Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Sử dụng công cụ tư duy THINKING TOOL trong ôn tập Địa lí 12- Phần địa lí tự nhiên

    SKKN Sử dụng công cụ tư duy THINKING TOOL trong ôn tập Địa lí 12- Phần địa lí tự nhiên

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    Tục ngữ có câu : “ Có công mài sắt, có ngày nên kim”, hay câu “văn ôn,
    võ luyện”, nhấn mạnh đến việc rèn luyên trong một quá trình lâu dài mới đạt
    được kết quả tốt, kết quả như mong muốn. Mọi sự thành công đều phải trải qua
    quá trình rèn luyện gian khổ.
    Hiện nay, chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, và giờ đây trong thế giới
    phẳng, công việc và nghề nghiệp của thế kỉ XXI đang đòi hỏi những kĩ năng vượt
    xa so với sách vở trong nhà trường. Vậy câu hỏi đặt ra là giáo viên trong thế kỉ
    XXI cần cung cấp cho học sinh những kĩ năng, năng lực gì để thích ứng với
    tương lai của các em? Theo giáo sư Haruô Kurokami-trường đại học Kansai Nhật
    Bản- thì “Đó là năng lực tư duy, kĩ năng giải quyết vấn đề sáng tạo. Để việc học
    tập có hứng thú hơn khi bạn nhận thấy những kiến thức của mình đang được học
    được ứng dụng trong đời sống, hoặc là khi bạn đang đọc sách giáo khoa, bạn sẽ
    thấy: À, hóa ra những kiến thức này mình vẫn gặp hàng ngày, đó là khi bạn đang
    tư duy.”. Trong khi cách học, ôn tập truyền thống ít nhiều gây mất hứng thú cho
    các học sinh, đa phần các em thấy khá mệt mỏi, thậm chí chán học, nhiều em
    dùng từ “khủng khiếp” khi nhắc tới tên môn học mình không hứng thú. Thậm chí
    có em còn muốn “dừng” môn học vì nó rất “khó hiểu”…
    Tháng 12-2017, một dự án học tập do VTV7 &Campus study lab khởi
    động dự án “HỌC SAO CHO TỐT” đã thu hút hơn 600 em học sinh trên toàn
    quốc đăng kí tham dự, cùng với đó 12 bạn sinh viên đến từ các trường đại học,
    đóng vai trò là người hướng dẫn trực tiếp. Các bạn sinh viên này được các
    chuyên gia Nhật Bản trực tiếp đào tạo kĩ lưỡng để là người bạn học tập với 12
    em học sinh được tuyển chọn.
    Từ tháng 12-2017, 12 học sinh trên toàn quốc đã tham gia trải nghiệm một
    phương pháp học tập mới cùng với công cụ tư duy THINKING TOOL của nhóm
    2
    chuyên gia đến từ trường đại học Kansai-Nhật Bản. Quá trình học tập trải nghiệm
    kéo dài 1 học kì và các em vẫn học trong môi trường truyền thống. Phương pháp
    học tập mới đã làm thay đổi cách học tập của các em, giúp các em tìm lại hứng
    thú học tập của chính mình.
    Dự án học tập : “HỌC SAO CHO TỐT” được chia thành 12 số với nội
    dung như sau:

    STTMôn họcNội dung
    Số 1Tiếng AnhTự tin lên nào!
    Số 2Vật líVật lí xung quanh ta
    Số 3Lịch sửBước ngoặt/ Cùng cải tiến phương pháp học Lịch sử
    Số 4ToánMôn toán đáng sợ… và mẹ
    Số 5Tiếng AnhNgôi nhà mới
    Số 6Vật líTự vượt qua môn Vật lí
    Số 7Vật líCơn “ác mộng” ban ngày
    Số 8Các môn xã hộiTìm lại tình yêu với môn học
    Số 9Tiếng AnhĐối thủ nặng kí
    Số 10VănĐể môn văn không còn là nỗi sợ
    Số 11ToánVì sao phải học
    Số 12ToánBước tiếp

    Như vậy trong dự án học tập này không có số nào nhắc đến môn Địa lí,
    trong khi đó Địa lí cũng là một trong ba môn thi THPT quốc gia thuộc nhóm
    Khoa học xã hội. Phải chăng môn Địa lí dễ học hơn các môn khác? Cho nên
    không có em nào quá bức xúc đến mức chán học, sợ học như các môn Văn,
    Toán, Anh, Sử, Vật lí…Thực tế môn Địa không dễ, cũng không khó. Môn Địa dễ
    đối với những em biết cách học Địa vì Địa lí rất gần gũi với đời sống hàng ngày.
    Các hiện tượng thời tiết, khí hậu thường được dự báo trên bản tin truyền hình
    hàng ngày đều có thể sử dụng kiến thức Địa lí giải thích được. Môn Địa khó đối
    với những em không biết lựa chọn phương pháp học tập và không có động lực
    học tập.
    3
    Là người trực tiếp giảng dạy học sinh thi THPT quốc gia, tôi đã xem hết
    các số của dự án “HỌC SAO CHO TỐT”, tôi nhận thấy dự án đã hướng dẫn cho
    các em cách ghi chép bài, cách học bài rất khoa học dựa vào công cụ tư duy
    THINKING TOOL do giáo sư Haruô Kurokami-trường đại học Kansai Nhật Bản
    sáng tạo ra. Các em học sinh tham gia dự án này đã thay đổi được phương pháp
    học tập, sử dụng thành thạo công cụ tư duy THINKING TOOL trong quá trình
    học tập trong 1 học kì và đã đạt được những thành công nhất định. Sau khi xem
    dự án học tập này, tôi luôn trăn trở, và suy nghĩ là mình có thể sử dụng công cụ
    tư duy THINKING TOOL để hướng dẫn các em lớp 12 học Địa lí và sử dụng
    công cụ này trong học tập không? Thực tế công cụ tư duy THINKING TOOL có
    thể áp dụng cho tất cả các môn học, cấp học, vấn đề sử dụng phương pháp nào
    trong công cụ này tùy thuộc vào nội dung môn học và mục đích của người học.
    Và để giúp các em học, ôn tập Địa lí thêm hứng thú, giảm bớt sự đọc, chép, thúc
    đẩy sự tự học của các em, tôi có sử dụng công cụ THINKING TOOL trong ôn
    tập Địa lí 12-phần Địa lí tự nhiên. Tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm của
    mình là “SỬ DỤNG CÔNG CỤ TƯ DUY THINKING TOOL TRONG ÔN
    TẬP ĐỊA LÍ 12- PHẦN ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN” để chia sẻ kinh nghiệm, hi vọng
    nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để tôi có thêm kinh nghiệm dạy
    học Địa lí đạt kết quả tốt hơn.
    2.MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
    -Đề xuất và tiến hành thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
    giảng dạy, ôn tập địa lí lớp 12- phần địa lí tự nhiên
    -Tăng cường năng lực tự học, năng lực làm việc với tài liệu và công cụ
    học tập Thinking Tool.
    -Nâng cao năng lực hợp tác, hiệu quả nhóm học tập của học sinh
    -Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của các giải pháp.
    3.ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    *Đối tượng: Học sinh lớp 12A9, 12A trường THPT Trực Ninh năm học
    2019-2020
    *Phạm vi: trong đề tài này, tôi chỉ đề xuất phương pháp ôn tập địa lí Tự
    nhiên lớp 12 bằng cách sử dụng công cụ học tập Thinking Tool.
    4
    4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    -Điều tra thực tế
    -Sưu tầm, tổng hợp tài liệu
    -Phương pháp thực nghiệm
    5.THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
    -Học kì I năm 2019-2020
    6.CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
    Phần nội dung của đề tài gồm
    Phần 1: Giới thiệu về công cụ học tập THINKING TOOL
    Phần 2: Sử dụng công cụ học tập THINKING TOOL trong dạy học Địa lí
    tự nhiên lớp 12 – phần Địa lí tự nhiên
    Phần 3: Đánh giá kết quả học tập của học sinh sau khi sử dụng công cụ
    học tập THINKING TOOL trong Địa lí.
    II.NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
    PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG CỤ HỌC TẬP THINKING TOOL
    Phương pháp học tập và tư duy thông minh THINKING TOOL tôi đề cập
    trong chuyên đề được phát triển bời giáo sư đại học Kansai Nhật Bản, ông
    Kurokami tập trung vào 4 bước bao gồm: hiểu, ghi nhớ, áp dụng và hiểu sâu hơn.
    1.CÁC PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY
    1.1.Biểu đồ mũi tên/ hình hộp/ hình tròn
    Đây là phương pháp đầu tiên được nhắc đến trong công cụ tư duy
    THINKING TOOL. Trong phương pháp này sử dụng các hình học là hình vuông,
    5
    tròn, tam giác, mũi tên… để thể hiện mối quan hệ, mối liên hệ; lí do, nền tảng,
    căn cứ; thể hiện quan hệ nguyên nhân, kết quả…. Các hình tròn, chữ nhật, hình
    vuông dùng để ghi thông tin hay nội dung. Còn mũi tên có nhiều vai trò khác
    nhau: mối quan hệ về thời gian, mối quan hệ về trình tự, cách thức thực hiện
    nhiều công việc, nhiệm vụ; mối quan hệ về thứ tự thực hiện; mối quan hệ về sự
    liên quan của nhiều sự việc với nhau. Hướng mũi tên cũng rất quan trọng, giúp
    cho người xem nhìn rõ lí do, căn cứ.
    1.2.Biểu đồ chữ Y,X, W
    Biểu đồ chữ Y, X, W dùng để xem xét sự vật hiện tượng theo nhiều góc
    khác nhau, áp dụng để phát triển ý tưởng theo nhiều hướng khác nhau hoặc tập
    trung ý tưởng/ suy nghĩ về một sự việc. Đối với chữ cái Y, chia bảng thành 3
    khoảng không gian tương ứng với 3 điểm nổi bật của một vấn đề nào đó. Đối với
    biểu đồ chữ X là phát triển 4 nội dung của một vấn đề; đối với biểu đồ W là phát
    triển nội dung của một vấn đề theo 5 hướng.
    1 1
    2
    3 X1 42 3
    1W2 3 4 5
    6
    Các bước thực hiện khi sử dụng biểu đồ Y, X, W là:
    1.Chúng ta đặt 1 góc nhìn để định hình suy nghĩ dựa trên mục tiêu của
    công việc.
    2.Chuẩn bị một tờ giấy khổ to đủ để ta vẽ biểu đồ và viết ra các góc nhìn
    3.Quan sát sự vật/ hiện tượng từ mỗi góc nhìn, cảm xúc và các thông tin
    thu thập được
    4.Dựa trên những ý nghĩ đã được viết ra, bạn viết lại thành các bản báo
    cáo, lời thoại cho bài thuyết trình, các ấn tượng và tương tự.
    1.3.Biểu đồ khái niệm
    Đối với biểu đồ khái niệm, bạn viết ra các ý tưởng và mối quan hệ của các
    ý tưởng đó, từ đó tạo ra cấu trúc tổng thể. Dưới đây là cách sử dụng biểu đồ khái
    niệm:
    1.Nghĩ về chủ đề/sự việc cần tìm hiểu và đưa vào hình tròn trung tâm.
    2.Lựa chọn các chủ đề/sự việc có mối liên hệ với sự việc đang xem xét
    viết vào các hình tròn vệ tinh (bạn có thể thêm, bớt trong khi viết).
    3.Kết nối quan hệ về sự việc/ chủ đề bằng các đường thẳng.
    4.Chia sẻ với bạn bè trong nhóm hoặc trong lớp học để lấy thêm ý kiến.
    5.Nhìn lại tổng thể biểu đồ và đưa ra kết luận cho toàn bộ mối liên hệ của
    chủ đề /sự việc cần tìm hiểu.
    7
    1.4.Biểu đồ hình sứa
    Đối với biểu đồ hình sứa được đánh giá là biểu đồ hữu hiệu nhất khi thể
    hiện nguyên nhân của một sự kiện, hiện tượng nào đó. Cách sử dụng biểu đồ:
    1.Viết sự kiện/ vấn đề ở phần đầu sứa.
    2.Viết các nguyên nhân ở phần tua sứa.
    3.Nhìn lại tổng thể, đưa ra lời giải thích logic về sự kiện/ vấn đề cho thấy
    rõ lí do và khả năng xảy ra các lí do đó.
    Đối với biểu đồ này ưu điểm là dễ thực hiện và nhận diện nội dung vấn đề
    nhanh nhất và đơn giản nhất khi thể hiện nguyên nhân của vấn đề. Biểu đồ hình
    sứa được sử dụng trong các môn lịch sử để tìm nguyên nhân thắng lợi, thất bại
    trong một chiến dịch, một trận đánh, một giai đoạn lịch sử….
    1.5.Biểu đồ từng bước
    8
    Trong biểu đồ từng bước, sử dụng mũi tên và ô hình chữ nhật để thể hiện
    trình tự phát triển của vấn đề hoặc sắp xếp theo thứ tự các bước/ tiến trình. Có
    thể sử dụng số lượng các hộp chữ nhật và hướng các mũi tên theo như mong
    muốn. Biểu đồ này dùng để tóm tắt lại qui trình từng bước giải một bài toán, một
    bài vật lí, hóa học, các bước trong bài nghị luận văn học. Ưu điểm nổi bật của
    biểu đồ này giúp cho các em học sinh không làm tắt, các bước tuần tự giải quyết
    vấn đề một cách khoa học. Và quan trọng nhất là các em không bị mất điểm
    trong quá trình làm bài thi.
    1.6.Biểu đồ Kim tự tháp
    Đối với biểu đồ kim tự tháp dùng để biểu diễn các tầng kiến thức, qua đó
    sẽ hiểu sâu một khái niệm. Thông thường phần đỉnh tháp viết kết luận, vấn đề;
    các tầng tháp thứ 2, 3 viết các nội dung có liên quan. Biểu đồ kim tự tháp còn thể
    hiện được sự phát triển của vấn đề….
    9
    1.7.Biểu đồ ma trận
    Biểu đồ ma trận sử dụng khi muốn phân loại, tổ chức/ sắp xếp, so sánh,
    xem xét đa chiều một vấn đề. Trong biểu đồ ma trận sử dụng bảng với những cột
    dọc và hàng ngang. Việc tăng hay giảm số lượng cột dọc hay hàng ngang phụ
    thuộc vào nội dung cần thể hiện của vấn đề. Đưa các thông tin, sự kiện, trạng thái
    của sự vật cần thể hiện vào mỗi ô. Cuối cùng so sánh các ô, tập chung vào những
    nội dung giống nhau và khác nhau, từ đó tóm tắt các quan điểm, ý kiến dựa vào
    các lí do trên.
    1.8.Biểu đồ xương cá
    Đây là biểu đồ dùng để mở rộng, tổng hợp vấn đề ở nhiều phương diện
    khác nhau. Sự việc được đưa vào phần đầu cá. Các yếu tố có liên quan được đưa
    10
    vào phần xương ở thân cá (xương đường thẳng và xương chấm), viết thêm cả
    phần phân tích các nguyên nhân vào biểu đồ. Biểu đồ giúp bạn nhận ra vấn đề và
    nguyên nhân, bạn sẽ tìm ra biện pháp ngăn chặn và cải thiện vấn đề. Bạn có thể
    tăng hoặc giảm số lượng xương cá của biểu đồ tùy thuộc vào nội dung bạn muốn
    thể hiện.
    1.9.Biểu đồ hình Bướm
    Để có cái nhìn đa chiều hơn trong quá trinh tiếp thu kiến thức thì biểu đồ
    hình cánh bướm là phù hợp nhất. Phần thân của chú bướm là chủ đề được nói tới.
    Hai cánh bướm thể hiện cho hai mặt của vấn đề. Hai mặt này song song tồn tại
    nhưng đối nghịch nhau. Biểu đồ hình cánh bướm giúp bạn nhìn nhận vấn đề từ
    hai quan điểm trái chiều, bạn sẽ hiểu sâu sắc hơn về sự việc, từ đó các kiến thức
    sẽ được hệ thống một cách khoa học hơn, dễ hiểu hơn.
    1.10.Biểu đồ Venn
    11
    Biểu đồ Venn dùng để so sánh, phân loại hai đối tượng được thể hiện
    trong hai hình tròn. Mỗi hình tròn tương đương một vấn đề cần so sánh. Phần
    giao nhau giữa hai vòng tròn chính là điểm giống nhau của vấn đề.Phần khác
    nhau của hai vấn đề được viết vào phần còn lại của hai hình tròn.
    1.11.Biểu đồ hình ảnh
    Biểu đồ hình ảnh dùng để chú giải các đại lượng của một biểu thức, công
    thức, một vấn đề nào đó. Trong biểu đồ hình ảnh, sử dụng các hình tròn, hình
    tròn ở trung tâm thể hiện nội dung chính, các hình tròn xung quanh thể hiện
    Giống nhau
    12
    những vấn đề nhỏ của nội dung chính. Các hình tròn nối với nhau bằng đoạn
    thẳng. Số lượng các hình tròn có thể thay đổi để phù hợp với nội dung cần đề cập
    tới. Bạn có thể thay hình tròn bằng hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác….
    2.Dụng cụ học tập thông minh
    Để việc ôn tập theo công cụ tư duy THINKING TOOL đạt hiệu quả tốt
    nhất, tôi hướng dẫn các em mua một số dụng cụ học tập cần dùng tới: sổ tay nhỏ,
    bút màu, hạn chế dùng bút xóa bởi vì các em sẽ học được từ chính những lỗi sai
    của mình. Ngoài ra các em có thể chuẩn bị thêm giấy khổ A4, A3….
    PHẦN 2: SỬ DỤNG CÔNG CỤ HỌC TẬP TRONG ÔN TẬP ĐỊA LÍ LỚP
    12- PHẦN ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN
    Phần Địa lí Tự nhiên Việt Nam từ bài số 2 đến bài 15, trong phần này đối
    với mỗi bài, tôi sử dụng các biểu đồ tư duy khác nhau của công cụ THINKING
    TOOL để hướng dẫn các em ôn tập một phần nội dung của bài, phần còn lại của
    bài học các em có thể tự lựa chọn biểu đồ tư duy để hoàn thiện nội dung ôn tập.
    1.Bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ
    Trong bài 2: “VỊ TRÍ ĐỊA LÍ VÀ PHẠM VI LÃNH THỔ”, có các nội
    dung chính là vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ và ảnh hưởng của vị trí địa lí đến tự
    nhiên, kinh tế, xã hội, quốc phòng. Đối với bài ôn tập này tôi hướng dẫn các em
    sử dụng biểu đồ hình ảnh cho phần vị trí địa lí trên đất liền.Biểu đồ hình ảnh cho
    vị trí địa lí trên đất liền như hình dưới.
    13
    Ngoài sử dụng biểu đồ hình ảnh, tôi hướng dẫn các em có thể sử dụng
    biểu đồ hình xương cá để thể hiện nội dung trên.Đối với phần các bộ phận thuộc
    vùng biển nước ta, tôi hướng dẫn các em khái quát theo sơ đồ như sau:
    Các nội dung khác của bài tôi gợi ý các em sử dụng biểu đồ hình ảnh để
    hoàn thiện bài ôn tập của mình. Tuy nhiên các em vẫn có thể tự lựa chọn biểu đồ
    thích hợp khác cho phần bài ôn tập của mình. Chẳng hạn có thể dùng biểu đồ ma
    trận đối với ý nghĩa vị trí địa lí của nước ta.
    2.Bài 6: Đất nước nhiều đồi núi
    VỊ TRÍ ĐỊA
    LÍ ĐẤT
    LIỀN
    CỰC BẮC:
    23O23′ B: xã
    Lũng Cú-
    Đồng Văn-Hà
    Giang
    CỰC ĐÔNG:
    109O24’Đ:
    Vạn ThạnhVạn NinhKhánh Hòa
    CỰC NAM:
    8o34’B: Đất
    Mũi-Ngọc
    Hiển-Cà Mau
    CỰC TÂY
    102O09’Đ: Sín
    Thầu-Mường
    Nhé-Điện
    Biên
    14
    Trong bài 6: “ĐẤT NƯỚC NHIỀU ĐỒI NÚI” gồm các nội dung là đặc
    điểm chung của địa hình Việt Nam và địa hình núi. Đối với bài ôn tập này, tôi
    hướng dẫn tỉ mỉ cho các em hoàn thiện biểu đồ hình ảnh cho phần đặc điểm
    chung của địa hình nước ta.
    Ngoài biểu đồ hình ảnh như trên, tôi gợi ý cho các em có thể sử dụng biểu
    đồ hình xương cá cho nội dung phần này, với đầu cá là đặc điểm chung địa hình,
    phần thân cá sẽ tương ứng với các đặc điểm: địa hình đồi núi thấp, cấu trúc địa
    hình, địa hình vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, chịu tác động của con người.
    Đối với địa hình núi của nước ta gồm bốn khu vực: Đông Bắc, Tây Bắc,
    Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam và địa hình bán bình nguyên và đồi trung du.
    Đối với nội dung này, tôi gợi ý các em có thể sử dụng biểu đồ hình ảnh hoặc
    cũng có thể sử dụng biểu đồ ma trận để so sánh đặc điểm vùng núi Đông Bắc với
    Tây Bắc, Trường Sơn Bắc với Trường Sơn Nam. Cũng có thể sử dụng biểu đồ
    xương cá cho phần này với đầu cá là địa hình núi, phần thân cá là đặc điểm vùng
    Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam. Có thể sử dụng biểu đồ
    ĐẶC ĐIỂM
    CHUNG CỦA
    ĐỊA HÌNH
    VIỆT NAM
    ĐỒI NÚI
    THẤP
    CHIẾM
    PHẦN LỚN
    DIỆN
    TÍCH
    CẤU TRÚC
    ĐỊA HÌNH
    NƯỚC TA
    KHÁ ĐA
    DẠNG
    ĐỊA HÌNH
    CHỊU TÁC
    ĐỘNG
    CỦA CON
    NGƯỜI
    ĐỊA HÌNH
    CỦA VÙNG
    NHIỆT ĐỚI
    ẨM GIÓ
    MÙA
    2
    hướngch
    ính
    Hướng tây
    bắc-đông
    nam
    Hướng
    vòng
    cung
    Được tân kiên
    tạo làm trẻ lại,
    phân bậc,
    ¾ đồi núi. ¼
    đồng bằng
    Xâm thực ở
    vùng núi
    Bồi tụ ở
    đồng bằng
    Đắp đê
    Làm ruộng
    bậc thang
    85% dưới
    1000m, 1%
    trên 2000m
    15
    VENN cho địa hình bán bình nguyên và đồi trung du, điểm giống nhau đây là
    vùng chuyển tiếp giữa miền núi với đồng bằng, điểm khác nhau thể hiện ở phân
    bố, đặc điểm đất.
    Biểu đồ ma trận cho vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc.

    Đông BắcTây Bắc
    Vị tríphía đông thung lũng sông HồngTừ hữu ngạn sông Hồng đến
    sông Cả
    Hướngvòng cung với 4 cánh cung lớn:
    Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn,
    Đông Triều mở ra ở phía bắc và
    phía đông, chụm lại ở Tam Đảo.
    Tây Bắc-Đông Nam
    Đặc điểm-Địa hình núi thấp chiếm phần lớn diện
    tích
    -Theo hướng của các dãy núi là hướng
    vòng cung của các thung
    lũng sông Cầu, Thương, Lục Nam.
    -Địa hình thấp dần từ tây bắc xuống
    đông nam:
    +Những đỉnh cao trên 2000m nằm ở
    thượng nguồn sông Chảy
    +Giáp biên giới Việt Trung là các khối
    núi đá vôi đồ sộ ở Hà Giang, Cao
    Bằng.
    +Trung tâm là đồi núi thấp, độ cao
    trung bình 500-600m
    -Vùng núi cao nhất cả nước với
    3 dải địa hình
    +Phía Đông là dãy núi cao đồ
    sộ Hoàng Liên Sơn có đỉnh
    Phanxipang cao 3143m
    +Phía Tây: là địa hình núi
    trung bình của các dãy núi
    chạy dọc biên giới Việt –Lào
    từ Khoan La San đến sông Cả:
    Pudendinh, pu san sao…
    +Ở giữa thấp hơn, địa hình
    chủ yếu là các dãy núi, các sơn
    nguyên và cao nguyên đá vôi
    ở Ninh Bình, Thanh Hóa.
    -Xen giữa các dãy núi là các
    thung lũng cùng hướng sông
    Đà, sông Mã, sông Chu…

    3.Bài 7: Đất nước nhiều đồi núi (tiếp theo)
    16
    Trong bài 7: “ ĐẤT NƯỚC NHIỀU ĐỒI NÚI (tiếp theo)”, tôi hướng dẫn
    học sinh ôn tập sử dụng biểu đồ VENN cho phần đồng bằng châu thổ sông gồm
    đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Phần giống nhau của hai
    đồng bằng này là nguồn gốc hình thành. Phần khác nhau là về đặc điểm địa hình,
    đất, diện tích..
    Ngoài biểu đồ VENN, đối với phần so sánh đặc điểm địa hình đồng bằng
    sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, tôi còn gợi ý học sinh có thể dùng biểu
    đồ ma trận.để so sánh sự giống và khác nhau giữa hai đồng bằng.

    Đặc điểmĐồng bằng sông HồngĐồng bằng sông Cửu Long
    Giống nhauDo phù sa sông bồi tụ trên vịnh biển nông, thềm lục địa mở rộng
    Nguồn
    gôc
    Do phù sa sông Hồng và Thái
    Bình bồi đắp
    Do phù sa sông Tiền, sông Hậu
    bồi đắp

    ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
    -Diện tích: 15 nghìn km2
    -Do phù sa sông Hồng và Thái
    Bình
    -Con người khai phá và làm biến
    đổi
    -Cao ở rìa phía tây, tây bắc,
    thấp dần ra biển
    Bị chia cắt thành nhiều ô
    -Có đê
    -Trong đê: không bồi đắp phù sa
    -Ngoài đê: Phù sa bồi đắp
    ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
    LONG
    -Diện tích: 40 nghìn km2
    -Phù sa sông Mê Công
    -Thấp, bằng phẳng
    -Không có đê
    -Mạng lưới sông ngòi nhiều
    -Mùa lũ nước ngập
    -Mùa cạn: thủy triều
    2/3 đất mặn, phèn
    -Có vùng trũng lớn
    Tạo thành
    và phát
    triển do phù
    sa sông bồi
    tụ dần trên
    vịnh
    biểnnông,
    thềmlục
    địamở rộng
    17

    Khác
    nhau
    Diện
    tích
    Khoảng 15 nghìn km2Khoảng 40 nghìn km2
    Địa
    hình
    Cao ở rìa phía tây bắc, thấp
    dần ra biển
    Thấp và bằng phẳng hơn
    Bề
    mặt
    đồng
    bằng
    -Có đê ngăn lũ
    +Vùng trong đê không được
    bồi tụ phù sa
    +Vùng ngoài đê được bồi tụ
    phù sa hàng năm.
    -Mạng lưới sông ngòi, kênh
    rạch chằng chịt
    -2/3 đất bị nhiễm mặn, nhiễm
    phèn.

    Trong phần đánh giá thuận lợi, khó khăn của khu vực đồng bằng và khu
    vực núi, tôi hướng dẫn học sinh có thể sử dụng biểu đồ ma trận hoặc sử dụng
    biểu đồ hình bướm để học sinh ôn tập. Đối với biểu đồ ma trận sẽ có 3 cột và 3
    hàng

    Khu vựcThuận lợiKhó khăn
    Đồi núi-Khoáng sản
    -Thủy điện
    -Đất, rừng
    -Cây công nghiệp, cây ăn quả
    -Du lịch
    -Giao thông vận tải
    -Khai thác tài nguyên, giao
    lưu kinh tế
    -Nhiều thiên tai (lũ, xói mòn
    đất)
    Đồng
    bằng
    -Phát triển nông nghiệp nhiệt đới
    -GTVT đường bộ, đường sông
    -Tập trung các thành phố, khu
    công nghiệp, trung tâm thương
    mại
    -Cung cấp thủy sản, khoáng sản,
    lâm sản
    -Thiên tai: bão, lũ lụt, hạn
    hán…

    Biểu đồ bướm cho đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
    18
    KHU
    4.Bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển
    Trong bài 8: “THIÊN NHIÊN CHỊU ẢNH HƯỞNG SÂU SẮC CỦA
    BIỂN”, tôi tiếp tục dùng biểu đồ hình ảnh để hướng dẫn học sinh ôn tập phần
    khái quát biển Đông:
    THẾ MẠNH
    VÀ HẠN
    CHẾ VỀ TỰ
    NHIÊN
    KHU VỰC ĐỒI NÚI
    Thuận lợi
    -Khoáng sản:
    Nhiên liệu công nghiệp
    -Rừng, đất trồng: lâm
    Nghiệp, cây công
    nghiệp,
    Gia súc lớn.
    -Sông ngòi: thủy điện
    -Phát triển du lịch
    -Khó khăn: địa hình
    chia cắt. giao thông. Lũ
    quét…
    KHU VỰC ĐỒNG BẰNG
    Thuận lợi
    -Là cơ sở để phát triển
    nông nghiệp
    -Nông sản chính: lúa gạo
    -Cung cấp thủy sản,
    khoáng sản
    -Tập trung các thành phố,
    khu CN
    -Phát triển giao thông
    -Khó khăn: bão, lũ lụt, hạn
    hán…
    19
    Phần ảnh hưởng của biển Đông đến thiên nhiên nước ta để học sinh tự lựa
    chọn công cụ tư duy phù hợp. Tôi gợi ý cho các em có thể dùng biểu đồ hình
    ảnh, cũng có thể sử dụng biểu đồ ma trận.Đối với biểu đồ ma trận, tôi hướng dẫn
    các em hoàn thành bảng ma trận sau:

    Nhân tốẢnh hưởng
    Khí hậu
    Địa hình và các
    hệ sinh thái
    Tài nguyên thiên
    nhiên vùng biển
    Thiên tai

    5.Bài 9: thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa
    Trong bài 9 “THIÊN NHIÊN NHIỆT ĐỚI ẨM GIÓ MÙA”, tôi dùng biểu
    đồ sứa để hướng dẫn học sinh thể hiện nguyên nhân thiên nhiên nước ta có đặc
    điểm là nhiệt đới ẩm gió mùa.
    KHÁI
    QUÁT
    VỀ BIỂN
    ĐÔNG
    Rộng 3,447
    triệu km2,
    trong vùng
    nhiệt đới
    Tương đối kín
    Tính chất gió
    mùa và khép
    kín thể hiện
    qua hải văn,
    sinh vật biển
    Ảnh hưởng
    mạnh mẽ đến
    thiên nhiên
    nước ta
    20
    Còn các nội dung tính chất nhiệt đới, lượng mưa, độ ẩm lớn, hoạt động
    của gió mùa tôi hướng dẫn học sinh có thể sử dụng biểu đồ hình ảnh.
    Phần hoạt động của gió mùa, tôi hướng dẫn các em có thể dùng biểu đồ
    hình ảnh như hình dưới:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học trực tuyến môn Địa lí cho học sinh lớp 12 ở trường THPT

    SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học trực tuyến môn Địa lí cho học sinh lớp 12 ở trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong những năm gần đây, dạy và học trực tuyến đang trở thành xu hướng lan rộng
    ra tất cả các trường học bởi tính ưu việt của nó như: linh hoạt, dễ tiếp cận; nội dung
    phong phú; tiết kiệm chi phí, thời gian; mang tính toàn cầu; đáp ứng tốt nhu cầu học tập
    đa dạng của người học. Ở Việt Nam, dạy học trực tuyến được biết đến như một phương
    pháp giáo dục mới, chỉ thực sự bắt đầu phát triển trong vài năm gần đây nhằm kết hợp
    với phương pháp dạy học truyền thống nên hiệu quả còn chưa cao.
    Năm học 2019 – 2020 do ảnh hưởng của dịch covid-19, lần đầu tiên trong lịch sử
    Giáo dục Việt Nam học sinh phải tạm nghỉ đến trường dài ngày (khoảng hơn 2 tháng
    với học sinh THPT tỉnh Nam Định). Trong thời gian nghỉ do ảnh hưởng của dịch bệnh,
    ngành giáo dục cũng đã có nhiều giải pháp để giúp học sinh “tạm ngừng đến trường,
    không ngừng học”, trong đó điển hình nhất là giải pháp dạy và học trực tuyến. Đây cũng
    là hình thức dạy học mà nhiều giáo viên sử dụng “lần đầu tiên” trong sự nghiệp giáo dục
    của mình. Chính vì thế nên việc bỡ ngỡ, gặp khó khăn, lúng túng và “cười ra nước mắt”
    là điều không thể tránh khỏi.
    Chiều ngày 3 tháng 6 năm 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức hội nghị trực
    tuyến với 63 tỉnh, thành phố về đánh giá chất lượng dạy học trực tuyến, dạy học từ xa.
    Ngoài việc tổng kết, đánh giá chất lượng hội nghị cũng chỉ ra những điểm còn hạn chế,
    khó khăn của phương thức dạy học này để có giải pháp khắc phục. Bộ trưởng Phùng
    Xuân Nhạ đánh giá: “Quá trình triển khai dạy và học trực tuyến trong mùa dịch Covid-
    19 đã khẳng định ngành giáo dục có nhiều tiềm năng, thế mạnh để tiên phong ứng dụng
    công nghệ. Đồng thời khẳng định phương thức dạy học trực tuyến không chỉ là giải
    pháp tạm thời trong mùa dịch mà còn là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng giáo
    dục từ mầm non đến đại học”. Tuy nhiên, việc dạy học trực tuyến cũng còn một số hạn
    chế về đường truyền, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, học sinh ở nông thôn và miền
    núi còn khó khăn để tiếp cận với hình thức dạy học này.
    Với trường THPT Lý Tự Trọng, ngay sau khi có thông báo nghỉ dịch lần 1 (từ ngày
    4/2/2020 đến ngày 1/3/2020), Ban giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch ôn tập
    trực tuyến cho học sinh trong thời gian nghỉ dịch. Việc ôn tập thường xuyên cho học
    sinh lớp 12 là hết sức cấp thiết. Tuy nhiên, với lần triển khai này ngoài việc bỡ ngỡ với
    hình thức dạy học mới, giáo viên khi tham gia dạy học trực tuyến còn gặp rất nhiều khó
    khăn như sử dụng các phần mềm chưa thành thạo, chưa linh hoạt, một số học sinh nhà
    không có máy tính, không có mạng internet, hoặc có đầy đủ phương tiện tham gia học
    trực tuyến nhưng lại không tham gia hoạt động học…. Là một giáo viên dạy Địa lí của
    trường, sau mỗi giờ học trực tuyến tôi luôn băn khoăn, tìm tòi hướng khắc phục những
    hạn chế của từng bài giảng để mỗi giờ học của tôi đạt hiệu quả cao nhất các mục tiêu đã
    đề ra. Việc làm thế nào để học sinh chờ đợi đến giờ học trực tuyến môn Địa lí, chủ động
    tham gia nhiệt tình các hoạt động học trong giờ học; làm thế nào để mỗi bài học địa lí
    trở thành sự đam mê thích thú, sự mong ước được tìm hiểu khám phá của mỗi học sinh;
    làm thế nào để việc ôn tập, trang bị kiến thức chuẩn bị cho kì thi Tốt nghiệp THPT, xét
    tuyển đại học của học sinh lớp 12 được diễn ra thường xuyên, liên tục, đạt kết quả cao
    1
    … là điều tôi muốn hướng tới. Chính những điều này đã thôi thúc tôi thực hiện sáng
    kiến Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học trực tuyến môn Địa Lí cho
    học sinh lớp 12 ở trường THPT Lý Tự Trọng. Qua sáng kiến này học sinh chắc chắn
    sẽ hứng thú hơn với các giờ học, với từng hoạt động học trực tuyến; yêu thích học tập
    môn Địa lí từ đó chủ động lĩnh hội kiến thức. Các nội dung, chuyên đề ôn tập cũng
    được diễn ra thường xuyên, liên tục, từ đó giúp học sinh phát triển các nội dung đã được
    học tập; định hướng ôn tập cho những kì thi lớn. Bản thân tôi cũng vận dụng ngày
    càng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp dạy học trực tuyến hơn nữa để
    góp phần nhỏ bé của mình cho thành công của nhà trường nói riêng và sự nghiệp giáo
    dục nước nhà nói chung.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Một số vấn đề chung về dạy và học trực tuyến
    Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và sự ra đời của mạng Internet đã
    đem lại cho con người nhiều ứng dụng tiện ích. Trong đó, dạy và học trực tuyến đang
    trở thành một giải pháp của giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
    cho xã hội. Dạy học trực tuyến là một hình thức đào tạo qua mạng hoặc qua truyền
    hình, có nhiều đổi mới hơn so với dạy học truyền thống, cung cấp cho học sinh sự kết
    hợp hài hòa giữa nhìn, nghe và sự chủ động tích cực trong mọi hoạt động. Chính nhờ
    những tiện ích đó, dạy học trực tuyến đã mang lại hiệu quả cho việc học tập như: thu
    hút được nhiều đối tượng học sinh trong và ngoài trường (có thể còn là học sinh trên
    phạm vi toàn cầu), cắt giảm được nhiều chi phí xuất bản, in ấn tài liệu. Người học trực
    tuyến có thể chủ động chọn cho mình những kiến thức phù hợp với hình thức tiếp thu
    thụ động trên lớp theo lối truyền thống. Ngoài ra, người học còn có khả năng tự kiểm
    soát tốc độ học của mình sao cho phù hợp với bản thân mà vẫn đảm bảo được chất
    lượng học tập. Chính vì những ưu điểm trên học trực tuyến đang là một giải pháp tối ưu
    nhất với sự thu hút ngày càng đông đảo của học sinh, sinh viên.
    Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về dạy học trực tuyến (dạy học online), nhưng
    cách hiểu cơ bản đó là một phương thức phân phối các tài liệu, nội dung học tập dựa
    trên các công cụ điện tử hiện đại như: điện thoại, máy tính, ipad… thông qua mạng
    internet. Trong đó, nội dung, tài liệu học tập có thể được cung cấp từ các thầy cô giáo,
    cũng có thể được cập nhật từ các website trường học trực tuyến và các ứng dụng di
    động khác.
    Giáo dục trực tuyến là phương thức học ảo thông qua một máy vi tính, điện thoại
    thông minh nối mạng đối với một máy chủ ở nơi khác có lưu giữ sẵn bài giảng điện tử
    và phần mềm cần thiết để có thể hỏi/yêu cầu/ra đề cho học sinh học trực tuyến từ xa.
    Giáo viên có thể truyền tải hình ảnh và âm thanh qua đường truyền băng thông rộng
    hoặc kết nối không dây (Wifi, WiMax), mạng nội bộ (LAN). Mở rộng ra, các cá nhân
    hay các tổ chức đề có thể tự lập ra một trường học trực tuyến (E-School) mà nơi đó vẫn
    nhận đào tạo học sinh, đóng học phí và có các bài kiểm tra như các trường học khác.
    Khái niệm học trực tuyến cũng được dùng như một thuật ngữ chỉ môi trường học
    tập mà trong đó, người học có thể tương tác với môi trường học tập thông qua Internet
    hoặc các phương tiện truyền thông điện tử khác. Đây là môi trường có khả năng chia sẻ
    cao, vận hành không phụ thuộc vào không gian, thời gian, tạo điều kiện để mọi người
    2
    trao đổi, tìm kiếm, học tập một cách dễ dàng. Việc học không chỉ bó hẹp cho học sinh,
    sinh viên ở các trường mà dành cho tất cả mọi người, không kể tuổi tác, hoàn cảnh
    sống.
    Việc dạy học trực tuyến đã có từ khá lâu. Khóa học qua mạng đầu tiên được đưa
    ra vào năm 1986 bởi trường Đại học John F. Kennedy ở California – Hoa Kỳ. Các
    chuyên gia về đào tạo giáo dục đã có hơn 30 năm nghiên cứu cho thấy kết quả học tập
    trực tuyến không hề thua kém so với các lớp học truyền thống. Tuy nhiên, việc học trực
    tuyến có đạt hiệu quả cao hay không cũng còn tùy thuộc vào giáo viên và sự hợp tác
    của học sinh. Ở Việt Nam, phương thức dạy học trực tuyến vẫn còn khá mới mẻ và
    đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với cả người dạy và người học do chưa
    được triển khai đồng đều, cơ sở hạ tầng của nhiều trường chưa thể đáp ứng tốt yêu cầu
    của đào tạo từ xa, cách thực hiện của mỗi trường lại rất khác nhau. Tuy còn nhiều khó
    khăn nhưng phương thức dạy học này vẫn đang ngày càng phát triển và lan rộng; các
    phần mềm dạy học trực tuyến cũng không ngừng được nâng cấp và thay đổi để phù hợp
    hơn với nhu cầu của xã hội. Mô hình học tập này không chỉ giúp thầy và trò tiếp tục học
    tập, bồi dưỡng kiến thức mà còn nâng cao tính tự học và động lực học tập của học sinh,
    kể cả tính trách nhiệm lẫn kỉ luật tự giác trong học tập. Có rất nhiều phương thức cho
    quá trình dạy học trực tuyến như: dạy học bằng các văn bản thuần túy thông qua thư
    điện tử, qua truyền hình, qua các phần mềm hỗ trợ dạy học như zoom, shub, …. Ngoài
    ra, với việc học trực tuyến học sinh cũng có thể truy cập các liên kết bên ngoài, những
    mô phỏng chất lượng cao và các hiệu ứng sinh động. Chính vì thế, tùy thuộc vào yêu
    cầu, mục đích của từng nội dung học tập mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức dạy
    học trực tuyến phù hợp, để các hoạt động học đạt hiệu quả cao nhất.
    E-learning (giáo dục trực tuyến hay dạy học online) có những giá trị, vẻ đẹp
    riêng, nhưng cũng đang có những hiểu lầm tai hại, nhất là trong thời điểm dịch vius
    corona, hình thức giảng dạy, học tập này được nói đến nhiều hơn. Để có thể áp dụng
    dạy và học trực tuyến một cách hiệu quả cần hiểu rõ về hình thức giảng dạy và học tập
    này.
    Việc hiểu E-learning là gì, những ứng dụng của nó trong giảng dạy ở Việt Nam
    còn chưa được hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc. Có thể tạm phân việc ứng dụng Elearning của các trường hiện nay thành 5 bậc:
    + Bậc 1 gồm 100% lớp học truyền thống.
    + Bậc 2, E-learning chỉ là nền tảng lưu trữ và chia sẻ một số tài nguyên học tập.
    + Bậc 3, E-learning được sử dụng rộng rãi hơn, nhiều tài nguyên hơn nhưng lớp
    học trực tiếp vẫn là chủ đạo.
    + Bậc 4, E-learning kết hợp trong phương thức và triết lí giáo dục, trở thành một
    thành phần quan trọng của quá trình tổ chức lớp học với các triết lí như học đảo ngược
    (flipped classroom). Đây là bậc cao. Ở mức độ này, có sự hiểu biết và đầu tư mạnh của
    lãnh đạo nhà trường, nhưng E-learning ẫn chỉ là công cụ dạy và học chứ chưa thay đổi
    cấu trúc và mô hình vận hành của nhà trường.
    + Ở bậc 5, trường học đã thực sự chuyển đổi số hoàn toàn (digitalization) mô
    hình hoạt động của mình từ học tập, giảng dạy, quản lí chất lượng. Ở bậc này nó thực
    sự thay đổi về cách tiếp cận và chất lượng giáo dục.
    3
    Theo đánh giá của các chuyên gia thì hầu hết các trường ở Việt Nam đang ở bậc
    2, số ít ở bậc 3; bậc 4 diễn ra ở một số môn học, một số trường lớn nhưng chưa mang
    tính hệ thống. Mặc dù đã xuất hiện khá lâu (khoảng 13 đến 15 năm) ở Việt Nam nhưng
    ứng dụng của E-learning vẫn khá thấp. Lý do cơ bản là do đa số lãnh đạo nhà trường,
    các thầy cô giáo đều quen với cách dạy “truyền thống”, chưa trang bị kĩ năng số và
    chưa vượt ra khỏi vùng an toàn của chính mình. Điều cần thiết bây giờ là đào tạo kĩ
    năng số cho các thầy cô giáo, động viên họ dám dấn thân để ứng dụng E-learning hiệu
    quả nhất.
    Dạy học trực tuyến hay tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới
    nội dung, phương pháp dạy và học, kiểm tra, đánh giá là chủ trương của Bộ Giáo dục và
    Đào tạo. Cụ thể, với giáo dục phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo đẩy mạnh ứng
    dụng công nghệ thông tin trong đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra
    đanh giá ở các nhà trường; giáo viên có thể thiết kế học liệu số, bài giảng E-learning
    giúp học sinh tự học.
    Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện có kho dữ liệu gồm hơn 5000 bài giảng điện tử Elearning đoạt giải trong các cuộc thi quốc gia thiết kế bài giảng E-learning do Bộ tổ
    chức. Kho dữ liệu này có bài giảng đầy đủ các cấp học: mầm non, tiểu học, trung học
    cơ sở, trung học phổ thông với nội dung phong phú của các môn học trải dài các lớp
    học. Đây là nguồn học liệu chất lượng để các nhà trường lựa chọn và hướng dẫn học
    sinh tham khảo, cùng với hệ thống bài giảng điện tử mà giáo viên nhà trường chủ động
    xây dựng để cung cấp kiến thức, kĩ năng cho người học; đặc biệt là trong dịp các em
    không thể đến trường vì dịch Covid 19.
    Hiện nay, đa phần các giáo viên dạy học trực tuyến lựa chọn các công cụ như
    mạng xã hội Facebook, Zalo, qua Email hoặc các phần mềm hệ thống như Zoom,
    Google Classroom, Microsoft Team… để dạy học. Tuy nhiên, với các nền tảng này,
    nhiều thầy cô đang tìm cách để làm quen và dạy học trực tuyến với không ít khó khăn.
    Giáo viên mất nhiều thời gian soạn bài giảng, đọc, chấm bài, báo cáo với nhà trường,
    khó để quản lí chất lượng học sinh. Để đạt hiệu quả cao trong các hoạt động học, trước
    mỗi bài học trực tuyến, giáo viên phải cung cấp nội dung học tập, yêu cầu, tài liệu học
    tập trước cho học sinh. Trong quá trình giảng bài không ôm đồm, sa đà vào phân tích
    giảng giải nội dung mà chủ yếu quan tâm xem học sinh tiếp thu được đến đâu, lưu ý
    những điểm học sinh chưa rõ; tăng cường hướng dẫn học sinh tự học, chủ động lĩnh hội
    kiến thức.
    Nghị quyết Trung ương II khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đổi mới
    phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, áp dụng những phương pháp giáo
    dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực
    giải quyết vấn đề. Đổi mới phương pháp giáo dục – đào tạo khắc phục lối truyền thụ
    một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học…”. Một trong những
    biện pháp quan trọng là chúng ta cần phải nhanh chóng ứng dụng những thành tựu của
    công nghệ thông tin để biên soạn bài giảng điện tử áp dụng trong dạy và học ở Việt
    Nam nhằm tích cực hóa quá trình học tập của học sinh, sinh viên. Cùng với sự phát
    triển và yêu cầu ngày càng cao của xã hội, việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy
    học không thể chỉ dừng lại ở việc kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống mà
    cần chuyển sang một trang mới để phù hợp hơn với mọi yêu cầu của xã hội, giúp người
    học có thể tham gia bài học mọi lúc, mọi nơi, tránh được các giờ học truyền thụ kiến
    4
    thức nhàm chán với người học. Để giải quyết những vấn đề này, dạy học trực tuyến
    chính là giải pháp tối ưu, hiệu quả nhất hiện nay.
    Hơn nữa, cho đến nay dịch Covid-19 vẫn còn đang diễn biến hết sức phức tạp,
    Indonesia đã vượt qua Singapore, trở thành quốc gia đứng đầu Đông Nam Á về số ca
    mắc và tử vong, Trung Quốc đang đứng trước làn sóng dịch bệnh thứ hai. Đến ngày 11
    tháng 7 năm 2020 tổng số ca nhiễm trên toàn thế giới đã là 12.584.802; số ca tử vong là
    561.386. Ở Việt Nam, số ca nhiễm là 369, đang điều trị 19 và chưa có ca nào tử vong
    (Theo https://ncov.moh.gov.vn/). Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid 19 đề
    nghị người dân thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch trong tình hình mới, tiếp tục
    thực hiện các biện pháp phòng chống dịch theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ với
    “nhiệm vụ kép”, vừa phát triển kinh tế, vừa phòng chống dịch Covid-19, giữ vững
    thành quả chống dịch đạt được. Trước những diễn biến khó lường của dịch bệnh, mỗi
    giáo viên phải luôn có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tích cực bồi dưỡng
    kiến thức công nghệ thông tin; luôn sẵn sàng, chủ động dạy học hiệu quả nhất với mọi
    điều kiện và hoàn cảnh. Do vậy, việc lựa chọn hình thức dạy học trực tuyến càng trở
    nên cần thiết hơn. Giáo viên cần chủ động hơn trong ứng dụng các thành tựu của khoa
    học công nghệ, sử dụng linh hoạt hơn các phương pháp, hình thức dạy học, tiếp cận
    nhanh chóng các phần mềm, công cụ hỗ trợ dạy học để việc dạy và học trực tuyến
    không còn là sự lúng túng, ngại dạy của các thầy cô; học sinh cũng không còn những lí
    do cá nhân, những lí do mà các em cố đưa ra để trốn tránh các giờ học trực tuyến nữa.
    Với sự chỉ đạo của Sở Giáo dục và đào tạo Nam Định; sự chỉ đạo, đôn đốc, động
    viên, hướng dẫn thường xuyên của Lãnh đạo trường THPT Lý Tự Trọng, các thầy cô
    giáo nhà trường đã mạnh dạn hơn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
    học, các giờ dạy trực tuyến ngày càng được tổ chức nhiều hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên
    sự đổi mới đó vẫn còn nhiều hạn chế như một số thầy cô sử dụng chưa linh hoạt, thuần
    thục các phần mềm, phương tiện hỗ trợ dạy học bộ môn hoặc các phương pháp, phương
    tiện, phần mềm sử dụng lại không phù hợp với một số đối tượng học sinh, hoặc dạy học
    trực tuyến còn mang tính hình thức…. Bản thân tôi cũng nhận thấy một số phần mềm,
    công cụ hỗ trợ dạy học tôi áp dụng còn cứng nhắc, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy tối
    đa các ứng dụng của từng phần mềm hỗ trợ dạy học. Vì vậy tôi thực hiện sáng kiến kinh
    nghiệm này vừa để học sinh được tiếp cận với các phương thức học chủ động, phát huy
    tốt nhất ý thức, nhận thức của học sinh, vận dụng được kiến thức môn học vào thực
    tiễn; vừa để bản thân tôi hiểu sâu sắc hơn, vận dụng nhuần nhuyễn hơn các phương
    pháp dạy và học tích cực trong môn Địa Lí, điều quan trọng hơn nữa là để bản thân tôi
    luôn sẵn sàng tâm thế bồi dưỡng kiến thức cho học sinh, hướng dẫn học sinh chủ động
    học tập trong điều kiện, hoàn cảnh phức tạp nhất. Việc tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng
    công nghệ thông tin trong dạy học theo hướng tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần
    thứ 4, phát triển năng lực tự học của học sinh và nâng cao kĩ năng tổ chức dạy học qua
    Internet, trên truyền hình; tăng cường mối liên hệ giữa nhà trường và gia đình trong
    việc tổ chức và hỗ trợ học sinh học tập; thực hiện dạy học bám sát điều chỉnh nội dung
    dạy học là những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng.
    1.2. Một số hiểu lầm hay gặp phải của dạy học online
    Việc dạy và học trực tuyến đang gặp phải rât nhiều khó khăn. Đầu tiên, nhiều
    người quan niệm cách giảng dạy này có chất lượng thấp. Ở bậc 1 thì chất lượng thấp là
    đúng, nhưng nguyên nhân chính là do người dùng, do giáo viên. Nhiều doanh nghiệp đã
    5
    đi trước các trường học khá xa, họ đã xây dựng được hệ thống riêng của mình. Nhiều
    người cũng cho rằng dạy học online thì tương tác giữa giáo viên với học sinh sẽ kém.
    Điều này không hoàn toàn đúng vì hình thức này có khả năng tương tác khá cao vì học
    sinh, giáo viên có thể trao đổi, trả lời, chia sẻ rất hiệu quả. Các hệ thống Live streaming
    (giảng dạy thời gian thực) hiện nay cho chất lượng rất tốt, không kém già các lớp học
    truyền thống mà còn ưu điểm hơn à học sinh và giáo viên không phải di chuyển và có
    thể xem lại buổi học bất cứ lúc nào. Với học sinh lớp 12, việc ôn tập của các em cũng
    trở nên nhẹ nhàng hơn, đơn giản hơn, tránh được việc chen lấn vào các lớp học thêm
    như trước đây. Các em có thể chủ động hơn trong việc học tập của mình, tránh được
    những mệt mỏi, căng thẳng không cần thiết, nhất là khi các em phải ôn tập, trang bị
    kiến thức chuẩn bị cho kì thi Tốt nghiệp THPT sắp diễn ra vào tháng 8 tới trong điều
    kiện thời tiết nóng bức như hiện nay.
    Có rất nhiều giáo viên, phụ huy học sinh, học sinh còn lo ngại bị mất thông tin cá
    nhân hay bị kẻ xấu tác động trong quá trình dạy học trực tuyến. Vấn đề này có thể có
    các cách khắc phục khác nhau tùy theo từng phần mềm, phương tiện mà giáo viên hay
    học sinh sử dụng.
    Nhiều ý kiến lầm tưởng rằng dạy học online chi phí đắt nhưng trên thực tế chi
    phí cho việc dạy và học này lại rất rẻ cho cả giáo viên và học sinh. Giáo viên có thể
    xem lại bài giảng của mình, hoàn thiện hơn về chuyên môn; học sinh có thể học chủ
    động hơn với các chủ đề, nội dung học tập. Có ý kiến lại nói rằng giáo viên sẽ mất bản
    quyền khi dạy học online. Điều này cũng không đúng. Nội dung hiện nay rất nhiều và
    miễn phí khắp nơi nên đây không phải là vấn đề lớn. Mặt khác, các hệ thống E-learning
    đều có các lớp bảo mật nên cũng không đáng lo ngại. Nếu bài giảng của chúng ta có
    người muốn tham khảo, muốn lấy là tư liệu cho họ, muốn chia sẻ cho bạn bè của họ thì
    chúng ta cũng đã được coi như thành công và rất đáng tự hào rồi. Không ít các thầy cô
    giáo được các em học sinh cả nước, thậm chí quốc tế biết đến nhờ những bài giảng hay,
    ý nghĩa, hữu ích với các em. Đây chính là những tấm gương sáng về việc tiếp cận công
    nghệ số, luôn tiên phong đi đầu để thầy cô chúng ta noi theo.
    1.3. Những lợi ích của E-learning
    E-learning có rất nhiều lợi ích cho giáo viên và học sinh nhà trường. Đầu tiên,
    đây là một phương thức tổ chức kiến thức hiệu quả và dân chủ. Cái hay nhất của Elearning chính là một nền tảng tổ chức, chia sẻ và lưu trữ thông tin, kiến thức một cách
    hệ thống. Khi chúng ta có tài liệu hoặc bài giảng hay, chúng ta có thể chia sẻ ngay lập
    tức cho học sinh hoặc đồng nghiệp của mình. Đây chính là không gian học tập dân chủ
    và lành mạnh nhất.
    Tiếp theo, chúng ta có thể dạy và học ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Học sinh
    có thể vào bài học bất cứ lúc nào thuận tiện với họ, học bao nhiêu lần cũng được, học
    theo tốc độ và trí thông minh của mình. Lớp học truyền thống bắt buộc mọi người cùng
    học ở một thời điểm và vị trí, với cùng một tốc độ như nhau nên kém hiệu quả hơn ở
    góc độ này. Về chuẩn hóa chất lượng, sau khi các nội dung giảng dạy được xây dựng và
    đưa lên hệ thống thì nó minh bạch và trở nên chuẩn hóa. Giáo viên từ đó có thể liên tục
    cải tiến chất lượng, nhà trường cũng dễ dàng hơn trong việc quản lí và đảm bảo chất
    lượng giáo dục chung.
    6
    E-learning cũng giải phóng giáo viên rất tốt. Nếu thầy, cô dạy cùng một môn học
    cho 3 lớp/học kì, 2 học kì/năm, trong 5 năm liên tục, thầy cô sẽ dễ dàng trở thành “thợ
    dạy”. Với E-learning thì khác. Sau khi đầu tư nghiêm túc các bài giảng và tài nguyên số
    thì thầy cô giáo được giải phóng để liên tục cải tiên và sáng tạo những nội dung mới
    cho môn học của mình. Sau khi học sinh đã học những nội dung cơ bản thì thời gian
    trên lớp có thể dùng để thực hành, ứng dụng và nâng cao. Hoặc ngược lại, học sinh có
    thể trang bị những kiến thức mới trên lớp và ôn tập theo các chủ đề mà giáo viên xây
    dựng trên lớp học trực tuyến. Khi học sinh có những thắc mắc về bài học, giáo viên có
    thể tổng hợp và tạo ra một câu trả lời chuẩn trên hệ thống, cứ như vậy nội dung môn
    học sẽ liên tục được cập nhật và cải tiến.
    E-learning cũng tiết kiệm chi phí rất rõ. Chi phí (tài chính, thời gian, khả năng
    tiếp cận, nguồn lực khác) dành cho việc học thấp đi đáng kể đối với học sinh, đối với
    nhà trường, chi phí quản lí và tổ chức lớp học cũng giảm đáng kể. Đặc biệt thuận lợi với
    các sinh viên ở vùng sâu, vùng xa, có thể tham gia các khóa học trên E-learning mọi
    lúc, mọi nơi, chỉ cần có mạng Internet. Với những lợi ích này, E-learning cần được sử
    dụng rộng rãi hơn, không chỉ trong các trường đại học mà cả các trường THPT do học
    sinh ở các trường THPT đều rất nhạy bén với tiếp cận công nghệ thông tin, nhu cầu học
    tập cao.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Khái quát phạm vi áp dụng sáng kiến
    Trường THPT Lý Tự Trọng nằm trên địa bàn xã Nam Thanh, huyện Nam Trực,
    Tỉnh Nam Định. Năm học 2019 – 2020 khối 12 của trường có 10 lớp (384 HS) trong đó
    chỉ có 12 học sinh học khối C, 68 học sinh chọn tổ hợp môn Sử – Địa – GDCD là môn
    điều kiện để xét tốt nghiệp. Học sinh khối 10 và 11 đa số đều theo ban Khoa học tự
    nhiên. Vì vậy, việc tạo hứng thú cho học sinh đầu tư thời gian tìm hiểu các hoạt động
    học của môn Địa lí còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên đầu vào của học sinh trường
    THPT Lý Tự Trọng khá cao; đa số các em học sinh đều có tư duy, khả năng tự tìm tòi,
    học hỏi tốt. Hầu hết các đều có khả năng tiếp nhận thông tin nhạy bén, nhanh nhẹn, tiếp
    cận nhanh được các hình thức học trực tuyến. Vì vậy, với sáng kiến này các em sẽ biết
    cách lựa chọn thông tin chính xác, nâng cao khả năng tự học, tự tìm hiểu, chủ động
    khám phá kiến thức, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội, phát huy được những
    ưu điểm của bản thân từ đó định hướng nghề nghiệp cho tương lai, phát triển cộng
    đồng.
    2.2. Phạm vi và phương pháp dạy học tích cực
    2.2.1. Phạm vi áp dụng sáng kiến
    Sáng kiến được áp dụng để giảng dạy môn Địa lí cả 3 khối lớp tại trường THPT
    Lý Tự Trọng; đặc biệt hiệu quả với học sinh 12 ôn thi Tốt nghiệp THPT và ôn thi đại
    học.
    2.2.2. Một số phần mềm và công cụ dạy học trực tuyến miễn phí tốt nhất năm 2020
    – Thứ nhất: Phần mềm Microsoft Teams: Là phần mềm dạy học trực tuyến
    được đánh giá là có độ bảo mật cao dùng để dạy học và làm việc online giúp giáo viên
    và học sinh duy trì được các hoạt động dạy và học từ xa đồng thời nâng cao hiệu suất
    7
    làm việc và học tập. Đây là ứng dụng trò chuyện, họp, gọi và làm việc trực tuyến bất kể
    bạn ở đâu. Teams có nhiều ưu điểm như:
    + Có thể truy cập trực tiếp trên web, cài trên máy tính, tải trên di động. Tuy
    nhiên, để thuận tiện nhất và sử dụng đầy đủ các tính năng của Teams bạn nên cài đặt và
    sử dụng trên máy tính.
    + Sử dụng miễn phí trong 6 tháng: Teams được phát hành từ năm 2018 với hai
    phiên bản miễn phí và trả phí (với nhiều tính năng nâng cao). Tuy nhiên, từ đầu tháng
    3/2020 phiên bản trả phí này sẽ được hãng Microsoft phát hành miễn phí cho người
    dùng trong 6 tháng để hỗ trợ cộng đồng.
    + Microsoft Teams Meeting tích hợp nhiều công cụ làm việc: không chỉ có khả
    năng thực hiện họp qua video call, lưu trữ tài liệu, bài giảng, ứng dụng này còn tích hợp
    với bộ công cụ văn phòng Office 365 Microsoft giúp tối ưu hóa công việc lên cao nhất,
    nâng cao hiệu quả giảng dạy và làm việc nhóm.
    + Bạn có thể sử dụng Teams trên hầu hết các nền tảng phổ biến:
    ➢ Trên giao diện website Microsoft: https://teams.microsoft.com,
    ➢ Sử dụng phần mềm đã tải về trên máy tính.
    ➢ App trên điện thoại di động
    – Thứ 2: Phần mềm Zoom Meeting: Là phần mềm dạy học trực tuyến miễn phí hỗ trợ
    cho nhà trường tổ chức các buổi giảng dạy nhanh và ổn định nhất trong mùa dịch Covid
    19. Đây còn là sự lựa chọn của nhiều doanh nghiệp để hội họp, bàn công việc trong mùa
    dịch tránh gặp gỡ tiếp xúc. Zoom meeting cung cấp tài khoản miễn phí và tài khoản
    nâng cấp lên các bản trả phí với các tính năng vô cùng giá trị.
    Ở bản miễn phí, ngoài các tính năng cơ bản Zoom meeting còn cung cấp các tùy
    chọn giới hạn nhưng vẫn đáp ứng phần lớn nhu cầu dạy học online như:
    ➢ Phòng học tối đa 100 người tham gia.
    ➢ Giới hạn 40 phút cho mỗi lần meeting.
    ➢ Không giới hạn số lần meeting.
    Ở bản trả phí chúng ta chỉ cần bỏ ra 300.000 VNĐ/tháng để nâng cấp tài khoản
    lên bản Pro là có thể sử dụng được những tính năng vô cùng giá trị như:\
    ➢ Tổ chức được các phòng học trên 100 người tham gia.
    ➢ Tạo video khóa học trực tuyến bằng cách lưu trữ lại nội dung trên nền
    tảng đám mây của zoom với dung lượng lên tới 1 GB. Video này có thể
    tải về máy từ trình duyệt web.
    ➢ Không giới hạn thời lượng cho cuộc Meeting với việc tăng tối đa thời
    lượng cho mỗi lần Meeting lên 24 tiếng.
    Với những tính năng nổi trội trên thì có thể khẳng định Zoom meeting là một nền
    tảng xây dựng lớp học trực tuyến đáng để sử dụng kể cả trong các doanh nghiệp và
    trong trường học.
    – Thứ 3: Phần mềm EDUBIT.VN – Đây là nền tảng dạy học online chuyên
    nghiệp có phí dành cho nhà trường, giáo viên thiết lập bài giảng của mình. Bên cạnh
    8
    việc đăng tải, lưu trữ các video bài giảng thì giáo viên còn tổ chức các buổi giảng dạy
    trực tuyến để tương tác với học sinh, nâng cao chất lượng bài giảng. Edubit.vn là nền
    tảng dạy học online với nhiều tính năng nổi bật: Hỗ trợ hệ thống E-learning chuyên
    nghiệp; bảo mật thông tin bài giảng, chống dowload video bài giảng – chia sẻ tài khoản
    – hạn chế quay màn hình. Với chức năng tổ chức dạy học trực tuyến, học sinh sẽ được
    trao đổi trực tiếp với giáo viên; có bảng viết online để vẽ, viết, lưu lại; không phải ghi
    chép nhiều; có thể xe m lại buổi học nếu cần. Hiện phần mềm dạy trực tuyến này có
    hỗ trợ dùng miễn phí để trải nghiệm, bản miễn phí cho phép 100 học sinh tham gia.
    – Thứ 4: Thực hiện video giảng dạy online nhanh chóng qua ứng dụng
    SKYPE – Nhắc đến các phần mềm hỗ trợ tổ chức lớp học trực tuyến cho việc giảng dạy
    trong thời điểm hiện nay thì Skype là sự lựa chọn lý tưởng không nên bỏ qua. Bởi đây
    là ứng dụng phổ biến có thể dùng đươc trên điện thoại lẫn PC/ laptop, có thể thực hiện
    được các cuộc gọi video, gửi tin nhắn tức thời như SMS,… Ứng dụng thích nghi với
    mọi cấu hình, chỉ cần đảm bảo tốc độ mạng mà không cần trả thêm bất kì chi phí nào.
    Nếu tìm kiếm một phần mềm hỗ trợ dạy học trực tuyến miễn phí dành cho các nhóm lẻ
    (như bồi dưỡng học sinh giỏi) thỉ Skype sẽ là gợi ý hoàn hoản. giao diện đơn giản sẽ
    giúp người dùng dễ sử dụng.
    – Thứ 5: Tổ chức lớp học trực tuyến miễn phí với ứng dụng Meeting từ
    Google: HANGOUTS MEET
    Tính năng của Hangouts cũng tương tự như Skype, cho phép người dùng thực
    hiện các cuộc gọi miễn phí. Người dùng có thể kết hợp cuộc gọi video, gọi nhóm,… vì
    vậy đây có thể coi là một trong những công cụ hỗ trợ cho quá trình học tập trực tuyến
    hiệu quả. Cách thức sử dụng Hangouts rất đơn giản. Giáo viên sẽ là người tạo cuộc họp
    trực tuyến và mời học sinh tham gia nhóm bằng cách gửi đường dẫn. Từ đó hỗ trợ giảng
    dạy, kết nối giữa học sinh với giáo viên. Hangouts hoạt động bằng cách gọi video trực
    tuyến. Từ đó thầy và trò có thể học tập ngay tại nhà, cung cấp kiến thức trong mọi thời
    điểm mà không phải di chuyển, đi lại nhiều.
    – Thứ 6: Áp dụng Workplace (Facebook) vào dạy học trực tuyến hiệu quả.
    Workplace Facebook được ra đời với mục đích duy trì kết nối giữa các thành
    viên trong một team. Nó cung cấp các tính năng giống như Facebook Groups hay
    Facebook Messenge. Đây là giải pháp hỗ trợ dạy học trực tuyến vô cùng hiệu quả cho
    thầy và trò. Workplace Facebook được tích hợp những tính năng tốt nhất của Facebook
    như News Feed, chia sẻ nhóm, Live, Reaction, search, thực hiện các cuộc trò chuyện,…
    Đồng nghĩa với việc các giáo viên có thể live stram để giảng bài. Bên cạnh đó ứng dụng
    còn hỗ trợ hiển thị lượng người tham gia, theo dõi. Workplace thực chất không phải là
    một dịch vụ miễn phí. Tuy nhiên đối với các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức giáo dục
    chúng ta sẽ được sử dụng miễn phí. Hoặc nhà trường, giáo viên có thể dùng thử miễn
    phí 3 tháng và trả 1 – 3 USD/tháng nếu có khoảng 1000 đến 10.000 thành viên.
    – Thứ 7: VNPT E-learning – Lớp học số thời 4.0
    Trong thời điểm dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát ở nhiều quốc
    gia trên thế giới, để giúp học sinh nắm vững kiến thức, thầy trò có thể dạy và học từ xa
    cũng như trao đổi sách vở, bài giảng, giao bài tập và chấm điểm,… thì phần mềm
    VNPT E-learning sẽ là phần mềm dạy học trực tuyến miễn phí phù hợp nhất dành cho
    thầy cô, nhà trường. Ứng dụng này không chỉ hỗ trợ cho học sinh trong quá trình tìm lại
    9
    kiến thức mà còn giúp ích cho giáo viên, giảm thiểu tài liệu, biên soạn, giúp việc giảng
    dạy trở nên đơn giản và nhanh chóng hơn. Đồng thời giúp nhà trường dễ dàng quản lí.
    Khi giáo viên sử dụng VNPT E-learning sẽ giúp số hóa tài liệu, thiết kế bài giảng điện
    tử, giúp chuẩn bị tài liệu, thết lập giáo án điện tử,… Các tư liệu có thể ở dạng phim, ảnh
    hoặc tài liệu, nhằm thu hút học sinh. Ngoài ra còn hỗ trợ theo dõi học sinh, điểm danh,
    đánh giá chất lượng học tập. Học sinh không chỉ được theo dõi bài giảng mà còn có thể
    làm bài trực tuyến, theo dõi kết quả học tập, live stream, chat với giáo viên theo thời
    gian thực. VNPT E-learning xây dựng chương trình học tương tác qua Whiteboard và
    bài giảng Scorm – phương pháp học trực quan sinh động.
    – Thứ 8: Phần mềm học trực tuyến VioEdu
    Đây là phần mềm hỗ trợ học trực tuyến dành cho học sinh tiểu học và trung học.
    Đặc biệt với những học sinh sắp sửa bắt tay vào kì thi Tốt nghiệp THPT sắp tới thì việc
    học tập, củng cố kiến thức tại VioEdu sẽ giúp các em vững tâm và tự tin hơn rất nhiều.
    Ở mỗi bài giảng sẽ có hệ thống các câu hỏi bài tập nhằm củng cố kiến thức và có bảng
    đánh giá tiến độ của học sinh để phụ huynh và thầy cô có thể theo dõi. Phần mềm có
    nhiều tính năng nổi bật như: đưa ra những hệ thống kê cơ bản về thời gian học, số
    lượng câu hỏi, lịch sử làm bài của học sinh. Trong quá trình học, hệ thống sẽ chỉ ra
    điểm mạnh, yếu của từng học sinh và có các cách khắc phục hiệu quả. Báo cáo, đánh
    giá và nhận xét với học sinh sẽ được cập nhật chi tiết và thường xuyên. Từ đó giúp giáo
    viên và phụ huynh có cái nhìn tổng quát về khả năng của con em mình; có thể tư vấn,
    hỗ trợ khắc phục những hạn chế mà các em gặp phải.
    – Thứ 9: Phần mềm dạy học online trên mạng với ViettelStudy
    Đây là phần mềm dạy học online không còn xa lạ với các cơ sở giáo dục trên cả
    nước. Hiện nay, Viettel đang triển khai chương trình học trực tuyến với các bài giảng,
    bộ đề miễn phí. Ngoài ra, tại đây giáo viên và học sinh có thể tương tác, trao đổi trực
    tuyến với hệ thống bảo mật cao, đảm bảo đem lại hiệu quả tốt nhất.
    – Thứ 10: Dạy học online qua các trang mạng xã hội
    Tận dụng tính năng của mạng xã hội, giáo viên và học sinh có thể dạy và học
    bằng cách livestream trên Fanpage, trang cá nhân, các nhóm chat, Group lớp…
    + Dạy học trực tuyến trên Facebook: 85% người dùng Internet hiện nay đều có ít
    nhất 1 tài khoản Facebook. Hiện nay, nhiều giáo viên đã sử dụng Facebook để truyền
    tải thông tin, kiến thức, bài học đến học sinh. Cách dạy học online này vừa tiện lợi, vừa
    tăng khả năng tương tác với học sinh.
    + Dạy học online qua Zalo: Đây cũng là lựa chọn hàng đầu cho giáo viên, là một
    ứng dụng do người Việt Nam phát triển với tính năng bảo mật về thông tin và các tin
    nhắn cực cao. Với các chức năng như: chat video, chat voice, tạo nhóm, chia sẻ link,
    video nhanh chóng. Zalo cũng là mạng xã hội giúp tăng khả năng tương tác của học
    sinh với giáo viên.
    + Dạy học thông qua Youtobe: Chắc chắn các thầy cô giáo không thể tìm ở đâu
    chứa nhiều nội dung bài học đa dạng và chi tiết như Youtobe. Chỉ cần sử dụng điện
    thoại, máy tính bảng hoặc Laptop thầy cô có thể truyền tải thông tin bài giảng dễ dàng.
    Hơn thế nữa, nội dung bài giảng không chỉ phục vụ cho việc học của học sinh của thầy

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Ý tưởng tổ chức các hoạt động dạy học sáng tạo theo định hướng phát triển năng lực

    SKKN Ý tưởng tổ chức các hoạt động dạy học sáng tạo theo định hướng phát triển năng lực

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Quá trình chuyển sang cách phương pháp dạy học tích cực hướng đến việc
    phát triển năng lực học sinh, khiến các thầy cô giáo phải chú ý đến việc tổ chức các
    hoạt động dạy học nhiều hơn là giảng bài và thuyết trình. Bên cạnh đó, những áp
    lực của công việc khiến các giáo viên không có đủ thời gian để suy ngẫm và liên
    tục sáng tạo những ý tưởng mới. Làm sao để có được những hoạt động dạy học thú
    vị, hấp dẫn cho mỗi bài học. Làm sao để những ý tưởng mới, sáng tạo có thể đến
    được với lớp học. Đó là điều mà các thầy cô giáo đều mong muốn và đang cảm
    thấy băn khoăn, trăn trở. Vì vậy chúng tôi đã viết đề tài “Ý tưởng tổ chức các hoạt
    động dạy học sáng tạo theo định hướng phát triển năng lực” nhằm cung cấp các ý
    tưởng sáng tạo để tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng
    lực. Đề tài gồm ba nội dung chính, là gợi ý cho các hoạt động theo tiến trình của
    một giờ học:
    1. Ý tưởng tổ chức tình huống xuất phát
    2. Ý tưởng tổ chức hoạt động hình thành kiến thức mới
    3. Ý tưởng tổ chức hoạt động luyện tập, vận dụng
    Mỗi ý tưởng đưa ra đều đi kèm những hướng dẫn chi tiết và cụ thể để giáo
    viên có thể hiểu được mục đích của hoạt động, những điều cần chuẩn bị, cách thức
    tổ chức hoạt động, lưu ý và các hoạt động mở rộng kèm theo. Điểm đặc biệt của đề
    tài này còn nằm ở chỗ cố gắng xây dựng và lựa chọn các hoạt động dạy học có thể
    áp dụng được trên phạm vi rộng ở cả ba cấp học và với tất cả các môn học. Những
    ý tưởng có trong đề tài sẽ là cẩm nang cần thiết và hữu ích đối với những người
    mới bắt đầu công việc giảng dạy, cũng như các thầy cô giáo đang thay đổi phương
    pháp giảng dạy. Tài liệu cũng sẽ là cơ sở để các thầy cô có thể sáng tạo thêm những
    ý tưởng mới cho các tiết dự giờ, chuyên đề hay đơn giản hơn là trong mỗi bài giảng
    trên lớp.
    II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI CÓ SÁNG KIẾN
    Trước khi có sáng kiến, giáo viên đã vận dụng một số phương pháp dạy học
    tích cực, đổi mới hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá, ứng dụng công nghệ
    thông tin trong dạy học, tuy nhiên hiệu quả mang lại chưa cao. Cần thiết phải lựa
    chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, phù hợp, hiệu quả cao
    hơn để phát huy tối đa năng lực của học sinh.
    1. Phương pháp dạy học
    Giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống, đồng thời kết hợp
    một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực nhưng việc vận dụng chưa mang lại
    hiệu quả cao.
    Khi dạy giáo viên đã vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực: dạy
    học theo nhóm nhỏ, sử dụng kĩ thuật động não, phương pháp đàm thoại gợi mở,
    phương pháp đóng vai… Các phương pháp này, bước đầu đã tạo hứng thú cho học
    2
    sinh và phát triển một số năng lực của học sinh. Tuy nhiên còn nhiều năng lực của
    học sinh chưa được kích thích phát triển. Đặc biệt, trong các giờ học, giáo viên vẫn
    đóng vai trò là người truyền thụ kiến thức, là trung tâm của quá trình dạy học; học
    sinh chủ yếu lắng nghe, tiếp thu thụ động các kiến thức được quy định sẵn, ít được
    thể hiện các năng lực của bản thân.
    Vì vậy, cần thiết phải lựa chọn những phương pháp hiệu quả hơn để phát huy
    đầy đủ năng lực của học sinh.
    2. Phương tiện dạy học
    Trong quá trình dạy học, giáo viên đã biết khai thác tốt kênh hình và kênh
    chữ sách giáo khoa. Đồng thời sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin, chủ
    yếu là Powerpoint, sử dụng các video minh họa… để tăng tính trực quan, kích thích
    tư duy học sinh. Tuy nhiên, học sinh mới chỉ dừng lại ở quan sát và tư duy. Việc
    dạy học sẽ hiệu quả hơn nếu học sinh được trực tiếp trải nghiệm các ứng dụng công
    nghệ thông tin. Trang bị về công nghệ thông tin là một hành trang quan trọng cho
    sự phát triển sau này của học sinh.
    3. Kiểm tra đánh giá
    Giáo viên mới chỉ chú trọng kiểm tra kiến thức lý thuyết của học sinh bằng
    hình thức kiểm tra viết (tự luận, trắc nghiệm hoặc cả tự luận và trắc nghiệm) với
    các câu hỏi yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức. Các câu hỏi này ít gắn với thực
    tiễn. Việc kiểm tra, đánh giá trong quá trình tổ chức dạy học và đánh giá các kĩ
    năng mà học sinh đạt được trong quá trình học tập chưa được quan tâm. Giáo viên
    đánh giá kết quả học sinh thông qua điểm số. Điều này đã dẫn tới tình trạng học
    thụ động trong học sinh. Học sinh chỉ quan tâm, học thuộc lòng lý thuyết mà giáo
    viên cung cấp để đạt điểm số cao trong khi bản thân có thể không hiểu nội dung
    đó. Từ đó, kết quả kiểm tra đánh giá bị sai lệch.
    Trong các buổi đánh giá, giáo viên là người đánh giá duy nhất. Học sinh
    không tham gia tự đánh giá và đánh giá các bạn học khác. Các bài kiểm tra đôi khi
    còn mang nặng tính chủ quan của giáo viên, thiếu chính xác, khách quan, công
    bằng. Giáo viên cần phải tạo cơ hội để học sinh tự nhìn nhận đánh giá bản thân,
    đánh giá học sinh khác để tìm ra cái mình đã đạt được, những điều còn thiếu sót từ
    đó phát huy các năng lực bản thân.
    4. Về kết quả học tập của học sinh
    – Thái độ học tập của học sinh
    Còn nhiều học sinh chưa hứng thú trong các giờ học, biểu hiện:. có nhiều
    học sinh chỉ lắng nghe các kiến thức, thụ động ghi chép; không có sự hào hứng;
    không thắc mắc, đặt câu hỏi, cả đối với những nội dung chưa hiểu rõ; học sinh
    không tích cực tham gia xây dựng bài học trên lớp… Về nhà, không tìm hiểu kiến
    thức liên quan, làm bài tập chống đối..
    3
    Theo khảo sát, 500 học sinh các khối về bộ môn số học sinh rất hứng thú với
    bài học trước khi áp dụng sáng kiến là 21,7 %; số học sinh chưa hứng thú với bài
    học là 22,9%
    – Kiến thức đạt được
    Học sinh chỉ nắm được kiến thức lí thuyết, nội dung mở rộng, vận dụng,
    mang tính cập nhật, thời sự;… nhiều học sinh không nắm được.
    Kết quả bài đánh giá: trong tổng số học sinh tham gia bài đánh giá: 30%
    giỏi; 40% khá 20% trung bình, 10% không đạt yêu cầu
    – Kĩ năng đạt được
    Học sinh, chủ yếu được rèn luyện kĩ năng: đọc, nghe, chọn lọc ý từ sách giáo
    khoa; khai thác bản đồ, bảng số liệu; vận dụng công thức tính toán….
    Học sinh không khám phá hết năng lực của bản thân, thụ động trong việc học
    tập, khả năng sáng tạo và vận dụng tri thức để giải quyết tình huống thực tiễn cuộc
    sống còn hạn chế.
    III. GIẢI PHÁP
    4
    CHƯƠNG I:
    Ý TƯỞNG TỔ CHỨC TÌNH HUỐNG XUẤT PHÁT
    1.1. Lưu ý chung
    Điều cốt yếu nhất khi tổ chức tình huống xuất phát là phải thu hút được sự
    “tập trung” và “chú ý”, là hai trạng thái tâm lý cần thiết cho quá trình học tập.
    Những ý tưởng hoạt động đó không đơn giản là một trò chơi để giúp học sinh cảm
    thấy hứng thú mà còn phải kích thích sự suy ngẫm, liên tưởng với bài học và là
    những bước trải nghiệm đầu tiên trong tiết học.
    – Để thực hiện các hoạt động khởi động một cách hiệu quả nhất, chúng ta cần
    lưu ý một số điểm sau:
    + Lựa chọn các hoạt động phù hợp với đặc điểm của lớp học và nội dung bài
    học
    + Luôn có phương án dự phòng khi học sinh không hợp tác cùng giáo viên
    + Có sự kỳ vọng cao ở học sinh, không nên chỉ coi đây là một trò chơi giải
    trí đơn thuần
    + Cần có sự chuẩn bị để dẫn vào bài mới sao cho hợp lý mà không bị gẫy
    hoạt động.
    – Về phương pháp tổ chức các tình huống xuất phát, các thầy cô có thể thực
    hiện theo các bước sau:
    + Tập trung chú ý của học sinh
    + Đứng trước lớp đưa hướng dẫn (không đứng ở giữa lớp), các khẩu lệnh
    phải chắc chắn, có sức ảnh hưởng đến học sinh
    + Đưa hướng dẫn hoạt động rõ ràng (Ai làm gì? Ở đâu? Làm như thế nào?
    Dựa vào cái gì để thực hiện? Trả lại sản phẩm gì? Yêu cầu về sản phẩm)
    + Làm nháp rồi mới làm thật (nếu khởi động dưới hình thức thi giữa các
    đội)
    + Bình tĩnh làm lại nếu như làm sai.
    1.2. Các ý tưởng tổ chức tình huống xuất phát
    1.2.1 Chuyển phát nhanh
    Đây là hoạt động khởi động thú vị dành cho giáo viên khi bắt đầu tiết học, đồng
    thời nhằm khuyến khích học sinh suy nghĩ sâu hơn về nội dung của bài học và ôn
    tập lại kiến thức cũ.
    – Mục đích
    + Giúp học sinh ôn lại những kiến thức đã được học ở buổi trước
    + Rèn luyện khả năng phản ứng nhanh
    + Tăng tính bất ngờ và ngẫu nhiên
    + Buộc tất cả học sinh đều phải tập trung suy nghĩ
    – Chuẩn bị
    + 1 chiếc hộp nhỏ
    5
    + 10 – 20 câu hỏi có liên quan đến bài học
    + 3 – 5 bài hát/ đoạn nhạc mà học sinh thích
    – Các bước thực hiện
    + Chọn 1 hộp có chứa các câu hỏi liên quan đến chủ đề bài học
    + Giáo viên mở to một đoạn nhạc, hoặc một bài hát (có thể tìm các bài hát có
    liên quan đến nội dung bài học đồng thời học sinh phải luân chuyển chiếc hộp đó
    theo thứ tự.
    + Giáo viên cho nhạc dừng lại ở một thời điểm bất kỳ, chiếc hộp ở vị trí của
    học sinh nào thì học sinh đó phải chọn một câu hỏi trong hộp và đưa ra câu trả lời.
    + Nếu học sinh không trả lời được, có thể nhờ sự trợ giúp.
    – Mở rộng
    + Để tiết kiệm thời gian chuẩn bị, giáo viên có thể cho học sinh luân chuyển
    chiếc mũ, cây bút, cái thước, …
    + Khi đoạn nhạc dừng ở đâu, giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi để học sinh
    đưa ra câu trả lời.
    + Có thể chuẩn bị một số phần thưởng cho học sinh.
    – Ví dụ minh họa
    Khi dạy bài 9 – Nhật Bản tiết 1 (địa lí lớp 11)
    + Giáo viên chuẩn bị các câu hỏi cho tình huống xuất phát như sau (có thể kết
    hợp sử dụng powerpoint và máy chiếu
    Câu 1: Trong các lá cờ sau, lá cờ nào được gọi là “cờ Mặt Trời”?
    Câu 2: Đây là ngọn núi lửa nào? Vẻ đẹp hùng vĩ của nó đã trở thành biểu tượng
    của một quốc gia. Ngọn núi này đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
    Câu 3: Đây là hiện tượng tự nhiên nào?
    – Nó có thể hình thành do động đất hoặc núi lửa phun trào dưới đáy biển.
    – Nó thường cao từ 20 – 40m, di chuyển với vận tốc rất nhanh, từ 400 – 800km/h
    – Trước khi nó xuất hiện, nước biển thường sủi bọt, hoặc có mùi trứng thối, hoặc
    nước biển lùi rất xa bờ
    1
    5 6
    2 3
    4
    6
    Câu 4: Hiện tượng trong dân số, tỉ lệ người trên độ tuổi lao động rất cao, chiếm
    trên 15%, còn tỉ lệ người dưới tuổi lao động rất thấp, dưới 25%, được gọi là gì?
    Câu 5: Quốc gia nào trên thế giới mà tên gọi của nó có nghĩa là “Mặt Trời mọc”?
    + Giáo viên chuẩn bị một số bài hát tiếng Nhật nổi tiếng.
    + Giáo viên bật nhạc và cho HS lần lượt chuyển một cây bút. Khi nhạc dừng giáo
    viên đưa câu hỏi trên màn hình và yêu cầu HS trả lời. Cứ tiếp tục cho đến khi hết
    câu hỏi sau đó giáo viên dẫn HS vào bài học mới.
    1.2.2 Đánh bại giáo viên
    – Mục đích:
    + Kích thích học sinh tham gia tích cực hơn vào các hoạt động
    + Tạo cảm giác cạnh tranh, thử thách học sinh
    + Giúp học sinh thực sự làm chủ và chiếm lĩnh kiến thức khi trở thành người
    ra đề, đặt câu hỏi và tạo nên các thử thách cho giáo viên.
    – Chuẩn bị: Bảng, bút, giấy trắng, hộp câu hỏi
    – Các bước thực hiện:
    Bước 1: Giáo viên và học sinh cùng chuẩn bị các câu hỏi liên quan đến nội
    dung bài học, sau đó cùng bỏ vào trong một chiếc hộp.
    Bước 2: Đặt giới hạn thời gian (ví dụ 3 phút).
    Bước 3: Học sinh và giáo viên sẽ cùng trả lời các câu hỏi/ làm các bài tập
    trong hộp.
    Bước 4: Giáo viên phải tự mình đưa ra câu trả lời, còn học sinh được phép hỗ
    trợ, giúp đỡ nhau.
    Bước 5: Tổng kết và cùng đưa phản hồi về những câu trả lời.
    Học sinh rất hứng thú với trò chơi này vì chúng có cảm giác cạnh tranh với
    giáo viên, cả hai bên cũng đưa ra những câu hỏi mang tính thử thách.
    – Lưu ý
    + Các câu hỏi giáo viên đưa ra không nên quá khó hoặc đánh đố học sinh quá
    nhiều.
    + Nên đưa ra các câu hỏi khuyến khích học sinh tìm kiếm thông tin, tư duy
    sâu và có sự hợp tác.
    + Giáo viên nên thành thật và dũng cảm trong những trường hợp bị thua.
    + Nên có sự suy ngẫm sau hoạt động.
    – Mở rộng
    + Giáo viên có thể tổ chức giữa các lớp với cùng một chủ đề/ bài dạy.
    + Chia học sinh theo các nhóm và thi đấu cùng nhau.
    7
    – Ví dụ: Mẫu phiếu ghi câu hỏi và mẫu phiếu ghi câu trả lời trong trò chơi
    1.2.3 Ai là triệu phú
    Đây là trò chơi được sử dụng theo chương trình Ai là triệu phú. Học sinh sẽ
    trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra và nhận được các phần thưởng hay sự trợ
    giúp giống như của chương trình.
    – Mục đích
    + Học sinh tham gia tích cực hơn vào việc trả lời các câu hỏi
    + Học sinh nhận được sự trợ giúp
    – Chuẩn bị
    + Powerpoint mẫu của trò chơi này
    + Giáo viên cần chuẩn bị các câu hỏi và 4 đáp án A, B, C, D cho mỗi câu hỏi
    + Phần thưởng cho người chơi xuất sắc
    – Hướng dẫn thực hiện
    + Học sinh có thể chơi cá nhân hoặc theo nhóm.
    + Bắt đầu trò chơi và nhấp vào các câu hỏi theo thứ tự.
    + Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi.
    + Nếu trả lời đúng học sinh sẽ được trả lời các câu hỏi tiếp theo và phần thưởng
    sẽ tăng lên. Nếu trả lời sai, học sinh phải dừng lại.
    + Học sinh sẽ nhận được quyền trợ giúp bất cứ khi nào.
    + Khi câu trả lời đúng được chọn, một slide mới xuất hiện, và chuyển tiếp
    sang câu hỏi mới.
    – Lưu ý
    8
    + Giáo viên có thể chèn thêm hiệu ứng về âm thanh giống như nhạc điệu của
    chương trình.
    + Giáo viên cần rèn luyện kĩ năng dẫn chương trình giống như một MC thực
    thụ
    + Cần bổ sung các phần giải thích, mở rộng thông tin liên quan đến nội dung
    câu hỏi.
    – Mở rộng
    + Phụ thuộc vào thời gian tiết học, giáo viên có thể điều chỉnh số lượng câu
    hỏi và mức điểm thưởng cho phù hợp.
    + Giáo viên có thể điều chỉnh hình thức của trò chơi bằng cách để tất cả học
    sinh cùng tham gia và cùng đưa ra đáp án A, B, C, D. Nếu học sinh nào đưa đáp án
    sai sẽ bị loại.
    + Những học sinh còn lại sẽ làm công việc hỗ trợ giáo viên để kiểm soát các
    người chơi còn lại.
    – Ví dụ: trò chơi “Ai là triệu phú”, chủ đề Halloween, môn tiếng Anh
    9
    1 2
    3 4
    5 6
    10
    7 8
    9 10
    11 12
    11
    13 14
    15 16
    17 18
    12
    19 20
    21 22
    23 24
    13
    25 26
    27 28
    29 30
    31 32
    14
    1.2.4. Trò chơi hẹn hò
    Đây là trò chơi khởi động khá thú vị, thu hút được sự tham gia của nhiều học
    sinh, giúp kiểm tra được nội dung kiến thức đa dạng, đồng thời kích thích học sinh
    tương tác trong lớp học.
    – Mục đích
    + Để lôi cuốn học sinh tham gia vào hoạt động ngay từ khi bắt đầu tiết học
    + Dùng để kiểm tra bài cũ đầu giờ học
    + Học sinh được chủ động, tạo không khí thoải mái, hấp dẫn .
    – Chuẩn bị
    + Các tờ giấy note hoặc tấm thẻ
    + Lớp học được bố trí với khoảng không giang rộng rãi để học sinh có thể
    di chuyển
    + Giáo viên có thể chuẩn bị đồng hồ đếm ngược để đặt thời gian cho học
    sinh.
    – Cách thực hiện

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Định hướng chung về Phương pháp ôn và làm bài trắc nghiệm thi THPT Quốc Gia môn Lịch Sử

    SKKN Định hướng chung về Phương pháp ôn và làm bài trắc nghiệm thi THPT Quốc Gia môn Lịch Sử

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Dân ta phải biết sử ta
    Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
    Lịch sử là ngành khoa học chuyên nghiên cứu quá trình phát triển của xã
    hội loài người nói chung hay của từng quốc gia, dân tộc. Lâu nay việc dạy và
    học Lịch sử luôn được dư luận xã hội quan tâm đặc biệt. Học lịch sử, hiểu lịch
    sử, để góp phần làm người có ích. Lời nói đầu của Hiến Pháp năm 2013 ghi rõ:
    “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng
    tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền
    thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nền
    văn hiến Việt Nam”.
    Tại Đại hội của Hội Khoa học lịch sử diễn ra ngày 30/11/2015, Chủ tịch
    nước Trương Tấn Sang đã nhấn mạnh: “Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phải có
    trách nhiệm làm cho các cơ quan quản lý và xã hội thấy được tầm quan trọng
    của môn Lịch sử trong hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời có những đóng
    góp tích cực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học môn Lịch sử”.
    “Cần triển khai tích cực những hoạt động để nâng cao hiểu biết và niềm yêu
    thích của nhân dân, nhất là những thế hệ trẻ đối với lịch sử dân tộc”.
    Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
    giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
    hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
    thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
    máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
    người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển
    từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
    động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
    thông tin và truyền thông trong dạy và học”, “Đổi mới căn bản hình thức và
    phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm
    trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo
    cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế
    giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình
    học và đánh giá cuối kì, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá
    của người học, đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội”.
    Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay,
    đổi mới kiểm tra đánh giá được xác định là khâu đột phá trong đổi mới giáo
    dục. Ngày 09/9/2014, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT ban hành quyết định số 3538/QĐ
    về việc phê duyệt phương án thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao
    đẳng từ năm 2015 (gọi tắt là kì thi THPT Quốc gia). Trong kì thi THPT Quốc
    gia năm 2015, kết quả bài thi của thí sinh đã được xét công nhận tốt nghiệp
    THPT và làm căn cứ để các cơ sở giáo dục đại học sử dụng trong tuyển sinh đại
    học, cao đẳng.
    Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo
    Quyết định 711/QĐ – TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ:
    “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
    theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự
    học của người học”, “Đổi mới kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kì thi
    tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách
    quan và công bằng, kết hợp kết quả kiểm tra, đánh giá trong quá trình giáo dục
    với kết quả thi”.
    Những quan điểm, định hướng nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường
    pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung.
    Từ năm 2016 – 2017, bộ môn Lịch sử đã có một thay đổi to lớn. Bộ GD –
    ĐT đã quyết định thực hiện đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. Theo đó,
    bộ môn Lịch sử được kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan. Bộ môn
    Lịch sử nằm trong tổ hợp môn xã hội: Sử – Địa – Giáo dục công dân khi kiểm
    tra THPT Quốc gia cho học sinh lớp 12. Sự thay đổi này đã tạo nên một sự
    chuyển biến lớn trong việc ôn luyện và kiểm tra THPT Quốc gia nói chung và
    bộ môn Lịch sử nói riêng.
    Hiện nay ở các trường phổ thông, đã áp dụng rất nhiều phương pháp dạy
    học, nhiều phương tiện kĩ thuật mới và bước đầu mang lại những hiệu quả thiết
    thực cho quá trình dạy và học, nhất là đối với bộ môn lịch sử. Quá trình sử dụng
    công nghệ thông tin trong dạy học là một xu thế hiện nay đã mang lại hiệu quả
    đáng kể. Hay áp dụng nguyên tắc dạy học liên môn, dạy học theo nhóm, dạy
    học theo chuyên đề… đã góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả dạy học
    môn lịch sử.
    Việc thay đổi hình thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm, đã tác động lớn
    đến sự thay đổi về phương pháp học và kết quả môn học. Sự thay đổi phương
    pháp thi theo hướng mới khiến không ít học sinh, nhất là các em học sinh lớp 12
    băn khoăn, thắc mắc về phương pháp học, phương pháp ôn thi, phương pháp
    làm bài như thế nào để có kết quả tốt nhất. Sự thay đổi này cũng gây không ít
    khó khăn cho giáo viên trong việc ôn tập, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh.
    Từ thực tế nhiều năm hướng dẫn học sinh ôn thi THPT Quốc gia môn
    Lịch sử (từ năm học 2016-2017 đến năm học 2028-2019) và ôn thi tốt nghiệp
    (năm học 2019-2020). Qua kết quả các kì thi những năm trước cho thấy, rất
    nhiều em yêu thích môn lịch sử và lựa chọn môn này làm môn thi THPT Quốc
    gia nhưng lại khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập, ôn luyện. Không
    ít học sinh rất tự tin vào kiến thức của mình, kể cả một số học sinh đã từng ôn
    thi học sinh giỏi nhưng vẫn lúng túng khi xác định và trả lời các dạng câu hỏi
    trắc nghiệm. Do đó, kết quả thi thường không tương xứng với kiến thức mà các
    em đang có. Học sinh cần có sự điều chỉnh phương pháp học để khắc phục
    những hạn chế trên.
    Bản thân Tôi là giáo viên trực tiếp hướng dẫn học sinh ôn thi môn Lịch
    sử, đây là môn học đòi hỏi độ tư duy cao, không chỉ học thuộc hay chăm chỉ
    giải đề trắc nghiệm, môn Sử yêu cầu các em có cách học và ôn thi đúng đắn. Từ
    thực tiễn giảng dạy, Tôi luôn trăn trở để tìm ra những phương pháp và cách thức
    ôn tập phù hợp nhằm nâng cao chất lượng cho bài thi của học sinh. Vì vậy, Tôi
    đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài
    “ĐỊNH HƯỚNG CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP ÔN VÀ LÀM BÀI
    TRẮC NGHIỆM THI THPT QUỐC GIA MÔN LỊCH SỬ”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Vai trò của môn Lịch sử ở trường THPT
    Trong các bộ môn ở trường THPT thì môn Lịch sử có một vị trí vô cùng
    quan trọng. Bởi lịch sử giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết
    về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới
    quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, phát huy truyền thống
    tốt đẹp của cha ông, niềm tự hào dân tộc, tình đoàn kết quốc tế. Đồng thời, học
    lịch sử còn bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn
    trong cuộc sống cho các em, góp phần rất lớn trong việc hoàn thiện nhân cách
    học sinh. Điều này rất phù hợp với mục tiêu đào tạo của nền giáo dục nước ta,
    đó là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện cả đức lẫn tài.
    Lịch sử là hiện thực khách quan, chính là cuộc sống lao động đấu tranh.
    Vì vậy, học lịch sử không chỉ là phản ánh đúng cuộc sống đã qua mà phải gắn
    với cuộc sống hiện tại và dự đoán sự phát triển của tương lai. Nguyên lí “học đi
    đôi với hành”, gắn học tập với đời sống, phải thực hiện đúng, có hiệu quả cao.
    Điều này càng có ý nghĩa khi mà ngày nay cuộc sống có nhiều biến đổi. Qua
    khứ – hiện tại –tương lai là những giai đoạn khác nhau về chất của quá trình
    phát triển lịch sử, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau,giúp chúng ta đúc rút ra
    được những bài học kinh nghiệm quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
    đất nước. Dù còn là một học sinh ngồi trên ghế nhà trường hay đã là một công
    dân thì việc cần làm là nhận thức cho đúng đắn, phải có sự am hiểu rõ về Lịch
    sử dân tộc để không bị lôi kéo vào con đường phản bội, xuyên tạc quê hương,
    đất nước.
    Quá trình dạy học lịch sử là quá trình nhận thức, nó không chỉ có nội
    dung mà còn có phương pháp dạy học, bởi vậy việc đổi mới nội dung gắn liền
    với đổi mới phương pháp. Vì vậy dạy học lịch sử theo phương pháp “ lấy học
    sinh làm trung tâm” là nhằm để phát huy tính chủ động, năng lực tư duy sáng
    tạo của học sinh trong học tập lịch sử có hiệu quả. Từ đó giúp cho học sinh có
    nhận thức đúng đắn trong việc nắm bắt những kiến thức của khoa học lịch sử cơ
    bản ở trường phổ thông.
    Theo PGS.TS Võ Văn Sen“lịch sử Việt Nam có hàng ngàn năm văn hiến,
    lịch sử của ta đẫm máu và đầy những trang anh hùng ca chống chọi với các kẻ
    thù lớn mạnh. Với bề dày lịch sử như thế, dạy học sinh hiểu, biết về sử cũng như
    văn, tiếng Việt là vấn đề sống còn đất nước”. “Học sinh tốt nghiệp THPT thì
    phải hiểu biết lịch sử dân tộc, hiểu biết về đất nước, phải có kiến thức căn bản
    đó để trở thành một công dân, để làm người”. Học lịch sử, hiểu lịch sử, để góp
    phần làm người có ích.
    Giá trị của dạy học Lịch sử là những giá trị tinh thần, giá trị của ý thức
    truyền thống, của niềm tin, của tính nhân văn cao cả. Lịch sử là quá khứ, là nơi
    chứa đựng giá trị văn hóa, là nguồn dữ liệu để tham chiếu kinh nghiệm cha ông
    vào sự phát triển hôm nay. Nếu không có lịch sử không thể hiểu được vị trí của
    hiện tại, với ý nghĩa đó thì nếu lịch sử còn thì văn hóa còn, và văn hóa còn thì
    dân tộc còn.
    1.2. Thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trường THP
    Lâu nay việc dạy và học Lịch sử luôn được dư luận xã hội quan tâm, là
    giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT, Tôi thấy tồn tại
    nhiều vấn đề có những thuận lợi cũng như khó khăn.
    1.2.1. Về phía giáo viên
    Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT rất nhiệt tình,
    tận tâm trong giảng dạy, đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của bộ
    môn, đều có kiến thức chuyên môn đạt chuẩn, luôn có xu hướng tìm tòi, tích lũy
    kiến thức, tích cực đổi mới phương pháp dạy học sao cho thu hút học sinh.
    Giáo viên giảng dạy tại các trường THPT không tránh khỏi những áp lực
    lớn từ “căn bệnh thành tích” qua các cuộc thi, các kì thi, … với khối lượng kiến
    thức nhiều mà thời lượng dành cho bộ môn ít, nên dẫn tới thực trạng dạy học
    môn lịch sử ở một số trường trung học phổ thông chỉ là sự truyền thụ kiến thức
    một chiều, cung cấp kiến thức một cách thụ động, làm cho bài giảng trở nên khô
    khan dễ gây nên sự nhàm chán ở học sinh, hệ quả là làm cho học sinh không
    thích thú với việc học sử.Đồng thời giáo viên dạy Lịch sử cũng chưa nhận được
    sự quan tâm đúng mức của các cấp quản lý, phụ huynh học sinh về bộ môn.
    1.2.2. Về phía học sinh
    Đa số học sinh đều có thái độ tốt, hứng thú học tập với bộ môn, say mê
    sưu tầm các loại tài liệu tham khảo bổ sung cho học tập, một số học sinh có
    năng khiếu bộ môn có điều kiện để nghiên cứu chuyên sâu. Bên cạnh đó, nhiều
    em lại không hứng thú với môn Lịch sử cho nên vẫn chưa chủ động khám phá
    kiến thức, chưa chủ động lên kế hoạch học tập, đi học còn thiếu sách vở, không
    ghi chép bài, không làm bài tập, nhiều học sinh còn không nắm được kiến thức
    cơ bản….
    Thực tế có những em rất yêu thích lịch sử, học lịch sử rất tốt ở các năm
    học trước nhưng đến kỳ thi THPT quốc gia, các em đành phải lựa chọn một
    cách thực dụng để có thể đạt kết quả tốt nhất cho mục tiêu quan trọng nhất của
    tương lai – đó chính là việc xét tuyển ĐH. Rất nhiều trường ĐH, ngành nghề
    trên ĐH đã từ chối môn sử dù ai cũng có thể chỉ ra rằng môn sử rất quan trọng
    cho nghề nghiệp trong tương lai như báo chí, kiến trúc…, nên học sinh chẳng
    mấy quan tâm đến học lịch sử cũng là dễ hiểu.
    Môn sử chỉ còn xuất hiện trong tổ hợp bài thi xã hội để xét tốt nghiệp.
    Ngay chính trong bài tổ hợp xã hội này, môn sử lại tiếp tục bị thờ ơ vì nó là
    gánh nặng cho các em học sinh. Bài thi xã hội gồm có sử – địa – giáo dục công
    dân. Môn giáo dục công dân nội dung ôn tập nhẹ nhàng, môn địa lý có cứu cánh
    là Atlat thì môn sử gây lo sợ với khối lượng kiến thức quá nhiều. Cho nên sự
    lựa chọn của các thí sinh là học sơ sài, không có hệ thống nhằm mục tiêu không
    bị điểm liệt là đủ. Trong sự thờ ơ đó, nỗ lực của các giáo viên cũng như gió vào
    nhà trống và phổ điểm u ám đối với bộ môn lịch sử là một hệ quả tất yếu. Đối
    với học sinh khối 12, chương trình môn Lịch sử chiếm 1.5 tiết/tuần, lượng kiến
    thức khá nặng, chưa kể thi theo cấu trúc của Bộ GD-ĐT trong những năm qua
    có cả kiến thức lớp 11. Vì vậy, số lượng các em đăng kí thi THPT Quốc gia
    theo THXH và THTN có sự chênh nhau rất lớn ở một số trường, trong đó có
    trường Tôi đang giảng dạy.
    Trong bối cảnh học thực dụng như hiện nay, tình trạng học yếu môn lịch
    sử sẽ còn tiếp diễn trong các năm sau vì việc điều chỉnh độ khó, dễ của đề thi
    chỉ giải quyết được phần ngọn của vấn đề.
    1.3. Kết quả thi THPT Quốc gia
    1.3.1. Kết quả năm 2017
    Theo báo VietNamNet – Ngày 7/7/2017 – (Xem phụ lục 1)
    Theo đó, điểm trung bình của môn Lịch sử năm nay trên cả nước là 4.6
    điểm. Số thí sinh có điểm dưới trung bình là 315.957 TS – chiếm 61,9%. Số TS
    có điểm liệt (<=1 điểm) là 869 TS. Điểm số có nhiều TS đạt nhất là 4.0 điểm.
    Cả nước có 107 TS đạt điểm 10 môn Lịch sử. Số TS đạt từ 9 đến 9,75
    điểm là 3876 TS. Có 501 TS có điểm 0.
    1.3.2. Kết quả năm 2018
    Theo báo VietNamNet – Ngày 11/7/2018- (Xem phụ lục 2)
    Theo đó, điểm trung bình của môn Lịch sử năm nay trên cả nước là 3,79
    điểm. Số thí sinh có điểm dưới trung bình là 468.628 TS – chiếm 83,24%. Số
    TS có điểm liệt (<=1 điểm) là 1.277 TS. Điểm số có nhiều TS đạt nhất là 3,25
    điểm.
    Cả nước có 11 TS đạt điểm 10 môn Lịch sử. Số TS đạt từ 9 đến 9,75
    điểm là 658 TS. Có 527 TS có điểm 0.
    1.3.3. Kết quả thi năm 2019
    Theo báo VietNamNet – Ngày 15/7/2019- (Xem phụ lục 3)
    Trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2019, có 569.905 thí sinh dự thi môn
    Lịch sử (thuộc tổ hợp bài Khoa học Xã hội). Thống kê của Bộ GD&ĐT qua dữ
    liệu điểm thi THPT quốc gia 2019 cho thấy, số thí sinh có điểm dưới trung bình
    là 399.016 (chiếm 70,01%). Số thí sinh có điểm liệt (<=1 điểm) là 395. Môn
    Lịch sử có điểm trung bình là 4,3 và có 80 bài thi đạt điểm 10 trong cả nước.
    Như vậy, so với năm 2018, điểm trung bình của môn Lịch sử 2019 là 4,3,
    cao hơn năm 2018. Tuy nhiên, so với năm 2017, điểm thi năm 2018 thấp hơn
    (năm 2017 là 4,6 điểm).
    1.3.4. Kết quả thi năm 2020
    Theo báo VietNamNet – Ngày 27/8/2020- (Xem phụ lục 4)
    Trong kì thi THPT quốc gia năm 2020, có 553.987 thí sinh dự thi
    môn Lịch sử (thuộc tổ hợp bài Khoa học Xã hội). Thống kê của Bộ GD&ĐT
    qua dữ liệu điểm thi THPT quốc gia 2020 cho thấy, số thí sinh có điểm dưới
    trung bình là 260.074 (chiếm 46.95%). Số thí sinh có điểm liệt (<=1 điểm) là
    111 (chiếm 0,02%). Môn Lịch sử có điểm trung bình là 5,19 và có 371 bài thi
    đạt điểm 10 trong cả nước.
    Như vậy, so với những nămtrước đó (2017, 2018, 2019) điểm
    trung bình môn lịch sử năm 2020 là 5,19 – cao hơn.
    1.4. Nguyên nhân
    Theo kết quả công bố của Bộ giáo dục về điểm môn Lịch sử “rớt” một
    cách thê thảm qua các kì thi THPT quốc gia. Nhiều người sốc, cảm giác lo lắng
    trước điểm thi môn Sử nhưng lại không hề bất ngờ. Chẳng có gì là lạ và cũng
    đừng ai vội giật mình, dường như đây là câu chuyện “đến hẹn lại lên” của mỗi
    mùa thi lớn. Nhưng vì đâu mà nên cơ sự này?
    Trước hết, phải thừa nhận rằng, học môn Lịch sử khó và không hấp dẫn.
    Ðã là lịch sử, nhất thiết phải gắn với sự kiện, nhân vật và hiểu lịch sử nhất định
    phải nắm vững những sự kiện, nhân vật cơ bản, quan trọng trong suốt quá trình
    hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhưng
    chương trình do Bộ Giáo dục và Ðào tạo quy định là yêu cầu học sinh phải nắm
    được hầu như tất cả các nội dung về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới, trong
    khi đó, số tiết quy định quá ít. Mặt khác, do yêu cầu của chương trình, nội dung
    trong sách giáo khoa quá nặng, nội dung trong sách giáo khoa như một “đĩa
    nén”, đầy ắp thông tin mà học sinh không thể nhớ hết được, tôi cũng như nhiều
    thầy cô dạy Sử cho rằng quá nặng nề, chi tiết, bắt các em phải nhớ quá nhiều,
    cách kiểm tra vẫn là học thuộc lòng. Chúng ta vẫn giáo dục theo hướng tiếp cận
    nội dung mà chưa chuyển sang tiếp cận năng lực. Nhồi nhét một mớ kiến thức
    có sẵn vừa nặng về học thuộc ghi nhớ, vừa nặng về tuyên truyền mà không biết
    áp dụng vào đâu sẽ gây ra sự nhàm chán, dẫn đến tình trạng “học trước quên
    sau”. Dạy môn học này theo tôi là truyền cho học sinh tinh thần của dân tộc, cái
    hồn của núi sông, lòng biết ơn với tổ tiên qua những nhân vật lịch sử thì mới
    khắc sâu và đọng lại trong các em, gây sự hứng thú.
    Thứ hai: Lịch sử là một môn học cần có sự chăm chú và tư duy cao.
    Trước đây, đề thi không theo hình thức trắc nghiệm, thậm chí nhiều học sinh
    luồn lách giở tài liệu để quay cóp nên khá “ung dung”. Nhưng bây giờ thì khác,
    đề thi hiện nay đòi hỏi học sinh cần có cả nhận thức và kiến thức, trong khi môn
    Lịch sử vốn đã khó và thậm chí là cực khó khi đó là những kiến thức về lịch sử
    của cả dân tộc và nhân loại. Học vẹt, học tủ, học để chống đối cho qua điểm liệt
    đã không còn có tác dụng thậm chí là phản tác dụng.Đã đến lúc cần thẳng thắn
    nói với nhau rằng, quan niệm về Lịch sử là môn học thuộc lòng, máy móc đã
    hoàn toàn sai lầm. Hơn thế, Lịch sử là một môn khoa học cần tư duy và lập luận
    logic. Nếu không thay đổi cách học, cứ để học sinh mãi “lơ tơ mơ” về môn này,
    thì không bao giờ có kết quả cao được. Thực tế, để nhận thức một vấn đề lịch sử
    đòi hỏi học sinh có nền tảng lý luận và nhận thức tổng hợp, phân tích chuyên
    sâu.
    Ở một khía cạnh khác, do trình độ nhận thức về môn học này chưa được
    đúng đắn. Có thể thấy các em học sinh luôn xem Lịch sử là môn phụ và chỉ cần
    học thuộc lòng thì sẽ qua. Chính vì thế, thái độ học tập của các em chỉ là hình
    thức đối phó với thầy cô và góp phần “dung dưỡng” cho bệnh thành tích phát
    triển.
    Thứ ba:Giáo viên chưa đủ tâm huyết để gây hứng thú trong những giờ
    học Lịch sử, nhưng với 1,5 tiết/tuần thì thật khó, rồi khi có dự giờ, thao giảng,
    hội giảng, sinh hoạt chuyên môn cụm, hội thi giáo viên giỏi cấp trường, cấp
    tỉnh…, thật buồn là đồng nghiệp chỉ chăm chăm đánh giá giáo viên có truyền thụ
    hết kiến thức trong sách giáo khoa hay không, dạy còn thiếu ý này, ý khác, ý
    này là trọng tâm, ý kia là cơ bản, có liên hệ, có lồng ghép, có tích hợp, có giáo
    dục kiến thức, rèn kỹ năng, giáo dục thái độ tình cảm… để xếp loại tiết dạy chứ
    không xem học sinh có hiểu bài hay không?
    Thứ tư:Hệ quả của những định kiến và nhu cầu về mặt xã hội, đa số phụ
    huynh và học sinh đều xem nhẹ môn học này – nếu không muốn nói là xem
    thường. Vì cho rằng thực tế lịch sử học để biết vậy thôi chứ không ứng dụng gì
    trong nghề nghiệp tương lai sau này (chỉ cần thiết nếu học để đi dạy lịch sử
    hoặc nghiên cứu sử). Do vậy, phụ huynh chỉ đầu tư cho con học toán, lý,
    hóa…nhằm theo đuổi những ngành nghề đang hót của xã hội như kinh tế, ngân
    hàng, tài chính… để có thu nhập cao, kể cả các nhà tuyển dụng đều không có
    nhu cầu cao về việc học sinh phải học giỏi sử. Và khi khoa học lịch sử ít tiếng
    nói, cơ hôi tìm việc làm của những người giỏi sử ít đi thì môn Lịch sử sẽ không
    phải là sự lựa chọn. Theo đuổi đam mê và sự giàu có đó là ước mơ của mỗi con
    người, nói cách khác qui luật của cuộc sống là vậy.Trong bối cảnh xã hội Việt
    Nam hiện tại, xu hướng quy tất cả vào giá trị vật chất và lợi ích thực dụng đã
    khiến cho phụ huynh, học sinh không nhìn nhận ra bản chất đích thực và cuối
    cùng của giáo dục: tạo ra con người tốt đẹp có năng lực cải tạo xã hội và sống
    hạnh phúc.
    Vì thế, tất cả những gì không phục vụ trực tiếp việc thăng tiến vị trí và
    kiếm ra tiền đều bị gạt xuống hàng thứ yếu. Bên cạnh đó, quan điểm tuyển sinh
    thực dụng, học thực dụng, thi thực dụng cũng khiến môn Sử “yếu thế” hơn.
    Thay vì trước đây học môn gì thi môn đó thì nay, thi môn gì học môn đó. Cách
    học thực dụng dẫn đến sự chủ quan trong việc dạy học, chủ quan trong tiếp
    nhận kiến thức và chủ quan cả hình thức ra đề – thi trắc nghiệm các môn trong
    đó có Lịch sử.
    Thứ năm: Hình thức thi trắc nghiệm trong môn thi Lịch sử khiến các em
    nhác học hơn so với cách thi tự luận trước đây. Vào phòng thi chủ yếu đoán mò
    là nhiều, làm theo kiểu “phủ xanh đất trống, đồi trọc”, “chơi trò may rủi”, thậm
    chí trả lời theo linh cảm, chỉ cần qua điểm liệt, dừng ở mức đỗ tốt nghiệp mà
    thôi. Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên và cũng đừng đổ lỗi tại đề khó cho kết quả thấp,
    vì tư duy môn học vẹt nên nhận kết quả như vậy là điều tất nhiên. Rõ ràng, đó là
    kết quả buộc những người có tâm huyết với nền giáo dục nước nhà không thể
    vô cảm.
    Việc học và khai thác Lịch sử ở khía cạnh tư liệu về những điều đã diễn
    ra khiến Lịch sử trở thành một môn khoa học “chết”. Cần thổi một làn gió mới
    vào quá khứ đã qua, tôn trọng sự thật nhưng không có nghĩa là đóng khung tư
    duy trong những con số khô cứng. Lịch sử luôn cần là sự thật cũng như môn
    Lịch sử cần được học thật, thi thật, học bằng tất cả tình yêu với lịch sử nước nhà
    và sự phát triển của nhân loại từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến kinh nghiệm
    2.1. Định hướng phương pháp học và ôn thi
    Một trong những vấn đề mà đa số Thầy cô và các em học sinh quan tâm
    chính là phương pháp học và ôn môn lịch sử như thế nào hiệu quả nhất. Từ thực
    tế quá trình giảng dạy và nhiều năm ôn luyện thi THPT Quốc gia, Tôi nhận thấy
    tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện học tập, khả năng nhận thức, quỹ thời gian
    mà mỗi em học sinh lại có cho mình những phương pháp học khác nhau. Mỗi
    phương pháp đều có những ưu điểm – nhược điểm khác nhau mà không phải
    trong trường hợp nào cũng có thể vận dụng để đạt hiệu quả cao nhất. Do vậy,
    trong khuôn khổ của sáng kiến, Tôi sẽ đưa ra một số phương pháp học và ôn
    môn lịch sử, các em học sinh có thể tham khảo và chọn ra phương pháp học và
    ôn phù hợp nhất với bản thân và quỹ thời gian của mình.
    2.1.1. Xác định đúng mục tiêu, quyết tâm học tập, có kế hoạch cụ thể cho việc
    học
    Từ thực tế cho thấy, các em học sinh lựa chọn môn Lịch sử với quan
    điểm “học để thi”, số còn lại học vì đam mê. Vì vậy trước khi bắt đầu quá trình
    ôn tập, các em cần xác định rõ mục tiêu. Khi chọn môn Lịch sử để thi THPT
    Quốc gia và là một trong ba môn của tổ hợp KHXH để xét tuyển, các em cần
    xác định rõ đây là môn học khó nhất trong tổ hợp, cần được đầu tư nhiều thời
    gian và nhất thiết phải có người hướng dẫn trong suốt quá trình học. Các em
    nên đặt ra điểm số cần đạt cho bản thân để lấy đó làm động lực phấn đấu. Mỗi
    giai đoạn trong quá trình học đều nên kiểm tra lại khả năng của bản thân để xác
    định mục tiêu ở giai đoạn kế tiếp, nhất là ở giai đoạn nước rút. Việc kiểm tra có
    thể căn cứ vào làm các đề thi thử trên mạng, nhất là các trường chuyên hoặc đề
    minh họa của Bộ GD-ĐT.
    Cần xác định quyết tâm cao độ trong việc học, bởi nếu không có đam mê
    thì việc học môn khó như Lịch sử là điều nhiều em học sinh rất ngại. Trong quá
    trình học các em cần xây dựng thời gian biểu hợp lý và kiên quyết làm theo.
    Thông thường, các em sẽ tự chia thời gian biểu cho việc học của mình, tuy
    nhiên ngoài các môn khác, trong thời gian học chính khóa các em nên giành cho
    môn sử thời gian ít nhất một tiếng mỗi ngày để học. Đến giai đoạn nước rút, các
    em tăng tốc thì đã có một lượng kiến thức cơ bản tích lũy để làm nền tảng.
    2.1.2. Nắm vững kiến thức cơ bản
    Việc học và nắm vững kiến thức cơ bản của môn Lịch sử là vô cùng quan
    trọng, là chiếc chìa khóa để giải đáp tất cả những câu hỏi trong đề thi, nhưng
    nhiều em vẫn còn lúng túng trong việc lựa chọn cho mình một phương pháp
    nắm vững kiến thức cơ bản hiệu quả. Kiến thức cơ bản được coi như xương
    sống của một giai đoạn, tiến trình lịch sử. Trong SGK cơ bản lớp 12, toàn bộ
    các sự kiện, giai đoạn, nhân vật lịch sử đều được trình bày thành các bài theo lối
    thông sử hết sức cơ bản. Do vậy, cách tốt nhất để nắm kiến thức cơ bản là bám
    sát SGK, các em cũng cần xác định các phần giảm tải để loại bỏ nó ra khỏi
    chương trình học, bởi đấy được xem là kiến thức không cơ bản, hoàn toàn
    không có trong đề thi.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp nâng cao phẩm chất và năng lực học sinh trong giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT

    SKKN Một số biện pháp nâng cao phẩm chất và năng lực học sinh trong giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Lí do chọn đề tài
    Nghị quyết 29/NQ-TW của Hội nghị TW lần thứ 8, khóa XXI ngày 4/11/2013
    đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo nhằm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và
    đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong điều kiện
    nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; trong đó nhấn mạnh đến những vấn đề lớn,
    cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến nội dung, phương pháp, cơ
    chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện. Một trong những quan điểm chỉ đạo
    của Nghị quyết cũng đã nhấn mạnh “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân
    trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
    yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
    Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với
    giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” và “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để
    phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu
    hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.”
    Thực hiện theo nghị quyết 29 – NQ/TW, Bộ giáo dục và đào tạo đã ra công
    văn 5555 / BGDĐT-GDTrH ngày 8/10/2014 V/v hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn
    về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lý các hoạt
    động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua
    mạng…tạo ra sự thay đổi lớn trong Ngành giáo dục và đạo tạo về phương pháp
    giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh ở các cấp học và ngành học.
    Trong Nghị quyết 88/2014/QH XIII ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi
    mới chương trình sách giáo khoa phổ thông đã đặt ra mục tiêu đổi mới là “kết hợp
    dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục
    nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm
    chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi
    học sinh.”
    Tiếp tục cụ thể hóa quan điểm đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục, Thủ
    tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/03/2015
    2
    cũng đề ra mục tiêu cho nền giáo dục là “tăng cường tương tác, phát huy tính
    tích cực, chủ động và tạo cảm hứng học tập cho học sinh; tạo điều kiện cho học
    sinh dần nâng cao năng lực tự học hỏi, tìm tòi, hiểu biết môi trường, cuộc sống
    xung quanh và rèn luyện các kỹ năng sống, làm việc”.
    Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 của Bộ giáo dục và đào tạo
    cũng đã định hướng hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ
    yếu sau: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Những năng lực
    chung như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải
    quyết vấn đề và sáng tạo.
    Môn Lịch sử là một môn học có vai trò quan trọng góp phần hình thành những
    phẩm chất và năng lực học sinh. Chương trình môn Lịch sử góp phần hình thành
    cho học sinh những thành phần năng lực đặc thù sau:
    3
    Tìm hiểu lịch sử: Học sinh bước đầu nhận diện được các loại hình tư liệu lịch
    sử; hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình
    học tập. Tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các
    sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các sự
    kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể.
    Nhận thức và tư duy lịch sử: Học sinh giải thích được nguồn gốc, sự vận động
    của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển
    của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các
    sự kiện lịch sử, lí giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử. Đưa ra
    được những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá
    trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay
    đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh
    giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử.
    Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học: Học sinh bước đầu có thể rút ra được bài
    học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử để lí giải những vấn đề của thực
    tiễn cuộc sống; trên nền tảng đó, có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử,
    phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông tin từ những nguồn
    khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời.
    Trong những năm qua, từ thực tiễn chỉ đạo của các cấp, từ TW đến các cấp
    cơ sở, bản thân tôi nhận thức rằng cần phải thay đổi về phương pháp dạy học, gắn
    lí luận với thực tiễn, chuyển từ lối truyền thu kiến thức sang dạy học tích cực nhằm
    phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Để góp phần đổi mới phương pháp dạy
    học, đổi mới kiểm tra đánh giá đối với môn Lịch sử, tôi mạnh dạn đề xuất “MỘT SỐ
    BIỆN PHÁP NÂNG CAO PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG
    GIẢNG DẠY MÔN LỊCH SỬ LỚP Ở TRƯỜNG THPT”
    Đây là SKKN được đúc rút trong thực tiễn giảng dạy cho học sinh cấp THPT môn
    Lịch sử Trường THPT C Hải Hậu. Tôi hi vọng, với đề tài SKKN này sẽ là kênh tham
    khảo cho giáo viên và học sinh trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử hiện nay ở trường
    THPT.
    4
    2. Mục đích của sáng kiến
    – Đánh giá thực trạng việc dạy học môn Lịch sử hiện nay ở Trường THPT C Hải
    Hậu
    – Nêu ra một số giải pháp đã được thực hiện trong giảng dạy môn Lịch sử ở
    trường THPT C Hải Hậu nhằm phát triển phẩm chất và năng lực học sinh.
    – Chia sẻ với đồng nghiệp về một số giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất và
    năng lực học sinh qua giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT.
    3. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
    -Đưa ra một số giải pháp kinh nghiệm tronggiảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT
    theo tinh thần đổi mới chương trình GDPT 2018.
    – Phát triển cho học sinh các phẩm chất, năng lực môn Lịch sử trong chương trình Lịch sử
    ởtrường THPT
    4. Đóng góp của sáng kiến
    Để góp phần đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp ôn thi môn
    Lịch sử nói riêng ở trường THPT, phát triển về phẩm chất, năng lực học sinh nâng cao
    chất lượng dạy học môn Lịch sử “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO PHẨM
    CHẤT VÀ NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN LỊCH SỬ Ở
    TRƯỜNG THPT” là một đề tài SKKN có tính thực tiễn cao, có thể được áp dụng
    hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử ở các tỉnh thành trên cả nước.
    PHẦN II: GIẢI PHÁP
    1. Thực trạng của việc giảng dạy Lịch sử ở trường THPT C Hải Hậu.
    * Về phía giáo viên:
    Trong những năm qua, để đáp ứng nhu cầu ôn thi THPT quốc gia và thi Đại
    học, các thầy cô trong trường đã tích cực giảng dạy nhằm trang bị cho học sinh các
    kiến thức cần thiết về nội dung để phục vụ cho việc thi cử, lên lớp, tốt nghiệp…mà
    chưa đi sâu vào việc phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh, chưa thực sự
    có những phương pháp phù hợp và tích cực trong giảng dạy, từ đó chưa khơi dậy
    được niềm đam mê yêu thích thực sự với bộ môn lịch sử.
    Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy
    học, chưa chú trọng đến việc phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, còn nặng
    5
    về dạy học theo lối truyền thống, khiến giờ học Lịch sử trở nên khô cứng, kém
    hứng thú đối với học sinh.
    * Về phía học sinh:
    Đa số các em học Lịch sử còn là do yêu cầu bắt buộc của việc thi tốt nghiệp,
    thực sự bản thân chưa có sự yêu thích đối với bộ môn, nhiều học sinh có tư tưởng
    học một cách miễn cưỡng do vậy học sinh chưa phát huy được những phẩm chất
    và năng lực của bộ môn . Ví dụ như:Năng lực tìm tòi và khám phá Lịch sử; Năng
    lực nhận thức và tư duy lịch sử; Năng lực vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực
    tiễn…
    Do vậy, thông qua bộ môn Lịch sử, học sinh chưa có định hướng lựa chọn
    nghề nghiệp, trân trọng những di sản lịch sử, văn hóa của đất nước, khu vực và thế
    giới và cũng chưa thể hiện được những phẩm chất và năng lực của bản thân. Vậy
    làm thế nào để trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT, thầy cô
    giáo có thể khơi dậy được ngọn lửa đam mê, phát triển được cao nhất phẩm chất
    và năng lực của học sinh?
    2. Những giải pháp đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển phẩm
    chất và năng lực của học sinh.
    Vậy cần hiểu thế nào về những phẩm chất và năng lực của học sinh có thể phát
    triển trong quá trình dạy học Lịch sử.
    – Về phẩm chất: 5 phẩm chất đó là: nhân ái, yêu nước, chăm chỉ, trung thực, trách
    nhiệm.
    – Về năng lực: 10 năng lực đó là:
    Những năng lực chung, được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần
    hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác,
    năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    Những năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một
    số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm
    hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất.
    Năng lực đặc thù của bộ môn Lịch sử là: Tìm hiểu lịch sử, Nhận thức và tư duy
    lịch sử,Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học
    6
    Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển phẩm chất năng lực của học
    sinh thực chất là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng chuyển từ chương trình
    giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
    quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được
    cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương
    pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng
    kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc
    học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có
    ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những
    tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề
    học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
    Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
    phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
    tin…), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
    Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc
    thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào cũng
    phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức
    với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
    Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy
    học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình
    thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài
    lớp… Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu
    cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng
    thú cho người học.
    Cần sử dụng đủ và hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui định.
    Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học
    và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong
    dạy học.
    7
    2.1. Phương pháp đồ dùng trực quan, đặc biệt là công nghệ thông tin trong
    quá trình dạy học
    2.1.1. Mục đích sử dụng
    Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp
    dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học.
    Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông
    từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo
    viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ
    thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện
    đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần
    tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử
    dụng mạng điện tử (E-Learning), mạng trường học kết nối, video, …
    Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã Phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công
    nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy – học, nghiên cứu khoa
    học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 – 2020, định
    hướng đến năm 2025” Việc sử dụng công nghệ thông tin như giáo án điện tử,
    video…đã trở thành một phương tiện hữu hiệu cho giáo viên sử dụng trong quá
    trình giảng dạy góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giờ dạy học
    Lịch sử nói riêng và các tiết dạy trong các môn học khác nói chung.
    Môn học Lịch sử là một môn học liên quan nhiều đến quá khứ, do vậy nó đòi
    hỏi giáo viên phải tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan sinh động, đặc biệt là
    công nghệ thông tin. Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức không phải là sự phản
    ánh thụ động, giản đơn, mà là một quá trình biện chứng. Như Lênin đã chỉ ra: “Từ
    trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó
    là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực
    khách quan”Việc vận dụng phương pháp dạy học qua phương tiện trực quan sẽ
    giúp giáo viên hình thành ở học sinh các năng lực : Tìm hiểu lịch sử, Nhận thức,
    tư duy lịch sử.
    2.1.2. Cách thức sử dụng
    8
    VD. Khi giảng dạy về Bài 3+4: Chuyên đề Các quốc gia cổ đại phương
    Đông và phương Tây trong chương trình Lịch sử lớp 10 THPT
    Đây là bài giảng về thời cổ đại, cách ngày nay đã mấy nghìn năm lịch sử, học
    sinh sẽ rất khó hình dung lại quá khứ, do vậy giáo viên cần sử dụng tư liệu Lịch sử
    bằng hình ảnh để minh họa cho học sinh hiểu được một cách trung thực và khách
    quan về những thành tựu văn hóa của người phương Đông và phương Tây, để từ
    đó đưa ra được những nhận xét đánh giá một cách công bằng, khách quan nhất về
    nền văn hóa của hai khu vực.
    Văn hóa cổ đại phương Đông và văn hóa cổ đại phương Tây
    – Hoạt động 1: Văn hóa cổ đại phương Đông
    * Mục tiêu: Trình bày được một số thành tựu văn hoá cổ đại phương Đông, giúp
    học sinh nhận thức được những giá trị văn hóa của người phương Đông cổ đại và
    đóng góp của họ cho nhân loại hôm nay.
    Giáo dục học sinh thái độ trân trọng các giá trị văn hóa cổ đại.
    * Phương thức hoạt động: Giáo viên cho học sinh làm việc theo nhóm
    Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh:
    Nhóm 1: Quan sát hình 1 và kết hợp tìm hiểu SGK trình bày sự hiểu biết của người
    phương Đông về lịch học và thiên văn học.Nhận xét và đánh giá về ý nghĩa những
    thành tựu đó.
    Nhóm 2: Quan sát hình 2 và kết hợp tìm hiểu SGK trình bày sự hiểu biết của người
    phương Đông về chữ viết. Nhận xét và đánh giá vềý nghĩa về những thành tựu đó.
    Nhóm 3: Quan sát hình 3 và kết hợp tìm hiểu SGK trình bày sự hiểu biết của người
    phương Đông về Toán học. Nhận xét và đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu
    đó.
    Nhóm4: Quan sát hình 4,5 và kết hợp tìm hiểu SGK trình bày sự hiểu biết của
    người phương Đông về kiến trúc. Nhận xét và đánh giá về ý nghĩa những thành
    tựu đó.
    9
    Hình 1. Lịch học của người Maya- một thành tựu văn minh tuyệt vời
    Hình 2. Chữ viết của người phương Đông cổ đại.
    10
    Hình 3. Toán học thời cổ đại
    Hình 4. Vườn treo Ba-bi-lon (Lưỡng Hà)
    11
    Hình 5. Kim tự tháp ở Ai Cập
    * Gợi ý sản phẩm
    Nhóm 1: Sự ra đời của lịch và thiên văn học
    – Nguyên nhân :Thiên văn học và lịch là 2 ngành khoa học ra đời sớm nhất, gắn
    liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp.
    + Để cày cấy đúng thời vụ, người nông dân đều phải “trông Trời, trông Đất”. Họ
    quan sát chuyển động của mặt Trăng, mặt Trời và từ đó sáng tạo ra lịch.
    + Nông lịch (lịch nông nghiệp), lấy 365 ngày là một năm và chia làm 12 tháng, họ
    biết chia mùa: mùa mưa, mùa khô, họ chia mỗi ngày thành 24 giờ
    + Mở rộng hiểu biết: Con người đã vươn tầm mắt tới trời, đất, trăng, sao vì mục
    đích làm ruộng của mình và nhờ đó đã sáng tạo ra hai ngành thiên văn học và phép
    tính lịch
    Nhóm 2: Chữ viết
    + Nguyên nhân: Chữ viết ra đời là do xã hội ngày càng phát triển, các mối quan
    hệ phong phú, đa dạng. Hơn nữa do nhu cầu ghi chép, cai trị, lưu giữ những kinh
    nghiệm mà chữ viết đã ra đời.
    + Ban đầu là chữ tượng hình, sau đó là tượng ý, tượng thanh.
    12
    Chữ viết xuất hiện vào thiên niên kỷ thứ IV TCN mà sớm nhất là ở Ai Cập và
    Lưỡng Hà. Ban đầu là chữ tượng hình (vẽ hình giống vật để biểu thị), sau này
    người ta cách điệu hóa chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để
    phản ánh ý nghĩa con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý.
    + Chất liệu: Người Ai Cập viết trên giấy pa- pi- rút (vỏ cây sậy cán mỏng), người
    Lưỡng Hà viết trên đất sét rồi đem nung khô, người Trung Quốc viết trên mai rùa,
    thẻ tre, trúc hoặc trên lụa bạch,…
    – Ý nghĩa sự ra đời của chữ viết: Đây là phát minh quan trọng nhất, nhờ nó mà
    chúng ta hiểu được phần nào lịch sử thế giới cổ đại.
    Nhóm 3: Toán học
    – Nguyên nhân ra đời: Do nhu cầu tính lại diện tích ruộng đất sau khi bị ngập
    nước, tính toán vật liệu và kích thước khi xây dựng các công trình xây dựng, tính
    các khoảng nợ nần nên toán học.
    + Thành tựu: Người Ai Cập giỏi về tính hình học, họ đã biết cách tính diện tích
    hình tam giác, hình thang,… họ còn tính được số Pi bằng 3,16 (tương đối),… Người
    Lưỡng Hà hay đi buôn xa giỏi về số học, hoc có thể làm các phép tính nhân, chia
    cho tới hàng triệu. Người Ấn Độ phát minh ra số 0,…
    Nhóm 4: Kiến trúc
    – Nguyên nhân ra đời: Do uy quyền của các nhà vua mà hàng loạt các công trình
    kiến trúc đã ra đời: Kim tự tháp Ai Cập, vườn treo Ba-bi-lon…
    – Kim tự tháp: Ra đời 3000 – 2000 năm TCN rải rác ở xa mạc, hạ lưu sông Nin.
    Cao khoảng 146,5 m gần bằng tòa nhà 50 tầng, cạnh 230 m, diện tích 52,9 m vuông.
    Được xây 30 vạn tảng đá, mỗi tảng 2,5 đến 7 tấn xếp chồng khít lên nhau.
    – Giữa có hành lang hẹp, phòng lớn có xác ướp Pharaon, có khắc chữ khoa học…
    Những công trình này là những kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của
    con người.
    Hoạt động 2. Tìm hiểu về văn hóa cổ đại Hi Lạp, Rô-ma
    * Mục tiêu: HS nắm được các thành tựu nổi bật của văn hóa Hi Lạp, Rô-ma thời
    cổ đại và ý nghĩa lịch sử của các thành tựu đó.
    13
    So sánh đánh giá về sự phát triển và tính kế thừa, tính sáng tạo của văn hóa phương
    Tây so với phương Đông
    * Phương thức: Hoạt động: Nhóm/lớp
    – Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm và giao nhiệm vụ:
    Quan sát các hình ảnh sau và làm việc theo nhóm
    Hình 1. Lược đồ quốc gia cổ đại Hi Lạp và Rô-ma
    Hình 2. Thuyết địa tâm của Ptôlêmê
    14
    Hình 3. Chữ cái La tinh
    Hình 4. Đền Pác-tê-nông (Hi Lạp)
    15
    Hình 5. Tượng người lực sĩ ném đĩa.
    Hình 6. Khải hoàn môn La Mã
    16
    Hình 7.Đấu trường Cô-li-dê
    Nhóm 1:
    – Câu hỏi:Quan sát hình 2,3 đọc tư liệu SGK trình bày những hiểu biết của cư
    dân Địa Trung Hải về lịch và chữ viết? So với cư dân cổ đại phương Đông có gì
    tiến bộ hơn? Ý nghĩa của việc phát minh ra chữ viết?
    Nhóm 2:
    – Trả lời câu hỏi: Trình bày những hiểu biết về các lĩnh vực khoa học của cư dân
    Địa Trung Hải? Tại sao nói: “Khoa hoạc đã có từ lâu nhưng đến Hi Lạp, Rô-ma,
    khoa học mới thực sự trở thành khoa học” ?
    Nhóm 3:
    – Câu hỏi:Quan sát hình 4,5,6,7 đọc tư liệu SGK trình bày những hiểu biết của cư
    dân Địa Trung Hải về văn học- nghệ thuật? So với cư dân cổ đại phương Đông
    những thành tựu về văn học, nghệ thuật của cư dân cổ đại Địa Trung Hải? Nhận
    xét về giá trị của các tác phẩm văn học và nghệ thuật Hi Lạp, Rô-ma?
    * Dự kiến sản phẩm:
    Nhóm 1: Lịch và chữ viết
    17
    + Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời. Nhờ đi
    biển, họ đã thấy Trái Đất không phải như cái đĩa mà như hình quả cầu tròn. Người
    Rô-ma đã tính được 1 năm có 365 ngày và ¼ nên họ định 1 tháng lần lượt có 30
    và 31 ngày, riêng tháng 2 có 28 ngày.
    + Cuộc sống bôn ba trên biển, trình độ phát triển của nền kinh tế đã đặt ra cho cư
    dân Địa Trung Hải nhu cầu sáng tạo ra chữ viết gồm các kí hiệu đơn giản, nhưng
    phải có khả năng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩ của con người.
    Hệ thống chữ cái ra đời, ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ
    cái hoàn chỉnh ngày nay.
    Nhận xét: Lịch học cư dân Địa Trung Hải đã nâng cao hiểu biết, rút kinh nghiệm
    và cải tiến lịch chính xác hơn (một năm có 365 ngày và ¼, mỗi tháng lần lượt có
    30, 31 ngày, riêng tháng 2 có 28 ngày).
    – Chữ viết: đạt trình độ khái quát hóa của khoa học và tư duy, là cống hiến lớn lao
    của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.
    Nhóm 2: Sự ra đời của khoa học
    + Những hiểu biết khoa học đã có từ hàng nghìn năm trước. Nhưng phải đến thời
    Hi Lạp, Rô-ma, những hiểu biết đó mới thực sự trở thành khoa học.
    +Toán học: Với người Hi Lạp, toán học đã vượt lên trên việc ghi chép và giải các
    bài riêng biệt. Những nhà toán học mà tên tuổi vẫn còn lại đến ngày nay, để lại
    những định lí, định đề có giá trị khái quát cao.
    VD: Định lí nổi tiếng trong hình học của Ta-lét, những cống hiến của trường phái
    Pi-ta-go về tính chất của các số nguyên và định lí về các cạnh của tam giác vuông…
    sau nhiều thế kỉ vẫn là những kiến thức cơ sở của Toán học.
    + Vật lý: Phát minh về lực đẩy, ròng rọc, guồng nước, đòn bẩy …(Acsimet)
    – Giải thích: Thời Hy Lạp, Rô-ma, khoa học mới thực sự trở thành khoa học vì có
    độ chính xác của khoa học, được khái quát thành định lý, định luật, lí thuyết và
    được thực hiện bởi các nhà khoa học có tên tuổi, đặt nền móng cho ngành khoa
    học đó
    Nhóm 3: Văn học – Nghệ thuật
    Văn học:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học theo định hướng giáo dục STEM môn Công nghệ 11

    SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học theo định hướng giáo dục STEM môn Công nghệ 11

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIÊN, HOAN CANH TAO RA SANG KIÊN
    Dạy học truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ
    lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản, phương pháp DH này lấy
    hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire – nhà xã hội học, nhà giáo dục học
    nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là “Hệ thống ban phát kiến thức”, là quá trình
    chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo viên là người
    thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri thức” sống, học sinh là người nghe, nhớ, ghi chép
    và suy nghĩ theo. Với PPDH truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh
    là khách thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường
    thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm của kiến thức nên nội dung bài
    dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính logic cao. Song do quá đề
    cao người dạy nên nhược điểm của PPDH truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu
    kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ
    năng thực hành của người học; do đó kỹ năng hành dụng vào đời sống thực tế bị
    hạn chế.
    Rào cản lớn nhất trong nền giáo dục truyền thống là sự tách rời giữa bốn lĩnh
    vực quan trọng: Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật, Toán học. Sự tách rời này sẽ tạo ra
    khoảng cách lớn giữa học và làm, giữa nhà trường (nơi sử dụng nguồn nhân lực). HS
    đươc đào tạo theo mô hình truyền thống sẽ mất một khoảng thời gian dài để hiểu các
    cơ sở lí thuyết, nguyên lí, rồi chuyển chúng thành các ứng dụng thực tế trong khi kiến
    thức đã bị mài mòn. Hơn nữa, tư duy liên kết các sự vật, hiện tượng với các ứng dụng
    và kì thuật cũng rất hạn chế. Đây cũng chính là lí do mà HS Việt Nam, sau khi tốt
    nghiệp, khó có thể tìm kiếm được công việc phù hợp.
    Mặt khác, theo luật giáo dục 2005 – điều 28 mục 2 có nêu “ Phương pháp
    giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
    sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
    học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
    tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” thì dạy
    học theo định hướng STEM là một giải pháp phát huy năng lực tự học, hợp tác, sáng
    tạo của người học để quá trình học tập đạt hiệu quả nhất đồng thời rèn luyện kĩ năng
    vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
    Đặc biệt, kiến thức môn Công nghệ 11 có rất nhiều ứng dụng trong thực tiễn.
    Tuy nhiên, HS còn chưa hứng thú với môn học do có tâm lý môn Công nghệ là môn
    không thi, nên việc áp dụng dạy học phù hợp là hết sức cần thiết. Từ đó, tôi đưa ra
    3
    sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo định hướng
    giáo dục STEM môn Công nghệ 11”.
    II. MÔ TA GIAI PHAP
    II.1. Mô ta giai phap trươc khi tao ra sang kiên
    a. Thuận lợi
    Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn
    (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học như
    các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập
    gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa
    học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn. Giáo dục STEM sẽ phá
    đi khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo ra những con người có năng lực làm việc
    “tức thì” trong môi trường làm việc có tính sáng tạo cao với những công việc đòi hỏi
    trí óc của thế kỷ 21. Điều này phù hợp với cách tiếp cận tích hợp trong Chương trình
    GDPT mới. Vì thế, tư tưởng này của giáo dục STEM cần được khai thác và đưa vào
    mạnh mẽ trong Chương trình GDPT mới.
    Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết
    vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt trước
    một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa
    học.Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc
    các môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm,
    thiết bị công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra. Các kiến thức và kỹ
    năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau giúp học sinh không chỉ
    hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong
    cuộc sống hằng ngày. Tư tưởng này của giáo dục STEM cũng cần được khai thác và
    đưa vào mạnh mẽ trong Chương trình GDPT mới.
    Giáo dục STEM đề cao một phong cách học tập mới cho người học, đó là
    phong cách học tập sáng tạo. Đặt người học vào vai trò của một nhà phát minh, người
    học sẽ phải hiểu thực chất của các kiến thức được trang bị; phải biết cách mở rộng
    kiến thức; phải biết cách sửa chữa, chế biến lại chúng cho phù hợp với tình huống có
    vấn đề mà người học đang phải giải quyết. Sự thẩm thấu kiến thức theo cách như vậy
    chính là một trong những định hướng mà giáo dục cần tiếp cận. Tuy vậy, có thể thấy
    phương thức dạy học như trên là không hề dễ dàng ngay cả đối với thế giới chứ không
    chỉ riêng trong điều kiện hiện nay của chúng ta.
    Giáo dục STEM còn tạo cơ hội phát triển nâng cao chất lượng giáo dục.
    b. Kho khăn
    Do chưa “chương trình hóa” giáo dục STEM nên giáo viên rất khó khăn trong
    việc tổ chức các nội dung, chủ đề sao cho vừa đảm bảo yêu cầu của chương trình giáo
    dục phổ thông, vừa vận dụng được giáo dục STEM.
    Trình độ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu khi giáo dục STEM cũng là một
    thách thức lớn. Giáo viên tốt nghiệp sư phạm chưa được tiếp cận về giáo dục STEM,
    chủ yếu tập trung giảng dạy về khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội, ít quan
    4
    tâm đến các lĩnh vực như công nghệ, kỹ thuật… Vì vậy, để thực hiện chương trình,
    cần thiết phải bồi dưỡng giáo viên.
    Cách kiểm tra, đánh giá hiện nay còn là rào cản trong giáo dục STEM. Việc
    kiểm tra, đánh giá hiện nay ở trường phổ thông được tổ chức theo hình thức làm bài thi
    trắc nghiệm kiểm tra kiến thức, kỹ năng, trong khi kiểm tra, đánh giá theo mô hình
    giáo dục STEM là thông qua sản phẩm, đánh giá quá trình. Vì vậy, nếu không đổi mới
    kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực thì đó sẽ là rào cản lớn nhất của việc
    triển khai giáo dục STEM.
    Giáo dục STEM chỉ đạt hiệu quả khi có sự phối hợp tốt giữa trường phổ thông
    với các trường đại học trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho
    giáo viên. Hiện nay chưa có sự phối hợp tốt giữa trường phổ thông với trường đại học
    và các viện nghiên cứu, tổ chức, doanh nghiệp.
    Quan trọng nhất là điều kiện cơ sở vật chất hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
    đề ra khi triển khai giáo dục STEM. Sĩ số mỗi lớp học quá đông cũng gây khó khăn
    cho tổ chức hoạt động, cản trở việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.
    Không có phòng học STEM hoặc phòng thực hành để học sinh có nơi làm việc nhóm,
    nghiên cứu, thí nghiệm cũng là một khó khăn. Ngoài ra, với các nội dung học tập
    chuyên sâu hơn như khoa học máy tính, robotic, lập trình thì cần đầu tư kinh phí lớn
    hơn.
    II.2. Giai phap sau khi co sang kiên
    II.2.1. Phân môt: Cơ sở lý luận
    1. STEM là gì?
    Giáo dục STEM vận dụng phương pháp học tập chủ yếu dựa trên thực hành và
    các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Các phương pháp giáo dục tiến bộ, linh hoạt nhất
    như Học qua dự án – chủ đề, Học qua trò chơi và đặc biệt phương pháp h ọc qua hành
    luôn dduowwjc áp dụng triệt để cho các môn học tích hợp STEM. Với phương pháp
    “học qua hành”, HS được thu nhận kiến thức từ kinh nghiệm thực hành chứ không
    phải từ lí thuyết. Bằng cách xây dựng các bài giảng theo chủ đề và dựa trên thực hành,
    HS sẽ hiểu sâu về lí thuyết, nguyên lí thông qua các hoạt động thực tế. Chính các hoạt
    động thực tế này sẽ giúp HS nhớ lâu hơn. HS sẽ được làm việc theo nhóm, tự thảo
    luận tìm tòi kiến thức, tự vận dụng kiến thức vào các hoạt động thực hành rồi sau đó
    có thể truyền đạt lại kiến thức cho người khác. Với cách học này, GV không còn là
    người truyền đạt kiến thức mà sẽ là người hướng dẫn để HS tự xây dựng kiến thức cho
    mình.
    Giao duc STEM là gi?
    Giáo dục STEM về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức
    và kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán
    học. Các kiến thức và kỹ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau,
    giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể thực hành và tạo ra được
    những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục STEM sẽ thu hẹp khoảng cách
    giữa hàn lâm và thực tiễn, tạo ra những con người có năng lực làm việc “tức thì” trong
    môi trường có tính sáng tạo cao và sử dụng trí óc có tính chất công việc ít lặp lại trong
    thế kỷ 21.
    5
    Cac kỹ năng STEM được hiểu như thê nào?
    Giáo dục STEM không phải là để học sinh trở thành những nhà toán học, nhà
    khoa học, kỹ sư hay những kỹ thuật viên mà là phát triển cho học sinh các kỹ năng có
    thể được sử dụng để làm việc và phát triển trong thế giới công nghệ hiện đại ngày nay.
    Vâng, đó chính là kỹ năng STEM. Kỹ năng STEM được hiểu là sự tích hợp, lồng ghép
    hài hòa từ bốn nhóm kỹ năng là: Kỹ năng khoa học, kỹ năng công nghệ, kỹ năng kỹ
    thuật và kỹ năng toán học.
    Kỹ năng khoa học: là khả năng liên kết các khái niệm, nguyên lý, định luật và
    các cơ sở lý thuyết của giáo dục khoa học để thực hành và sử dụng kiến thức này để
    giải quyết các vấn đề trong thực tế.
    Kỹ năng công nghệ: Là khả năng sử dụng, quản lý, hiểu biết, và truy cập được
    công nghệ. Công nghệ là từ những vật dụng hằng ngày đơn giản nhất như quạt mo, bút
    chì đến những hệ thống sử dụng phức tạp như mạng internet, mạng lưới điện quốc gia,
    vệ tinh… Tất cả những thay đổi của thế giới tự nhiên mà phục vụ nhu cầu của con
    người thì được coi là công nghệ.
    Kỹ năng kỹ thuật: Là khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn diễn ra trong cuộc
    sống bằng cách thiết kế các đối tượng, hệ thống và xây dựng các quy trình sản xuất để
    tạo ra đối tượng. Hiểu một cách đơn giản, học sinh được trang bị kỹ năng kỹ thuật là
    có khả năng sản xuất ra đối tượng và hiểu được quy trình để làm ra nó. Học sinh phải
    có khả năng phân tích, tổng hợp và kết hợp để biết cách làm thế nào cân bằng các yếu
    tố liên quan (như khoa học, nghệ thuật, công nghệ, kỹ thuật) để có được một giải pháp
    tốt nhất trong thiết kế và xây dựng quy trình. Ngoài ra, học sinh còn có khả năng nhìn
    nhận ra nhu cầu và phản ứng của xã hội trong những vấn đề liên quan đến kỹ thuật.
    Kỹ năng toan học: Là khả năng nhìn nhận và nắm bắt được vai trò của toán học
    trong mọi khía cạnh tồn tại trên thế giới. Học sinh có kỹ năng toán học sẽ có khả năng
    thể hiện các ý tưởng một cách chính xác, áp dụng các khái niệm và kĩ năng toán học
    vào cuộc sống hằng ngày.
    Giao duc STEM còn cung cấp những kỹ năng gi?
    Ngoài những kỹ năng về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, giáo dục
    STEM còn cung cấp cho học sinh những kỹ năng cần thiết giúp học sinh phát triển tốt
    trong thế kỷ 21 như: kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, kỹ năng cộng tác, kỹ
    năng giao tiếp…
    Kỹ năng giải quyết vấn đề là kỹ năng rất cần cho học sinh trong thế kỷ 21, thế kỷ mà
    số lượng các công việc có tính chất sáng tạo và không lặp đi lặp lại tăng mạnh, đòi hỏi
    người lao động phải chủ động trang bị năng lực giải quyết vấn đề. Tư duy phản biện
    được hiểu là một quá trình tư duy và phân tích thông tin theo một hướng khác của một
    vấn đề để từ đó làm sáng tỏ và khẳng định lại vấn đề. Đây thực sự là một cách tiếp cận
    tốt trong giáo dục mà vốn từ xưa tới nay, học sinh tiếp nhận thông tin, kiến thức từ
    giáo viên một cách thụ động. Tư duy phản biện sẽ giúp học sinh hiểu vấn đề sâu hơn,
    hình thành lối suy nghĩ logic và kỹ năng xử lý thông tin tốt hơn. Kỹ năng cộng tác và
    giao tiếp cũng là các kỹ năng vô cùng quan trọng để phát triển trong thế kỷ 21 bởi các
    công việc ngày càng đòi hỏi sự chia sẻ, giao tiếp và các kỹ năng này sẽ khiến vấn đề
    được giải quyết một cách nhanh chóng, trôi chảy và mang lại hiệu quả cao.
    Vai trò của Công nghệ (T) và Kỹ thuật (E)
    6
    Chương trình giáo dục của thế kỷ 20 chủ yếu tập trung vào Khoa học (S) và Toán
    học (M) mà xem nhẹ vai trò của Công nghệ (T) và Kỹ thuật (E). Không chỉ cần Toán
    học và Khoa học, trong thế kỷ 21 chúng ta còn cần Công nghệ và Kỹ thuật cũng như
    các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, làm việc theo
    nhóm, và cộng tác. Các kỹ năng về kĩ thuật cho phép học sinh có thể tiếp cận những
    phương pháp, nền tảng để thiết kế và xây dựng các thiết bị từ đơn giản đến phức tạp
    mà xã hội cần hoặc đã và đang sử dụng. Học sinh được cung cấp các kiến thức về công
    nghệ sẽ có khả năng sử dụng công nghệ thành thạo, đem lạitính hiệu quả cao hơn,
    nhanh hơn, chính xác trong công việc. Nếu nền giáo dục không có T and E thì học sinh
    chỉ được trang bị lý thuyết, khái niệm, nguyên lý, công thức, định luật mà không được
    trang bị kiến thức để áp dụng vào thực tiễn. Vì vậy, việc kết hợp các kỹ năng STEM
    ngày càng trở nên quan trọng trong thế kỷ 21.
    Môn học STEM là gì?
    STEM là môn học mà học sinh được học các kiến thức về khoa học, công nghệ,
    kỹ thuật và toán học một cách tích hợp. Thông thường, các môn học STEM được thiết
    kế ở dạng chủ đề và học sinh được học kiến thức tích hợp dựa trên các chủ đề này. Ví
    dụ, khi học một chủ đề về hệ mặt trời, học sinh không chỉ đơn thuần học về khoa học
    để nghiên cứu xem hệ mặt trời gồm những thành phần nào hay đặc điểm của chúng ra
    sao mà còn được học những ý tưởng phát hiện ra kính thiên văn (tức là tìm hiểu Công
    nghệ), học về giá đỡ cho kính thiên văn (liên quan đến môn Kỹ thuật), hay học cách
    tính tỷ lệ khoảng cách giữa các ngôi sao hay bán kính của các ngôi sao (chính là môn
    Toán học). Môn học Robotics chính là môn học điển hình cho giáo dục STEM.
    2. Day học theo đinh hương giao duc STEM
    Một bài giang STEM luôn cần gắn với thực tế để học sinh cảm thấy sự liên quan giữa
    bài học và cuộc sống của chính mình, từ đó giúp học sinh nhận ra giá trị của các kiến thức và
    kĩ năng được học, đồng thời rèn luyện tư duy giải quyết vấn đề thực tế ngay từ khi còn đang
    còn ngồi trên ghế nhá trường.
    Như đã giới thiệu, một trong những cách để tạo nên bài giảng như vậy đó là hướng
    dẫn học sinh quan sát và phân tích 1 vấn đề dưới nhiều góc độ thực tế, tránh nói chung chung,
    xa vời và quá sâu xa. Bên cạnh đó, đòi hỏi giáo viên cần phải nắm được các hoạt động thực tế
    mà học sinh cần phải thực hiện như sau:
    2.1. Để thiêt kê bài giang STEM giao viên cân nắm được 3 hoat đông thực tê mà
    học sinh cân thực hiện
    2.1.1. Hoat đông tim hiểu thực tiễn, phat hiện vấn đề
    Trong các bài giang STEM, học sinh được đặt trước các nhiệm vụ thực tiễn: giải
    quyết một tình huống hoặc tìm hiểu, cải tiến một ứng dụng kĩ thuật nào đó. Thực hiện nhiệm
    vụ này, học sinh cần phải thu thập được thông tin, phân tích được tình huống, giải thích được
    ứng dụng kĩ thuật từ đó xuất hiện các câu hỏi hoặc xác định được vấn đề cần giải quyết.
    2.1.2. Hoat đông nghiên cưu kiên thưc nền
    Từ những câu hỏi hoặc vấn đề cần giải quyết, học sinh được yêu cầu/hướng dẫn tìm
    tòi, nghiên cứu để tiếp nhận kiến thức, kĩ năng cần sử dụng cho việc trả lời câu hỏi hay giải
    quyết vấn đề. Đó là những kiến thức, kĩ năng đã biết hay cần dạy cho học sinh trong chương
    trình giáo dục phổ thông.
    7
    Hoạt động này bao gồm: nghiên cứu tài liệu khoa học (bao gồm sách giáo khoa); quan
    sát/thực hiện các thí nghiệm, thực hành; giải các bài tập/tình huống có liên quan để nắm vững
    kiến thức, kĩ năng.
    2.1.3. Hoat đông giai quyêt vấn đề
    Về bản chất, hoạt động giải quyết vấn đề là hoạt động sáng tạo khoa học, kĩ thuật, nhờ
    đó giúp cho học sinh hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết thông qua
    việc đề xuất và kiểm chứng các giả thuyết khoa học hoặc đề xuất và thử nghiệm các giải pháp
    kĩ thuật. Tương ứng với đó, có hai loại sản phẩm là “kiến thức mới” (dự án khoa học) và
    “công nghệ mới” (dự án kĩ thuật).
    Đối với hoạt động sáng tạo khoa học: kết quả nghiên cứu là những đề xuất mang tính
    lí thuyết được rút ra từ các số liệu thu được trong thí nghiệm kiểm chứng giả thuyết khoa học.
    Ví dụ: tìm ra chất mới; yếu tố mới, quy trình mới tác động đến sự vật, hiện tượng, quá trình
    trong tự nhiên…
    Đối với hoạt động sáng tạo kĩ thuật: kết quả nghiên cứu là sản phẩm mang tính ứng
    dụng thể hiện giải pháp công nghệ mới được thử nghiệm thành công. Ví dụ: dụng cụ, thiết bị
    mới; giải pháp kĩ thuật mới…
    2.2. Để tổ chưc được cac hoat đông noi trên, mỗi bài giang STEM cân phai được
    xây dựng theo 6 tiêu chí sau:
    Tiêu chí 1: Chủ đề bài học STEM tập trung vào cac vấn đề của thực tiễn
    Trong các bài học STEM, học sinh được đặt vào các vấn đề thực tiễn xã hội, kinh tế,
    môi trường và yêu cầu tìm các giải pháp.
    Tiêu chí 2: Cấu trúc bài học STEM theo quy trinh thiêt kê kĩ thuật
    Quy trình thiết kế kĩ thuật cung cấp một tiến trình linh hoạt đưa học sinh từ việc xác
    định một vấn đề – hoặc một yêu cầu thiết kế – đến sáng tạo và phát triển một giải pháp. Theo
    quy trình này, học sinh thực hiện các hoạt động:
    Trong thực tiễn dạy học, quy trình 8 bước này được thể hiện qua 5 hoạt động chính:
    8
    Hoạt động 1: Xác định vấn đề (yêu cầu thiết kế, chế tạo)
    Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất các giải pháp thiết kế
    Hoạt động 3: Trình bày và thảo luận phương án thiết k
    Hoạt động 4: Chế tạo mô hình/thiết bị… theo phương án thiết kế (đã được cải tiến theo
    góp ý); thử nghiệm và đánh giá
    Hoạt động 5: Trình bày và thảo luận về sản phẩm được chế tạo; điều chỉnh thiết kế ban
    đầu. Trong quy trình kĩ thuật, các nhóm học sinh thử nghiệm các ý tưởng dựa nghiên cứu của
    mình, sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau, mắc sai lầm, chấp nhận và học từ sai lầm, và
    thử lại. Sự tập trung của học sinh là phát triển các giải pháp để giải quyết vấn đề đặt ra, nhờ
    đó học được và vận dụng được kiến thức mới trong chương trình giáo dục.
    Tiêu chí 3: Phương phap day học bài học STEM đưa học sinh vào hoat
    đông tim tòi và kham pha, đinh hương hành đông, trai nghiệm và san phẩm
    Quá trình tìm tòi khám phá được thể hiện trong tất cả các hoạt động của chủ đề
    STEM, tuy nhiên trong hoạt động 2 và hoạt động 4 quá trình này cần được khai thác
    triệt để. Trong hoạt động 2 học sinh sẽ thực hiện các quan sát, tìm tòi, khám phá để
    xây dựng, kiểm chứng các quy luật, qua đó học được kiến thức nền đồng thời rèn
    luyện các kĩ năng tiến trình như: quan sát, đưa ra dự đoán, tiến hành thí nghiệm, đo
    đạc, thu thập số liệu, phân tích số liệu… Trong hoạt động 4, quá trình tìm tòi khám
    phá được thể hiện giúp học sinh kiểm chứng các giải pháp khác nhau để tối ưu hoá sản
    phẩm.
    Trong các bài giảng STEM, hoạt động học của học sinh được thực hiện theo hướng
    mở có “khuôn khổ” về các điều kiện mà học sinh được sử dụng (chẳng hạn các vật liệu
    khả dụng). Hoạt động học của học sinh là hoạt động được chuyển giao và hợp tác; các
    quyết định về giải pháp giải quyết vấn đề là của chính học sinh. Học sinh thực hiện các
    hoạt động trao đổi thông tin để chia sẻ ý tưởng và tái thiết kế nguyên mẫu của mình
    nếu cần. Học sinh tự điều chỉnh các ý tưởng của mình và thiết kế hoạt động tìm tòi,
    khám phá của bản thân.
    Tiêu chí 4: Hinh thưc tổ chưc bài học STEM lôi cuốn học sinh vào hoat
    đông nhom kiên tao
    Giúp học sinh làm việc trong một nhóm kiến tạo là một việc khó khăn, đòi hỏi
    tất cả giáo viên STEM ở trường làm việc cùng nhau để áp dụng phương thức dạy học
    theo nhóm, sử dụng cùng một ngôn ngữ, tiến trình và yêu cầu về sản phẩm học tập mà
    học sinh phải hoàn thành. Làm việc nhóm trong thực hiện các hoạt động của bài học
    STEM là cơ sở phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh.
    Tiêu chí 5: Nôi dung bài học STEM ap dung chủ yêu từ nôi dung khoa học
    và toan mà học sinh đã và đang học
    Trong các bài học STEM, giáo viên cần kết nối và tích hợp một cách có mục
    đích nội dung từ các chương trình khoa học, công nghệ, tin học và toán. Lập kế hoạch
    để hợp tác với các giáo viên toán, công nghệ, tin học và khoa học khác để hiểu rõ nội
    hàm của việc làm thế nào để các mục tiêu khoa học có thể tích hợp trong một bài học
    đã cho. Từ đó, học sinh dần thấy rằng khoa học, công nghệ, tin học và toán không phải
    9
    là các môn học độc lập, mà chúng liên kết với nhau để giải quyết các vần đề. Điều đó
    có liên quan đến việc học toán, công nghệ, tin học và khoa học của học sinh.
    Tiêu chí 6: Tiên trinh bài học STEM tính đên co nhiều đap an đúng và coi
    sự thất bai như là môt phân cân thiêt trong học tập
    Một câu hỏi nghiên cứu đặt ra, có thể đề xuất nhiều giả thuyết khoa học; một
    vấn đề cần giải quyết, có thể đề xuất nhiều phương án, và lựa chọn phương án tối ưu.
    Trong các giả thuyết khoa học, chỉ có một giả thuyết đúng. Ngược lại, các phương án
    giải quyết vấn đề đều khả thi, chỉ khác nhau ở mức độ tối ưu khi giải quyết vấn đề.
    Tiêu chí này cho thấy vai trò quan trọng của năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    trong dạy học STEM.
    2.3. Quy trinh 4 bươc trong thiêt kê bài giang STEM
    Bươc 1: Lựa chọn chủ đề bài học
    Căn cứ vào nội dung kiến thức trong chương trình môn học và các hiện tượng,
    quá trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; quy trình hoặc thiết bị công nghệ có
    sử dụng của kiến thức đó trong thực tiễn… để lựa chọn chủ đề của bài học. Những ứng
    dụng đó có thể là: Sữa chua/dưa muối – Vi sinh vật – Quy trình làm sữa chua/muối
    dưa; Thuốc trừ sâu – Phản ứng hóa học – Quy trình xử lí dư lượng thuốc trừ sâu; Hóa
    chất – Phản ứng hóa học – Quy trình xử lí chất thải; Sau an toàn – Hóa sinh – Quy
    trình trồng rau an toàn; Cầu vồng – Ra đar – Máy quang phổ lăng kính; Kính tiềm
    vọng, kính mắt; Ống nhòm, kính thiên văn; Sự chìm, nổi – lực đẩy Ác–si–mét –
    Thuyền/bè; Hiện tượng cảm ứng điện từ – Định luật Cảm ứng điện từ và Định luật
    Lenxơ – Máy phát điện/động cơ điện; Vật liệu cơ khí; Các phương pháp gia công cơ
    khí; Các cơ cấu truyền và biến đổi chuyển động; Các mối ghép cơ khí; Mạch điện điều
    khiển cho ngôi nhà thông minh…
    Bươc 2: Xac đinh vấn đề cân giai quyêt
    Sau khi chọn chủ đề của bài học, cần xác định vấn đề cần giải quyết để giao cho
    học sinh thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó, học sinh phải học được những
    kiến thức, kĩ năng cần dạy trong chương trình môn học đã được lựa chọn (đối với
    STEM kiến tạo) hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết (đối với STEM vận
    dụng) để xây dựng bài học. Theo những ví dụ nêu trên, nhiệm vụ giao cho học sinh
    thực hiện trong các bài học có thể là: Thiết kế, chế tạo một máy quang phổ đơn giản
    trong bài học về bản chất sóng của ánh sáng; Thiết kế, chế tạo một ống nhòm đơn giản
    khi học về hiện tượng phản xạ và khúc xạ ánh sáng; Chế tạo bè nổi/thuyền khi học về
    Định luật Ác–si–mét; Chế tạo máy phát điện/động cơ điện khi học về cảm ứng điện từ;
    Thiết kế mạch lôgic khi học về dòng điện không đổi; Thiết kế robot leo dốc, cầu bắc
    qua hai trụ, hệ thống tưới nước tự động, mạch điện cảnh báo và điều khiển cho ngôi
    nhà thông minh; Xây dựng quy trình làm sữa chua/muối dưa; Xây dựng quy trình xử lí
    dư lượng thuốc trừ sâu trong rau/quả; Xây dựng quy trình xử lí hóa chất ô nhiễm trong
    nước thải; Quy trình trồng rau an toàn… Trong quá trình này, việc thử nghiệm chế tạo
    trước các nguyên mẫu có thể hỗ trợ rất tốt quá trình xây dựng chủ đề. Qua quá trình
    xây dựng, giáo viên có thể hình dung các khó khăn học sinh có thể gặp phải, các cơ
    10
    hội vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề cũng như xác định được đúng đắn các tiêu
    chí của sản phẩm trong bước 3.
    Bươc 3: Xây dựng tiêu chí của thiêt bi/giai phap giai quyêt vấn đề
    Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết/sản phẩm cần chế tạo, cần xác định rõ
    tiêu chí của giải pháp/sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng để đề xuất
    giả thuyết khoa học/giải pháp giải quyết vấn đề/thiết kế mẫu sản phẩm. Đối với các ví
    dụ nêu trên, tiêu chí có thể là: Chế tạo máy quang phổ sử dụng lăng kính, thấu kính hội
    tụ; tạo được các tia ánh sáng màu từ nguồn sáng trắng; Chế tạo ống nhòm/kính thiên
    văn từ thấu kính hội tụ, phân kì; quan sát được vật ở xa với độ bội giác trong khoảng
    nào đó; Quy trình sản xuất sữa chua/muối dưa với tiêu chí cụ thể của sản phẩm (độ
    ngọt, độ chua, dinh dưỡng…); Quy trình xử lí dư lượng thuốc trừ sâu với tiêu chí cụ thể
    (loại thuốc trừ sâu, độ “sạch” sau xử lí); Quy trình trồng rau sạch với tiêu chí cụ thể
    (“sạch” cái gì so với rau trồng thông thường)… Các tiêu chí cũng phải hướng tới việc
    định hướng quá trình học tập và vận dụng kiến thức nền của học sinh chứ không nên
    chỉ tập trung đánh giá sản phẩm vật chất.
    Bươc 4: Thiêt kê tiên trinh tổ chưc hoat đông day học.
    Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học được thiết kế theo các phương pháp và kĩ
    thuật dạy học tích cực với 5 loại hoạt động học đã nêu ở trên. Mỗi hoạt động học được
    thiết kế rõ ràng về mục đích, nội dung và sản phẩm học tập mà học sinh phải hoàn
    thành. Các hoạt động học đó có thể được tổ chức cả ở trong và ngoài lớp học (ở
    trường, ở nhà và cộng đồng). Cần thiết kế bài học điện tử trên mạng để hướng dẫn, hỗ
    trợ hoạt động học của học sinh bên ngoài lớp học.
    II.2.2. Phân hai: Nôi dung
    1. Điều kiện cân thiêt để ap dung giai phap
    – Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về STEM.
    – Thiết kế và xây dựng phòng học STEM cả về lí thuyết và thực hành.
    – Kích thích sự hứng thú của HS khi nghiên cứu về STEM.
    – Bám sát chủ đề STEM cấp Trung học cơ sở.
    – Huy động kinh phí.
    – Nghiên cứu, liên kết với các trường Đại học.
    2. Tính mơi, tính sang tao của giai phap
    Dạy học theo định hướng giáo dục STEM môn công nghệ 11 đạt được các yêu
    cầu đổi mới đó là: định hướng vào người học, định hướng vào thực tiễn và định hướng
    vào sản phẩm.
    11
    Tôi đã xây dựng và triển khai có hiệu quả chủ đề sau:
    “Thiết kế mô hình ngôi nhà chống thiên tai (bão, lũ)”.
    Bảng mô tả minh họa tính mới, tính sáng tạo, tính ưu việt của giải pháp mới so
    với giải pháp cũ:
    a. Xây dựng hệ thống chủ đề ap dung việc day học theo đinh hương giao duc
    STEM môn công nghệ 11

    Chủ đề thực tiễnKiên thưc môn Công nghệ
    Mô hình nhà đơn giản
    Mô hình ngôi nhà chống thiên tai (bão,
    lũ)
    Mô hình hộp đựng đồ dùng học tập
    Bài 2. Hình chiếu vuông góc
    Bài 5. Hình chiếu trục đo
    Bài 8. Thiết kế và bản vẽ kỹ thuật
    Bài 11. Bản vẽ xây dựng
    Cánh tay robotBài 19. Tự động hóa trong chế tạo cơ khí

    b. So sanh giai phap cũ và giai phap mơi

    Giai phap cũGiai phap mơi
    – Dạy các bài theo phân phối chương trình
    và chuẩn kiến thức kĩ năng.
    – Dạy đơn bài
    – Chỉ thực hiện trong phạm vi lớp học.
    – Trong giờ học chỉ tổ chức được 1 đến 2
    hoạt động nhóm cho học sinh thảo luận.
    – Không thực hiện được các hoạt động trải
    nghiệm cho học sinh.
    – Xây dựng được kế hoạch thực hiện và ý
    tưởng một cách chi tiết cho cả chủ đề.
    – Thiết kế được mô hình ngôi nhà chống
    thiên tai từ đồ tái chế bảo vệ môi trường.
    – Thiết kế có thể được sử dụng trong thực
    tế áp dụng cho các Tỉnh miền Trung trong
    mùa bão lũ.

    c. Ví du minh họa môt chủ đề STEM trong môn Công nghệ 11

    Nôi dungGiai phap cũGiai phap mơi

    12

    Đia điểm– Trong lớp học.– Trong và ngoài lớp học.
    Cach thưc– GV: Đóng vai trò trung tâm,
    lập kế hoạch và điều khiển
    các hoạt động học tập. Thậm
    chí còn truyền thụ kiến thức
    áp đặt một chiều.
    – Học sinh:
    + Thảo luận nhóm trong phạm
    vi lớp học.
    + Trong giờ học chỉ tổ chức 1,
    2 hoạt động nhóm trong 3-5
    phút, chỉ có những HS tích
    cực tham gia, không huy động
    được cả nhóm.
    + Chủ yếu là nghe giảng, ghi
    chép.
    + Không tự chủ trong các hoạt
    động của mình.
    + Phát hiện ra kiến thức nhờ
    sự truyền thụ của giáo viên.
    – GV đóng vai trò định hướng, giám sát các
    hoạt động học tập.
    – Hoạt động 1: Xác định vấn đề.
    – Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và
    đề xuất giải pháp
    + HS được GV cho tự nghiên cứu kiến thức
    khoa học trên mọi tư liệu mạng internet, sách
    khoa học, thực tiễn,…., quyết định kiến thức,
    lựa chọn mục tiêu của chủ đề. Trong chủ đề
    có sự kiên hệ nội dung học tập với hoàn cảnh
    thực tiễn và đời sống xã hội.
    + Dưới sự hướng dẫn của GV, HS các nhóm
    định hướng các công việc cần làm, thời gian
    nghiên cứu, dự trù kinh phí, vật liệu, phương
    pháp tiến hành và phân công công việc trong
    nhóm
    HS thu thập và xử lý thông tin, làm việc
    nhóm và các nhân theo kế hoạch đã đề ra.
    – Hoạt động 3: báo cáo phương án thiết kế.
    + Các nhóm sẽ báo cáo phương án thiết kế
    ngôi nhà của nhóm mình trên bản vẽ kĩ thuật.
    Nhóm còn lại sẽ đặt câu hỏi phản biện.
    – Hoạt động 4: Chế tạo và thử nghiệm.
    + Các hoạt động trí tuệ và hoạt độngthực
    hành thực tiễn trải nghiệm sáng tạo được
    thực hiện xen kẽ và tác động qua lại với
    nhau, từ đó tạo ra sản phẩm của nhóm. Như

    13

    vậy, kiến thực được tích lũy qua quá trình
    làm việc và được thử nghiệm qua thực hành
    thực tiễn.
    – Hoạt động 5: Trình bày sản phẩm và đánh
    giá.
    + Tất cả HS theo nhóm cá hoặc cá nhân cần
    được tạo điều kiện để trình bày kết quả cùng
    với kiến thức mới mà mình đã tích lũy thông
    qua quá trình thực hiện.
    + Đánh giá: HS được tham gia cùng GV
    đánh giá, tự đánh giá bản thân, đánh giá chéo
    các bạn trong nhóm và nhóm khác. (Đánh giá
    theo phương pháp đánh giá đồng đẳng).

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Sử dụng phần mềm Proteus để nâng cao chất lượng giảng dạy phần kĩ thuật điện tử môn Công Nghệ lớp 12 và kích thích khả năng tìm tòi của học sinh

    SKKN Sử dụng phần mềm Proteus để nâng cao chất lượng giảng dạy phần kĩ thuật điện tử môn Công Nghệ lớp 12 và kích thích khả năng tìm tòi của học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Ngày nay trong thời đại công nghệ 4.0. Khoa học công nghệ không ngừng
    phát triển, nghành tin học nói chung đã có mặt trong hầu như tất cả các nghành
    nghề từ đơn giản đến phức tạp. Công nghệ tin học đã giúp ích không nhỏ vào
    công việc giảng dạy và mang lại nhiều kết quả không nhỏ. Proteus là chương
    trình tạo và mô phỏng các mạch nguyên lí giúp cho người học điện tử hình dung
    trực quan hơn vào thực tế của các linh kiện điện tử.
    Không những thế, hiện nay với chương trình sách giáo khoa công nghệ 12
    trong chương 1. LINH KIỆN ĐIỆN TỬ thì nội dung chủ yếu là giúp các em biết
    được cấu tạo, kí hiệu và công dụng của các linh kiện. Trong khi các linh kiện
    này các em ít được tiếp xúc trong thực tế, nội dung trong sách giáo khoa thì trừu
    tượng nhất là công dụng của các linh kiện các em học theo cách rập khuôn máy
    móc nên việc giới thiệu để các em biết, nhớ kiến thức cũng như có hứng thú hơn
    với môn học cũng gặp không ít khó khăn. Còn nội dung chương 2. MỘT SỐ
    MẠCH ĐIỆN TỬ CƠ BẢN và chương 3. MỘT SỐ MẠCH ĐIỆN TỬ ĐIỀU
    KHIỂN ĐƠN GIẢN thì trong một số bài thì việc nắm bắt và hiểu được nguyên
    lí làm việc của các mạch điện cũng gặp phải một số khó khăn nhất định như tính
    trừu tượng của nội dung nói chung và khó hình dung đường đi của dòng điện
    trong mạch nói riêng dẫn đến khi học các bài thực hành các em phân vân không
    biết mạch mình lắp có sai sót gì hay không.
    Nên yêu cầu đặt ra là làm thế nào để cho các em biết, ghi nhớ nội dung bài
    học cũng như hứng thú với môn học để mỗi một tiết học công nghệ như 1 buổi
    tìm tòi, khám phá và kích thích tính tích cực của các em.
    Nếu việc mua linh kiện thực về lắp ráp để minh họa công dụng cho các
    linh kiện, cũng như nguyên lí làm việc của các mạch điện tử thì công việc này
    vừa tốn kém về mặt kinh tế, thời gian lắp ráp mà lại không kiểm tra trước được
    mạch đó có sai sót gì hay không.
    Để giải quyết các vấn đề đó thì các phần mềm mô phỏng đã ra đời. Tuy các
    phần mềm mô phỏng này chưa chính xác một cách tuyệt đối nhưng cũng giúp
    ích cho chúng ta rất nhiều. Hiện nay trên các trang mạng có rất nhiều phần mềm
    mô phỏng nhưng được giáo viên, học sinh, sinh viên nhắc đến nhiều nhất trong
    số đó là phần mềm Proteus. Trong đề tài này, tôi sẽ giới thiệu rõ hơn về phần
    mềm Proteus cũng như cách sử dụng phần mềm và tiến hành mô phỏng một số
    2
    mạch để làm rõ công dụng của các linh kiện, nguyên lí làm việc của một số
    mạch cụ thể.
    II. Mô tả giải pháp.
    1. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến.
    (Nêu hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới; phân tích ưu nhược điểm của
    giải pháp cũ để cho thấy sự cần thiết của việc đề xuất giải pháp mới nhằm khắc
    phục nhược điểm của giải pháp cũ).
    1.1. Hiện trạng trước khi áp dụng phần mềm mô phỏng vào giảng dạy.
    1.1.1. Nội dung kiến thức các bài kĩ thuật điện tử trên thực tế.
    – Ở chương 1: LINH KIỆN BÁN DẪN, bài 2: Điện trở – Tụ điện – Cuộn
    cảm. Mặc dù trong lớp 11 các em đã được biết đến các linh kiện điện trở, tụ
    điện, cuộn cảm thông qua các bài toán vật lí nhưng công dụng của các linh kiện
    này là gì, cũng như ứng dụng của nó vào mạch cụ thể thì hầu như các em không
    nắm rõ. Hay trong bài 4: Linh kiện bán dẫn và IC thì đối với đa số các em những
    linh kiện này tương đối trừu tượng, ít nghe nói đến vậy nên việc giới thiệu cấu
    tạo, công dụng của các linh kiện tới các em cũng gặp không ít khó khăn, không
    những thế việc giới thiệu các linh liện nếu không có sự thay đổi về phương pháp
    giảng dạy mà chỉ dập khuôn máy móc lặp đi lặp lại thông qua sự tìm hiểu đơn
    giản về lí thuyết của học sinh, kết hợp với giải thích của giáo viên thông qua các
    mạch nguyên lí vẽ bằng tay trên bảng rồi cho ra kết luận thì gần như không kích
    thích được tính hứng thú, yêu thích, hay ham học hỏi của các em.
    – Ở một số bài chương 2: MỘT SỐ MẠCH ĐIỆN TỬ CƠ BẢN và chương
    3: MỘT SỐ MẠCH ĐIỆN TỬ ĐIỀU KHIỂN ĐƠN GIẢN
    Trong nội dung bài 4 đa phần các linh kiện bán dẫn đó đều được sử dụng để
    lắp ráp những mạch cụ thể như mạch chỉnh lưu trong bài 7: Khái niệm về mạch
    điện tử (dùng tới điôt), mạch tạo xung trong bài 8: Mạch khuếch đại – Mạch tạo
    xung (dùng tới tranzito), mạch báo hiệu và bảo vệ quá điện áp trong bài 14 :
    Mạch điều khiển tín hiệu (dùng tới điôt, tranzito), mạch điều khiển động cơ 1
    pha trong bài 15: Mạch điều khiển tốc độ động cơ điện xoay chiều một pha
    (dùng tới triac, điac)….nên việc hướng dẫn cho các em hiểu về các linh kiện này
    sẽ tạo nền tảng giúp các em nắm rõ hơn nội dung của các bài sau. Không những
    thế, các bài đều có nội dung chung là tìm hiểu nguyên lí của mạch hoặc từ sơ đồ
    nguyên lí dẫn tới ưu, nhược điểm của mạch. Trên thực tế, tất cả những mạch từ
    đơn giản đến phức tạp cũng như vậy. Dựa vào sơ đồ nguyên lí người thiết kế
    3
    cũng như người đọc hiểu một phần hay toàn phần nguyên lí hoạt động của mạch.
    Nên việc hiểu được nguyên lý của mạch là rất cần thiết.
    Ngày nay, với xu thế phát triển của thời đại thì việc áp dụng công nghệ thông
    tin vào quá trình giảng dạy không những giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo
    và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình, mà còn cung cấp
    tới cho các em một lượng kiến thức nhanh nhất, dễ hiểu nhất. và việc áp dụng
    phần mềm mô phỏng vào môn công nghệ sẽ giải quyết được các khó khăn về
    vấn đề tiếp thu kiến thức, sự hứng thú ở các em.
    1.1.2. Sự cần thiết của việc áp dụng proteus vào mô phỏng mạch điện tử.
    – Khi nói về mảng kĩ thuật điện tử thì trên thực tế có nhiều phần mềm vẽ và
    mô phỏng mạch điện được ra đời như: Orcad, CircuitMaker, Proteus,
    Electronics Workbench, tina…Mỗi một phần mềm thì có ưu, nhược điểm riêng
    biệt. Nhưng phần mềm Proteus có rất nhiều ưu điểm mà các phần mềm khác
    không có. Nên trong đề tài này tôi sử dụng phần mềm proteus, không những thế
    hiện nay, hầu như các trường trung học phổ thông đều có phòng học máy tính
    hoặc trên các lớp 12 gần như mỗi lớp đều có trang bị một máy tính để bàn nên
    việc cài đặt và sử dụng phần mềm Proteus tương đối đơn giản.
    – Trong quá trình giảng dạy, ở những bài đầu giáo viên có thể đan xen giới
    thiệu và hướng dẫn các em về cách sử dụng phần mềm. Sau đó, yêu cầu các em
    tự nghiên cứu mạch cụ thể ở những bài tiếp theo và hôm sau các em trình bày
    bài dưới sự chỉ đạo của giáo viên như thế các em sẽ tự tin, có cơ hội thể hiện
    mình và hiểu rõ nội dung bài học hơn. Ngoài ra, ở đa số các trường đại học, cao
    đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có các khoa liên quan đến chuyên nghành điện tử
    thì phần mềm này được sử dụng khá nhiều nên việc tiếp xúc sớm với phần mềm
    Proteus sẽ rất có ích cho các em sau này.
    – Một lý do không thể thiếu đó là, hiện nay trong các tài liệu tham khảo cũng
    như trên mạng có rất nhiều bài viết nói về ứng dụng của phần mềm này nhưng
    nội dung không áp dụng được cho chương trình công nghệ 12 hoặc có áp dụng
    được thì nội dung trình bày không đủ, còn sơ sài. Ví dụ như tranzito, trên các tài
    liệu tham khảo đa phần chỉ giới thiệu khái quát về tranzito nhưng nguyên lý của
    nó như thế nào thì chưa thể hiện được hay trong bài 8: Mạch khuếch đại – Mạch
    tạo xung thì chưa làm rõ được dạng sóng đầu ra của mạch khuếch đại đảo,
    không đảo với nguồn AC, DC còn về mạch tạo xung thì chưa mô phỏng được
    dạng xung đầu ra của mạch…..
    4
    Chính vì tất cả các lí do trên mà tôi đã chọn đề tài : “ Sử dụng phần mềm
    Proteus để nâng cao chất lượng giảng dạy phần kĩ thuật điện tử công nghệ 12
    và kích thích khả năng tìm tòi của học sinh”.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: (trọng tâm)
    (Nêu vấn đề cần giải quyết; Chỉ ra tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so
    với giải pháp cũ; nêu cách thức thực hiện, các bước thực hiện của giải pháp mới
    một cách cụ thể, rõ ràng cũng như các điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp;
    Nêu rõ khả năng áp dụng vào thực tế của giải pháp mới và mang lại lợi ích thiết
    thực; ngoài ra có thể nêu rõ giải pháp còn có khả năng áp dụng cho những đối
    tượng, cơ quan, tổ chức nào)
    Nội dung này bao gồm:
    Phần 1: Giới thiệu chung về Proteus.
    Trong phần này, tôi giới thiệu một cách tổng quan về phần mềm này như:
    ưu điểm nổi bật của proteus, khả năng ứng dụng, nhược điểm của phần mềm,
    môi trường làm việc, quy trình sử dụng Proteus.
    Phần 2: Mô phỏng hoạt động của một số mạch điện tử cụ thể.
    Phần này, toàn bộ công dụng, nguyên lý làm việc của các linh kiện, mạch
    điện tử có thể mô phỏng được trong phần kĩ thuật điện tử công nghệ 12 sẽ được
    trình bày đầy đủ và có video hướng dẫn cách vẽ mạch.
    Phần 3: Mô phỏng hoạt động của một số mạch điện tử khác.
    Một số mạch điện tử mở rộng khác cũng như các mạch các em đã thực
    hiện mà không có trong sgk để tạo tính hứng thú hơn với phần mềm Proteus nói
    chung và môn công nghệ nói riêng.
    5
    2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ PROTEUS 8.5
    2.1.1. Giới thiệu về phần mềm Proteus 8.5
    2.1.1.1. Tổng quan về Proteus.
    Phần mềm proteus là phần mềm mô phỏng mạch điện tử tương tự và số bao
    gồm 2 chương trình: ISIS (Intelligent schematic input system) cho phép mô
    phỏng mạch và ARES (Advanced routing & editing softwar) dùng để vẽ mạch
    in.
    Đối với giáo viên và học sinh nói chung thì công cụ isis tương đối dễ tiếp cận
    vì thư viện có đầy đủ các linh kiện điện tử tương tự và số cơ bản, các công cụ đo
    đạc trong thực tế cũng như các công cụ để mô phỏng trực quan các quá trình
    trong mạch.
    Hiện nay Proteus có rất nhiều phiên bản như Proteus 8.0, Proteus 8.1, Proteus
    8.3, Proteus 8.4, Proteus 8.5, Proteus 8.6, Proteus 8.7, Proteus 8.8… và trong
    chương trình trung học phổ thông thì giáo viên sử dụng chủ yếu là mô phỏng
    mạch (ISIS) và chỉ cần Proteus phiên bản Proteus 8.5 là đủ nên trong đề tài này
    tôi sẽ giới thiệu về chương trình ISIS (mô phỏng mạch) của proteus 8.5.
    2.1.1.2. Ưu điểm:
    Proteus nói chung là phần mềm có rất nhiều ưu điểm như:
    – Dễ dàng tạo ra một sơ đồ nguyên lý từ các mạch điện đơn giản đến các
    mạch phức tạp có bộ lập trình vi xử lý.
    – Công cụ hỗ trợ kiểm tra lỗi thiết kế trên sơ đồ nguyên lý, có thể xem và lưu
    lại bản báo lỗi.
    – Thay đổi các thông số kĩ thuật của linh kiện dễ dàng.
    – Công cụ hỗ trợ chạy và mô phỏng mạch điện rất mạnh và chính xác. Không
    những thế phần mềm còn có thêm các máy phân tích từ đơn giản như: đồng hồ
    đo vôn, ampe, máy dao động kí… cho phép ta có thể đo và xem được dạng sóng
    của mạch.
    – Với các phần mềm khác thì thư viện linh kiện khá hạn chế còn proteus thì
    có một thư viện khá lớn với hơn 6000 linh kiện và ngày càng được bổ sung.
    – Một điểm mạnh của proteus là cung cấp cho người sử dụng công cụ biên
    dịch cho các bộ vi xử lý để tạo ra các tập tin HEX ( dùng nhiều để mô phỏng
    những mạch vi xử lý khi các em tham gia các cuộc thi khoa học kĩ thuật) để xem
    và chạy kiểm tra từng bước trong chương trình mô phỏng.
    2.1.1.3. Khả năng ứng dụng của proteus
    6
    – Ứng dụng chính của proteus chính là mô phỏng, phân tích các kết quả từ
    các mạch nguyên lý. Proteus giúp cho người sử dụng có thể thấy trước mạch
    thiết kế chạy đúng hay sai trước khi thiết kế trên bo mạch.
    – Các công cụ đo vôn, ampe hay dao động kí có độ chính xác khá cao.
    – Khả năng áp dụng proteus vào trong giảng dạy là rất tốt cho giáo viên và
    học sinh vì hầu như proteus cung cấp gần như đầy đủ từ cơ bản đến phức tạp
    cho người học.
    – Điều đặc biệt là tiết kiệm tiền đối với những học sinh ham học, ham nghiên
    cứu mà không có điều kiện thì proteus chính là người thầy ở nhà cho các em.
    2.1.1.4. Nhược điểm
    Phần mềm nào cũng có nhược điểm của nó, do đó proteus cũng không tránh
    khỏi các nhược điểm:
    – Phần mềm do công ty nước ngoài nên tính chất bản quyền khá cao.
    – Với những mạch vi xử lý phức tạp hay những linh kiện cần chỉnh quá nhiều
    thông số kĩ thuật thì sử dụng khá phức tạp.
    – Phần mềm do công ty nước ngoài viết nên không có tài liệu hướng dẫn sử
    dụng bằng tiếng việt. Ngoài ra, trong phần mềm sử dụng hoàn toàn bằng tiếng
    anh nên đòi hỏi người sử dụng cũng phải có một nền tảng tiếng anh cơ bản nếu
    muốn sử dụng nó một cách hiệu quả ( nhất là tiếng anh chuyên ngành về điện
    tử).
    2.1.2. Môi trường làm việc của Proteus 8.5
    Phần mềm Proteus hiện nay có rất nhiều phiên bản nhưng hiện nay phiên bản
    8.5 được sử dụng khá nhiều. Việc tải phần mềm này cũng giống như tất cả các
    phần mềm khác tương đối đơn giản. Sau khi tải và tiến hành mở phần mềm
    Proteus ta có giao diện ban đầu của phần mềm Proteus (hình 2.1.1)
    7
    Hình 2.1.1. Giao diện ban đầu của phần mềm Proteus
    Để tiến hành vẽ sơ đồ nguyên lí trước hết ta vào New Project và tiến hành
    lưu tên cho file đó. Với đuôi là .pdsprj hoặc ta có thể vào Open Project để mở 1
    file đã có trong máy.
    Sau khi mở file ta có giao diện của Proteus như sau:
    Hình 2.1.2. Cửa sổ làm việc của Proteus 8.5
    ❖ Môi trường làm việc của Proteus gồm thanh trình đơn, thanh tác vụ, thanh
    8
    công cụ, các vùng hiển thị linh kiện, vùng làm việc và vùng hiển thị chung.
    ➢ Trong đó, cần chú ý tới các thành phần của thanh tác vụ gồm: hình 2.3,
    hình 2.4, hình 2.5, hình 2.6.

    TênChức năng
    NewTạo bản vẽ mới
    OpenMở bản vẽ đã có
    SaveLưu bản vẽ
    CloseĐóng bản vẽ
    Home PageTrang chủ
    Schematic captureChụp sơ đồ nguyên lí
    PCB LayoutBố trí PCB
    3D VisualizerTrình hiển thị 3D
    Gerber ViewerXem trước mạch
    Design ExplorerNhững linh kiện tham gia thiết kế
    Bill Of MaterialsChi phí của mạch
    Source CodeMã nguồn
    Project NotesĐánh dấu đối tượng
    OveriewTổng quan

    Hình 2.1.3. Chức năng thanh tác vụ của Proteus 8.5 (1)

    TênChức năng
    Redraw DisplayLàm mới màn hình thiết kế
    Toggle GirdChuyển đổi lưới
    Toggle False OriginChọn gốc tọa độ
    Center At CursorTrung tâm
    Room inPhóng to
    Room outThu nhỏ
    Zoom to view Entire SheetPhóng to để xem toàn màn hình
    Zoom To AreaPhóng to một phần

    Hình 2.1.4. Chức năng thanh tác vụ của Proteus 8.5 (2)
    9

    TênChức năngTênChức năng
    Undo
    Changes
    Hủy bỏBlock RotateQuay khối
    Redo
    Changes
    Làm lạiBlock DeleteXóa khối
    Cut to
    Clipboard
    Cắt từ bảng mạchPick Parts
    From Libraries
    Chọn các linh kiện
    từ thư viện
    Copy to
    Clipboard
    Sao chép từ bảng
    mạch
    Make DeviceLàm thiết bị
    Paste From
    Clipboard
    Lưu từ bảng
    mạch
    Packaging
    Tool
    Công cụ cài đặt thư
    viện
    Block CopySao chép khốiDecomposePhân hủy
    Block MoveDi chuyển khối

    Hình 2.1.5. Chức năng thanh tác vụ của Proteus 8.5 (3)

    TênChức năng
    Wire AutorouterNối dây tự động
    Search TagTìm kiếm nhãn
    Property Assignment toolSắp xếp linh kiện
    New (root) SheetTạo linh kiện mới
    Remove/Delete SheetDi chuyển / Xóa linh kiện
    Exit to parent SheetThoát khỏi linh kiện gốc
    Electrical Rules CheckKiểm tra mạch điện

    Hình 2.1.6. Chức năng thanh tác vụ của Proteus 8.5 (4)
    ➢ Thanh công cụ gồm một số thành phần như sau:

    TênChức năngTênChức năng
    section modeChọn linh kiệnTerminals
    Mode Chứa
    Power,
    Ground
    Mở của sổ lấy
    nguồn, đất

    10

    Component
    mode
    Lấy linh kiện từ
    thư viện
    Device
    Pins Mode
    Các kí hiệu chân
    Junction Dot
    Mode
    Đặt điểm nốiGraph
    Mode
    Mở cửa sổ mô
    phỏng
    Wire Label
    Mode
    Đặt tên cho dây
    nối, tên cho bus
    Active
    Popup Mode
    Bật chế độ popup
    Text script
    Mode
    Chèn chữ vào
    trang thiết kế
    Generator
    Mode
    Chứa các nguồn
    điện, nguồn xung,
    dòng
    Buses ModeĐặt bó dâyProbe
    Mode
    Đo điện thế tại 1
    điểm trên mạch
    Subcircuit
    Mode
    Đặt một kí hiệu
    mạch
    Virual
    Instrument
    Mode
    Chứa dụng cụ đo
    dòng và áp (Giống
    đồng hồ vạn năng
    trên thực tế)
    lineLấy các dây nối
    mạch
    SymbolMở cửa sổ lấy các
    kí hiệu
    box, circle,
    arc, 2D path
    Các hình dạng
    thiết kế, hình chữ
    nhật, hình tròn…
    makerLấy các kí hiệu thiết
    kế
    TextĐặt chú thích
    vào trang thiết kế

    Hình 2.1.7. Chức năng thanh công vụ của Proteus 8.5
    2.1.3. Quy trình sử dụng Proteus 8 Profesional
    Việc sử dụng Proteus được chia làm các bước như sau:
    2.1.3.1. Đặt tên và chọn đường dẫn để lưu.
    Sau khi kích đúp chuột trái để mở phần mềm proteus, ta vào open project để
    mở mạch mô phỏng đã làm hoặc vào New Project để tạo một mạch mới. Sau đó
    ta ghi tên của mạch cần mô phỏng và chọn đường dẫn để lưu, tiếp tục ta ấn next
    để mở ra giao diện cần vẽ (hình 2.2).
    2.1.3.2. Chọn các linh kiện cần thiết cho mạch.
    Đầu tiên ta chọn vào nút Component mode để chọn linh kiện, tiếp theo nhấn
    vào chữ P để mở thư viện
    11
    Hình 2.1.8 Cửa sổ chọn linh kiện trong thư viện Proteus 8.5.
    Khi thư viện được mở ra, một cửa sổ sẽ xuất hiện như sau:
    Hình 2.1.9. Cửa sổ thư viện linh kiện trong Proteus 8.5.
    Trong đó:
    Keywords: tìm kiếm linh kiện
    Category và Sub-category: chứa các thư viện linh kiện trong chương trình
    Proteus
    Results: hiển thị các linh kiện khi được chọn trong thư viện
    Schematic Review: hiển thị hình dạng của linh kiện
    PCB Preview: hiển thị sơ đồ chân PCB của linh kiện
    Sau khi gõ tên linh kiện cần tìm thì chỉ cần kích đúp vào linh kiện đó thì lập
    tức những linh kiện được chọn sẽ xuất hiện ở trong ô Devices.
    12
    Với proteus việc tìm kiếm linh kiện ta có thể đánh chính xác tên linh kiện
    vào trong keywords và proteus sẽ cho phép hiển thị tất cả các linh kiện có tên
    gần giống để cho ta lựa chọn hoặc ta có thể lấy linh kiện từ các thư viện nhỏ
    trong cửa sổ thư viện.
    Sau khi đã lấy đầy đủ các linh kiện từ thư viện, ta nhấp vào nút OK để đóng
    cửa sổ thư viện trở về màn hình thiết kế.
    – lưu ý: Khi ta cần lấy các linh kiện có khả năng chạy mô phỏng, thường thì
    các linh kiện này trong thư viện sẽ ghi ACTIVE.
    + Tại cửa sổ ( Preview) ngoài đặc tính cho biết chân linh kiện nó còn cho biết
    là linh kiện sẽ lấy có thể chạy được mô phỏng hay không. Nếu chương trình
    không hỗ trợ linh kiện thì sẽ có dòng No Simulator Model.
    2.1.3.3. Đặt linh kiện vào vị trí cần vẽ mạch.
    – Click chuột vào linh kiện cần lấy ( linh kiện trong cửa sổ Devices)
    – Di chuyển con trỏ chuột ra trang thiết kế nơi cần đặt linh kiện và click chuột
    thì linh kiện sẽ được đặt tại đó.
    – Lưu ý:
    + Trong trường hợp cần lấy nhiều linh kiện cùng loại như 2 điện trở, 3 tụ
    điện …thì ta lặp lại các thao tác như trên.
    + Khi đặt xong các linh kiện vì một lý do nào đó ta muốn di chuyển các linh
    kiện thì ta chỉ cần click trái vào linh kiện và giữ chuột, kéo linh kiện đến nơi cần
    di chuyển đến.
    + Để xoay hoặc xóa 1 linh kiện thì ta click phải vào linh kiện cần xoay sau đó
    xuất hiện một cửa sổ và chọn vào các biểu tượng xoay ( rotate clockwise, rotate
    anti clockwise, X mirror, Y mirror) mà ta cần.
    Hình 2.1.10. Cửa sổ xóa, xoay , đối xứng các linh kiện.
    13
    + Ngoài ra, ta cũng có thể xoay, xóa linh kiện thông qua các biểu tượng trên
    thanh tác vụ hình 2.5.
    2.1.3.4. Vẽ dây nối giữa các linh kiện.
    – Việc nối dây cho các linh kiện đơn giản nhất là click trái vào điểm cần nối
    sau đó thả, kéo tới chân linh kiện mà ta cần rồi click trái lần nữa là xong.
    – Khi thiết kế để dễ dàng trong khi vẽ, ta nên bật ô lưới ( Gird) thông qua
    phím tắt G.
    – trong quá trình nối dây, một điều hữu ích là proteus tạo ra các đường vuông
    góc khi ta nối dây theo đường chéo làm cho mạch thiết kế đẹp hơn. Muốn thế ta
    phải bật biểu tượng ( Wire Auto Router) trên thanh tác vụ hình 2.6.
    Hình 2.1.11. Hai cách vẽ trong chương trình khi không bật và có bật biểu tượng
    Wire Auto Router
    – Nối các dây dẫn trên BUS với nhau:
    Một ưu điểm của mạch mô phỏng là ta có thể liên kết 2 dây với nhau mà
    không cần đi dây bằng cách chọn vào biểu tượng “LBL” trên thanh công cụ,
    sau đó tiến hành đặt tên cho các đường dây. Các đường dây nối với nhau thì ta
    đặt nhãn giống nhau.
    Hình 2.1.12. Cách đặt tên nhãn trong nối dây BUS.
    2.1.3.5. Chỉnh sửa các thông số cho linh kiện.
    14
    – Trong trường hợp mạch điện cần sử dụng nhiều linh kiện giống nhau và
    khác nhau về thông số kĩ thuật thì để vẽ mạch nhanh nhất ta không nhất thiết
    phải tìm đúng từng linh kiện có thông số kĩ thuật chính xác. Nếu lấy từng linh
    kiện đúng với thông số cần tìm sẽ mất rất nhiều thời gian và đôi lúc thư viện
    không có linh kiện đó. Vì vậy, ta cần phải sửa các thông số kĩ thuật cho linh
    kiện. Để làm điều đó ta chỉ cần click đúp trái vào linh kiện và cửa sổ chỉnh sửa
    sẽ xuất hiện. Tùy từng linh kiện mà ta có thể chỉnh sửa giá trị điện trở hoặc điện
    áp, tần số …Sau đó nhấp OK để hoàn tất quá trình chỉnh sửa.
    Hình 2.1.13. Cửa sổ chỉnh sửa thông số cho điện trở
    – Với đa số các linh kiện nói chung thì việc sửa linh kiện tương đối đơn giản,
    nhưng với nguồn xoay chiều thì cần lưu ý:
    Ở phần tìm kiếm ta gõ Vsine và sau khi click đúp trái thì sẽ hiển thị khung
    thông số kĩ thuật của nguồn xoay chiều này.
    Với nguồn xoay chiều 220v, tần số 50 hz thì Amplitude được tính bằng giá
    trị điện áp tức thời nên sẽ bằng 220 nhân căn 2 bằng 311,111 ta lấy tròn 312v.
    15
    Hình 2.1.14. Nguồn xoay chiều trước và sau khi thay đổi thông số kĩ thuật.
    Hình 2.1.15. Mô phỏng điện áp của nguồn xoay chiều 220v.
    – Ngoài ra, trong chương trình mô phỏng mạch điện công nghệ 12 thì biến áp
    cũng được sử dụng khá nhiều. Với biến áp thì ta cần lưu ý tới một số vấn đề sau:
    Ở phần tìm kiếm ta chọn từ khóa Tran 2p2s (với biến áp một đầu vào, một
    đầu ra) hoặc tran 2p3s (với biến áp một đầu vào, hai đầu ra) sau khi lấy linh kiện
    đặt vào vùng làm việc ta click đúp trái vào linh kiện và bảng điều chỉnh thông số
    của biến áp xuất hiện.
    Hình 2.1.16. Biến áp loại 2P2S, 2P3S khi chưa thay đổi thông số kĩ thuật.
    16
    Ở đây, ta cần quan tâm tới:
    Primary inductance: cảm kháng cuộn sơ cấp ký hiệu là : PI.
    Secondary Inductance: cảm kháng cuộn thứ cấp ký hiệu là : SI.
    Vi: điện áp vào.
    Vo: điện áp ra.
    Ta có công thức xác định cảm kháng cuộn sơ cấp là: PI=SI∗(Vi/Vo)2
    Ví dụ: điện áp vào 220V, qua biến áp hạ áp xuống 12V.
    Thì với biến áp một đầu vào một đầu ra ta chọn: SI=1 H nên PI= (220/12)2= 336
    H.
    Còn với biến áp một đầu vào hai đầu ra ta chọn SI=1 H nên PI= (220/24)2=
    169 H. (do có hai đầu ra nên muốn điện áp trên mỗi đầu ra bằng 12v thì hai đầu
    ra phải bằng 24v).6
    Vậy các thông số của biến áp trên proteus chúng ta sẽ phải cài đặt như sau:
    Hình 2.1.17. Biến áp loại 2P2S, 2P3S khi đã thay đổi thông số kĩ thuật.
    17
    Và kết quả thu được thông qua quá trình mô phỏng:
    Hình 2.1.18. Quá trình mô phỏng điện áp đầu vào, đầu ra của biến áp loại
    2P3S và 2P2S.
    2.1.3.6. Chạy mô phỏng mạch điện.
    * Để chạy mô phỏng ta click vào các biểu tượng cuối
    trang thiết kế để chạy mô phỏng, tạm dừng hay tắt mô phỏng. Và trong quá trình
    mô phỏng muốn xem đường đi của chiều dòng điện thì ta click trái vào System
    và chọn Set Animation Options rồi đánh dấu vào ô Show Wire Voltage by
    colour? , Show Wire Current with Arrows?.
    Hình 2.1.19. Cửa sổ làm việc của System
    Hình 2.1.20. Cửa sổ thể hiện đường đi chiều dòng điện.
    18
    * Trong quá trình chạy mô phỏng nếu muốn xem giản đồ dạng sóng của
    mạch điện thì ta có hai cách
    + Cách 1: Vào Graphs Mode chọn analogue sau đó tạo khung mô tả bằng
    cách kéo, thả chuột. Di chuyển các điện áp cần xem dạng sóng vào khung mô tả.
    Lưu ý muốn xem được dạng sóng ta vào Graph trên thanh công cụ chọn
    Simulate Graph. Và muốn xem dạng sóng rõ hơn ta click hai lần vào khung mô
    tả để thay đổi thời gian bắt đầu và kết thúc của việc mô phỏng

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Dạy học môn Công nghệ lớp 11 và 12 theo định hướng giáo dục Stem

    SKKN Dạy học môn Công nghệ lớp 11 và 12 theo định hướng giáo dục Stem

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động
    ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước;
    trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực, ngày 04/5/2017
    Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực
    tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, một trong các giải
    pháp được nêu ra trong chỉ thị này là cần “thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội
    dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng
    tiêp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy
    đào tạo về khoa hoc, công nghệ, kỹ thuật và toán hoc (STEM)”.
    Tiêp đó, trong Chương trình giáo dục phổ thông – Chương trình tổng thể được
    công bố vào tháng 7/2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xác định: “Cùng với
    Toán học, Khoa học tự nhiên và Tin học, môn học Công nghệ góp phần thúc đẩy
    giáo dục STEM, một trong những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở nhiều
    quốc gia trên thế giới và được quan tâm thích đáng trong đổi mới giáo dục phổ
    thông lần này của Việt Nam”.
    Đến ngày 14/8/2020, Bộ Giáo dục và đào tạo đã có công văn 3089/BGDĐTGDTrH về việc triển khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học, đã
    hướng dẫn một số nội dung nhằm hỗ trợ các trường phổ thông triển khai thực hiện
    có hiệu quả giáo dục STEM, với mục đích tăng cường áp dụng giáo dục STEM
    trong giáo dục trung học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của Chương trình giáo
    dục phổ thông năm 2018.
    Đánh giá cao tính hiệu quả của dạy học theo định hướng giáo dục STEM, Sở
    Giáo dục và đào tạo đã có công văn số 1303/SGDĐT-GDTrH ngày 08/09/2020 về
    việc triển khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học từ năm 2020-
    2021. Trong đó chỉ rõ: đưa nội dung Hội giảng tiết học STEM, hoạt động trải
    nghiệm STEM, hội thảo STEM, ngày hội STEM, hoạt động nghiên cứu khoa học,
    … vào các hoạt động chuyên môn của các nhà trường.
    Bên cạnh đó, như các môn học và hoạt động giáo dục khác, môn Công nghệ là
    môn học có vai trò quan trọng trong giáo dục phổ thông tại Việt Nam và nhiều
    quốc gia trên thế giới. Chương trình môn Công nghệ phản ánh những tri thức phổ
    2
    thông, thiết thực, gắn với thực tiễn mà học sinh cần phải có, nhiều nội dung công
    nghệ thật sự hấp dẫn, bổ ích, đồng thời bảo đảm tính mở nhằm đáp ứng sự đa dạng,
    phong phú của công nghệ, nhu cầu, sở thích của học sinh, phù hợp với đặc điểm
    của từng địa phương và gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương;
    phản ánh được tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hơn
    nữa, môn công nghệ có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực giáo dục khác, đặc biệt là
    với toán học và các môn khoa học tự nhiên bởi cùng với toán học, các môn khoa
    học tự nhiên, môn công nghệ góp phần thúc đẩy giáo dục STEM – một trong
    những xu hướng giáo dục đang được coi trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong
    đó có Việt Nam.
    Với những điều kiện trên và qua việc vận dụng dạy học môn Công nghệ theo
    định hướng giáo dục STEM tại trường THPT A Hải Hậu, chúng tôi đề xuất sáng
    kiến kinh nghiệm “Dạy học môn Công nghệ 11 và 12 theo định hướng giáo dục
    STEM”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Chương trình môn Công nghệ gắn với thực tiễn cuộc sống, khoa học công
    nghệ phát triển từng ngày từng giờ đòi hỏi giáo viên ngoài việc nắm vững chuyên
    môn phải luôn luôn tích cực cập nhật kiến thức mới và vận dụng trong bài giảng.
    Trong thực tế không nhiều giáo viên quan tâm và chú trọng đến việc cập nhật sự
    phát triển của các công nghệ hiện đại, các máy móc hiện đại, …vào trong bài giảng
    mà chỉ dạy theo nội dung đã có trong sách giáo khoa.
    Bên cạnh đó, năng lực của giáo viên công nghệ chưa thực sự đồng đều, kỹ
    năng sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt
    động dạy học ở một số giáo viên chưa tốt. Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin
    vào trong hoạt động dạy học đã tăng về số lượng song còn hạn chế về chất lượng
    các tiết học. Đặc biệt, năng lực thực hành của giáo viên chưa cao vì vậy một số tiết
    dạy thực hành chưa thực sự thuyết phục được người học. Nhiều giáo viên vẫn đang
    có thói quen dạy theo phương pháp truyền thống, truyền đạt một chiều và thiếu
    năng lực thiết kế các hoạt động sáng tạo của học sinh. Khi thiết kế bài học, giáo
    viên chủ yếu dựa vào thông tin sách giáo khoa mà chưa chú trọng đến các hoạt
    động vận dụng, tìm tòi mở rộng. Đó là chưa nói đến trang thiết bị cơ sở vật chất
    phục vụ giảng dạy môn công nghệ còn thiếu thốn nhiều.
    3
    Trong những năm học gần đây, nhận thức của các cấp quản lý giáo dục, của
    các nhà trường và xã hội đã có nhiều thay đổi, đã có nhiều đổi mới trong dạy học
    nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của người học theo hướng dạy học theo chủ
    đề tích hợp liên môn, dạy học gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương. Trong
    đó, dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức
    liên quan đến hai hay nhiều môn học. Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có
    nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng
    của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội. Ví dụ:
    Kiến thức Vật lý và Công nghệ trong động cơ, máy phát điện,… Đối với học sinh,
    các chủ đề tích hợp liên môn có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học
    sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các
    chủ đề tích hợp liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp
    vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy
    móc, nhờ đó năng lực và phẩm chất của học sinh được hình thành và phát triển.
    Song số tiết dạy theo hướng tích hợp liên môn không nhiều và phần lớn giáo viên
    chỉ đảm bảo về số lượng tiết dạy theo yêu cầu mà chưa thực sự chú ý đến chất
    lượng dạy học
    Ba năm trở lại đây, định hướng dạy học môn Công nghệ gắn với sản xuất kinh
    doanh tại địa phương là phương thức dạy học đã được Bộ Giáo dục và đào tạo
    quan tâm, đẩy mạnh, đồng thời các trường vận dụng ở nhiều bộ môn. Dưới dạng
    công cụ, thiết bị dạy học, các thành tố của hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ giúp
    cho quá trình học tập của học sinh trở lên hấp dẫn, hứng thú hơn, giúp học sinh
    hiểu bài sâu sắc hơn, giúp học sinh được trải nghiệm thực tiễn cuộc sống và sản
    xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phương thức dạy học này thường chỉ được giáo viên
    vận dụng ở hình thức tham quan, nhiều giáo viên còn lúng túng về tổ chức dạy học
    tích hợp, dạy học gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương, họ vẫn quen dạy học
    từng đơn vị nội dung rời rạc. Điều này làm cho học sinh tiếp thu được những nội
    dung rời rạc, ít có ý nghĩa đối với học sinh.
    Mặt khác, trong giáo dục truyền thống bốn lĩnh vực quan trọng: Khoa học,
    Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học được xây dựng và giảng dạy một cách độc lập.
    Mặc dù dạy theo cách này vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc cung cấp
    những kiến thức cơ bản thuộc các lĩnh vực trên. Nhưng sự tách rời này cũng sẽ
    đem đến một khoảng cách lớn giữa học và thực hành, giữa nhà trường và doanh
    nghiệp bởi nhà trường dạy theo các môn học nhưng cuộc sống thực tiễn thì lại
    4
    không tồn tại theo các môn độc lập như trong nhà trường mà là những vấn đề mang
    tính phức hợp. Học sinh được đào tạo theo mô hình truyền thống sẽ cần thời gian
    để thích nghi, để hiểu được làm thế nào để từ cơ sở lí thuyết, nguyên lí, những kiến
    thức được học trong trường chuyển thành các ứng dụng thực tế. Hơn nữa, tư duy
    liên kết các sự vật, hiện tượng với các ứng dụng và kĩ thuật cũng rất hạn chế bởi
    trong chính quá trình giảng dạy định hướng nội dung, Học sinh không có điều kiện
    để thấy được những biểu hiện thực tiễn của kiến thức trong cuộc sống…
    Mặt khác, ngành Giáo dục chuẩn bị triển khai chương trình giáo dục phổ
    thông mới. Sự thay đổi này vừa là động lực, thách thức, nhưng cũng là yêu cầu đội
    ngũ giáo viên phải đổi mới mình để thích ứng, làm nên thành công cho sự nghiệp
    trồng người. Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đặt ra các yêu cầu về
    chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, phong cách, phẩm chất nghề nghiệp đối với đội
    ngũ giáo viên trong việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy
    học và đánh giá kết quả dạy học theo năng lực, hướng tới phát triển năng lực và
    phẩm chất người học. Để đáp ứng chương trình môn học 2018, bên cạnh việc nắm
    vững nội dung chương trình môn học, giáo viên cần thiết phải đổi mới đồng bộ
    phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực và
    phẩm chất người học. Và giáo dục STEM trở thành một xu hướng giáo dục mang
    tính toàn cầu và là một phương thức giáo dục cần được phát huy bởi giáo dục
    STEM nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học gắn liền với ứng
    dụng của chúng trong thực tiễn. Nội dung bài học theo chủ đề (bài học) STEM gắn
    với việc giải quyết tương đối trọn vẹn một vấn đề, trong đó học sinh được tổ chức
    tham gia học tập một cách tích cực, chủ động và biết vận dụng kiến thức vừa học
    để giải quyết vấn đề đặt ra; thông qua đó góp phần hình thành phẩm chất năng lực
    cho học sinh.
    Có thể thấy, về cơ bản dạy học tích hợp liên môn và dạy học gắn với sản xuất
    kinh doanh là một hình thức của giáo dục STEM, nhưng trong dạy học tích hợp
    liên môn và dạy học gắn với sản xuất kinh doanh chưa chú ý phát triển các môn
    thuộc thành phần STEM mà thường chỉ hai hay ba hay bốn môn hoặc nội môn.
    Đặc biệt, vai trò của giáo dục STEM như là một giải pháp quan trọng và hiệu quả
    nhằm phát triển toàn diện cho học sinh. Trong khi đó quá trình dạy học hiện nay
    với mục tiêu giáo dục nhằm phát triển năng lực cho học sinh hình thành những kĩ
    năng học tập và lao động trong thế kỉ 21 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và đây cũng
    là mục tiêu mà giáo dục STEM hướng tới.
    5
    Môn Công nghệ (Chương trình Giáo dục phổ thông 2018) tiếp thu được
    những xu hướng lớn về giáo dục công nghệ như: Mô hình năng lực công nghệ,
    chuẩn hiểu biết công nghệ phổ thông; một số mô hình giáo dục kỹ thuật như mô
    hình định hướng thủ công; mô hình định hướng thiết kế; mô hình công nghệ đại
    cương…; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông; tiếp cận giáo dục STEM
    và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên ở các nhà trường chưa được trang
    bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị dạy học tối thiểu theo yêu cầu; có rất ít trường
    THPT có phòng học bộ môn Công nghệ theo định hướng thực hành và trải nghiệm,
    kết nối và hỗ trợ với hoạt động giáo dục STEM, nghiên cứu khoa học kĩ thuật dành
    cho học sinh trung học, vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực
    tiễn. Và mặc dù người giáo viên khá quen thuộc với dạy học theo chủ đề tích hợp
    liên môn hay dạy học môn Công nghệ gắn với sản xuất kinh doanh nhưng dạy học
    theo định hướng giáo dục STEM lại là mới mẻ với giáo viên và gây nhiều lúng
    túng cho giáo viên, bởi nhiều giáo viên còn chưa nắm được việc sử dụng các hình
    thức tổ chức giáo dục STEM như thế nào? Làm thế nào để xây dựng được các bài
    học STEM phù hợp với chương trình môn Công nghệ hiện hành, đảm bảo phù hợp
    với điều kiện hiện tại của nhà trường mà đáp ứng tiếp cận chương trình giáo dục
    phổ thông 2018. Đó là những vấn đề chưa được làm sáng tỏ, và những vấn đề này
    sẽ được làm rõ trong phần mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến của đề tài.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
    I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC STEM TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
    1. Trên thế giới
    STEM là cơ sở cho những chính sách quan trọng của các quốc gia trong việc
    phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ mục tiêu phát triển và cạnh
    tranh kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới. Giáo dục STEM đang dần trở thành
    một xu hướng giáo dục mang tính toàn cầu và ở một số nước giáo dục STEM đang
    phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Pháp, Anh, Malaysia, …
    Tại Mỹ, giáo dục STEM đã được quan tâm từ rất sớm, dưới thời tổng thống
    Barack Obama, Chính phủ Mỹ khuyến khích các trường phổ thông xây dựng các
    lớp học về STEM, hợp tác với các trường Đại học, các doanh nghiệp giúp phát
    triển giáo dục STEM trong nhà trường.
    Tại Pháp, giáo dục STEM được bao phủ ở mọi cấp học. Ở cấp Trung học
    phổ thông của Pháp, giáo dục STEM được dành thời lượng đáng kể. Trong năm
    6
    đầu tiên, mỗi tuần HS học Toán học 4 giờ; học Vật lí, Hóa học, Thực hành thể
    thao, Vũ trụ 3 giờ. Tuy nhiên chỉ có ½ giờ mỗi tuần cho nghiên cứu về Khoa học
    đời sống và trái đất. Môn học này được dạy thông qua ba chủ đề: cơ thể con người
    và sức khỏe; trái đất và các hành tinh; hành trình tiến hóa của sự sống. Cũng trong
    năm học đầu tiên HS được tham gia vào chủ đề khám phá có liên quan đến
    STEM như: Công nghệ sinh học; Y tế và xã hội; Phát minh và đổi mới công
    nghệ, kĩ thuật…
    Tại Anh, giáo dục STEM đã được phát triển thành một chương trình quốc
    gia ở Anh với mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học chất lượng cao.
    Một số cách đưa giáo dục STEM vào chương trình học tại Anh là [10]: (1) Dự án
    STEM được dạy trong một môn học duy nhất, ở đó giáo viên tổ chức cho học sinh
    thiết lập vấn đề, thiết kế phương pháp giải quyết vấn đề, thu thập các thông tin,
    bằng chứng và cuối cùng là rút ra những kết luận. (2) Dự án STEM được dạy
    trong nhiều môn học. Theo cách này, các giáo viên khác nhau sẽ dạy cùng một chủ
    đề STEM nhưng tiếp cận theo góc độ chuyên môn của mình. (3) Dự án STEM
    phối hợp nhiều môn học, các môn học vẫn tiếp cận chủ đề theo góc độ kiến
    thức chuyên môn riêng. Những nội dung được giải quyết trong môn học trước
    sẽ là tiền đề nối tiếp để dạy ở môn học sau. (4) Dự án STEM được thực hiện
    song song với chương trình học. Học sinh sẽ học các môn học một cách bình
    thường, tuy nhiên song song với đó học sinh sẽ tham gia vào một dự án STEM,
    học sinh sẽ vận dụng các kiến thức được học để giải quyết các vấn đề mà dự án đặt
    ra.
    Tại Malaysia, các nhà lãnh đạo quan tâm và nhấn mạnh vai trò giáo dục
    STEM trong chiến lược phát triển giáo dục của quốc gia. Vào tháng 9/2013, Thủ
    tướng Malaysia ông Datuk Seri Najib Razak phát biểu: Malaysia dự kiến 60% trẻ
    em và thanh thiếu niên tham gia chương trình giáo dục về khoa học, công nghệ, kỹ
    thuật và toán học (STEM) và sự nghiệp cho một tương lai tốt đẹp hơn của đất
    nước. Najib cho biết trẻ em và thanh thiếu niên có thể bị cuốn hút bởi khoa học
    thông qua một phương pháp giảng dạy và học tập thú vị hơn. Đó là hãy cho họ
    tham gia vào các dự án thực tế và cung cấp cho họ một số dự án đầy thách thức để
    tìm giải pháp so với cách tiếp cận từ trên xuống mà ông cảm thấy khá là nhàm
    chán.
    Cho đến nay, giáo dục STEM đã và đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước
    trên thế giới như Mỹ, Úc, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, … Có thể dễ nhận thấy giáo dục
    7
    STEM như là một giải pháp trong cải cách giáo dục của các quốc gia nhằm hướng
    tới phát triển con người nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển
    của quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa đầy cạnh tranh.
    2. Ở Việt Nam
    Mặc dù mới xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây, song Giáo dục
    STEM bước đầu đã dành được sự quan tâm của cộng đồng và các cơ quan chức
    năng đặc biệt là từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo.
    Trong hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục Trung học năm học 2014 –
    2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhấn mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn
    đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực
    ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học. Quán triệt tinh thần
    giáo dục tích hợp giáo dục STEM trong việc thực hiện chương trình giáo dục phổ
    thông ở những môn học liên quan.
    Năm học 2015-2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khuyến khích các giáo viên
    vận dụng nội dung STEM trong chương trình giáo dục đào tạo. Và tháng 1 năm
    2016 Dự án thí điểm “Áp dụng phương pháp giáo dục STEM của Vương quốc
    Anh vào bối cảnh Việt Nam 2016- 2017” được triển khai.
    Đến nay (năm học 2020-2021), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai công
    văn số 3089/BGDĐT-GDTrH về việc triển khai thực hiện giáo dục STEM trong
    giáo dục trung học với mục đích nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí và giáo
    viên về vị trí, vai trò và ý nghĩa của giáo dục STEM trong trường trung học; thống
    nhất nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức thực hiện giáo dục STEM
    trong nhà trường. Tăng cường áp dụng giáo dục STEM trong giáo dục trung học
    nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông năm
    2018. Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lí và giáo viên về việc tổ chức, quản lý,
    xây dựng và thực hiện dạy học theo phương thức giáo dục STEM. Đầu năm học
    này, nhiều trường học trong cả nước đã tổ chức bồi dưỡng đào tạo về giáo dục
    STEM với hàng ngàn lượt giáo viên tham gia. Đây là bước đi quan trọng nhằm
    phát triển một chương trình giáo dục theo định hướng STEM mang tầm quốc gia.
    Môn Công nghệ trong chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam đã
    bao hàm cả yếu tố Công nghệ và Kĩ thuật là hai trong bốn yếu tố trong giáo
    dục STEM. Yếu tố Công nghệ thể hiện ở môn học cung cấp cho học sinh những
    kiến thức hiểu biết về sự phát triển của Công nghệ, hiểu được những tác
    động của Công nghệ tới cuộc sống hàng ngày. Yếu tố Kĩ thuật thể hiện ở môn học
    8
    vận dụng các kiến thức Khoa học tự nhiên, Toán học trong việc thiết kế các quy
    trình, các hệ thống.
    Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, tính tích hợp các kiến thức
    của các lĩnh vực khác trong Công nghệ đã được thể hiện. Đặc biệt, Công nghệ
    luôn gắn với thực tiễn, học tập môn Công nghệ luôn được tiếp cận theo định
    hướng sản phẩm, yếu tố thiết kế trong Công nghệ được nhấn mạnh. Do vậy, có
    nhiều điểm thuận lợi khi dạy học môn Công nghệ theo định hướng giáo dục
    STEM.
    Như vậy, hiện nay trên thế giới và Việt Nam, giáo dục STEM được hiểu dưới
    nhiều góc độ khác nhau; giáo dục STEM nhằm đào tạo nguồn nhân lực lao động
    chất lượng cao. Theo nghĩa hẹp có thể hiểu giáo dục STEM bản chất là dạy học
    tích hợp của các lĩnh vực là Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học.
    II. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
    1. Khái niệm về giáo dục STEM
    STEM là thuật ngữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công
    nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học). Giáo dục STEM là
    những hoạt động giáodục có tính chất liên ngành khi đề cập từ hai trong các lĩnh
    vực/môn học Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học trở lên. Trong đó nội
    dung học tập được gắn với thực tiễn, phương pháp dạy học định hướng hành
    động”.
    Thuật ngữ STEM được dùng trong hai ngữ cảnh khác nhau đó là ngữ cảnh
    giáo dục và ngữ cảnh nghề nghiệp:
    Trong ngữ cảnh giáo dục, STEM được hiểu với nghĩa là giáo dục STEM
    trong đó [12]:
    Science (Khoa học): Là môn học nhằm phát triển khả năng sử dụng các
    kiến thức Khoa học (Vật lí, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất) của học sinh,
    không chỉ giúp học sinh hiểu về thế giới tự nhiên mà còn có thể vận dụng kiến thức
    đó để giải quyết các vấn đề khoa học trong cuộc sống hàng ngày.
    Technology (Công nghệ): Là môn học nhằm phát triển khả năng sử
    dụng, quản lí, hiểu và đánh giá công nghệ của học sinh. Nó cung cấp cho học sinh
    những
    cơ hội để hiểu về công nghệ được phát triển như thế nào, cung cấp cho HS
    những kĩ năng để có thể phân tích được sự ảnh hưởng của công nghệ mới tới
    cuộc sống hàng ngày của học sinh và của cộng đồng…
    9
    Engineering (Kĩ thuật): Là môn học nhằm phát triển sự hiểu biết ở học
    sinh vềcách công nghệ đang phát triển thông qua quá trình thiết kế kĩ thuật. Kĩ
    thuật cung cấp cho học sinh những cơ hội để tích hợp kiến thức của nhiều môn
    học, giúp cho những khái niệm liên quan trở nên tường minh trong cuộc sống của
    họ. Kĩ thuật cũng cung cấp cho học sinh những kĩ năng để có thể vận dụng sáng
    tạo cơ sở Khoa học và Toán học trong quá trình thiết kế các đối tượng, các hệ
    thống hay xây dựng các quy trình sản xuất.
    Mathematics (Toán học): Là môn học nhằm phát triển ở học sinh khả
    năng phân tích, biện luận và truyền đạt ý tưởng một cách hiệu quả thông qua việc
    tính toán, giải thích, các giải pháp giải quyết các vấn đề toán học trong các tình
    huống đặt ra.
    Với nội hàm các môn học như trên, liên hệ với chương trình giáo dục
    phổ thông Việt Nam hiện hành ta dễ dàng nhận thấy môn Khoa học tương ứng
    với các môn Khoa học tự nhiên ở Việt Nam như: Vật lí, Hóa học, Sinh học.
    Ở Việt Nam môn Công nghệ đã bao hàm cả yếu tố Công nghệ và Kĩ thuật, do vậy
    Môn Công nghệ và môn Kĩ thuật trên thế giới tương ứng với môn Công nghệ
    và môn Tin học ở Việt Nam. Vì vậy, trong đề tài này vận dụng vào bối cảnh
    giáo dục Việt Nam nội dung giáo dục STEM sẽ bao hàm nội dung của các môn
    học là Vật lí, Hóa học, Sinh học, Công nghệ, Tin học và Toán.
    Có thể thấy giáo dục STEM là mô hình giáo dục dựa trên cách tiếp cận liên
    môn, giúp học sinh áp dụng các kiến thức khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán
    học vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh cụ thể. Nội dung chủ đề
    STEM gắn với việc giải quyết tương đối trọn vẹn một vấn đề, trong đó học sinh
    được tổ chức tham gia học tập một cách tích cực, chủ động và biết vận dụng kiến
    thức vừa học để giải quyết vấn đề đặt ra, thông qua đó giúp hình thành, phát triển
    phẩm chất và năng lực cho học sinh.
    – Đối với ngữ cảnh nghề nghiệp, STEM được hiểu là nghề nghiệp thuộc các
    lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học.
    Tác giả Nguyễn Thị Nga và cộng sự của khoa Toán – Tin học trường Đại
    học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: [11] Giáo dục STEM là phương
    pháp tiếp cận, khám phá trong giảng dạy và học tập giữa hai hay nhiều hơn các
    môn học STEM, hoặc giữa một chủ đề STEM và một hoặc nhiều môn học khác
    trong nhà trường.
    2. Các năng lực và phẩm chất được phát triển thông qua dạy học STEM
    10
    Giáo dục STEM đề cao đến việc hình thành và phát triển các năng lực và
    phẩm chất người học. Khi triển khai các dự án học tập STEM, học sinh hợp tác với
    nhau, chủ động và tự lực thực hiện các nhiệm vụ học; được làm quen hoạt động có
    tính chất nghiên cứu khoa học. Các hoạt động nêu trên góp phần tích cực vào hình
    thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh.
    – Năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác, giải quyết
    vấn đề và sáng tạo. Theo chủ đề (bài học) STEM, học sinh được đặt trước một tình
    huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa học. Để
    giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc các
    môn học có liên quan đến vấn đề (qua sách giáo khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm,
    thiết bị công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra. Do đó đã phát
    triển năng lực giải quyết vấn đề. Đồng thời, phát triển năng lực sáng tạo cho học
    sinh bởi qua các chủ đề STEM học sinh tự lực phát hiện vấn để mới, tình huống
    mới từ những tình huống quen thuộc liên quan đến kỹ thuật; từ đó đề xuất giải
    pháp kỹ thuật mới, tối ưu trên cơ sở kế thừa các giải pháp kỹ thuật đã có, hay tự đề
    xuất được giải pháp kỹ thuật phù hợp đem lại hiệu quả cao mà không tham khảo
    các giải pháp đã có. Hoặc trong những điều kiện cho trước có thể hình thành mô
    hình đề xuất hoặc dự đoán hệ quả suy ra từ giả thuyết hay đưa ra phương án kiểm
    tra giả thuyết và hệ quả suy ra từ giả thuyết với hiệu quả cao nhất. Mặt khác qua
    các chủ đề STEM, học sinh theo nhóm hoàn thành nhiệm vụ được giao, nhờ đó
    phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực tự chủ và tự học.
    – Qua các bài học STEM giúp phát triển được cho học sinh phẩm chất yêu
    nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
    – Các năng lực chuyên môn tương ứng với 4 thành tố của STEM theo đó
    cũng được hình thành như năng lực công nghệ (với 5 năng lực thành phần: nhận
    biết công nghệ, giao tiếp công nghệ, sử dụng công nghệ, đánh giá công nghệ và
    thiết kế công nghệ, biểu hiện thông qua việc: sử dụng được và hiểu bản chất của
    ngôn ngữ kỹ thuật, hoạt động thử – tìm tòi, kiểm tra bảo dưỡng khảo sát, đo đạc,…;
    hoạt động thiết kế kỹ thuật, vẽ sơ đồ nguyên lý,…); năng lực khoa học và năng lực
    toán học. Trong đó năng lực khoa học biểu hiện thông qua kỹ năng khoa học (là
    khả năng liên kết các khái niệm, nguyên lý, định luật và cáccơ sở lý thuyết của
    giáo dục khoa học để thực hành và sử dụng kiến thức này để giải quyết các vấn đề
    trong thực tế) và năng lực toán học được biểu hiện qua kĩ năng toán học (khả năng
    nhìn nhận và nắm bắt được vai trò của toán học trong mọi khía cạnh tồn tại trên thế
    11
    giới; học sinh có kỹ năng toán học sẽ có khả năng thể hiện các ý tưởng một cách
    chính xác, áp dụng các khái niệm và kĩ năng toán học vào cuộc sống hằng ngày).
    3. Một số phương pháp và kĩ thuật tổ chức dạy học theo định hướng giáo dục
    STEM
    Trong dạy học theo định hướng giáo dục STEM, các phương pháp và kĩ thuật
    dạy học tích cực được sử dụng để tạo động cơ, thúc đẩy nhu cầu khám phá và hỗ
    trợ xây dựng, tổ chức các hoạt động nhận thức tích cực ở người học. Một số
    phương pháp dạy học tích cực thường được sử dụng trong dạy học môn Công nghệ
    theo định hướng giáo dục STEM là: dạy học giải quyết vấn đề, dạy học dự án, dạy
    học khám phá; các kĩ thuật dạy học: công não, khăn trải bàn, sơ đồ tư duy, phòng
    tranh, …
    3.1. Một số phương pháp dạy học tích cực
    * Dạy học giải quyết vấn đề
    – Bản chất: Dạy học giải quyết vấn đề là một quan điểm dạy học mà bản chất
    là đặt ra trước học sinh một hệ thống các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu
    thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển học sinh vào tình huống có vấn đề,
    kích thích học sinh tự giác, có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề, kích thích
    hoạt động tư duy tích cực của học sinh trong quá trình giải quyết vấn đề, điều này
    làm cho học sinh tích cực tự giác trong việc giành lấy kiến thức một cách chủ động
    để ‘giải quyết vấn đề’ được hiểu là cách thức cá nhân sử dụng kiến thức đã có,
    những kĩ năng, và sự hiểu biết của mình để đáp ứng nhu cầu của một tình huống
    không quen thuộc. Người học phải tổng hợp những gì đã học được và áp dụng vào
    một hoàn cảnh mới và khác nhau.
    – Điều kiện sử dụng: Cần tạo ra tình huống có vấn đề phù hợp, hiệu quả; thời
    gian phù hợp. Cần đảm bảo một số phương tiện thực hiện giải quyết vấn đề nhất là
    với các vấn đề cần khảo sát, thí nghiệm…
    – Cách tiến hành:
    Bước 1. Nhận biết vấn đề: Tạo tình huống có vấn đề; phát hiện và nhận dạng
    vấn đề nảy sinh; phát biểu vấn đề cần giải quyết.
    Bước 2. Lập kế hoạch giải quyết vấn đề: Đề xuất các giả thuyết; đưa ra các
    phương án và lập kế hoạch giải quyết vấn đề.
    Bước 3. Thực hiện kế hoạch: cần đánh giá việc thực hiện giả thuyết đặt ra đã
    đúng chưa, nếu đúng thì chuyển sang bước tiếp theo, nếu chưa đúng thì quay lại
    bước 2 để chọn giả thuyết khác.
    12
    Bước 4. Kiểm tra, đánh giá và kết luận: Thảo luận kết quả và đánh giá; khẳng
    định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu; phát biểu kết luận; đề xuất vấn đề mới.
    * Dạy học dự án
    – Bản chất: Dạy học theo dự án theo nghĩa rộng là một phương pháp dạy học,
    trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí
    thuyết và thực hành. Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, nhiệm vụ này được người học
    thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình: từ việc xác định mục đích
    học tập, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá
    quá trình và kết quả thực hiện. Kết quả dự án học tập là những sản phẩm có thể
    trình bày, giới thiệu.
    – Điều kiện sử dụng: Chủ đề dự án xuất phát từ những tình huống thực tiễn, có
    nhiều nội dung thực hành; thời gian phù hợp; mang tính liên môn.
    – Cách tiến hành:
    Bước 1: Xác định chủ đề và mục tiêu của dự án học tập mà giáo viên và học
    sinh cùng nhau đề xuất, xác định chủ đề và mục tiêu của dự án học tập; trong đó
    giáo viên có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thể hóa.
    Xây dựng nội dung và kế hoạch thực hiện dự án: công việc, phương tiện, điều kiện,
    thời gian dự kiến, cách tiến hành và phân công công việc cụ thể.
    Bước 2: Thực hiện dự án: học sinh thực hiện các hoạt động cụ thể (lí thuyết,
    thực hành, điều tra, quan sát, thu thập số liệu, thông tin, phân tích, xử lí…) và tạo
    ra sản phẩm. Trong bước này, học sinh thường tiến hành các điều tra, quan sát cá
    nhân hoặc theo nhóm.
    Bước 3: Báo cáo và đánh giá dự án: Học sinh (đại diện nhóm) báo cáo quá
    trình thực hiện và kết quả có đối sánh với mục tiêu ban đầu, giới thiệu sản phẩm
    (báo cáo tổng hợp số liệu, kết luận hoặc sản phẩm cụ thể) và tự đánh giá. Giáo viên
    nhận xét và đánh giá.
    * Dạy học khám phá
    – Bản chất: Là cách thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh tự tìm tòi, khám
    phá phát hiện ra tri thức mới thông qua các hoạt động dưới sự định hướng của giáo
    viên.
    – Điều kiện sử dụng: Đa số học sinh phải có kiến thức, kĩ năng thực hiện các
    hoạt động khám phá được tổ chức. Giáo viên cần hiểu rõ khả năng khám phá của
    học sinh; từ đó, có sự hướng dẫn cần thiết, vừa đủ và phù hợp.
    – Cách tiến hành:
    13
    + Giai đoạn 1. Chuẩn bị: Giáo viên cần xác định mục đích về phẩm chất, năng
    lực cần hình thành ở người học qua các hoạt động học; xác định vấn đề cần khám
    phá (thường chứa đựng thông tin mới đặt dưới dạng câu hỏi hoặc bài tập nhỏ và
    đảm bảo vừa sức với học sinh); xác định nội dung vấn đề học tập mà học sinh cần
    đạt được trong quá trình khám phá; xác định cách thức báo cáo và đánh giá kết quả
    hoạt động khám phá.
    + Giai đoạn 2. Tổ chức học tập khám phá:
    Bước 1: Giao nhiệm vụ học tập.
    Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học tập khám phá
    Bước 3: Trình bày và đánh giá kết quả của hoạt động
    3.2. Một số kĩ thuật dạy học
    * Kĩ thuật công não
    – Khái niệm: Là kĩ thuật tổ chức phát triển nhiều giải đáp sáng tạo cho một
    vấn đề bằng cách nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, từ đó, rút ra rất nhiều đáp
    án căn bản.
    – Cách tổ chức:
    Bước 1. Chọn nhóm phát ý tưởng
    Bước 2. Chọn nhóm phê bình, tư duy sắc bén
    Bước 3. Chọn nhóm trưởng để điều phối phát ý tưởng
    Bước 4. Nhóm phát ý tưởng làm việc
    Bước 5. Nhóm phê bình làm việc
    Bước 6. Tổng hợp đánh giá
    – Ưu điểm: dễ thực hiện, không tốn kém, huy động nhiều ý kiến, tạo cơ hội
    cho tất cả học sinh.
    – Hạn chế: Có thể một số HS quá tích cực, hay đi lạc đề, mất thời gian chọn ý
    kiến thích hợp.
    * Kĩ thuật khăn trải bàn
    – Khái niệm: Là kĩ thuật tổ chức học tập mang tính hợp tác, kết hợp giữa hoạt
    động cá nhân và nhóm. Học sinh sử dụng giấy khổ lớn để ghi nhận ý kiến cá nhân
    và ý kiến chung của nhóm vào các phần được bố trí như khăn trải bàn.
    – Cách tổ chức:
    Bước 1. Chia HS thành nhóm nhỏ
    Bước 2. Học sinh chia tờ giấy thành các phần, gồm phần trung tâm và các
    phần xung quanh có số lượng bằng số thành viên trong nhóm.
    14
    Bước 3. Mỗi học sinh ngồi vào vị trí tương ứng, độc lập suy nghĩ, viết ý
    tưởng
    Bước 4. Nhóm thảo luận thống nhất câu trả lời ghi vào phần trung tâm.
    – Ưu điểm: thúc đẩy học sinh tham gia tích cực, tăng tính trách nhiệm mỗi cá
    nhân, huy động được trí tuệ tập thể, kết quả làm việc nhóm rõ ràng.
    – Hạn chế: yêu cầu về không gian lớp học, vật dụng và dụng cụ, đòi hỏi về
    thời gian phù hợp để học sinh hoạt động cá nhân và nhóm
    * Kĩ thuật sơ đồ tư duy
    – Khái niệm: Là kĩ thuật tổ chức học tập dưới hình thức trình bày thông tin
    trực quan, thông tin được sắp theo thứ tự ưu tiên và biểu diễn bằng các từ khoá,
    hình ảnh…
    – Cách tổ chức:
    Bước 1. Viết tên chủ đề ở trung tâm. Vẽ các nhánh chính từ chủ đề trung
    tâm. Trên mỗi nhánh viết một khái niệm ứng với nội dung lớn của chủ đề.
    Bước 2. Từ nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ, viết tiếp nội dung ngắn
    thuộc nhánh chính đó….
    – Ưu điểm: kích thích sự sáng tạo, tăng hiệu quả tư duy; dễ bổ sung, cấu trúc
    lại; tăng khả năng ghi nhớ
    – Hạn chế: vật liệu, dụng cụ chuẩn bị.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề chuyển hóa vật chất và năng lượng – Sinh học 11 cơ bản

    SKKN Thiết kế một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề chuyển hóa vật chất và năng lượng – Sinh học 11 cơ bản

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN VÀ HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới “căn bản toàn diện” giáo dục và đào tạo
    Đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra đối với tất cả các
    ngành học, cấp học của hệ thống giáo dục trong những thập kỉ đầu thế kỉ XXI.
    Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị Trung ương 8
    khóa XI vềĐổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục
    đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính
    tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc
    phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
    cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cật nhật và đổi mới tri
    thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
    hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu
    khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và
    học”. Những định hướng trên đặt ra cho các nhà quản lí, chỉ đạo giáo dục và đội
    ngũ GV một yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng là cần có những chuyển biến về
    nhận thức và hành động trong quá trình quản lí và dạy học ngay từ bây giờ để
    chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho công cuộc đổi mới giáo dục, đặc biệt
    hướng tới việc triển khai Đề án đổi mới chương trình và SGK giáo dục phổ
    thông sau 2015. Một trong những yêu cầu đổi mới trong dạy học là cần chú
    trọng phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động của HS trong học tập, để HS có
    thể trở thành chủ thể trong việc tiếp nhận tri thức và có năng lực vận dụng các
    kiến thức, kĩ năng tiếp nhận được trong học tập vào thực tiễn đời sống.
    Công văn 5555/BGDĐT-GDTrH của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc
    “hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
    tra, đánh giá; tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn của trường học/
    trung tâm giáo dục thường xuyên”,đã được Sở GD & ĐT Nam Định triển khai
    tập huấn sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn có đề cập đến mục đích tập trung vào
    thực hiện đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng
    lực của học sinh. Vì vậy, bản thân mỗi giáo viên không ngừng tự bồi dưỡng
    nâng cao kiến thức về PPDH và kiểm tra đánh giá thông qua sinh hoạt tổ nhóm
    chuyên môn, tổ chức dạy học, dự giờ, phân tích rút kinh nghiệm bài học minh
    2
    họa,… để thiết kế các hoạt động dạy học để hướng tới phát triển năng lực cho
    người học.
    2. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống.
    Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi tất cả các lĩnh
    vực, trong đó đặc biệt là khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,…dẫn đến
    sự chuyển biến nhanh chóng về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực ở nhiều
    quốc gia. Điều này đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những thay đổi một cách
    căn bản và toàn diện, từ triết lí, mục tiêu đến nội dung, phương pháp và hình
    thức tổ chức dạy – học;…nhằm phát triển cho người học hệ thống NL cần thiết
    để có thể tham gia hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và quốc tế. Vì
    vậy phát triển chương trình giáo dục phổ thông dựa trên tiếp cận NL là một lựa
    chọn tất yếu khách quan và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
    3. Xuất phát từ thực tế dạy học hiện nay ở bộ môn Sinh học nói
    chung, chủ đề đề chuyển hoá vật chất và năng lượng – sinh học 11 cơ bản
    nói riêng.
    Thực hiện đổi mới Chương trình và SGK, trong đó có hoạt động dạy học
    Sinh học theo hướng hình thành và phát triển năng lực, các kĩ năng cho HS.
    Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể có nhiều môn học mới,
    trong đó “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” (HĐTNST) góp phần quan trọng
    trong việc phát triển NL cho học sinh. Bởi vì học sinh được trực tiếp thực hiện
    các hoạt động trong môi trường cuộc sống sẽ kích thích và phát triển sự sáng tạo.
    Bất cứ một sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định,
    thúc đẩy, đánh giá và kiểm chứng, định hướng và cuối cùng là hiện thực hóa
    mục đích của sáng tạo. Vì vậy, mọi nội dung hay phương thức giáo dục đều phải
    tồn tại trong thựctiễn.
    HĐTNST là hoạt động giáo dục được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm,
    cuộc sống để HS trải nghiệm và sáng tạo. Chính điều này đòi hỏi các hình thức
    và phương pháp tổ chức các hoạt động đó phải đa dạng, linh hoạt, mang tính
    mở, HS tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    làmôhìnhdạyhọcgiúphọcsinh đượctrảinghiệmvớithựctiễn,đượctìmhiểuvà trực
    tiếp tham gia, làm chủ các tiết học, tạoramôitrườnghọctậpthân thiện. Từ
    đógópphần thựchiệnviệc“Chuyểnmạnh quátrìnhgiáodụctừchủ
    3
    yếutrangbịkiếnthứcsangpháttriểntoàndiệnnănglựcvàphẩm chấtngườihọc.
    Họcđiđôivớihành;lýluậngắnvớithựctiễn;giáodụcnhàtrườngkếthợpvới
    giáodụcgiađìnhvàgiáodụcxãhội”.
    Nội dung kiến thức phần chuyển hóa vật chất và năng lượng – Sinh học 11
    gần gũi, liên quan đến các vấn đề thực tiễn…là cơ hội để tổ chức hoạt động trải
    nghiệm cho học sinh.
    Với các lí do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Thiết kế một số hoạt
    động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề chuyển hoá vật
    chất và năng lượng – Sinh học 11 cơ bản”.
    4
    PHẦN II – MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Giáo viên
    Qua thăm dò và thực tế tôi nhận thấy, khi dạy chương trình Sinh học 11:
    – Giáo viên thường thiết kế các hoạt động dạy – học theo các đơn vị kiến
    thức trong SGK.
    – Giáo viên thường áp dụng các phương pháp dạy học truyền thống như:
    thuyết trình; vấn đáp; quan sát tranh hình SGK sau đó đặt câu hỏi để HS thảo
    luận để đưa ra kiến thức; …
    – Cuối chủ đề, GV nêu ra một số vấn đề tích hợp bảo vệ sức khỏe bản
    thân; bảo vệ môi trường…
    2. Học sinh
    – Phần lớn các em nằm ở thế bị động, nghe GV giảng, đọc, ghi chép và
    học thuộc.
    – Chưa nhìn nhận rõ tầm quan trọng và tính thực tiễn của bộ môn Sinh học
    trong cuộc sống.
    – Có những học sinh rất tích cực và cũng có học sinh còn thụ động trong
    quá trình tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.
    – Có những tình huống thực tiễn mà bản thân học sinh có thể phát huy
    năng lực sáng tạo nhưng học sinh không hoặc chưa có cơ hội tiếp cận.
    – Học sinh luôn hào hứng với cái mới, thích sự sáng tạo và thi đua lẫn
    nhau; luôn khao khát chiếm lĩnh tri thức và bằng tri thức giải thích được các
    hiện tượng khoa học tự nhên cũng như giúp bảo vệ sức khỏe bản thân, những
    người xung quanh.
    * Ưu, nhược điểm của phương pháp truyền thống
    + Ưu điểm:
    – GV không phải tốn nhiều thời gian cho việc soạn bài và chuẩn bị bài.
    – HS không phải chuẩn bị bài nhiều, dễ học thuộc, dễ theo dõi.
    – Không gây ồn cho các lớp xung quanh và GV dễ kiểm soát được trật tự
    lớp học.
    + Nhược điểm:
    5
    – Phương pháp dạy học truyền thống lấy hoạt động của người thầy là
    trung tâm vì vậy, HS tương đối thụ động khi tiếp nhận kiến thức.
    – Do HS làm việc ít, không hứng thú nên kiến thức có được cũng dễ bị
    lãng quên.
    – Hạn chế hình thành và phát triển năng lực cho học sinh.
    – Không phát huy được hết khả năng sáng tạo của mỗi học sinh.
    Như vậy việc cải tiến phương pháp dạy học cũng như thiết kế các hoạt
    động dạy học để phát huy năng lực và phẩm chất cho người học là rất cần thiết
    .Chính vì vậy, dựa trên thực tiễn đã giảng dạy, trong báo cáo này chúng tôi trình
    bày một số kinh nghiệm giảng dạy về việc“Thiết kế một số hoạt động trải
    nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề chuyển hoá vật chất và
    năng lượng – Sinh học 11 cơ bản”nhằm hình thành và hoàn thiện phẩm chất và
    năng lực người học.
    II. GIẢI PHÁP
    II.1.TÓM TẮT NỘI DUNG GIẢI PHÁP
    Các nội dung cơ bản được đưa ra là:
    – Nghiên cứu lí luận chung về NL, HĐTNST.
    – Thiết kế một số bài trong chủ đề chuyển hóa vật chất và năng lượng –
    sinh học 11 cơ bản.
    – Thực nghiệm sư phạm.
    Điểm mới – sáng tạo của giải pháp:
    – Chưa có đề tài nghiên cứu, sáng kiến kinh nghiệm được công bố giống
    hoặc gần giống với đề tài của sáng kiến kinh nghiệm.
    – Từ cơ sở lý luận về HĐTNST, sáng kiến kinh nghiệm đã chỉ ra được
    những khác biệt cơ bản giữa HĐTNST với môn học và hoạt động dạy học.
    – Đề tài đã đề xuất được 7 dạng HĐTNST trong dạy học Sinh học: (1)câu
    lạc bộ; (2)tổ chức trò chơi; (3)tổ chức diễn đàn; (4)sân khấu tương tác, (5)tham
    quan, dã ngoại; (6)hội thi/cuộc thi; (7)thực hành quan sát…Thiết kế và tổ chức
    cụ thể được 4 dạng HĐTNST áp dụng vào nội dung chủ đề chuyển hóa vật chất
    và năng lượng – sinh học 11 cơ bản:
    (1) Tổ chức trò chơi (“Nhà nông thông thái”– Bài 22: Ôn tập chương I)
    6
    (2) Sân khấu tương tác (diễn kịch với tiểu phẩm “ai hô hấp hiệu quả hơn”
    trong hoạt động hình thành kiến thức mục II. Các hình thức hô hấp ở động vật
    khi dạy bài 17: Hô hấp ở động vật).
    (3) Tổ chức diễn đàn (diễn đàn“Sống khỏe mỗi ngày”- Bài 21: Thực
    hành đo một số chỉ tiêu sinh lý ở người.
    (4) Thực hành quan sát (HS thiết kế làm mô hình thí nghiệm từ những vật
    dụng tái chế trong dạy phần hô hấp ở thực vật).
    – Sản phẩm (kết quả) học tập của học sinh rất phong phú, rõ ràng, khoa
    học, hiệu quả và tính thực tiễn cao. Đặc biệt các sản phẩm học tập học sinh
    mang đầy đủ yếu tố giáo dục, phát triển 6 phẩm chất người học.
    II.2- NỘI DUNG GIẢI PHÁP:
    CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN
    1. Khái niệm năng lực
    Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên(NXB Đà Nẵng. 1998) có giải
    thích: Năng lực là:“ Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
    hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả
    năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”
    Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định
    hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành
    năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có
    tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,…
    nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh
    nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố(phẩm chất của
    người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động
    của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó.
    Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất
    cả những yếu tố chủ quan(mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập)
    để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
    2. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    2.1. Khái niệm HĐTNST
    Trong dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông
    sau năm 2015: “HĐTNST bản chất là những hoạt động giáo dục nhằm hình
    7
    thành và phát triển cho HS những phẩm chất tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị và
    kỹ năng sống và những NL cần có cho con người trong xã hội hiện đại. Nội
    dung HĐTNST được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều lĩnh vực để HS có nhiều
    cơ hội tự trải nghiệm và phát huy khả năng sáng tạo của các em”.
    Theo tác giả Định Thị Kim Thoa (2014), HĐTNST là hoạt động giáo dục
    thông qua sự trải nghiệm và sáng tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm
    học được trong nhà trường với thực tiễn đời sống mà nhờ đó các kinh nghiệm
    được tích lũy thêm và dần chuyển hóa thành NL.
    Theo Lê Huy Hoàng (2014), HĐTNST là hoạt động xã hội, thực tiễn giúp
    HS tự chủ trải nghiệm trong tập thể, qua đó hình thành và thể hiện phẩm chất
    NL; nhận ra năng khiếu, sở thích, đam mê, bộc lộ và điều chỉnh cá tính, giá trị,
    nhận ra chính mình cũng như khuynh hướng phát triển bản thân; bổ trợ và cùng
    với các hoạt động dạy học trong chương trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục
    tiêu giáo dục. Hoạt động này nhấn mạnh sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng
    tạo của người học và được tổ chức một cách linh hoạt, sáng tạo.
    Theo chúng tôi, khái niệm HĐTNST trong học tập: là một nhiệm vụ học
    tập, trong đó HS được độc lập thực hiện hoặc tham gia ở các bước từ việc đặt
    câu hỏi nêu vấn đề, thực hiện nhiệm vụ, báo cáo sản phẩm, đánh giá và phản
    biện.
    2.2. Hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    Ngoài những HĐTNST được thiết kế thành hoạt động riêng, trong từng
    môn học cũng cần coi trọng việc tổ chức, hướng dẫn các HĐTNST phù hợp với
    đặc trưng môn học và điều kiện dạy học. Bảng 1.1 và bảng 1.2 trình bày những
    điểm khác nhau giữa môn học và HĐTNST; giữa hoạt động dạy học và
    HĐTNST.
    Bảng 1.1. Phân biệtmôn học và hoạt động trải nghiệm trong chương
    trình giáo dục phổ thông mới

    Đặc trưngMôn họcHĐTNST
    Mục đích
    chính
    Hình thành và phát triển hệ
    thống tri thức khoa học, năng
    lực nhận thức và hành động
    của HS.
    Hình thành và phát triển những
    phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình
    cảm, giá trị, kỹ năng sống và
    những năng lực chung cần có ở

    8

    con người trong xã hội hiện đại.
    Nội dung– Kiến thức khoa học, nội
    dung gắn với các lĩnh vực
    chuyên môn.
    – Được thiết kế thành các
    phần chương, bài, có mối liên
    hệ logic chặt chẽ.
    – Kiến thức thực tiễn gắn bó với
    đời sống, địa phương, cộng đồng,
    đất nước, mang tính tổng hợp
    nhiều lĩnh vực giáo dục, nhiều
    môn học; dễ vận dụng vào thực tế.
    – Được thiết kế thành các chủ
    điểm mang tính mở, không yêu
    cầu mối liên hệ chặt chẽ giữa các
    chủ điểm.
    Hình thức
    tổ chức
    – Đa dạng, có quy trình chặt
    chẽ, hạn chế về không gian,
    thời gian, quy mô và đối
    tượng tham gia…
    – Học sinh ít cơ hội trải
    nghiệm
    – Người chỉ đạo, tổ chức họat
    động học tập chủ yểu là giáo
    viên.
    – Đa dạng, phong phú, mềm dẻo,
    linh hoạt, mở về không gian, thời
    gian, quy mô, đối tượng và số
    lượng…
    – Học sinh có nhiều cơ hội trải
    nghiệm.
    – Có nhiều lực lượng tham gia chỉ
    đạo, tổ chức các hoạt động trải
    nghiệm với các mức độ khác nhau
    (giáo viên, phụ huynh, nhà hoạt
    động xã hội, chính quyền, doanh
    nghiệp,…).
    Tương tác,
    phương
    pháp
    – Chủ yếu là thầy – trò
    – Thầy chỉ đạo, hướng dẫn,
    trò hoạt động là chính.
    – Đa chiều
    – Học sinh tự hoạt động, trải
    nghiệm là chính.
    Kiểm tra,
    đánh giá
    – Nhấn mạnh đến năng lực tư
    duy.
    – Theo chuẩn chung.
    – Thường đánh giá kết quả
    đạt được bằng điểm số.
    – Nhấn mạnh đến kinh nghiệm,
    năng lực thực hiện, tính trải
    nghiệm.
    – Theo những yêu cầu riêng, mang
    tính cá biệt hóa, phân hóa
    – Thường đánh giá kết quả đạt
    được bằng nhận xét.

    9
    Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa hoạt động dạy học và HĐTNST

    Hoạt động dạy họcHĐTNST
    Mục đíchNhằm chủ yếu hình thành:Năng
    lực trí tuệ, kỹ năng trí tuệ
    Nhằm chủ yếu hình thành:Phẩm
    chất nhân cách, giá trị, kỹ năng
    sống
    Chức năng
    nhiệm vụ
    Chức năng trội: Chủ yếu nhằm
    thực hiện nhiệm vụ giáo dục trí
    tuệ
    Có thế mạnh về mặt phát triển trí
    tuệ, nhận thức: hình thành các
    biểu tượng, khái niệm, định luật,
    lý thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo…
    Chức năng trội: Chủ yếu nhằm
    thực hiện nhiệm vụ giáo dục
    đạo đức, thẩm mĩ, sức khỏe, lao
    động…
    Có thế mạnh về mặt xúc cảm,
    thái độ: hình thành niềm tin,
    chuẩn mực, lý tưởng, động cơ,
    nguyên tắc hành vi, lối sống.
    Đối tượngHệ thống khái niệm
    Hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
    được quy định chặt chẽ, phù hợp
    logic nhận thức, tuân theo một
    chương trình, kế hoạchdạy học
    nhằm đạt được một mục tiêu
    giáo dục xác định.
    Hệ thống giá trị, chuẩn mực
    Hệ thống các chuẩn mực xã hội
    (các định hướng giá trị về đạo
    đức, văn hóa, thẩm mĩ…), có
    tính không chắc chắn, chủ yếu
    dựa theo nhu cầu xã hội,
    nguyện vọng và hứng thú của
    đối tượng.
    Lĩnh vựcMôn học/khoa họcChủ đề, chủ điểm, nội dung
    giáo dục (nghĩa hẹp) đa dạng
    phong phú.
    Cơ chế
    hình thành
    Con đường nghiên cứu khoa học,
    logic cao.
    Tác động vào cảm xúc, nhiều
    khi phi logic.
    Thời gianChiếm lĩnh nhanh hơnLâu dài hơn, bền bỉ hơn
    Hình thứcLớp/bài
    Hệ thống bài lên lớp (theo thời
    khóa biểu), xemina, thực hành,
    thí nghiệm…
    Nhóm/nội dung GD
    Các sinh hoạt tập thể, hoạt động
    xã hội, tham quan, lao động
    công ích, các sinh hoạt thường
    nhật…

    10

    Không
    gian
    Phòng học là chủ yếuNgoài lớp học thông thường,
    trong nhà máy, trong cuộc sống
    xã hội…
    Phương
    thức
    Truyền đạt, phân tích, giảng
    giải…
    Hình thức: chủ yếu cá nhân
    Trải nghiệm, biểu diễn, chiêm
    nghiệm…
    Hình thức: chủ yếu hoạt động
    tập thể
    Mục đích
    trải nghiệm
    Chủ yếu để củng cố kiến thức
    khoa học (tích hợp), lý luận
    thông qua việc giải quyết nhiệm
    vụ của thực tiễn
    Chủ yếu để tích lũy kinh
    nghiệm quan hệ, hoạt động,
    ứng xử, giải quyết vấn đề… để
    thích ứng với sự đa dạng của
    cuộc sống luôn vận động
    Kiểm tra
    đánh giá
    Chủ yếu đánh giá các kiến thức
    khoa học học được đã được vận
    dụng như thế nào vào thực tiễn.
    Thường sử dụng đánh giá định
    lượng
    Nhấn mạnh đến kinh nghiệm,
    thái độ thực hiện, tính trải
    nghiệm, cảm xúc, giá trị, niềm
    tin, thói quen…
    Thường sử dụng đánh giá định
    tính.
    Quản lýNgười lãnh đạo quá trình dạy
    học chủ yếu là giáo viên bộ môn
    Quản lý theo chương trình môn
    học, thi cử.
    Người lãnh đạo là đại diện của
    tập thể học sinh, đoàn thể và gia
    đình, của giáo viên chủ nhiệm/
    giáo dục viên…
    Quản lý theo chường trình hoạt
    động của tập thể.

    2.3. Vai trò của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học
    – Là cầu nối giữa nhà trường, thầy cô với học sinh; Học sinh với học sinh.
    – Là cầu nối giữa kiến thức môn học với thực tiễn cuộc sống một cách có
    tổ chức, có định hướng; góp phần tích cực vào việc định hướng và củng cố năng
    lực, phẩm chất, nhân cách của học sinh.
    – Giúp phát triển năng lực thực tiễn, cá nhân hóa, đa dạng hóa tiềm năng
    sáng tạo của học sinh.
    11
    – Giúp học sinh nuôi dưỡng và phát triển đời sống tình cảm, ý chí. Tạo
    động lực hoạt động,tích cực hóa bản thân.
    2.4. Các hình thức của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo gồm rất nhiều hình thức khác nhau. Có
    thể lựa chọn và tổ chức thực hiện một cách linh động sao cho phù hợp với đặc
    điểm của học sinh, cấp học, khối lớp, nhà trường và điều kiện xã hội của địa
    phương. Dưới đây là một số hình thức hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ
    chức trong nhà trường phổ thông.
    2.4.1.Câu lạc bộ (CLB)
    Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh
    cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu, dưới sự định hướng của những nhà giáo dục
    nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và
    giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động của CLB
    tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các
    lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của học sinh như: kĩ
    năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng trình bày suy nghĩ,
    ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm, kĩ
    năng ra quyết định và giải quyết vấn đề. CLB là nơi để học sinh được thực hành
    các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí
    và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; quyền được tự do biểu đạt; tìm
    kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin. Thộng qua hoạt động của các CLB, nhà
    giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng
    của các em. CLB hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh
    hoạt định kì và có thể được tổ chức với nhiều lĩnh vực khác nhau như: CLB học
    thuật; CLB thể dục thể thao; CLB văn hóa nghệ thuật; CLB võ thuật; CLB hoạt
    động thực tế; CLB trò chơi dân gian.
    2.4.2.Tổ chức trò chơi
    Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần
    nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối
    với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với
    nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi
    mà học, học mà chơi”.
    12
    Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của hoạt
    động trải nghiệm như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung
    cấp và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố
    những tri thức đã được tiếp nhận. Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn
    và gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp
    chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí
    thân thiện; tạo cho các em tác phong nhanh nhẹn.
    2.4.3.Tổ chức diễn đàn
    Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự
    tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến
    của mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người
    lớn khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức mang lại
    hiệu quả giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội bày tỏ suy
    nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một vấn đề nào
    đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các em. Đây cũng là
    dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn đàn như một
    sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình một cách trực
    tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường được tổ chức
    rất linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức hoạt động cụ thể, phù
    hợp với từng lứa tuổi học sinh.
    Mục đích của việc tổ chức diễn đàn là để tạo cơ hội, môi trường cho học
    sinh được bày tỏ ý kiến về những vấn đề các em quan tâm, giúp các em khẳng
    định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để
    khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích
    cực để khẳng định mình. Qua các diễn đàn, thầy cô giáo, cha mẹ học sinh và
    những người lớn có liên quan nắm bắt được những băn khoăn, lo lắng và mong
    đợi của các em về bạn bè, thầy cô, nhà trường và gia đình, tăng cường cơ hội
    giao lưu giữa người lớn và trẻ em, giữa trẻ em với trẻ em và thúc đẩy quyền trẻ
    em trong trường học. Giúp học sinh thực hành quyền được bày tỏ ý kiến, quyền
    được lắng nghe và quyền được tham gia, đồng thời giúp các nhà quản lí giáo dục
    và hoạch định chính sách nắm bắt, nhận biết được những vấn đề mà học sinh
    13
    quan tâm từ đó có những biện pháp giáo dục và xây dựng chính sách phù hợp
    hơn với các em.
    2.4.4. Sân khấu tương tác
    Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật
    tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu
    đưa ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần
    trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và
    khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục đích
    của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để học sinh đưa ra
    quan điểm, suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp phải trong bất kì nội
    dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của học
    sinh được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những kĩ
    năng như: kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, kĩ năng ra quyết
    định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống và khả
    năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống…

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa