Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Ứng dụng thuật toán tìm kiếm nhị phân để giải các bài toán trong dạy học  sinh giỏi cấp tỉnh

    SKKN Ứng dụng thuật toán tìm kiếm nhị phân để giải các bài toán trong dạy học  sinh giỏi cấp tỉnh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIÊU KIÊN HOAN CANH TAO RA SANG KIÊN:
    Trong xã hội ngày nay, khoa hoc công nghê phát triển mạnh mẽ và lĩnh
    vực công nghê thông tin góp phần không nhỏ vào sự phát triển đó. Đặc biêt
    trong lĩnh vực công nghê phần mềm, các phần mềm mới được tạo ra và cải tiến
    liên tục.
    Nhằm giúp hoc sinh tiếp cận một cách có hê thống và bài bản để đáp ứng
    yêu cầu trong lĩnh vực sản xuất phần mềm, giảng dạy ngôn ngữ lập trình và các
    thuật toán là một yêu cầu cần thiết trong xã hội hiên đại.
    Trong quá trình dạy hoc sinh giỏi, các thầy cô giáo luôn trăn trở để tìm
    hướng tiếp cận mới giúp các em tiếp nhận kiến thức một cách hiêu quả hơn.
    Trong đó, trang bị cho hoc sinh những kiến thức cơ bản về thuật toán và kĩ thuật
    lập trình luôn là mục tiêu hàng đầu.
    Sau nhiều năm trực tiếp giảng dạy hoc sinh giỏi môn Tin hoc cấp Tinh
    khối THPT và các lớp chuyên Tin cua trương THPT chuyên Lê Hông Phong,
    chúng tôi đưa ra một số giải pháp để các em hoc sinh có thể tiếp cận các thuật
    toán một cách hiêu quả nhất. Một trong các giải pháp chúng tôi đưa ra là cải tiến
    thuật toán tìm kiếm nhị phân để các em có thể dễ dàng áp dụng giải một số bài
    toán.
    II. MÔ TA GIAI PHAP
    1. Mô ta giai phap trươc khi tao ra sang kiên
    Tìm kiếm nhị phân là một trong những thuật toán phô biến và được giới
    thiêu trong chương trình tin hoc lớp 10, 11. Bài toán được mô tả như sau:
    Cho day sô nguyên

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Sổ tay từ vựng Tiếng Anh THPT thông qua các ví dụ có ngữ cảnh và theo  các cụm từ

    SKKN Sổ tay từ vựng Tiếng Anh THPT thông qua các ví dụ có ngữ cảnh và theo  các cụm từ

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Từ vựng là trung tâm của việc học ngôn ngữ
    Trong cuốn sách “Linguistics in language teaching” của mình, Wilkins có
    viết “While without grammar very little can be conveyed, without vocabulary
    nothing can be conveyed” (Không có ngữ pháp, rất ít thông tin được truyền tải,
    không có từ vựng, không có thông tin nào được truyền đạt). Lời khẳng định này
    của Wilking cho thấy từ vựng có vai trò trung tâm trong việc học một ngôn ngữ.
    Do đó, việc nắm bắt các từ vựng cho từng chủ đề bài học là hết sức quan trọng.
    2. Chương trình tiếng Anh phổ thông mới
    Chương trình tiếng Anh phổ thông mới vẫn tập trung khai thác các chủ đề
    quen thuộc như gia đình, nhà trường, môi trường, công nghệ, sức khỏe,… tương
    đương chương trình tiếng Anh phổ thông cũ. Tuy nhiên, số lượng từ vựng và độ
    khó của từ vựng trong chương trình mới là nhiều hơn và cao hơn khá nhiều so với
    chương trình cũ. Vì vậy, đòi hỏi học sinh cần ghi nhớ nhiều từ vựng hơn, và để
    việc ghi nhớ từ vựng được hiệu quả thì các em cần có một hệ thống từ vựng theo
    chủ đề và có những ví dụ minh họa dễ hiểu và bám sát bài học.
    3. Yêu cầu trước khi lên lớp môn tiếng Anh, nhu cầu và những khó khăn của
    học sinh
    Thông thường, học sinh được yêu cầu chuẩn bị trước bài ở nhà, và môn
    tiếng Anh không phải là ngoại lệ. Khi chuẩn bị cho môn tiếng Anh, học sinh
    thường gặp phải các từ vựng mới. Khi đó, các em có thể dùng từ điển giấy hoặc từ
    điển online để tra cứu những từ vựng đó. Tuy nhiên, không phải tất cả học sinh đều
    có khả năng mua một cuốn từ điển chất lượng, và việc mua một thiết bị điện tử để
    phục vụ cho việc tra từ điển online lại càng khó khăn với đa số học sinh.
    Bên cạnh đó, khi học sinh tra từ điển rất nhiều khi các em chọn nghĩa tiếng
    Việt không phù hợp bối cảnh bài học. Sau đây là một vài ví dụ:
    Trong phần Listening Unit 8 (The world of work) của tiếng Anh lớp 12, có
    từ “tailor”. Khi chuẩn bị bài ở nhà, đa số học sinh viết nghĩa của từ là “thợ may”.
    3
    Tuy nhiên, từ “tailor” dùng trong bài học này thì mang nghĩa là “adapt something
    for a particular purpose” (điều chỉnh cho phù hợp)
    Trong phần Reading Unit 9 (Choosing a career) của tiếng Anh lớp 12, có
    câu “apprentices are assigned to a senior member of staff to spend sometime
    shadowing them and getting to grips with the basics of the job”, khi tra từ điển thì
    các em viết nghĩa của từ “shadow” là “bóng râm”, thay vì hiểu đúng nghĩa theo
    ngữ cảnh của bài học là “follow and watch” (đi theo để học hỏi). Trong ví dụ trên
    còn có thêm cụm từ “get to grips with”, đa số các em không tra được nghĩa của
    cụm từ này.
    Từ những lần tra từ sai nghĩa ngữ cảnh bài học, các học sinh mong muốn có
    một sự hỗ trợ nào đó giúp các em chuẩn bị bài trước khi lên lớp được tốt hơn.
    Sau khi xem xét tất cả các vấn đề trên, tôi nhận thấy cần có một sự hỗ trợ để
    các học sinh có thể tiếp cận từ vựng bài học hiệu quả hơn. Chính vì thế, tôi lựa
    chọn viết sáng kiến về “SỔ TAY TỪ VỰNG TIẾNG ANH THPT THÔNG QUA
    CÁC VÍ DỤ CÓ NGỮ CẢNH VÀ THEO CÁC CỤM TỪ”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    a. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới:
    – Ưu điểm: nếu sử dụng từ điển online thì việc tra từ rất nhanh.
    – Nhược điểm:
    + Học sinh tra cứu từ đơn lẻ, không có ngữ cảnh trong câu, có thể dẫn đến
    hiểu sai nghĩa của từ.
    + Nhiều học sinh không có phương tiện để tra từ như từ điển giấy hoặc thiết
    bị điện tử để tra từ điển online nên các em sẽ mượn bài của bạn để chép bài cách
    chống đối. Điều này sẽ dẫn đến sai hệ thống nếu như có từ bị dịch sai nghĩa so với
    nghĩa theo chủ đề.
    + Học sinh chỉ tra từ và không có kèm ví dụ có ngữ cảnh, dẫn đến các em
    nhanh chóng quên từ đã tra cứu
    4
    + Học sinh có thể tra cứu tất cả các từ vựng các em chưa biết, nhưng có thể
    bỏ sót các từ vựng quan trọng theo chủ đề. Điều này dẫn đến việc ghi nhớ từ vựng
    lan man, không tập trung từ vựng quan trọng của chủ đề đó
    + Học sinh tra cứu và biết nghĩa của từ đơn lẻ, nhưng đa số không tra cứu
    được các cụm từ như “collocations”, “idioms” hoặc “phrasal verbs”
    + Học sinh có thể biết nghĩa của nhiều từ đơn lẻ, nhưng khi được yêu cầu
    viết một câu tiếng Anh có chứa từ hoặc cụm từ đó thì không làm được, hoặc kết
    hợp từ sai.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: (trọng tâm)
    a. Vấn đề cần giải quyết: tất cả học sinh đều có cơ hội tiếp cận với một sự hỗ
    trợ trong việc tra cứu và học từ vựng sao cho đúng với ngữ cảnh của chủ đề bài
    học.
    b. Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới
    – Về nội dung:
    + Mỗi đơn vị bài học (tính theo unit), sẽ gồm các phần “nouns”, “verbs”,
    “adjectives”, “word families”, “collocations”, “idioms”, và “phrasal verbs”. Việc
    phân loại này rất hữu ích trong việc tra cứu từ vựng của học sinh.
    + Từ vựng được trình bày theo từng chủ đề bài học, kèm với ví dụ có ngữ
    cảnh cụ thể và nghĩa tiếng Việt bám sát chủ đề bài học. Ví dụ, từ “tailor” của Unit
    8 tiếng Anh 12 như trình bày ở trên, được dịch tiếng Việt là “điều chỉnh”, và từ
    “shadow” của Unit 9 tiếng Anh 12 được dịch là “đi theo để học hỏi”.
    + Đặc biệt mỗi chủ đề bài học có liệt kê các cụm từ như “collocations”,
    “idioms”, và “phrasal verbs” giúp cho học sinh tra cứu được các cụm từ dễ dàng
    hơn.
    + Hơn nữa, mỗi chủ để bài học đều có liệt kê
    + Riêng đối với sổ tay từ vựng lớp 12, đa số các từ được kèm theo cách phát
    âm, bởi vì đa số học sinh lớp 12 đã có khả năng phát âm được từ qua việc nhìn
    phiên âm, đồng thời việc bổ sung phiên âm hỗ trợ học sinh lớp 12 rèn luyện về
    phần bài chọn từ có phần gạch chân khác với các từ còn lại và bài tìm từ có trọng
    âm chính khác với các từ còn lại.
    5
    – Về hình thức:
    + Mỗi chủ đề bài học được trình bày trên một giao diện PowerPoint thể hiện
    phần nào chủ đề bài học đó.
    + Mỗi chủ đề bài học được thiết kế đi kèm với hình ảnh thể hiện chủ đề đó.
    Đặc biệt, một số câu châm ngôn, các câu nói hay liên quan đến chủ đề bài học
    cũng được bổ sung, giúp học sinh hiểu thêm về chủ đề bài học để kết hợp trau dồi
    kĩ năng sống cho các em. Một ví dụ thể là trong trang đầu tiên của Unit 1: Family
    Life, tiếng Anh 10, có câu châm ngôn: “Having somewhere to go is Home, having
    someone to love is Family, having both is a Blessing”. Khi đọc câu này, các em
    học sinh hiểu ra mình là người rất may mắn vì được sống trong một gia đình hạnh
    phúc.
    – Về việc giải quyết các nhược điểm của giải pháp cũ:
    + Học sinh được tiếp cận với từ vựng thông qua các ví dụ có ngữ cảnh, và
    hiểu nghĩa của từ phù hợp chủ đề bài học.
    + Tất cả học sinh đều có cơ hội tra cứu từ như nhau vì việc sở hữu một cuốn
    sổ tay từ vựng là điều rất dễ dàng.
    + Học sinh hiểu và ghi nhớ từ tốt hơn vì được tiếp xúc với từ thông qua ngữ
    cảnh. Đặc biệt cuốn sổ tay cung cấp các cụm từ, giúp học sinh ghi nhớ từ vựng
    theo cụm từ – một cách học từ vựng khoa học và hiệu quả.
    + Cuốn sổ tay từ vựng này tập trung vào các từ quan trọng của từng chủ để
    bài học. Vì thế, học sinh được tiếp cận với trọng tâm bài học, tránh được tình trạng
    tra cứu từ lan man, không cần thiết.
    + Học sinh có thể tra cứu các cụm từ như “collocations”, “idioms” hoặc
    “phrasal verbs” một cách dễ dàng
    + Khi đã nắm được các cụm từ, việc viết một câu tiếng Anh trở nên dễ dàng
    và hiệu quả hơn.
    c. Cách thức và các bước thực hiện:
    + trước giờ lên lớp, các học sinh sẽ thực hiện việc chuẩn bị bài bằng cách tìm
    hiểu các từ vựng liên quan đến chủ đề bài học. Các em sẽ sử dụng cuốn “SỔ TAY
    TỪ VỰNG TIẾNG ANH THPT THÔNG QUA CÁC VÍ DỤ CÓ NGỮ CẢNH VÀ
    6
    THEO CÁC CỤM TỪ” như một cuốn từ điển giấy, hoặc thay thế cho việc tra từ
    điển online, điều mà đa số học sinh không tiếp cận được.
    + khi lên lớp, sau khi giáo viên cung cấp xong phần từ vựng của bài tương
    ứng, thì giáo viên dạy học sinh cách phát âm của từ.
    + trước khi bắt đầu tiết học tiếp theo, giáo viên cho học sinh ôn tập phần từ
    vựng từ bài trước để đảm bảo các em được tiếp xúc với từ vựng một cách thường
    xuyên. Lần này, học sinh được khuyến khích tự phát âm ra từ đó.
    + học sinh được khuyến khích đặt câu với các cụm từ thuộc chủ đề bài học.
    d. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp
    Mỗi học sinh có một cuốn “SỔ TAY TỪ VỰNG TIẾNG ANH THPT
    THÔNG QUA CÁC VÍ DỤ CÓ NGỮ CẢNH VÀ THEO CÁC CỤM TỪ”
    e. Khả năng áp dụng vào thực tế của giải pháp mới
    Cuốn sổ tay từ vựng này có khả năng rất cao để áp dụng vào thực tế bởi sự dễ
    dàng in ấn và nhỏ gọn tiện lợi mang theo bên mình. Đồng thời, cuốn sổ tay này
    mang lại lợi ích vô cùng thiết thực trong việc học từ vựng của học sinh, đó là việc
    ghi nhớ từ đúng ngữ cảnh, đúng chủ đề bài học.
    III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
    1. Hiệu quả kinh tế
    Với mỗi cuốn sổ tay từ vựng này, mỗi học sinh chỉ cần chi tối đa 10 nghìn
    đồng để có được. Lợi ích kinh tế hơn rất nhiều so với việc mua một cuốn từ điển
    thông thường giá thấp nhất khoảng từ 50 nghìn đồng. Và lợi ích kinh tế cuốn sổ tay
    này đem lại càng thể hiện rõ ràng hơn so với việc mua một thiết bị điện tử để tra từ
    điển online.
    2. Hiệu quả về mặt xã hội
    a. Nâng cao chất lượng giáo dục:
    – Khi có cuốn sổ tay từ vựng này, các học sinh sẽ được học từ vựng phù hợp
    với ngữ cảnh nhất, đồng thời giúp các em có vốn từ có thể sử dụng được thành câu,
    không như việc học trước đây dừng lại ở từ đơn lẻ.
    – Cụ thể, năm học 2019 – 2020, tôi giảng dạy 2 lớp 10A3 và 10A6, khi áp
    7
    dụng sổ tay từ vựng, kết quả thi của học sinh được nâng cao rõ rệt giữa 2 kì khảo
    sát chất lượng giữa kì I và cuối kì I, dưới đây là bảng thống kê chất lượng từ
    trường THPT B Nghĩa Hưng:
    8
    b. Hạn chế mâu thuẫn trong gia đình
    Trước đây khi học sinh không có cuốn sổ tay từ vựng này, khi chuẩn bị bài
    và cần tra cứu từ vựng, nhiều học sinh đã mượn điện thoại của bố mẹ để tra từ điển
    online. Tuy nhiên, đa số phụ huynh e ngại việc đưa điện thoại vào tay con em
    mình, vì sợ rằng chúng sẽ lợi dụng việc tra cứu từ vựng để lướt Web dẫn đến xao
    nhãng học tập. Khi đó, dễ dẫn đến nhiều học sinh tỏ ra khó chịu với sự e ngại của
    bố mẹ và bất mãn với sự nghi ngờ của bố mẹ.
    c. Sự đón nhận từ học sinh
    Một khảo sát về tính hiệu quả của cuốn sổ tay được thực hiện đã cho thấy đa
    số học sinh đều đón nhận cuốn sổ tay và cho rằng nó rất hữu ích cho việc học của
    các em:
    9
    10
    11
    12
    13
    14
    3. Khả năng áp dụng và nhân rộng
    – “SỔ TAY TỪ VỰNG TIẾNG ANH THPT THÔNG QUA CÁC VÍ DỤ CÓ
    NGỮ CẢNH VÀ THEO CÁC CỤM TỪ” có tính khả thi cực kì cao, có thể được
    nhân rộng, áp dụng cho tất cả các trường THPT.
    – Sáng kiến này đã và đang được áp dụng tại trường THPT B Nghĩa Hưng.
    IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
    Tôi cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
    TÁC GIẢ SÁNG KI

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số hoạt động tạo cơ hội và động lực cho học sinh thực hành  nói tiếng  Anh

    SKKN Một số hoạt động tạo cơ hội và động lực cho học sinh thực hành  nói tiếng  Anh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, trong khi đó để hội nhập là tiếng
    anh là rất cần thiết để giúp đất nước ta giao lưu và học hỏi với nước ngoài để mở
    rộng sự phát triển của đất nước nói chung và bản thân chúng ta nói riêng.
    Theo thống kê hàng năm cho thấy số người Việt Nam biết tiếng anh đang
    khá là ít, một phần do các yếu tố khách quan tuy nhiên từ bên trong vẫn có một
    yếu tố chủ quan đó là do người dân Việt Nam còn chưa xác định được tầm quan
    trọng của việc học tiếng anh cho tương lai của mình. Như vậy, tôi đã nhận thức
    sâu sắc về tầm quan trong của tiếng Anh
    Thứ nhất: Tiếng Anh là cơ hội để phát triển cuộc đời. Các nhà đầu tư nước
    ngoài đã khẳng định người Việt Nam có trình độ khá là tốt, tuy nhiên rào cản về
    ngôn ngữ đã khiến họ không thể làm việc được với chúng ta. Cụ thể đã cho thấy
    khi bạn đi ứng tuyển ở một công ty nào đó thì điều kiện về khả năng ngôn ngữ là
    một điều quan trọng thường thấy, giữa những người cùng đi ứng tuyển thì có
    khả năng tiếng anh sẽ được ưu tiên hơn. Thậm chí rằng, nếu chúng ta không cải
    thiện khả năng ngôn ngữ quốc tế thì sẽ có nguy cơ chúng ta sẽ mất việc làm
    ngay tại quê hương và đất nước của mình, bởi vì thời đại toàn cầu hóa ngày nay
    có rất nhiều người ở các quốc gia khác có vốn tiếng Anh tốt, hoặc sử dụng tiếng
    Anh như là ngôn ngữ mẹ đẻ họ sang Việt Nam làm việc, ví dụ như rất nhiều
    người nước ngoài làm việc tại các khu du lịch của Đà Nẵng và các khu du lịch
    nổi tiếng của Việt Nam, rất nhiều các giáo viên nước ngoài sang Việt Nam dạy
    tiếng Anh, thậm chí là người Philippine hay Singapore.
    Hơn nữa, có vốn kiến thức tiếng anh thì bạn hoàn toàn có thể đăng kí đi du
    học ở các nước hàng đầu thế giới như: Anh, Mỹ, Pháp… việc du học ở các nước
    đó chắc chắn sẽ là một trong những cơ hội đổi đời tốt nhất cho các bạn.
    Thứ hai: Tiếng Anh giúp chúng ta cập nhật thông tin ở khắp mọi nơi. Khi
    có vốn từ tiếng anh phong phú không bạn hoàn toàn có thể trao đổi với nhiều
    người nước ngoài, từ những cuộc trao đổi với họ bạn sẽ có thêm những kiến
    thức mới về phong cách và kĩ năng làm việc, tiếp thu những điều khiến giúp
    người nước ngoài phát triển.
    Thứ ba: Tiếng Anh giúp chúng ta đi xa hơn và học hỏi nhiều hơn. Tiếng
    Anh là ngôn ngữ chính thức của hơn 50 quốc gia và còn là ngôn ngữ chính thức
    của cả thế giới. việc có được vốn từ tiếng Anh sẽ giúp bạn có thểm nhiều cơ hội
    4
    đi xa hơn để học hỏi những điều mới mẻ của các nước trên thế giới về áp dụng
    cho đất nước nói chung và cho bản thân bạn nói riêng. Tất cả sẽ thêm tuyệt vời
    cho cuộc sống của bạn.
    Thứ 4: Có khả năng nói tiếng anh tốt bạn sẽ không tự ti khi đối mặt với
    nước ngoài, bạn hoàn toàn có thể nói chuyện và trao đổi nhiều hơn với người
    nước ngoài thay vì chỉ biết bắt tay và cười mỉm.
    Khi học bất kì một ngôn ngữ nào, mục tiêu cuối cùng cũng là để có thể giao
    tiếp một cách tự nhiên và thuần thục với người bản địa. Nếu không nói được thì
    cũng không thể giao tiếp được. Vì vậy, kỹ năng nói là một trong số những kỹ
    năng khá là quan trọng mà giáo viên chúng ta cần chú trọng rèn luyện và nâng
    cao khả năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh.
    Xét về thực trạng học kỹ năng nói ở trường THPT nói chung và trường
    THPT Trần Hưng Đạo nói riêng, chúng tôi có những trở ngại sau:
    Về phía giáo viên: Chúng tôi chịu áp lực khá lớn về chất lượng học sinh
    qua các kỳ thi. Tuy nhiên, trong các kỳ thi đó chỉ tập trung vào kỹ năng Nghe,
    Đọc,Viết, Ngữ Pháp và Từ vựng, có phần kiểm tra Phonetics nhưng đó mới chỉ
    là nhận biết các âm chứ chưa phải là hoạt động nói.Vì vậy, giáo viên chúng tôi
    dành thời gian nhiều và luyện nhiều hơn các kỹ năng này và chưa thật chú trọng
    vào kỹ năng viết cho học sinh. Trong suốt 1 năm học, trường kết hợp với trung
    tâm Sydney hỗ trợ dạy Nói và Nghe cho học sinh và có 2 lần kiểm tra nói sau
    khi kết thúc 2 học kỳ.
    Bản thân giáo viên cũng chưa tạo được động lực cho học sinh và khích lệ
    chúng hăng say nhiệt tình và thích thú trong việc thực hành nói. Quan trọng hơn,
    học sinh thực hành nói trên lớp thông qua các hoạt động, nội dung và chủ đề
    trong sách giáo khoa, bắt chước các bài hội thoại từ vựng, không sát với thực tế
    của riêng bản thân mình. Vì vậy chúng ta tạo cơ hội và các hoạt động thực tiễn
    chúng có thể áp dụng hằng ngày, để khi chúng được giao nhiệm vụ thay vì câu
    hỏi trong đầu là: “Nói cái này để làm gì?” “Tại sao phải nói?”, thì chúng sẽ tự
    trả lời được là ta có thể áp dụng vào cuộc sống hàng ngày, giao tiếp hàng ngày
    chứ không phải là một điều gì đó hàn lâm. Như vậy, chúng ta đã tạo cho các con
    “lý do” để thực hành nói tiếng Anh.
    Về phía học sinh: Học sinh ngày nay phải học và thi khá nhiều môn nên
    cũng khá là căng thẳng và áp lực. Phụ huynh và cả học sinh thì đặt mục tiêu vào
    kết quả thi cử trên giấy hơn so với việc rèn luyện sự tự tin và tự giác cho học
    5
    sinh. Năm học 2014-2015 là năm học đầu tiên trường chúng tôi dạy tiếng Anh
    thí điểm chương trình mới.
    Quan trọng hơn, học sinh khá tốt ngữ pháp, có thể viết ra những gì mình
    nghĩ. Tuy nhiên, vì không được thực hành nhiều nên các con không tự tin, rất
    nhát và sợ hãi khi đứng trước người nước ngoài.
    Bản thân tôi được đi tập huấn nhiều lần, lĩnh hội được chủ chương, tinh
    thần dạy học và mục tiêu của sách giáo khoa mới. Tôi vui mừng vì sách giáo
    khoa mới này chú trọng kỹ năng và năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh.
    Tôi dành nhiều thời gian để học tập những khóa học như Ielts, TOFLE.. để vừa
    hoàn thiện bản thân, vừa dạy các con. Khi nghiên cứu về kỹ năng nói, chính bản
    thân tôi cũng đã tự tin lên rất nhiều khi giao tiếp. Tuy nhiên, việc thi cử không
    kèm theo kỹ năng và hoạt động nói, nhiều phụ huynh đề nghị giáo viên chú
    trọng nhiều dành nhiều thời gian để rèn luyện cho các con các dạng bài có trong
    các đề thi.
    Động lực học tiếng Anh của học sinh chủ yếu là học để vượt kỳ thi chứ
    chưa hướng đến kỹ năng thực hành ngôn ngữ trong thực tế.
    Trong quá trình dạy học, tôi quan sát thấy có một thực tại rằng là, khi tôi
    dạy học sinh kỹ năng phát âm, hay đọc một từ, học sinh đọc theo tôi một cách
    gượng ép, đọc cho qua. Nếu tôi yêu cầu học sinh đọc chuẩn, học sinh cũng đọc
    được, nhưng chỉ ngay lúc đó thôi, khi học sinh đứng lên tự đọc thì rất gượng
    gạo, và lại sai như ban đầu hoặc đọc theo cảm tính. Tôi thiết nghĩ những bài
    thuwck hành đó học sinh thấy không thực tế, hơi xa vời. Đó dường như là những
    câu chuyện của người khác chứ không phải của chúng và chúng thấy không cần
    thiết để làm điều đó.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Trong những năm học trước, mỗi một bài học sẽ gắn với các chủ đề khá
    thực tế, và mỗi đơn vị bài học sẽ có 01 tiết dành cho kỹ năng nói. Phần lớn các
    tiết học đó tôi đã bám rất sát sách giáo khoa, từ các nhiệm vụ cho đến chủ đề và
    nội dung. Các hoạt động tôi đã sử dụng như sau:
    + Hỏi đáp: Giáo viên đã khơi gợi ra chủ đề và học sinh trả lời về chủ đề đó
    dựa theo câu hỏi của giáo viên.
    Phần mở đầu tiết dạy speaking Unit 2: Your boday and you-English 10
    6
    Phần mở đầu tiết dạy Speaking-Unit 3: Music – English 10
    Phần chuẩn bị từ vựng và cấu trúc: giáo viên hỏi, học sinh trả lời trong tiết
    dạy Speaking Unit 6: Global warming- English 11
    7
    + Làm việc theo cặp: Phần lớn các hoạt động trong tiết dạy nói là học sinh
    làm việc theo cặp, cùng thảo luận về một chủ đề nào, một câu hỏi hoặc chia sẻ
    và trao đổi thông tin( jigsaw). Hoạt động này thực hiện thường xuyên bởi sĩ số
    học sinh trường tôi khá đông, lớp 10A5 năm học 2019-2020 là 46, dễ thực
    hiện theo cặp, nhưng học sinh cũng dễ nhàm chán do cứ làm việc mãi với một
    người, nếu đổi cặp thì lớp quá đông khi di chuyển tìm cặp, dẫn đến lớp rất ồn
    và ảnh hưởng đến các lớp khác.
    Hình ảnh về tiết dạy Speaking Unit 4: For a better community- English 10
    8
    + Làm việc theo nhóm: Tôi cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động
    theo nhóm cho học sinh Nhóm không chỉ là nơi tập hợp nhiều cá nhân làm việc
    mà còn là nơi tụ hợp, nuôi dưỡng và phát huy các kỹ năng khác nhau của các cá
    nhân trong sự tương trợ lẫn nhau.
    Nhóm có thể được thành lập do sự phân công của giáo viên hay do một số
    bạn có cùng một mối quan tâm tìm hiểu về một chủ đề nào đó mà kết hợp thành
    nhóm để trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau nhằm đạt kết quả học tập tốt hơn.
    Năng suất và hiệu quả của mỗi cá nhân khi làm việc theo nhóm cao hơn
    hẳn so với năng suất và hiệu quả trung bình của mỗi cá nhân khi làm việc riêng
    lẻ. Vì nhóm có thể tận dụng những gì tốt nhất của mỗi cá nhân cả trong và ngoài
    chuyên môn. Thông qua làm việc, mỗi cá nhân sẽ tự rèn luyện thêm các kỹ năng
    sống và kỹ năng làm việc, giúp cá nhân đó trưởng thành hơn trong học tập và
    nghiên cứu.
    Khi được mời gọi vào nhóm, các thành viên còn rụt rè, chưa dám bộc lộ
    nhu cầu cũng như năng lực cá nhân. Bản thân họ chưa xác định được vai trò của
    mình và nhóm cũng chưa phân định rõ ràng vai trò của họ trong nhóm.
    Các thành viên đã hiểu và thích nghi được với điểm mạnh và điểm yếu
    của từng người trong nhóm. Họ biết được vai trò của mình trong nhóm cũng như
    của người khác. Mọi người bắt đầu cởi mở và tin tưởng nhau hơn, họ không còn
    e ngại khi phải đưa ý kiến thảo luận như lúc đầu. Sự cam kết với công việc và
    gắn bó giữa các thành viên trong nhóm rất cao.
    9
    + Chạy viết chính tả (running dictation):Giáo viên dán một câu chuyện
    hay một đoạn văn lên bảng. Học sinh làm việc theo nhóm, mỗi nhóm cử một
    người viết, các thành viên còn lại thay nhau lên bảng đọc 01 câu cho thành viên
    ghi chép. Đội nào xong sớm nhất hoặc viết được nhiều nhất đội đó sẽ thắng.
    Hoạt động này giúp học sinh có nhiều các kỹ năng và năng lực như phát
    âm, dấu câu, ghi chép nhanh, và đánh vần. Tuy nhiên khi thực hiện trên lớp với
    số lượng học sinh đông như vậy thì khó kiểm soát lớp, học sinh cũng khó di
    10
    chuyển khỏi vị trí do vướng bàn ghế sát nhau. Học sinh lười phát âm và hay nói
    và dịch bằng tiếng Viêt.
    Đây là một đoạn văn để học sinh làm việc nhóm với hoạt động Cuộc đua
    đọc chính tả.
    Trên đây là các hoạt động đã thực hiện trong các giờ nói tiếng Anh
    trên lớp, tuy nhiên học sinh nhiều khi không hứng thú bởi đó thường là lý
    thuyết, học sinh chưa được thực hành ở những tình huống cụ thể trong
    đời sống, những câu giao tiếp hàng ngày liên quan đến các chủ đề đã học.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    Trong quá trình thực hiện những giải pháp cũ, tôi thấy học sinh chỉ được
    rèn lý thuyết ví dụ như cách đưa ra ý kiến, cách đồng ý, không đồng ý với các
    ý kiến khác, học sinh có vốn từ tốt hơn, có nền tảng tốt hơn và kiến thức tốt
    hơn về các chủ đề bài học. Tuy nhiên, khả năng vận dụng vào thực tiễn chưa
    được cao, và sau giờ học thì học sinh vẫn chưa thể tự tin giao tiếp vào những
    tình huống cụ thể. Chính vì vậy, ngoài những hoạt động cũ mà tôi đã và vẫn sử
    dụng để tạo kiến thức nền và vốn từ vựng cho học sinh, mỗi đơn vị bài học tôi
    sẽ hướng dẫn học sinh vào từng tình huống giao tiếp cụ thể trong đời sống
    hàng ngày, tạo sự gần gữi và tính thực tiễn, cần thiết của việc sử dụng tiếng
    Anh. Sau đây, tôi xin trình bày những hoạt động cụ thể tôi cho học sinh thực
    hiện thêm, ngoài những giải pháp cũ tôi đã sử dụng cụ thể với lớp 10A5 năm
    học 2019-2020, và năm nay là 11A5 năm học 2020-2021 tôi vẫn tiếp tục theo
    lên:
    11
    2.1. Ghi âm: Recording
    Điều kiện để thực hiện hoạt động này là học sinh chỉ cần một chiếc điện
    thoại có mạng. Việc này có thể áp dụng với mọi học sinh ở những điệu kiện
    khác nhau và ở mọi trình độ bởi hầu như mỗi một gia đình đều có điện thoại
    kết nối mạng, thậm chí ở các vùng quê bây giờ cũng đều đã kết nối mạng.
    Hoạt động này có thể áp dụng bất cứ bài nào và bất cứ thời điểm nào, với học
    sinh lớp 10, tôi chưa hiểu về học sinh, và cũng không có thời gian để 46 học
    sinh giới thiệu về bản thân mình, tôi yêu cầu học sinh về nhà ghi âm một đoạn
    tự giới thiệu về chính bản thân mình: tên, family, sở thích, mặt tốt, điểm tốt về
    bản thân, điểm yếu về bản thân, sau đó gửi vào email, hoặc qua zalo cho giáo
    viên.
    2.2. Hoạt động 1:
    Shopping for Healthy food
    Tôi áp dụng cho Unit 2: Your body and you và Unit 5: Inventions
    Đối tượng áp dụng: Mọi đối tượng học sinh.
    Sau khi thực hiện các nhiệm vụ học tập để tạo kiến thức nền cho học sinh
    (các nhiệm vụ trong tiết học speaking unit 2: Your boday and you), tôi yêu cầu
    học sinh thực hành việc sử dụng ngôn ngữ trong tình huống hàng ngày:
    Shopping for Healthy food (Đi chợ và mua đồ thực phẩm dinh dưỡng). Phần
    này khá là thực tế và giúp học sinh chuẩn bị cho kỹ năng nghe với nội dung
    Healthy food pyramid.
    Tôi chia học sinh theo các nhóm, mỗi nhóm là 6 học sinh, yêu cầu các em
    liệt kê các loại rau củ, thịt cá, trái cây dinh dưỡng mà chợ hoặc siêu thị gần
    nhà chúng ta hay bán. Giáo viên, kiểm tra, mở rộng vốn từ và dạy các em đọc
    từ:
    Học sinh được phát từ vựng từ giờ trước để nghiên cứu, và sử dụng.
    Từ vựng tiếng Anh về các loại rau, củ, quả
    1. Súp lơ: cauliflower
    2. Cà tím: eggplant
    3. Rau chân vịt (cải bó
    xôi): spinach
    4. Bắp cải: cabbage
    5. Bông cải xanh:
    broccoli
    6. Atiso: artichoke
    7. Cần tây: celery
    8. Đậu Hà Lan: peas
    9. Thì là: fennel
    10. Măng tây: asparagus
    11. Tỏi tây: leek
    12. Đậu: beans
    13. Ngô (bắp): corn
    14. Rau diếp: lettuce
    15. Củ dền: beetroot
    16. Bí: squash
    17. Dưa chuột (dưa leo):
    cucumber
    18. Khoai tây: potato
    12
    19. Tỏi: garlic
    20. Hành tây: onion
    21. Hành lá: green onion
    22. Cà chua: tomato
    23. Bí xanh: marrow
    24. Củ cải: radish
    25. Ớt chuông: bell pepper
    26. Ớt cay: hot pepper
    27. Cà rốt: carrot
    28. Bí đỏ: pumpkin
    29. Cải xoong: watercress
    30. Khoai lang: sweet
    potato
    31. Rau thơm: herbs/ rice
    paddy leaf
    32. Bí đao: wintermelon
    33. Gừng: ginger
    34. Củ sen: lotus root
    35. Nghệ: turmetic
    36. Su hào: kohlrabi
    37. Rau răm: knotgrass
    38. Rau thơm (húng lũi):
    mint leaves
    39. Rau mùi: coriander
    40. Rau muống: water
    morning glory
    41. Raurăm:polygonum
    42. Rau mồng tơi: malabar
    spinach
    43. Rau má: centella
    44. Rong biển: seaweed
    45. Đậu đũa: string bean
    46. Củ kiệu: leek
    47. Củ hẹ: shallot
    48. Mướp: see qua hoặc
    loofah
    49. Mía: sugar cane
    50. Lá lốt: wild betel
    leaves
    51. Đậu bắp: okra/ lady’s
    fingers
    52. Lá tía tô: perilla leaf
    53. Củ cải trắng: white
    turnip
    54. Giá đỗ: bean sprouts
    55. Pork: thịt lợn
    56. Pork’s leg: đùi heo
    57. Beef: thịt bò
    58. Lamb: thịt cừu
    59. Ham : thịt đùi
    60. F Ribs sườn heo
    61. Pork side: thịt ba chỉ
    62. Fat: mỡ
    63. fillet: thịt lưng
    2.1.1. NHỮNG MẪU CÂU DÙNG ĐỂ ĐI CHỢ

    Người muaNgười bán
    Hỏi đồ:
    – Excuse me, I can’t find the…
    – Do you have ……….?:
    – I’d like some meat to day?
    – Is this on sale?
    – Could I have a carrier bag, please?
    – Do you deliver?
    – I want to buy 5 kilos meats and a half kilo
    tomato.
    – I want to get 3 pieces of pork/ beef..
    – What kind of meat do you have? It’s from
    Vietnam or China?
    Chào khách:
    – How can I help?
    – Next please./ Any thing else?
    – How much do you want?
    – What kind do you need?
    – It’s over there, sir.
    – We just sell Vietnamese vegetable.

    13

    Hỏi giá cả
    – And how much for each?
    – How much is that?
    – How much do you sell it for?
    – How much does a kilo of tomato cost?
    – Could you chop it up for me ?
    – Could I have a refund?
    – What is the total?
    – I’m afraid you gave me the wrong
    change.
    Mặc cả:
    – I will give you 20,000 VND/ I will buy it
    for 20,000 VND
    – Can you lower the price?
    – Can you make it lower?
    – That’s too expensive. How about ….?
    – I will not give you more than 150.000
    VND
    – I saw this for $5 somewhere else
    – Then I’m not interested/ Then I will go
    somewhere else
    Trả lời về giá cả:
    – Meat price is 300,000VND per 1 kilo,
    and tomato is 5.000VND.
    – If you want 5 kilos meats and a half
    kilo tomato. The total cost you 305.000
    VND.
    – That is going to be 250,000 VND for a
    kilo/ piece
    – Here you are, thank you.
    – Yes, of course
    – Ican’t give you a discount
    – Sorry, but I can’t make it any cheaper.
    – Now I have lost my profit. Give me
    $180
    – We are charging reasonably for you

    Bước tiếp theo, tôi chuẩn bị thực phẩm, vì rau củ rất rẻ nên tôi đã mua
    sẵn các nguyên liệu, cho bảng giá thực phẩm. Nếu chúng ta không muốn đi chợ
    mua thực phẩm thật thì có thể mua mô hình đồ giả bằng nhựa. Nhưng tôi thấy
    rằng học sinh thích thú với vật thật hơn vì nó giống với cảm giác đi chợ và mua
    sắm, đó là cuộc sống hàng ngả, “real life” của chúng ta.
    Sau đó học sinh, sẽ thực hành mua, bán và tính tiền theo từng cấu trúc hỏi
    của người bán hàng và người mua hàng. Bước cuối cùng là cho các nhóm lên
    nhập vai, như sau:
    14
    Trong giờ học tôi thấy học sinh rất thích thú, đóng vai người mua hàng và
    bán hàng giống như hoạt động các em vẫn thường thấy, thấy rất phù hợp và cần
    thiết, và giống như mình đang đi chợ thực sự vậy. Các em được thực hành vai
    bán hàng khi người mua là người nước ngoài, hoặc khi ra nước ngoài hoặc đi du
    lịch, mình là khách hàng mua đồ của người nước ngoài. Các em cũng có nhu cầu
    này bời mỗi mùa hè các em được đi du lịch cùng bố me, gặp nhiều người nước
    15
    ngoài, thậm chí đi du lịch nước ngoài thì cần giao tiếp hoặc giao dịch bằng tiếng
    Anh.
    Tương tự như vậy, ngoài tình huống đi chợ, tôi cũng sắp xếp những
    tình huống như đặt phòng khách sạn, sân bay, (Áp dụng Unit 10 Ecotorism
    – English 10, và Unit 8: The Heritage sites – English 11) mua sắm các quầy
    hàng quần áo, đồ điện tử ( Unit 5 : Inventions – English 10).
    2.2.2. MẪU CÂU KHI ĐI MUA SẮM
    Những câu Tiếng Anh dùng để hỏi về “Giờ mở cửa”
    – What times are you open?
    – Mấy giờ cửa hàng mở cửa?
    – We’re open from 9am to 5pm, Monday to Friday
    – Chúng tôi mở cửa từ 9h sáng đến 5h chiều, từ thứ Hai đến thứ Sáu
    – We’re open from 10am to 8pm, seven days a week
    – Chúng tôi mở cửa từ 10h sáng đến 8h tối, bảy ngày trong tuần
    – Are you open on …? Cửa hàng có mở cửa vào … không?
    + Saturday thứ Bảy

    + SundayChủ Nhật
    – What time do you close?– Mấy giờ cửa hàng đóng cửa?

    – What time do you close today? – Hôm nay mấy giờ cửa hàng đóng cửa?
    – What time do you open tomorrow? – Ngày mai mấy giờ cửa hàng mở cửa?
    Những câu Tiếng Anh thường dùng để “Lựa chọn hàng hóa”
    – Can I help you? -Tôi có giúp gì được anh/chị không?
    – I’m just browsing, thanks – Cảm ơn, tôi đang xem đã
    – How much is this? – Cái này bao nhiêu tiền?
    – How much are these? – Những cái này bao nhiêu tiền?
    – How much does this cost? – Cái này giá bao nhiêu tiền?
    – How much is that … in the window? – Cái … kia ở cửa sổ bao nhiêu tiền?
    – That’s cheap – Rẻ thật
    – That’s good value – Đúng là được hàng tốt mà giá lại rẻ
    – That’s expensive – Đắt quá
    – Do you sell …? – Anh/chị có bán … không?
    – Do you have any …? _Bạn có … không?

    Ex: postcardsbưu thiếp
    – Sorry, we don’t sell them– Xin lỗi, chúng tôi không bán

    16
    – Sorry, we don’t have any left – Xin lỗi, chúng tôi hết hàng rồi

    – I’m looking for …
    Ex: the shampoo
    – Tôi đang tìm …
    – dầu gội đầu

    – a birthday card – thiếp chúc mừng sinh nhật

    – Could you tell me where the … is?
    Ex: washing up liquid
    -Where can I find the …?
    – Bạn có thể cho tôi biết … ở đâu không?
    – nước rửa bát
    – Tôi có thể tìm thấy … ở đâu?
    Ex: toothpastekem đánh răng

    – Have you got anything cheaper? – Anh/chị có cái nào rẻ hơn không?
    – It’s not what I’m looking for – Đấy không phải thứ tôi đang tìm
    – Do you have this item in stock? – Anh/chị còn hàng loại này không?
    – Do you know anywhere else I could try?
    – Anh/chị có biết nơi nào khác có bán không?
    – Does it come with a guarantee? – Sản phẩm này có bảo hành không?
    – It comes with a one year guarantee – Sản phẩm này được bảo hành 1 năm
    – Do you deliver? – Anh/chị có giao hàng tận nơi không?
    – I’ll take it – Tôi sẽ mua sản phẩm này

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Dạy học STEM SREAM theo các vấn đề thời sự chủ đề Corona

    SKKN Dạy học STEM SREAM theo các vấn đề thời sự chủ đề Corona

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    CHƯƠNG I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Hiện nay, tràn ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng mọi người chia
    sẻ và cập nhật rất nhiều thông tin về bệnh viêm phổi từ chủng coronavirus mới được
    đặt tên là 2019 Novel Coronavirus (2019-nCoV), được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán,
    Trung Quốc. Sau nhiều tháng đại dịch Covid-19 hoành hành, gần như toàn bộ thế giới
    đã trở thành nạn nhân, những hậu họa do Covid-19 gây ra đã đưa ra lời cảnh báo rằng
    thế giới cần chuẩn bị nhiều hơn để đối phó với một đại dịch có thể xảy ra trong tương
    lai. Câu hỏi đặt ra là còn đại dịch nào thực sự chờ đợi chúng ta phía trước, con người
    sẽ phải làm gì để chung tay nhau ngăn chặn những vấn đề này? Theo Lê Thanh Hải,
    “Cả nhân loại đang đối mặt mới một hoàn cảnh khủng hoảng mới mà không có một
    mô hình giáo dục nào đã được nghiên cứu trước đó, đó không phải là giáo dục trực
    tuyến (e-learning hay online education), cũng không phải là giáo dục tại nhà
    (homeschooling) giống như các mô hình trước đây đã được các nhà giáo dục nghiên
    cứu và xây dựng; phải gọi đó là giáo dục thời kỳ đại dịch; dạy và học trong lúc này
    chắc chắn là không giống như bình thường, hay như bất kỳ một mô hình nào trước đây
    đã được nghiên cứu; một cách tiếp cận mới chắc chắn phải được thay thế và triển khai,
    chắc chắn thế hệ học sinh này sẽ cần có nhiều kỹ năng mới so với trước đây bởi các
    em đang sống trong một thế giới đang bị thay đổi sâu sắc bởi đại dịch”.
    Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người luôn là yếu tố giữ vai trò trung tâm và
    quan trọng nhất. Trường THPT Ngô Quyền, 48 năm qua, đã xây dựng được một nền
    tảng sư phạm khá vững vàng và chiếm được niềm tin của học sinh và phụ huynh qua
    nhiều thế hệ. Với sự cố gắng và nỗ lực của thầy trò nhà trường cùng tinh thần tự lực,
    tự cường, bám trường, bám lớp, thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học, ngọn lửa giáo dục
    trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” sáng ngời hào khí Đông A ngày càng rực sáng. Vì
    sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà, vì tương lai con em chúng ta, giáo viên và
    học sinh trường THPT Ngô Quyền cùng chung một ý chí, cùng chung một tấm lòng,
    cùng chung một niềm tin chiến thắng đại dịch Covid-19. Nhà trường đã tuyên truyền
    2
    cho giáo viên và học sinh qua bảng điện tử ngay tại cổng trường với nội dung: Thầy
    và trò trường THPT Ngô Quyền quyết tâm thực hiện hai mục tiêu: chống dịch
    Covid-19 và dạy tốt, học tốt. Ý tưởng dạy học gắn với chủ đề coronavirus được hình
    thành.
    2. Thêm nữa, thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng “lý luận phải gắn với thực
    tiễn”, thực hiện lời dạy của tiền nhân “ học phải đi đôi với hành”; các năm qua, toàn
    Ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng làm chuyển biến tích cực chất lượng dạy học gắn
    liền thực tiễn và cụ thể hoá bằng nhiều cách làm hay, mô hình tốt như: dạy học trải
    nghiệm tại các cơ quan hành chính, khu di tích, bảo tàng, công ty, nhà máy sản xuất,
    khu chế biến; lao động chăm sóc khu vườn trường; dạy học theo dự án, dạy học qua
    sản phẩm; dạy học theo chủ đề … và giáo viên THPT Ngô Quyền cũng không phải là
    ngoại lệ.
    Trong năm học 2019 -2020 trường THPT Ngô Quyền yêu cầu các tổ chuyên môn
    thực hiện dạy học theo chủ đề: chủ đề liên môn (bao gồm các nội dung dạy học gần
    giống nhau, có liên quan chặt chẽ với nhau, có thể đang trùng nhau trong các môn học
    của chương trình hiện hành, biên soạn thành chủ đề liên môn) và chủ đề tích hợp, liên
    môn (có nội dung giáo dục liên quan đến các vấn đề thời sự của địa phương, đất nước;
    ví dụ: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ quyền biên
    giới, biển đảo; …. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, để học sinh nhận thấy học
    đi đôi với hành, học ứng dụng vào đời sống, chứ không phải học những kiến thức đơn
    lẻ của từng môn học một cách cứng nhắc mà là những tiết học thực sự bổ ích, giữa các
    môn học có sự gắn kết với nhau góp phần không chỉ cung cấp kiến thức từng bộ môn
    mà còn giáo dục nhân cách, hoàn thiện tư cách và trách nhiệm người công dân mới,
    hình thành và rèn các kĩ năng sống cho học sinh, ý tưởng dạy học theo các vấn đề thời
    sự vì thế được hình thành.
    3. Mặt khác việc đổi mới phương pháp giảng dạy đang được đặt lên hàng đầu
    đối với ngành giáo dục và phương pháp giáo dục STEM đã mang lại kết quả tốt.
    Giáo dục STEM là một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở
    nhiều quốc gia trên thế giới. Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ
    tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp
    3
    lần thứ 4; Thực hiện Chỉ thị số 2268/CT-BGDĐT ngày 08/8/2019 của Bộ Giáo dục và
    Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2019 – 2020 của ngành Giáo dục;
    Ngành Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tỉnh nhà trong thời gian qua đã có nhiều hoạt
    động chủ động nhằm đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, giáo dục học sinh
    hướng tới mục tiêu phát triển năng lực, có tri thức, năng động, hội nhập thế giới; các
    phương pháp dạy học tích cực đã được chú ý triển khai thực hiện trong thời gian qua
    như phương pháp Dạy học theo dự án, phương pháp nghiên cứu khoa học, phương
    pháp “bàn tay nặn bột” và phương pháp giáo dục STEM đã mang lại kết quả tốt.
    Tháng 8/2018 Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định đã tổ chức tập huấn dạy học
    STEM cho các giáo viên. Trường THPT Ngô Quyền cũng đã triển khai nhiệm vụ tới
    các tổ, nhóm chuyên môn về kế hoạch dạy học tiếp cận STEM. Trước nhiệm vụ này
    chúng tôi đã chủ động tìm hiểu qua các tài liệu tập huấn, trang mạng internet,…về
    STEM/STEAM.
    Trong cuốn sách “Giáo dục STEM/STEAM: từ trải nghiệm thực hành đến tư
    duy sáng tạo”, tác giả Lê Thanh Hải nói sơ lược về lịch sử ra đời của thuật ngữ giáo
    dục STEAM. Và ngay trong phần Mở đầu cuốn sách này, tác giả Lê Thanh Hải cũng
    có nhắc đến hội chứng viêm đường hô hấp cấp (SARS) như là một trong những vấn đề
    vốn thuộc về khoa học – công nghệ nhưng lại quan hệ mật thiết với đời sống xã hội.
    Trong tương lai, những vấn đề như thế sẽ càng rất nhiều, khi mà khoa học – công nghệ
    ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đến với mọi mặt của đời sống xã hội; do vậy, việc
    chuẩn bị một nền tảng kiến thức và tư duy mang tính liên ngành giữa khoa học và xã
    hội (socio-scientific reasoning) ở mức phổ quát, căn bản là một đòi hỏi vô cùng quan
    trọng đối với nền giáo dục và sự thịnh vượng của quốc gia, để chuẩn bị cho thế hệ
    công dân toàn cầu trong tương lai. Mấy tháng gần đây, tràn ngập trên các phương tiện
    thông tin đại chúng mọi người chia sẻ và cập nhật rất nhiều thông tin về bệnh viêm
    phổi từ chủng coronavirus mới được đặt tên là 2019 Novel Coronavirus (2019-nCoV),
    được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc. Việc đưa chủ đề thời sự bệnh viêm
    phổi cấp vào các bài học học về khoa học là cần thiết. Tùy theo từng trình độ mà các
    giáo viên chủ động giới thiệu với học sinh những kiến thức liên quan đến chủ đề thời
    sự này. Quá trình dạy học này còn kết hợp với hướng nghiệp cho các em học sinh về
    những nghề nghiệp tương lai; giúp chương trình giáo dục STEM/STEAM ở Việt Nam
    được giảng dạy có chiều sâu, bài bản hơn để các học sinh hiểu được mối quan hệ liên
    ngành và đa chiều phức tạp trong các vấn đề về khoa học, công nghệ và xã hội; đặc
    biệt, có được kiến thức và kỹ năng để phân tích, đánh giá (tư duy phản biện) khi tiếp
    cận các nguồn thông tin khác nhau.
    Cũng theo tác giả Lê Thanh Hải, giáo dục STEM không chỉ gói gọn trọng sự liên
    môn giữa các nhóm kiến thức khoa học tự nhiên mà giờ đây các giáo viên tại Mỹ đã
    chủ động lồng ghép thêm các yếu tố về văn hóa, xã hội, nhân văn, nghệ thuật (gọi
    chung là các môn nghệ thuật khai phóng – liberal arts); do vậy STEM đã được phát
    triển lên thành STEAM; thỉnh thoảng STEAM được viết thành STE(A)M với chữ A
    4
    được viết trong ngoặc đơn với chủ đích diễn tả các chương trình học có nhấn mạnh các
    môn nghệ thuật khai phóng trên nền tảng của giáo dục STEM nói chung.
    Trong cuốn sách “Từ STEM đến STEAM”, hai tác giả David Sousa và Tom
    Lilecki gần đây cũng có đề cập đến khái niệm các môn nghệ thuật (Arts – chữ art được
    viết dưới dạng danh từ số nhiều, có s). Theo hai tác giả này, các môn nghệ thuật chính
    là các cách biểu đạt sự sáng tạo của con người thông qua các kỹ năng, giúp làm phong
    phú sự cảm nhận bằng các giác quan, từ âm nhạc cho đến kịch nghệ, điện ảnh. Danh
    sách các dạng hình nghệ thuật thì dường như dài bất tận, vì có những loại hình nghệ
    thuật mà hiện nay người ta vẫn chưa biết đặt tên cho nó là như thế nào, vì nó là sự trộn
    lẫn giữa các loại hình nghệ thuật với nhau, chẳng hạn như sự kết hợp giữa việc tạo ra
    các kiến trúc điêu khắc kết hợp với sự sắp đặt có chủ ý để tạo ra các hiệu ứng về âm
    thanh khi có gió thổi. Ngày nay, với sự phát triển của ứng dụng công nghệ và kỹ thuật,
    nhiều loại hình nghệ thuật với độ chính xác và tinh xảo rất cao. Chính vì lẽ đó, xu
    hướng các bài học STEM giờ đây luôn dành một khoảng không gian cho việc kết nối
    với các chủ đề về xã hội, văn hóa, và các môn nghệ thuật. Ở đó, học sinh được khuyến
    khích vận dụng óc sáng tạo về các môn nghệ thuật, các kiến thức về lịch sử và nhân
    văn để tạo ra một sản phẩm mới, có giá trị và ý nghĩa cho xã hội. Chẳng hạn, khi học
    về khoa học môi trường, các em học sinh lớp cấp hai ở Mỹ không chỉ được tìm hiểu lý
    thuyết về mối quan hệ giữa con người với môi trường mà còn được thưc hành dùng
    phần mềm SketchUp và Google Earth (cả hai đều miễn phí) để thiết kế những khu vui
    chơi kết hợp với bảo tồn thiên nhiên, thậm chí hướng đến cả đối tượng người khuyết
    tật, khó khăn trong việc di chuyển; đó là những ý tưởng hoàn toàn mới mà không bao
    giờ có thể tìm thấy trong sách giáo khoa. Chính nhờ đưa các môn nghệ thuật vào giáo
    dục STEM đã giúp giải phóng sự tưởng tượng và sáng tạo của trẻ nhỏ. Nói về vai trò
    của trí tưởng tượng trong giáo dục, Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết, đã nói một
    câu đầy cảm hứng về trí tưởng tượng: “Tôi đủ chất nghệ sĩ để tự do vẽ theo trí tưởng
    tượng của tôi. Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức là hạn chế, còn trí
    tưởng tượng bao quanh khắp thế giới”. (“I am enough of an artist to draw freely upon
    my imagination. Imagination is more important than knowledge. Knowledge is
    limited. Imagination encircles the world.”). Ngày nay, khi nhìn vào bất kỳ một vật
    dụng hay thiết bị nào mà chúng ta đang sử dụng, chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là sự
    kết hợp của rất là nhiều kiến thức từ rất nhiều lĩnh vực để tạo nên nó, trong đó có cả
    yếu tố thẩm mĩ và văn hóa. Khi khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh, việc
    đưa một ý tưởng thành một sản phẩm chỉ tính bằng ngày hoặc bằng giờ. Và khi xã hội
    càng phát triển, thì các sản phẩm tiêu dùng càng được cá nhân hóa nhiều hơn. Chẳng
    hạn: Với công nghệ in 3-D, khách hàng có thể tự in chiếc áo để mặc theo cách riêng,
    hay thậm chí khách hàng có thể tự thiết kế để in cái nhà để ở. Điều đó nói lên rằng,
    sống trong xã hội ngày nay, ít nhiều chúng ta cũng cần đến tư duy thiết kế và óc nghệ
    thuật.Thông qua cách tiếp cận giáo dục STEAM, học sinh nhận thức được sự giao thoa
    giữa các ngành khoa học, toán học và các môn nghệ thuật, thấy được sự cần thiết của
    5
    các kiến thức chuyên ngành để có thể giải quyết một vấn đề hay tạo nên một sản phẩm.
    Đồng thời, nhờ được tạo cơ hội khuyến khích sáng tạo dựa trên sở thích riêng của bản
    thân, nên các em học sinh tự tin hơn trong quá trình học tập và làm việc nhóm. Điều
    thú vị là các chương trình giáo dục STEAM còn có thể giúp học sinh được trải nghiệm
    qua các cảm xúc của thất bại trong quá trình học tập, một trong những yếu tố cần thiết
    cho sự trưởng thành của trẻ khi bước vào đời.
    4. Báo cáo sáng kiến “Dạy học STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ
    đề Coronavirus” được người viết lựa chọn còn xuất phát từ chính lòng yêu nghề, sự
    say mê với nghề, tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tâm với thế hệ trẻ Thành Nam.
    Thực hiện đề tài này chúng tôi thực sự mong muốn được trao đổi với đồng nghiệp để
    được học hỏi và trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ.
    CHƯƠNG II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. MÔ TẢ CƠ SỞ THỰC TẾ TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Hệ thống SGK chương trình hiện hành cấp học THPT đã được tái bản lần thứ
    mười, in xong và nộp lưu chiểu tháng 1/2018. Như vậy với thế hệ HS 2000, các em
    đang phải học một chương trình SGK quá cũ, quá lạc hậu, có những số liệu cách đây
    mười mấy năm so với thời điểm hiện tại nhiều khi phản ánh sai vấn đề. Nhiều năm
    qua, việc xây dựng nội dung sách giáo khoa cũng như các loại sách bài tập tham khảo
    của giáo dục nước ta nhìn chung còn mang tính hàn lâm, kinh viện nặng về thi cử;
    chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp cho học sinh;
    chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội cũng như
    nhu cầu của người học. HS còn hạn chế về năng lực phản biện, tư duy, sáng tạo, kỹ
    năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp
    tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập nghiệp còn hạn chế. Tóm lại có
    thể nói, chương trình hiện hành mới chú trọng cung cấp cho HS những kiến thức cơ
    bản nhất, khái quát nhất, có những nội dung kiến thức đã cũ vì vậy đòi hỏi GV và HS
    phải cập nhật những vấn đề nóng bỏng của thời đại, phải có cái nhìn khái quát và sự
    hiểu biết rộng về nhiều vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống kinh tế xã hội thế giới
    cũng như trong nước, có như thế mới hòa nhập và thích ứng được với cuộc sống hiện
    tại, mới kích thích được niềm say mê, hứng thú dạy và học của cả GV và HS.
    Trong thời gian 45 phút lên lớp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, GV chỉ truyền
    thụ những kiến thức liên quan tới nội dung bài học đã có trong SGK, việc cập nhật
    kiến thức còn rất hạn chế. Như vậy học xong bài học, HS cũng chỉ dừng lại ở việc nắm
    được những kiến thức cơ bản của bài học, mà không biết được nhưng kiến thức cập
    nhật đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên thế giới. Điều này lâu dần sẽ dẫn tới việc
    HS thụ động nhìn bài và chép nội dung vào vở, không có sự sáng tạo, không phát huy
    được năng lực tự học, sự hứng thú với môn học của HS.
    Trong quá trình giảng dạy, các giáo viên đã sử dụng các phương pháp dạy học
    truyền thống kết hợp một số phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học tích cực: dạy học
    6
    theo nhóm nhỏ, sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, phương pháp đàm thoại gợi mở, kĩ thuật
    phòng tranh… khai thác kênh hình và kênh chữ sách giáo khoa với các thí nghiệm
    minh hoạ, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin, chủ yếu là Powerpoint, sử
    dụng các video minh họa… để tăng tính trực quan, kích thích tư duy học sinh. Tuy
    nhiên, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, tính đến thời điểm hiện tại, tại các lớp học chưa
    có máy chiếu hay tivi thông minh, bởi vậy trong các giờ học, học sinh chủ yếu lắng
    nghe, tiếp thu các kiến thức một cách thụ động được quy định sẵn; học sinh chỉ nắm
    được kiến thức lí thuyết, còn nội dung mở rộng, vận dụng, mang tính cập nhật, thời
    sự… nhiều học sinh chưa tiếp cận được; học sinh chủ yếu được rèn luyện kĩ năng
    nghe, quan sát, đọc chọn lọc ý từ sách giáo khoa, vận dụng kiến thức mà cọc sinh chưa
    khám phá hết năng lực của bản thân, chưa chủ động trong việc học tập, khả năng sáng
    tạo và vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN “DẠY HỌC STEM/STEAM
    THEO CÁC VẤN ĐỀ THỜI SỰ – CHỦ ĐỀ CORONAVIRUS”
    Có thể nói, trải qua giai đoạn biến động cực mạnh trong xã hội từ ảnh hưởng
    của dịch Covid-19 nói riêng và toàn cầu hoá nói chung, nền giáo dục của mỗi quốc gia
    đứng trước áp lực lớn khi nhiều người đều có cảm giác rằng kiến thức thông thường
    trở nên vô ích giống như người đi biển thiếu la bàn. Điều đó cho ta thấy điểm mấu
    chốt của vấn đề trong giáo dục là hướng đến giúp con người có tầm nhìn rộng, khả
    năng thích nghi và khả năng tự học, tự nghiên cứu suốt đời để luôn phát triển bản thân.
    Có như vậy, mỗi cá nhân sẽ không phải lo về vấn đề thất nghiệp mà còn có thể tự tạo
    ra cơ hội việc làm cho mình và cho người khác. Giáo dục hiện nay cũng như trong
    tương lai sẽ không đơn thuần truyền thụ kiến thức, đó còn là dạy học sinh cách học,
    học cách nghĩ, cách sống. Giáo dục cần hướng tới trang bị và cung cấp cho học sinh
    kiến thức tổng quát, trải rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, cho người học công cụ khám
    phá bản thân, thế giới xung quanh để sau này họ có thể tiếp cận, chuyển đổi công việc
    linh hoạt, không bị lỗi thời. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như
    tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, những kỹ năng quan trọng cho
    thế kỷ 21 này đó chính là khả năng tự học, phân tích, diễn đạt ý nghĩ của mình và khả
    năng giải quyết vấn đề. Trong hoàn cảnh ấy, dạy học “Dạy học STEM/STEAM nói
    chung và “Dạy học STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ đề Coronavirus” có ý
    nghĩa vô cùng quan trọng.
    1. Giới thuyết về STEM/STEAM
    1.1. Sự khác biệt giữa STEM và STEAM
    STEM được viết tắt từ các từ: “Science, Technology, Enginerring, Math” –
    “Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học”. Hiểu một cách đơn giản thì phương pháp
    này cung cấp cho học sinh kiến thức toàn diện về 4 lĩnh vực trên bằng cách kết hợp
    giữa việc học lý thuyết và thực hành, hoạt động thực tiễn, trải nghiệm đời sống. STEM
    cho phép học sinh được thường xuyên thảo luận, tự rút ra kết luận và ghi nhớ kiến thức
    sâu sắc hơn. Có thể nói, phương pháp STEM giống như một cái búa, giúp phá vỡ bức
    7
    tường chắn bấy lâu nay giữa hàn lâm và thực tiễn.
    Qua một thời gian hình thành và phát triển, phương pháp STEM được cải thiện
    thành STEAM. Chữ “A” trong STEAM là viết tắt cho “Art” – “Nghệ thuật”. Nếu giáo
    dục STEM là tập trung vào giải quyết các vấn đề với tư duy, kỹ năng phân tích thì
    STEAM khác biệt ở chỗ, nó giúp học sinh khám phá các môn học tương tự, nhưng kết
    hợp thêm tư duy sáng tạo và nghệ thuật ứng dụng vào giảng dạy, cùng với các tình
    huống thực tế. Đồng thời, giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh và học sinh cũng được
    đặt câu hỏi ngược lại. Các nhà giáo dục tin rằng, nếu tích hợp thêm “Nghệ thuật” vào
    giảng dạy, học sinh có thể sử dụng cả hai mặt của bộ não là phân tích và sáng tạo. Từ
    đó những đứa trẻ sẽ có tiền đề phát triển tốt nhất cho tương lai
    1.2. STEM – phương pháp giáo dục hàng đầu; STEAM – Phương pháp giáo dục
    hiện đại và lí tưởng
    Là khởi đầu cho một sự thay đổi lớn ở Mỹ và là tương lai của cả một nền giáo
    dục, STEAM được tạo thành từ thuật ngữ “STEM” và “Nghệ thuật – Art”. Ra đời từ
    thập kỷ trước, STEM (viết tắt của Khoa học – Science, Công nghệ – Technology, Kỹ
    thuật – Engineering, và Toán học – Mathematics) đã luôn là một phương pháp giáo
    dục hàng đầu tại thời điểm lúc bấy giờ. STEM tập trung vào việc đào tạo cho học sinh
    8
    về 4 lĩnh vực trên. Tuy nhiên, chủ trương của nền giáo dục hiện đại, ngày nay lại đánh
    giá cao tầm quan trọng của Nghệ thuật trong việc thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo, đó
    cũng chính là lý do tại sao phương pháp giáo dục STEAM ra đời.
    STEAM là ý tưởng sáng tạo ban đầu của Trường Thiết Kế Rhode Island (Mỹ),
    sau đó được sử dụng bởi nhiều nhà giáo dục và dần dần lan rộng ra cả Hoa Kỳ. Đây là
    một phương pháp tiếp cận giáo dục kiểu mới, trong đó Khoa Học, Công Nghệ, Kỹ
    Thuật, Nghệ Thuật, và Toán Học cùng được sử dụng để giảng dạy và hướng dẫn cho
    học sinh. STEAM là một sự chuyển đổi từ cách thức giáo dục truyền thống, dựa vào
    tiêu chuẩn điểm số để đánh giá, sang một phương pháp giáo dục hiện đại và lý tưởng,
    trong đó quá trình học tập và kết quả cùng được xem trọng như nhau.
    Tại sao chúng ta cần nghệ thuật?
    Vào ngày 06/05/2011, Ủy ban Nghệ thuật và Nhân văn của Tổng thống Obama
    đã ban hành một bản báo cáo tại Hội nghị Đối tác giáo dục nghệ thuật (AEP) được gọi
    là “Tái đầu tư trong giáo dục nghệ thuật: Làm chủ tương lai nước Mỹ thông qua các
    trường học sáng tạo”. Trong đó, ủy ban đã nêu rõ “khi học sinh được tham gia vào các
    bộ môn nghệ thuật, thành tích học tập của các em có thể tăng gấp bốn lần, điểm số
    GPA/SAT cũng cao hơn, và các em còn có thể cải thiện chỉ số IQ về không gian-thời
    gian của mình lên đến 56%. Trình độ Toán học của học sinh khối 12 được nâng lên
    một cách đáng kể, học sinh tương tác với các thầy cô và bạn bè của mình nhiều hơn,
    và trở nên tự tin và trình bày quan điểm của mình tốt hơn nhiều so với trước kia”. Bản
    báo cáo trên đã chứng minh cho tầm quan trọng của việc kết nối giữa nghệ thuật, văn
    hóa, sự sáng tạo và đổi mới, đồng thời nêu lên sự cấp thiết cho ra đời một chương trình
    mới nhằm cải cách nền giáo dục ở Mỹ.
    Chúng ta dường như quên rằng sự đổi mới thực sự không đến từ một phương
    trình toán học, công nghệ hay các loại hóa chất mới, nó đến từ những nơi như nghệ
    thuật, thiết kế, hay đơn giản hơn nó đến từ chính con người chúng ta. Đổi mới trong
    cuộc sống của mọi người nói chung và trong các ngành khoa học nói riêng luôn gắn
    liền với những trải nghiệm của con người, bằng một phương thức nào đó, dù trực tiếp
    hay gián tiếp. Những trải nghiệm của con người có được thông qua việc tương tác với
    những gì liên quan đến nghệ thuật như nghe nhạc, hay chiêm ngưỡng một tác phẩm
    nghệ thuật… Chính nghệ thuật giúp bạn nhìn nhận sự việc bằng một cách thức tự
    nhiên, dễ tiếp nhận hơn, và trong một không gian cởi mở hơn. Thế giới của chúng ta
    được xây dựng nên bởi những nhà tư duy phân tích. Tuy nhiên, những nghệ sĩ hay nhà
    thiết kế – những nhà tư duy trực giác lại là người mở ra cho chúng ta vô vàn khả năng.
    Những sự đổi mới to lớn ra đời khi chúng ta biết kết hợp lối tư duy phân tích và tư duy
    trực giác lại với nhau.
    Tiến sĩ Jerome Kagan, Giáo sư Danh dự tại Đại học Harvard và là một trong 22
    nhà tâm lý học nổi tiếng và được trọng vọng nhất của thế kỷ 20, nói rằng nghệ thuật
    góp phần thúc đẩy con người học tập tốt đến đáng ngạc nhiên, bởi các bộ môn nghệ
    thuật thường kết hợp ba công cụ chính mà trí não con người sử dụng để tiếp nhận, lưu
    trữ và truyền đạt kiến thức, đó là: các kỹ năng vận động, sự hình dung thông qua giác
    quan, và ngôn ngữ. Tiến sĩ Kagan đã phát biểu tại buổi nói chuyện về sự tiếp thu, nghệ
    thuật và não bộ con người tại Trường Đại học John Hopkins vào năm 2009 như sau:
    “Nghệ thuật và âm nhạc đòi hỏi con người ta phải sử dụng đến cả kiến thức về biểu đồ
    9
    và tiến trình, chính vì vậy sẽ giúp cho một đứa trẻ hiểu rộng hơn và sâu hơn về một
    vấn đề nào đó, và về thế giới này”.
    Với sự nhận thức này, các nhà giáo dục của Hoa Kỳ đang hợp nhất giữa nghệ
    thuật và các bộ môn khoa học lại với nhau. Tại Viện Woft Trap ở Virginia, các nhà
    giáo dục đang kết hợp môn nhảy múa với những bộ môn như toán số và hình học. Tại
    Trường thiết kế Rhode Island, nhà nghiên cứu của Học viện công nghệ Massachusetts,
    Jie Qui đã giới thiệu cho các sinh viên về loại giấy điện tử, trong đó mở ra việc sử
    dụng công nghệ trong nghệ thuật diễn cảm. Bản nghiên cứu này của cô đã làm cho các
    sinh viên thích thú hơn về các bộ môn khoa học, đồng thời thúc đẩy trí tưởng tượng
    của họ bay xa hơn. Việc kết hợp giữa khoa học và trí tưởng tượng được xem như một
    sự pha chế hoàn hảo, mang đến cho nền giáo dục của chúng ta bước lên một giai đoạn
    phát triển mới.
    Sáng tạo sẽ luôn là loại “gia vị” bí mật của một nền giáo dục toàn diện
    Thật vậy, chúng ta biết rằng để những thế hệ trẻ có thể đối mặt và vượt qua
    được những thách thức lớn sau này, đòi hỏi phải có những giải pháp thực sự sáng tạo,
    nhưng chỉ một mình STEM không thể mang đến điều đó. Chính STEAM và sự tham
    gia của nghệ thuật vào trong giáo dục là rất quan trọng dành cho học sinh ở cấp lớp từ
    mầm non lên đến lớp 12. Theo đó, việc tiếp nhận những bộ môn Khoa học, Công
    Nghệ, Kỹ thuật, và Toán học trong STEM đối với học sinh cũng trở nên dễ dàng hơn,
    và đồng thời đảm bảo được trong hành trình đổi mới của chúng ta, sự sáng tạo không
    bị quên lãng và bỏ lại phía sau. Các công ty và tổ chức mà trước kia vẫn tìm kiếm
    những tài năng từ trong các trường đại học nghiên cứu cỡ lớn, nay lại chuyển hướng đi
    tìm những người có khả năng sáng tạo, những người có thể mang đến những kỹ năng
    giải quyết vấn đề độc đáo, và một sự hiểu biết sâu sắc về trải nghiệm của người dùng.
    Gần đây, trong cuốn sách bán chạy nhất của Walter Issacson viết về tiểu sử
    Steve Jobs, có nhắc đến việc Jobs đã từng nói rằng nhiều kỹ sư tài năng nhất của
    Apple đều rất giỏi trong âm nhạc hay một loại hình nghệ thuật nào đó. Lisa Phillips,
    một tác giả, nhà báo, và là một nhà giáo dục về kỹ năng lãnh đạo và nghệ thuật cũng
    đã liệt kê ra một danh sách 10 kỹ năng mà những người trẻ tuổi sẽ lĩnh hội được thông
    qua việc học nghệ thuật, đó là
    1. Sáng tạo
    2. Tự tin
    3. Giải quyết vấn đề
    4. Kiên trì
    5. Tập trun
    6. Giao tiếp phi ngôn từ
    7. Tiếp nhận phản hồi mang tính xây dựng
    8. Hợp tác
    9 Tận tâm
    10. Trách nhiệm
    Các học sinh, sinh viên có khuynh hướng nghệ thuật hay được đào tạo toàn diện
    cả về kiến thức và nghệ thuật hiện nay đang có một tác động rất lớn vào việc đổi mới
    xã hội. Chính các em là những người giúp giải quyết các vấn đề toàn cầu quan trọng,
    là người đưa ra những giải pháp sáng tạo đối với môi trường, và những thách thức của
    xã hội.
    Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần những chương trình đào tạo kết hợp hài
    hòa giữa các bộ môn Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học và Nghệ thuật để đào
    tạo ra những thế hệ trẻ toàn diện cả về học thuật, và thúc đẩy sự sáng tạo bên trong
    của mỗi người. Chúng ta cần những ý tưởng mới, những giải pháp mới cho các vấn
    10
    đề hiện tại và sau này. Chúng ta cần đánh thức những “nghệ sĩ” bên trong chính
    những thế hệ học sinh nhỏ tuổi để các em có thể trở thành những công dân toàn cầu
    thực thụ.
    Tin rằng, đổi mới từ STEM sang STEAM là điều vô cùng cần thiết để cải
    thiện nền giáo dục của chúng ta. Cho dù bạn là một nghệ sĩ, nhà thiết kế, kỹ sư công
    nghệ, nhà khoa học, thì việc chuyển đổi sang STEAM là cấp thiết hiện nay; sự sáng
    tạo là điều kiện cần cho sự phát triển giáo dục của chúng ta. Không ai có thể phủ
    nhận thêm nữa về tầm quan trọng của giáo dục nghệ thuật, nơi mang đến những sự
    đổi mới cho cuộc sống và tương lai của chúng ta.
    Hiện nay, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hệ thống Trường Tây Úc đang áp
    dụng phương pháp giáo dục STEAM cho trẻ từ cấp lớp mầm non lên đến năm 12.
    Phương pháp này cần được mở rộng ra không chỉ riêng tại TP. Hồ Chí Minh mà trên
    toàn Việt Nam. Đối với Khối Mầm non và Tiểu học, giáo viên sẽ khuyến khích các
    bé tự do thử sức với nhiều ý tưởng khác nhau, và không để cho cảm giác “sợ sai”
    kiềm chế khả năng của mình. Giáo viên sẽ là người luôn lắng nghe đa chiều và mang
    lại cho các em học sinh một nền tảng kiến thức thực tế ngay từ khi còn nhỏ. Ở bậc
    trung học, STEAM đòi hỏi và trang bị cho học sinh những kỹ năng đánh giá về nghề
    nghiệp, sở thích, cơ hội và sự phát triển trong bối cảnh lịch sử, hiện tại và tương lai,
    từ quy mô địa phương ra đến toàn cầu. Các em được học và áp dụng những kiến thức
    từ nền tảng đến chuyên sâu, những kỹ năng và sự kỷ luật thông qua việc thực hiện
    các dự án thực tế và việc nghiên cứu những cập nhập mới nhất về các lĩnh vực liên
    quan. Học sinh còn có cơ hội tự đánh giá niềm đam mê, sở thích, trải nghiệm và tài
    năng của chính mình nhằm cải thiện sự phát triển của mỗi cá nhân ngày qua ngày.
    Điều này vô cùng hữu ích cho các em khi theo đuổi những khát vọng tương lai sau
    khi ra trường. Với những ưu điểm nổi trội trên, tin rằng STEAM sẽ giúp đào tạo
    những đứa trẻ – với đủ mọi trình độ và khả năng, trở thành những công dân toàn cầu
    trong chính cộng đồng của mình.
    1.3. Những điểm mạnh của giáo dục STEM/STEAM
    Thứ nhất: Giáo dục STEM/STEAM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách
    tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy
    bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một
    mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được
    kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
    Giáo dục STEM/STEAM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo
    ra những con người có năng lực làm việc “tức thì” trong môi trường làm việc có tính
    sáng tạo cao với những công việc đòi hỏi trí óc của thế kỷ 21.
    Điều này phù hợp với cách tiếp cận tích hợp trong Chương trình GDPT mới. Vì
    thế, tư tưởng này của giáo dục STEM/STEAM cần được khai thác và đưa vào mạnh
    mẽ trong Chương trình GDPT mới.
    Thứ hai: Giáo dục STEM/STEAM đề cao đến việc hình thành và phát triển
    năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học
    sinh được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến
    các kiến thức khoa học.
    Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức
    11
    thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa, học liệu, thí nghiệm,
    công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra.
    Các kiến thức và kỹ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau
    giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo ra được
    những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Tư tưởng này của giáo dục
    STEM/STEAM cũng cần được khai thác và đưa vào mạnh mẽ trong Chương trình
    GDPT mới.
    Thứ ba: Giáo dục STEM/STEAM đề cao một phong cách học tập mới cho
    người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà
    phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết
    cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với
    tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.
    Sự thẩm thấu kiến thức theo cách như vậy chính là một trong những định hướng
    mà giáo dục cần tiếp cận. Tuy vậy, có thể thấy phương thức dạy học như trên là không
    hề dễ dàng ngay cả đối với thế giới chứ không chỉ riêng trong điều kiện hiện nay của
    chúng ta.
    1.4. Các cấp độ của tổ chức dạy học STEM/STEAM
    Việc tổ chức dạy học STEM có nhiều cấp độ khác nhau. Tùy thuộc vào điều
    kiện hoàn cảnh của từng trường mà lựa chọn cấp độ để đạt được hiệu quả giáo dục tốt
    nhất. Có 4 cấp độ dạy học STEM/STEAM như sau:
    Cấp độ định hướng STEM/STEAM: Tập trung dạy liên môn, học sinh được
    cung cấp kiến thức các môn STEM chắc chắn, khả năng sáng tạo, tư duy logic, hiệu
    suất làm việc vượt trội có cơ hội phát triển các kĩ năng mềm toàn diện hơn, có khả
    năng định hướng nghề nghiệp tương lai. Cấp độ này hiện giờ là phù hợp cho trình độ
    giáo viên và học sinh ở nhiều trường THPT ở nước ta hiện nay, nhất là các trường ở
    vùng nông thôn điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế.
    Cấp độ bổ trợ môn học STEM/STEAM: Dạy các môn công nghệ, Robotics- các
    môn điển hình cho dạy học STEM/STEAM. Thông qua lập trình lắp ráp robot, học
    sinh hiểu được: nguyên lí cơ bản về lập trình và các công nghệ mới hiện nay, có thể
    tiếp thu các kĩ thuật lắp ráp, đồng thời phát triển tính tư duy kĩ thuật. Học công nghệ
    thông qua thực hành và thông qua hoạt động dưới dạng trò chơi làm tăng hứng thú,
    tránh cảm giác nặng nề quá tải.
    Cấp độ bán STEM/STEAM: Dạy học tích hợp, lồng ghép liên môn của STEM
    theo một giáo trình được nghiên cứu và thử nghiệm nghiêm túc, hiệu quả. Học sinh
    được thực hành thông qua xem các video trong không gian ảo. Tuy nhiên cách học này
    mới đảm bảo được một mặt: những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các
    lĩnh vực khoa học công nghệ, kĩ thuật và toán học, lồng ghép và bổ trợ cho nhau trong
    một giáo trình có chủ đích. Còn về mặt ứng dụng thực tiễn của STEM chưa được đề
    cập, học sinh chưa được trực tiếp làm mới được thấy thực tế ở mức độ mô tả, hình
    dung.
    Cấp độ tiếp cận quan điểm STEM/STEAM hoàn toàn: Dạy học cấp độ bán
    STEm kết hợp học sinh được thực hành thông qua các dự án STEM. Dự án ở đây là
    một bài tập tình huống, một chủ đề mà người học phải giải quyết bằng kiến thức
    STEM.
    12
    Giáo dục STEM/STEAM nói chung và dạy học STEM/STEAM nói riêng
    không phải là để học sinh trở thành những nhà khoa học mà là xây dựng cho học sinh
    những năng lực cần thiết để làm việc trong thế giới công nghệ hiện đại, trong tương
    lai. Để đạt được hiệu quả trong dạy học STEM/STEAM, trước hết giáo viên phải có
    những nhận thức đúng, chính xác về STEM/STEAM.
    1.5. Các tiêu chí để đánh giá một bài học STEM/STEAM
    Tiêu chí 1: Chủ đề bài học STEM/STEAM tập trung vào các vấn đề thực tiễn
    Trong các bài học STEM/STEAM, học sinh được đặt vào các vấn đề thực tiễn
    xã hội, kinh tế, môi trường và yêu cầu tìm giải pháp
    Tiêu chí 2: Cấu trúc bài học STEM/STEAM được thiết kế theo quy trình kĩ thuật
    hoặc quy trình nghiên cứu khoa học
    Quy trình thiết kế kỹ thuật :
    Thiết kế kỹ thuật là cụ thể hóa ý tưởng của dự án nhằm thể hiện đầy đủ các giải
    pháp, thông số kỹ thuật và vật liệu sử dụng phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
    thuật được áp dụng, là cơ sở để triển khai thiết kế bản vẽ thi công.
    Quy trình thiết kế kỹ thuật cung cấp một tiến trình linh hoạt đưa học sinh từ
    việc xác định một vấn đề hoặc một yêu cầu thiết kế đến sáng tạo và phát triển giải
    pháp. Trong quy trình thiết kế kỹ thuật, các nhóm học sinh thử nghiệm các ý tưởng
    dựa trên nghiên cứu của mình, sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau mắc sai lầm,
    chấp nhận và học từ sai lầm, và thử lại. Sự tập trung của học sinh là phát triển các giải
    pháp. Một quy trình thiết kế kĩ thuật gồm những bước sau:
    13
    Quy trình nghiên cứu khoa học:
    Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm hiểu thế giới thông qua các suy luận
    logic, thí nghiệm kiểm chứng để tìm hiểu quy luật vận hành của vạn vật hay tăng sự
    hiểu biết về thế giới. Một quy trình nghiên cứu khoa học gồm những bước sau:
    Tiêu chí 3:Phương pháp dạy học STEM/STEAM đưa học sinh vào những hoạt
    động tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm
    Trong bài học STEM, hoạt động của học sinh được thực hiện theo hướng mở có
    “ khuôn khổ” về các điều kiện ma học sinh được sử dụng (chẳng hạn các vật liệu khả
    dụng). Hoạt động học của học sinh là hoạt động được chuyển giao và hợp tác; các
    quyết định về giải pháp giải quyết vấn đề là của chính học sinh. Học sinh thực hiện các
    hoạt động trao đổi thông tin để chia sẻ ý tưởng và tái thiết kế nguyên mẫu của mình
    nếu cần. Học sinh tự điều chỉnh các ý tưởng của mình và thiết kế hoạt động khám phá
    của bản thân.
    Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức bài học STEM/STEAM lôi cuốn học sinh vào hoạt
    động nhóm kiến tạo
    Giúp học sinh làm việc cùng nhau như một nhóm kiến tạo không bao giờ là
    một việc dễ dàng. Tuy nhiên, việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu tất cả giáo viên
    STEM ở trường làm việc cùng nhau để áp dụng làm việc nhóm, sử dụng cùng một
    ngôn ngữ, tiến trình và mong đợi cho học sinh. Làm việc nhóm trong thực hiện các
    hoạt động của bài học STEM/STEAM là cơ sở phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác.
    Tiêu chí 5: Nội dung và bài học STEM/STEAM áp dụng chủ yếu từ nội dung
    khoa học và toán học mà học sinh đã và đang học
    Trong các bài học STEM/STEAM, giáo viên cần kết nối và tích hợp một cách
    có mục đích nội dung từ các chương trình khoa học, công nghệ và toán. Lập kế hoạch
    để hợp tác với các giáo viên toán, công nghệ và khoa học khác để hiểu rõ nội hàm của
    việc làm thế nào để các mục tiêu khoa học có thể tích hợp trong một bài học đã cho.
    Từ đó, học sinh dần thấy rằng khoa học, công nghệ và toán không phải là các môn học
    14
    độc lập, mà chúng liên kết với nhau để giải quyết các vấn đề. điều đó có liên quan đến
    việc học toán, công nghệ và khoa học của học sinh.
    Tiêu chí 6: Tiến trình bài học STEM/STEAM tính đến có nhiều đáp án đúng và
    coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập
    Một câu hỏi nghiên cứu đặt ra, có thể đề xuất nhiều giả thuyết khoa học; một
    vấn đề cần giải quyết, có thể đề xuất nhiều phương án, và lựa chọn phương án tối ưu.
    Trong các giả thuyết khoa học, chỉ có một giả thuyết đúng. Ngược lại, các phương án
    giải quyết vấn đề đều khả thi, chỉ khác nhau ở mức độ tối ưu khi giải quyết vấn đề.
    Tiêu chí này cho thấy vai trò quan trọng của năng lực giải quyết vấn đề và sáng
    tạo trong bài học STEM/STEAM
    1.6. Các bước thiết kế một hoạt động/dự án dạy học định hướng STEM/STEAM
    Để xây dựng một dự án STEM/STEAM cần chú ý:
    Chú ý 1. Luôn yêu cầu học sinh tiến hành theo trình tự:
    – Làm như sách
    – Làm tốt hơn sách
    – Làm tốt hơn nữa
    Chú ý 2. Sau mỗi dự án cần tiến hành điều tra ý kiến học sinh để hoàn thiện và
    rút kinh nghiệm cho dự án tiếp theo:
    PHIẾU LẤY Ý KIẾN HỌC SINH SAU DỰ ÁN

    STTCâu hỏiCâu trả lời
    1Khi làm sản phẩm, em thích điều gì nhất? vì sao?
    2Ứng dụng toán (hóa học/vật lý/ sinh học…) ở chỗ
    nào? Liên quan đến mảng kiến thức nào?
    3Theo em sản phẩm này ứng dụng được vào trong
    thực tế như thế nào?
    4Các em đã phân công công việc trong nhóm như
    thế nào?
    5Các em gặp những khó khăn gì? Các em đã giải
    quyết ra sao?
    6Điều gì em nghĩ có thể làm mới hơn so với sách,
    so với các bạn?

    Các bước xây dựng hoạt đông/dự án STEM/STEAM bao gồm:
    Bước 1: Xác định chủ đề dự án dạy học định hướng STEM/STEAM: Dự án
    STEM/STEAM cần khơi gợi những đam mê, hứng thú của học sinh, giúp học sinh
    thông qua dự án STEM/STEAM lĩnh hội kiến thức và định hướng học sinh theo đuổi
    ước mơ, ngành nghề trong tương lai. Khi lựa chọn dự án cần chú ý các vấn đề sau:
    – Dự án phải là một vấn đề, một chủ đề có tính bao quát, tính thực tiễn và tính thời sự.
    – Nội dung dự án phải gắn với yếu tố nghiên cứu khoa học, yếu tố kĩ thuật của các
    ngành nghề hiện đại, kiến thức của dự án phải nằm trong chương trình giáo dục trung
    học phổ thông do Bộ Giáo Dục quy định.
    Bước 2: Xác định mục tiêu của dự án
    Trong bước này cần cụ thể và lượng hóa các năng lực chuyên môn của những
    môn học liên quan, các năng lực và kĩ năng mà học sinh cần hình thành qua chủ đề.
    Đối với mỗi một năng lực cần phân tích và tìm hiểu từng thành tố, biểu hiện và hành vi
    cấu thành nên năng lực đó.
    Bước 3: Xác định các vấn đề cần giải quyết trong dự án/Câu hỏi nghiên cứu:
    Dự án đề cập đến đối tượng nào? Đối tượng đó có mặt trong lĩnh vực nào của đời
    15
    sống? Đối tượng đó liên quan đến những kiến thức khoa học nào? Xác định các nội
    dung kiến thức STEM/STEAM cần sử dụng để giải quyết vấn đề. Trả lời cho câu hỏi:
    Vận dụng những nội dung kiến thức nào để thực hiện dự án?
    Bước 5: Xây dựng các hoạt động, Lập kế hoạch dạy học, các giai đoạn giải quyết vấn
    đề của dự án
    • Tên hoạt động
    • Câu hỏi hoạt động
    • Kiến thức liên quan
    • Chỉ số hành vi cần đánh giá
    • Nguyên vật liệu
    • Các bước tiến hành
    • Kết quả, giải thích và đánh giá kết quả
    • Giáo án (Ai? Làm gì? Như thế nào? Bao lâu?)
    • Lựa chọn hoạt động
    • Sự kết hợp giữa các giáo viên (nếu cần)
    • Xây dựng công cụ đánh giá
    Bước 6: Tổ chức dạy học và đánh giá
    • Tiến hành theo giáo án
    • Đánh giá và điều chỉnh
    2. Xây dựng dự án dạy học định hướng STEM/STEAM: “Dạy học
    STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ đề Coronavirus
    Bước 1. Xác định chủ đề dự án giáo dục: Chung tay đẩy lùi đại dịch Covid 19
    Bước 2: Xác định mục tiêu của dự án
    Kiến thức: Giúp học sinh có kiến thức tổng hợp trên nhiều lĩnh vực như: Khoa học,
    công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) và nghệ thuật.
    Trình bày được các kiến thức cơ bản về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do
    chủng mới của virus Corona gây ra như tên gọi, nguồn gốc, lịch sử dịch bệnh, cấu trúc,
    hình thức lây truyền, dấu hiệu và triệu chứng, giao thức chuẩn đoán, cách phòng ngừa
    dịch bệnh.
    Trình bày và phân tích được tình hình diễn biến dịch Covid-19 trên thế giới và
    ở Việt Nam thông qua hệ thống biểu đồ, bảng số liệu.
    Hiểu được vai trò của cá nhân và cộng đồng, hiểu được thế nào là nhân nghĩa,
    hợp tác; hiểu trách nhiệm của công dân trước vấn đề có tính cấp thiết toàn cầu.
    Đọc hiểu văn bản và viết được các đoạn nghị luận xã hội liên quan đến Covid-
    19.
    Tìm hiểu các loại hình nghệ thuật để truyền tải những thông điệp nhân văn về
    công tác phòng chống bệnh Covid-19, bước đầu có thể vẽ tranh cổ động, sáng tác thơ,
    nhạc, video clip, gửi những thông điệp từ trái tim… liên quan đến Covid-19 tới cộng
    đồng.
    Kĩ năng: Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức STEM để giải quyết tình huống thực
    tiễn
    Kĩ năng tính toán, vẽ biểu đồ, bảng số liệu, kĩ năng viết báo cáo ngắn (nhận xét,
    phân tích vấn đề)
    Kĩ năng thu thập xử lí thông tin, số liệu trên mạng Internet.
    Kĩ năng đọc hiểu văn bản thông tin, văn bản nhật dụng; kĩ năng viết văn nghị
    luận xã hội bàn về một hiện tượng trong đời sống, bàn về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
    Kĩ năng thuyết trình, trình bày một vấn đề; kĩ năng phản biện một vấn đề
    16
    Kĩ năng sáng tạo: vẽ tranh, làm thơ, viết tự truyện, sáng tác các bài hát, điệu
    nhảy, quay dựng clip hoặc phim ngắn.
    Phẩm chất đạo đức, thái độ hành vi:
    Giúp học sinh có ý thức, trách nhiệm và có những hành động thiết thực để
    phòng,chống Covid-19 và tuyên truyền cộng đồng phòng,chống Covid-19.
    Giáo dục cho HS ý thức sống gắn kết và có trách nhiệm với với bản thân, gia
    đình và cộng đồng.
    Giáo dục cho HS Thái độ nghiêm túc tuân thủ các chủ trương, chính sách, pháp
    luật của nhà nước trong phòng chống dịch Covid-19.
    Định hướng phát triển năng lực
    Hình thành cho học sinh những năng lực chung như: năng lực giải quyết vấn đề
    và sáng tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực tự chủ và tự học; năng lực tư duy;
    năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng CNTT và truyền thông; năng lực phản
    biện; năng lực thực hành, làm việc nhóm; năng lực làm chủ bản thân; kĩ năng quản lý
    thời gian, thao tác thực hành trong quá trình thực hiện dự án.
    Hình thành cho học sinh những năng lực chuyên biệt như:
    Năng lực chuyên biệt môn Toán: năng lực tính toán (Năng lực sử dụng các
    phép tính, Năng lựcsử dụng ngôn ngữ toán, Năng lực mô hình hóa, Năng lực sử dụng
    công cụ đo, vẽ, tính);
    Năng lực chuyên biệt môn Tin học: Năng lực CNTT-TT cơ bản (Nhận biết,
    thao tác với phần mềm, thiết bị CNTT, Sử dụng CNTT-TT hỗ trợ học tập, Sử dụng
    CNTT-TT trong giao tiếp, Đạo đức, hành vi phù hợp khi sử dụng CNTT-TT), năng lực
    khoa học máy tính (Giải quyết vấn đề dựa trên tin học, Định hướng nghề nghiệp)
    Năng lực chuyên biệt môn Địa lý: năng lực sử dụng số liệu thống kê, sử dụng
    hình vẽ, tranh ảnh địa lý, mô hình, video…
    Năng lực chuyên biệt môn Ngữ văn: năng lực đọc hiểu văn bản; năng lực tạo
    lập văn bản; năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
    Năng lực chuyên biệt môn Sinh học: Năng lực kiến thức sinh học (bao gồm các
    kiến thức của chương III Virut và bệnh truyền nhiễm), cụ thể Bài 30: Sự nhân lên của
    virut trong tế bào chủ (Chương trình SGK Sinh học 10); Năng lực nghiên cứu khoa
    học (bao gồm quan sát các hiện tượng trong thực tiễn hay trong học tập để xác lập vấn
    đề nghiên cứu; thu thập các thông tin liên quan thông qua nghiên cứu tài liệu; hình
    thành giả thuyết khoa học, thu thập và phân tích dữ liệu; giải thích và rút ra kết luận);
    Năng lực chuyên biệt môn Giáo dục công dân: năng lực tự nhận thức, tự điều
    chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội; năng lực tự chịu
    trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng đất nước; năng lực giải
    quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội; năng lực đánh giá (năng lực tư
    duy phê phán)
    Năng lực chuyên biệt môn hóa học: năng lực thực hành thí nghiệm và vận dụng
    kiến thức hóa học vào thực tiễn (điều chế dung dịch rửa tay khô)
    Năng lực chuyên biệt các môn nghệ thuật: năng lực cảm thụ thẩm mĩ, từ đó
    đánh giá và sáng tạo thẩm mĩ.
    Bước 3: Xác định các vấn đề cần giải quyết trong dự án/ Câu hỏi nghiên cứu
    1. Thực trạng đại dịch Covid-19. Trả lời câu hỏi: Đại dịch Covid 19 trên thế
    giới và ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào?
    2. Phân tích nguyên nhân lây lan của dịch bệnh. Trả lời các câu hỏi: Cơ chế lây
    truyền của bệnh gây ra bởi virut Côrôna, biểu hiện của bệnh như thế nào? Tại sao căn
    bệnh này lại lây lan nhanh trên phạm vi toàn cầu và mức độ nguy hiểm của nó.
    17
    3. Đề xuất các giải pháp để chung tay đẩy lùi đại dịch Covid-19
    Trả lời các câu hỏi: Tuyên truyền về đại dịch Covid -19bằng cách nào? Những hành
    động cụ thể nào nhằm đẩy lùi đại dịch Covid-19
    Bước 4: Xác định các nội dung kiến thức STEM cần sử dụng để giải quyết vấn đề
    Trả lời cho câu hỏi: Vận dụng những nội dung kiến thức nào để thực hiện dự
    án?
    Ngoài các nội dung kiến thức của 4 lĩnh vực: Khoa học, công nghệ, kĩ thuật, toán học;
    dự án còn vận dụng kiến thức của lĩnh vực nghệ thuật.
    1. Khoa học (Science)
    Dự án vận dụng một số kiến thức cơ bản của các môn khoa học tự nhiên:
    Sinh học qua việc tìm hiểu Tên gọi; nguồn gốc; lịch sử dịch bệnh; cấu trúc;
    hình thức lây truyền, dấu hiệu và triệu chứng; giao thức chuẩn đoán; cách phòng ngừa
    dịch bệnh.
    Toán học, hóa học, lí học: Điều chế nước rửa tay khô. Tính toán hàm lượng
    thành phần, nồng độ Ethanol (Cồn); Deionized Water (Nước tinh khiết); Sodium
    Lactate (Chất hút ẩm); Fragrance (Hương liệu tạo mùi/Tinh dầu làm thơm);
    Benzalkonium Chloride (Chất diệt khuẩn); giải thích Sự bay hơi của cồn; tính toán
    hàm lượng thành phần, nồng độ chất dưỡng ẩm, dưỡng da tay, làm sao cho tay không
    bị khô (có thể thay thế bằng gel nha đam hoặc vitamin E dạng dầu lỏng), tinh dầu
    (thành phần này không bắt buộc trong cách làm nước rửa tay khô; đây là thành phần
    thêm vào giúp giảm bớt mùi của cồn, tạo mùi thơm dễ chịu và có công dụng dưỡng ẩm
    tốt hơn, có thể sử dụng các loại như tinh dầu tràm, tinh dầu quế, tinh dầu bạc hà,…),
    tính toán diện tích mô hình bệnh viện cho phù hợp với diện tích trường Ngô Quyền để
    có thể chuyển trường học thành một bệnh viện dã chiến trong trường hợp khẩn cấp .
    Ngoài ra, dự án còn vận dụng kiến thức cơ bản của các môn khoa học khác như:
    Địa lí, Ngữ văn, Giáo dục công dân, Lịch sử, Thể dục: Tính toán và vẽ biểu đồ số ca
    nhiễm; tìm hiểu lịch sử dịch bệnh; nêu những bài học rút ra từ cuộc chiến “chống dịch
    như chống giặc” ; Trách nhiệm của công dân với cộng đồng và với việc phòng ngừa,
    đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo nói chúng, đẩy lùi coronavirus nói riêng?
    Ngay cả môn Thể dục, có thể làm các clip rất chân thực, tự nhiên khi cảnh quay
    là tại nhà của các giáo viên để hướng dẫn HS rèn luyện các bài tập TDTT cơ bản để
    nâng cao sức khỏe.
    2. Công nghệ (Technology)
    Sử dụng mạng Internet để tìm hiểu các vấn đề cần giải quyết
    Sử dụng Power point để trình bày các vấn đề tìm hiểu, báo cáo dự án.
    Sử dụng các trang facebook, zalo để liên hệ làm việc nhóm trong giai đoạn cách

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề STEM tại câu lạc bộ STEM trường THPT

    SKKN Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề STEM tại câu lạc bộ STEM trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I. ĐIỀU KIỆN TẠO RA SÁNG KIẾN
    Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao quyền tự chủ xây dựng và thực hiện kế
    hoạch giáo dục, phát huy vai trò sáng tạo của nhà trường và giáo viên; chỉ đạo các
    cơ sở giáo dục trung học, tổ chuyên môn và giáo viên chủ động, linh hoạt trong
    việc xây dựng kế hoạch giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh phù hợp
    với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương và khả năng của học sinh. Từ
    năm học 2013-2014, các trường phổ thông được giao quyền tự chủ trong việc xây
    dựng và triển khai kế hoạch giáo dục dựa vào mục tiêu giáo dục quy định trong
    chương trình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, phù hợp với điều kiện cụ thể
    của nhà trường theo tinh thần các văn bản chỉ đạo của Bộ GDĐT: Công văn số
    3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27 tháng 5 năm 2013 về việc Hướng dẫn triển khai
    thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy học tích cực
    khác; Công văn số 791/HD-BGDĐT ngày 25 tháng 6 năm 2013 về việc hướng
    dẫn thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông; Công văn số
    5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08 tháng 10 năm 2014 về việc hướng dẫn sinh hoạt
    chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và
    quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục
    thường xuyên qua mạng; các công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục
    trung học hằng năm. Theo đó, thay cho việc dạy học đang được thực hiện theo
    từng bài/tiết trong sách giáo khoa như hiện nay, các tổ/nhóm chuyên môn căn cứ
    vào chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn nội dung để xây dựng
    các chủ đề dạy học trong mỗi môn học và các chủ đề tích hợp liên môn phù hợp
    với việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực tế của nhà
    trường. Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình
    hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương
    pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho
    học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng.
    Theo nội dung chỉ đạo của các công văn, khuyến khích các nhà trường:
    Trong năm học 2015-2016, nếu có điều kiện thuận lợi, nhà trường có thể giao cho
    các tổ/nhóm chuyên môn xây dựng và thực hiện một vài chủ đề tích hợp liên môn
    phù hợp. Trong trường hợp chưa có điều kiện thực hiện trong năm học 2015-
    2016, các nhà trường cần tổ chức xây dựng kế hoạch giáo dục trong đó có các
    chủ đề tích hợp liên môn để thực hiện từ năm học 2016-2017.
    Các kiến thức liên môn có thể nằm ở chương trình của các lớp khác nhau,
    hay ở cùng một môn học nhưng ở các giai đoạn khác nhau đều có thể được lựa
    3
    chọn để xây dựng thành các chủ đề dạy học tích hợp liên môn hay tích hợp kiến
    thức ở cùng một môn học.
    Thể theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, kế hoạch triển khai các bài học/chủ
    đề STEM và tổ chức các hoạt đông của câu lạc bộ STEM trong nhà trường.
    Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề
    STEM tại câu lạc bộ STEM trường THPT Nguyễn Khuyến” để hướng dẫn HS
    học tập bài học STEM và tổ chức các hoạt động trải nghiệm tại câu lạc bộ STEM
    của trường.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Đến nay, khái niệm STEM không còn xa lạ gì đối với đa số giáo viên ở
    các cấp các cấp học, tuy nhiên không ít giáo viên vẫn còn những nhầm lẫn giữa
    khái niệm STEM và S TEAM hay STREAM
    Tôi cũng có dịp tham gia các lớp tập huấn về triển khai đưa giáo dục STEM
    vào trong các nhà trường tại TP Hải Phòng, tại thành phố Đã Nẵng, hay Đại học
    Bách khoa Hà Nội. hay là thành viên tham gia tích cực của các diễn đàn: “Nhóm
    STEM 4.0”; nhóm facebook “Công đồng giáo viên STEM”” …thì gặp rất nhiều
    các tình huống như:
    Tham quan một sản phẩm của một chủ đề STEM, tại gian trưng bày của
    ngày Hội STEM, có vài giáo viên tranh luận nhau sôi nổi, “Đây là sản phẩm
    STEM”, nhóm khác thì đây là sản phẩm “STEAM” .. Như vậy, việc việc hiểu căn
    kẽ về khái niệm STEM cũng chưa thống nhất giữa những người sẽ triển khai việc
    giảng dạy các chủ đề STEM trong nhà trường
    Trên nhóm “Cộng đồng giáo viên STEM” có rất nhiều ý kiến: “Các thầy cô
    ơi ai có giáo án STEM lịch sử 7 cho em xin”, hay những câu tương tự về giáo án
    hay chủ đề STEM cho các môn Văn học, Địa lí … Thực trạng này cũng đang sảy
    ra ở rất nhiều trường học nhiều giáo viên tiến hành cho học sinh làm một thí
    nghiệm trong giờ Hóa học hay một giừo Vật lí học sinh chỉ quan sát, hoặc được
    làm theo một thao tác có trước và gọi đó là một giờ dạy STEM , với những nội
    dung trên nêu ra trên diễn đàn mà điều này đã có lúc thành viên tích cực Đỗ
    Hoàng Sơn – Giám đốc Công ty Cổ phần Văn hóa Giáo dục Long Minh đã trả lời
    “không có STEM cho Văn học, STEM cho Lịch sử; hay không có STEM Hóa
    hco mà chỉ có thí nghiệm Hóa…”
    4
    Và khi nhà trường, đã có câu lạc bộ STEM triển khai đến các nhóm nhỏ
    dựu án, thì các nhóm dự án này lại lấy tên các tiêu đề “CLB STEM Hóa học”.
    “Câu lạc STEM quan trắc mặn” … như vậy việc hiểu cá thaautj ngữ STEM ở đây
    chưa nhất quán rõ ràng
    Tóm lại, cần phải nghiên cứu kỹ tổng quan về STEM, định hướng đưa giáo
    dục STEM trong chương trình giáo dục ở các cơ sở giáo dục, nắm vững mục
    đích, chủ chương đường lối về giáo dục STEM của đơn vị để triển khai một cách
    đồng bộ với các hoạt động giáo dục khác.
    1.2. Việc quyết liệt của các cấp quản lí cũng như các cơ sở giáo dục đưa giáo
    dục STEM vào nhà trường dẫn đến một thực tế là:
    Nhiều giáo viên còn mơ hồ về khái niệm và mục tiêu của giáo dục STEM,
    chưa phân biệt được như thế nào là bài giảng STEM, như thế nào là hoạt động
    trải nghiệm STEM. Do chưa hiểu thấu đáo, nên khi tham gia các buổi tập huấn,
    các diễn đàn về giáo dục STEM, họ còn có một số ngộ nhận thường gặp như:
    – Nghe diễn giải về máy in 3D, về lập trình và lắp ráp robot là giáo dục
    STEM, có nhiều giáo viên quan niệm giáo dục STEM là thực hiện quy trình in
    3D, thực hiện lập trình lắp ráp robot. Giáo dục STEM có nền tảng từ giáo dục
    khoa học nên chủ đề giáo dục STEM rất đa dạng đi từ những kiến về Vật lí, Hóa
    học, Sinh học, khoa học môi trường, khoa học vũ trụ … Khi phân tích máy in 3D,
    thì phải được hiểu nó đang trong khâu nào của quy trình thiết kế kỹ thuật trong
    giáo dục STEM, hay học sinh lập trình và lắp ráp robot thì câu hỏi đặt ra là học
    sinh học được những kiến thức gì? Có sự gắn kết giữa các nhóm kiến thức STEM
    với nhau như thế nào? Chương trình giúp học sinh học được kỹ năng gì? Học sinh
    liên hệ được gì với thực tế xung quanh.
    Như vậy, cần nghiên cứu một quy trình thiết kế kỹ thuật trong giáo dục
    STEM chuẩn nhất áp dụng cho các bài dạy dạy STEM và hoạt động trải nghiệm
    STEM với sự linh hoạt phù hợp cho từng chủ đề, từng mục tiêu giáo dục cụ thể
    và cũng vừa sức, phù hợp với đặc điểm của cơ sở giáo dục. Đồng thời áp dụng
    của một số phương pháp dạy học hiệu quả cho hoạt động giáo dục STEM như:
    Phương pháp 5E; Quy trình thiết kế kỹ thuật gồm 6 bước (hỏi, tượng tưởng, lên
    kế hoạch, sáng tạo, kiểm tra và cải thiện, chia sẻ); phương pháp dạy học các chủ
    đền STEM dựa trên khám phá; hay xây dựng bộ công cụ đánh giá chủ đề STEM,
    để tổ chức dạy học các chủ đề STEM được hiệu quả.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    5
    Phần 1.
    NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN VỀ STEM
    VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỰC STEM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
    GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018
    1. 1. Giải nghĩa các thuật từ STEM
    Thuật ngữ STEM là viết tắt của bốn chữ: Khoa học (Science), Công nghệ
    (Technology), Kỹ thuật (Engineering), Toán (Mathematics). Thuật ngữ này bắt
    đầu vào những năm 1990 tại Hoa kỳ.
    Thuật ngữ STEAM: Năm 2008 tại một hội nghị khoa khọc về giáo dục
    công nghệ tại một thành phố của Mỹ, người ta đã đề xuất mô hình giáo dục kết
    hợp với yếu tố nghệ thuật (Art) và gọi đó là giáo dục STEAM = STEM + ARrt,
    tích hợp thêm yếu tố nghệ thuật , theo quan điểm của người sáng lập thì yếu tố
    nghệ nghệ thuật ở đây bao gồm nghệ thuật ngôn ngữ, nghiên cứu xã hội, nghệ
    thuật về thể chất, mỹ thuật và âm nhạc, với mô hình giáo dục này đã lan nhanh
    đến nhiều nước, như ở Hàn Quốc, Bộ Giáo dục Khoa học và Công nghệ đã đưa
    vào chương trình giáo dục tổng thể, là một chương trình giáo dục đào tạo cho học
    sinh phổ thông từ năm 2010. Chương trình giáo dục này được đông đảo giáo viên
    cấp tiểu học và mầm non ủng hộ, vì ở các cấp học này quá trình tích hợp trong
    dạy học dễ dàng hơn.
    Thuật từ STREAM: năm 2014, theo luận điểm của tiến sĩ Rob Rurman, Mỹ
    sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua rèn luyện khi bỏ qua rèn luyện khả năng đọc hiểu và
    viết cho học sinh. Nên ông đề nghị bổ sung thêm chữ R (viết tắt của Reading
    trong tiếng anh) và trở thành STREAM, theo đó STREAM có được theo công
    thức STREAM = STEAM + Arts + [reading + writing].
    Như vậy, việc tìm hiểu các thuật ngữ STEM, STEAM, STREAM, để giúp
    giáo viên có cái nhìn tổng thể giúp cho giáo viên chủ động trong việc giải thích
    thắc mắc của đồng nghiệp của học sinh, … Theo chương trình giáo dục phổ thông
    mới có định hướng cụ thể, rõ ràng là tập trung sâu vào triển khai các chủ đề giáo
    dục STEM, phải thể hiện rõ được giáo dục STEM với sự đa dạng trong cách tiếp
    cận chú trọng thực hành khoa học và kỹ thuật, tư duy cao, có sự gắn kết liên môn.
    1.2. Định hướng giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông
    2018
    Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
    hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng 4.0 mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao
    trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh sản phẩm đồng thời
    6
    là cơ hội lớn cho sản xuất công nghiệp với trình độ và công nghệ tiên tiến.
    Tại Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ:
    “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với xu hướng phát triển dựa trên nền
    tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa – Vật lí – Sinh học với sự đột
    phá của Internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản
    xuất của thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với đặc điểm là tận dụng
    một cách triệt để sự lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin. Làn sóng công
    nghệ mới này đang diễn ra với tốc độ khác nhau tại các quốc gia trên thế giới,
    nhưng đang tác động mạnh mẽ, ngày một tăng tới mọi mặt của đời sống kinh
    tế- xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã
    hội”.
    Tuy nhiên, nếu không bắt nhịp được với tốc độ phát triển của thế giới và khu
    vực, Việt Nam sẽ phải đối mặt những thách thức, tác động tiêu cực như: Sự tụt
    hậu về công nghệ dẫn đến suy giảm sản xuất kinh doanh; dư thừa lao động có kĩ
    năng và trình độ thấp gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, ảnh hưởng tới
    tình hình kinh tế xã hội đất nước.”
    Chúng ta đang tích cực thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo
    theo tinh thần của Nghị quyết 29-BCHTW, đổi mới phương pháp dạy, hình thức
    tổ chức dạy học để chuyển từ chủ yếu quan tâm đến việc cung cấp kiến thức sang
    việc quan tâm hình thành, phát triển các năng lực, phẩm chất người học, phát huy
    tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tăng cường kĩ năng thực hành…
    Như vậy, theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018, giáo dục STEM
    được thể hiện rõ qua các luận điểm [2]:
    1.2.1. Về nhận thức và hành động
    Về TƯ TƯỞNG (chiến lược, định hướng) giáo dục, bên cạnh định hướng
    giáo dục toàn diện, THÚC ĐẨY giáo dục 4 lĩnh vực: Toán học, Khoa học tự
    nhiên, Kĩ thuật, Công nghệ với mục tiêu “định hướng và chuẩn bị nguồn nhân lực
    đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các ngành nghề liên quan tới các lĩnh vực
    STEM, nhờ đó, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế”;
    Về phương pháp TIẾP CẬN LIÊN MÔN (khoa học, công nghệ, kĩ thuật,
    toán) trong dạy học với mục tiêu: nâng cao hứng thú học tập các môn học STEM;
    vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn; (3) kết nối trường
    học và cộng đồng; định hướng hành động, trải nghiệm trong học tập; (hình thành
    và phát triển năng lực và phẩm chất người học.
    1.2.2. Về phương pháp tiếp cận liên môn và phát triển năng lực của người
    học:
    7
    Giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 có đầy đủ
    các môn học STEM. Đó là, các môn toán, khoa học tự nhiên, công nghệ, tin học.
    Việc hình thành nhóm môn Công nghệ và Nghệ thuật ở giai đoạn giáo dục định
    hướng nghề nghiệp cùng với quy định chọn 5 môn học trong 3 nhóm sẽ đảm bảo
    mọi học sinh đều được học các môn học STEM;
    Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã nâng cao vai trò giáo dục tin học
    và giáo dục cộng nghệ. Điều này không chỉ thể hiện rõ tư tưởng giáo dục STEM
    mà còn là sự điểu chỉnh kịp thời của giáo dục phổ thông trước cuộc cách mạng
    công nghiệp 4.0;
    Các chủ đề STEM trong chương trình môn học tích hợp ở giai đoạn giáo
    dục cơ bản như các môn môn Khoa học tự nhiên, mở rộng ở lớp 10, 11, 12; các
    hoạt động trải nghiệm dưới hình thức câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, trong đó có
    các hoạt động nghiên cứu STEM;
    + Các nội dung giáo dục STEM đa dạng, phong phú thể hiện và xây dựng
    thông qua chương trình địa phương, kế hoạch giáo dục nhà trường; qua những
    chương trình, hoạt động STEM được triển khai,
    1.2.3. Về mức độ phù hợp ở các cấp độ dạy học tích hợp theo chủ đề liên
    môn, vận dụng kiến thức liên môn giải quyết các vấn đề thực tiễn.
    Nghiên cứu chương trình giáo dục phổ thông 2018, có thể chỉ ra các hình
    thức giáo dục STEM như: (1) Dạy học theo chủ đề liên môn; (2) Hoạt động
    nghiên cứu khoa học của học sinh; (3) Hoạt động câu lạc bộ khoa học – công
    nghệ; (4) Hoạt động tham quan, thực hành, giao lưu với các cơ sở giáo dục đại
    học, giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp. Các hoạt động dạy và học có thể
    được thực hiện ở phòng học bộ môn, vườn trường, không gian sáng chế
    (makerspaces),… hoặc ở các cơ sở giáo dục, đơn vị kinh tế – xã hội ngoài khuôn
    viên trường học.
    1.2.4. Cơ hội thực hiện một dung giáo dục STEM thể hiện qua một số môn
    học [2]:
    Môn Vật lí:
    Môn vật lí thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, mô tả các hiện tượng tự nhiên
    và đặc tính của vật chất; nội dung môn vật lí bao gồm từ cấu tạo hạt cơ bản tới
    cấu trúc vũ trụ. Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật và công nghệ quan
    trọng. Vì vậy những hiểu biết và phương pháp nhận thức vật lí có giá trị to lớn
    trong quá trình nhận thức và trong cuộc sống. Có rất nhiều cơ hội trong việc tích
    hợp những nội dung vật lí với các môn học khác để thực hiện dạy học theo phương
    thức STEM, theo đó học sinh được vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đem đến sự
    8
    hứng thú và những trải nghiệm có ý nghĩa trong học tập môn học. Bản chất dạy
    học các ứng dụng kĩ thuật của vật lí có sự tích hợp rõ ràng giữa vật lí và kĩ thuật.
    Việc này càng rõ ràng hơn nếu vận dụng quy trình thiết kế kĩ thuật để tổ chức dạy
    học các kiến thức vật lí trong từng bài học.
    Môn Hóa học:
    Hoá học là ngành khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nghiên cứu về
    thành phần cấu trúc, tính chất và sự biến đổi của các đơn chất và hợp chất. Hoá
    học có sự kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết và thực nghiệm, là cầu nối các ngành
    khoa học tự nhiên khác như vật lí, sinh học, y dược và địa chất học. Những tiến
    bộ trong lĩnh vực hoá học gắn liền với sự phát triển của những phát hiện mới
    trong các lĩnh vực của các ngành sinh học, y học và vật lí. Hoá học đóng vai trò
    quan trọng trong cuộc sống, sản xuất, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội.
    Những thành tựu của hoá học được ứng dụng vào các ngành vật liệu, năng lượng,
    y dược, công nghệ sinh học, nông – lâm – ngư nghiệp và nhiều lĩnh vực khác.
    Trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Hóa học là môn học thuộc giai
    đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông, được học sinh
    lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân.
    Các kiến thức trong Hóa học đều có mối quan hệ hữu cơ với các môn học
    khác như Toán học, Vật lí, Sinh học. Ví dụ: Cấu tạo nguyên tử, phương trình hóa
    học, điều chế, thu khí, tính chất vật lí của các chất… có mối quan hệ đến kiến
    thức Toán học, Vật lí; Các kiến thức về quang hợp, axit lipit, gluxit, protein… gắn
    liền với kiến thức sinh học. Do đó, việc dạy học Hóa học bằng phương thức giáo
    dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn là cần thiết. Bên cạnh đó, các kiến thức
    về phân bón hóa học, ứng dụng của các chất… đều gắn kết với công nghệ; các bài
    học có tích hợp giáo dục môi trường như chống ô nhiễm môi trường nước, hiệu
    ứng nhà kính, mưa axit, dầu mỏ, nhiên liệu… đều liên quan đến việc giáo dục ý
    thức bảo vệ môi trường, đến lĩnh vực kinh tế – xã hội. Thông qua mô hình STEM,
    học sinh được học Hóa học trong một chỉnh thể có tích hợp với toán học, công
    nghệ, kĩ thuật và các môn khoa học khác; không những thế học sinh còn được trải
    nghiệm, được tương tác với xã hội, với các doanh nghiệp. Từ đó kích thích được sự
    hứng thú, tự tin, chủ động trong học tập của học sinh; hình thành và phát triển các
    năng lực chung và năng lực đặc thù học tập; tạo ra sản phẩm giáo dục đáp ứng
    với nhu cầu nguồn nhân lực hiện đại.
    Môn Công nghệ:
    Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Công nghệ phản ánh hai
    thành phần là T (technology) và E (engineering) trong bốn thành phần của STEM.
    9
    Vì vậy, môn Công nghệ có vai trò quan trọng thể hiện tư tưởng giáo dục STEM
    trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
    Sản phẩm, quá trình công nghệ môn học đề cập luôn mang tính tính hợp, gắn
    với thực tiễn, liên hệ chặt chẽ với Toán học và Khoa học. Đặc điểm này là cơ sở
    để tăng cường giáo dục STEM ngay trong dạy học môn Công nghệ dựa vào các
    hoạt động thiết kế kĩ thuật, hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật.
    Có sự tương đồng về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học giữa dạy học
    công nghệ và giáo dục STEM. Đó là chú trọng vào hoạt động, thực hành, trải
    nghiệm và định hướng sản phẩm. Đây cũng là cơ sở để triển khai dạy học nhiều
    nội dung công nghệ tiếp cận STEM.
    Giáo dục STEM trong môn Công nghệ được thực hiện thông qua dạy học
    các chủ đề, mạch nội dung, chuyên đề học tập từ tiểu học tới trung học như mô
    hình điện gió, mô hình điện mặt trời, ngôi nhà thông minh, các bài toán thiết kế kĩ
    thuật và công nghệ, nghề nghiệp STEM; các dự án nghiên cứu thuộc các lĩnh vực
    kĩ thuật cơ khí, hệ thống nhúng, robot và máy thông minh. Khi triển khai chương
    trình, giáo dục STEM trong dạy học môn Công nghệ sẽ tiếp tục được mở rộng
    thông qua dạy học các chủ đề liên môn giữa các môn học STEM.
    Môn Công nghệ cung cấp kiến thức có hệ thống về quy trình và kĩ thuật dùng
    để chế biến vật liệu và thông tin, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng
    trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Công nghệ, dựa trên những thành
    tựu của khoa học, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ công nghệ, giải quyết các vấn đề
    đặt ra trong thực tiễn, cải tạo thế giới, định hình môi trường sống của con người.
    Công nghệ là cầu nối, góp phần làm nổi rõ tính ứng dụng, gắn kết với thực tiễn của
    khoa học và toán học với thế giới, thể hiện rõ sự sáng tạo của con người thông qua
    các giải pháp công nghệ và tối ưu. Do vậy, Công nghệ đóng vai trò quan trọng
    trong việc cụ thể hóa triển khai các chủ đề STEM.
    Môn Toán:
    Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Toán phản ánh thành phần
    M (mathematics) của STEM. Vì vậy, môn Toán có nhiều cơ hội thể hiện tư tưởng
    giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
    Môn Toán với tính đặc thù là công cụ nền tảng trong nghiên cứu tất cả các
    môn khoa học tự nhiên nên gần như mặc định là nó luôn xuất hiện trong mọi chủ
    đề giáo dục STEM. Các tính toán thường hiện hữu một cách ngầm ẩn nơi người
    học sinh dù họ có ý thức hoặc không để tâm đến việc mình đang sử dụng Toán
    học như một công cụ trong các giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề mà người
    giáo viên đặt ra trong ngữ cảnh môn học Vật lý, Hoá học, Sinh học, Công nghệ,
    Tin học,… Và vì vậy, vị trí của môn Toán thường khá khiêm tốn trong một chủ
    10
    đề giáo dục STEM.
    Dù vậy, vẫn có thể xây dựng một số chủ đề dạy học theo định hướng giáo
    dục STEM mà trong đó một số tri thức Toán đóng vai trò chính. Đó thường là khi
    tri thức Toán này có mối quan hệ liên môn hoặc xuyên môn như gắn liền với tri
    thức tương ứng bên Vật lý (véctơ toán-vectơ lực, tâm tỉ cự-trọng tâm, …), trong
    Sinh học (xác suất-tỉ lệ trong lai 1 tính trạng, …), … Trong những trường hợp
    này, vấn đề của môn học khoa học có thể được dùng như “vật liệu” để tổ chức hoạt
    động nghiên cứu tri thức Toán và sản phẩm của hoạt động STEM sẽ gắn với ứng
    dụng của tri thức khoa học tương ứng
    Môn Tin học:
    Khoa học máy tính yêu cầu và có liên quan rất nhiều đến sự hiểu biết, ứng
    dụng, đánh giá các công nghệ của nhiều chuyên ngành khác nhau. Có thể nói tư
    duy máy tính, các nguyên tắc cơ bản của tính toán, các cơ sở lí thuyết giải quyết
    vấn đề dựa trên máy tính là chìa khóa dẫn đến thành công của các nhánh khoa học
    khác như kĩ nghệ, kinh doanh và thương mại trong thế kỷ 21.
    Trong giáo dục phổ thông, Tin học là môn học có nhiều cơ hội thể hiện tư
    tưởng giáo dục STEM. Môn học này có nhiều điểm chung nhất với đồng thời tất
    cả các thành phần của STEM là S (Science), T (Technology), E (Engineering), M
    (Mathematics). Cụ thể là:
    – Hướng kiến thức này dựa trên một hệ thống cơ sở lí luận toán học chặt chẽ,
    logic và khoa học.
    – Trọng tâm của Khoa học máy tính là “tư duy máy tính” lấy cơ sở lí luận
    hàn lâm làm nền tảng kết hợp thực nghiệm và đánh giá, đo đạc số liệu một cách
    khoa học.
    – Lõi của Khoa học máy tính là phần kiến thức thiết kế, xây dựng, kiểm thử
    và đánh giá các lập trình, một kĩ năng đòi hỏi quá trình tiêu chuẩn kĩ thuật.
    – Môn Tin học cung cấp các kiến thức công cụ cốt lõi về máy vi tính và ứng
    dụng của máy vi tính trong đời sống và kĩ thuật. Cơ hội tích hợp nội dung của
    môn Tin học là rất lớn. Môn Tin học vừa thể hiện như một dạng thức công nghệ
    trong STEM vừa là nơi kết nối với tư duy lôgic trong toán học. Ngay khi sáng chế
    ra máy vi tính, hàng loạt giải pháp kĩ thuật và các vấn đề khoa học đã được giải
    quyết hiệu quả và nhanh chóng, ở trong trường phổ thông các thí nghiệm khoa
    học ghép nối với các cảm biến cũng là một dạng thức sơ khai của việc tích hợp tin
    học với lĩnh vực khoa học. Với sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin, yếu
    tố công nghệ trong môn tin học đóng vai trò then chốt trong các chủ đề STEM về
    robotic, trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật (IoT)
    11
    Môn Sinh học:
    Sinh học là môn khoa học nghiên cứu về thế giới sinh vật vô cùng gần gũi
    với đời sống hằng ngày của con người. Bên cạnh đó, môn Sinh học cũng có mối
    quan hệ chặt chẽ với các môn học khác như Vật lí, Hóa học, Toán học,…; vận
    dụng kiến thức của các môn học này vào giải thích các hiện tượng, quy luật sinh
    học. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, kiến thức Sinh học ngày càng
    được bổ sung nhiều hơn và ngày càng rút ngắn khoảng cách giữa lí thuyết và ứng
    dụng. Chính vì thế các chủ đề STEM trong môn Sinh học cũng khá phong phú và
    đa dạng, từ những chủ đề liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe bản thân, gia đình
    đến những chủ đề giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu,
    ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học,
    1.3. Phân tích nghiên cứu công văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo [1] và
    lập kế hoạch chi tiết phù hợp với đặc thù môn học và cơ sở vật chất, điều
    kiện của nhà trường, cụ thể gồm các nội dung:
    – Dạy học các môn khoa học theo bài học STEM
    + Đây là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà trường. Theo
    cách này giáo viên thiết kế các bài học STEM để triển khai trong quá trình dạy
    học các môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận tích
    hợp nội môn hoặc tích hợp liên môn ngay trong quá trình dạy học;
    + Các chủ đề, bài học, hoạt động STEM bám sát nội dung chương trình của
    các môn học nhằm thực hiện chương trình giáo dục phổ thông theo thời lượng
    quy định của các môn học trong chương trình.
    + Học sinh thực hiện bài học STEM được chủ động nghiên cứu sách giáo
    khoa, tài liệu học tập để tiếp nhận và vận dung kiến thức thông qua các hoạt
    động: lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề; thực hành thiết kế, chế tạo, thử
    nghiệm mẫu thiết kế; chia sẻ, thảo luận, hoàn thiện hoặc điều chỉnh mẫu thiết kế
    dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
    – Tổ chức hoạt động trải nghiệm STEM
    + Trong hoạt động trải nghiệm STEM, học sinh được khám phá các thí
    nghiệm, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong thực tiễn đời sống. Qua đó, nhận biết
    được ý nghĩa của khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học đối với đời sống con
    người, nâng cao hứng thú hoc tập các môn học STEM.
    + Để tổ chức thành công các hoạt động trải nghiệm STEM, cần có sự tham
    gia hợp tác của với các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục
    nghề nghiệp, doanh nghiệp, hộ kinh doanh, các thành phần kinh tế – xã hội khác
    12
    và gia đình để tổ chức có hiệu quả các hoạt động trải nghiệm STEM phù hợp với
    các quy định hiện hành.
    + Tập trung tổ chức tốt hoạt động của câu lạc bộ STEM tạo tiền đề khác thác
    các dựu án nghien cứu trong khuôn khổ cuộc thi khoa học kỹ thuật, đồng thời qua
    tham gia câu lạc bộ STEM còn là cơ hội để học sinh thấy được sự phù hợp về
    năng lực, sử thích, giá trị của bản thân với nghề nghiệp thuộc lĩnh vực STEM.
    + Hoạt động trải nghiệm STEM được tổ chức theo kế hoạch giáo dục hàng
    năm của nhà trường; nội dung mỗi buổi trải nghiệm được thiết kế thành bài học
    cụ thể, mô tả rõ mục đích, yêu cầu, tiến trình trải nghiệm và dự kiến kết quả. Ưu
    tiên những hoạt động liên quan, hoạt động tiếp nối ở mức vận dụng (thiết kế, thử
    nghiệm, thảo luận và chỉnh sửa) của các hoạt động trong bài học STEM theo kế
    hoạch dạy học của nhà trường.
    – Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật
    + Giáo dục STEM thực hiện thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và tổ
    chức các cuộc thi sáng tạo khoa học kỹ thuật với các chủ đề khác nhau thuộc các
    lĩnh vực năng lượng … robot, năng lượng tái tạo, môi trường, biến đổi khí hậu,
    nông nghiệp thông minh …
    + Hoạt động này dành cho những học sinh có năng lực, sở thích và hứng thú
    với các hoạt động tìm tòi, khám phá khoa học, kỹ thuật giải quyết các vấn đề thực
    tiễn; thông qua quá trình tổ chức dạy học các bài học STEM và hoạt động trải
    nghiệm STEM phát hiện các học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng, tạo điều kiện
    thuận lợi học sinh tham gia nghiên cứu khoa học, kĩ thuật.
    + Tổ chức tốt hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật được thực hiện dưới
    dạng một đề tài/dự án nghiên cứu bởi một cá nhân hoặc nhóm hai thành viên,
    dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc nhà khoa học có chuyên môn phù hợp.
    Phân tích các nội dung trên, theo tôi có thể xây dựng chủ đề STEM thông
    qua các bước:
    Bước 1: Xác định đối tượng, thời gian, hình thức chủ đề chủ đề STEM
    + Về đối tượng: bám sát đối tượng phù hợp với chủ đề trên cơ sở chương
    trình kế hoạch giáo dục của tổ nhóm chuyên môn trong nhà trường (với trường
    THPT Nguyễn Khuyến tập trung vào đối tượng học sinh là lóp 10 và lớp 11)
    + Về thời gian: xác định rõ thời gian chuẩn bị và thời gian thực hiện. Với
    chủ đề dạy học trên lớp thì thời gian thực hiện là 45 phút, ở câu lạc bộ là 45 phút;
    13
    + Về hình thức: tổ chức giờ học chính khóa tại câu lạc bộ, hoạch có thể tại
    cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, xưởng đào tạo …
    Bước 2: Nêu vấn đề thực tiễn
    + Giáo viên có thể nêu vấn đề thực tiễn bằng nhiều hình thức như một câu
    chuyện tinhfh uống thực tiễn, một dự án học tập giải quyết vấn đề thực tiễn, một
    hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hay một hoạt động nghiên cứu khoa học… làm
    xuất hiện vấn đề thực tiễn cho học sinh cần giải quyết.
    Bước 3. Đặt câu hỏi định hướng, hình thành ý tưởng của chủ đề, hệ thống
    kiến thức STEM trong chủ đề
    Các câu hỏi tập trung vào các nội dung: Chủ đề nhằm mục đích gì? Nhiệm
    vụ chính trong chủ đề là gì? Chủ đề có ý nghĩa gì trong thực tiễn? Kiến thức các
    môn học STEM nào có liên quan?…
    Xây dựng kiến hệ thống kiến thức thuộc lĩnh vực STEM trong chủ đề, cần
    xác định trọng tâm, kết hợp kiến thức liên môn
    Bước 4. Xác định mục tiêu của chủ đè
    Phải làm rõ được mục tiêu của chủ đề về kiến thức, kỹ năng, thái độ cần đạt
    được sau khi thực hiện chủ đề STEM cho học sinh. Mục tiêu đảm bảo rõ ràng, có
    tính khả thi, phù hợp năng lực học sinh, và điều kiện địa phương, ., nhà trường
    Bước 5. Chuẩn bị các mẫu vật, bằng hóa chất, dụng cụ, thiết bị, vị trí để thực
    hiện chủ đề
    Trên cơ sở, mục tiêu, yêu cầu đạt được của chủ đề, giáo viên chuẩn bị hoặc
    hướng dẫn học sinh chuẩn bị đầy đủ các cơ sở vật chất, dụng cụ … cần thiết để tổ
    chức thực hiện chủ đề
    Bước 6. Xác định quy trình (các chuỗi hoạt động) kỹ thuật giải quyết vấn đề
    thực tiễn bằng ứng dụng STEM và thực hiện được các hoạt động giải quyết vấn
    đề thực tiễn
    Giáo viên xây dựng quy trình thiết kế thực hiện chủ đề STEM theo các hoạt
    động một cách rõ rang, chi tiết, cụ thể để học sinh dễ tthực hiện
    Bước 7. Báo cáo kết quả, nêu kiến nghị, đề xuất hướng phát triển (mới) của
    chủ đề
    14
    Sau khi thực hiện chủ đề, học sinh báo cáo kết quả ứng dụng STEM giải
    quyết vấn đề thực tiễn, có thể đề xuất các vấn đề mới phát sinh, ý tưởng mới liên
    quan đến chủ để đã hoàn thành. Giáo viên tổng kết, kết luận và đánh gái chủ đề.
    1.4. Định hướng và tầm nhìn của trường THPT Nguyễn Khuyến Nam
    Định
    Lãnh đạo nhà trường triển khai quyết liệt từ việc phổ biến toàn bộ cho giáo
    viên nghiên cứu chương trình giáo dục phổ thông 2018, triển khai nhiều hoạt
    động giáo dục trong đó có các hoạt động giáo dục STEM nhằm đáp ứng những
    yêu cầu và mục đích của chương trình giáo dục phổ thông mới, có thể kể đến một
    số các nội dung:
    Toàn bộ giáo viên của nhà trường tham gia nghiên cứu chương trình giáo
    dục phổ thông 2018, BGH có tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm cho từng giai
    đoạn’
    Từ đầu năm 2019, nhà trường đã thành lập các câu lạc bộ STEM, giao cho
    cá nhân phụ trách, liên kết với các trưng tâm có năng lực và kinh nghiệm về giáo
    dục STEM như đại học VinUni, đại học Bách khoa Hà Nội, trường THPT Lê
    Hồng Phong Nam Định, hay mời các chuyên gia về STEM tư vấn hướng dẫn các
    hoạt động của nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi về nhân sự, vật chất cho câu lạc
    bộ STEM hoạt động. Trong năm học 2020-2021, BGH chỉ đạo cho CLB tuyển
    thành viên, triển khai các dự án STEM trọng điểm trong năm học như: Dự án
    quan trắc mặn. dự án thiết kế lắp đặt tưới nước tự động cho hệ thống cây cảnh và
    hoa tại khu B của nhà trường, dự án cải tạo và phục chế xe đạp cũ, dự án ứng
    dụng lập trình Arduino cho nhà thông minh, …
    Với sự năng động sáng tạo của lãnh đạo nhà trường, đa phần giáo viên đã
    nghiêm túc nghiên cứu chương trình giáo dục phổ thông mơi, các nhóm dự án
    nhỏ đã triển khai đi, lịch học cố định của các thành viên câu lạc STEM vào chiều
    thứ 3 hàng tuần.
    15
    Phần 2.
    XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC CHỦ ĐỀ STEM TRONG
    TRƯỜNG THPT NGUYỄN KHUYẾN
    1. Xây dựng các tiêu chí xây dựng chủ đề STEM
    Căn cứ văn bản chỉ đạo, kế hoạch triển khai dạy các hoạt động giáo dục
    STEM của nhà trường, nghiên cứu tài liệu hướng dẫn triển khai đưa giáo dục
    STEM vào nhà trường, xây dựng các tiêu chí xây dựng chủ đề dạy học STEM
    gồm:
    1.1. Tiêu chí 1: Chủ đề dạy học STEM tập trung vào các vấn của thực
    tiễn
    Trong năm học 2020-2021, trường THPT Nguyễn Khuyến ngoài các chủ
    đề STEM như thiết kế thiết bị đo TDS trong nước, chế tạo bộ cảm biết bật tắt đèn
    tự động trên nền lập trình Arduino, thiết kế máy bay không động cơ, thiết kế chế
    tạo tên lửa nước, thiết kế chế tạo đèn lồng kéo quân…. Nhà trường định hướng
    vào các chủ đề STEM có tính thực tế là: Dự án quan trắc mặn, đây là dự án liên
    kết với trường đại học Bách Khoa Hà Nội khảo sát vấn đề xâm nhập mặn ở một
    số huyện Hải Hậu, Giao Thủy, Nghĩa Hưng; Dự án phục chế và cải tạo xe đạp
    cũ, với những chiếc xe đạp cũ dư thừa trong các gia định, nhớm sẽ quyên góp ủng
    hộ đề lên kế hoạch lắp đặt, phục chế để thành các xe đạp chắc chắn làm công tác
    thiện nguyện giúp những người dân khó khăn; Dự án thiết kế và lắp đặt hệ thống
    tưới nước tự động cho cây cảnh và hoa tại khu B của nhà trường,
    1.2. Tiều chí 2: Cấu trúc chủ đề/ bài học STEM kết hợp tiến trình khoa
    học và quy trình thiết kế kĩ thuật
    Tiến trình bài học STEM trong nhà trường cũng phải đảm bảo theo một quy
    trình thiết kế kỹ thuật trong giáo giục STEM. Theo quy trình này học sinh cẩn thực hiện
    theo một quy trình cụ thể [2]:
    16
    1.3. Tiêu chí 3: Phương pháp dạy học bài học/chủ đè STEM đưa học sinh
    vào hoạt động tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và tạo
    ra sản phẩm
    Quá trình tìm tòi khám phá được thể hiện trong tất cả các hoạt động của chủ
    đề STEM, tuy nhiên trong hoạt động 2 và hoạt động 4 quá trình này cần được
    khai thác triệt để. Trong hoạt động 2 học sinh sẽ thực hiện các quan sát, tìm tòi,
    khám phá để xây dựng, kiểm chứng các quy luật. Qua đó, học được kiến thức nền
    đồng thời rèn luyện các kĩ năng tiến trình như: Quan sát, đưa ra dự đoán, tiến
    hành thí nghiệm, đo đạc, thu thập số liệu, phân tích số liệu… Trong hoạt động 4,
    quá trình tìm tòi khám phá được thể hiện giúp học sinh kiểm chứng các giải pháp
    khác nhau để tối ưu hoá sản phẩm.
    Trong các bài học STEM, hoạt động học của học sinh được thực hiện theo
    hướng mở có “khuôn khổ” về các điều kiện mà học sinh được sử dụng (chẳng hạn
    các vật liệu khả dụng). Hoạt động học của học sinh là hoạt động được chuyển
    giao và hợp tác; các quyết định về giải pháp giải quyết vấn đề là của chính học
    17
    sinh. Học sinh thực hiện các hoạt động trao đổi thông tin để chia sẻ ý tưởng và tái
    thiết kế nguyên mẫu của mình nếu cần. Học sinh tự điều chỉnh các ý tưởng của
    mình và thiết kế hoạt động tìm tòi, khám phá của bản thân.
    1.4. Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức bài học STEM lôi cuốn học sinh vào
    hoạt động nhóm kiến tạo
    Giúp học sinh làm việc trong một nhóm kiến tạo là một việc khó khăn, đòi
    hỏi tất cả giáo viên STEM được phân công phụ trách câu lạc bộ làm việc cùng
    nhau để áp dụng phương thức dạy học theo nhóm, tiến trình và yêu cầu về sản
    phẩm học tập mà học sinh phải hoàn thành. Làm việc nhóm trong thực hiện các
    hoạt động của bài học STEM là cơ sở phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho
    học sinh
    1.5. Tiêu chí 5: Nội dung bài học STEM áp dụng chủ yếu từ nội dung
    khoa học và toán mà học sinh đã và đang học
    Trong các bài học STEM, giáo viên cần kết nối và tích hợp một cách có mục
    đích nội dung từ các chương trình khoa học, công nghệ, tin học và toán. Lập kế
    hoạch để hợp tác với các giáo viên toán, công nghệ, tin học và khoa học khác để
    hiểu rõ nội hàm của việc làm thế nào để các mục tiêu khoa học có thể tích hợp
    trong một bài học đã cho. Từ đó, học sinh dần thấy rằng khoa học, công nghệ, tin
    học và toán không phải là các môn học độc lập, mà chúng liên kết với nhau để
    giải quyết các vấn đề. Điều đó có liên quan đến việc học toán, công nghệ, tin học
    và khoa học của học sinh
    1.6. Tiêu chí 6: Trong tiến trình bài học STEM một nhiệm vụ có thể có
    nhiều đáp án đúng và coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập
    Một câu hỏi nghiên cứu đặt ra, có thể đề xuất nhiều giả thuyết khoa học; một
    vấn đề cần giải quyết, có thể đề xuất nhiều phương án, và lựa chọn phương án tối
    ưu. Trong các giả thuyết khoa học, chỉ có một giả thuyết đúng. Ngược lại, các
    phương án giải quyết vấn đề đều khả thi, chỉ khác nhau ở mức độ tối ưu khi giải
    quyết vấn đề. Tiêu chí này cho thấy vai trò quan trọng của năng lực giải quyết
    vấn đề và sáng tạo trong dạy học STEM
    2. Xây dựng kế hoạch dạy học chủ đề/bài học STEM tại nhà trường
    THPT Nguyễn Khuyến [2]
    Với mỗi chủ đề/bài học STEM trong nhà trường phải đặt ra được yêu cầu là
    học sinh phải học và sử dụng được kiến thức nền thuộc một môn nào đó trong nội
    dung chương trình để sử dựng vào giải quyết vấn đề. Tiến trình mỗi bài học
    STEM được thực hiện phỏng theo quy trình kĩ thuật, trong đó việc “Nghiên cứu
    18
    kiến thức nền” trong tiến trình dạy học mỗi bài học STEM chính là việc học để
    chiếm lĩnh nội dung kiến thức trong chương trình giáo dục phổ thông tương ứng
    với vấn đề cần giải quyết trong bài học, trong đó học sinh là người chủ động
    nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu bổ trợ, tiến hành các thí nghiệm theo chương
    trình học (nếu có) dưới sự hướng dẫn của giáo viên; vận dụng kiến thức đã học để
    đề xuất, lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề; thực hành thiết kế, chế tạo, thử
    nghiệm mẫu; chia sẻ, thảo luận, điều chỉnh thiết kế. Thông qua quá trình học tập
    đó, học sinh được rèn luyện nhiều kĩ năng để phát triển phẩm chất, năng lực.
    Như vậy, tiến trình bài học STEM là sự kết hợp giữa tiến trình khoa học và
    chu trình thiết kế kĩ thuật. Mặc dù vậy, các “bước” trong quy trình không được
    thực hiện một cách tuyến tính (hết bước nọ mới sang bước kia) mà có những
    bước được thực hiện song hành, tương hỗ lẫn nhau. Cụ thể là việc “Nghiên cứu
    kiến thức nền có thể được” được thực hiện đồng thời với “Đề xuất giải pháp”;
    “Chế tạo mô hình” cũng có thể được thực hiện đồng thời với “Thử nghiệm và
    đánh giá”, trong đó bước này vừa là mục tiêu vừa là điều kiện để thực hiện bước
    kia, những nội dung này thể hiện qua tiến trình bài học chủ đề sau [2];
    Hình 5: Tiến trình bài học/
    Xác định vấn đề
    Nghiên cứu kiến thức nền
    Toán Lí Hóa Sinh Tin CN
    (Nội dung dạy học theo chương trình được sắp xếp lại phù hợp)
    Đề xuất các giải pháp/bản thiết kế
    Lựa chọn giải pháp/bản thiết kế
    Chế tạo mô hình (nguyên mẫu)
    Thử nghiệm và đánh giá
    Chia sẻ và thảo luận
    Điều chỉnh thiết kế
    19
    Hoạt động 1: Xác định vấn đề
    Trong hoạt động này, giáo viên giao cho học sinh nhiệm vụ học tập chứa
    đựng vấn đề, trong đó học sinh phải hoàn thành một sản phẩm học tập cụ thể với
    các tiêu chí đòi hỏi học sinh phải sử dụng kiến thức mới trong bài học để đề xuất,
    xây dựng giải pháp và thiết kế nguyên mẫu của sản phẩm cần hoàn thành. Tiêu chí
    của sản phẩm là yêu cầu hết sức quan trọng, bởi đó chính là “tính mới” của sản
    phẩm, kể cả sản phẩm đó là quen thuộc với học sinh; đồng thời, tiêu chí đó buộc
    học sinh phải nắm vững kiến thức mới thiết kế và giải thích được thiết kế cho sản
    phẩm cần làm
    Mục tiêu: Xác định tiêu chí sản phẩm; phát hiện vấn đề/nhu cầu.
    Cần xác định rõ mục tiêu của hoạt động này là tìm hiểu, thu thập thông tin,
    “giải mã công nghệ” để từ đó học sinh có hiểu biết rõ ràng về một tình huống thực
    tiễn; nguyên lí hoạt động của một thiết bị công nghệ hoặc một quy trình công
    nghệ; xác định được vấn đề cần giải quyết hoặc đòi hỏi của thực tiễn theo nhiệm
    vụ được giao; xác định rõ tiêu chí của sản phẩm phải hoàn thành.
    Nội dung: Tìm hiểu về hiện tượng, sản phẩm, công nghệ; đánh giá về hiện
    tượng, sản phẩm, công nghệ…
    Với mục tiêu nói trên, nội dung của hoạt động này chủ yếu là tìm tòi, khám
    phá tình huống/hiện tượng/quá trình trong thực tiễn; tìm hiểu quy trình công
    nghệ; nghiên cứu cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của thiết bị công nghệ. Tùy
    vào điều kiện cụ thể mà hoạt động này được tổ chức theo các hình thức khác
    nhau: nghiên cứu qua tài liệu khoa học (kênh chữ, hình, tiếng); khảo sát thực địa
    (tham quan, dã ngoại); tiến hành thí nghiệm nghiên cứu.
    Cùng một nội dung, tùy vào điều kiện, có thể tổ chức cho học sinh hoạt động
    ở trên lớp hoặc ngoài thực tiễn. Ví dụ: Cùng một yêu cầu nghiên cứu quy trình
    chăn nuôi có thể được tổ chức cho học sinh hoạt động trên lớp thông qua video
    hoặc tài liệu in; cũng có thể tổ chức cho học sinh đến tham quan thực tế tại một
    trại chăn nuôi; cũng có thể yêu cầu học sinh tìm hiểu tại chính gia đình mình.
    Vấn đề quan trọng là giáo viên phải giao cho học sinh thật rõ ràng yêu cầu
    thu thập thông tin gì và làm gì với thông tin thu thập được. Để thực hiện hoạt
    động này có hiệu quả, yêu cầu học sinh hoạt động cá nhân hết sức quan trọng, sau
    đó mới tổ chức để học sinh trình bày, thảo luận về những gì mình thu thập được
    kèm theo ý kiến của cá nhân học sinh về những thông tin đó (trong nhóm, trong
    lớp).
    20
    – Dự kiến sản phẩm hoạt động của học sinh: Các mức độ hoàn thành nội
    dung (Bài ghi chép thông tin về hiện tượng, sản phẩm, công nghệ; đánh giá, đặt
    câu hỏi về hiện tượng, sản phẩm, công nghệ).
    Yêu cầu về sản phẩm (của hoạt động này) mà học sinh phải hoàn thành là
    những thông tin mà học sinh thu thập được từ việc tìm hiểu thực tiễn; ý kiến của
    cá nhân học sinh về hiện tượng/quá trình/tình huống thực tiễn hoặc quy trình, thiết
    bị công nghệ được giao tìm hiểu. Những thông tin và ý kiến cá nhân này có thể sai
    hoặc không hoàn thiện ở các mức độ khác nhau. Giáo viên có thể và cần phải dự
    đoán được các mức độ hoàn thành của sản phẩm này để định trước phương án xử
    lí phù hợp
    – Cách thức tổ chức hoạt động: Giáo viên giao nhiệm vụ (nội dung,
    phương tiện, cách thực hiện, yêu cầu sản phẩm phải hoàn thành); Học sinh thực
    hiện nhiệm vụ (qua thực tế, tài liệu, video; cá nhân hoặc nhóm); Báo cáo, thảo
    luận (thời gian, địa điểm, cách thức); Phát hiện/phát biểu vấn đề (giáo viên hỗ
    trợ).
    –Đánh giá: Trên cơ sở các sản phẩm của cá nhân và nhóm học sinh, giáo viên
    đánh giá, nhận xét, giúp học sinh nêu được các câu hỏi/vấn đề cần tiếp tục giải
    quyết, xác định được các tiêu chí cho giải pháp (sản phẩm khoa học hoặc sản
    phẩm kĩ thuật) cần thực hiện để giải quyết vấn đề đặt ra. Từ đó định hướng cho
    hoạt động tiếp theo của học sinh.
    Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất giải pháp
    Trong hoạt động này, học sinh thực hiện hoạt động học tích cực, tự lực dưới
    sự hướng dẫn của giáo viên. Trong bài học STEM sẽ không còn các “tiết học”
    thông thường mà ở đó giáo viên “giảng dạy” kiến thức mới cho học sinh. Thay vào
    đó, học sinh tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức để sử dụng vào việc đề xuất, thiết kế
    sản phẩm cần hoàn thành. Kết quả là, khi học sinh hoàn thành bản thiết kế thì đồng
    thời học sinh cũng đã học được kiến thức mới theo chương trình môn học tương
    ứng.
    – Mục tiêu: Mục tiêu của hoạt động này là trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ
    năng theo yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục phổ thông.
    – Nội dung: Nghiên cứu nội dung sách giáo khoa, tài liệu, thí nghiệm để tiếp
    nhận, hình thành kiến thức mới và đề xuất giải pháp/thiết kế.
    Về bản chất, nội dung của hoạt động này là học kiến thức mới của chương
    trình các môn học cần sử dụng để xây dựng và thực hiện giải pháp giải quyết vấn
    đề đặt ra. Học sinh được hướng dẫn nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu bổ trợ,
    21
    làm thực hành, thí nghiệm để chiếm lĩnh kiến thức và rèn luyện kĩ năng theo yêu
    cầu cần đạt của chương trình. Các nhà trường, giáo viên sử dụng khung thời gian
    dành cho việc thực hiện nội dung này của chương trình để tổ chức hoạt động học
    của học sinh theo phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; tăng cường hướng dẫn
    học sinh tự lực nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu bổ trợ để tiếp nhận và vận
    dụng kiến thức (ngoài thời gian trên lớp),
    Phân 3.
    NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG
    DẠY HIỆU QUẢ TRONG GIÁO DỤC STEM
    Thực hiện mục tiêu phát triển các năng lực của học sinh theo chương trình giáo
    dục phổ thông mới, theo tôi chúng ta có thể nghiên cứu và áp dụng một số phương
    pháp, mô hình dạy học sau [2]:
    1. Mô hình dạy học 5E
    Dạy học khám phá theo mô hình 5E được Bybee và các cộng sự giới thiệu. 5E viết
    tắt của 5 từ bắt đầu bằng chữ E trong tiếng Anh: Engage (Lôi cuốn), Explore (khám phá),
    Explain (Giải thích), Elaborate (Mở rộng – củng cố), và Evaluate (Đánh giá). Phương
    pháp 5E dựa trên thuyết kiến tạo (constructivism) của quá trình học, theo đó học sinh
    xây dựng các kiến thức mới dựa trên các kiến thức hoặc trải nghiệm đã biết trước đó.
    Các giai đoạn của phương pháp 5E cụ thể như sau:
    1.1. Giai đoạn Engage (Lôi cuốn): Giáo viên /hoạt động học tập đề cập tới kiến
    thức đã có của HS và định hướng cho học sinh được mong muốn tham gia vào tìm hiểu
    kiến thức mới thông qua một số hoạt động nhỏ nhằm kích thích sự tò mò mà gợi ra
    những kiến thức đã có từ trước. Các hoạt động nên tạo được mối liên kết giữa những
    kinh nghiệm học tập có được trong quá khứ và hiện tại, bộc lộ được những quan niệm đã
    có từ trước, và sắp xếp được những suy nghĩ của học sinh.
    1.2. Giai đoạn Explore (Khám phá): Cung cấp cho học sinh các hoạt động cơ sở
    làm nền tảng mà ở đó các quan niệm hiện tại (ví dụ: quan niệm sai lầm…), các quá trình,
    các kĩ năng được thể hiện và sự thay đổi về mặt quan niệm được diễn ra dễ dàng. HS
    thực hiện các hoạt động trong phòng thí nghiệm qua đó giúp HS vận dụng các kiến thức
    đã biết để tự tạo ra các ý tưởng mới, giải thích được các câu hỏi và các khả năng có thể
    xảy ra, và tự thiết kế và tiến hành các khảo sát
    1.3. Giai đoạn Explain (Giải thích): Tập trung sự chú ý của học sinh vào các
    khía cạnh cụ thể các pha trước và cung cấp các cơ hội để chứng minh các hiểu biết
    thuộc về quan niệm, kĩ năng xử lí hoặc hành vi. Ở pha này cũng đồng thời cung cấp cơ
    22
    hội cho giáo viên để có thể đưa ra trực tiếp các quan niệm, quá trình hoặc kĩ năng. HS
    giải thích sự hiểu biết của họ về các quan niệm đó. Sự giải thích từ giáo viên hoặc từ
    giáo trình có thể giúp họ hiểu sâu hơn, chính xác hơn
    1.4. Giai đoạn Elaborate (Mở rộng- củng cố): Giáo viên đưa ra các thử thách và
    mở rộng những hiểu biết thuộc về khái niệm và các kĩ năng của học sinh. Thông qua các
    thí nghiệm, các trải nghiệm mới, học sinh phát triển sâu hơn và rộng hơn sự hiểu biết,
    có thêm các thông tin và đạt được các kĩ năng tương ứng. Học sinh áp dụng các hiểu
    biết của họ về các khái niệm bằng cách tiến hành các hoạt động bổ sung
    1.5. Giai đoạn Evaluate (đánh giá): khuyến khích học sinh tiếp cận các hiểu biết
    và khả năng của họ và cung cấp cơ hội cho giáo viên đánh giá tiến trình của học sinh
    trên con đường đạt được các mục tiêu học tập đề ra. Đánh giá không phải là một giai
    đoạn nằm độc lập ở cuối cùng mà song hành với tất cả 4 pha còn lại
    Trong trường hợp thuận lợi, phù hợp cho chủ đề có thể bổ sung một giai đoạn nữa
    vào trở thành phương pháp dạy học 6E để sử dụng phù hợp hơn cho việc tổ chức dạy
    học các bài học STEM, đó là giai đoạn Engineer (chế tạo). Giai đoạn Engineer này
    ngay sau giai đoạn 3 Explain. Ở đó học sinh được vận dụng các kiến thức kĩ năng đã
    được học vào chế tạo các sản phẩm phục vụ các nhu cầu thực tiễn.
    2. Dạy học dựa trên mô hình thiết kế kỹ thuật (EDP)
    https://www.nasa.gov/audience/foreducators/best/edp.html
    Việc nghiên cứu quy trình thiết kế kỹ thuật (Engineering Design Process – EDP)
    giúp giáo viên và học sinh giải quyết một vấn đề trong cuộc sống nhờ công nghệ, kỹ
    thuật
    23
    Theo quy trình thiết kế kỹ thuật này, các bước gòm:
    2.1. Đặt câu hỏi (Ask). gồm:
    + Xác định vấn đề, vấn đề là gì?
    + Xác định yêu cầu;
    + Xác định những hạn chế gặp phải …
    2.2. Tưởng tưởng (Imagine), gồm:
    + Xây dựng ý tưởng bao gồm các giải pháp, sáng kiến nào?
    + Xác định các giải pháp đã thực hiện, sẽ thực hiện ..
    2.3. Lên kế hoạch (Plan), gồm:
    + Chọn từ 2 đến 3 ý tưởng từ bước tưởng tưởng;
    + Vẽ phác thảo ý kiến tiềm năng;
    + Liệt kê nguyên vật liệu cần thiết;
    + Chọn một thiết kế tốt nhất làm sản phẩm
    2.4. Thiết kế/ chế tạo (Create) và sáng tạo, gồm:
    + Chế tạo sản phẩm mẫu đáp ứng yêu cầu thiết kế đặt ra;
    + Nhấn mạnh vai trò của làm việc nhóm;
    24
    + Tuân thủ các kế hoạch đã lập ra, thực hiện hóa ý tưởng
    2.5. Kiểm nghiệm/kiểm tra (Experiment) và cải thiện, gồm:
    + Kiểm tra sản phẩm theo các tiêu chí, yêu cầu đặt ra?
    + Tiến hành các thí nghiệm;
    + Ghi đo;
    + Kiểm tra.
    + Đành giá sản phẩm có đạt yêu ccaauf chưa? Cần làm gì đề tốt hơn?
    2.6. Cải tiến (Improve) và chia sẻ, gồm:
    + Dựa vào kết quả thí nghiệm, kiểm tra xác định:
    Kết quả nào đạt?
    Kết quả nào chưa đạt?
    Điều gì có thể làm tốt hơn?
    + Xác định thay đổi, sửa đổi thiết kế
    + Trình bày ý tưởng với nhóm, với cộng đồng
    Như vậy, quy trình thiết kế kỹ thuật trên thể hiện qua sơ đồ tóm tắt sau:
    Quy trình
    thiết kế kỹ
    thuật
    (Trong giáo
    dục STEM)
    25
    3. Mô hình dạy học dựa vào khám phá [3]:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe sinh sản thông qua trải  nghiệm bằng  hình thức sinh hoạt câu lạc bộ CSE

    SKKN Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe sinh sản thông qua trải  nghiệm bằng  hình thức sinh hoạt câu lạc bộ CSE

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    CHƯƠNG I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Hiện nay, tràn ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng mọi người chia
    sẻ và cập nhật rất nhiều thông tin về bệnh viêm phổi từ chủng coronavirus mới được
    đặt tên là 2019 Novel Coronavirus (2019-nCoV), được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán,
    Trung Quốc. Sau nhiều tháng đại dịch Covid-19 hoành hành, gần như toàn bộ thế giới
    đã trở thành nạn nhân, những hậu họa do Covid-19 gây ra đã đưa ra lời cảnh báo rằng
    thế giới cần chuẩn bị nhiều hơn để đối phó với một đại dịch có thể xảy ra trong tương
    lai. Câu hỏi đặt ra là còn đại dịch nào thực sự chờ đợi chúng ta phía trước, con người
    sẽ phải làm gì để chung tay nhau ngăn chặn những vấn đề này? Theo Lê Thanh Hải,
    “Cả nhân loại đang đối mặt mới một hoàn cảnh khủng hoảng mới mà không có một
    mô hình giáo dục nào đã được nghiên cứu trước đó, đó không phải là giáo dục trực
    tuyến (e-learning hay online education), cũng không phải là giáo dục tại nhà
    (homeschooling) giống như các mô hình trước đây đã được các nhà giáo dục nghiên
    cứu và xây dựng; phải gọi đó là giáo dục thời kỳ đại dịch; dạy và học trong lúc này
    chắc chắn là không giống như bình thường, hay như bất kỳ một mô hình nào trước đây
    đã được nghiên cứu; một cách tiếp cận mới chắc chắn phải được thay thế và triển khai,
    chắc chắn thế hệ học sinh này sẽ cần có nhiều kỹ năng mới so với trước đây bởi các
    em đang sống trong một thế giới đang bị thay đổi sâu sắc bởi đại dịch”.
    Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người luôn là yếu tố giữ vai trò trung tâm và
    quan trọng nhất. Trường THPT Ngô Quyền, 48 năm qua, đã xây dựng được một nền
    tảng sư phạm khá vững vàng và chiếm được niềm tin của học sinh và phụ huynh qua
    nhiều thế hệ. Với sự cố gắng và nỗ lực của thầy trò nhà trường cùng tinh thần tự lực,
    tự cường, bám trường, bám lớp, thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học, ngọn lửa giáo dục
    trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” sáng ngời hào khí Đông A ngày càng rực sáng. Vì
    sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà, vì tương lai con em chúng ta, giáo viên và
    học sinh trường THPT Ngô Quyền cùng chung một ý chí, cùng chung một tấm lòng,
    cùng chung một niềm tin chiến thắng đại dịch Covid-19. Nhà trường đã tuyên truyền
    2
    cho giáo viên và học sinh qua bảng điện tử ngay tại cổng trường với nội dung: Thầy
    và trò trường THPT Ngô Quyền quyết tâm thực hiện hai mục tiêu: chống dịch
    Covid-19 và dạy tốt, học tốt. Ý tưởng dạy học gắn với chủ đề coronavirus được hình
    thành.
    2. Thêm nữa, thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng “lý luận phải gắn với thực
    tiễn”, thực hiện lời dạy của tiền nhân “ học phải đi đôi với hành”; các năm qua, toàn
    Ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng làm chuyển biến tích cực chất lượng dạy học gắn
    liền thực tiễn và cụ thể hoá bằng nhiều cách làm hay, mô hình tốt như: dạy học trải
    nghiệm tại các cơ quan hành chính, khu di tích, bảo tàng, công ty, nhà máy sản xuất,
    khu chế biến; lao động chăm sóc khu vườn trường; dạy học theo dự án, dạy học qua
    sản phẩm; dạy học theo chủ đề … và giáo viên THPT Ngô Quyền cũng không phải là
    ngoại lệ.
    Trong năm học 2019 -2020 trường THPT Ngô Quyền yêu cầu các tổ chuyên môn
    thực hiện dạy học theo chủ đề: chủ đề liên môn (bao gồm các nội dung dạy học gần
    giống nhau, có liên quan chặt chẽ với nhau, có thể đang trùng nhau trong các môn học
    của chương trình hiện hành, biên soạn thành chủ đề liên môn) và chủ đề tích hợp, liên
    môn (có nội dung giáo dục liên quan đến các vấn đề thời sự của địa phương, đất nước;
    ví dụ: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ quyền biên
    giới, biển đảo; …. Như vậy, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, để học sinh nhận thấy học
    đi đôi với hành, học ứng dụng vào đời sống, chứ không phải học những kiến thức đơn
    lẻ của từng môn học một cách cứng nhắc mà là những tiết học thực sự bổ ích, giữa các
    môn học có sự gắn kết với nhau góp phần không chỉ cung cấp kiến thức từng bộ môn
    mà còn giáo dục nhân cách, hoàn thiện tư cách và trách nhiệm người công dân mới,
    hình thành và rèn các kĩ năng sống cho học sinh, ý tưởng dạy học theo các vấn đề thời
    sự vì thế được hình thành.
    3. Mặt khác việc đổi mới phương pháp giảng dạy đang được đặt lên hàng đầu
    đối với ngành giáo dục và phương pháp giáo dục STEM đã mang lại kết quả tốt.
    Giáo dục STEM là một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở
    nhiều quốc gia trên thế giới. Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ
    tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp
    3
    lần thứ 4; Thực hiện Chỉ thị số 2268/CT-BGDĐT ngày 08/8/2019 của Bộ Giáo dục và
    Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2019 – 2020 của ngành Giáo dục;
    Ngành Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tỉnh nhà trong thời gian qua đã có nhiều hoạt
    động chủ động nhằm đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, giáo dục học sinh
    hướng tới mục tiêu phát triển năng lực, có tri thức, năng động, hội nhập thế giới; các
    phương pháp dạy học tích cực đã được chú ý triển khai thực hiện trong thời gian qua
    như phương pháp Dạy học theo dự án, phương pháp nghiên cứu khoa học, phương
    pháp “bàn tay nặn bột” và phương pháp giáo dục STEM đã mang lại kết quả tốt.
    Tháng 8/2018 Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định đã tổ chức tập huấn dạy học
    STEM cho các giáo viên. Trường THPT Ngô Quyền cũng đã triển khai nhiệm vụ tới
    các tổ, nhóm chuyên môn về kế hoạch dạy học tiếp cận STEM. Trước nhiệm vụ này
    chúng tôi đã chủ động tìm hiểu qua các tài liệu tập huấn, trang mạng internet,…về
    STEM/STEAM.
    Trong cuốn sách “Giáo dục STEM/STEAM: từ trải nghiệm thực hành đến tư
    duy sáng tạo”, tác giả Lê Thanh Hải nói sơ lược về lịch sử ra đời của thuật ngữ giáo
    dục STEAM. Và ngay trong phần Mở đầu cuốn sách này, tác giả Lê Thanh Hải cũng
    có nhắc đến hội chứng viêm đường hô hấp cấp (SARS) như là một trong những vấn đề
    vốn thuộc về khoa học – công nghệ nhưng lại quan hệ mật thiết với đời sống xã hội.
    Trong tương lai, những vấn đề như thế sẽ càng rất nhiều, khi mà khoa học – công nghệ
    ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đến với mọi mặt của đời sống xã hội; do vậy, việc
    chuẩn bị một nền tảng kiến thức và tư duy mang tính liên ngành giữa khoa học và xã
    hội (socio-scientific reasoning) ở mức phổ quát, căn bản là một đòi hỏi vô cùng quan
    trọng đối với nền giáo dục và sự thịnh vượng của quốc gia, để chuẩn bị cho thế hệ
    công dân toàn cầu trong tương lai. Mấy tháng gần đây, tràn ngập trên các phương tiện
    thông tin đại chúng mọi người chia sẻ và cập nhật rất nhiều thông tin về bệnh viêm
    phổi từ chủng coronavirus mới được đặt tên là 2019 Novel Coronavirus (2019-nCoV),
    được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc. Việc đưa chủ đề thời sự bệnh viêm
    phổi cấp vào các bài học học về khoa học là cần thiết. Tùy theo từng trình độ mà các
    giáo viên chủ động giới thiệu với học sinh những kiến thức liên quan đến chủ đề thời
    sự này. Quá trình dạy học này còn kết hợp với hướng nghiệp cho các em học sinh về
    những nghề nghiệp tương lai; giúp chương trình giáo dục STEM/STEAM ở Việt Nam
    được giảng dạy có chiều sâu, bài bản hơn để các học sinh hiểu được mối quan hệ liên
    ngành và đa chiều phức tạp trong các vấn đề về khoa học, công nghệ và xã hội; đặc
    biệt, có được kiến thức và kỹ năng để phân tích, đánh giá (tư duy phản biện) khi tiếp
    cận các nguồn thông tin khác nhau.
    Cũng theo tác giả Lê Thanh Hải, giáo dục STEM không chỉ gói gọn trọng sự liên
    môn giữa các nhóm kiến thức khoa học tự nhiên mà giờ đây các giáo viên tại Mỹ đã
    chủ động lồng ghép thêm các yếu tố về văn hóa, xã hội, nhân văn, nghệ thuật (gọi
    chung là các môn nghệ thuật khai phóng – liberal arts); do vậy STEM đã được phát
    triển lên thành STEAM; thỉnh thoảng STEAM được viết thành STE(A)M với chữ A
    4
    được viết trong ngoặc đơn với chủ đích diễn tả các chương trình học có nhấn mạnh các
    môn nghệ thuật khai phóng trên nền tảng của giáo dục STEM nói chung.
    Trong cuốn sách “Từ STEM đến STEAM”, hai tác giả David Sousa và Tom
    Lilecki gần đây cũng có đề cập đến khái niệm các môn nghệ thuật (Arts – chữ art được
    viết dưới dạng danh từ số nhiều, có s). Theo hai tác giả này, các môn nghệ thuật chính
    là các cách biểu đạt sự sáng tạo của con người thông qua các kỹ năng, giúp làm phong
    phú sự cảm nhận bằng các giác quan, từ âm nhạc cho đến kịch nghệ, điện ảnh. Danh
    sách các dạng hình nghệ thuật thì dường như dài bất tận, vì có những loại hình nghệ
    thuật mà hiện nay người ta vẫn chưa biết đặt tên cho nó là như thế nào, vì nó là sự trộn
    lẫn giữa các loại hình nghệ thuật với nhau, chẳng hạn như sự kết hợp giữa việc tạo ra
    các kiến trúc điêu khắc kết hợp với sự sắp đặt có chủ ý để tạo ra các hiệu ứng về âm
    thanh khi có gió thổi. Ngày nay, với sự phát triển của ứng dụng công nghệ và kỹ thuật,
    nhiều loại hình nghệ thuật với độ chính xác và tinh xảo rất cao. Chính vì lẽ đó, xu
    hướng các bài học STEM giờ đây luôn dành một khoảng không gian cho việc kết nối
    với các chủ đề về xã hội, văn hóa, và các môn nghệ thuật. Ở đó, học sinh được khuyến
    khích vận dụng óc sáng tạo về các môn nghệ thuật, các kiến thức về lịch sử và nhân
    văn để tạo ra một sản phẩm mới, có giá trị và ý nghĩa cho xã hội. Chẳng hạn, khi học
    về khoa học môi trường, các em học sinh lớp cấp hai ở Mỹ không chỉ được tìm hiểu lý
    thuyết về mối quan hệ giữa con người với môi trường mà còn được thưc hành dùng
    phần mềm SketchUp và Google Earth (cả hai đều miễn phí) để thiết kế những khu vui
    chơi kết hợp với bảo tồn thiên nhiên, thậm chí hướng đến cả đối tượng người khuyết
    tật, khó khăn trong việc di chuyển; đó là những ý tưởng hoàn toàn mới mà không bao
    giờ có thể tìm thấy trong sách giáo khoa. Chính nhờ đưa các môn nghệ thuật vào giáo
    dục STEM đã giúp giải phóng sự tưởng tượng và sáng tạo của trẻ nhỏ. Nói về vai trò
    của trí tưởng tượng trong giáo dục, Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết, đã nói một
    câu đầy cảm hứng về trí tưởng tượng: “Tôi đủ chất nghệ sĩ để tự do vẽ theo trí tưởng
    tượng của tôi. Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức là hạn chế, còn trí
    tưởng tượng bao quanh khắp thế giới”. (“I am enough of an artist to draw freely upon
    my imagination. Imagination is more important than knowledge. Knowledge is
    limited. Imagination encircles the world.”). Ngày nay, khi nhìn vào bất kỳ một vật
    dụng hay thiết bị nào mà chúng ta đang sử dụng, chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là sự
    kết hợp của rất là nhiều kiến thức từ rất nhiều lĩnh vực để tạo nên nó, trong đó có cả
    yếu tố thẩm mĩ và văn hóa. Khi khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh, việc
    đưa một ý tưởng thành một sản phẩm chỉ tính bằng ngày hoặc bằng giờ. Và khi xã hội
    càng phát triển, thì các sản phẩm tiêu dùng càng được cá nhân hóa nhiều hơn. Chẳng
    hạn: Với công nghệ in 3-D, khách hàng có thể tự in chiếc áo để mặc theo cách riêng,
    hay thậm chí khách hàng có thể tự thiết kế để in cái nhà để ở. Điều đó nói lên rằng,
    sống trong xã hội ngày nay, ít nhiều chúng ta cũng cần đến tư duy thiết kế và óc nghệ
    thuật.Thông qua cách tiếp cận giáo dục STEAM, học sinh nhận thức được sự giao thoa
    giữa các ngành khoa học, toán học và các môn nghệ thuật, thấy được sự cần thiết của
    5
    các kiến thức chuyên ngành để có thể giải quyết một vấn đề hay tạo nên một sản phẩm.
    Đồng thời, nhờ được tạo cơ hội khuyến khích sáng tạo dựa trên sở thích riêng của bản
    thân, nên các em học sinh tự tin hơn trong quá trình học tập và làm việc nhóm. Điều
    thú vị là các chương trình giáo dục STEAM còn có thể giúp học sinh được trải nghiệm
    qua các cảm xúc của thất bại trong quá trình học tập, một trong những yếu tố cần thiết
    cho sự trưởng thành của trẻ khi bước vào đời.
    4. Báo cáo sáng kiến “Dạy học STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ
    đề Coronavirus” được người viết lựa chọn còn xuất phát từ chính lòng yêu nghề, sự
    say mê với nghề, tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tâm với thế hệ trẻ Thành Nam.
    Thực hiện đề tài này chúng tôi thực sự mong muốn được trao đổi với đồng nghiệp để
    được học hỏi và trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ.
    CHƯƠNG II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. MÔ TẢ CƠ SỞ THỰC TẾ TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Hệ thống SGK chương trình hiện hành cấp học THPT đã được tái bản lần thứ
    mười, in xong và nộp lưu chiểu tháng 1/2018. Như vậy với thế hệ HS 2000, các em
    đang phải học một chương trình SGK quá cũ, quá lạc hậu, có những số liệu cách đây
    mười mấy năm so với thời điểm hiện tại nhiều khi phản ánh sai vấn đề. Nhiều năm
    qua, việc xây dựng nội dung sách giáo khoa cũng như các loại sách bài tập tham khảo
    của giáo dục nước ta nhìn chung còn mang tính hàn lâm, kinh viện nặng về thi cử;
    chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp cho học sinh;
    chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội cũng như
    nhu cầu của người học. HS còn hạn chế về năng lực phản biện, tư duy, sáng tạo, kỹ
    năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp
    tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập nghiệp còn hạn chế. Tóm lại có
    thể nói, chương trình hiện hành mới chú trọng cung cấp cho HS những kiến thức cơ
    bản nhất, khái quát nhất, có những nội dung kiến thức đã cũ vì vậy đòi hỏi GV và HS
    phải cập nhật những vấn đề nóng bỏng của thời đại, phải có cái nhìn khái quát và sự
    hiểu biết rộng về nhiều vấn đề đã và đang diễn ra trong đời sống kinh tế xã hội thế giới
    cũng như trong nước, có như thế mới hòa nhập và thích ứng được với cuộc sống hiện
    tại, mới kích thích được niềm say mê, hứng thú dạy và học của cả GV và HS.
    Trong thời gian 45 phút lên lớp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, GV chỉ truyền
    thụ những kiến thức liên quan tới nội dung bài học đã có trong SGK, việc cập nhật
    kiến thức còn rất hạn chế. Như vậy học xong bài học, HS cũng chỉ dừng lại ở việc nắm
    được những kiến thức cơ bản của bài học, mà không biết được nhưng kiến thức cập
    nhật đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên thế giới. Điều này lâu dần sẽ dẫn tới việc
    HS thụ động nhìn bài và chép nội dung vào vở, không có sự sáng tạo, không phát huy
    được năng lực tự học, sự hứng thú với môn học của HS.
    Trong quá trình giảng dạy, các giáo viên đã sử dụng các phương pháp dạy học
    truyền thống kết hợp một số phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học tích cực: dạy học
    6
    theo nhóm nhỏ, sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, phương pháp đàm thoại gợi mở, kĩ thuật
    phòng tranh… khai thác kênh hình và kênh chữ sách giáo khoa với các thí nghiệm
    minh hoạ, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin, chủ yếu là Powerpoint, sử
    dụng các video minh họa… để tăng tính trực quan, kích thích tư duy học sinh. Tuy
    nhiên, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, tính đến thời điểm hiện tại, tại các lớp học chưa
    có máy chiếu hay tivi thông minh, bởi vậy trong các giờ học, học sinh chủ yếu lắng
    nghe, tiếp thu các kiến thức một cách thụ động được quy định sẵn; học sinh chỉ nắm
    được kiến thức lí thuyết, còn nội dung mở rộng, vận dụng, mang tính cập nhật, thời
    sự… nhiều học sinh chưa tiếp cận được; học sinh chủ yếu được rèn luyện kĩ năng
    nghe, quan sát, đọc chọn lọc ý từ sách giáo khoa, vận dụng kiến thức mà cọc sinh chưa
    khám phá hết năng lực của bản thân, chưa chủ động trong việc học tập, khả năng sáng
    tạo và vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN “DẠY HỌC STEM/STEAM
    THEO CÁC VẤN ĐỀ THỜI SỰ – CHỦ ĐỀ CORONAVIRUS”
    Có thể nói, trải qua giai đoạn biến động cực mạnh trong xã hội từ ảnh hưởng
    của dịch Covid-19 nói riêng và toàn cầu hoá nói chung, nền giáo dục của mỗi quốc gia
    đứng trước áp lực lớn khi nhiều người đều có cảm giác rằng kiến thức thông thường
    trở nên vô ích giống như người đi biển thiếu la bàn. Điều đó cho ta thấy điểm mấu
    chốt của vấn đề trong giáo dục là hướng đến giúp con người có tầm nhìn rộng, khả
    năng thích nghi và khả năng tự học, tự nghiên cứu suốt đời để luôn phát triển bản thân.
    Có như vậy, mỗi cá nhân sẽ không phải lo về vấn đề thất nghiệp mà còn có thể tự tạo
    ra cơ hội việc làm cho mình và cho người khác. Giáo dục hiện nay cũng như trong
    tương lai sẽ không đơn thuần truyền thụ kiến thức, đó còn là dạy học sinh cách học,
    học cách nghĩ, cách sống. Giáo dục cần hướng tới trang bị và cung cấp cho học sinh
    kiến thức tổng quát, trải rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, cho người học công cụ khám
    phá bản thân, thế giới xung quanh để sau này họ có thể tiếp cận, chuyển đổi công việc
    linh hoạt, không bị lỗi thời. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như
    tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, những kỹ năng quan trọng cho
    thế kỷ 21 này đó chính là khả năng tự học, phân tích, diễn đạt ý nghĩ của mình và khả
    năng giải quyết vấn đề. Trong hoàn cảnh ấy, dạy học “Dạy học STEM/STEAM nói
    chung và “Dạy học STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ đề Coronavirus” có ý
    nghĩa vô cùng quan trọng.
    1. Giới thuyết về STEM/STEAM
    1.1. Sự khác biệt giữa STEM và STEAM
    STEM được viết tắt từ các từ: “Science, Technology, Enginerring, Math” –
    “Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học”. Hiểu một cách đơn giản thì phương pháp
    này cung cấp cho học sinh kiến thức toàn diện về 4 lĩnh vực trên bằng cách kết hợp
    giữa việc học lý thuyết và thực hành, hoạt động thực tiễn, trải nghiệm đời sống. STEM
    cho phép học sinh được thường xuyên thảo luận, tự rút ra kết luận và ghi nhớ kiến thức
    sâu sắc hơn. Có thể nói, phương pháp STEM giống như một cái búa, giúp phá vỡ bức
    7
    tường chắn bấy lâu nay giữa hàn lâm và thực tiễn.
    Qua một thời gian hình thành và phát triển, phương pháp STEM được cải thiện
    thành STEAM. Chữ “A” trong STEAM là viết tắt cho “Art” – “Nghệ thuật”. Nếu giáo
    dục STEM là tập trung vào giải quyết các vấn đề với tư duy, kỹ năng phân tích thì
    STEAM khác biệt ở chỗ, nó giúp học sinh khám phá các môn học tương tự, nhưng kết
    hợp thêm tư duy sáng tạo và nghệ thuật ứng dụng vào giảng dạy, cùng với các tình
    huống thực tế. Đồng thời, giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh và học sinh cũng được
    đặt câu hỏi ngược lại. Các nhà giáo dục tin rằng, nếu tích hợp thêm “Nghệ thuật” vào
    giảng dạy, học sinh có thể sử dụng cả hai mặt của bộ não là phân tích và sáng tạo. Từ
    đó những đứa trẻ sẽ có tiền đề phát triển tốt nhất cho tương lai
    1.2. STEM – phương pháp giáo dục hàng đầu; STEAM – Phương pháp giáo dục
    hiện đại và lí tưởng
    Là khởi đầu cho một sự thay đổi lớn ở Mỹ và là tương lai của cả một nền giáo
    dục, STEAM được tạo thành từ thuật ngữ “STEM” và “Nghệ thuật – Art”. Ra đời từ
    thập kỷ trước, STEM (viết tắt của Khoa học – Science, Công nghệ – Technology, Kỹ
    thuật – Engineering, và Toán học – Mathematics) đã luôn là một phương pháp giáo
    dục hàng đầu tại thời điểm lúc bấy giờ. STEM tập trung vào việc đào tạo cho học sinh
    8
    về 4 lĩnh vực trên. Tuy nhiên, chủ trương của nền giáo dục hiện đại, ngày nay lại đánh
    giá cao tầm quan trọng của Nghệ thuật trong việc thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo, đó
    cũng chính là lý do tại sao phương pháp giáo dục STEAM ra đời.
    STEAM là ý tưởng sáng tạo ban đầu của Trường Thiết Kế Rhode Island (Mỹ),
    sau đó được sử dụng bởi nhiều nhà giáo dục và dần dần lan rộng ra cả Hoa Kỳ. Đây là
    một phương pháp tiếp cận giáo dục kiểu mới, trong đó Khoa Học, Công Nghệ, Kỹ
    Thuật, Nghệ Thuật, và Toán Học cùng được sử dụng để giảng dạy và hướng dẫn cho
    học sinh. STEAM là một sự chuyển đổi từ cách thức giáo dục truyền thống, dựa vào
    tiêu chuẩn điểm số để đánh giá, sang một phương pháp giáo dục hiện đại và lý tưởng,
    trong đó quá trình học tập và kết quả cùng được xem trọng như nhau.
    Tại sao chúng ta cần nghệ thuật?
    Vào ngày 06/05/2011, Ủy ban Nghệ thuật và Nhân văn của Tổng thống Obama
    đã ban hành một bản báo cáo tại Hội nghị Đối tác giáo dục nghệ thuật (AEP) được gọi
    là “Tái đầu tư trong giáo dục nghệ thuật: Làm chủ tương lai nước Mỹ thông qua các
    trường học sáng tạo”. Trong đó, ủy ban đã nêu rõ “khi học sinh được tham gia vào các
    bộ môn nghệ thuật, thành tích học tập của các em có thể tăng gấp bốn lần, điểm số
    GPA/SAT cũng cao hơn, và các em còn có thể cải thiện chỉ số IQ về không gian-thời
    gian của mình lên đến 56%. Trình độ Toán học của học sinh khối 12 được nâng lên
    một cách đáng kể, học sinh tương tác với các thầy cô và bạn bè của mình nhiều hơn,
    và trở nên tự tin và trình bày quan điểm của mình tốt hơn nhiều so với trước kia”. Bản
    báo cáo trên đã chứng minh cho tầm quan trọng của việc kết nối giữa nghệ thuật, văn
    hóa, sự sáng tạo và đổi mới, đồng thời nêu lên sự cấp thiết cho ra đời một chương trình
    mới nhằm cải cách nền giáo dục ở Mỹ.
    Chúng ta dường như quên rằng sự đổi mới thực sự không đến từ một phương
    trình toán học, công nghệ hay các loại hóa chất mới, nó đến từ những nơi như nghệ
    thuật, thiết kế, hay đơn giản hơn nó đến từ chính con người chúng ta. Đổi mới trong
    cuộc sống của mọi người nói chung và trong các ngành khoa học nói riêng luôn gắn
    liền với những trải nghiệm của con người, bằng một phương thức nào đó, dù trực tiếp
    hay gián tiếp. Những trải nghiệm của con người có được thông qua việc tương tác với
    những gì liên quan đến nghệ thuật như nghe nhạc, hay chiêm ngưỡng một tác phẩm
    nghệ thuật… Chính nghệ thuật giúp bạn nhìn nhận sự việc bằng một cách thức tự
    nhiên, dễ tiếp nhận hơn, và trong một không gian cởi mở hơn. Thế giới của chúng ta
    được xây dựng nên bởi những nhà tư duy phân tích. Tuy nhiên, những nghệ sĩ hay nhà
    thiết kế – những nhà tư duy trực giác lại là người mở ra cho chúng ta vô vàn khả năng.
    Những sự đổi mới to lớn ra đời khi chúng ta biết kết hợp lối tư duy phân tích và tư duy
    trực giác lại với nhau.
    Tiến sĩ Jerome Kagan, Giáo sư Danh dự tại Đại học Harvard và là một trong 22
    nhà tâm lý học nổi tiếng và được trọng vọng nhất của thế kỷ 20, nói rằng nghệ thuật
    góp phần thúc đẩy con người học tập tốt đến đáng ngạc nhiên, bởi các bộ môn nghệ
    thuật thường kết hợp ba công cụ chính mà trí não con người sử dụng để tiếp nhận, lưu
    trữ và truyền đạt kiến thức, đó là: các kỹ năng vận động, sự hình dung thông qua giác
    quan, và ngôn ngữ. Tiến sĩ Kagan đã phát biểu tại buổi nói chuyện về sự tiếp thu, nghệ
    thuật và não bộ con người tại Trường Đại học John Hopkins vào năm 2009 như sau:
    “Nghệ thuật và âm nhạc đòi hỏi con người ta phải sử dụng đến cả kiến thức về biểu đồ
    9
    và tiến trình, chính vì vậy sẽ giúp cho một đứa trẻ hiểu rộng hơn và sâu hơn về một
    vấn đề nào đó, và về thế giới này”.
    Với sự nhận thức này, các nhà giáo dục của Hoa Kỳ đang hợp nhất giữa nghệ
    thuật và các bộ môn khoa học lại với nhau. Tại Viện Woft Trap ở Virginia, các nhà
    giáo dục đang kết hợp môn nhảy múa với những bộ môn như toán số và hình học. Tại
    Trường thiết kế Rhode Island, nhà nghiên cứu của Học viện công nghệ Massachusetts,
    Jie Qui đã giới thiệu cho các sinh viên về loại giấy điện tử, trong đó mở ra việc sử
    dụng công nghệ trong nghệ thuật diễn cảm. Bản nghiên cứu này của cô đã làm cho các
    sinh viên thích thú hơn về các bộ môn khoa học, đồng thời thúc đẩy trí tưởng tượng
    của họ bay xa hơn. Việc kết hợp giữa khoa học và trí tưởng tượng được xem như một
    sự pha chế hoàn hảo, mang đến cho nền giáo dục của chúng ta bước lên một giai đoạn
    phát triển mới.
    Sáng tạo sẽ luôn là loại “gia vị” bí mật của một nền giáo dục toàn diện
    Thật vậy, chúng ta biết rằng để những thế hệ trẻ có thể đối mặt và vượt qua
    được những thách thức lớn sau này, đòi hỏi phải có những giải pháp thực sự sáng tạo,
    nhưng chỉ một mình STEM không thể mang đến điều đó. Chính STEAM và sự tham
    gia của nghệ thuật vào trong giáo dục là rất quan trọng dành cho học sinh ở cấp lớp từ
    mầm non lên đến lớp 12. Theo đó, việc tiếp nhận những bộ môn Khoa học, Công
    Nghệ, Kỹ thuật, và Toán học trong STEM đối với học sinh cũng trở nên dễ dàng hơn,
    và đồng thời đảm bảo được trong hành trình đổi mới của chúng ta, sự sáng tạo không
    bị quên lãng và bỏ lại phía sau. Các công ty và tổ chức mà trước kia vẫn tìm kiếm
    những tài năng từ trong các trường đại học nghiên cứu cỡ lớn, nay lại chuyển hướng đi
    tìm những người có khả năng sáng tạo, những người có thể mang đến những kỹ năng
    giải quyết vấn đề độc đáo, và một sự hiểu biết sâu sắc về trải nghiệm của người dùng.
    Gần đây, trong cuốn sách bán chạy nhất của Walter Issacson viết về tiểu sử
    Steve Jobs, có nhắc đến việc Jobs đã từng nói rằng nhiều kỹ sư tài năng nhất của
    Apple đều rất giỏi trong âm nhạc hay một loại hình nghệ thuật nào đó. Lisa Phillips,
    một tác giả, nhà báo, và là một nhà giáo dục về kỹ năng lãnh đạo và nghệ thuật cũng
    đã liệt kê ra một danh sách 10 kỹ năng mà những người trẻ tuổi sẽ lĩnh hội được thông
    qua việc học nghệ thuật, đó là
    1. Sáng tạo
    2. Tự tin
    3. Giải quyết vấn đề
    4. Kiên trì
    5. Tập trun
    6. Giao tiếp phi ngôn từ
    7. Tiếp nhận phản hồi mang tính xây dựng
    8. Hợp tác
    9 Tận tâm
    10. Trách nhiệm
    Các học sinh, sinh viên có khuynh hướng nghệ thuật hay được đào tạo toàn diện
    cả về kiến thức và nghệ thuật hiện nay đang có một tác động rất lớn vào việc đổi mới
    xã hội. Chính các em là những người giúp giải quyết các vấn đề toàn cầu quan trọng,
    là người đưa ra những giải pháp sáng tạo đối với môi trường, và những thách thức của
    xã hội.
    Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần những chương trình đào tạo kết hợp hài
    hòa giữa các bộ môn Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học và Nghệ thuật để đào
    tạo ra những thế hệ trẻ toàn diện cả về học thuật, và thúc đẩy sự sáng tạo bên trong
    của mỗi người. Chúng ta cần những ý tưởng mới, những giải pháp mới cho các vấn
    10
    đề hiện tại và sau này. Chúng ta cần đánh thức những “nghệ sĩ” bên trong chính
    những thế hệ học sinh nhỏ tuổi để các em có thể trở thành những công dân toàn cầu
    thực thụ.
    Tin rằng, đổi mới từ STEM sang STEAM là điều vô cùng cần thiết để cải
    thiện nền giáo dục của chúng ta. Cho dù bạn là một nghệ sĩ, nhà thiết kế, kỹ sư công
    nghệ, nhà khoa học, thì việc chuyển đổi sang STEAM là cấp thiết hiện nay; sự sáng
    tạo là điều kiện cần cho sự phát triển giáo dục của chúng ta. Không ai có thể phủ
    nhận thêm nữa về tầm quan trọng của giáo dục nghệ thuật, nơi mang đến những sự
    đổi mới cho cuộc sống và tương lai của chúng ta.
    Hiện nay, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hệ thống Trường Tây Úc đang áp
    dụng phương pháp giáo dục STEAM cho trẻ từ cấp lớp mầm non lên đến năm 12.
    Phương pháp này cần được mở rộng ra không chỉ riêng tại TP. Hồ Chí Minh mà trên
    toàn Việt Nam. Đối với Khối Mầm non và Tiểu học, giáo viên sẽ khuyến khích các
    bé tự do thử sức với nhiều ý tưởng khác nhau, và không để cho cảm giác “sợ sai”
    kiềm chế khả năng của mình. Giáo viên sẽ là người luôn lắng nghe đa chiều và mang
    lại cho các em học sinh một nền tảng kiến thức thực tế ngay từ khi còn nhỏ. Ở bậc
    trung học, STEAM đòi hỏi và trang bị cho học sinh những kỹ năng đánh giá về nghề
    nghiệp, sở thích, cơ hội và sự phát triển trong bối cảnh lịch sử, hiện tại và tương lai,
    từ quy mô địa phương ra đến toàn cầu. Các em được học và áp dụng những kiến thức
    từ nền tảng đến chuyên sâu, những kỹ năng và sự kỷ luật thông qua việc thực hiện
    các dự án thực tế và việc nghiên cứu những cập nhập mới nhất về các lĩnh vực liên
    quan. Học sinh còn có cơ hội tự đánh giá niềm đam mê, sở thích, trải nghiệm và tài
    năng của chính mình nhằm cải thiện sự phát triển của mỗi cá nhân ngày qua ngày.
    Điều này vô cùng hữu ích cho các em khi theo đuổi những khát vọng tương lai sau
    khi ra trường. Với những ưu điểm nổi trội trên, tin rằng STEAM sẽ giúp đào tạo
    những đứa trẻ – với đủ mọi trình độ và khả năng, trở thành những công dân toàn cầu
    trong chính cộng đồng của mình.
    1.3. Những điểm mạnh của giáo dục STEM/STEAM
    Thứ nhất: Giáo dục STEM/STEAM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách
    tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy
    bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một
    mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được
    kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
    Giáo dục STEM/STEAM sẽ phá đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo
    ra những con người có năng lực làm việc “tức thì” trong môi trường làm việc có tính
    sáng tạo cao với những công việc đòi hỏi trí óc của thế kỷ 21.
    Điều này phù hợp với cách tiếp cận tích hợp trong Chương trình GDPT mới. Vì
    thế, tư tưởng này của giáo dục STEM/STEAM cần được khai thác và đưa vào mạnh
    mẽ trong Chương trình GDPT mới.
    Thứ hai: Giáo dục STEM/STEAM đề cao đến việc hình thành và phát triển
    năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học
    sinh được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến
    các kiến thức khoa học.
    Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức
    11
    thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa, học liệu, thí nghiệm,
    công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra.
    Các kiến thức và kỹ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau
    giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo ra được
    những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Tư tưởng này của giáo dục
    STEM/STEAM cũng cần được khai thác và đưa vào mạnh mẽ trong Chương trình
    GDPT mới.
    Thứ ba: Giáo dục STEM/STEAM đề cao một phong cách học tập mới cho
    người học, đó là phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà
    phát minh, người học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết
    cách mở rộng kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với
    tình huống có vấn đề mà người học đang phải giải quyết.
    Sự thẩm thấu kiến thức theo cách như vậy chính là một trong những định hướng
    mà giáo dục cần tiếp cận. Tuy vậy, có thể thấy phương thức dạy học như trên là không
    hề dễ dàng ngay cả đối với thế giới chứ không chỉ riêng trong điều kiện hiện nay của
    chúng ta.
    1.4. Các cấp độ của tổ chức dạy học STEM/STEAM
    Việc tổ chức dạy học STEM có nhiều cấp độ khác nhau. Tùy thuộc vào điều
    kiện hoàn cảnh của từng trường mà lựa chọn cấp độ để đạt được hiệu quả giáo dục tốt
    nhất. Có 4 cấp độ dạy học STEM/STEAM như sau:
    Cấp độ định hướng STEM/STEAM: Tập trung dạy liên môn, học sinh được
    cung cấp kiến thức các môn STEM chắc chắn, khả năng sáng tạo, tư duy logic, hiệu
    suất làm việc vượt trội có cơ hội phát triển các kĩ năng mềm toàn diện hơn, có khả
    năng định hướng nghề nghiệp tương lai. Cấp độ này hiện giờ là phù hợp cho trình độ
    giáo viên và học sinh ở nhiều trường THPT ở nước ta hiện nay, nhất là các trường ở
    vùng nông thôn điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế.
    Cấp độ bổ trợ môn học STEM/STEAM: Dạy các môn công nghệ, Robotics- các
    môn điển hình cho dạy học STEM/STEAM. Thông qua lập trình lắp ráp robot, học
    sinh hiểu được: nguyên lí cơ bản về lập trình và các công nghệ mới hiện nay, có thể
    tiếp thu các kĩ thuật lắp ráp, đồng thời phát triển tính tư duy kĩ thuật. Học công nghệ
    thông qua thực hành và thông qua hoạt động dưới dạng trò chơi làm tăng hứng thú,
    tránh cảm giác nặng nề quá tải.
    Cấp độ bán STEM/STEAM: Dạy học tích hợp, lồng ghép liên môn của STEM
    theo một giáo trình được nghiên cứu và thử nghiệm nghiêm túc, hiệu quả. Học sinh
    được thực hành thông qua xem các video trong không gian ảo. Tuy nhiên cách học này
    mới đảm bảo được một mặt: những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các
    lĩnh vực khoa học công nghệ, kĩ thuật và toán học, lồng ghép và bổ trợ cho nhau trong
    một giáo trình có chủ đích. Còn về mặt ứng dụng thực tiễn của STEM chưa được đề
    cập, học sinh chưa được trực tiếp làm mới được thấy thực tế ở mức độ mô tả, hình
    dung.
    Cấp độ tiếp cận quan điểm STEM/STEAM hoàn toàn: Dạy học cấp độ bán
    STEm kết hợp học sinh được thực hành thông qua các dự án STEM. Dự án ở đây là
    một bài tập tình huống, một chủ đề mà người học phải giải quyết bằng kiến thức
    STEM.
    12
    Giáo dục STEM/STEAM nói chung và dạy học STEM/STEAM nói riêng
    không phải là để học sinh trở thành những nhà khoa học mà là xây dựng cho học sinh
    những năng lực cần thiết để làm việc trong thế giới công nghệ hiện đại, trong tương
    lai. Để đạt được hiệu quả trong dạy học STEM/STEAM, trước hết giáo viên phải có
    những nhận thức đúng, chính xác về STEM/STEAM.
    1.5. Các tiêu chí để đánh giá một bài học STEM/STEAM
    Tiêu chí 1: Chủ đề bài học STEM/STEAM tập trung vào các vấn đề thực tiễn
    Trong các bài học STEM/STEAM, học sinh được đặt vào các vấn đề thực tiễn
    xã hội, kinh tế, môi trường và yêu cầu tìm giải pháp
    Tiêu chí 2: Cấu trúc bài học STEM/STEAM được thiết kế theo quy trình kĩ thuật
    hoặc quy trình nghiên cứu khoa học
    Quy trình thiết kế kỹ thuật :
    Thiết kế kỹ thuật là cụ thể hóa ý tưởng của dự án nhằm thể hiện đầy đủ các giải
    pháp, thông số kỹ thuật và vật liệu sử dụng phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
    thuật được áp dụng, là cơ sở để triển khai thiết kế bản vẽ thi công.
    Quy trình thiết kế kỹ thuật cung cấp một tiến trình linh hoạt đưa học sinh từ
    việc xác định một vấn đề hoặc một yêu cầu thiết kế đến sáng tạo và phát triển giải
    pháp. Trong quy trình thiết kế kỹ thuật, các nhóm học sinh thử nghiệm các ý tưởng
    dựa trên nghiên cứu của mình, sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau mắc sai lầm,
    chấp nhận và học từ sai lầm, và thử lại. Sự tập trung của học sinh là phát triển các giải
    pháp. Một quy trình thiết kế kĩ thuật gồm những bước sau:
    13
    Quy trình nghiên cứu khoa học:
    Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm hiểu thế giới thông qua các suy luận
    logic, thí nghiệm kiểm chứng để tìm hiểu quy luật vận hành của vạn vật hay tăng sự
    hiểu biết về thế giới. Một quy trình nghiên cứu khoa học gồm những bước sau:
    Tiêu chí 3:Phương pháp dạy học STEM/STEAM đưa học sinh vào những hoạt
    động tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm
    Trong bài học STEM, hoạt động của học sinh được thực hiện theo hướng mở có
    “ khuôn khổ” về các điều kiện ma học sinh được sử dụng (chẳng hạn các vật liệu khả
    dụng). Hoạt động học của học sinh là hoạt động được chuyển giao và hợp tác; các
    quyết định về giải pháp giải quyết vấn đề là của chính học sinh. Học sinh thực hiện các
    hoạt động trao đổi thông tin để chia sẻ ý tưởng và tái thiết kế nguyên mẫu của mình
    nếu cần. Học sinh tự điều chỉnh các ý tưởng của mình và thiết kế hoạt động khám phá
    của bản thân.
    Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức bài học STEM/STEAM lôi cuốn học sinh vào hoạt
    động nhóm kiến tạo
    Giúp học sinh làm việc cùng nhau như một nhóm kiến tạo không bao giờ là
    một việc dễ dàng. Tuy nhiên, việc này sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu tất cả giáo viên
    STEM ở trường làm việc cùng nhau để áp dụng làm việc nhóm, sử dụng cùng một
    ngôn ngữ, tiến trình và mong đợi cho học sinh. Làm việc nhóm trong thực hiện các
    hoạt động của bài học STEM/STEAM là cơ sở phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác.
    Tiêu chí 5: Nội dung và bài học STEM/STEAM áp dụng chủ yếu từ nội dung
    khoa học và toán học mà học sinh đã và đang học
    Trong các bài học STEM/STEAM, giáo viên cần kết nối và tích hợp một cách
    có mục đích nội dung từ các chương trình khoa học, công nghệ và toán. Lập kế hoạch
    để hợp tác với các giáo viên toán, công nghệ và khoa học khác để hiểu rõ nội hàm của
    việc làm thế nào để các mục tiêu khoa học có thể tích hợp trong một bài học đã cho.
    Từ đó, học sinh dần thấy rằng khoa học, công nghệ và toán không phải là các môn học
    14
    độc lập, mà chúng liên kết với nhau để giải quyết các vấn đề. điều đó có liên quan đến
    việc học toán, công nghệ và khoa học của học sinh.
    Tiêu chí 6: Tiến trình bài học STEM/STEAM tính đến có nhiều đáp án đúng và
    coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập
    Một câu hỏi nghiên cứu đặt ra, có thể đề xuất nhiều giả thuyết khoa học; một
    vấn đề cần giải quyết, có thể đề xuất nhiều phương án, và lựa chọn phương án tối ưu.
    Trong các giả thuyết khoa học, chỉ có một giả thuyết đúng. Ngược lại, các phương án
    giải quyết vấn đề đều khả thi, chỉ khác nhau ở mức độ tối ưu khi giải quyết vấn đề.
    Tiêu chí này cho thấy vai trò quan trọng của năng lực giải quyết vấn đề và sáng
    tạo trong bài học STEM/STEAM
    1.6. Các bước thiết kế một hoạt động/dự án dạy học định hướng STEM/STEAM
    Để xây dựng một dự án STEM/STEAM cần chú ý:
    Chú ý 1. Luôn yêu cầu học sinh tiến hành theo trình tự:
    – Làm như sách
    – Làm tốt hơn sách
    – Làm tốt hơn nữa
    Chú ý 2. Sau mỗi dự án cần tiến hành điều tra ý kiến học sinh để hoàn thiện và
    rút kinh nghiệm cho dự án tiếp theo:
    PHIẾU LẤY Ý KIẾN HỌC SINH SAU DỰ ÁN

    STTCâu hỏiCâu trả lời
    1Khi làm sản phẩm, em thích điều gì nhất? vì sao?
    2Ứng dụng toán (hóa học/vật lý/ sinh học…) ở chỗ
    nào? Liên quan đến mảng kiến thức nào?
    3Theo em sản phẩm này ứng dụng được vào trong
    thực tế như thế nào?
    4Các em đã phân công công việc trong nhóm như
    thế nào?
    5Các em gặp những khó khăn gì? Các em đã giải
    quyết ra sao?
    6Điều gì em nghĩ có thể làm mới hơn so với sách,
    so với các bạn?

    Các bước xây dựng hoạt đông/dự án STEM/STEAM bao gồm:
    Bước 1: Xác định chủ đề dự án dạy học định hướng STEM/STEAM: Dự án
    STEM/STEAM cần khơi gợi những đam mê, hứng thú của học sinh, giúp học sinh
    thông qua dự án STEM/STEAM lĩnh hội kiến thức và định hướng học sinh theo đuổi
    ước mơ, ngành nghề trong tương lai. Khi lựa chọn dự án cần chú ý các vấn đề sau:
    – Dự án phải là một vấn đề, một chủ đề có tính bao quát, tính thực tiễn và tính thời sự.
    – Nội dung dự án phải gắn với yếu tố nghiên cứu khoa học, yếu tố kĩ thuật của các
    ngành nghề hiện đại, kiến thức của dự án phải nằm trong chương trình giáo dục trung
    học phổ thông do Bộ Giáo Dục quy định.
    Bước 2: Xác định mục tiêu của dự án
    Trong bước này cần cụ thể và lượng hóa các năng lực chuyên môn của những
    môn học liên quan, các năng lực và kĩ năng mà học sinh cần hình thành qua chủ đề.
    Đối với mỗi một năng lực cần phân tích và tìm hiểu từng thành tố, biểu hiện và hành vi
    cấu thành nên năng lực đó.
    Bước 3: Xác định các vấn đề cần giải quyết trong dự án/Câu hỏi nghiên cứu:
    Dự án đề cập đến đối tượng nào? Đối tượng đó có mặt trong lĩnh vực nào của đời
    15
    sống? Đối tượng đó liên quan đến những kiến thức khoa học nào? Xác định các nội
    dung kiến thức STEM/STEAM cần sử dụng để giải quyết vấn đề. Trả lời cho câu hỏi:
    Vận dụng những nội dung kiến thức nào để thực hiện dự án?
    Bước 5: Xây dựng các hoạt động, Lập kế hoạch dạy học, các giai đoạn giải quyết vấn
    đề của dự án
    • Tên hoạt động
    • Câu hỏi hoạt động
    • Kiến thức liên quan
    • Chỉ số hành vi cần đánh giá
    • Nguyên vật liệu
    • Các bước tiến hành
    • Kết quả, giải thích và đánh giá kết quả
    • Giáo án (Ai? Làm gì? Như thế nào? Bao lâu?)
    • Lựa chọn hoạt động
    • Sự kết hợp giữa các giáo viên (nếu cần)
    • Xây dựng công cụ đánh giá
    Bước 6: Tổ chức dạy học và đánh giá
    • Tiến hành theo giáo án
    • Đánh giá và điều chỉnh
    2. Xây dựng dự án dạy học định hướng STEM/STEAM: “Dạy học
    STEM/STEAM theo các vấn đề thời sự: Chủ đề Coronavirus
    Bước 1. Xác định chủ đề dự án giáo dục: Chung tay đẩy lùi đại dịch Covid 19
    Bước 2: Xác định mục tiêu của dự án
    Kiến thức: Giúp học sinh có kiến thức tổng hợp trên nhiều lĩnh vực như: Khoa học,
    công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) và nghệ thuật.
    Trình bày được các kiến thức cơ bản về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do
    chủng mới của virus Corona gây ra như tên gọi, nguồn gốc, lịch sử dịch bệnh, cấu trúc,
    hình thức lây truyền, dấu hiệu và triệu chứng, giao thức chuẩn đoán, cách phòng ngừa
    dịch bệnh.
    Trình bày và phân tích được tình hình diễn biến dịch Covid-19 trên thế giới và
    ở Việt Nam thông qua hệ thống biểu đồ, bảng số liệu.
    Hiểu được vai trò của cá nhân và cộng đồng, hiểu được thế nào là nhân nghĩa,
    hợp tác; hiểu trách nhiệm của công dân trước vấn đề có tính cấp thiết toàn cầu.
    Đọc hiểu văn bản và viết được các đoạn nghị luận xã hội liên quan đến Covid-
    19

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm phát triển sức mạnh và hoàn thiện kỹ  thuật đứng ném lựu đạn xa trúng đích cho học sinh lớp 11 THPT

    SKKN Ứng dụng một số bài tập bổ trợ nhằm phát triển sức mạnh và hoàn thiện kỹ  thuật đứng ném lựu đạn xa trúng đích cho học sinh lớp 11 THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN .
    Giáo dục Quốc phòng – An ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc
    gia, tác động tích cực và trực tiếp đến nhận thức của toàn dân trong nhiệm vụ
    bảo vệ tổ quốc ,giữ gìn an ninh của đất nước, một nội dung cơ bản trong xây
    dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là môn học chính khoá trong
    chương trình giáo dục của cấp THPT.
    Môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh góp phần vào giáo dục toàn diện
    cho học sinh về lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân
    trọng đối với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, của lực
    lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn
    của các thế lực thù địch; có kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào
    sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
    Hiện nay với xu hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm nhằm khuyến
    khích học sinh tự học, tự nghiên cứu.Nhằm nâng cao được chất lượng giáo dục
    trong nhà trường. Theo Quyết định số 16/2006 QĐ – BGD&ĐT ngày
    05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu “phải phát huy tính tích cực, tự
    giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, khả năng
    hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
    cảm, đem lại niềm vui hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. Chính vì
    vậy chúng ta không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày
    càng nhiều mà chúng ta phải chú trọng đến phương pháp rèn luyện cho học sinh
    một kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo ra cho học sinh lòng ham học,
    khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên.
    Giờ dạy môn GDQP – AN thực sự mang lại cho tôi cảm hứng muốn tìm
    tòi nghiên cứu và học hỏi nhiều hơn nữa. Qua thời gian giảng dạy, nghiên cứu
    tài liệu tôi thấy có một số thầy cô đã đề cập đến, đã nghiên cứu và đưa ra
    phương pháp luyện tập kỹ thuật “ ném lựu đạn xa trúng đích” của khối 11, tôi
    đã tham khảo và vận dụng vào thực tế tại đơn vị. Tuy nhiên, khi áp dụng tôi thấy
    nó lại phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thực tế của từng đơn vị, từng đối tượng
    3
    học sinh. Đối với trường THPT Đại An – Huyện ý yên – Tỉnh Nam Định, là đơn
    vị mới thành lập, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu thốn; điều
    kiện kinh tế vùng miền khó khăn, trình độ dân trí không đồng đều, chất lượng
    tuyển sinh học sinh đầu cấp còn thấp…. Do đó, việc hình thành kỹ năng động
    tác của học sinh chưa đảm bảo yêu cầu.
    Bên cạnh đó hội thao GDQP được trường tổ chức mỗi năm một lần qua
    đó nâng cao tinh thần học tập cũng như trao đổi kinh nghiệm giảng dạy giữa
    giáo viên trong trường. Học sinh được trau dồi những kỹ năng cũng như học tập
    được nhiều kiến thức qua từng nội dung thi đấu. Là một giáo viên huấn luyện
    học sinh trong nội dung thi đấu “ném lựu đạn” để thi hội thao toàn trường ,tôi
    nhận ra sự thích thú cũng như quyết tâm thi đấu để đạt được thành tích cao nhất
    của các em học sinh. Tuy nhiên qua nội dung thi “ném lựu đạn xa trúng đích” tôi
    nhận thấy một điều là về kĩ thuật đa phần học sinh đều thực hiện tương đối tốt
    động tác tuy nhiên về độ chính xác cũng như thể lực để thực hiện tốt tất cả các
    lượt ném thì lại không đảm bảo.
    Xuất phát từ những lý do nói trên với những kinh nghiệm của bản thân,
    tôi tiến hành thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: “Ứng dụng một số bài tập bổ trợ
    nhằm phát triển sức mạnh và hoàn thiện kỹ thuật đứng ném lựu đạn xa trúng
    đích cho học sinh lớp 11 trường THPT Đại An” với hy vọng việc rèn luyện thể
    lực và kỹ thuật động tác của học sinh được cải thiện, góp phần nâng cao chất
    lượng bộ môn cũng như chất lượng toàn diện của học sinh nhà trường .
    Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã áp dụng trong việc giảng dạy ở khối 11
    lớp 11B1, 11B2, 11B3, 11B4, trường THPT Đại An do tôi phụ trách trong năm
    học 2019 -2020 đã đem lại kết quả rất khả quan.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới của đất nước công tác giáo dục
    quốc phòng ở trường phổ thông tiếp tục được đổi mới.
    Căn cứ vào quyết định số 79/2007/QĐ- BGD&ĐT môn giáo dục quốc
    phòng được đổi tên thành “Giáo dục Quốc phòng – An ninh” cho phù hợp với
    4
    điều kiện phát triển của đất nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định Giáo
    dục Quốc phòng – An ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, một nội
    dung cơ bản trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, An ninh nhân dân, là
    môn học chính khoá trong chương trình giáo dục cấp trung học phổ thông.
    Nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh về lòng yêu nước và giữ nước
    của dân tộc ta, của lực lượng vũ trang và nhân dân. Trên cơ sở đó, nâng cao
    cảnh giác cách mạng, ý thức trách nhiệm của công dân, tích cực hoạt động góp
    phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
    Để đảm bảo hoà nhập trong quá trình đổi mới giáo dục ở cấp trung học phổ
    thông. Ngày 05 tháng 5 năm 2006 Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ban hành
    quyết định số 16/2006 QĐ- BGD &ĐT về chương trình phổ thông cấp trung học
    phổ thông, trong đó có môn học Giáo dục Quốc phòng – An ninh với thời gian
    35 tiết cho mỗi khối lớp học, 105 tiết cho cả cấp học, đáp ứng yêu cầu tổ chức
    dạy học theo phân phối chương trình.
    1.1. Thuận lợi:
    Bản thân tôi tốt nghiệp cử nhân sư phạm ngành GDTC – GDQP ghép
    môn nên được đào tạo cơ bản vững về chuyên môn và bản thân luôn nhiệt tình
    hăng say với công việc.
    Đối với môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh, nhà trường cùng các cấp lãnh đạo
    luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi như cử đi bồi dưỡng về chuyên môn,
    thực hiện đảm bảo các chế độ đối với giáo viên và học sinh .
    Điều kiện sân bãi, dụng cụ luôn được nhà trường quan tâm mua bổ sung đảm
    bảo cho môn học.
    1.2. Khó khăn
    – Đối với giáo viên: Đội ngũ giáo viên Giáo dục quốc phòng – An ninh là
    những giáo viên được đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất sang hoặc ghép
    môn. Tuy đã được đào tạo bồi dưỡng và tập huấn hàng năm, nhưng do đây là
    một lĩnh vực mới, kiến thức lại khá rộng nhiều nội dung trùng lặp với một số
    môn như Địa lý, lịch sử, giáo dục công dân… kiến thức học xen lẫn thực hành
    5
    với lý thuyết, thời gian bồi dưỡng của giáo viên lại ngắn nên đã gặp không ít
    những khó khăn trong khi giảng dạy.
    – Đối với học sinh: Do các em sinh ra và lớn lên trong thời bình, do yêu cầu về
    lượng kiến thức của các môn học nhiều, nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất
    lượng của bộ môn. Thể lực của học sinh còn yếu do các em không chú trọng rèn
    luyện hàng ngày.
    Do một bộ phận không nhỏ học sinh và phụ huynh còn ngộ nhận coi đây là
    môn học phụ nên dẫn đến ý thức học tập chưa tốt.
    – Về khách quan:
    Sân bãi không đảm bảo sau khi mưa một hai ngày sân lầy lội.
    Trong khi đang học thực hành gặp phải những buổi trời mưa, thậm chí mưa
    kéo dài trong nhiều ngày, nên ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập
    Do trường nằm trong khu vực xa trung tâm nên việc mua sách giáo khoa
    cũng rất khó, nhiều cửa hàng không bán, thư viện trường cũng thiếu đầu sách
    cho học sinh mượn.
    Dụng cụ trang thiết bị tuy được cấp tương đối đầy đủ và một số tự trang bị
    nhưng vẫn còn thiếu như tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một số nội dung
    hoặc là một số thiết bị không đảm bảo chất lượng hay lâu ngày nên đã bi hỏng
    như máy bắn TEC 1, súng AK tập (composite), bia số 4… Vì vậy đã ảnh hưởng
    không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh.
    Việc học môn GDQP – AN đòi hỏi người học phải nắm được cả nội dung
    lý thuyết và thực hành được kỹ thuật động tác. Trong khi đó chương trình sách
    giáo khoa môn GDQP số tiết thực hành ít và thời gian một tiết học thực hành
    phải học nhiều động tác mới nên học sinh có ít thời gian để luyện tập và hình
    thành kỹ năng kỹ xảo. Đặc biệt là ở khối lớp 11 bài 6: Kỹ thuật sử dụng lựu đạn
    là một nội dung khó nhưng thời gian học ít 3 tiết trong đó 1 tiết lý thuyết, 2 tiết
    thực hành.
    Tiết 26: Giới thiệu một số loại lựu đạn Việt Nam. Quy tắc bảo quản và sử
    dụng lựu đạn.
    Tiết 27: Tư thế động tác đứng ném lựu đạn
    6
    Tiết 28: Ném lựu đạn xa trúng đích.
    Với thời lượng như trên thì việc giảng dạy chủ yếu nghiêng về mặt học
    mới động tác, thời gian luyện tập còn ít mà yêu cầu cần đạt lại khá cao là: Nam
    25 m, Nữ 20m ném trúng đích đối với chương trình phổ thông. Để đạt được kết
    quả này các em học sinh phải có thể lực tốt và luyện tập nhiều. Nhưng thực tế
    hiện nay các em học sinh có thể lực rất yếu do các em có nhiều môn học thời
    gian giành cho có các hoạt động rèn luyện thể lực ít và nhiều em không có ý
    thức tự học ở nhà.
    Đối với bài này học sinh phải nắm được kiến thức phần lý thuyết về cấu tạo,
    tính năng chiến đấu và nguyên lý hoạt động của Lựu đạn. Sau đó ở phần thực
    hành tiết 27 phải nắm được kĩ thuật động tác, tiết 28 thực hành ném lựu đạn xa
    trúng đích. Thông thường khi ta dạy bài này giáo viên thị phạm động tác rồi tổ
    chức cho học sinh tập luyện theo ba bước hoặc là theo phương pháp mới học
    sinh tự nghiên cứu bài sau đó giáo viên chuẩn kiến thức rồi cho học sinh chia
    nhóm tự tập luyện giáo viên giám sát chỉ đạo chung. Cả hai cách này đều dẫn
    đến kết quả không cao thậm chí có những em không hề thực hiện được động tác
    chứ không nói đến đạt được thành tích tốt. Hơn nữa khi ném các em còn phải
    cầm súng và đeo lựu đạn trên người, điều này càng khiến các em khó khăn hơn
    trong việc thực hiện kĩ thuật, .
    * Những sai lầm học sinh thường mắc phải khi học bài này:
    – Khi thực hiện kĩ thuật ném lựu đạn các em hay co tay ở giai đoạn trước khi rời
    lựu đạn.
    – Các em chưa biết cách phối hợp sức mạnh của toàn thân, lực rời rạc.
    – Tâm lý khi lên thực hiện kĩ thuật chưa tốt, đặc biệt khi vào cuộc thi.
    2.Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến.
    2.1. Đối với học sinh.
    – Học sinh hiểu được mục đích và ý nghĩa, trường hợp vận dụng của kĩ thuật
    ném lựu đạn.
    – Học sinh cần phải hiểu rõ về nguyên lý kỹ thuật động tác.
    7
    – Học sinh phải tự nghiên cứu bài ở nhà trước, xây dựng tâm lý tự tin sẵn
    sàng.
    Nhìn về tổng quát của nội dung này chúng ta thấy không có gì là khó khăn
    đối với người học, nhưng trong thực tế khi giảng dạy chúng ta mới thấy nảy sinh
    ra nhiều vấn đề đối với người học như các em không biết cách thực hiện động
    tác hay là tâm lý còn ngại ngùng khi thực hiện động tác, đặc biệt là những học
    sinh nữ. Chính vì vậy giáo viên phải đưa ra được những phương pháp hợp lý để
    học sinh có thể nhanh chóng tiếp thuđược kiến thức cũng như không bị nhàm
    chán trong khi học tập.
    Để đảm bảo được thời gian và nội dung bài học ở bài này, nếu giao cho
    học sinh tự nghiên cứu rồi giáo viên tổ chức tập luyện thì khó có thể đảm bảo
    được thời gian cũng như học sinh tiếp thuđược động tác. Chính vì vậy ở nội
    dung này, để đảm bảo được tính hiệu quả ngay từ tiết 26 lý thuyết: Giới thiệu
    một số loại lựu đạn Việt Nam. Quy tắc bảo quản và sử dụng lựu đạn. Giáo viên
    nên dạy tập trung vào những ý chính, sau đó dành thời gian cho học sinh quan
    sát video, hình ảnh về tư thế động tác đứng ném lựu đạn, để các em bước đầu
    hình thành ra động tác. Yêu cầu học sinh về nhà thực hiện trước động tác bằng
    cách đọc sách giáo khoa và xem các video clip về đứng ném lựu đạn để tham
    khảo trước . Tiết 27, 28 thực hành giáo viên giành nhiều thời gian cho học sinh
    luyện tập động tác và tập một số bài tập bổ trợ, nhằm phát triển thể lực và giúp
    các em hoàn thiện kỹ thuật động tác.
    2.2. Đối với giáo viên.
    Giáo viên phải xây dựng một kế hoạch cụ thể, tổ chức luyện tập khoa học, chuẩn
    bị đầy đủ thiết bị dụng cụ dạy học. Duy trì nghiêm chế độ học tập đã được triển
    khai theo kế hoạch. Đây là nội dung quan trọng, quyết định trực tiếp đến chất
    lượng bài học.
    Xây dựng kế hoạch học tập là một nội dung hết sức quan trọng nhằm điều
    hành, duy trì học tập của lớp học không gây nhàm chán. Tổ chức luyện tập
    không chặt chẽ, phương pháp luyện tập không tốt không những kết quả luyện
    tập không cao mà còn làm cho động tác có tật khó sửa.
    8
    Đối tượng tôi chọn là học sinh 4 lớp 11 với 153 em, tỷ lệ nam, nữ giữa các
    lớp tương đương với nhau. Thể lực giữa các lớp lúc chọn vào là ngẫu nhiên gần
    như bằng nhau.Được chia làm 2 nhóm; 1 nhóm làm thực nghiệm, nhóm còn lại
    để đối chứng.
    Nhóm thứ nhất: Tập luyện bình thường theo hướng dẫn của sách giáo khoa
    và phương pháp học như năm trước bao gồm các lớp:
    11B1 có 38 học sinh
    11B2 có 39 học sinh
    Tổng số học sinh của nhóm thứ nhất là 77 học sinh.
    Nhóm thứ hai: Tập luyện theo phương pháp thực nghiệm áp dụng các bài tập
    bổ trợ gồm các lớp:
    11B4 có 37 học sinh
    11B3 có 39 học sinh
    Tổng số học sinh nhóm thứ hai là: 76 học sinh.
    Trước khi áp dụng một số bài tập cho nhóm thực nghiệm, thực hiện kiểm tra
    hai nhóm thu được kết quả sau:
    2.2.1. Bảng 1: Nhóm đối chứng:

    LớpTSGiỏi (9-10)Khá (7-8)Tb (5-6)Không đạt(dưới
    5)
    SL%SL%SL%SL%
    11B13825,3923,71025,61847,4
    11B23912,6820,51128,21948,7
    Tổng7733,81722,02127,03748,1

    9
    2.2.2. Bảng 2: Nhóm thực nghiệm:

    LớpTSGiỏi (9-10)Khá (7-8)Tb (5-6)Không đạt(dưới 5)
    SL%SL%SL%SL%
    11B33925,11025,61128,21641,0
    11B43712,7718,9924,32054,1
    Tổng7633,91722,32026,43647,4

    2.3. Biện pháp thực hiện các bài tập bổ trợ.
    Để góp phần nâng cao hiệu quả của tiết học kĩ thuật sử dụng lựu đạn nhằm
    nâng cao thành tích cũng như tạo sự hăng say tập luyện của học sinh, tôi đã
    nghiên cứu và vận dụng đem vào giảng dạy các bài tập bổ trợ phát triển thể lực
    song song vào trong thời gian tiết học và với thời gian theo phân phối chương
    trình, chỉ có 3 tiết ( 1 lý thuyết và 2 thực hành), tôi luôn chủ động nhắc nhở học
    sinh nên tập luyện thêm ờ nhà để nhằm nâng cao kết quả học tập cũng như sức
    khỏe mỗi bản thân với thời gian cho phép.
    2.3.1. Nhóm các bài tập phát triển sức mạnh.
    – Đặc điểm khi thi đấu ném lựu đạn và tập luyện nội dung ném lựu đạn là
    người học cần có một thể lực thật tốt để luôn đảm bảo được khi thi đấu thì phải
    thực hiện tốt tất cả yêu cầu được đề ra.Như chúng ta thấy khi đi tham gia thi đấu
    hội thao GDQP mỗi học sinh cần phải thực hiện đầy đủ 7 lượt ném (trong đó có
    hai lượt ném thử và năm lần ném tính điểm).Vì vậy luôn đặt ra cho VĐV khi thi
    đấu là phải đảm bảo có một nền tảng thể lực thật tốt.
    – Từ cơ sở lý luận cũng như quan điểm vận động tập luyện và khi thi đấu
    môn ném lựu đạn. Các bài tập để phát triển sức mạnh được tôi đưa vào cho học
    sinh tập luyện như sau.
    Bài tập 1: Ném lựu đạn xa.
    – Mục đích: Phát triển sức mạnh của cánh tay và phối hợp động tác ra tay
    đúng trong động tác ném lựu đạn .
    – Chuẩn bị: quả lựu đạn tập, sân tập, súng Ak, bao xe (Tùy theo điều kiện cụ
    thể của trường để chuẩn bị sân tập cho hợp lý).

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT

    SKKN Một số biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Thể dục Thể thao là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong công
    cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Ngoài ra Thể dục thể thao còn là
    một phương tiện tối ưu để rèn luyện sức khoẻ. Rèn luyện TDTT không những nâng
    cao sức khoẻ, khả năng vận động, giáo dục phẩm chất đạo đức cho con người mà
    còn phát triển năng lực trí tuệ.
    Trong hệ thống Giáo dục – Đào tạo của nước ta. Giáo dục thể chất là một bộ
    phận quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm đào tạo cho
    họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước có nhân cách đạo đức tốt, trình độ
    chuyên môn cao, có sức khoẻ dồi dào, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
    Những năm qua công tác giáo dục thể chất trong các nhà trường luôn được
    Đảng, Nhà nước quan tâm cả về vật chẫn lẫn tinh thần thông qua việc đầu tư, tăng
    cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, cải tiến chương trình giảng dạy nhằm đáp
    ứng những yêu cầu trong thời đại mới. Trong các môn thể thao, Bóng rổ là một
    môn thể thao có sức hấp dẫn, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
    tập luyện và thi đấu, từ lứa tuổi thanh thiếu niên, học sinh cho đến người cao tuổi.
    Thậm chí cả những người khuyết tật cũng có thể tham gia tập luyện môn thể thao
    này. Hiện nay Bóng rổ là môn thể thao được tổ chức trong các kỳ đại hội thể thao
    quốc tế, đại hội thể thao các quốc gia, các giải thi đấu của học sinh – sinh viên các
    cấp. Tại Việt Nam Bóng rổ hiện đang là môn thể thao có tốc độ phát triển mạnh,
    đặc biệt là trong môi trường học đường.
    Hiện nay phong trào tập luyện và thi đấu môn Bóng rổ trong trường THPT
    Thịnh Long vẫn được duy trì thông qua các giờ học chính khóa của môn Thể dục,
    các buổi ngoại khóa, thậm chí ngay trong các giờ giải lao trong các buổi học. Tuy
    nhiên thực tế hiện tại cho thấy do tác động của xã hội cùng với sự bùng nổ của
    2
    công nghệ thông tin, các trò chơi công nghệ số đang thu hút hầu hết các em học
    sinh tham gia qua đó làm ảnh hưởng rất lớn đến phong trào tập luyện và thi đấu của
    các môn thể thao nói chung và môn Bóng rổ nói riêng..
    Bên cạnh đó môn Bóng rổ có kỹ thuật khó, tiêu hao thể lực nhiều, phong trào
    tập luyện môn Bóng rổ tại khu vực trường đóng quân chưa phát triển. Do đó phong
    trào tập luyện môn thể thao này là điểm yếu của phong trào thể thao trường THPT
    Thịnh Long.
    Xuất phát từ thực tế nêu trên, với mong muốn đẩy mạnh phong trào tập luyện
    môn Bóng rổ cho học sinh trường THPT Thịnh Long, tôi tiến hành nghiên cứu và
    áp dụng “Một số biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học
    sinh trường THPT Thịnh Long”. Nhằm mục đích nâng cao chất lượng học tập
    môn Thể dục nói chung và nội dung Bóng rổ nói riêng của học sinh trong nhà
    trường.
    Mục đích của sáng kiến:
    Thông qua việc phân tích lý luận và đánh giá thực trạng phong trào tập luyện
    môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long vào thời điểm hiện tại, sáng
    kiến xây dựng và áp dụng thực tế các nhóm biện pháp thích hợp, có tính khả thi
    theo hướng nhằm phát triển phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh trường
    THPT Thịnh Long.
    Mục tiêu của sáng kiến:
    Căn cứ vào mục đích đã đặt ra, sáng kiến giải quyết 2 mục tiêu sau:
    Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học
    sinh trường THPT Thịnh Long.
    3
    Giải quyết mục tiêu nghiên cứu này chính là việc đánh giá thực trạng về
    công tác GDTC, phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT
    Thịnh Long, làm cơ sở để giải quyết mục tiêu tiếp theo của sáng kiến.
    Mục tiêu 2: Xây dựng và áp dụng thực tế một số biện pháp phát triển phong
    trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long.
    Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn của phong trào tập luyện môn Bóng
    rổ, sáng kiến đã tiến hành xây dựng và áp dụng thực tế một số biện pháp phát triển
    phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long. Đồng
    thời thông qua việc tổ chức áp dụng thực tế các biện pháp đã lựa chọn trong thực
    tiễn, sáng kiến đã tiến hành xác định hiệu quả của các biện pháp đó thông qua việc
    thực nghiệm một số biện pháp được lựa chọn.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Cơ sở lý luận để xây dựng sáng kiến
    1.1. Những biện pháp phát triển TDTT
    1.1.1 Khái niệm về các biện pháp
    Nghiên cứu các tài liệu về quản lí TDTT, có thể nhận thấy các biện pháp
    chưa được nghiên cứu sâu và hệ thống hoá một cách đầy đủ. Do đó cần phải tiến
    hành việc phân loại trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm quản lí thu nhận được từ
    quá trình áp dụng các biện pháp vào thực tiễn.
    Trên cơ sở phân tích tài liệu, có thể đi đến nhận định là giữa phương pháp và
    thực tiễn quản lí còn có khoảng cách. Việc ứng dụng các phương pháp quản lí vào
    quá trình quản lí phụ thuộc vào nhiều yếu tố trên cơ sở phù hợp của chúng với điều
    kiện thực tiễn:
    + Yếu tố hình thức là yếu tố hiện trạng của quá trình quản lí khác, đây là tình
    trạng nội lực, ngoại lực (khách quan, chủ quan) trong quản lí.
    4
    + Yếu tố mục tiêu trong quản lí cần đạt ở mức độ, phạm vi nào?
    + Sự thông minh, sáng tạo của người quản lí
    Về bản chất của giải pháp là những phương pháp, phương tiện, hành vi công
    cụ được tác động sử dụng thông qua quản lí theo một lộ trình nhất định. Các
    phương tiện, hành vi, công cụ này thể hiện ở hình thức là các chương trình và dự án
    được thực hiện trong phạm vi lộ trình để đạt được mục tiêu quản lí. Nói tóm lại giải
    pháp là những chương trình, dự án được sử dụng như một phương pháp quản lí để
    đạt được mục tiêu quản lí đề ra. Giải pháp là những phương pháp cụ thể, là cách
    thức thực hiện các phương pháp. Giải pháp là cụ thể hoá các phương pháp hay ứng
    dụng các phương pháp vào thực tiễn quản lí. Trong một phương pháp có nhiều giải
    pháp, mặt khác một giải pháp cụ thể có thể tập hợp nhiều phương pháp khác nhau.
    Như vậy giữa phương pháp và giải pháp có sự tương đồng nhưng không phải đồng
    nghĩa với nhau. Một nhóm giải pháp cụ thể tổng hợp thành phương pháp quản lí
    1.1.2. Phân loại các biện pháp phát triển TDTT
    Theo cách tiếp cận các phân loại các giải pháp quản lí xã hội của các tác giả
    Nguyễn Tuấn Dũng, Đỗ Minh Hợp và K.A.Vôrônôva, việc phân loại các nhóm giải
    pháp quản lí xã hội như sau:
    a. Trong phương pháp quản lí hành chính có nhóm biện pháp hành chính. Đó
    là nhóm giải pháp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, mệnh lệnh dựa trên cơ sở pháp lí
    được luật pháp thừa nhận. Đây là nguyên lí cấp dưới phục tùng cấp trên , người dân
    sống và làm việc theo pháp luật. Nhóm giải pháp này bao gồm các giải pháp cụ thể
    như sau:
    – Biện pháp tổ chức ( hình thành các loại hình tổ chức trong xã hội)
    – Các văn bản pháp luật, dưới luật, chỉ thị, nghị quyết, nghị định, thông tư, kế
    hoach.
    5
    – Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát.
    b. Trong phương pháp quản lí kinh tế có nhóm biện pháp kinh tế (vận dụng
    phương pháp quản lí kinh tế). đây là nhóm giải pháp vận dụng các quy luật kinh tế
    để áp dụng vào quản lí xã hội.
    Quy luật kinh tế cơ bản nhất gồm có:
    – Lợi nhuận và lợi ích kinh tế, các hoạt động xã hội đều lấy lợi ích, lợi nhuận
    kinh tế làm thước đo, đánh giá hiệu quả và mục đích hoạt động.
    – Quy luật về phân phối lợi ích sản phẩm xã hội.
    – Quy luật cung cấp, quy luật giá trị.
    – Quy luật kinh tế thị trường…
    Trên cơ sở đó nhóm các biện pháp kinh tế bao gồm:
    – Hệ thống chế độ, chính sách và khen thưởng vật chất.
    – Hệ thống lương và phụ cấp ngoài lương.
    Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến sự đa
    dạng hoá các loại hình sở hữu, trong quản lý điều hành phát triển xã hội. Sở hữu
    nhà nước (Công lập) và sở hữu ngoài nhà nước (Ngoài công lập) gồm có bán công,
    dân lập, tư nhân.
    Biện pháp xã hội hoá để thu hút và khai thác các nguồn lực xã hội. Các quan
    điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác xã hội hoá thể dục thể thao
    là:
    + Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng của xã hội. phát triển thể dục
    thể thao là một phương tiện hữu hiệu để phát triển con người toàn diện – đây vừa là
    mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội. Thể dục thể thao góp phần tích cực
    6
    nâng cao sức khoẻ, phát triển nhân cách con người, tạo ra lối sống lành mạnh, văn
    minh trong xã hội.
    + Thể dục thể thao Việt Nam phải là một nền thể thao phát triển và tiến bộ,
    có tính độc lập, khoa học và mang tính toàn dân.
    + Thể dục thể thao là sự nghiệp của quần chúng, là trách nhiệm của toàn xã
    hội. Mọi tổ chức Đảng, Chính quyền, Tổ chức xã hội ở các cấp phải coi trong, có
    trách nhiệm phát triển thể dục thể thao.
    Những quan điểm trên là căn cứ, cơ sở giúp cho việc hoạch định có hiệu quả
    trong mọi phạm vi hoạt động của thể dục thể thao, trong đó bao gồm cả hoạt động
    tổ chức, xây dựng quản lý các tổ chức xã hội về thể dục thể thao.
    c. Nhóm biện pháp đạo đức (Vận dụng các phương pháp Quản lý đạo đức).
    Đây là nhóm giải pháp về con người, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng con nguời có
    nhân cách phát triển để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý. Đạo đức ở đây là
    xây dựng và hình thành nhân cách con người trong hệ thống quản lý. Con người
    vừa là chủ thể, vừa là khách thể quản lý. Đạo đức của con người trong hệ thống
    quản lý là nhân tố quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại của quá
    trình quản lý.
    Nội dung biện pháp quản lý đạo đức gồm có :
    + Hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo con người trong xã hội.
    + Hệ thống chế độ sử dụng nguồn lực con người trong xã hội, chế độ tuyển
    dụng, chế độ lao động, công tác…
    + Tuyên truyền, vận động, giáo dục truyền thông cho mọi người về chính trị,
    tư tưởng, về tư cách đạo đức…
    7
    Ngoài cách phân loại các biện pháp quản lí nói trên, khi vận dụng các nhóm
    biện pháp vào thực tiễn của quá trình quản lí cần phải sử dụng linh hoạt các loại
    giải pháp hỗ trợ khác.
    1.2 Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc phát triển phong trào tập
    luyện môn Bóng rổ.
    Muốn phát triển phong trào tập luyện và thi đấu môn Bóng rổ cần phải phát
    triển cả phong trào quần chúng và thể thao thành tích cao. Trong đó phong trào tập
    luyện của lứa tuổi học sinh đóng vai trò hết sức quan trọng. Quá trình tuyển chọn
    nhân tài cũng như quá trình đào tạo nhân tài ở các môn thể thao cần phải tìm ra
    những đặc điểm chung và những yếu tố đặc thù đối với từng bộ môn. Với môn
    Bóng rổ ở trường THPT Thịnh Long sự phát triển thường bị các nhân tố sau chi
    phối:
    1.2.1 Nhận thức của cấp uỷ Đảng, Ban giám hiệu, các ban ngành đoàn thể, các
    CB – GV – CNV trong trường THPT Thịnh Long đối với công tác Giáo dục thể
    chất.
    Trong nhiều năm qua công tác Giáo dục thể chất ở trường THPT Thịnh Long
    luôn được chi bộ Đảng, ban Giám hiệu và các ban ngành đoàn thể trong nhà trường
    quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện tích cực về cả vật chất và tinh thần. Quán triệt nghị
    quyết, chỉ thị của Đảng và nhà nước đối với công tác TDTT nói chung, công tác
    Giáo dục thể chất nói riêng, cấp uỷ Đảng, ban Giám hiệu và các ban ngành đoàn
    thể trong nhà trường đã khẳng định xây dựng và phát triển phong trào TDTT là một
    bộ phận trong chiến lược phát triển nhà trường.
    Trong những năm qua cấp ủy, ban Giám hiệu trong nhà trường đã quán triệt
    đường lối đổi mới của Đảng, của ngành, vận dụng vào thực tiễn nhà trường với các
    nhiệm vụ cụ thể sau:
    8
    + Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền để không ngừng nâng cao nhận thức của
    các tổ chức đoàn thể, CB – GV – CNV và học sinh về nhiệm vụ duy trì và phát triển
    phong trào tập luyện và thi đấu các môn thể thao trong nhà trường để đáp ứng nhu
    cầu, nhiệm vụ mới.
    + Hoàn thành xây dựng quy hoạch phát triển các công trình phục vụ cho công tác
    Giáo dục thể chất. Đẩy mạnh xã hội hoá phục vụ cho các hoạt động TDTT. Huy
    động các nguồn lực đầu tư cho công tác TDTT, đa dạng hoá các loại hình hoạt
    động thể thao trong nhà trường, duy trì và phát triển đa dạng các môn thể thao học
    sinh, đặc biệt là những môn thể thao thế mạnh của nhà trường, của địa bàn dân cư
    nơi trường đóng quân như Bóng rổ, Điền kinh, Bóng bàn, Bóng chuyền, Bóng đá.
    + Phát triển mạnh, sâu rộng phong trào Thể thao học đường, đẩy mạnh thực
    hiện cuộc vận động “ Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Đặc
    biệt nâng cao chất lưọng giáo dục thể chất góp phần đào tạo con người mới phát
    triển toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mĩ. Thông qua các hoạt động của thể thao trong
    nhà trường phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho đội tuyển TDTT của nhà
    trường, của ngành GD&ĐT Nam Định.
    Đối với trường THPT Thịnh Long các môn thể thao nói chung và môn Bóng rổ
    nói riêng dành cho CB – GV – CNV và học sinh đều được Chi bộ – BGH, Công
    đoàn, Đoàn Thanh niên đặc biệt quan tâm, thường xuyên tổ chức các giải thi đấu
    động viên khen thưởng kịp thời, tạo không khí sôi nổi trong tập luyện và thi đấu
    trong nhà trường.
    1.2.2. Công tác tổ chức quản lí.
    Đây là một nhân tố hết sức quan trọng, một khi đã có chủ trương đúng có
    được tiền đề về các nhân lực, vật lực mà tổ chức quản lí không tốt sẽ không phát
    huy được hiệu quả. Khâu tổ chức quản lí chủ yếu về ba lĩnh vực:
    + Tổ chức quản lí con người
    9
    + Tổ chức quản lí vật chất, dụng cụ sân bãi.
    + Phát huy sự hợp đồng hỗ trợ của nguồn lực bên trong và bên ngoài.
    Nói đến tổ chức con người là một phạm trù rất rộng. Trong đó chủ yếu là đội
    ngũ cán bộ, giáo viên giáo dục thể chất, ngoài ra còn có đội ngũ hướng dẫn viên,
    BCH Công đoàn, BCH Đoàn trường, giáo viên chủ nhiệm…Nếu công tác tổ chức
    quản lí có sự phối hợp rộng rãi thì sẽ phát huy được sức mạnh cộng đồng.
    Với công tác TDTT học sinh ở trường THPT Thịnh Long để làm tốt khâu
    này, lãnh đạo của nhà trường chủ yếu là tạo điều kiện về thời gian và cơ sở vật chất
    cho việc tập luyện và công tác tổ chức các giải thi đấu.
    1.2.3 Trình độ và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên giáo dục thể
    chất trường THPT Thịnh Long
    Muốn làm tốt bất kì một công việc gì đòi hỏi con người phải có sự nhiệt tình
    và phải có tri thức. Trong thời đại ngày nay khi thế giới bùng nổ cuộc cách mạng
    thông tin cũng như khoa học công nghệ phát triển với tốc độ chóng mặt đã ảnh
    hưởng đếm sự phát triển của TDTT làm cho sự tiếp cận trình độ của nhau ngày
    càng gần hơn. Sự đua tranh trên sàn đấu ngày càng căng thẳng và gay cấn hơn.
    đứng trước tình hình đó, nhiều nhà khoa học của các nước có nền thể thao tiên tiến
    như Nga, Mĩ, Nhật và Trung Quốc đã cho rằng các cuộc tranh tài thể thao ở thế kỉ
    XXI không chỉ còn là sự đua tranh về kĩ chiến thuật mà còn là sự đua tranh về trình
    độ trí tuệ của các vận động viên, huấn luyện viên.
    Khoa học TDTT là một môn khoa học đã can thiệp, chịu ảnh hưởng hàng
    loạt các ngành khoa học khác như Sinh lí, Sinh học, Sinh cơ, Tâm lí, Quản lí…
    Đồng thời các môn khoa học này cũng không ngừng tiến bộ phát triển. Đối mặt với
    tri thức, nếu người giáo viên GDTC không chịu đổi mới, nâng cao trình độ tri thức
    thì khó có thể đào tạo được những tài năng trong lĩnh vực thể thao.
    10
    Trường THPT Thịnh Long hiện có 04 giáo viên bộ môn GDTC – QPAN
    hiện đang sinh hoạt trong tổ Thể dục – QPAN – Sinh học – KTNN.
    Tất cả đều đạt trình độ chuẩn trong đó có 01 đồng chí có trình độ trên chuẩn. Lực
    lượng này là một yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển phong trào tập luyện
    TDTT nói chung và phong trào tập luyện môn Bóng rổ nói riêng của học sinh
    trường THPT Thịnh Long .
    1.3 Tiềm năng phát triển môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh
    Long.
    Để phát triển một môn thể thao nào đó trở thành một môn thể thao được phát
    triển rộng rãi cần phải khảo sát tới tiềm năng phát triển của môn thể thao đó.
    Tiềm năng là năng lực tiềm ẩn còn chưa được phát triển, khai thác đầy đủ.
    Tiềm năng bao gồm các lĩnh vực như con người, điều kiện chính trị, kinh tế xã hội,
    địa lí, khí hậu, môi trường…
    Trường THPT Thịnh Long có những tiềm năng rất thuận lợi để phát triển
    phong trào tập luyện và thi đấu môn Bóng rổ đó là:
    Cấp uỷ Đảng, Ban giám hiệu và các ban ngành đoàn thể trong nhà trường
    đều rất quan tâm đến việc phát triển TDTT nhằm nâng cao sức khoẻ cho học sinh.
    Điều này được thể hiện qua việc xây dựng, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho tập
    luyện và thi đấu TDTT với nguồn ngân sách lớn. Hàng năm có sự kiểm kê, duy tu,
    sửa chữa, bổ sung cơ sở vật chất phục vụ tốt nhất cho học sinh tập luyện. Hàng năm
    nhà trường đều dành một khoản tài chính lớn để tổ chức Hội khoẻ Phù Đổng cấp
    trường và tham gia các giải thi đấu thể thao học sinh cấp huyện, cấp tỉnh. Nhà
    trường còn đưa công tác rèn luyện thân thể, công tác tham gia các cuộc thi đấu
    trong nhà trường trở thành một tiêu chí thi đua đối với học sinh và cán bộ giáo
    viên. Các cá nhân có thành tích thi đấu cao tại các giải đều được khen thưởng động
    11
    viên kịp thời. Điều đó đã khích lệ tinh thần tập luyện và thi đấu của các em học
    sinh.
    Trong quá trình tập luyện và thi đấu môn Bóng rổ phù hợp với sự phát triển
    thể chất và thể lực của học sinh. Cơ sở vật chất phục vụ cho tập luyện và thi đấu
    không quá tốn kém, diện tích sử dụng không cần quá lớn.
    Bóng rổ là một môn thể thao quần chúng, dễ học, dễ chơi, nên số lượng
    người chơi từ già đến trẻ khá nhiều. Vì vậy đã tạo ra một lực lượng huấn luyện
    viên, hướng dẫn viên, vận động viên nghiệp dư rất lớn. Trên địa bàn huyện Hải
    Hậu nói chung, địa bàn trường đóng quân nói riêng phong trào tập luyện và thi đấu
    môn Bóng rổ diễn ra khá sôi nổi nên đã thu hút được khá đông học sinh tham gia
    tập luyện và thi đấu nhằm rèn luyện thể chất và giải trí sau những giờ học căng
    thẳng.
    Môn Bóng rổ là môn thể thao đòi hỏi trí thông minh, tính sáng tạo, sự quyết
    đoán và khả năng xử lý tình huống nhanh, chính xác. Những tố chất này lại rất phù
    hợp với sự phát triển về thể chất và tinh thần ở lứa tuổi học sinh, đặc biệt là lứa tuổi
    học sinh THPT.
    Từ việc nghiên cứu, phân tích những cơ sở lý luận sáng kiến đã hình thành
    nên những cơ sở lý luận quan trọng trong việc tổ chức, quản lý phong trào tập
    luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long, định hướng cho các
    bước nghiên cứu tiếp theo của sáng kiến. Vấn đề này được thực hiện theo các bước
    sau:
    Bước 1: Đánh giá thực trạng phong trào tập luyện và thi đấu môn Bóng rổ
    của học sinh trường THPT Thịnh Long bao gồm các yếu tố:
    + Đặc điểm công tác của trường THPT Thịnh Long.
    + Thực trạng phong trào TDTT học sinh trường THPT Thịnh Long.
    12
    + Thực trạng cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ phục vụ cho phong trào tập
    luyện và thi đấu môn Bóng rổ của học sinh.
    + Thực trạng đội ngũ giáo viên GDTC trong trường THPT Thịnh Long
    + Sự phát triển của CLB và số lượng học sinh thường xuyên tham gia tập
    luyện trong các CLB Bóng rổ.
    Bước 2: Để nâng cao hiệu quả phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học
    sinh trường THPT Thịnh Long, cần nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như
    khảo sát thực trạng công tác tổ chức, quản lý, tập luyện và nhu cầu, sự ham thích
    tập luyện TDTT nói chung và môn Bóng rổ nói riêng của học sinh. Đồng thời
    thông qua việc tham khảo ý kiến của các, các cán bộ quản lý, các giáo viên để xây
    dựng các biện pháp một cách có hiệu quả nhằm phát triển phong trào tập luyện môn
    Bóng rổ đối với học sinh trường THPT Thịnh Long.
    môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long. Đồng thời trong giai đoạn
    nghiên cứu này sáng kiến cũng tiến hành khảo sát, phỏng vấn các cán bộ quản lý,
    các giáo viên, trong và ngoài nhà trường. Xây dựng kế hoạch thực nghiệm và tiến
    hành thực nghiệm sư phạm một số giải pháp lựa chọn. Kết quả nghiên cứu của giai
    đoạn này là xác định được cơ sở lý luận, luận cứ khoa học cho việc lựa chọn, ứng
    dụng các biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh
    trường THPT Thịnh Long.
    2. Kết quả đạt được của sáng kiến
    2.1 Đánh giá thực trạng phong trào tập luyện môn Bóng rổ của học sinh
    trường THPT Thịnh Long
    Để đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển phong trào tập
    luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long, sáng kiến đã tiến hành
    khảo sát các yếu tố liên quan chủ yếu chi phối hiệu quả phát triển phong trào tập
    luyện môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long đó là:
    13
    1. Đặc điểm trường THPT Thịnh Long
    2. Đặc điểm phong trào TDTT học sinh trường THPT Thịnh Long.
    3. Cơ sở vật chất, dụng cụ, trang thiết bị phục vụ cho phong trào tập luyện
    môn Bóng rổ của học sinh trường THPT Thịnh Long.
    4. Đội ngũ giáo viên GDTC và trình độ Bóng rổ của học sinh trường THPT
    Thịnh Long.
    5. Sự phát triển của số học sinh thường xuyên tham gia tập luyện môn Bóng
    rổ trong trường THPT Thịnh Long.
    6. Đối tượng thường xuyên tham gia tập luyện môn Bóng rổ tại trường THPT
    Thịnh Long
    7. Các giải thi đấu TDTT và giải Bóng rổ được tổ chức hàng năm .
    8. Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên, thành viên ban
    chủ nhiệm CLB thể thao trường học.
    2.1.1 Đặc điểm trường THPT Thịnh Long:
    Năm 2001 nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của con em thị trấn Thịnh Long và
    các xã lân cận trong huyện Hải Hậu. UBND tỉnh Nam Định ra quyết định số
    278/2001/QĐ – UB thành lập trường THPT Thịnh Long đặt tại TDP số 18 thị trấn
    Thịnh Long – huyện Hải Hậu – tỉnh Nam Định.
    Năm học đầu tiên HĐSP nhà trường với 17 cán bộ giáo viên và 260 học sinh
    đến từ 35 xã – thị trấn trong huyện và các xã, thị trấn khác của huyện Nghĩa Hưng,
    Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy. Cơ sở vật chất còn nghèo nàn thiếu thốn, nhà
    trường chỉ có 5 phòng học và 5 phòng dành cho các ban ngành, đoàn thể làm việc.
    Các năm học tiếp theo nhà trường được trang bị thêm cơ sở vật chất, đội
    ngũ giáo viên cũng được Sở GD & ĐT Nam Định quan tâm điều động đủ so với cơ
    số lớp.
    14
    20 năm qua với sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, sự nỗ lực phấn đấu không
    ngừng của các thầy cô giáo và các em học sinh trường THPT Thịnh Long đã đạt
    dược những thành tích xuất sắc; gần 7000 học sinh đỗ vào các trường ĐH – CĐ –
    TCCN trên cả nước. Nhiều học sinh đã ra trường và có công việc ổn định
    Bên cạnh chất lượng giáo dục nhà trường liên tục đạt được những danh hiệu
    thi đua cao quý trong các lĩnh vực công tác khác nhau:
    + Năm học 2012 – 2013, 2014 – 2015 nhà trường vinh dự được công nhận là
    trường tiên tiến xuất sắc, trường THPT đạt chuẩn Quốc gia, trường THPT đầu tiên
    trong tỉnh Nam Định đạt chuẩn Xanh – Sạch – Đẹp – An toàn.
    + Được UBND huyện Hải Hậu công nhận là trường học có nếp sống văn hóa.
    + Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Công đoàn nhà trường liên tục được nhận bằng
    khen của TW Đoàn, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh
    Nam Định, Tỉnh đoàn Nam Định, Công đoàn ngành GD&ĐT Nam Định . Nhiều
    CBGV được nhận bằng khen của Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng bộ GD&ĐT,
    Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định, Giám đốc Sở GD & ĐT Nam Định và nhiều đồng
    chí được công nhận là CSTĐ cấp tỉnh, CSTĐ cấp cơ sở, giáo viên giỏi cấp tỉnh.
    2.1.2 Đặc điểm phong trào TDTT học sinh trường THPT Thịnh Long.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy kỹ thuật di chuyển trong cầu lông cho nam học sinh THPT

    SKKN Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy kỹ thuật di chuyển trong cầu lông cho nam học sinh THPT và nâng cao thành tích cho nam đội tuyển cầu lông cấp THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Thể dục thể thao (TDTT) là một hoạt động không thể thiếu được trong
    đời sống xã hội, TDTT không những có vai trò đặc biệt đối với việc bảo vệ và
    phát triển hoàn thiện thể lực con người mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn là làm
    cho con người có khả năng tự thể hiện, tự khẳng định mình và hoàn thiện
    mình, tạo cho con người niềm vui giao tiếp gắn bó với tập thể, cộng đồng và
    xã hội, góp phần vào xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao tính tích cực, tự
    giác của xã hội.
    Ngay khi nước nhà giành được độc lập, Bác Hồ cũng đã rất quan tâm đến sự
    nghiệp phát triển TDTT của nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chiến
    lược về sức khỏe thể chất cho dân tộc Việt Nam, người nói: “Gìn giữ dân chủ,
    xây dựng nước nhà gây đời sống mới việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành
    công”, “Mỗi người dân yếu ớt làm cho đất nước yếu ớt một phần, mỗi một
    người dân khỏe mạnh là góp phần cho cả nước khỏe mạnh”.
    Sự chuyển mình của đất nước ta sau này sẽ góp phần lớn chông chờ vào thế
    hệ trẻ – những người chủ tương lai của đất nước. Muốn vậy thế hệ trẻ hiện nay
    ngoài việc bồi dưỡng tri thức trong mọi lĩnh vực còn phải tham gia rèn luyện
    thân thể để có một sức khỏe tốt để gánh vác nhiệm vụ của đất nước.
    Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta cũng luôn khẳng định về tầm quan trọng của
    TDTT trong việc thực hiện và phát huy nhân tố con người tạo ra động lực để
    phát triển đất nước. Tại Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã xác định phát triển
    mạnh hoạt động TDTT cả về quy mô và chất lượng góp phần nâng cao thể
    lực, phát huy tinh thần dân tộc Việt Nam.
    Trong những năm gần đây sự phát triển của TDTT nước nhà đã và đang lớn
    mạnh không ngừng. Song song với những môn thể thao khác thì môn thể thao
    2
    cầu lông cũng được chú trọng và phát triển. Cầu lông là một môn thể thao rất
    dễ chơi và tham gia. Cầu lông thuộc loại hình các môn bóng không va chạm
    trực tiếp bởi quy luật ngăn cách lưới, sân và không gian trên lưới, tính đối
    kháng cũng như căng thẳng, gay cấn giữa tấn công và phòng thủ. Bởi vậy
    phong trào cầu lông nước ta ngày nay đã phát triển sâu rộng từ thành thị đến
    nông thôn, trung du và miền núi, ở mọi lứa tuổi đều tham gia. Phong trào cầu
    lông đã có những bước phát triển mạnh mẽ và có nhiều tiến bộ về trình độ, Và
    môn cầu lông đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình giảng
    dạy chính thức trong các nhà trường THPT.
    Trường THPT Quất Lâm_Giao Thủy _Nam Định là một trường được chú
    trọng trong công tác giảng dạy, phong trào học tập và rèn luyện . Phong trào
    TDTT cũng được chú trọng và quan tâm, đặc biệt là phong trào tập luyện và
    thi đấu cầu lông nhà trường đã đạt được thành tích trong các hội thi của
    huyện, của tỉnh dành cho khối học sinh như: Hội khỏe phù đổng…
    Tuy nhiên, qua quan sát thực tế về giảng dạy, huấn luyện và thi đấu của các
    em tôi nhận thấy việc thực hiện kỹ thuật còn hạn chế đặc biệt là kỹ thuật di
    chuyển của các em – đây là một kỹ thuật cơ bản và là tiền đề cho cầu lông
    thành tích cao.
    Tính chất của môn cầu lông là vừa tiếp xúc cầu với thời gian ngắn nhất nhưng
    lại hoạt động với thời gian dài với tốc độ hoạt động nhanh, biến hóa có sức
    mạnh tốc độ, phải biết nhiều kỹ thuật, động tác khác nhau để tiếp xúc cầu và
    vợt; xử lý, điều khiển, khống chế được cầu chính xác mà hình thức vận động
    là tay và chân di chuyển. Trong môn cầu lông, di chuyển là một kỹ thuật cơ
    bản cần được tiếp thu đầu tiên – kỹ thuật di chuyển trong cầu lông có vị trí đặc
    biệt quan trọng nếu như ngay từ ban đầu học cầu lông mà không nắm bắt
    được kỹ thuật di chuyển thì sẽ không có một nền tảng vững chắc để nâng cao
    trình độ tập luyện. Khi đánh cầu nếu chỉ có động tác tay nhanh, mạnh cũng
    3
    chưa đủ mà còn phải biết kết hợp hài hòa các bước di chuyển của chân với
    mỗi kỹ thuật trong từng vị trí và thời điểm. Di chuyển tốt ngoài việc tạo thuận
    lợi trong kiểm soát cầu còn giúp học sinh tiết kiệm được sức lực.
    Việc nắm vững và vận dụng một cách linh hoạt kỹ thuật di chuyển sẽ tạo hiệu
    quả đánh cầu đặc biệt là trong tập luyện và thi đấu sẽ dành được các thành
    tích cao.
    Là một người được học tập, rèn luyện cầu lông tại trường ĐHSP TDTT Hà
    Nội nay lại gắn bó giảng dạy tại trường THPT Quất Lâm_Giao Thủy _Nam
    Định. Qua quan sát các em tập luyện và thi đấu tôi đã nhận thấy được những
    hạn chế mà các em còn mắc phải, vì vậy tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
    “Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
    kỹ thuật di chuyển trong cầu lông cho nam học sinh THPT và nâng cao
    thành tích cho nam đội tuyển cầu lông cấp THPT Quất Lâm”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Trong những năm gần đây phong trào tập luyện TDTT phát triển rộng khắp
    đặc biệt là ở các lứa tuổi trẻ. Trường THPT Quất Lâm_Giao Thủy _Nam Định
    có phong trào tập luyện TDTT rất mạnh trong đó có phong trào tập luyện cầu
    lông cũng được các em học sinh quan tâm và hưởng ứng. §ược sự quan tâm
    chỉ đạo sát xao của BGH nhà trường, Giáo viên nhà trường thì hằng ngày các
    em học sinh đều tham gia chơi và tập luyện cầu lông vào mỗi buổi chiều, sự
    hăng hái nhiệt tình tập luyện của các em học sinh đã thúc đẩy phong trào tập
    luyện trong trường phát triển ngày càng mạnh, đặc biệt sự đầu tư về cơ sở vật
    chất, dụng cụ tập luyện và điều kiện tốt, Đội ngũ Giáo viên có trình độ nhưng
    vẫn chưa đáp ứng đủ so với nhu cầu tập luyện và đội ngũ giáo viên của nhà
    tr-êng cũng chỉ đủ đảm bảo được số lượng, về chất lượng chưa đạt hiệu quả
    cao. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý của nam học sinh trường
    4
    THPT Quất Lâm và cơ sở lý luận của việc huấn luyện sức nhanh di chuyÓn,
    nghiên cứu kế hoạch dạy học của giáo viên nhà trường. §ång thời qua quan
    sát thực tế các buổi tập luyện và thi đấu tôi thấy rằng khả năng di chuyển của
    các em còn yếu, di chuyển còn chưa đúng kỹ thuật (Tư thế chuẩn bị, xuất
    phát: sai) một số các em còn di chuyển một cách bột phát, chạy để đánh hoặc
    đỡ cầu… Do đó ảnh hưởng tới việc huấn luyện các kỹ thuật khác.
    Do đó việc cần phải làm là đưa ra những bài tập hợp lý dựa trên cơ sở lý
    luận, khoa học để đưa vào công tác giảng dạy nâng cao hiệu quả huấn luyện
    bước chân di chuyển cho nam học sinh và đội tuyển trong trường THPT
    THPT Quất Lâm là cần thiết.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    2.1. Đặc điểm về huấn luyện cầu lông.
    Trong công tác giảng dạy cũng như giảng dạy của bất kỳ môn thể thao nào
    cũng đòi hỏi người Giáo viên phải nắm vững đặc điểm vận động của môn thể
    thao đó, các tố chất chuyên môn cơ bản trên cơ sở đó lựa chọn phương tiện,
    phương pháp giảng dạy huấn luyện, hình thức tổ chức buổi tập cho hợp lý để
    đạt hiệu quả.
    Đặc điểm và tầm quan trọng của kỹ thuật di chuyển trong nhiều môn thể thao,
    để đạt được những thành tích cao trong tập luyện và thi đấu đòi hỏi các em
    học sinh phải nắm vững và vận dụng thuần thục kỹ thuật và chiến thuật.
    Trong tập luyện và thi đấu cầu lông gồm các nhóm kỹ thuật cơ bản sau:
    – Kỹ thuật về di chuyển bước chân
    – Kỹ thuật phát cầu
    – Kỹ thuật phòng thủ
    – Kỹ thuật tấn công
    5
    Trong quá trình tập luyện và thi đấu để đạt hiệu quả đòi hỏi người thực hiện
    phải phối hợp thuần thục, linh hoạt các kỹ thuật trên để tạo cho mình một thế
    chủ động trong thi đấu giành điểm từ đối phương, dồn ép đối phương vào thế
    bị động. Tính chất của môn cầu lông là vừa tiếp xúc cầu với thời gian ngắn
    nhất nhưng lại hoạt động trong thời gian dài với tốc độ hoạt động nhanh biến
    hóa có sức mạnh tốc độ, biết nhiều kỹ thuật động tác khác nhau để tiếp xúc
    giữa cầu và vợt, xử lý điều khiển, khống chế được cầu chính xác mà hình thức
    hoạt động là tay và chân di chuyển. Di chuyển trong cầu lông chủ yếu hoạt
    động trên ½ bàn chân của mình, người thực hiện phải di chuyển liên tục để
    đánh trả những quả cầu của đối phương đánh sang. Trong đó sân cầu lông có
    diện tích rộng 35
    2
    m đối với sân đánh đơn và 44m2 với sân đánh đôi. Chính vì
    vậy đối thủ có rất nhiều điểm trên sân để đánh về phần sân của mình lúc này
    đòi hỏi học sinh phải di chuyển linh hoạt và tạo tư thế thuận lợi cho mình để
    đánh trả cầu và giành điểm. Dó đó có thể nói di chuyển là điều kiện tiền đề
    cho việc thực hiện những kỹ thuật đánh cầu khác. Một học sinh có khả năng
    di chuyển tốt sẽ luôn chủ động và sử dụng có hiệu quả những ý đồ chiến thuật
    riêng của mình. Ngược lại một học sinh di chuyển kém sẽ luôn tự tạo cho
    mình thế bị động khi đánh trả cầu đối phương và bị mất điểm. Ngoài ra học
    sinh có kỹ thuật di chuyển tốt sẽ tiết kiệm được sức lực và di chuyển được
    trong thời gian kéo dài và tần số động tác cao sẽ đạt được những hiệu quả
    trong đánh cầu.
    Trong thi đấu cầu lông đường cầu luôn có sự biến đổi phức tạp và biến hóa
    theo ý đồ chiến thuật của đối phương, đòi hỏi người tập phải sử dụng linh
    hoạt kỹ thuật di chuyển và xuất phát nhanh, hợp lý ngoài ra còn phụ thuộc vào
    các yếu tố khác như:
    – Yếu tố phán đoán tình huống: Đối phương luôn đánh cầu ở nhiều góc độ
    nhiều điểm rơi trên sân, tốc độ bay của cầu đều phụ thuộc vào ý đồ chiến
    6
    thuật đánh cầu của đối phương. Do vậy, đòi hỏi học sinh phải có tốc độ phản
    ứng nhanh và phán đoán chuẩn xác. Như vậy, hệ thần kinh phải hoạt động với
    sự tập trung cao độ, duy trì sự chú ý, phát huy tối đa mức độ nhạy bén của
    thính giác, thị giác, phân biệt được sự biến đổi phương hướng đánh cầu của
    đối phương. Chỉ có như vậy mới nâng cao được năng lực phán đoán và phản
    ứng giúp cho sự lựa chọn bước di chuyển được chính xác hợp lý và đạt hiệu
    quả cao trong đánh cầu.
    – Tư thế chuẩn bị: Đóng vai trò quan trọng trong đánh cầu lông là cơ sở kỹ
    thuật cho tất cả các động tác. Tư thế chuẩn bị hợp lý tạo điều kiện thuận lợi
    cho việc đánh cầu đạt hiệu quả, linh hoạt trong các tình huống mà cầu đối
    phương đánh sang dồn đối phương vào thế bị động.
    Tư thế chuẩn bị là một tư thế cơ bản ban đầu trong một quả đỡ giao cầu do
    đối phương giao cầu sang phần sân bên mình. Tư thế chuẩn bị cơ bản trong
    cầu lông là chân trước chân sau, trọng tâm dồn vào chân trước hai chân rộng
    bằng vai mắt nhìn quan sát cầu, trọng tâm hạ thấp gối hơi khựu.
    – Di chuyển bước chân do trọng lực: Được tiến hành khi trọng tâm rời khỏi
    chân để gây ra lực di chuyển cho cơ thể. Nếu góc nghiêng của chân nhỏ (30 –
    45 0) thì lực di chuyển lớn, nếu góc nghiêng lớn hơn (45 0) thì lực di chuyển
    nhỏ. Di chuyển trọng lực có ảnh hưởng rất lớn đến sự di chuyển nói chung và
    di chuyển do đạp chân nói riêng. Nếu di chuyển do trọng lực cùng hướng với
    di chuyển đạp chân thì sẽ có hiệu quả cao, còn nếu ngược hướng với di
    chuyển đạp chân sẽ tạo ra chuyển động quay, cơ thể sẽ mất thăng bằng, dễ
    ngã.
    – Di chuyển do đạp chân: Trong quá trình tâp luyện và thi đấu di chuyển do
    đạp chân có vai trò quan trọng đến sự di chuyển, chuyển động của cơ thể. Nếu
    lực đạp chân không thông qua lực đạp chân của cơ thể, nó sẽ chia thành hai
    7
    phần lực. Một gây ra sự chuyển dịch cơ thể, hai lực tác dụng vào các bộ phận
    khác như tay, thân người.
    – Yếu tố điều chỉnh vị trí sau khi đánh cầu: Trong khi đánh cầu, mỗi lần quả
    cầu được đánh đi thì đòi hòi học sinh phải về ở tư thế sẵn sàng di chuyển và
    về vị trí đứng phù hợp (Đánh đơn thì đứng về đ-êng giữa trung tâm). Mục
    đích chính là làm cho học sinh trước mỗi đường cầu có tư thế chuẩn bị tốt,
    gần điểm tiếp xúc với cầu, di chuyển nhanh đến điểm cầu rơi, và đánh trả với
    tư thế tốt và hợp lý nhất. Ở tư thế chuẩn bị hai chân đứng rộng bằng vai trọng
    tâm dồn vào hai chân và 2/3 của mũi bàn chân trước (Gót chân kiễng), giữ
    trạng thái thăng bằng đầu gối hơi khùu, trọng tâm thấp, mắt quan sát cầu. Có
    như vậy khi di chuyển cảm giác dùng lực tốt di chuyển sẽ nhanh hơn.
    Trong mỗi một nội dung đánh cầu: Thi đấu đôi, đơn, đôi nam nữ thì có sử
    dụng những kỹ thuật di chuyển khác nhau để phù hợp với từng lối đánh, từng
    chiến thuật riêng của mỗi học sinh. Đường cầu đánh đi rất đa dạng và để phù
    hợp với những đường cầu đó thì việc di chuyển cũng phải biến đổi sao cho
    phải phù hợp. Điều đó có nghĩa là phải phân tích một cách hợp lý, có hệ thống
    để vận dụng nó một cách linh hoạt trong các tình huống khác nhau. Trong cầu
    lông có một số cách di chuyển cơ bản:
    – Di chuyển bước chân trong lối đánh phỏng thủ.
    – Di chuyển bước chân trong lối đánh tấn công.
    – Phối hợp di chuyển bước chân trong cả phòng thủ và tấn công.
    Tất cả các cách di chuyển trên đều được vận dụng trong các nội dung đánh
    đơn, đôi của cầu lông. Ở cầu lông đỉnh cao lối đánh cầu nhanh, mạnh thường
    được sử dụng . Vì vậy, để đạt được đến trình độ cao đòi hỏi sức nhanh trong
    di chuyển bước chân là rất quan trọng. Trong mỗi tình huống những đường
    cầu đánh trả của đối phương thường có tốc độ nhanh, điểm rơi của cầu luôn
    8
    thay đổi và để đỡ và đánh trả những đường cầu đó thì đòi hỏi người chơi phải
    phản ứng nhanh với những bước chân di chuyển linh hoạt kết hợp với tay
    đánh cầu sao cho hợp lý. Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện về sức
    nhanh di chuyển cần phải căn cứ, đánh giá đúng đắn về lối đánh của mỗi học
    sinh sao cho trong quá trình giảng dạy huấn luyện có hiệu quả nhất.
    1.2. Đặc điểm về huấn luyện chiến thuật cầu lông.
    Cầu lông là một môn thể thao thi đấu gián tiếp mang tính cá nhân di chuyển
    liên tục trên một diện tích lớn và thực hiện những động tác phức tạp hoạt
    động trong thời gian dài. Chính vì vậy mà yêu cầu của môn cầu lông là phát
    triển tốt các tố chất vận động sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo có
    tâm lý thi đấu tốt ý trí vững vàng…Đó là những yếu tố quan trọng để cấu
    thành nên thành tích cao . Để có được những tố chất đó học sinh phải tập
    luyện bền bỉ, lâu dài với cường độ và khối lượng lớn .
    Trong cầu lông di chuyển là một trong những kỹ thuật rất quan trọng trong
    tập luyện và thi đấu của môn cầu lông. Muốn di chuyển tốt phải lựa chọn cho
    bản thân một tư thế chuẩn bị thích hợp.
    Qua phân tích và đánh giá các nhà chuyên môn đã nhận định có tính chất
    khoa học: Muốn đạt thành tích cao trong thi đấu cần có sự phối hợp hết sức
    chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các động tác, kỹ thuật với nhau. Nếu chỉ có động
    tác nhanh mạnh cũng chưa đủ mà còn phải kết hợp hài hòa các bước di
    chuyển của chân đối với mỗi kỹ thuật của tay trong từng vị trí, từng thời điểm
    một cách hợp lý cùng với sự thông minh sáng tạo mới có thể giành được hiệu
    quả cao và giành được thắng lợi trong trận đấu. Chính vì vậy kỹ thuật di
    chuyển trong cầu lông có một vị trí quan trọng, nó là động tác đầu tiên chuẩn
    bị tốt cho việc thực hiện kỹ thuật đánh cầu đạt hiệu quả cao.
    9
    Sự di chuyển của cơ thể phải được tiến hành do lực tác dụng của cơ bắp và
    quán tính do quá trình di chuyển của c¬ thể đó là:
    – Di chuyển do trọng lực
    – Di chuyển do đạp chân
    Di chuyển trong cầu lông là loại hình di chuyển phức tạp không mang tính
    chất chu kỳ và biên độ không ổn định, tốc độ và hướng di chuyển thay đổi
    theo tình huống trong kỹ thuật di chuyển của môn cầu lông. Dựa trên nguyên
    lý về di chuyển và tác dụng của từng loại di chuyển mà được chia thành 3
    nhóm:
    1 Kỹ thuật di chuyển đơn bước
    2 Kỹ thuật di chuyển đa bước
    3 Kỹ thuật di chuyển bước nhảy
    Cả 3 nhóm kỹ thuật di chuyển trên đều có thể thực hiện theo các hướng: Tiến,
    lùi, sang trái, sang phải, chếch sang trái, chếch sang phải.
    1.2.1 Kỹ thuật di chuyển đơn bước.
    Di chuyển đơn bước là sự di chuyển chỉ thay đổi vị trí của một chân, còn chân
    kia vẫn giữ nguyên. Kỹ thuật này được sử dụng nhiều trong các trường hợp
    khi đối phương đánh cầu sang ở gần bên người (Bên phải, trái hoặc trước,
    sau, sát người) khoảng 1m đến 1,5m. Độ dài di chuyển bước chân đơn còn
    phụ thuộc vào điểm rơi của cầu đòi hỏi học sinh phải biết quan sát và phản
    ứng nhanh với mỗi đường cầu đÓ xử lý cầu, đánh trả cầu dồn đối phương vào
    thế bị động.
    Kỹ thuật di chuyển này thường được áp dụng phối hợp với các kỹ thuật phòng
    thủ và tấn công của cầu lông, với những điểm cầu rơi gần người. Nếu xa thân
    người (quá tầm tay của vợt) thì ta phải di chuyển đa bước.
    10
    Tư thế chuẩn bị của kỹ thuật di chuyển đơn bước là hai chân đứng song song
    rộng bằng vai, gối khựu trọng tâm dồn vào giữa hai chân, người hơi đổ về
    phía trước, lưng cong, đầu ngửa, mắt theo dõi cầu, hai tay co để tự nhiên. Từ
    tư thế này có các bước di chuyển sau:
    Di chuyển một bước lên lưới đánh cầu thuận tay
    Di chuyển một bước lên lưới đánh cầu trái tay
    1. Di chuyển một bước lùi đánh cầu thuận tay
    1. Di chuyển một bước lùi đánh cầu trái tay
    1.2.2. Di chuyển đa bước.
    Có những trường hợp đối phương đánh cầu sang xa người thì phải sử dụng kỹ
    thuật di chuyển nhiều bước mới thực hiện được động tác đánh cầu.
    Di chuyển nhiều bước là sự di chuyển có sự thay đổi vị trí của hai chân và
    thường là từ hai bước trở lên. Kỹ thuật này được sử dụng thường xuyên có
    ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của kỹ thuật đánh cầu cũng như thực hiện
    các dạng chiến thuật. Di chuyển nhiều bước giữ một vai trò quan trọng trong
    sự phối hợp với các kỹ thuật tấn công và phòng thủ. Vì vậy, nó không thể
    thiếu trong tập luyện và thi đấu cầu lông.
    Ở loại di chuyển này tư thế chuẩn bị cũng như ở di chuyển đơn bước đấu thủ
    dùng sức đạp của chân và đổ trọng tâm về hướng di chuyển đẩy người đi. Hai
    chân bước luân phiên đến điểm cầu rơi với tần số nhanh, chậm, dài, ngắn tùy
    thuộc vào tình huống của cầu bay tới. Khi di chuyển nhiều bước, bước cuối
    cùng nhất thiết phải chiếm được tư thế đánh cầu thích hợp tạo điều kiện thuận
    lợi cho động tác đánh cầu tốt nhất, tạo thế chủ động tấn công và giành điểm.
    Di chuyển nhiều bước gồm có:
    Di chuyển ngang
    11
    Di chuyển tiến, lùi
    * Di chuyển ngang.
    Khi ở tư thế cơ bản, đứng ở giữa sân (trên đường trung tâm) nếu di chuyển
    sang phải thì đạp mạnh chân trái( tay phải cầm vợt) đồng thời quay người 90 0
    sang phải, đổ trọng tâm sang phải, bước chân trái về trước sau đó bước tiếp
    chân phải gối khựu, trọng tâm thấp bước đến đường biên dọc. Bước cuối cùng
    chân phải(tay phải cầm vợt) ở trên chạm mép biên, trọng tâm lúc này dồn vào
    chân phải, người ở tư thế đánh cầu phải. Sau đó, dùng lực đạp mạnh chân trái
    quay vòng thân người sang trái ra sau 180 0 đồng thời với việc quay thân,
    chân trái bước lùi và xoay chân theo hướng ngược lại, chân phải xoay theo và
    bước lên để di chuyển sang trái. Bước cuối cùng khi sang trái là chân phải ở
    trước và chạm biên dọc bên trái để tạo thành tư thế đánh cầu trái, cứ như thế
    tiến hành sang trái, sang phải liên tục. Lúc đầu tập với tốc độ chậm, sau nâng
    dần lên. Nam di chuyển từ 32 – 38 lần/ phút – Nữ từ 27 – 34 lần/phút
    * Di chuyển tiến lùi.
    Di chuyển tiến lùi là thực hiện các bước di chuyển đưa cơ thể di chuyển về
    phía trước hay lùi về phía sau để đánh cầu. Từ tư thế chuẩn bị cơ bản ở cuối
    sân đấu thủ đổ người về phía trước đồng thời đạp mạnh chân bên tay cầm vợt
    bước về phía trước sau đó bước tiếp chân kia, trọng tâm hạ thấp, gối khựu,
    bước dài. Bước cuối cùng ở gần lưới sao cho chân thuận ở trên để thực hiện
    động tác đánh cầu phía trước, trọng tâm lúc này dồn vào chân trước, sau đó
    đạp nhanh chân trước theo hướng ngược lại và bước lùi về phía sau, trọng tâm
    lại đổ về phía chân sau ở tư thế cao, cứ di chuyển lùi bằng hai chân luân phiên
    như vậy cho đến cuối sân sao cho chân cùng tay cầm vợt trong bước cuối
    cùng lại ở phía sau chạm vào đường biên ngang để tạo thành tư thế đánh cầu
    12
    đúng. Quá trình di chuyển lùi chú ý trọng tâm cao, đầu ngửa, mắt theo dõi
    cầu, bước dài và tần số nhanh.
    * Di chuyển bước nhảy.
    + Nhảy về trước: Là kỹ thuật rất quan trọng trong phối hợp phòng thủ, được
    áp dụng nhiều để đỡ những quả cầu đối phương, bỏ nhỏ sát lưới hay dọc biên.
    Kỹ thuật này rất có hiệu quả với những quả cầu rơi xa người mà bước đơn di
    chuyển không có kết quả.
    Từ tư thế chuẩn bị c¬ bản học sinh dùng sức mạnh bột phát của chân bật
    mạnh đưa cơ thể lao lên cao, về trước theo hướng di chuyển – chân phải
    (thuận) cùng với tay cầm vợt nhanh chóng vươn dài về phía trước, chân kia
    vẫn ở phía sau người lúc này có giai đoạn bay trên không về hướng di chuyển
    khi chạm đất chân phải xuống trước, mũi bàn chân xoay sang trái để hoãn
    sung, gối khựu, trọng tâm dồn vào chân trước. Người và tay cầm vợt vươn dài
    về trước tới điểm cầu rơi và thực hiện động tác đánh cầu. Sau khi đánh xong
    nhanh chóng đạp mạnh chân trước theo hướng ngược lại để đẩy người về tư
    thế chuẩn bị.
    + Di chuyển bước nhảy có bước đệm
    Nhảy bước đệm cũng giống như kỹ thuật nhảy về trước nhưng khác là ở động
    tác này có hai giai đoạn bật và bay. Đầu tiên hai chân dùng sức bột phát bật
    lên cao đưa cơ thể bay trên không về hướng di chuyển nhanh chóng dùng một
    chân tiếp xúc với mặt đất (thường là chân ngược với tay cầm vợt) rồi lại
    nhanh chóng bật tiếp lần nữa để đưa cơ thể bay nhanh hơn về hướng di
    chuyển, chân thuận vươn dài về trước và tiếp đất giống như di chuyển nhảy
    về trước để đánh cầu.
    + Di chuyển nhảy lên cao:
    13
    Nhảy lên cao đánh cầu thường xuyên được áp dụng, phối hợp trong các kỹ
    thuật tấn công. Với kỹ thuật này cho phép ta khống chế chiều cao của đường
    cầu bay đến tranh thủ đánh cầu sớm, nhanh và điểm đập cầu ở trên cao tạo
    được đường cầu mạnh và cắm hơn.
    Kỹ thuật này học sinh từ tư thế chuẩn bị chân trước chân sau trọng tâm dồn
    vào chân trước, gối khựu, lưng cong, đầu ngửa tay cầm vợt giơ cao, mặt vợt
    ngang tầm chán. Khi thực hiện động tác bật nhảy đánh cầu thì nhanh chóng
    chuyển trọng tâm từ chân trước ra chân sau, chân trái rời mặt đất trước đồng
    thời chân phải bật mạnh tiếp theo đưa cơ thể lên cao. Khi cảm giác thấy người
    lên đến điểm cao nhất thì thực hiện động tác đánh cầu. Khi rơi xuống chân
    chạm đất trước là chân ngược với tay cầm vợt, sau đó chân kia hạ xuống tiếp
    và nhanh chóng đưa cơ thể về tư thế ban đầu.
    1.3. Huấn luyện thể lực chung và chuyên môn.
    Để thực hiện chiến thuật có hiệu quả mỗi học sinh cần phải có thể lực xung
    mãn, thể lực chuyên môn trong cầu lông là sức bền tốc độ và sức nhanh tốc
    độ. Trong tập luyện và thi đấu cầu lông học sinh phải liên tục sử dụng kỹ
    thuật đập cầu cao, sâu, góc nhỏ và di chuyển liên tục với cường độ lớn. Bởi
    vậy đòi hỏi học sinh phải có thể lực tốt và bền bỉ.
    Thể lực là nền tảng để thực hiện các kỹ thuật, chiến thuật trong tập luyện và
    thi đấu, nếu không có thể lực tốt thì khó có thể thực hiện tốt chiến thuật của
    mình. Huấn luyện thể lực bao gồm:
    + Huấn luyện thể lực chung: là quá trình giáo dục toàn diện những năng lực
    thể chất cho học sinh
    + Huấn luyện thể lực chung là nền tảng cho việc nâng cao thể lực chuyên môn
    14
    + Huấn luyện thể lực chuyên môn là khâu cơ bản quyết ®ịnh đến thành tích,
    nó cần thiết phải chia thành hai thành phần:
    – Huấn luyện thể lực chuyên môn là cơ sở, là hướng đến việc xây dựng đến
    các nền tảng cơ bản phù hợp với đặc thù chuyên môn
    – Huấn luyện thể lực chuyên môn cơ bản mà mục đích của nó là việc phát
    triển rộng rãi các tố chất vận động, thỏa mãn đòi hỏi của môn thể thao
    1.4. Phương pháp phát triển sức nhanh di chuyển.
    Sức nhanh là khả năng hoạt động với tốc độ cực hạn và nó được biểu
    hiện dưới bốn hình thức
    + Thời gian tiền phục của phản ứng vận động
    + Tốc độ của động tác đơn
    + Tần số động tác
    + Tần số ban đầu của động tác
    Bên cạnh đó sức nhanh chịu tác động của bốn nhân tố

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa