các bước
    các nghi thức của
    một trận chuyên
    nghiệp từ chào đón,
    vào sân, chào cờ,
    làm các thủ tục
    trước thi đấu, thi
    đấu, nghỉ giảo lao,
    đội hoạt náo tham
    gia phần nghỉ giữa
    hai hiệp, thi đấu.
    Kết thúc trận đấu có
    trao huy chương
    theo đúng chuẩn
    quốc tế,
    trao cúp chiến thắng.
    -Chăm sóc cây
    xanh, giữ gìn
    khuôn viên
    trường lớp sạch
    đẹp.
    -Rèn ý thức kỷ
    luật khi tham
    gia các sinh
    hoạt cộng
    đồng.

    23
    tượng tốt đẹp đối với các cấp lãnh đạo, phụ huynh học sinh, giáo viên, nhân viên
    và các em học sinh toàn trường:
    + Thi kéo co dành cho các lớp khối 4,5

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp dạy học phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Đạo đức lớp 2

    SKKN Một số biện pháp dạy học phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Đạo đức lớp 2

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ
    nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng
    việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người
    học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH ở
    Tiểu học nói riêng là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực
    hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu
    hướng tất yếu trong cải cách PPDH ở mỗi nhà trường.
    Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
    giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
    theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
    thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
    máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
    người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
    học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
    xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
    và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản,
    toàn diện Giáo dục và Đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức
    đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
    năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
    này.
    Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
    giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
    quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì
    qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp
    dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến
    thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học
    tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý
    nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri
    2
    thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học
    tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
    Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
    phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
    tin…), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
    Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc
    thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng
    phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận
    thức(tự chiếm lĩnh kiến thức) với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
    Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy
    học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình
    thức tổ chức thích hợp như: học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài
    lớp… Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu
    cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng
    thú cho người học. Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối
    thiểu đã qui định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết
    với nội dung học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận
    dụng CNTT trong dạy học.
    Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể coi phát triển năng lực học sinh là
    một trong những quan điểm nổi bật của việc xây dựng chương trình và tổ chức
    quá trình dạy học. Dạy học phát triển năng lực học sinh là một xu hướng giáo dục
    tiên tiến trên thế giới. Xu hướng dạy học này sẽ thay đổi cách dạy của giáo viên và
    cách học của học sinh
    Qua các năm công tác và giảng dạy tại trường Tiểu học Chu Văn An, tôi đã
    vận dụng một số phương pháp nhằm phát triển năng lực môn đạo đức lớp 2 cho
    học sinh để nâng cao chất lượng dạy học. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn chia sẻ kinh
    nghiệm của mình với các bạn đồng nghiệp thông qua đề tài:
    “Một số biện pháp dạy học phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng
    giáo dục môn Đạo đức lớp 2”
    3
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Cơ sở lí luận
    1.1.1. Dạy học phát triển năng lực môn Đạo đức hình thành, phát triển cho
    học sinh các phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực,
    trách nhiệm.
    Phẩm chất là những đức tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con
    người, cùng với các năng lực tạo nên nhân cách con người.
    Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT về đánh gía học sinh tiểu học, môn Đạo đức
    góp phần hình thành, phát triển cho học sinh các phẩm chất:
    a) Chăm học, chăm làm; tích cực tham gia hoạt động giáo dục;
    b) Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm;
    c) Trung thực, kỉ luật, đoàn kết;
    d) Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất
    nước.
    Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT quy
    định học sinh tiểu học cần được học các phẩm chất:
    Chăm học, chăm làm;
    Tự tin, trách nhiệm;
    Trung thực, kỉ luật;
    Đoàn kết, yêu thương.
    Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể yêu cầu tất cả các môn học và
    hoạt động giáo dục đều phải góp phần hình thành và phát triển cho học sinh những
    phẩm chất chủ yếu sau: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
    Môn Đạo đức giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp học sinh hình thành
    phát triển ý thức và hành vi của người học:
    + Giúp học sinh hình thành, phát triển cảm xúc tích cực, ý thức đúng
    đắn về các chuẩn mực hành vi đạo đức trong quan hệ với bản thân, gia đình,
    quê hương, cộng đồng, công việc và môi trường xung quanh;
    + Ý thức trách nhiệm với hành vi, hành động của mình;
    4
    + Thái độ tự trọng, tự tin vào khả năng của bản thân;
    + Yêu quê hương, gia đình, lòng yêu thương, tôn trọng con người;
    + Đồng tình với cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái sai, cái xấu,
    cái ác.
    + Tính trung thực, chăm học, chăm làm;
    Cùng với các môn học khác và hoạt động giáo dục ở Tiểu học, môn Đạo đức
    góp phần hình thành cho học sinh tiểu học những biểu hiện phẩm chất chung:
    (1)Yêu nước:
    – Yêu thiên nhiên và có những việc làm thiết thực bảo vệ thiên nhiên.
    – Yêu quê hương, yêu Tổ quốc, tôn trọng các biểu trưng của đất nước.
    – Kính trọng, biết ơn người lao động, người có công với quê hương, đất
    nước; tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với những người có công
    với quê hương, đất nước.
    (2)Nhân Ái:
    – Yêu quý mọi người: Yêu thương, quan tâm, chăm sóc người thân trong gia
    đình; Yêu quý bạn bè, thầy cô; quan tâm, động viên, khích lệ bạn bè; Tôn trọng
    người lớn tuổi; giúp đỡ người già, người ốm yếu, người khuyết tật; nhường nhịn và
    giúp đỡ em nhỏ; Biết chia sẻ với những bạn có hoàn cảnh khó khăn, các bạn ở
    vùng sâu, vùng xa, người khuyết tật và đồng bào bị ảnh hưởng của thiên tai.
    – Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người: Tôn trọng sự khác biệt của bạn bè
    trong lớp về cách ăn mặc, tính nết và hoàn cảnh gia đình; Không phân biệt đối xử,
    chia rẽ các bạn; Sẵn sàng tha thứ cho những hành vi có lỗi của bạn.
    (3) Chăm chỉ:
    – Ham học: Đi học đầy đủ, đúng giờ; Thường xuyên hoàn thành nhiệm vụ
    học tập; Ham học hỏi, thích đọc sách để mở rộng hiểu biết; Có ý thức vận dụng
    kiến thức, kĩ năng học được ở nhà trường vào đời sống hằng ngày.
    – Chăm làm: Thường xuyên tham gia các công việc của gia đình vừa sức
    với bản than; Thường xuyên tham gia các công việc của trường lớp, cộng đồng
    vừa sức với bản thân.
    (4) Trung thực:
    5
    – Thật thà, ngay thẳng trong học tập, lao động và sinh hoạt hằng ngày; mạnh
    dạn nói lên ý kiến của mình.
    – Luôn giữ lời hứa; mạnh dạn nhận lỗi, sửa lỗi và bảo vệ cái đúng, cái tốt.
    – Không tự tiện lấy đồ vật, tiền bạc của người thân, bạn bè, thầy cô và những
    người khác.
    – Không đồng tình với các hành vi thiếu trung thực trong học tập và trong
    cuộc sống.
    (5)Trách nhiệm:
    – Có trách nhiệm với bản thân: Có ý thức giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể,
    chăm sóc sức khoẻ; Có ý thức sinh hoạt nền nếp;
    – Có trách nhiệm với gia đình: Có ý thức bảo quản, giữ gìn đồ dùng cá nhân
    và gia đình; Không bỏ thừa đồ ăn, thức uống; Có ý thức tiết kiệm tiền bạc, điện
    nước trong gia đình.
    – Có trách nhiệm với nhà trường và xã hội: Tự giác thực hiện nghiêm túc
    nội quy của nhà trường và các quy định, quy ước của tập thể; giữ vệ sinh chung;
    bảo vệ của công; Không gây mất trật tự, cãi nhau, đánh nhau; Nhắc nhở bạn bè
    chấp hành nội quy trường lớp; nhắc nhở người thân chấp hành các quy định, quy
    ước nơi công cộng; Có trách nhiệm với công việc được giao ở trường, ở lớp; Tích
    cực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội phù hợp với lứa tuổi.
    – Có trách nhiệm với môi trường sống: Có ý thức chăm sóc, bảo vệ cây
    xanh và các con vật có ích; Có ý thức giữ vệ sinh môi trường, không xả rác bừa
    bãi; Không đồng tình với những hành vi xâm hại thiên nhiên.
    1.1.2. Dạy học phát triển năng lực môn Đạo đức hình thành, phát triển cho
    học sinh các năng lực chung và năng lực đặc thù
    Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất
    sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp
    các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin,
    ý chí, … thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong
    muốn trong những điều kiện cụ thể.
    Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT về đánh gía học sinh tiểu học, môn Đạo
    6
    đức góp phần hình thành, phát triển cho học sinh các phẩm chất:
    a) Tự phục vụ, tự quản;
    b) Giao tiếp, hợp tác;
    c) Tự học và tự giải quyết vấn đề;
    Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT quy
    định học sinh tiểu học cần được giáo dục các năng lực: tự phục vụ, tự quản; hợp
    tác; tự học và giải quyết vẫn đề.
    Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể môn Giáo Dục công dân, dạy học
    môn Đạo đức theo định hướng phát triển năng lực phải nhằm mục tiêu góp phần
    hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực sau:
    *Năng lực chung: được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn
    học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và
    hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
    (1) Năng lực tự chủ và tự học:
    – Tự lực: Tự làm được những việc của mình ở nhà và ở trường theo sự phân
    công, hướng dẫn.
    – Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng: Có ý thức về quyền
    và mong muốn của bản thân; bước đầu biết cách trình bày và thực hiện
    một số quyền lợi và nhu cầu chính đáng.
    – Nhận biết và bày tỏ được tình cảm, cảm xúc của bản thân; biết chia sẻ
    tình cảm, cảm xúc của bản thân với người khác;
    – Hoà nhã với mọi người; không nói hoặc làm những điều xúc phạm người
    khác;
    – Thực hiện đúng kế hoạch học tập, lao động; không mải chơi, làm ảnh
    hưởng đến việc học và các việc khác.
    – Tìm được những cách giải quyết khác nhau cho cùng một vấn đề.
    Thực hiện được các nhiệm vụ khác nhau với những yêu cầu khác nhau.
    – Bộc lộ được sở thích, khả năng của bản thân.
    – Biết tên, hoạt động chính và vai trò của một số nghề nghiệp; liên hệ được
    những hiểu biết đó với nghề nghiệp của người thân trong gia đình.
    7
    – Có ý thức tổng kết và trình bày được những điều đã học.
    – Nhận ra và sửa chữa sai sót trong bài kiểm tra qua lời nhận xét của thầy
    cô.
    – Có ý thức học hỏi thầy cô, bạn bè và người khác để củng cố và mở rộng
    hiểu biết.
    – Có ý thức học tập và làm theo những gương người tốt.
    (2) Năng lực giao tiếp và hợp tác
    – Nhận ra được ý nghĩa của giao tiếp trong việc đáp ứng các nhu cầu của
    bản thân.
    – Tiếp nhận được những văn bản về đời sống, tự nhiên và xã hội có sử dụng
    ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh như truyện tranh, bài viết đơn giản.
    – Bước đầu biết sử dụng ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh, cử chỉ để trình bày
    thông tin và ý tưởng.
    – Tập trung chú ý khi giao tiếp; nhận ra được thái độ của đối tượng giao
    tiếp.
    – Biết cách kết bạn và giữ gìn tình bạn.
    – Nhận ra được những bất đồng, xích mích giữa bản thân với bạn hoặc giữa
    các bạn với nhau; biết nhường bạn hoặc thuyết phục bạn.
    – Có thói quen trao đổi, giúp đỡ nhau trong học tập; biết cùng nhau hoàn
    thành nhiệm vụ học tập theo sự hướng dẫn của thầy cô.
    – Hiểu được nhiệm vụ của nhóm và trách nhiệm, hoạt động của bản thân
    trong nhóm sau khi được hướng dẫn, phân công.
    – Nhận biết được một số đặc điểm nổi bật của các thành viên trong nhóm để
    đề xuất phương án phân công công việc phù hợp.
    – Biết cố gắng hoàn thành phần việc mình được phân công và chia sẻ giúp
    đỡ thành viên khác cùng hoàn thành việc được phân công.
    – Báo cáo được kết quả thực hiện nhiệm vụ của cả nhóm; tự nhận xét được
    ưu điểm, thiếu sót của bản thân theo hướng dẫn của thầy cô.
    – Có hiểu biết ban đầu về một số nước trong khu vực và trên thế giới.
    8
    – Biết tham gia một số hoạt động hội nhập quốc tế theo hướng dẫn của nhà
    trường.
    (3) Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    – Biết xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới đối với bản thân từ các
    nguồn tài liệu cho sẵn theo hướng dẫn.
    – Biết thu nhận thông tin từ tình huống, nhận ra những vấn đề đơn giản và
    đặt được câu hỏi.
    – Dựa trên hiểu biết đã có, biết hình thành ý tưởng mới đối với bản thân và
    dự đoán được kết quả khi thực hiện.
    – Nêu được cách thức giải quyết vấn đề đơn giản theo hướng dẫn.
    – Nhận xét được ý nghĩa của các hoạt động.
    – Nêu được thắc mắc về sự vật, hiện tượng xung quanh; không e ngại nêu ý
    kiến cá nhân trước các thông tin khác nhau về sự vật, hiện tượng; sẵn sàng thay
    đổi khi nhận ra sai sót.
    * Năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số
    môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính
    toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm
    mĩ, năng lực thể chất. Năng lực đặc thù được hình thành và phát triển cho học
    sinh thông qua môn đạo đức là:
    (1) Năng lực phát triển bản thân:
    – Nhận biết và bày tỏ được tình cảm, cảm xúc và hành vi của bản thân; biết
    chia sẻ tình cảm, cảm xúc của bản thân với người khác;
    – Tự lập kế hoạch và thực hiện đúng kế hoạch học tập, lao động; không mải
    chơi, làm ảnh hưởng đến việc học và các việc khác.
    – Nhận biết được một số điểm mạnh, điểm yếu của bản thân; có thái độ tích
    cực khắc phục điểm yếu của bản thân theo sự hướng dẫn của thầy, cô giáo và
    người thân;
    – Tự làm các công việc của mình ở nhà và ở trường theo sự phân công,
    hướng dẫn; Tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân.
    (2) Năng lực điều chình hành vi:
    9
    – Nhận biết được đúng- sai, tốt – xấu, thiện – ác của một số hành vi đạo đức
    và hành vi pháp luật thường gặp trong cuộc sống hàng ngày so với chuẩn mực
    đạo đức.
    – Bước đầu biết điều chỉnh cảm xúc, hành vi, thói quen của bản thân theo
    sự hướng dẫn của gia đình, thầy, cô giáo phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội;
    nội quy trường học, luật lệ nơi công cộng.
    – Nhận biết và thực hiện một số hành vi cần thiết và phù hợp để bảo vệ bản
    thân và duy trì mối quan hệ hòa hợp với người khác.
    – Bước đầu nhận biết những bất đồng giữa bản thân và người khác, biết một
    số cách đơn giản hòa giải bất đồng giữa bản thân và bản bè.
    – Nhận biết và thực hiện quyền, bổn phận của bản thân phù hợp lứa tuổi
    trong các quan hệ gia đình, bạn bè, nhà trường, cộng đồng và môi trường sống.
    (3) Năng lực tìm hiểu và tham gia các hoạt động xã hội:
    – Quan sát và phân biệt được các hiện tượng đơn giản trong xã hội mà học
    sinh thường gặp.
    – Tự tìm hiểu về gia đình, dòng họ, địa phương; bước đầu khám phá các vấn
    đề trong đời sống xã hội hàng ngày.
    – Biết tiết kiệm và sử dụng tiền hợp lí.
    – Nhận biết và tích cực tham gia các hình thức hoạt động phù hợp với lứa
    tuổi thể hiện lòng yêu quê hương, Tổ quốc, yêu hòa bình; lòng yêu thương con
    người; Đức tính chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm với gia đình, nhà trường,
    cộng đồng và môi trường sống.
    Mục tiêu chung của môn Đạo đức là hình thành, phát triển cho học sinh các
    phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và các
    năng lực: phát triển bản thân, điều chỉnh hành vi, tìm hiểu và tham gia các hoạt
    động kinh tế – xã hội phù hợp với lứa tuổi. Thực hiện các mục tiêu chung đó, môn
    học giúp các em có hành vi và thói quen ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo đức và
    quy định của pháp luật, có kĩ năng sống để học tập, làm việc và sẵn sàng thực hiện
    trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân tương lai trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ
    quốc và hội nhập quốc tế.
    10
    1.2. Cơ sở thực tiễn
    Năm học 2018-2019 và năm học 2019-2020, tôi được phân công chủ nhiệm
    và giảng dạy lớp 2 trường Tiểu học Chu Văn An. Khi nhận sự phân công của nhà
    trường, tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
    * Thuận lợi:
    – Trường học được xây dựng rộng rãi khang trang. Lớp học có đầy đủ cơ sở
    vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, có hệ thống máy tính, máy chiếu và có
    các góc hỗ trợ phục vụ cho các hoạt động học tập của học sinh.
    – Được Ban giám hiệu nhà trường và đặc biệt là Phòng Giáo dục sự quan
    tâm, chỉ đạo sát sao về chuyên môn của để dạy tốt môn Đạo đức trong nhà trường.
    Tổ, khối chuyên môn sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học đều
    đặn, nghiêm túc, có tinh thần xây dựng cao.
    – Bản thân giáo viên trẻ, năng động, nhiệt tình, có trình độ giáo viên đạt
    chuẩn, có ý thức tự học hỏi bồi dưỡng.
    – Phụ huynh quan tâm đến việc học của con, trang bị đầy đủ đồ dùng cần
    thiết phục vụ cho việc học tập của con em mình.
    – Học sinh rất hứng thú với môn Đạo đức vì môn học gắn với thực tiễn, qua
    môn học các em có thể liên hệ và vận dụng thực tế. Các em đặc biệt thích thú các
    hoạt động của môn học như đóng vai, trò chơi, kể chuyện, ….. Các em lại được
    học tập theo mô hình trường học mới VNEN nên luôn chủ động trong mọi hoạt
    động học tập, đặc biệt là trong việc hình thành và vận dụng các kiến thức, kỹ năng
    đã học.
    – Học sinh phần lớn ngoan ngoãn, kính thầy yêu bạn.
    * Khó khăn:
    – Do đặc điểm lứa tuổi, học sinh còn hiếu động, thích “bắt chước” nhưng các
    em chưa biết lựa chọn hành vi đạo đức đúng nên các em bắt chước cả cái xấu, trái
    với chuẩn mực hành vi đạo đức một cách không chủ ý. Chính vì vậy những chuẩn
    mực hành vi đạo đức giáo dục trẻ cần được uốn nắn và hình thành ngay từ những
    lớp đầu cấp Tiểu học, nhất là lớp 2.
    11
    – Phương tiện đồ dùng dạy học còn ít. Vở bài tập đạo đức có rất nhiều tranh
    ảnh nhưng hình ảnh còn đơn điệu, chưa sinh động nên học sinh khó nhận biết, hình
    thành kiến thức.
    – Một số giáo viên chưa coi trọng môn đạo đức, còn coi đây là môn học ít
    giờ nên khi dạy học đạo đức một số giáo viên chưa nhiệt tình, ít khi tổ chức các
    hoạt động như: trò chơi, sắm vai, thảo luận, … vì sợ mất thời gian. Dẫn đến học
    sinh thụ động và bị áp đặt khi lĩnh hội kiến thức, nên hiệu quả của tiết đạo đức
    chưa cao.
    – Giáo viên ngại sử dụng đồ dùng dạy học khiến học sinh chưa thích thú với
    môn học.
    Với kinh nghiệm của mình trong những năm công tác, nhiều năm được
    giảng dạy môn Đạo đức cùng với lòng yêu nghề, luôn mong muốn đem đến cho
    các con có những chuẩn mực hành vi đạo đức để vận dụng vào cuộc sống, tôi đã
    tìm cách để phát huy những điều kiện thuận lợi sẵn có và đề ra những biện pháp
    khắc phục những khó khăn.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến:
    2.1. Giải pháp 1: Xác định Nội dung chương trình môn Đạo đức lớp 2.
    2.1.1. Chương trình môn Đạo đức
    Chương trình môn Đạo đức là một văn bản pháp quy do Bộ Giáo dục và đào
    tạo ban hành để tổ chức việc dạy học môn học này, trong đó quy định rõ:
    – Những mục tiêu môn Đạo đức
    – Nội dung môn Đạo đức gồm các bài từ lớp 1 đến lớp 5
    – Giải thích, hướng dẫn chương trình.
    Chương trình mới môn Đạo đức là một bộ phận của Chương trình Tiểu học
    mới được Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành ngày 05 tháng 05 năm 2006. Do đó
    ngoài những nét đặc trưng của riêng chương trình môn Đạo đức có nhiều yếu tố
    liên quan, phục thuộc chương trình Tiểu học nói chung. Cụ thể, môn Đạo đức:
    – Là một trong những môn học ở Tiểu học góp phần đáng kể vào việc thực
    hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học.
    12
    – Có nội dung và phương pháp phù hợp với yêu cầu về nôi dung và phương
    pháp giáo dục Tiểu học.
    – Chịu sự chi phối của kế hoạch giáo dục ở Tiểu học.
    – Đảm bảo những yêu cầu cơ bản cần đạt đối với học sinh Tiểu học.
    Theo quan niệm mới về chương trình giáo dục, chương trình một môn học là
    sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục tiểu học bằng một kế hoạch hành động mang tính
    chất như một công cụ chỉ đạo hành động cho giáo viên. chương trình này là
    chương trình khung áp dụng cho cả nước nhưng đồng thời lại được vận dụng một
    cách linh hoạt theo đặc điểm từng vùng, đặc điểm học sinh. Cho nên, khi tổ chức
    quá trình dạy học môn Đạo đức ở từng vùng, từng địa phương, từng trường, giáo
    viên cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để lựa chọn nội dung, phương pháp,
    hình thức tổ chức thích hợp để đạt những mục tiêu đề ra.
    Chương trình môn Đạo đức có ý nghĩa quan trọng vì nó là căn cứ để:
    – Soạn thảo trình độ chuẩn về đạo đức của học sinh Tiểu học: Trình độ
    chuẩn này bao gồm hệ thống tri thức, kĩ năng, hành vi và thai độ liên quan đến
    những chuẩn mực hành vi theo chương trình quy định mà mỗi học sinh cần đạt sau
    khi học môn Đạo đức.
    – Biên soạn sách giáo khoa, vở bài tập, sách giáo viên môn Đạo đức: Những
    tài liệu này được biên soạn nhằm phục vụ, hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và học môn
    Đạo đức của giáo viên và học sinh.
    – Tổ chức việc thực hiện việc dạy học môn Đạo đức: chương trình môn Đạo
    đức được coi là pháp lệnh, do đó, trong quá trình dạy học môn Đạo đức, giáo viên
    phải tôn trọng chương trình, đặc biệt là: đảm bảo mục tiêu, giữ nguyên tên bài và
    tuân thủ thời gian dành cho môn Đạo đức. Ngoài ra, tuy chương trình không bắt
    buộc giáo viên phải cứng nhắc áp dụng hoàn toàn theo nội dung, phương pháp
    được gợi ý trong sách giáo khoa, vở bài tập, sách giáo viên, nhưng phải thực hiện,
    lựa chọn, vận dung theo định hướng chung của chương trình.
    – Chỉ đạo, thanh tra các hoạt động giáo dục ở các nhà trường, hoạt động này
    có tác dụng đảm bảo cho việc dạy học của người giáo viên thực hiện theo chương
    13
    trình do Bộ Giáo dục và đào tạo đã quy định. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng
    và hiệu quả dạy học môn Đạo đức.
    2.1.2. Nội dung chương trình môn Đạo đức lớp 2
    Để đạt được mục tiêu giáo dục Tiểu học đề ra, cần có hệ thống các môn học
    khác nhau. một trong những căn cứ quan trọng nhất trong việc xây dựng chương
    trình môn Đạo đức là mục tiêu giáo dục Tiểu học.
    Mục tiêu giáo dục Tiểu học là “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
    ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
    và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học sơ sở” (theo Điều 27 của
    Luật Giáo dục, 2005)
    Như vậy, theo mục tiêu này thì chương trình môn Đạo đức phải:
    – Tạo được những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
    đạo đức cho học sinh Tiểu học: điều này đòi hỏi các chuẩn mực hành vi trong
    chương trình phải là những chuẩn mực cơ bản, vừa sức, phản ánh các mối quan hệ
    thường gặp của các em. Đồng thời, chúng cũng tạo điều kiện cho học sinh Tiểu
    học phát triển đạo đức của mình qua việc mở rộng các mối quan hệ khác nhau.
    – Chuẩn bị thiết thực cho học sinh Tiểu học học tiếp trung học cơ sở. Vì vậy,
    các chuẩn mực hành vi đạo đức ở tiểu học phải góp phần hình thành ở các em hệ
    thống tri thức về các chuẩn mực đạo đức cơ bản, thái độ học tập tích cực, kĩ năng
    và thói quen hoạt động tập thể, cư xử đúng đắn với những người xung quanh, tính
    năng động, sáng tạo trong các công việc khác nhau….
    Nội dung chương trình môn Đạo đức lớp 2 bao gồm 14 bài bắt buộc và 1 bài
    do địa phương tự chọn sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình (về an toàn
    giao thông, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, …) tương ứng với
    14 chuẩn mực hành vi đạo đức cần thiết, phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan
    hệ của các em với bản thân, với gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội và môi
    trường tự nhiên:
    – Quan hệ với bản thân:
    + Sống gọn gàng, ngăn nắp, đúng giờ giấc. (Học tập sinh hoạt đúng giờ;
    Gọn gàng ngăn nắp)
    14
    + Khi có lỗi, biết xấu hổ, nhận lỗi và sửa lỗi. (Biết nhận lỗi và sửa lỗi)
    – Quan hệ với người khác
    + Thật thà, không tham của rơi. (Trả lại của rơi)
    + Đoàn kết với bạn bè. (Quan tâm, giúp đỡ bạn)
    + Lễ độ, lịch sự khi nói lời yêu cầu, đề nghị; khi nhận và gọi điện thoại; khi
    đến nhà người khác. (Biết nói lời yêu cầu đề nghị; Lịch sự khi nhận và gọi điện
    thoại; Lịch sự khi đến nhà người khác)
    + Cảm thông và giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn bằng những
    việc làm phù hợp với khả năng. (Giúp đỡ người khuyết tật)
    – Quan hệ với công việc:
    + Tự giác tham gia làm việc nhà phù hợp với khả năng. (Chăm làm việc
    nhà)
    + Chăm chỉ học tập. (Chăm chỉ học tập)
    + Giữ gìn vệ sinh trường lớp (Giữ gìn trường lớp sạch đẹp)
    – Quan hệ với cộng đồng, đất nước, nhân loại
    + Yêu quý những người xung quanh, yêu quê hương đất nước
    + Yêu hòa bình, ghét chiến tranh.
    – Quan hệ với môi trường tự nhiên
    + Tôn trọng, quy định về trật tự, vệ sinh nơi công cộng. (Giữ trật tự, vệ sinh
    nơi công cộng)
    + Yêu quý và bảo vệ loài vật có ích. (Bảo vệ loài vật có ích)
    Trong đó: 14 bài x 2 tiết = 28 tiết + 3 tiết dành cho địa phương + 4 tiết để ôn
    tập và kiểm tra. Tổng là 35 tiết/35 tuần.
    Hiện nay, giáo dục quyền trẻ em đang được đưa vào môn Đạo đức nói chung
    và môn Đạo đức lớp 2 nói riêng. Có một số bài được tích hợp nội dung này như
    “Học tập, sinh hoạt đúng giờ”, “Biết nhận lỗi và sửa lỗi”, “Gọn gàng, ngăn nắp”,
    “Chăm làm việc nhà”, …
    Ví dụ: Ở bài “Học tập, sinh hoạt đúng giờ” với những nội dung về quyền trẻ
    em được lồng ghép như: Quyền được học tập, được đảm bảo sức khoẻ, quyền được
    tham gia xã hội thời gian biểu của bản thân.
    15
    Chương trình môn đạo đức quan tâm đến 3 mặt: Trang bị kiến thức; Bồi
    dưỡng tình cảm, thái độ; Hình thành kĩ năng, hành vi đạo đức (đặc biệt coi trọng
    việc hình thành kĩ năng và hành vi đạo đức cho học sinh)
    Thông qua các bài đạo đức ở lớp 2, chương trình còn nhằm từng bước hình
    thành cho nọc sinh một số kĩ năng sống cơ bản như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự
    nhận thức, kĩ năng giải quyết vấn đề,…
    2.2. Giải pháp 2: Xác định mục tiêu bài học phát triển năng lực học sinh môn
    đạo đức lớp 2.
    Mục tiêu dạy học phát triển năng lực không chỉ là kiến thức, kĩ năng, thái độ
    mà quan trọng hơn là cách thức học sinh đi từ kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm đã
    có đến những kết quả đó. Dạy học phát triển năng lực coi trọng quá trình học sinh
    trải nghiệm, khám phá, vận dụng kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm vào thực tế cuộc
    sống,… Trong quá trình đó học sinh luôn tư duy cao độ để đạt kết quả là những
    kiến thức, kĩ năng, thái độ theo bài học quy định.
    Mục tiêu bài học phát triển năng lực môn Đạo đức chính là yêu cầu cần đạt
    về phẩm chất và năng lực. Từ mục tiêu chung về phẩm chất năng lực, giáo viên
    cần xác định được các yêu cầu cần đạt riêng cho từng phẩm chất, năng lực ở từng
    bài học cụ thể.
    Trong dạy học phát triển năng lực, yêu cầu cần đạt về phẩm chất năng lực là
    cơ sở để lựa chọn nội dung, phương pháp, tài liệu dạy học, hình thức kiểm tra,
    đánh giá kết quả học tập của học sinh, là cơ sở để đánh giá chất lượng, hiệu quả
    của hoạt động dạy học.
    Ví dụ 1: Bài 1: “Học tập, sinh hoạt đúng giờ”
    Về phẩm chất: Bài học góp phần bồi dưỡng đức tính chăm chỉ, tinh thần
    trách nhiệm:
    + Nêu được các biểu hiện hoặc việc làm cụ thể của việc học tập, sinh hoạt
    đúng giờ.
    + Nêu được một số lợi ích của việc học tập, sinh hoạt đúng giờ và tác hại
    của việc học tập, sinh hoạt không đúng giờ.
    16
    + Thể hiện sự đồng tình với các bạn biết học tập, sinh hoạt đúng giờ và
    không đồng tình với các bạn học tập, sinh hoạt không đúng giờ.
    Về năng lực:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực tự chủ và tự
    học: Thực hiện đúng kế hoạch học tập, lao động, không mải chơi, làm ảnh hưởng
    đến việc học và các việc khác.
    + Năng lực đặc thù: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực phát triển
    bản thân: Lập được thời gian biểu hàng ngày của bản thân và thực hiện đúng thời
    gian biểu đó.
    Ví dụ 2: Bài 2: Biết nhận lỗi và sửa lỗi
    – Về phẩm chất: Bài học góp phần bồi dưỡng đức tính dũng cảm, trung thực,
    có tinh thần trách nhiệm với các việc làm của bản thân:
    + Hiểu khi có lỗi thì nên nhận lỗi và sửa lỗi để mau tiến bộ và được mọi
    người yêu quý. Như thế mới là người dũng cảm, trung thực.
    + Thể hiện sự đồng tình, ủng hộ, cảm phục các bạn biết nhận lỗi và sửa lỗi
    và không đồng tình với các bạn không biết nhận lỗi và sửa lỗi.
    – Về năng lực:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực tự chủ và tự
    học: nhận biết và điều chỉnh hành vi, thái độ của bản thân. Năng lực giao tiếp và
    hợp tác: học sinh làm việc nhóm
    + Năng lực đặc thù: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực điều chỉnh
    hành vi: Học sinh biết tự nhận lỗi và sửa lỗi khi có lỗi, biết nhắc bạn nhận và sửa
    lỗi.
    Ví dụ 3: Bài 3: Gọn gàng và ngăn nắp
    – Về phẩm chất
    + Biết được biểu hiện của việc gọn gàng, ngăn nắp. Phân biệt được gọn
    gàng, ngăn nắp với chưa gọn gàng, ngăn nắp.
    + Biết lợi ích của việc sống gọn gàng, ngăn nắp.
    + Có thái độ vui vẻ khi sắp xếp đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp và cảm thấy
    yêu mến những người gọn gàng, ngăn nắp.
    17
    + Hình thành thói quen gọn gàng cho bản thân như: mặc quần áo gọn gàng,
    dọn đồ chơi khi chơi xong, bỏ rác vào thùng rác, biết sắp xếp đồ dùng học tập, đồ
    chơi, đồ đạc trong nhà,… một cách gọn gàng, ngăn nắp.
    – Về năng lực:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần hình thành, phát triển cho học sinh
    năng lực tự chủ, năng lực giải quyết vấn đề.
    + Năng lực đặc thù: Bài học góp phần hình thành, phát triển cho học sinh
    năng lực phát triển bản thân, năng lực điều chỉnh hành vi: Thực hiện tự sắp xếp đồ
    dùng cá nhân gọn gàng, ngăn nắp; Thực hiện giữ gìn nhà cửa, trường lớp gọn
    gàng, ngăn nắp; Thực hiện giúp đỡ bố mẹ giữ gìn nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp.
    Ví dụ 4: Bài 7: Giữ gìn trường lớp sạch sẽ
    – Về phẩm chất: Bài học góp phần bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất trách
    nhiệm:
    + Nêu được lợi ích của việc giữ gìn trường lớp sạch đẹp.
    + Nêu được ít nhất 3-5 việc cần làm và không nên làm để gìn trường lớp
    sạch đẹp.
    + Hiểu giữ gìn trường lớp sạch đẹp là trách nhiệm của học sinh.
    + Thể hiện thái độ đồng tình, ủng hộ các hoạt động, việc làm giữ gìn trường
    lớp sạch đẹp và không đồng tình với các hành vi phá hoại, vứt rác bừa bãi.
    Về năng lực:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực giải quyết
    vấn đề: Bước đầu biết giải quyết vẫn đề theo hướng dẫn.
    + Năng lực đặc thù: Bài học góp phần hình thành, phát triển cho học sinh
    năng lực điều chỉnh hành vi: Học sinh lập kế hoạch và thực hiện giữ gìn trường lớp
    sạch đẹp.
    Ví dụ 5: Bài 8: Giữ gìn trật tự, vệ sinh nơi công cộng
    – Về phẩm chất: Bài học góp phần bồi dưỡng cho học sinh phẩm chất trách
    nhiệm với môi trường sống:
    + Nhận thức được vai trò của môi trường sống đối với con người.
    18
    + Có ý thức bảo vệ môi trường sống, phê phán những hành vi gây ô nhiễm
    môi trường.
    + Có hiểu biết về môi trường sống, từ đó có ý thức và hành động bảo vệ môi
    trường.
    + Biết cách bảo vệ môi trường bằng các việc làm cụ thể, phù hợp.
    – Về năng lực: Bài học góp phần hình thành và phát triển các năng lực sau:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực tự chủ và tự
    học: nhận biết và điều chỉnh hành vi, thái độ của bản thân. Năng lực giao tiếp và
    hợp tác: học sinh làm việc nhóm.
    + Năng lực đặc thù: Năng lực điều chỉnh hành vi đạo đức: Nhận xét, đánh
    giá được hành vi, thái độ của bản thân và người khác về ý thức bảo vệ môi trường
    sống. Năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế – xã hội: tuyên truyền và
    vận động gia đình, bạn bè bảo vệ môi trường sống; biết tìm kiếm thông tin khoa
    học về tự nhiên và xây dựng ý tưởng bảo vệ môi trường; biết sử dụng vật liệu tái
    chế để bảo vệ môi trường; biết trồng và chăm sóc cây xanh, bỏ rác đúng nơi quy
    định, phân loại rác, ….
    Ví dụ 6: Bài 11: Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại
    – Về phẩm chất: Bài học góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức làm người
    lịch sự:
    + Nêu được một số yêu cầu tối thiểu khi nhận và gọi điện thoại. Ví dụ: Biết
    chào hỏi và tự giới thiệu; nói năng rõ ràng, lễ phép, ngắn gọn; nhấc và đặt điện
    thoại nhẹ nhàng.
    + Thể hiện thái độ đồng tình, ủng hộ những người biết nhận và gọi điện
    thoại lịch sự, nhẹ nhàng và không đồng tình với những người không lịch sự khi
    nhận và gọi điện thoại.
    Về năng lực:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực giao tiếp:
    biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và có thái độ lịch sự với người được giao tiếp.
    Biết xử lí một số tình huống đơn giản, thường gặp khi nhận và gọi điện thoại.
    19
    + Năng lực đặc thù: Bài học góp phần hình thành, phát triển cho học sinh
    năng lực điều chỉnh hành vi: thực hiện các việc làm cụ thể thể hiện lịch sự khi nhận
    và gọi điện thoại: chào hỏi và tự giới thiệu; nói năng rõ ràng, lễ phép, ngắn gọn;
    nhấc và đặt điện thoại nhẹ nhàng.
    Ví dụ 7: Bài 13: Giúp đỡ người khuyết tật
    – Về phẩm chất: Bài học góp phần bồi dưỡng cho học sinh lòng nhân ái.
    + Nêu được một số hành động, việc làm phù hợp để giúp đỡ người khuyết
    tật.
    + Hiểu mọi người đều cần phải hỗ trợ, giúp đỡ, đối xử bình đẳng với người
    khuyết tật.
    + Thể hiện thái độ cảm thông, không phân biệt đối xử và tham gia giúp đỡ
    bạn khuyết tật trong lớp, trong trường và ở cộng đồng phù hợp với khả năng và
    không đồng tình với những người không biết cảm thông, phân biệt đối xử và không
    tham gia giúp đỡ bạn khuyết tật trong lớp, trong trường và ở cộng đồng.
    – Về năng lực:
    + Năng lực chung: Bài học góp phần giáo dục học sinh năng lực giao tiếp và
    năng lực giải quyết vấn đề: giữ gìn tình bạn, biết sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ để giao
    tiếp
    + Năng lực đặc thù: Bài học góp phần hình thành, phát triển cho học sinh
    năng lực điều chỉnh hành vi và năng lực tìm hiểu và tham gia các hoạt động xã hội:
    thực hiện các việc làm cụ thể để hỗ trợ, giúp đỡ, đối xử bình đẳng với người
    khuyết tật.
    2.3. Giải pháp 3: Lựa chọn và vận dụng Phương pháp dạy học phát triển năng
    lực môn Đạo đức cho học sinh lớp 2.
    Phương pháp dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học là cách thức, con đường hoạt
    động thống nhất giữa giáo viên và học sinh dưới tác động chủ đạo của giáo viên,
    với vai trò tích cực, tự giác của học sinh nhằm giải quyết các nhiệm vụ, đạt được
    những mục tiêu tương ứng của môn học này.
    20
    Để đạt được mục đích trên, chúng ta phải giải quyết 3 nhiệm vụ của môn
    học này là:
    – Giáo dục ý thức đạo đức
    – Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức
    – Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
    Mỗi phương pháp đều có những ưu – nhược điểm riêng, vì vậy trong thực
    tiễn dạy học môn Đạo đức, giáo viên có thể lựa chọn kết hợp vận dụng nhiều
    phương pháp khác nhau để phù hợp với từng bài học khác nhau như: kể chuyện,
    đàm thoại, giảng giải, thảo luận nhóm, tổ chức làm việc cá nhân, tập luyện theo
    mẫu hành vi, tổ chức trò chơi, tổ chức điều tra, rèn luyện, báo cáo,…
    2.3.1. Phương pháp kể chuyện
    Kể chuyện là phương pháp dùng lời nói, cử chỉ, điệu bộ để miêu tả diễn biến
    câu chuyện, để thuật lại truyện kể đạo đức nhằm giúp học sinh nắm được nội dung
    và từ đó rút ra bài học đạo đức cần thiết.
    Trong dạy học đạo đức, phương pháp kể chuyện thường được sử dụng để
    giới thiệu cho học sinh những mẫu hành vi đạo đức để các em phận tích và rút ra
    kết luận cần thiết cho việc nhận biết biểu hiện của chuẩn mực hành vi đạo đức, sự
    cần thiết thực hiện chuẩn mực hành vi đạo đức hoặc cách thực hiện chuẩn mực
    hành vi đạo đức. Do đó nó thường được tiến hành ở đầu tiết 1 sau kiểm tra bài cũ.
    Trong thực tế kể chuyện được kết hợp với trình bày trực quan.
    Nội dung các câu chuyện phải sát với chủ đề bài học, kể về cách ứng xử của
    nhân vật (có thể là danh nhân, là người lớn, là bạn cùng lứa tuổi hoặc loài vật đã
    được nhân cách hóa) trong các tình huống đạo đức cụ thể. Truyện vừa mô tả và
    khẳng định cách ứng xử của nhân vật là đúng/ đẹp (hoặc là sai/xấu) vừa làm cho
    học sinh thể nghiệm niềm vui sướng, hạnh phúc (hay khó chịu, khổ đau) của người
    được đối xử đúng (hoặc sai). Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh nhận biết biểu
    hiện của chuẩn mực hành vi đạo đúc và rút ra bài học cần noi theo hay cần tránh
    những thái độ, hành vi của các nhân vật trong truyện.
    Truyện kể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau: sách, báo, thực tế cuộc
    sống,… Truyện có thể do các em học sinh tự viết hoặc sưu tầm. Khi lựa chọn
    21
    truyện để kể giáo viên cần chú ý dung lượng câu chuyện cho phù hợp với thời
    lượng phân bố của hoạt động dạy học. Trước khi kể giáo viên cần giới thiệu khái
    quát câu chuyện nằm định hướng chú ý của học sinh. Việc kể chuyện cần diễn
    cảm, kết hợp cử chỉ, điệu bộ với sử dụng đồ dùng trực quan. Ngôn ngữ kể chuyện
    phải trong sang, dễ hiểu, giàu hình ảnh, tự nhiên, sinh động, nên sử dụng những từ
    ngữ quen thuộc hàng ngày sao cho câu chuyện dí dỏm, gây cảm xúc mạnh. Người
    kể chuyện cần nhập vai, cử chỉ phù hợp. Giáo viên nên yêu cầu học sinh kể lại
    truyện kết hợp phương pháp đàm thoại hoặc thảo luận nhóm,… để học sinh nắm
    vững biểu tượng và chuẩn mực hành vi đạo đức.
    Ví dụ 1: Khi dạy bài 2: “Biết nhận lỗi và sửa lỗi” có thể vận dụng phương
    pháp này để kể cho học sinh nghe truyện kể “Cái bình hoa” với nội dung như sau:
    Hồi ấy, Vô – va mới lên 8 tuổi, hay đùa nghịch. Một hôm Vô – va theo mẹ
    đến nhà cô. Ở nhà cô có rất nhiều trẻ cùng Vô – va chơi đùa vui vẻ. Vô – va vô ý
    xô vào bàn, làm lọ hoa thủy tinh rơi xuống đất.
    Khi nghe tiếng “choang” cô chạy vào. Thấy lọ đã vỡ, cô hỏi các cháu:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế

    SKKN Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I- ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    gay từ những ngày còn nhỏ, khi còn ngày ngày cắp sách tới trường,
    chúng tôi luôn được các thầy cô giáo nơi mái trường làng quê thân
    yêu của mình kể cho nghe những câu chuyện thật hay về những danh nhân văn
    hóa, những nhân tài kiệt xuất về nhiều lĩnh vực của đất nước Việt Nam chúng ta.
    Tôi đặc biệt yêu thích môn toán của các thầy cô đã dạy tôi, càng yêu thích hơn
    nữa những câu chuyện mà các thầy cô đã kể cho mình nghe của việc ứng dụng
    toán học trong thực tế cuộc sống mà những nhân tài đất Việt đã thực hiện suốt
    chiều dài lịch sử dân tộc. Từ những câu chuyện gán cho Trạng Quỳnh cân voi
    (thực tế là Trạng Lường Lương Thế Vinh thực hiện việc này), Trạng Lường đo
    độ dày tờ giấy, đo chiều rộng của sông mà không cần qua sông, chuyện Vũ Hữu
    xây cổng thành không thừa một viên gạch, … Những câu chuyện đó là cả một thế
    giới tuổi thơ tôi với ước mơ một ngày mình có thể thực hiện được một điều gì đó
    kì diệu tương tự như vậy.
    Một kỉ niệm thật đặc biệt mà sau này đã thực sự tạo những ấn tượng rất
    mạnh đối với tôi là năm tôi sinh ra (1979) chính là năm mà anh học sinh Lê Bá
    Khánh Trình (sinh năm 1963) – một trong 5 học sinh Việt Nam được chọn tham
    gia Olympic Toán Quốc tế ở London. Khi đó ông là học sinh tại lớp chuyên toán
    trường Quốc học Huế. Ông đã đạt giải nhất với số điểm tuyệt đối 40/40 đồng thời
    được tặng giải đặc biệt về lời giải độc đáo trong kỳ thi này. Đây chính là người
    được mệnh danh “Cậu bé vàng toán học Việt Nam”.
    Những chuyện kể về cậu học trò Lê Bá Khánh Trình khi đó đã thực sự cho
    tôi thêm đam mê với môn Toán. Xin được trích dẫn một đôi dòng được viết trên
    trang tạp chí của Đại học Duy Tân về cuộc hội ngộ giữa anh học sinh Lê Bá
    Khánh Trình và người đã chấm điểm tối đa cho anh năm nào:
    Một khoảnh khắc vĩ đại (a great moment)!
    Trong một buổi nói chuyện nhân dịp làm đề IMO năm nay, GS Tony
    Gardiner, nhà toán học người Anh, chia sẻ: “Lần đầu tôi biết đến IMO là vào
    năm 1979, khi IMO diễn ra trên đất Anh và tôi được mời chấm hình học. Năm đó
    N
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    3
    có một giải đặc biệt dành cho một lời giải độc đáo và ngắn gọn của một thí
    sinh Việt Nam”.
    “Người thí sinh đó sẽ có mặt ở IMO năm nay với tư cách phó đoàn”, ngay
    lúc ấy PGS – TS Lê Anh Vinh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt
    Nam, Trưởng đoàn Việt Nam tham dự IMO năm nay, reo lên. “Ồ, vậy sao? Chắc
    chắn tôi sẽ phải gặp lại cậu ấy!”, GS Tony Gardiner cũng reo lên. Và cuộc hội
    ngộ ấy đã diễn ra vào ngày 18.7 tại Vương Quốc Anh.
    GS Tony Gardiner bây giờ đã là một lão tướng nhưng vẫn xung trận chấm
    hình học ở bài 2. Còn cậu học sinh 17 tuổi Lê Bá Khánh Trình ngày ấy bây giờ
    đã là một vị phó Trưởng đoàn Việt Nam tham dự IMO. “Ngày đó chúng tôi đã
    tính hết các nước cho lời giải bài hình. Cho nên khi đội chấm đưa lên một lời giải
    rất ngắn thì tất cả đều cười và nói rằng chắc chắn lời giải sai. Nhưng sau khi
    xem kỹ thì chúng tôi dần dần hiểu rằng không thể tìm ra chỗ sai – “Một khoảnh
    khắc vĩ đại” (a great moment). Sau khi kiểm tra kỹ chính tôi đã đề xuất trao giải
    đặc biệt cho lời giải này”, GS Tony Gardiner nhớ lại.
    Khoảnh khắc vĩ đại đó đã dẫn tôi trở thành một giáo viên. Liền sau đó, với
    sự kiện Giáo sư Ngô Bảo Châu giành giải Fields (giải thưởng được coi như giải
    Nobel toán học thế giới), tôi đã rất vui mừng và hi vọng một ngày mình cũng có
    thể có một người học trò đạt được tầm vóc như vậy. Những công dân vĩ đại chính
    là những minh chứng vĩ đại cho sự hội nhập tự tin, mạnh mẽ của Việt Nam với
    thế giới rộng lớn. Họ cũng là những minh chứng xuất sắc cho trí tuệ Việt Nam.
    Con đường mà tôi lựa chọn là tìm hiểu về các kì thi quốc tế để qua đó có thể
    hướng các em học sinh của mình tới các kiến thức đỉnh cao của môn toán cũng
    như có thể vinh danh bản thân, gia đình và đất nước trên các diễn đàn toán học
    lớn. Việc tham gia các kì thi toán quốc tế không chỉ giúp các em học sinh có
    được khả năng tiếng Anh thật tốt, không chỉ giúp các em tiến tới đỉnh cao của
    toán học, đó còn là con đường giúp các em và chính giáo viên chúng tôi nhận biết
    được vị trí của mình trên một tấm bản đồ rộng hơn, lớn hơn, xa hơn để nỗ lực
    hơn từng ngày, từng giờ, để cống hiến nhiều hơn cho đất nước thân yêu.
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    4
    Thiết nghĩ, trên con đường hội nhập quốc tế thì ngoại ngữ và trí tuệ là hai
    hành trang quan trọng nhất của mỗi cá nhân, quốc gia.
    Từ những định hướng và mong muốn như vậy, tôi đã tìm hiểu và dẫn dắt
    học sinh tham gia một số cuộc thi, tóm tắt và viết thành đề tài báo cáo sáng kiến:
    “Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế”
    * *
    *
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    5
    II- MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Bộ GD&ĐT về việc
    đẩy mạnh học ngoại ngữ qua hình thức học sách song ngữ, một số nhà xuất bản
    đã xuất bản một số sách giáo khoa song ngữ, tập trung chủ yếu là môn Toán, môn
    Khoa học, Hoá, Sinh từ lớp 2 đến lớp 12.
    Việc sử dụng bộ sách được Bộ Giáo dục hướng dẫn triển khai với 3 cấp độ:
    + Cấp độ 1: đối với giáo viên không thông thạo Tiếng Anh, học sinh dùng
    sách để nghiên cứu, tham khảo, bổ sung thêm khiến thức về toán, khoa học.
    + Cấp độ 2, đối với giáo viên thể sử dụng được tiếng Anh thì dùng như tài
    liệu bổ trợ để giảng dạy một số khái niệm cho học sinh, giải thích bằng tiếng Anh
    để giúp học sinh tiếp cận, hiểu và vận dụng được các thuật ngữ liên quan đến
    toán và các môn khoa học bằng tiếng Anh.
    + Cấp độ 3, nếu giáo viên có trình độ đạt chuẩn thì dùng sách này để dạy các
    môn toán, khoa học một phần hoặc toàn bộ bằng tiếng Anh theo định hướng của
    Sở giúp học sinh tiếp cận với chương trình phổ thông quốc tế, đọc được sách, tài
    liệu của nước ngoài bằng tiếng Anh.
    Các lớp, trường học sách song ngữ thực hiện bài kiểm tra đánh giá bằng
    tiếng Việt như các lớp học SGK hiện hành.
    Theo cá nhân tôi nhận thấy, là một trong những môn học được xem là cốt
    lõi, chương trình Toán bằng tiếng Anh ngày càng phổ biến và thậm chí còn được
    khuyến khích giảng dạy ở nhiều trường công lập. Định hướng cho trẻ học toán
    bằng tiếng Anh ngay từ tiểu học mang lại rất nhiều lợi ích. Nghiên cứu cho thấy,
    học cùng lúc hai ngôn ngữ sẽ làm tăng khả năng xử lý của hệ thần kinh, kích
    thích bộ não phát triển. Khi con học cách dùng hay không dùng một cụm từ nào
    đó, con cũng phát triển được tư duy nhận xét, sử dụng từ trong ngữ cảnh sao cho
    hợp lý để có thể sử dụng tiếng Anh trôi chảy.
    Tuy vậy, học cùng lúc hai ngôn ngữ không dễ dàng. Khi học sinh học toán
    bằng tiếng Anh, các em không chỉ học về những khái niệm hay công thức toán
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    6
    học, mà còn phải cố gắng làm quen và ghi nhớ những thuật ngữ toán, vốn không
    xuất hiện trong các cuộc giao tiếp hằng ngày.
    Chúng ta sẽ dễ thấy nhiều khó khăn của chương trình toán bằng tiếng Anh
    khi con bắt đầu học đến toán đố (word problems) – vốn là nỗi ác mộng của nhiều
    học sinh khi theo học các trường quốc tế. Lý do là bởi chưa nói đến việc giải đề,
    để con có thể đọc, hiểu được đề bài đang nói gì, câu hỏi là gì, cũng đã là cả một
    dấu hỏi lớn. Ngay cả đối với những em đã có thể nghe nói tiếng Anh giao tiếp
    căn bản vẫn còn “vật lộn” với toán đố, bởi các em chưa quen với các từ, cụm từ
    viết theo thuật ngữ toán học, chưa biết cách liên hệ để hiểu hết những dữ liệu có
    trong bài toán, gạch chân những từ quan trọng hay không biết vẽ hình minh họa
    bài toán sao cho dễ hiểu để từng bước tìm thấy đáp số.
    Đó là về nội dung toán song ngữ được dạy tại một số trường ở Nam Định.
    Tuy nhiên, về khía cạnh tham gia các cuộc thi có nội dung sử dụng tiếng Anh
    trong đề bài và trình bày, hiện còn chưa phổ biến. Chính vì vậy, cá nhân tôi mong
    muốn có thể góp phần giúp cho phong trào học tập nội dung toán song ngữ có sự
    phát triển mạnh mẽ hơn nữa và học sinh có thể tham gia nhiều hơn các sân chơi
    quốc tế quan trọng.
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    7
    PHẦN II
    MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    “Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế”
    ề cơ bản, để thể hiện bản thân thật tốt, đặc biệt trong thời điểm hiện
    nay, các kì thi đều sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ chính trong cả
    đề bài lẫn các bước trình bày thì học sinh cần có 2 yếu tố vô cùng quan trọng:
    vốn ngoại ngữ và khả năng toán học.
    – Về vốn ngoại ngữ: Học sinh cần được trang bị thật tốt ngay từ lớp 1, thậm
    chí cần sớm hơn như vậy. Bên cạnh đó, ngoài yếu tố tiếng Anh thông thường, các
    em cần được cung cấp đầy đủ hệ thống các thuật ngữ toán – tiếng Anh để có thể
    hiểu và giải các bài toán trong các đề thi quốc tế. Hệ thống thuật ngữ này sẽ được
    cung cấp tương thích theo lượng kiến thức mà các em được học theo từng khối
    lớp.
    – Về khả năng toán học: Ngoài các kiến thức được học trong chương trình
    của Việt Nam, các em cần được bổ sung các kiến thức nâng cao, các kiến thức
    mang tính tư duy, IQ và một số mảng kiến thức mà hiện tại chương trình Việt
    Nam chưa đề cập tới. Đặc biệt một số kì thi tổ chức thi theo khung độ tuổi giành
    cho nhiều khối lớp cùng tham gia. Trong các kì thi này, việc 1 học sinh thực hiện
    lời giải của những bài toán giành cho học sinh lớp trên là chuyện thường xảy ra.
    Điểm khác biệt lớn nhất trong các bài toán quốc tế so với các bài toán được dạy
    trong chương trình Việt Nam chúng ta hiện tại chính là tính thực tiễn trong mỗi
    bài toán rất cao.
    Như vậy, để các em học sinh có thể tham gia các kì thi Toán quốc tế, rất cần
    giúp các em có khả năng ngoại ngữ thật tốt và có năng lực toán học đảm bảo chất
    lượng, đúng tiêu chí mà mỗi cuộc thi đề ra. Tuy nhiên, hiểu được vấn đề là
    chuyện dễ dàng, thực hiện được 2 yếu tố này lại là câu chuyện rất khác bởi để
    giúp học sinh có khả năng ngoại ngữ tốt, khả năng toán học tốt, hơn nữa lại là
    những nội dung toán quốc tế thật sự chẳng dễ dàng. Nguồn tài liệu để hướng dẫn
    học sinh là một trở ngại không hề nhỏ bởi không có những tài liệu đó ở Việt
    V
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    8
    Nam. Không những thế, ngoài việc các em học sinh cần được rèn luyện thật tốt,
    thì đối với giáo viên rất cần nắm vững các sân chơi trí tuệ từ thể lệ, thời điểm,
    quy định đến nội dung kiến thức và một số kĩ năng quan trọng để từ đó có thể có
    những sự chuẩn bị thật tốt tất cả các điều kiện và luôn sẵn sàng trước mỗi kì thi
    mà thầy trò tham gia. Đó chính là nội dung những giải pháp mà tôi đã triển khai
    trong thời gian qua và bước đầu đã chứng tỏ được những hiệu quả khá tích cực.
    Cụ thể:
    Thứ nhất: Giáo viên cần nắm rõ thông tin về các kì thi toán quốc tế mà
    mình quan tâm
    Thứ hai: Trang bị cho học sinh đầy đủ hệ thống kiến thức chuẩn mực,
    khoa học
    Xin trân trọng giới thiệu dưới đây một số nội dung về các kì thi quốc gia,
    quốc tế quan trọng sử dụng yếu tố song ngữ, sử dụng tiếng Anh và các tài liệu bồi
    dưỡng học sinh.
    I- MỘT SỐ KÌ THI QUỐC TẾ QUAN TRỌNG
    SỬ DỤNG YẾU TỐ SONG NGỮ, SỬ DỤNG TIẾNG ANH
    1. INTERNATIONAL KANGAROO MATH COMPETITION – IKMC
    2. AUSTRALIAN MATHEMATICS COMPETITION – AMC
    3. INTERNATIONAL MATHEMATICS ASSESSMENTS FOR SCHOOLS –
    IMAS
    4. SINGAPORE AND ASIAN SCHOOLS MATH OLYMPIAD – SASMO
    5. SINGAPORE INTERNATIONAL MATH OLYMPIAD CHALLENGE –
    SIMOC
    6. INTERNATIONAL JUNIOR MATH OLYMPIAD – IJMO
    7. INTERNATIONAL MATHEMATICS COMPETITION – IMC
    8. MALAYSIA INTERNATIONAL MATHEMATICS OLYMPIAD
    COMPETITION – MIMO
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    9
    9. ASIA PARCIFIC MATHEMATICAL OLYMPIAD FOR PRIMARY
    SCHOOLS – APMOPS
    10. PRIMARY MATHEMATICS WORLD CONTEST – PO LEUNG KUK
    (PMWC)
    11. INTERNATIONAL MATHEMATICS AND SCIENCE OLYMPIAD –
    IMSO
    12. AMERICAN MATHEMATICS OLYMPIAD – AMO
    13. ASIAN SCIENCE AND MATHEMATICS OLYMPIAD – ASMO
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    10
    Xin trân trọng giới thiệu cụ thể:
    1- INTERNATIONAL KANGAROO MATH COMPETITION (IKMC)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai:
    Thi tại mỗi quốc gia. Tổ chức IEG tại Việt Nam
    * Đối tượng dự thi:

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 118Lớp 1+245 phút
    Cấp độ 224Lớp 3+460 phút
    Cấp độ 330Lớp 5+675 phút
    Cấp độ 430Lớp 7+875 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 3 phần với số
    điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Phần thiVị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 6, 8, 10, 10.Mức độ dễ3Sai 1 câu trừ 1
    Phần 2Từ câu 9 đến câu 12, 16, 20,
    20.
    Mức dộ trung
    bình
    4Sai 1 câu trừ 1
    Phần 3Từ câu 17 đến câu 18, 24, 30,
    30.
    Mức độ khó5Sai 1 câu trừ 1

    * Thời gian tổ chức: Tháng 3, tháng 4 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn:
    Đa số các bài toán đều thuộc loại toán tư duy, không có kỹ thuật cũng như
    phương pháp cố định với mỗi bài toán. Tuy nhiên, các bài toán tư duy có thể
    được phân loại theo các dạng toán và các chuyên đề cụ thể.
    Vậy nên, với kỳ thi này các em học sinh cần được làm quen và chuẩn bị
    những kiến thức cơ bản về các dạng toán tư duy dựa trên các nguồn tài liệu tham
    khảo và các đề thi năm trước.
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    11
    2- AUSTRALIAN MATHEMATICS COMPETITION (AMC)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Thi tai mỗi quốc gia. Tổ chức ISMART
    tại Việt Nam
    * Đối tượng dự thi:

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 130Lớp 3+460 phút
    Cấp độ 230Lớp 5+660 phút
    Cấp độ 330Lớp 7+875 phút
    Cấp độ 430Lớp 9+1075 phút
    Cấp độ 530Lớp 11+1275 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 4 phần với
    số điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Phần thiVị trí câu hỏiĐộ khómỗi câu Số điểmChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 10 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ dễ3Câu sai không trừ
    Phần 2Từ câu 11 đến câu 20 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ trung
    bình
    4Câu sai không trừ
    Phần 3Từ câu 21 đến câu 25 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ khó5Câu sai không trừ
    Phần 4Từ câu 26 đến câu 30 (Tự luận)
    (Kết quả điền số từ 000 đến
    999)
    Mức độ khó6, 7, 8, 9
    và 10
    Câu sai không trừ

    * Thời gian tổ chức: Tháng 8, tháng 9 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Các bài toán tư duy đan xen với các bài toán truyền thống (bài toán chu vi,
    tuổi, đo lường và đơn vị,…) theo tỷ lệ 50:50. Vậy nên, với kỳ thi này ngoài việc
    ôn tập vững các kiến thức về các dạng toán cơ bản trên lớp, các em học sinh cũng
    cần được làm quen và chuẩn bị những kiến thức cơ bản về các dạng toán tư duy
    dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo và các đề thi năm trước.
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    12
    3- INTERNATIONAL MATHEMATICS ASSESSMENTS FOR
    SCHOOLS (IMAS)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Thi tại mỗi quốc gia. Tổ chức IEG tại
    Việt Nam
    * Đối tượng dự thi

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 125Lớp 3+475 phút
    Cấp độ 225Lớp 5+675 phút
    Cấp độ 325Lớp 7+875 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 3 phần với
    số điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Vòng 1Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 10 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ cơ bản3Câu sai không trừ
    Phần 2Từ câu 11 đến câu 20(Trắc
    nghiệm)
    Mức độ nâng
    cao
    4Câu sai không trừ
    Phần 3Từ câu 21 đến câu 25(Tự
    luận) (Kết quả điền số từ 000
    đến 999 )
    Mức độ khó6Câu sai không trừ

    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    13
    * Thời gian tổ chức:

    Vòng 1: Tháng 12 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Vòng 2: Tháng 3 hàng năm

    Đây là một bài đánh giá với số câu hỏi dễ không nhiều, các dạng câu hỏi
    phong phú và độc đáo đặc biệt với các câu hỏi từ câu 21 đến câu 25 là những câu
    khó nhất trong đề. Điều này cũng dễ hiểu bởi bản chất các câu hỏi được soạn ra
    với mục đích để đánh giá học sinh.
    4- SINGAPORE AND ASIAN SCHOOLS MATH OLYMPIAD (SASMO)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Vòng 1 thi tai mỗi quốc gia, vòng 2 thi tại
    Singapore. Tổ chức TITAN EDUCATION tại Việt Nam
    * Đối tượng dự thi

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 125Lớp 290 phút
    Cấp độ 225Lớp 390 phút
    ……..……..……..……..
    Cấp độ 1025Lớp 1090 phút
    Cấp độ 1125Lớp 1190 phút
    Vòng 2Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 5 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ cơ bản4Câu sai không trừ
    Phần 2Từ câu 6 đến câu 13(Trắc
    nghiệm)
    Mức dộ nâng
    cao
    5Câu sai không trừ
    Phần 3Từ câu 14 đến câu 15(Tự
    luận)
    (Trình bày lời giải chi tiết )
    Mức độ khó20Câu sai không trừ

    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    14
    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 2 phần với
    số điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Phần
    thi
    Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm
    mỗi câu
    Chú ý
    Phần
    1
    Từ câu 1 đến câu 15
    (Trắc nghiệm)
    Mức độ cơ bản2Sai 1 câu trừ 1
    điểm
    Phần
    2
    Từ câu 16 đến câu
    25(Điền đáp án)
    Mức độ nâng
    cao
    4Câu sai không trừ

    * Thời gian tổ chức: Tháng 4 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Các bài toán chủ yếu là các bài toán tư duy. Các câu hỏi về tư duy số và tư
    duy không gian chiếm đa phần trong đề thi và các câu hỏi tư duy là những dạng
    cơ bản và quen thuộc. Với các cấp độ, nói chung các bài toán với độ khó vừa
    phải, không có sự thay đổi nhiều về độ khó của đề thi theo các năm.
    – Thí sinh đạt giải đồng trở lên của kỳ thi SASMO sẽ đủ điều kiện tham gia
    kỳ thi SIMOC
    – Thí sinh đạt giải bạc trở lên của kỳ thi SASMO sẽ đủ điều kiện tham gia
    kỳ thi IJMO
    5- SINGAPORE INTERNATIONAL MATH OLYMPIAD CHALLENGE
    (SIMOC)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Singapore. Tổ chức TITAN
    EDUCATION tại Việt Nam
    * Cấu trúc bài thi: Thí sinh tham gia phần thi cá nhân và phần thi đồng đội
    với thể lệ như sau: Phần thi cá nhân: 90 phút

    PhầnVị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm
    mỗi câu
    Chú ý
    Trắc
    nghiệm
    Từ câu 1 đến câu 15 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ cơ bản2Sai 1 câu trừ 1 điểm
    Tự luậnTừ câu 16 đến câu
    25(Điền đáp án)
    Mức độ nâng cao4Câu sai không trừ

    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    15
    Phần thi đồng đội

    Phần thiLuật chơiThời gian
    Math warriorsMỗi đội gồm 3 thành viên từ 3
    cấp khác nhau đến từ 3 nước khác
    nhau.
    60 phút
    Mind sports challengeMỗi đội giải 10 câu hỏi tư duy và
    4 câu đố.
    60 phút

    * Thời gian tổ chức: Tháng 7 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Phần thi cá nhân chứa các câu hỏi tư duy và các dạng câu hỏi đã quen với
    nhiều học sinh nên phần thi cá nhân sẽ không gây bỡ ngỡ cũng như sự lạ lẫm cho
    các thí sinh. Tuy nhiên, với phần thi đồng đội thì có thể sẽ gây ra sự lung túng và
    thiếu tự tin ở các thí sinh nếu các em học sinh không có sự chuẩn bị kỹ về các
    luật chơi và ngay cả tinh thần trước khi tham gia.
    6- INTERNATIONAL JUNIOR MATH OLYMPIAD (IJMO)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Singapore. Tổ chức TITAN
    EDUCATION tại Việt Nam
    * Cấu trúc bài thi: Bài thi có cấu trúc như sau

    Vòng 1Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 10 (Trắc
    nghiệm)
    Mức độ cơ bản2Sai 1 câu trừ 1 điểm
    Phần 2Từ câu 11 đến câu 20(Trắc
    nghiệm)
    Mức dộ nâng
    cao
    3Sai 1 câu trừ 1
    điểm
    Phần 3Từ câu 21 đến câu 30(Tự
    luận)
    Mức độ khó5Sai 1 câu trừ 1 điểm

    * Thời gian tổ chức: Tháng 7 hàng năm
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    16
    * Góc nhìn chuyên môn
    Các câu hỏi đa phần là các câu hỏi tư duy, các bài toán và tình huống thực tế
    nhằm đến việc đánh giá khả năng vận dụng kiến thức toán cũng như tư duy để
    giải quyết các tình huống và vấn đề ngoài đời sống. Phần lớn các câu hỏi đều ở
    mức độ nâng cao. Vậy nên các em học sinh cần được chuẩn bị kỹ hơn trước khi
    tham gia IJMO.
    7- INTERNATIONAL MATHEMATICS COMPETITION (IMC)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Thi tại Singapore, đại diện tại Việt Nam:
    THCS Archimedes
    * Đối tượng dự thi

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 118Lớp 390 phút
    Cấp độ 218Lớp 490 phút
    ……………………
    Cấp độ 618Lớp 890 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 3 phần với
    số điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Phần
    thi
    Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 8 (Trắc
    nghiệm)
    Cơ bản5Sai không bị trừ
    Phần 2Từ câu 9 đến câu 16 (Điền
    đáp án)
    trung
    bình
    5Sai không bị trừ
    Phần 3Từ câu 17 đến câu 18 (Trình
    bày lời giải)
    Khó10Sai không bị trừ

    * Thời gian tổ chức: Tháng 7 hàng năm
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    17
    * Góc nhìn chuyên môn
    Cấu trúc bộ câu hỏi trong đề thì gồm các câu hỏi tư duy chiếm phần hơn
    (70%), tuy nhiên thí sinh vẫn có thể tìm thấy các dạng câu hỏi tính toán quen
    thuộc như bài toán tính tổng dãy số, tính diện tích, chu vi, bài toán tuổi, ngày
    tháng,… Các dạng câu hỏi trong đề thi khá là phong phú và đa dạng với mức độ
    từ cơ bản đến nâng cao. Ngoài việc các em học sinh sẽ được theo học một khóa
    ôn luyện từ các thầy cô tại Hà Nội, các em còn có cơ hội trải nghiệm 1 tuần học
    tập trung tại Vĩnh Phúc hoặc Hải Phòng mà tại đó các em được học và sinh hoạt
    tập thể tại 1 khu vực đặc khu với sự giám sát chặt chẽ của đội ngũ giáo viên và
    nhân viên và đây là một điều mới và đặc trưng riêng của kỳ thi.
    8- MALAYSIA INTERNATIONAL MATHEMATICS OLYMPIAD
    COMPETITION (MIMO)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Thi tai Malaysia, đại diện tại Việt Nam:
    THCS Archimedes
    * Đối tượng dự thi

    Cấp độTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 1Lớp 3+490 phút
    Cấp độ 2Lớp 5+690 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, mỗi thí sinh tham gia 3 phần thi có cấu
    trúc như sau:
    Phần thi cá nhân: 90 phút

    Phần thiVị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần ATừ câu 1 đến câu 10 (Điền
    đáp án)
    Mức độ cơ bản4Câu sai không trừ
    Phần BTừ câu 11 đến câu 20 (Điền
    đáp án)
    Mức độ nâng
    cao
    5Câu sai không trừ
    Phần CTừ câu 21 đến câu 25(Điền
    đáp án)
    Mức độ khó6Câu sai không trừ

    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    18
    Phần thi đồng đội
    Có tất cả 10 bài toán với độ khó tăng dần trong phần thi đồng đội, mỗi
    câu trả lời đúng được 10 điểm.
    Mỗi đội có 4 thành viên có 10 phút để thảo luận với nhau 8 câu hỏi. Mỗi
    một học sinh phải trả lời ít nhất 1 câu hỏi. Sau đó các thành viên có 35 phút
    để độc lập viết câu trả lời của mình lên phiếu trả lời, không trao đổi với nhau.
    Sau đó, cả 4 thành viên sẽ có 15 phút để cùng nhau làm 2 câu hỏi cuối cùng.
    * Thời gian tổ chức: Tháng 11 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Đây là kỳ thi với đa số các câu hỏi trong đề là các câu hỏi nâng cao đối với
    mỗi cấp độ với các câu hỏi tư duy đan xen cùng các câu hỏi tính toán. Hơn nữa,
    với mỗi cấp độ, đề thi có thể sẽ chứa những câu hỏi đòi hỏi kiến thức ở các lớp
    trên so với cấp độ đó, vậy nên các em học sinh cũng cần được trang bị một số
    kiến thức trên mà đề thi yêu cầu (như số đo góc, công thức tính diện tích hình
    tròn,..)
    9- ASIA PARCIFIC MATHEMATICAL OLYMPIAD FOR PRIMARY
    SCHOOLS(APMOPS)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Vòng 1 tại hệ thống Trường Quốc Tế
    Singapore tại Việt Nam, vòng 2 tại Singapore
    * Đối tượng dự thi: Học sinh dưới 13 tuổi (lớp 6, lớp 7) và chưa từng tham
    dự kỳ thi APMOPS

    VÒNGTHỜI GIAN LÀM BÀIĐIỂM TỐI ĐA
    Vòng 1120 phút150 điểm
    Vòng 290 phút60 điểm

    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    19
    * Cấu trúc bài thi: Mỗi thí sinh tham gia 2 vòng thi có cấu trúc như sau:

    Vòng 1Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm mỗi câuChú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 10 (điền đáp
    án)
    Mức độ cơ bản4Câu sai không trừ
    Phần 2Từ câu 11 đến câu 20(điền
    đáp án)
    Mức độ nâng cao5Câu sai không trừ
    Phần 3Từ câu 21 đến câu 30 (điền
    đáp án)
    Mức độ khó6Câu sai không trừ
    Vòng 2Vị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm
    mỗi câu
    Chú ý
    Từ câu 1 đến câu 6
    (Trình bày lời giải chi tiết)
    Mức độ khó10Câu sai không trừ

    * Thời gian tổ chức:
    Vòng 1: Tháng 4 hàng năm; Vòng 2: Tháng 6 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Bài thi vòng 1: Các câu hỏi ở mức nâng cao chiếm đa phần cấu trúc bài thi
    trong đó các câu hỏi về HÌNH HỌC chiếm phần nhiều (40%-45%), tiếp đến là
    các câu hỏi số học và tổ hợp (đây là những kiến thức khá mới lạ và chưa được
    dạy trong chương trình toán tiểu học tại Việt Nam). Vậy để chuẩn bị tốt cho phần
    thi này, các thí sinh nên tập trung vào phần hình học ngay từ đầu và học một cách
    hệ thống phần này.
    Bài thi vòng 2: Trong phần thi vòng 2, các dạng câu hỏi tổ hợp thường
    xuyên được hỏi, bên cạnh đó, những câu hỏi tư duy về hình học cũng như số học
    cũng là những dạng toán thường có trong phần thi vòng 2.
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    20
    10- PRIMARY MATHEMATICS WORLD CONTEST (PMWC- PO
    LEUNG KUK)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Hong Kong. Trung tâm bồi dưỡng Hiếu
    Học
    * Cấu trúc bài thi: Thí sinh tham gia phần thi cá nhân và phần thi đồng đội
    với thể lệ như sau:

    Phần thiThể lệ thiSố câu hỏiSố điểm
    mỗi câu
    Thời gian
    Cá nhânĐiền đáp số151120 phút
    Đồng độiTrình bày lời giải10160 phút

    * Thời gian tổ chức: Tháng 7 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Cả hai phần thi, các câu hỏi đa phần là các câu hỏi với mức độ khó cao.
    Tương đồng với kỳ thi IMSO hoặc APMOPS, các câu hỏi hình học thường chiếm
    đa phần, tiếp đến là những bài toán số học và toán đếm. Vậy để chuẩn bị tốt cho
    cả 2 phần, giáo viên cần có kế hoạch ôn tập cho học sinh một cách có hệ thống
    đối với phần hình học, có thể sẽ phải tìm hiểu và trang bị thêm cho học sinh một
    số kiến thức hình ở những lớp trên.
    Đặc biệt trong phần thi đồng đội, việc chia nhóm và phân chia các câu hỏi
    cũng là một trong những yếu tố quyết định thành công của cả đội, vậy nên cần
    giúp các em học sinh có những chiến thuật phù hợp với đội của mình trong phần
    thi đồng đội.
    11- INTERNATIONAL MATHEMATICS AND SCIENCE OLYMPIAD
    (IMSO)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Mỗi năm tổ chức tại một nước đăng cai.
    Năm 2019 tổ chức tại Việt Nam
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    21
    * Đối tượng dự thi: Học sinh dưới 13 tuổi tính đến ngày đăng ký và chưa
    học lớp 8
    * Cấu trúc bài thi: Mỗi thí sinh đều tham gia ba phần thi có cấu trúc như
    sau:

    Phần thiSố câu hỏiThời gianSố điểm
    mỗi câu
    Chú ý
    Short answer25 bài toán60 phút1
    Essay13 bài toán90 phút3Cho điểm ý
    đúng
    Exploration6 bài toán120 phút6Cho điểm ý
    đúng

    Chú ý: Thí sinh dự thi chỉ có thể viết bằng bút mực xanh hoặc mực đen
    hoặc bút chì
    * Thời gian tổ chức: Tháng 11 hàng năm, có vòng thi tuyển chọn đội tuyển
    quốc gia (2 vòng)
    * Góc nhìn chuyên môn
    Đây là một kỳ thi uy tín dành cho đối tượng là học sinh tiểu học và đầu
    trung học. Các bài toán đa dạng với độ khó cao. Thông thường, các bài toán hình
    sẽ chiếm đa số các bài toán, tiếp đó là số học và toán tổ hợp. Vậy nên:
    – Đối tượng phù hợp nhất để tham gia kỳ thi này là các em học sinh lớp 6
    hoặc lớp 7. Tuy nhiên với một số học sinh lớp 5 với tư duy toán và kiến thức toán
    vượt trội cũng nên khuyến khích tham gia.
    – Để chuẩn bị tốt cho kỳ thi này, giáo viên cần có kế hoạch và chiến lược cụ
    thể, có lộ trình lâu dài, đặc biệt chuẩn bị thật tốt cho học sinh kiến thức về hình
    học cũng như một số kiến thức ở các lớp trên (lớp 6+7).
    12- AMERICAN MATHEMATICS OLYMPIAD (AMO)
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    22
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Tổ chức tại mỗi quốc gia. Ban tổ chức
    AMO Việt Nam
    * Đối tượng dự thi

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 115Lớp 2+390 phút
    Cấp độ 220Lớp 490 phút
    Cấp độ 325Lớp 590 phút
    Cấp độ 425Lớp 690 phút
    Cấp độ 525Lớp 790 phút
    Cấp độ 625Lớp 890 phút
    Cấp độ 725Lớp 990 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 2 phần với
    số điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Phần
    thi
    Vị trí câu hỏiĐộ khóSmốỗđi i câu ểmChú ý
    Phần 1Trắc nghiệmMức độ dễ1Sai không bị trừ
    Phần 2Điền đáp ánMức độ nâng cao1Sai không bị trừ

    * Thời gian tổ chức: Tháng 10 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Đề thi bao gồm các câu hỏi tư duy ở mức vừa phải, không quá đánh đố, chủ
    yếu là các phép toán cơ bản, đo lường cũng như các bài toán quy luật. Vậy nên để
    chuẩn bị tốt cho kỳ thi AMO, thí sinh cần nắm chắc các phép toán cơ bản cũng
    như các dạng toán tư duy quen thuộc được tìm thấy trong một số cuốn sách toán
    tiếng Anh hoặc toán song ngữ.
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    Tác giả: Vũ Văn Bền Phó hiệu trưởng Trường tiểu học Trần Nhân Tông – Tp. Nam Định 23
    13- ASIAN SCIENCE AND MATHEMATICS OLYMPIAD (ASMO)
    * Tổ chức và quốc gia đăng cai: Vòng 1 và vòng 2 thi tai mỗi quốc gia,
    vòng 3 thi tại quốc gia đăng cai
    * Đối tượng dự thi

    Cấp độSố câu hỏiTrình độThời gian làm bài
    Cấp độ 125Lớp 190 phút
    Cấp độ 225Lớp 290 phút
    ……..………………
    Cấp độ 925Lớp 990 phút
    Cấp độ 1025Lớp 1090 phút

    * Cấu trúc bài thi: Với mỗi cấp độ, bài thi được chia ra thành 3 phần với
    số điểm của mỗi câu trả lời đúng của từng phần như sau:

    Phần thiVị trí câu hỏiĐộ khóSố điểm
    mỗi câu
    Chú ý
    Phần 1Từ câu 1 đến câu 10
    (Điền đáp án)
    Mức độ cơ bản3Câu sai không trừ
    Phần 2Từ câu 11 đến câu
    20(Điền đáp án)
    Mức độ nâng cao4Câu sai không trừ
    Phần 3Từ câu 21 đến câu
    25(Điền đáp án)
    Mức độ nâng cao6Câu sai không trừ

    Chú ý: Thí sinh chỉ được sử dụng bút chì loại 2B để làm bài thi
    * Thời gian tổ chức: Tháng 5, 8 và tháng 11 hàng năm
    * Góc nhìn chuyên môn
    Đề thi chủ yếu bao gồm các dạng toán tư duy quen thuộc tuy nhiên với mỗi
    cấp học, các câu hỏi có thể bao gồm một số kiến thức ở các lớp trên ứng với cấp
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    Tác giả: Vũ Văn Bền Phó hiệu trưởng Trường tiểu học Trần Nhân Tông – Tp. Nam Định 24
    học đó đặc biệt ở các lớp nhỏ. Do vậy, để chuẩn bị kỹ cho kỳ thi này, học sinh
    ngoài việc làm quen với các dạng bài đặc trưng của kỳ thi, thì các em học sinhnên
    trang bị cho mình một số những kiến thức ở các lớp trên để có thể sẵn sàng trước
    khi tham gia.
    II- HỆ THỐNG TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH
    THAM GIA CÁC KÌ THI QUỐC TẾ
    Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 4, 5 tham gia các kì thi toán quốc tế
    Tác giả: Vũ Văn Bền Phó hiệu trưởng Trường tiểu học Trần Nhân Tông – Tp. Nam Định 25
    Để chuẩn bị tốt các mặt kiến thức, kĩ năng cho các em học sinh tham gia các
    kì thi quốc tế, điều quan trọng nhất chính là một hệ thống các tài liệu tập huấn
    được biên soạn chi tiết và hướng dẫn theo từng chủ đề sát với tiêu chí của các kì
    thi và phát huy được khả năng sáng tạo, rèn luyện được tư duy và trí tuệ cho các
    em học sinh hướng tới mục tiêu đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
    Qua quá trình tập huấn học sinh, tôi đã biên soạn một số chủ đề trọng tâm để
    có thể giúp các em học sinh có một hành trang thật tốt, giúp các em nuôi dưỡng
    niềm đam mê học tập, thỏa mãn ước mơ với môn toán – môn học sở thích của
    thầy trò chúng tôi.
    Xin trân trọng giới thiệu một số chủ đề trọng tâm, cơ bản mà tôi
    cùng các đồng nghiệp tại trung tâm Mathspace – Hà Nội
    sưu tầm qua các kì thi quốc tế, biên soạn lại nguyên bản
    để hướng dẫn học sinh trong thời g

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa