Category: NGỮ VĂN

  • Cách viết kết bài trong văn nghị luận

    Sau khi thành thạo các kĩ năng viết mở bài, thân bài nghị luận thì mời các em tham khảo Cách viết kết bài trong văn nghị luận.

    Yêu cầu của kết bài văn nghị luận

    Phần kết bài có tính chất tổng kết, khái quát những vấn đề đã trình bày ở phần thân bài.

    Giáo sư Trần Đình Sử cũng đã nêu vấn đề này như sau : Một kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài, chỉ nêu những ý khái quát có tính tổng kết, đánh giá. Không lan man hay lặp lại cụ thể những gì đã trình bày ở thân bài hay lặp nguyên văn lời lẽ mở bài.

    Cách viết kết bài trong văn nghị luận

    Có 4 cách kết bài như sau:

    • Cách một : Tóm lược (tóm tắt quan điểm, nội dung đã nêu ở thân bài);
    • Cách hai: Phát triển , mở rộng thêm vấn đề đặt ra;
    • Cách ba: vận dụng, nêu phương hướng, bài học phát huy hay khắc phục vấn đề nêu ở thên bài;
    • Cách bốn: Liên tưởng, mượn ý tương tự – những ý kiến có uy tín- để thay cho lời tóm tắt của người làm.

    Một kết bài hay trước hết là một kết bài đúng. Đúng nguyên tắc, đúng cách, cho nên một kết bài hay phải đi lên từ một kết bài đúng.

    Một số kết bài nghị luận

    Mẫu: Phân tích bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng. Mời các em tham khảo Bộ đề thi thử Văn tác phẩm TÂY TIẾN.

    Kết bài 1:
    Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỉ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và chúng ta
    “Tây Tiến người đi không hẹn ước
    Đường lên thăm thẳm một chia phôi
    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
    Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn vang vọng mãi trong tâm hồn mỗi chúng ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều nhưng ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm ta bắt gặp một lần nhưng sống mãi. Ấy là Tây Tiến.

    Kết bài 2:
    Mở đầu bài thơ là dòng sông Mã và kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm réo của dòng sông. Dòng sông tiễn đưa a và lại đón anh về. Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý niệm “nhất khứ bất phục hoàn”(một đi không trở lại). Đó cũng chính là ý chí quyết tâm của cả thế hệ-của cả một thời đại. Những gian khổ hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể nào quên. Sẽ không bao giờ có lại thời kì gian khổ đến như thế và hào hùng đến như thế. Và cũng khó có một bài “Tây Tiến” lần thứ hai.

  • Văn nghị luận là gì?

    Văn nghị luận là gì?

    Văn nghị luận là một dạng văn mà trong bài người viết, người nói tác giả dùng chủ yếu các lý lẽ, các dẫn chứng sau đó lập luận chỉ ra các những điểm nhấn, luận điểm nhằm xác định chỉ ra cho người đọc, người nghe thấy được tư tưởng, quan điểm của tác giả gửi gắm vào tác phẩm.

    Văn nghị luận được viết ra nhằm giúp cho người đọc, người nghe tin, tán thưởng và hiểu để cùng đồng hành với người viết

    Đặc điểm của văn nghị luận

    Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận:

    • Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận. Một bài văn thường có các luận điểm:
      • luận điểm chính
      • luận điểm xuất phát
      • luận điểm khai triển
    • Luận cứ là đưa ra dẫn chứng và lí lẽ nhằm sáng tỏ luận điểm.
    • Lập luận là cách tổ chức vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục. Lập luận bao gồm các cách suy lý, quy nạp, diễn dịch, so sánh, phân tích, tổng hợp sao cho luận điểm đưa ra là hợp lý, không thể bác bỏ.

    Bố cục của một bài văn nghị luận

    Bố cục của bài văn nghị luận gồm có:

    • Đặt vấn đề (mở bài). Giới thiệu vấn đề, tầm quan trọng của vấn đề, nêu được luận điểm cơ bản cần giải quyết. Mời các em tham khảo Cách viết mở bài nghị luận.
    • Giải quyết vấn đề (thân bài). Triển khai các luận điểm, dùng lí lẽ dẫn chứng lập luận để thuyết phục người nghe theo quan điểm đã trình bày. Mời các em tham khảo Cách viết thân bài nghị luận
    • Kết thúc vấn đề (kết bài). Khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề đã nêu.
    Văn nghị luận là gì? 1

    Các loại văn nghị luận

    Trong chương trình học THCS và THPT, các loại văn nghị luận gồmcó:

    1. Nghị luận xã hội:
    2. Nghị luận văn học
      • Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
      • Nghị luận về tác phẩm truyện

    Ngoài những kiến thức trọng tâm trên, để hoàn thành tốt bài làm văn của mình, bạn còn cần ghi nhớ đầy đủ các lạo thao tác lập luận trong một bài văn nghi luận.

  • Cách viết thân bài nghị luận

    Trong phần trước, chúng ta đã tìm hiểu văn nghị luận là gìcách viết mở bài nghị luận. Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu Cách viết thân bài nghị luận để đạt điểm cao nhất.

    Cách viết thân bài nghị luận

    1. Yêu cầu của thân bài văn nghị luận

    Đặc điểm và yêu cầu cho đoạn văn chính xác

    Các đoạn văn phần thân bài tương ứng với dàn ý:

    • Tương ứng với luận điểm: Tùy theo đề có thể một hoặc nhiều luận điểm, các luận điểm liên quan với nhau và làm sáng rõ chủ đề.
    • Tương ứng với luận cứ: Đó là những khía cạnh và lí lẽ làm sáng tỏ luận điểm.     Mỗi luận điểm có thể nhiều luận cứ được minh họa bằng dẫn chứng.
    • Các  đoạn văn ở phần trình bày luận cứ và  dẫn chứng có quan hệ phụ thuộc với đoạn văn ở luận điểm.
    • Tương ứng với tiểu kết của luận điểm.
    • Tương ứng với sự chuyển tiếp của hai luận điểm.

    Yêu cầu về diễn ý và hành văn hay

    Sau khi đã có ý thì vấn đề quan trọng không kém là cách diễn  đạt hay. Biết diễn đạt khéo léo thành lời văn cụ thể sẽ có một đoạn văn hay. Diễn ý hay phụ thuộc nhiều yếu tố sau đây tôi xin nêu ngắn gọn các yếu tố tạo nên như sau:

    • Giọng văn và sự thay đổi giọng văn trong bài viết.
    • Dùng từ độc đáo.
    • Viết câu linh hoạt.
    • Viết văn có hình ảnh.
    • Biết so sánh phù hợp.
    • Dẫn chứng và trình bày dẫn chứng.

    2. Cách viết thân bài nghị luận

    Các em học sinh cần luyện tập viết từng đoạn văn một, sau khi đã có khả năng lập luận, diễn đạt tốt thì sẽ thử sức với việc viết cả một bài văn dài.

    Luyện viết đoạn văn tương ứng với luận điểm

    Yêu cầu : Trình bày rõ ràng, chính xác nội dung luận điểm trong câu chủ đề. Câu chủ đề thường đặt ở vị trí đầu đoạn (đoạn diễn dịch) hoặc cuối đoạn (đoạn quy nạp)

    Minh họa: Bình luận cách nhìn của Nam Cao về người nông dân qua tác phẩm “Đôi mắt”?

    Mẫu:
    Luận điểm:
    Sự đối lập về cách nhìn của Hoàng và Độ về người nông dân.
    Đoạn văn:
    Hai nhân vật trung tâm trong truyện ngắn này là Hoàng và Độ. Hai người đại diện cho hai cách nhìn về người nông dân. Người kia chỉ nhìn thấy cái hình thức bên ngoài lố bịch  , ngu dốt, đáng khinh và đáng cười của người nông dân. Người kia biết vượt qua được hình thức bên ngoài, nhìn thấy “những nguyên cớ thật đẹp bên trong” của người dân cày. Nam Cao đã làm nổi bật tư tưởng , thái độ cũng như quan điểm của mình qua sự đối lập cách nhìn của hai nhân vật này về người nông dân.

    Viết đoạn văn tương ứng với luận cứ.

    Yêu cầu: Cách viết các đoạn văn tương ứng với luận cứ  phải căn cứ vào yêu cầu của từng dạng đề như phân tích, chứng minh, giải thích, bình giảng…

    Minh họa:
    Đề 1:
    Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân?
    Luận cứ:
    Tình huống của vợ nhặt.
    Đoạn văn:
    Có thể nói Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau, khi miếng ăn của mỗi người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này, người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta dễ đối xử tàn nhẫn làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn lại khám phá ra một điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường” “người lớn xanh xám như những bóng ma” , trước không khí “vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy, nhưng lạ thay, chúng ta không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ ấy của Tràng nữa.

    Đề 2:
    Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng?
    Luận cứ:
    Nét lãng mạn và hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến.
    Đoạn văn:
    Giữa bao nhiêu khó khăn hình tượng người lính Tây Tiến vẫn luôn
    “Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
    Nét dữ tợn của người lính Tây Tiến ở đây không hề bị nhạt đi trong lòng người đọc. Bệnh tật, ốm đau tưởng chừng  làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng thật bất ngờ khi chúng ta bắt gặp dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” đã làm  mất đi vẻ yếu ớt trong hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá”. Câu thơ trên như tô đậm hơn nét vẽ về người lính Tây Tiến.
    “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
    Đây là hai câu thơ tập trung vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến vừa  sống lại với hình ảnh Hà Nội, vừa chiến đấu với tương lai trước mắt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn vừa mang nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” có vẻ dữ tợn nhưng lại thể hiện sự quyết tâm, quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc, cho đất nước. Bên cạnh đó những chàng trai Tây Tiến cũng không hề đánh mất đi vẻ đẹp tâm hồn mình: sự mộng mơ. Hai câu thơ trên đã có thời bị coi là buồn rớt, là bi quan, là  tiểu tư  sản. Đành  rằng  câu thơ có nét buồn nhưng cái buồn ấy không hề làm mất đi sự quyết tâm của người lính. Quyết tâm đánh giặc và chất men lãng mạn  đã kết hợp hài hòa tạo nên một vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ một cách sâu sắc. Những người lính Tây Tiến mơ về mảnh đất Hà Thành nơi có hình bóng của người thương, những giấc mộng và mơ ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho những  người lính Tây Tiến sống và chiến đấu. Chính vì thế hai câu thơ thật sự lãng mạn và hào hùng.

    Luyện viết ngắn, viết dài

    Yêu cầu: Cách luyện này rất có ích , hữu hiệu đối với tất cả các em. Tại sao vậy? Tại đặc điểm của văn nghị luận cũng giống như vũ trụ mà chúng ta đang sống vậy. Có thể dài rộng vô cùng nhưng cũng có thể rút gọn thành tối giản. Và bài văn cũng vậy có thể kéo dài thành một cuốn sách cũng có thể rút lại ở một vài câu.

    Sau khi luyện viết ngắn thành thạo thì sẽ luyện viết dài thành bài văn nghị luận. các bài văn dài thật ra là sự phát triển của một bài văn ngắn. Tuy nhiên cần lưu ý khi viết một bài nghị luận thì không thể kéo dài như viết một cuốn sách mà là độ dài phù hợp với một bài viết, khi viết một bài nghị luận thường là viết theo một khía cạnh của vấn đề vì vậy kích thước phù hợp sẽ là một yếu tố tạo nên thành công của bài nghị luận.

    Phương pháp luyện tập:
    Có thể luyện tập theo từng cách hoặc các cách sau:

    • Thứ nhất: Dựa vào khung dàn ý viết lần lượt từng luận điểm.
    • Thứ hai: Tập tóm tắt văn bản nghị luận.
    • Thứ ba:Tập chuyển đoạn văn nghị luận ngắn đã viết thành đoạn văn nghị luận dài.
    • Thứ tư : từ bài nghị luận tìm xem có câu nào, luận điểm nào có thể triển khai được không.
    • Thứ năm: Có thể từ luận điểm phát triển thêm các luận cứ.
    • Thứ sau: Luyện chung. Các em chọn một bài và cùng nhau nghiên cứu tìm ý và triển khai.

    Luyện viết ngắn rồi từ ngắn luyện viết dài là cách mà Bác Hồ đã luyện và rất hiệu nghiệm để nâng cao trình độ viêt báo, viết văn của mình hồi Người mới bắt đầu viết.

    Luyện viết câu, đoạn chuyển tiếp

    Một bài văn là một chỉnh thể thống nhất hoàn chỉnh được tạo ra bởi các phần, các đoạn,các câu. Nếu các phần đó không kết dính với nhau thành một khối thì bài văn sẽ bị phá vỡ. Trong một bài viết thường có nhiều đoạn văn tự thân nó không kết dính được. Chính vì vậy ta phải dùng từ ngữ kết dính , dùng từ ngữ câu đoạn chuyển tiếp.

    Những cách thông dụng dùng câu chuyển tiếp.

    • Cách một: Dùng kết từ hoặc từ ngữ tương đương với kết từ;
    • Cách hai: Cách đặt câu hỏi. Ví dụ: “Ta thấy gì trong xã hội ấy?”;
    • Cách ba: Dùng phép lặp.
  • Cách viết mở bài nghị luận

    1. Văn nghị luận là gì?

    Văn nghị luận là thể loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống hay trong văn học bằng các luận điểm, luận cứ và lập luận.

    Văn nghị luận gồm có nghị luận xã hội và nghị luận văn học:

    • Nghị luận xã hội là phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc làm sáng tỏ cái đúng – sai, tốt – xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào trong đời sống.
      Thông thường sẽ có hai loại chính: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống xã hội. Ngoài ra còn có nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra trong tác phẩm văn học.
    • Nghị luận văn học là dạng văn bản dùng để bày tỏ sự cảm thụ tác phẩm văn học theo suy nghĩ của cá nhân, là những lý lẽ để đánh giá, phân tích, bàn bạc về vấn đề thuộc lĩnh vực văn học để khám phá thế giới nội tâm của tác giả, đồng thời tìm ra những giá trị thuyết phục người khác nghe theo quan điểm, ý kiến cá nhân của mình.

    2. Yêu cầu của đoạn mở bài văn nghị luận

    Phần mở  bài còn gọi là đặt vấn đề, có nhiệm vụ nêu vấn đề giải quyết trong phần thân bài. Do đó mở bài phải đi thẳng vào vấn đề không được đề cập đến bất cứ luận điểm, luận cứ nào ở phần dàn ý chi tiết phần thân bài.

    Mô hình đoạn mở bài gồm có:

    • Dẫn dắt
    • Nêu vấn đề (luận đề)
    • Giới hạn phạm vi vấn đề

    Một mở bài cần đảm bảo:

    • Ngắn gọn: Dẫn dắt vài ba câu ngắn gọn
    • Đầy đủ: Đọc xong mở bài người đọc biết được bài viết bàn vấn đề gì? Trong nội dung tư liệu nào?
    • Độc đáo: Phải gây được sự chú ý của người đọc tới vấn đề mình viết.
    • Tự nhiên: Viết văn cần giản dị tự nhiên.

    Một mở bài tốt cần tránh những ý sau:

    • Tránh vòng vo quá xa mới gắn được vào việc nêu vấn đề.
    • Tránh dẫn dắt không liên quan gì vấn đề sẽ nêu.
    • Tránh nêu vấn đề dài dòng, chi tiết khi viết thân bài lại lặp lại ý.

    3. Cách viết mở bài nghị luận

    Mở bài trực tiếp

    Người viết đi thẳng vào vấn đề cần giải quyết.

    Ví dụ: Phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước”( trích: Trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.

    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
    . . .
    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

    Mở bài mẫu:
    Trong nền văn học Việt Nam cảm hứng về đất nước không bao giờ khô cạn. Cảm hứng ấy càng được biểu hiện thiết tha trong thơ ca viết về cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Có một nhà thơ đã có cái nhìn, cách cảm nhận về quê hương , đất nước rất riêng đó chính là nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm với đoạn thơ tiêu biểu
    “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
    . . .
    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
    (Trích: trường ca Mặt đường khát vọng)

    Mở bài gián tiếp

    Người viết dẫn dắt từ một ý liên quan đến vấn đề sẽ nêu, rồi trình bày vấn đề cần giải quyết.
    Một số cách mở bài gián tiếp thường gặp

    Mở bài gắn với thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cùng một giai đoạn lịch sử

    Ví dụ: Thông qua đoạn một của đoạn trích “Đất Nước” ” trích trong Trường ca “mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, anh chị hãy phân tích cảm hứng riêng về đất nước của nhà thơ.

    Mở bài mẫu:
    Cùng với Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân. . .Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong khói lửa ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Khoa Điềm  gắn bó sâu sắc với vùng Trị -Thiên, đặc biệt với thành phố Huế quê hương ông. Với những tác phẩm như tập thơ “Đất ngoại ô” và nhất là trường ca “Mặt đường khát vọng” , Nguyễn Khoa Điềm được coi là một nhà thơ giàu cảm xúc và chất trí tuệ, biểu hiện tập  trung những suy tư của người thanh niên trí thức nỗ lực đóng góp  vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác vào mùa đông năm 1971 tại chiến trường Trị -Thiên và được in ở miền Bắc vào năm  1974. “Đất Nước” trích gần trọn chương V của trường ca thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc  mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

    Mở bài xuất phát từ một sự kiện lịch sử

    Ví dụ: Phân tích bài thơ “Việt Bắc” để thấy tình nghĩa thủy chung với ngọn nguồn của cách mạng và của dân tộc qua lối hát giao duyên của dân ca.

    Mở bài mẫu:
    Tháng 10-1954, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Từ căn cứ địa cách mạng, Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ trở về Hà Nội. Đáp lại ân tình của đồng bào Việt Bắc đã chở che, đùm bọc cho cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “ Việt Bắc” theo lối hát giao duyên của dân ca để nói lên tình nghĩa thủy chung của nhân dân ta với ngọn nguồn của cách mạng, của dân tộc.

    Mở bài từ những sự kiện quan trọng trong đời sống

    Ví dụ: Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

    Mở bài mẫu:
    Nạn đói khủng khiếp dữ dội năm 1945 hằn in trong tâm trí Kim Lân-Một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người có lòng đi về với “ những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”. Ngay sau cách mạng, ông bắt tay vào viết tiểu thuyết “ Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lặp lại (1954) nỗi trăn trở thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời. Trong lần này  Kim Lân đã thật sự đem đến cho tác phẩm của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo, tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện thành công, khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lí thật bất ngờ.

    Mở bài từ một đề tài quen thuộc.

    Ví dụ : Phân tích bài thơ “Sóng” của nhà thơ Xuân Quỳnh.

    Mở bài mẫu:

    Tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thơ ca. Nhưng không phải vì thế mà nó thành đơn điệu và nhàm chán. Mỗi bài thơ, mỗi nhà thơ là một thế giới riêng, một nhu cầu, một khát khao riêng không ai giống ai. Chẳng thế mà ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn Việt Nam với chất men say tình yêu nồng nàn, mãnh liệt, người tự cho mình là “kẻ uống tình yêu dập cả môi”, ta gặp Nguyễn Bính “người nhà quê” chân chất thật thà. . . và thật bất ngờ khi gặp một nữ sĩ với tâm hồn dạt dào và say đắm trong tình yêu-Xuân Quỳnh. Thơ tình yêu của Xuân Quỳnh chân thành nữ tính nhưng không kém phần cháy bỏng, nồng nàn. Điều đó thể hiện rõ nét trong bài “Sóng”.

  • Đề thi tốt nghiệp Hồn Trương Ba da hàng thịt

    Đề thi tốt nghiệp Hồn Trương Ba da hàng thịt

    Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)

    Đọc đoạn trích sau rồi thực hiện các yêu cầu ở dưới

    Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em

    Sông lượn khúc lượn dòng mà đến biển

    Bờ bãi loi thoi xóm làng ẩn hiện

    Đời sông như đời người trên sông

    Em yêu anh có yêu được như sông

    Sông chẳng theo ai, tự chảy nên dòng

    Sông nhớ biển lao ghềnh vượt thác

    Mang suối nguồn đi đến suốt mênh mông

                         ………..

    Đời sông trôi như đời người trên sông

    Anh tin bến, tin bờ, tin sức mình đến bể

    Tin ánh sáng trên cột buồm, ngọn lửa

    Tin mái chèo cày trên sóng cần lao

    Anh tin em khi đứng mũi chịu sào

    Anh chẳng sợ mọi đá ngầm sóng cả

    Anh yêu sông, yêu tự nguồn đến bể

    Gió về rồi, nào ta kéo buồm lên

    (“Tình yêu-dòng sông”- Vũ Quần Phương)

    Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản. (0,5 điểm)

    Câu 2: Trong bài thơ, tác giả đã bày tỏ niềm băn khoăn: Em yêu anh có yêu được như sông. Vậy nhà thơ đã nêu ra những điểm tương đồng nào giữa dòng sông và tình yêu? (0,5 điểm)

    Câu 3: Nêu thông điệp tình yêu tác giả gửi gắm trong hai câu: Anh yêu sông, yêu tự nguồn đến bể/Gió về rồi, nào ta kéo buồm lên. (1 điểm)

    Câu 4: Thông điệp tình yêu nào trong văn bản có ý nghĩa nhất với anh/chị? (1 điểm)

    Phần II. Làm văn (7,0 điểm)

    Câu 1 (2 điểm): Từ những dòng sông trong hai câu mở đầu của bài thơ Đọc-hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ những suy nghĩ của mình về cách ứng xử của con người trước khó khăn trong cuộc sống: Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em/Sông lượn khúc lượn dòng mà đến biển.

    Câu 2 (5 điểm):

    Đế Thích: Ông Trương Ba… (đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng… Nhưng còn ông… rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?

    Hồn Trương Ba: (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ… (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!

    Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống.

    Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn…

    Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào…

    Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không thể trả được… Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…

    Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.

    Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi. (Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba,da hàng thịt,Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục – 2008, tr.151-152)

    Cảm nhận của anh/chị về nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xétchiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.

    ———Hết——–

    Đáp án đề thi tốt nghiệp Hồn Trương Ba da hàng thịt

    Phần

    Câu/Ý

    Nội dung

    Điểm

    I

     

    Đọc hiểu

    3.0

     

    1

    Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm

    0.5

     

     

    2

    Điểm tương đồng giữa dòng sông và tình yêu:

    – Sông nhớ biển lao ghềnh vượt thác: trong tình yêu hai người luôn mang nỗi nhớ cồn cào, da diết.

    – Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới biển; Đã yêu sông anh chẳng ngại sâu nông: trong tình yêu cả hai người phải trải qua nhiều thử thách khó khăn.

    – Sông chẳng theo ai tự chảy nên dòng: bản lĩnh, ý chí vượt qua mọi khó khăn trong tình yêu.

    0.5

     

     

    3

    Thông điệp tình yêu tác giả gửi gắm trong hai câu: Anh yêu sông, yêu tự nguồn đến bể/Gió về rồi, nào ta kéo buồm lên.

    – Trong tình yêu cần có sự lạc quan, niềm tin.

    – Tình yêu cần sự chân thành, chung thủy.

    -….

    1.0

    0.5

     

    0.5

     

     

    4

    Thông điệp tình yêu nào trong văn bản có ý nghĩa nhất: Học sinh trình bày thông điệp theo quan điểm cá nhân và sau đây là gợi ý:

    – Niềm tin trong tình yêu sẽ đem đến sức mạnh cho những người yêu nhau đến được với nhau.

    – Sức mạnh tình yêu chính là hình ảnh đẹp, tiếp thêm động lực trong cuộc sống cho những người yêu nhau. Vì vậy, con người cần biết trân trọng tình yêu trong cuộc sống.

    1.0

    0.5

     

     

    0.5

     

    II

     

    Làm văn

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    1

    Từ những dòng sông trong hai câu mở đầu của bài thơ Đọc-hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ những suy nghĩ của mình về cách ứng xử của con người trước khó khăn trong cuộc sống: Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em/Sông lượn khúc lượn dòng mà đến biển.

    2.0

    a. Yêu cầu về kĩ năng

    – Biết cách làm đoạn văn nghị luận về một tư tưởng đạo lý

    – Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp

    – Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ. (Nếu HS viết từ 2 đoạn trở lên thì không cho điểm cấu trúc)

    b. Yêu cầu về kiến thức

    – Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cách ứng xử của con người trước những khó khăn của cuộc sống.

    – Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng lí lẽ và dẫn chứng phải hợp lí; cần làm rõ được các ý chính sau:

    * Giải thích

    – Hai câu thơ là những suy nghiệm về hình ảnh dòng sông tự nhiên trong hành trình đến biển. Do đặc điểm địa hình khác nhau ở từng nơi mà dòng sông chảy qua; nên để đến biển thì dòng sông nào cũng phải lượn khúc, lượn dòng. Đó là lí do sông không bao giờ chảy thẳng.

    – Phép nhân hóa Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới bể gợi liên tưởng dòng sông như một con người, dù phải đối mặt với nhiều ngáng trở trên hành trình nhưng vẫn kiên trì mục tiêu, vượt mọi khó khăn để tới đích.

    => Câu thơ đã cho thấy cách con người ứng xử trước những khó khăn trong cuộc sống.

    * Bàn luận

    – Nếu sông chảy thẳng thì khi va phải núi cao, vực sâu…dòng chảy sẽ bị chặn lại, không bao giờ sông có thể tới biển; việc lượn khúc, lượn dòng giúp cho dòng sông có thể vượt qua trở ngại, tiếp tục hành trình tìm đến biển. Cuộc sống của con người cũng vậy: Khát vọng càng lớn thì khó khăn càng nhiều. Để đến đích, mỗi cá nhân không chỉ cần nỗ lực hết mình mà còn cần sự linh hoạt, tỉnh táo, có cách ứng xử phù hợp trong mọi hoàn cảnh

    – Trước những khó khăn, con người cũng cần biết tự lượng sức mình, không đối đầu một cách liều lĩnh.

    – Cuộc đời con người nếu quá hanh thông, suôn sẻ không trải qua những lần vấp ngã thì khi gặp khó khăn rất dễ bị đánh gục.

    – Khó khăn không phải là thứ ngáng trở ta tiến bước mà đó là động lực giúp ta mạnh mẽ hơn, kiên cường hơn để vươn đến thành công.

    * Mở rộng

    – Phê phán những người cứng nhắc, bảo thủ, liều lĩnh hoặc những người dễ nản lòng, thiếu kiên trì trong cuộc sống.

    – Cần phân biệt cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo với sự hèn nhát, thiếu quyết đoán, né tránh khó khăn.

    – Liên hệ bản thân và tổng kết vấn đề

    0.25

     

     

     

     

    0.25

     

    1.0

    c. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

    0,25

    d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. (Sai từ 2 lỗi trở lên sẽ không tính điểm này)

    0,25

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    2

    Cảm nhận của anh/chị về nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích khi đối thoại với Đế Thích. Từ đó, nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.

    5,0

    1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

    Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.              

    (0,25)

    2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích khi đối thoại với Đế Thích; chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.

    (0,25)

    3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể:

    3.1.Mở bài:

    -Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.

     -Đoạn trích khi nhân vật Hồn Trương Ba đối thoại với Đế Thích đã thể hiện chiều sâu triết lí về con người của nhà biên kịch Lưu Quang Vũ.

    3.2.Thân bài:

    a. Khái quát về vở kịch, đoạn trích:

    -Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người.

    – Vị trí, nội dung đoạn trích: thuộc đoạn cuối của cảnh VII

    b. Cảm nhận nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích:

    b.1. Về nội dung:

    – Hoàn cảnh xuất hiện cuộc đối thoại: Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình, bị người thân từ chối. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt, không chấp nhận để Đế Thích cho nhập vào xác cu Tị.

    – Nhân vật hồn Trương Ba phê phán sai lầm của Đế Thích:

    + Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía đã qua, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn.

    + Thần thánh cũng sai lầm, qua lời của Đế Thích: “Việc ông phải chết chỉ là một sai lầm của quan thiên đình. Cái sai ấy đả được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống”. Nghe Đế Thích trần tình như thế, Hồn Trương Ba đã đáp lại: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá và gượng ép chỉ làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác”. Hồn Trương Ba đã lí luận đúng, ngay từ sự việc của Trương Ba. Trương Ba phải chết vì sự sai lầm cùa các thần quan trên thiên đình. Từ sai lầm ấy, và vì tính háo danh, muốn “người trên trời, dưới đất mới biết tới cao cờ như thế nào” nên Đế Thích mới chắp vá và gượng ép” cho hồn Trương Ba nhập vào xác hàng thịt tạo nên nỗi khổ không chỉ cho Trương Ba mà còn với cả những người thân. Cũng vì ích kỉ, háo danh mà Đế Thích quyết phạm một sai lầm khác là cho Hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, nếu Hồn Trương Ba không kịch liệt phản đối;

    – Nhân vật hồn Trương Ba có quan niệm sống đúng đắn: sống là chính mình, sống vị tha, cao thượng, nhân hậu:

    + Dù rất ham sống (“Ông tưởng tôi không ham sống hay sao?”) nhưng Hồn Trương Ba lại quyết định “không muốn nhập vào hình thù ai nữa” vì hơn ai hết ông thấu hiểu nỗi khổ của bản thân mình khi phải nương nhờ vào thân xác của người khác.Ông cũng không muốn những người thân của mình phải khổ, phải liên lụy vì mình.

    + Với quyết định này, Trương Ba đã tự viết nên cái kết có hậu cho cuộc đời mình và cho những người xung quanh. Mặc dù sự sống của Trương Ba đã sắp đi đến hồi kết thúc nhưng Trương Ba đã tìm thấy lại được con người thật của chính bản thân mình: “Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa...”. Không chỉ phục sinh lại những giá trị tốt đẹp của bản thân, Trương Ba còn trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất cả những người thân bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý.

    + Hồn Trương Ba lại phải giải thích rằng cũng ham sống lắm, nhưng sống mà mình không còn là mình, bắt người thân phải khổ vì mình thì đó là cái giá không thể trả được. Và Hồn Trương Ba đã đặt ngược lại vấn đề rồi đi đến kết luận: “Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí tưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc”.

    + Cách giải quyết của Hồn Trương Ba là duy nhất đúng và toàn vẹn nhất dù cách đó có thể khiến Hồn Trương Ba vĩnh viễn rời xa cuộc đời này, thậm chí “cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa”. Vì chỉ khi “chết hẳn”, Hồn Trương Ba mới tìm lại được sự thanh thản, trong sáng; những người thân của Trương Ba cũng sẽ không còn phải khổ vì ông; thằng con của Trương Ba sẽ có cơ hội trở lại con đường ngay thẳng. Cho đến phút cuối cùng, Hồn Trương Ba vẫn rất nhân hậu, vị tha.

    – Khái quát: Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời đại chúng ta đang sống, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách.

    – Về nghệ thuật:

    +Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.

    +Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống kịch.

    + Có chiều sâu triết lý khách quan.

    c. Nhận xét nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.

          -Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.

         – Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho câu hỏi: sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung quanh thì câu hỏi: sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng: một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến một người nông dân chung chung trong truyện cổ dân gian thành một người làm vườn trong tác phẩm của mình. Hình tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của người khác. Ở khía cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.

    3.3.Kết bài:

    Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp nhân vật hồn Trương Ba qua đoạn trích;

    – Nêu cảm nghĩ về quan niệm về lẽ sống đẹp dành cho con người.

    (4.00)

    4. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

    (0,25)

    5. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

    (0,25)

     

     

  • KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

    KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

    Để đạt điểm cao bài nghị luận, học sinh cần có những kĩ năng làm bài nghị luận văn học.

    Xem thêm

    1. Nắm vững kiến thức cơ bản của tác phẩm

    Kiến thức cơ bản của tác phẩm gồm những đơn vị nào?

    1. Xuất xứ

    2. Hoàn cảnh

    • Tìm hiểu hoàn cảnh là một khâu không thể bỏ qua trong quá trình tìm hiểu tác phẩm.
    • Khi tìm hiểu, GV nên gắn với tác phẩm để HS thấy mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tác phẩm ấy. Tránh tình trạng nêu hoàn cảnh một cách ơ hờ, nêu cho có. Để làm được điều này, GV phải chú ý tích hợp với kiến thức lịch sử, xã hội, đặc biệt là kiến thức văn học sử.

    Ví dụ: Khi học Chiếc thuyền ngoài xa, GV phải cho HS thấy được tác phẩm ra đời những năm 80, đất nước trở lại hòa bình, cuộc sống xã hội có nhiều thay đổi nên văn học cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ từ đề tài, cảm hứng, nhận thức hiện thực, quan niệm con người…Tác phẩm là minh chứng đầy nghệ thuật cho cuộc chuyển mình đó của văn học.

    3. Chủ đề

    • Chủ đề là vấn đề cơ bản được đặt ra qua hình tượng
    • Cho HS hiểu được chủ đề chính là hiểu được tư tưởng của tác phẩm đó. Tuy nhiên, xác định chủ đề không dễ. HS thường ỷ lại vào phần ghi nhớ, nhớ một cách máy móc, nô lệ. Do đó, GV phải hướng dẫn để HS nắm được chủ đề.
    • Cách xác định chủ đề: Hướng dẫn HS trả lời câu hỏi (Với truyện: Truyện kể về cái gì và đằng sau câu chuyện ấy, nhà văn muốn nói điều gì ?; với thơ: Cảm xúc chủ đạo của bài thơ?).

    4. Đặc sắc nghệ thuật: Tích hợp với kiến thức Lý luận văn học lớp 11 (Thể loại văn học – SGK cơ bản; Đọc thơ – SGK nâng cao), GV trang bị cho HS các yếu tố nghệ thuật của một tác phẩm văn xuôi tự sự thường bao gồm: cách xây dựng cốt truyện, tình huống, cách khắc họa tính cách và tâm lý nhân vật, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ…; Các yếu tố nghệ thuật của thơ gồm: thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu…HS lấy đó làm căn cứ để xác định nghệ thuật từng tác phẩm.

    5. Dẫn chứng: GV hướng dẫn HS cách nhớ và cách sử dụng dẫn chứng: chỉ những dẫn chứng nào cần phân tích cả câu mới phải thuộc câu, còn lại chỉ cần nhớ một số từ khoá để việc học đỡ nặng nề và việc viết được linh hoạt.

    Vì sao phải nắm kiến thức cơ bản

    • Về lý luận: đặt vấn đề nghị luận trong tổng thể tác phẩm, tránh tình trạng thấy cây mà chẳng thấy rừng; là bột để gột nên hồ – bài văn
    • Về thực tế:

    + đảm bảo yêu cầu của một bài làm văn (phần giới thiệu VĐ, đáp án đề thi phần này thường cho 0,5 điểm; phục vụ đắc lực cho phần triển khai và trả lời câu hỏi phân hoá theo dạng đề 2021).

    + Nắm được giá trị tác phẩm, nhớ được dẫn chứng là yếu tố tiên quyết để việc viết có tâm thế chủ động, diễn đạt sinh động, ấn tượng.

    Ví dụ: Khi giới thiệu về  cuộc nhân duyên kì lạ của nhân vật Tràng, nếu chỉ nắm sơ sơ, ta dễ dàng viết như sau:  Tràng gặp người vợ nhặt rất tình cờ, chóng vánh.

    Nhưng nếu nắm vững, nhớ cả dẫn chứng, ta có thể viết như sau: Chuyện nhân duyên của Tràng với người vợ nhặt thật chóng vánh, tình cờ: hai lần gặp gỡ, mấy câu tầm phơ tầm phào4 bát bánh đúc mà nên vợ thành chồng.

    Rõ ràng, cùng một thông tin nhưng hai cách viết khác hẳn nhau về hiệu quả, đó là kết quả của việc nắm TP vững vàng. Chuyện tưởng xưa nhưng không bao giờ cũ !

    2. Nắm vững kiến thức LLVH

    a. Vai trò:  LLVH là khoa học về VH. Do đó, nắm vững mảng KT này, không chỉ giúp các em Đọc hiểu TP mà còn làm cho việc tạo lập VB có hiệu quả: có tính khoa học, có sự chững chạc, có tầm nhất định.

    b. Vốn liếng đã được trao:  LLVH đã được trang bị tương đối đầy đủ trong CTTHPT

    • Lớp 10: Văn bản văn học (Đặc trưng VH); Nhà văn và quá trình sáng tạo;
    • Lớp 11: Đặc trưng các thể loại VH (Thơ, truyện – Tập 1; Kịch, kí, VNL – Tập 2)
    • Lớp 12: Các giá trị VH; Tiếp nhận VH; Phong cách VH.

    c. Cách học

    – Nắm những vấn đề hết sức cơ bản

    Ví dụ:

    • Đặc trưng VH, chỉ cần hiểu: VH phản ánh con người và đời sống trong sự đa dạng, phong phú, phức tạp; VH lấy hình tượng làm phương thức phản ánh, lấy ngôn ngữ làm phương tiện; lấy việc thể hiện tư tưởng, tình cảm của người viết làm mục đích. Hình tượng và ngôn ngữ VH bao giờ cũng đa nghĩa đa tầng. Đó là cơ sở để khi phân tích ngôn ngữ, hình tượng, bao giờ cũng chú ý nghĩa biểu tượng thì  bài mới có độ sâu.
    • Thể loại VH: Thơ (tình cảm cảm xúc; ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ..); Truyện (cốt truyện, nhân vật là linh hồn, chi tiết là hạt bụi vàng, ngôn ngữ, điểm nhìn trần thuật, ngôi kể, giọng điệu…)

    Mỗi vấn đề LLVH, nên có một vài ý kiến minh hoạ để vận dụng vào bài viết

    VD: Về Phong cách VH, có thể lấy câu thơ Lê Đạt, ý kiến của Macel Prouxt ngay trong SGK…

    3. Biết được thang điểm cho từng phần của bài thi

    a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: mở bài giới thiệu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề. 0,25
    b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,5
    c. Triển khai vấn đề nghị luận: HS vận dụng hợp lí các thao tác lập luận để triển khai và đánh giá vấn đề.  
    *Giới thiệu khái quát tác giả,  tác phẩm,  đoạn trích… 0,25
    *Cảm nhận/phân tích 2,75
    * Nhận xét /nêu/so sánh/liên hệ… 0,5
    d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo đúng chính tả, ngữ pháp và ngữ nghĩa tiếng Việt. 0,25
    e. Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. 0,5

    4. Cách làm bài nghị luận văn học

    Cách mở bài nghị luận văn học

    Nguyên tắc: ngắn gọn, đầy đủ

    • Ngắn gọn: nên dừng ở mức 3- 5 câu
    • Đầy đủ: Dạng đề như đề tham khảo năm nay, có hai yêu cầu. Khi mở bài, cần giới thiệu cả 2 yêu cầu. Nếu chỉ chú ý vào yêu cầu 1 (cơ bản) mà phớt lờ yêu cầu 2(phân hoá) là thiếu, MB chưa đạt, ảnh hưởng yêu cầu 1 trong thang điểm.
    • Các yếu tố tác giả, tác phẩm, nội dung nghị luận cần giới thiệu ở MB phải hiểu đó là các đơn vị KT cần đảm bảo. Tuyệt nhiên không phải là trình tự cần tuân theo. Hiểu điều này, MB ít nhất sẽ tránh được mòn sáo: Tô Hoài là…; Nguyễn Tuân là …; Tố Hữu là…

    Cách thức: Có rất nhiều cách MB. Xin giới thiệu với các em hai cách dễ vận dụng. Và chú ý là nên bắt đầu từ nội dung NL.

    + MB bằng tương liên: Nêu một ý/hình ảnh giống như vấn đề cần NL rồi bắt vào vấn đề đó. Cách MB này có ưu thế là có hình ảnh, dễ gây ấn tượng nhưng đòi hỏi người viết cần sẵn sàng sức liên tưởng.

    VD: MB cho đề Phân tích chi tiết tiếng sáo trong VCAP (Tô Hoài). Nhận xét/nêu vai trò chi tiết trong tác phẩm tự sự.

    Có thể MB như sau:

    Một sợi tóc, một lóng móng tay, khoa học có thể xác định quan hệ huyết thống để ta thấy được sự bền vững của giống dòng và sự thiêng liêng nguồn cội; áp vỏ ốc biển vào tai, ta có thể nghe cả đại dương sóng vỗ. Mới hay, cái nhỏ bé ở đời nhiều khi lại chứa bao điều to lớn. Chi tiết trong TP tự sự cũng vậy. Đến với chi tiết tiếng sáo trong VCAP của TH, ta sẽ có dịp hiểu thêm về chi tiết và vai trò của nó.

    +MB bằng đối lập: Nêu một ý trái ngược với nội dung NL cần bàn rồi bắt vào vấn đề NL.

    VD: MB cho đề trên, có thể viết như sau:

     Người ta hay bị choáng ngợp bởi những thiên sử thi đồ sộ mấy nghìn trang, mấy trăm nhân vật. Người ta cũng dễ bị hấp dẫn bởi những hình tượng chói loà, kì vĩ mang vóc tầm vũ trụ. Còn tôi, đọc truyện, tôi lại hay bị ấn tượng bởi những chi tiết bé nhỏ như mảy “bụi vàng” mà góp phần không nhỏ làm nên “bông hồng vàng” tác phẩm (Pauxtopxki). Tôi muốn nói đến một chi tiết như thế. Chi tiết tiếng sáo trong VCAP của Tô Hoài.

    Hai cách MB nêu trên cũng chính là vận dụng LLVH về đặc trưng thể loại tự sự, đó là chi tiết và vai trò của nó.

    Cách viết thân bài nghị luận văn học

    Cách gọi ý/luận điểm

    • Ý phải rõ ràng, chính xác, sát hợp với vấn đề NL. Đó là thước đo của tư duy người viết, phẩm chất khoa học của bài viết.

    Ví dụ: Gọi ý cho đề Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong buổi tối đầu tiên gặp người vợ nhặt.

    Muốn gọi cho chính xác, cần thầm trả lời câu hỏi: nv là người như thế nào, ta sẽ có 2 ý như sau: (1). Nhân vật bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ

    Và (2).Nhân vật bà cụ Tứ là người nhân hậu.

    • Nên gọi ý một cách ngắn gọn.
    • Khi chuyển ý, nên chú ý tính kết dính để tránh rời rạc, văn không có mạch.
    • Tuyệt đối không đi theo mạch truyện, vì: bài viết thành bài kể lể; chứng tỏ không có khả năng khái quát ý, không hiểu đề.

    Cách vận dụng LLVH

    Vận dụng LLVH vào gọi ý/luận điểm.

    Để làm được điều này, cần phải nhận ra rất nhanh ý đó/ vấn đề đó liên quan đến vân đề gì của LLVH thì sự vận dụng mới hợp lí.

    Ví dụ

    • Ý (1). Nhân vật bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ  là hình ảnh rất chân thực. Do đó, có thể vận dụng LLVH về đối tượng phản ánh/mối quan hệ giữa VH và đời sống để gọi ý (1) như sau: Văn chương bắt nguồn từ đời sống nên văn chương trước hết phải chân thật. Nhân vật bà cụ Tứ là hình ảnh chân thật về người mẹ khổ nghèo.
    • Ý (2) Nhân vật bà cụ Tứ là người nhân hậu. Nhân hậu là phẩm chất, là vẻ đẹp. Do đó, có thể vận dụng LLVH về đối tượng phản ánh để gọi ý như sau: Lấy con người làm đối tượng phản ánh nhưng con người trong văn chương được khám phá ở chiều sâu thẩm mĩ, do đó, nó không chỉ chân thật mà còn phải đẹp. Nhân vật bà cụ Tứ trong VN của KL tuy nghèo khổ mà đẹp vô cùng ở một lòng nhân hậu.

    Vận dụng LLVH vào chốt ý.

    Muốn làm được điều này, việc phân tích cần kĩ lưỡng, sâu sắc. Cần hơn nữa là việc phân tích cần khoa học: có phân tích, có tổng hợp, nâng cao (Bài Phép phân tích và tổng hợp đã học ở lớp 9). Khi nâng cao, khái quát, chính là lúc chạm đến được LLVH.

    Ví dụ: Phân tích đoạn thơ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời/Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Sau khi phân tích các yếu tố ngôn từ, hình ảnh, nhịp thơ, biện pháp nghệ thuật, có thể khái quát như sau: Đoạn thơ giàu chất nhạc; giàu chất hoạ khiến người đọc không chỉ như  “ngậm nhạc ở trong miệng” (Xuân Diệu) mà còn như được thưởng tranh. Đoạn thơ quả là minh chứng sinh động cho mối duyên thơ – nhạc – hoạ. Đoạn thơ cũng là một nhịp cầu cho ta đến với một Quang Dũng tài hoa, lãng mạn bởi “người thơ phong vận như thơ ấy”

    Hai câu cuối chính là vận dụng LLVH về đặc trưng thơ, về phong cách NT để chốt, nâng cao, đánh giá. Những đoạn chốt đó giúp cho bài viết từ cây mà thấy được rừng, tránh vụn vặt, miên man.

    Cách sử dụng dẫn chứng mở rộng

    • Mục đích
      • Thể hiện phông kiến thức;
      • Thể hiện khả năng huy động kiến thức;
      • Giúp cho việc phân tích thấu đáo
      • Giúp cho người chấm có thiện cảm.
    • Nguyên tắc: hợp lí (đối tượng; mức độ: không nên lạm dụng)
    • Cách huy động: luôn có ý thức liên hệ = cách trả lời câu hỏi, viết về vấn đề này, ai đã viết? viết như thế nào?
    • Nguồn huy động: không cần phải tìm tòi ở đâu xa, tìm  ngay các tác phẩm cùng chương trình.

    Ví dụ: Phân tích câu thơ Mưa nguôn suối lũ những mây cùng mù trong VB có thể liên hệ với Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa trong TT; Phân tích dáng sông Đà như áng tóc trữ tình có thể liên hệ với dáng sông Hương mềm như tấm lụa; Phân tích nỗi khổ của người đàn bà hàng chài trong CTNX, có thể liên hệ với nỗi khổ của Mị, của nv vợ nhặt…

    Hoặc xa hơn, có thể liên hệ với những TP cùng đề tài. VD: Phân tích vẻ đẹp thuỷ chung của người con gái trong Sóng, liên hệ với ca dao về lòng chung thuỷ, với chính thơ XQ.

    • Cách sử dụng: Dù liên hệ để thây điểm chung hay nét riêng, luôn cần những khái quát để bài có chiều sâu.

    + Liên hệ để thấy điểm tương đồng

    Ví dụ: Khi phân tích điệu chảy của sông Hương khi ngang qua thành phố, điệu chảy chậm như mặt hồ yên tĩnh, như điệu slow tình cảm, có thể liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay;  với thơ Tố Hữu Hương giang ơi, dòng sông êm; với thơ Thu Bồn Con sông dùng dằng, con sông không chảy. Từ đó, có thể kết lại như sau: Không hẹn mà gặp, các nhà thơ đều có chung cảm nhận về điệu chảy dịu dàng của dòng  sông xứ Huế. Có phải đó cũng là vẻ đẹp riêng, góp phần làm nên sức quyến rũ của xứ mộng và thơ? Và có phải cái đẹp muôn đời là nơi hẹn hò của nghệ thuật?

    + Liên hệ để thấy điểm khác biệt

    Ví dụ: Phân tích hai câu thơ Em cũng không biết nữa/Khi nào ta yêu nhau, có thể liên hệ với câu thơ của Xuân Diệu Làm sao cắt nghĩa được tình yêu. Từ đó thấy rõ sự khác biệt: XD cắt nghĩa bằng lí trí, XQ nói bằng trực cảm nên thơ XQ là lời tự bạch hồn nhiên, chân thành, tươi tắn mà vẫn không kém phần sâu xa, ý nhị. Đó cũng là nét riêng thơ XQ vậy!

    • Về dung lượng: không cần quá dài: khoảng ¼ trang giấy thi.
    • Về cách trả lời

    + Nếu hỏi về liên hệ để thấy điểm chung, nét riêng: nên giới thiệu ngắn gọn đối tượng liên hệ, chỉ ra điểm chung, nét riêng và ý nghĩa.

    + Nếu hỏi về /nhận xét về một phương diện nào đó (tác phẩm, tác giả): nêu biểu hiện và nêu ý nghĩa.

    • Thay đổi từ linh hoạt, tránh lặp từ, tuyệt đối không dùng từ như văn nói (rằng, thì, là, mà, các thứ, con người ta); các từ rất mòn sáo (trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tóm lại, ở đây có thể hiểu là…)
    • Viết câu linh hoạt về dung lượng, về kiểu câu. 

    Muốn vậy: ngôn ngữ phải phong phú, tác phẩm phải nắm vững và sâu.  

  • Kĩ năng làm bài đọc hiểu Ngữ Văn

    Sau khi đã biết cách làm bài đọc hiểu Ngữ Văn trong đề thi tốt nghiệp thì các em học sinh cần có Kĩ năng làm bài đọc hiểu Ngữ Văn để đạt điểm tối đa.

    Câu hỏi đọc hiểu Ngữ Văn mức độ nhận biết

    • Đối với câu hỏi kiểm tra năng lực nhận biết về hình thức của văn bản: Nắm chắc kiến thức cơ bản liên quan đến hình thức văn bản; gọi tên chính xác đơn vị kiến thức ấy. Ví dụ: Phương thức biểu đạt; thể thơ…
    • Đối với câu hỏi kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin văn bản:
    • Ví dụ:

    Đề thi TN 2021, Đợt 1

    Câu 1. Theo đoạn trích, sự ra đời của một dòng sông diễn ra như thế nào?
    Câu 2. Trong đoạn trích, món quà cuối cùng nước dành tặng cho loài người trước khi hòa vào biển cả là gì?

    Đề thi TN 2021, Đợt 2
    Câu 1. Theo đoạn trích, mục đích của việc chăm sóc và giữ gìn hành tinh này là gì?
    Câu 2. Chỉ ra những điều cần gũi, trong việc đơn giản nên làm để bắt đầu xây dựng mái nhà chung được nêu trong đoạn trích.

    👉Đọc kĩ văn bản, xác định vị trí câu có chứa yêu cầu cần hỏi trong văn bản. Tìm các thông tin có liên quan đến yêu cầu hỏi trong văn bản làm căn cứ trả lời.
    Cách làm đơn giản nhất là là trích dẫn trực tiếp thông tin có trong ngữ liệu đó vì khi diễn đạt lại sẽ rất dễ bị sai ý hoặc thiếu sót.

    Câu hỏi đọc hiểu Ngữ Văn mức độ thông hiểu

    Câu hỏiCách trả lời
    Nêu hiệu quả sử dụng biện pháp tu từ…– Gọi tên, chỉ rõ biện pháp; – Nêu hiệu quả về mặt nội dung, nghệ thuật + Nhấn mạnh/ làm nổi bật điều gì? + Bộc lộ cảm xúc gì? + Tạo hiệu quả gì về hình thức: hình ảnh/ nhịp điệu/ liên kết…?
    Việc trính dẫn câu nói của…/ việc đưa các con số…có tác dụng gì? VD: Việc tác giả trích dẫn ý kiến của Gail Sheehy có tác dụng gì? (Đề minh họa 2019)Chỉ ra tác dụng về nội dung, nghệ thuật, về hiệu quả thuyết phục: + Làm nổi bật được vấn đề/ chủ đề chính …..của đoạn trích. + Làm cho đoạn văn sinh động, hấp dẫn. + Tăng thuyết phục được người nghe/ người đọc.
    Những dòng thơ/ dòng văn sau giúp anh/chị hiểu gì về …? (Hiểu nội dung phản ánh của một câu văn/đoạn văn, câu thơ/ đoạn thơ) VD: Câu 3- Đề thi tốt nghiệp THPT 2021Diễn giải nội dung phản ánh của các câu văn/đoạn văn (câu thơ/ đoạn thơ), trả lời theo ý hỏi của đề.  
    Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ….?  VD: Anh/Chị hiểu như thế nào về nhận định “Thật ra, bạn vẫn luôn ở nhà mình cả khi bạn đang đang ở bất kỳ vị trí nào trên hành tinh này” trong đoạn trích? (Đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2021, đợt 2)– Đặt ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ trong ngữ cảnh, cắt nghĩa từ ngữ quan trọng; – Diễn giải nội dung ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ; – Tác giả muốn nói điều gì qua ý kiến/câu văn/ câu thơ/ hình ảnh thơ đó? 
    Hình ảnh thơ/ câu thơ/ câu văn/ ý kiến …có ý nghĩa gì?  VD: Theo anh/chị, hình ảnh “đôi mắt” có ý nghĩa gì trong đoạn thơ? (Đọc hiểu “Đôi mắt người Sơn Tây”)Cần trả lời cho câu hỏi: – Hình ảnh thơ/ câu thơ/ câu văn/ ý kiến… đó nói/gợi về cái gì? – Tác động đến nhận thức, tình cảm, thái độ của người đọc như thế nào?
    Theo anh/chị, vì sao…? Bằng hiểu biết/trải nghiệm của bản thân hãy  Dựa vào hiểu biết, trải nghiệm của bản thân để trả lời yêu cầu hỏi.
    Nêu khái quát nội dung của đoạn thơ/ đoạn trích (Nêu nội dung chính của đoạn thơ/ đoạn trích).Trả lời cho các câu hỏi: Đoạn thơ/ đoạn trích nói về điều gì/ thể hiện cảm xúc, thái độ gì của tác giả? Tác giả nói thế để làm gì? (mục đích).   (dựa vào câu mở bài/câu kết bài/ ở cụm từ lặp lại nhiều lần…=> khái quát lên nội dung)
    Nhân vật…hiện lên như thế nào? Cần chú ý đến tên tuổi, nghề nghiệp, ngoại hình, tính cách, tâm trạng của nhân vật.
    Chi tiết … có ý nghĩa gì?Trả lời các câu hỏi: – Chi tiết làm nổi bật điều gì về nhân vật, về chủ đề tác phẩm? – Chi tiết đó có góp phần thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả?

    Câu hỏi đọc hiểu Ngữ Văn mức độ vận dụng

    Câu hỏiCách trả lời
    Anh/chị có đồng ý với ý kiến…? Vì sao?  Nêu rõ đồng tình hay không đồng tình và lí giải vì sao? – Nếu đồng tình => Lí giải theo hướng nêu ý nghĩa của quan điểm đó. – Nếu không đồng tình => Lí giải theo hướng phản biện lại quan điểm đó. – Nếu vừa đồng tình, vừa không đồng tình => Kết hợp cả hai để lí giải. 
       Rút ra bài học/thông điệp có ý nghĩa nhất. – Nêu ngắn gọn bài học/ thông điệp trong một câu. – Lí giải: Đưa ra 2-3 lí lẽ về ý nghĩa của thông điệp/bài học đó
     Từ…trong đoạn trích, rút ra những bài học. VD: câu 4- Đề tốt nghiệp THPT 2021 – Chỉ ra đặc điểm của…trong đoạn trích; – Rút ra các bài học.
     Nhận xét về tình cảm của tác giả với được thể hiện trong đoạn trích. VD: câu 4- Đề tham khảo 2021– Tác giả thể hiện tình cảm gì? – Tình cảm đó được thể hiện như thế nào?
    Câu thơ/đoạn thơ….gợi cho anh chị những suy nghĩ gì? VD: Hành trình theo đuổi khát vọng của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì? (Đề thi TN THPT 2019)Cần trả lời theo các câu hỏi: – Điều được nói tới trong câu thơ/câu văn là gì? – Đó có phải là hiện tượng đang diễn ra trong cuộc sống hay không? – Điều đó tác động đến nhận thức, tình cảm, hành động của cá nhân mình ra sao?
     Đưa ra những giải pháp/ hành động cụ thể của anh/chị để Cần đưa ra những hành động/ giải pháp cụ thể, có tính khả thi.
  • Cách làm bài đọc hiểu Ngữ Văn 12

    Bài đọc hiểu Ngữ Văn 12 là gì?

    Phần Đọc- hiểu thường hướng đến kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản. Năng lực đó được cụ thể hóa ở các mức độ: Nhận biết đúng, chính xác về văn bản; thông hiểu văn bản; vận dụng.

    Ngữ liệu đọc hiểu là một đoạn trích hoặc một văn bản không có trong Sgk Ngữ văn.

    • Độ dài: vừa phải (khoảng 150 – 300 chữ).
    • Đề tài: rất đa dạng, phong phú.
    • Kiểu loại văn bản: văn bản văn học, văn bản nhật dụng/văn bản thông tin.
    • Độ phức tạp (độ khó) tương đương với các văn bản HS đã được học trong chương trình lớp 12.

    Số điểm dành cho phần Đọc – hiểu là 3,0 điểm, với 4 câu hỏi. Cấu trúc đề thường có 02 câu nhận biết (1,0 -1,5 điểm), 01câu thông hiểu (1,0 điểm), 01câu vận dụng (0,5 – 1,0 điểm).

    Một số dạng câu hỏi đọc hiểu Ngữ văn thi TN

      Nhận biếtThông hiểuVận dụng
    Nhận diện thể loại/ phương thức biểu đạt/ phong cách ngôn ngữ của văn bản/đoạn trích; – Chỉ ra chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ/ thông tin,… nổi bật trong văn bản/ đoạn trích; (Với thơ: Xác định nhân vật trữ tình, cấu trúc…; Với truyện: nhân vật, cốt truyện, tình huống truyện…, Với kịch: Xác định kiểu loại nhân vật/tuyến nhân vật…) – Chỉ ra cách thức liên kết của văn bản/ đoạn trích.  – Khái quát chủ đề/ nội dung chính/ vấn đề chính mà văn bản/ đoạn trích đề cập; – Nêu cách hiểu về một hoặc một số câu văn trong văn bản/ đoạn trích; – Hiểu được quan điểm/ tư tưởng/tình cảm của tác giả; – Hiểu được ý nghĩa/ tác dụng/ hiệu quả của việc sử dụng thể loại/ phương thức biểu đạt/ từ ngữ/ chi tiết/ hình ảnh/ biện pháp tu từ,… trong văn bản/ đoạn trích; – Hiểu được một số nét đặc sắc về nghệ thuật theo đặc trưng thể loại (thơ/ truyện/ kịch/ kí…) hoặc một số nét đặc sắc về nội dung của văn bản/ đoạn trích. (Ví dụ: Với truyện: đặc điểm của nhân vật, cốt truyện, tình huống; với kịch: đặc điểm ngôn ngữ kịch, hành động kịch, xung đột kịch…)    – Nhận xét/ đánh giá về tư tưởng/ quan điểm/ tình cảm/ thái độ của tác giả thể hiện trong văn bản/ đoạn trích… – Nhận xét về một giá trị nội dung/ nghệ thuật của văn bản/đoạn trích; – Thể hiện quan điểm (đồng tình/phản đối) với một ý kiến được đề ra trong VB. – Rút ra bài học về tư tưởng/ nhận thức; – Rút ra thông điệp cho bản thân.  

    Những lỗi cần tránh khi làm bài đọc hiểu

    Không nắm chắc kiến thức:

    • Không phân biệt được các khái niệm phương thức biểu đạt, thao tác lập luận với phong cách ngôn ngữ….
    • Không nhận diện được biện pháp tu từ, không biết cách nêu hiệu quả của phép tu từ.
    • Không xác định được đề tài, chủ đề, phương thức trần thuật, nhân vật trữ tình… trong văn bản…

    Thiếu kĩ năng làm bài

    • Trả lời dài dòng, không đúng trọng tâm khiến câu trả lời vừa thiếu, vừa thừa, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian làm các phần còn lại của bài thi.
      Ví dụ: Anh/Chị có suy nghĩ gì về việc người học tự“đặt ra các câu hỏi”để khám phá tri thức mới? (Đề Khảo sát chất lượng kì I, năm học 2021-2022, Sở GD và ĐT Nam Định)
      HS trả lời: Theo em việc người học tự “đặt ra các câu hỏi” để khám phá tri thức mới là hoàn toàn đúng. Khi gặp những sự việc lần đầu tiên với họ chưa có kinh nghiệm thì việc đầu tiên họ nghĩ tới là đặt câu hỏi. Từ đó, dẫn đến trả lời câu hỏi, tháo gỡ thắc mắc, vấn đề càng ngày càng được giải quyết. Bản thân họ cùng có thêm tri thức mới, kinh nghiệm khi họ mới trải qua sự việc này. Và họ sẵn sàng hơn cho những lần sau. Nếu họ vẫn chưa biết cách giải quyết, hay tò mò về điều gì. Cách tốt nhất là “đặt ra các câu hỏi”.
    • Trả lời không đủ ý.
      Ví dụ: Những câu văn sau giúp anh/chị hiểu gì về dòng chảy của nước và cuộc sống của con người?Một ông lão băng qua cây cầu, một cô gái trẻ trên chiếc xe đạp điện, một đôi tình nhân ngồi ngắm sông trôi. Cứ mãi chầm chậm và cứ mãi xanh, dòng sông tận mắt chứng kiến lũ trẻ chơi đùa trong khu vui chơi giải trí công viên hai bên bờ và người cha cùng cậu con nhỏ đang chơi bắt bóng. (Đề Tốt nghiệp THPT 2021)
      HS trả lời:
      • HS1: Dòng nước cũng như con người sống cùng những kỉ niệm cho tới khi đổ ra biển hay chết đi.
      • HS2: Dòng chảy của nước nó là một hình thể giống như con người biết quan sát những sự vật hiện tượng của con người.
    • Trả lời không bám sát vào văn bản.
      Ví dụ 1: vẫn câu hỏi trên (Đề thi Tốt nghiệp THPT 2021)
      HS trả lời: Dòng chảy của nước và cuộc sống của con người đều trôi đi và không thể quay lại. Dù cuộc sống của con người có thay đổi như thế nào thì dòng chảy vẫn vậy.
    • Bỏ sót câu, ý.

    CÁCH LÀM TỐT PHẦN ĐỌC HIỂU

    Nắm chắc kiến thức cơ bản:

    • Nắm chắc những kiến thức cơ bản về Tiếng Việt, Làm văn, Văn học;
    • Kiến thức đời sống.

    Rèn kĩ năng trả lời Đọc hiểu

    • Phân bố thời gian làm bài hợp lí (khoảng 15-20 phút);
    • Đọc kĩ đề: Đọc văn bản và câu hỏi; gạch chân dưới các từ ngữ quan trọng;
    • Trả lời từng câu một cách ngắn gọn, rõ ràng, đúng trọng tâm (chia thành các ý); có kĩ năng trả lời từng dạng câu hỏi;
    • Kiểm tra lại bài làm.

    Mời thầy cô và các em xem thêm Kĩ năng làm bài đọc hiểu Ngữ Văn để đạt điểm tối đa.

  • Đề minh họa thi TN THPT 2022 môn Văn file word và lời giải chi tiết

    Đề minh họa thi TN THPT 2022 môn Văn file word và lời giải chi tiết

    Đề thi và hướng dẫn giải file Word mời thầy cô và các em học sinh tải tại đây

    Mời các bạn xem thêm đề minh họa thi TN THPT 2022 các môn tại đây BGD công bố đề tham khảo thi tốt nghiệp THPT 2022

    I. ĐỌC HIỂU:

    Mời các em xem thêm Cách làm bài đọc hiểu Ngữ Văn 12 và Kĩ năng làm bài đọc hiểu Ngữ Văn để đạt điểm tối đa.

    Câu 1: 

    Thể thơ tự do.

    Câu 2:

    Để lại: Bãi mới của sông xanh ngát Đất đai lấn dần ra biển Tâm hồn đằm thắm phù sa/ dâng yêu thương đỏ rực đôi bờ.

    Câu 3:

    Câu thơ trên thể hiện những vai trò của sông Hồng: 

    • Sông Hồng làm nên giá trị văn hoá, văn học, làm nên đời sống tinh thần, vật chất cho con người.
    • Sông hồng làm nên lịch sử dân tộc.

    Câu 4:

    Câu trên có thể hiểu: Sông Hồng của ngày hôm nay mang trong mình cả máu, nước mắt của dân tộc trong những năm oằn mình chiến đấu với giặc. Nhưng sông Hồng của là niềm vui chiến thắng.

    II. LÀM VĂN

    Câu 1: 

    1. Giới thiệu chung: Sự cần thiết trân trọng giá trị văn hoá dân tộc

    2. Giải thích: Văn hoá dân tộc là những giá trị tốt đẹp, ý nghĩa về vật chất, tinh thần tồn tại qua hàng nghìn năm. Nét văn hoá ấy làm nên chất riêng, bản sắc riêng của con người Việt.

    👉Giữ gìn, trân trọng giá trị văn hoá dân tộc là điều vô cùng quan trọng đối với mỗi con người.

    3. Bàn luận:

    * Vì sao cần phải trân trọng giá trị văn hoá dân tộc? 

    • Biểu hiện của lòng yêu đất nước. 
    • Bảo vệ giá trị văn hóa là bảo vệ nền tảng tinh thần của dân tộc. 
    • Những giá trị văn hoá dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết, nối kết các thế hệ. 

    * Cần làm gì bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc? 

    • Nhà nước có chính sách bảo vệ những giá trị văn hoá.
    • Mỗi cá nhân cần ý thức được ý nghĩa của những giá trị văn hoá, từ đó bảo vệ, trân trọng những giá trị đó.

    * Mở rộng: 

    • Phê phán những kẻ phá hoại những nét đẹp của văn hoá dân tộc.
    • Cần học tập để hiểu rõ giá trị văn hóa dân tộc.
    • Tuyên truyền, tham gia giữ gìn, bảo vệ giá trị văn hóa.

    4. Tổng kết.

    Câu 2:

    Mời bạn đọc tham khảo Bộ đề thi thử Văn tác phẩm Vợ Nhặt

    1. Mở bài:

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: 

    • Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.
    • Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tình thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.

    – Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, từ đó bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong tác phẩm.

    2. Thân bài

    1) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích.

    a) Giới thiệu nhân vật 

    • Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, cơ cực, phải tha phương cầu thực, trở thành dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định kiến của xã hội. Chồng bà đã mất từ sớm, nhà chỉ còn mẹ góa con côi nuôi nhau đắp đổi qua ngày.
    • Cả đời bà lão long đong, lận đận, đến lúc gần đất xa trời mà vẫn không có tiền để thực hiện được ước mơ lớn nhất là lấy vợ cho con. Và giữa lúc đói kém, vào tâm điểm nạn đói năm 1945, người chết như ngả rạ khắp nơi, anh con trai lại lấy được vợ, đúng hơn là “nhặt vợ”.
    • Vì quá bất ngờ nên bà lão hết sức ngạc nhiên, đến mức không dám tin vào những gì mình nhìn thấy và nghe thấy. Mãi rồi cuối cùng bà lão cũng hiểu ra “cơ sự”. Đó là tình huống để bắt đầu những dòng cảm xúc của bà cụ Tứ trong đoạn trích.

    b) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích

    * Đoạn 1: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”

    👉Phản ứng đầu tiên của bà cụ Tứ sau khi nghe lời giới thiệu của con trai về người đàn bà lạ “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”, khi hiểu ra sự tình là “cúi đầu nín lặng”. 

    – “Bà lão hiểu rồi”: Phải sau rất nhiều sự kiện, đến tận lúc này, khi anh con trai phải nói một cách tường minh thì bà cụ Tứ mới hiểu. Một người phụ nữ trải đời, một người mẹ lẽ thường sẽ rất nhạy cảm với chuyện hệ trọng cả đời của đứa con trai độc nhất, thế mà mãi đến bây giờ mới hiểu ra sự tình. Vô lí nhưng lại hợp lí bởi bà không thể tưởng tượng con trai bà có thể lấy vợ dễ dàng đến thế.

    – Cái cử chỉ cúi đầu cho thấy sự nặng trĩu trong tâm tư khi bà không chỉ hiểu ra sự tình- rằng người đàn bà lạ đứng ở đầu giường thằng con trai bà và chào bà bằng u kia chính là “vợ nhặt” theo không về làm con dâu của bà, mà bà còn “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự” bằng những trải nghiệm của cả một cuộc đời nghèo khổ dằng dặc. Cho nên lẽ ra phải mừng rỡ thì bà cúi đầu, thứ ngỡ là hạnh phúc với bà lại trở thành gánh nặng. Niềm vui không thể cất cánh bởi nỗi lo áo cơm ghì sát đất.

    – Bà nín lặng vì không biết phải nói gì khi trong bà đang thức dậy bao nhiêu cảm xúc hỗn độn “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. 

    + Bà thấy tủi cho con, cũng là tủi cho mình “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu chấm lửng ấy chính là sự thảm hại đến tận cùng của đói nghèo. Vì vậy mà mối nhân duyên của con trai bà mới trở thành câu chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ rúng. Phút so sánh ấy còn ẩn chứa cả cảm giác tội lỗi, vì không làm tròn bổn phận của người mẹ, lo được cho con một đám cưới trọn vẹn.

    + Bà cũng không tránh khỏi cảm giác lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Câu hỏi không có lời đáp, là vì chính bà cũng không dám hi vọng vào một cái kết lạc quan, khi xung quanh bà là sự bao vây của cái đói, cái chết

    👉Giữa những cảm xúc hỗn độn đó, “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Hình ảnh này có sự gặp gỡ với giọt nước mắt khổ đau của lão Hạc “những nếp nhăn xô lại vào nhau ép cho nước mắt chảy ra”. Giọt nước mắt của người già hiếm hoi lắm “Tuổi già hạt lệ như sương” (Nguyễn Khuyến), thế mà vẫn trào ra khóe mắt bởi những cảm xúc dâng trào trong tình huống đặc biệt.

    * Đoạn 2:Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?

    👉 Sau những giây phút cúi mặt với nỗi lòng nặng trĩu, với những cảm xúc tiêu cực, cuối cùng bà lão cũng ngửng lên để đối mặt với thực tại:

    – Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà”, chăm chú quan sát người phụ nữ xa lạ đã dũng cảm theo không con trai bà để xây dựng tổ ấm. Trong tầm mắt nhìn của bà “thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Đó là những cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ của một người đang thiếu tự tin, dường như còn mang theo cả mặc cảm tội lỗi, thậm chí cả một chút sợ hãi. Bởi thị đường đột về đây mà chưa được sự cho phép của người lớn, mà nói như Thúy Kiều thì:

    Dù khi lá thắm chỉ hồng

    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha

    – Cái tà áo rách bợt đã giúp bà hiểu thêm về gia cảnh của thị, về sự khó khăn đói khổ đến cùng cực, từ đây đã khơi lên ở bà tình thương ở những người đồng cảnh. Thương người, rồi lại thương con mình, vì vậy mà hướng bà đến những ý nghĩ tích cực hơn: 

    + Bà nhìn nhận cuộc hôn nhân này là sự may mắn của gia đình bà “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Hơn ai hết, bà hiểu những thiệt thòi của con trai mình: lí lịch ngụ cư, gia cảnh nghèo, ngoại hình lại không hấp dẫn, nên đã đến tuổi dựng vợ gả chồng mà suốt bao lâu nay không lấy nổi vợ. Bây giờ có người sẵn sàng cùng con bà chung tay xây dựng tổ ấm, bà còn mong gì hơn. Như vậy, thay vì coi thường người vợ nhặt của con trai, bà xem thị như ân nhân của gia đình mình.

    + Bà trông chờ, hi vọng vào sự may mắn mơ hồ “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó” và dũng cảm đối mặt với những tình huống xấu nhất “chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?” -> bà nghĩ đến trọn vẹn, thấu đáo mọi chiều để sẵn sàng đón nhận

    * Đoạn 3:“Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:

    – Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…

         Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân.”

    👉Cuối cùng, giữa những cảm xúc hỗn độn vừa mừng vừa tủi, với tình yêu thương con và tấm lòng nhân hậu, bà đã mở rộng vòng tay với người con dâu tội nghiệp. Câu nói đầu tiên của bà sau những giây phút cúi đầu nín lặngỪ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” là sự đón nhận chính thức người con dâu mới. Mừng lòng chứ không phải là bằng lòng miễn cưỡng. “Phải duyên phải kiếp” nghĩa là cuộc hôn nhân do ông tơ bà nguyệt xe duyên chứ không phải chuyện nhặt vợ nhặt chồng rẻ rúng nữa. Bà đã khiến cho cuộc hôn nhân của Tràng và người vợ nhặt trở nên bình đẳng, đẹp đẽ như những cuộc hôn nhân bất kì nào khác. Lời đón nhận của bà như trút hẳn gánh nặng đang đè trĩu lồng ngực của anh Tràng “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi” và chắc hẳn đó cũng là những cảm xúc của người con dâu.

    * Đoạn 4:Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:

    – Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

    – Những lời dặn dò tiếp sau của bà là sự vun vén cho đôi trẻ, hướng các con vào tương lai tươi sáng “Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Một lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của một bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết.

    c) Đánh giá chung:

    * Bà cụ Tứ: Đoạn trích là những diễn biến tâm lí rất xúc động của bà cụ Tứ với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc. Từ đó mà bà cụ Tứ hiện lên là linh hồn của tác phẩm, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con.

    * Đặc sắc nghệ thuật:

    – Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo, éo le để tạo cơ hội cho nhân vật bộc lộ, tỏa sáng những vẻ đẹp tâm hồn

    – Nghệ thuật xây dựng nhân vật: 

    + Miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ – người mẹ nông dân chất phác mà trải đời sâu sắc

    + Dựng đối thoại sinh động với ngôn ngữ nông dân theo lứa tuổi, giới tính… mộc mạc, chân thực và sinh động tạo được sức hấp dẫn riêng.

    2) Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

     Qua hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích, tác giả đã đồng cảm xót thương với số phận đau khổ của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, tác giả đã phát hiện, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ: dù nghèo đói và khổ cực đến đâu, ngay cả khi kề bên cái chết, họ vẫn thương yêu đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, và không gì có thể cướp đi niềm tin vào cuộc sống và tương lai của họ

    👉Kim Lân tâm sự: Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. 

    III. Kết bài

    Khẳng định giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả.