ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Phương pháp dạy học truyền thống không khắc sâu được kiến thức cho học sinh và không tạo được hứng thú học tập cho các em. Chưa tạo được sự chủ động chiếm lĩnh kiến thức của người học và học sinh khó áp dụng vào thực tiễn đời sống. Rào cản lớn nhất trong giáo dục truyền thống là sự tách rời giữa bốn lĩnh vực quan trọng: khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Sự tách rời này sẽ đem đến một khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa học và làm. Với mục tiêu dạy học làm sao để học sinh vận dụng các kiến thức vào quá trình thực tế do đó nên tiếp cận với các quan điểm dạy học định hướng tích hợp giáo dục STEM. Giáo dục STEM là một phương thức giáo dục nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học gắn liền với ứng dụng của chúng trong thực tiễn, qua đó phát triển cho HS năng lực khác tương ứng đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Nên nếu HS được tiếp cận những kiến thức này bằng những phương pháp dạy học tích cực và gắn với thực tiễn như dạy học STEM sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn lý thuyết cũng như vận dụng nó để giải quyết những vấn đề hay và khó liên quan đến kỹ thuật mà những phương pháp dạy học truyền thống khó có thể đem lại hiệu quả cao. Trong quá trình triển khai dạy học các môn học STEM, một trong những yêu cầu đối với giáo viên là phải biết cách tổ chức, thiết kế các hoạt động STEM một cách sáng tạo có hiệu quả, phù hợp với điều kiện dạy học. Tuy nhiên hiện nay tôi nhận thấy việc triển khai dạy học STEM ở các trường THCS còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, một số GV vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về bản chất dạy học STEM cũng như cách thiết kế hoạt động, tổ chức, thực hiện dạy học STEM như thế nào cho có hiệu quả trong môn học. Hơn nữa, hiện nay trên các trang mạng điện tử, tài liệu sách vở, các tạp chí GD đã cung cấp rất nhiều các vấn đề chung về giáo dục STEM nhưng các tài liệu hướng dẫn cụ thể việc tổ chức dạy học các môn học theo định hướng STEM trong nhà trường còn chưa nhiều. 5 Trong khi đối với học sinh, việc vận dụng các kiến thức lý thuyết vào thực tế còn rất kém Định lí Py-ta-go được mệnh danh là định lí vĩ đại làm thay đổi lịch sử thế giới, dấu ấn của định lí này có mặt ở hầu hết các công trình mà con người từng xây dựng. Định lí Py-ta-go là tiền đề cơ bản của hình học, nó có nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Vì vậy nếu xây dựng được một chủ đề dạy học STEM ở phần này nhằm định hướng tư duy một cách tích cực thì sẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển các năng lực cốt lõi và năng lực đặc thù của môn học. Căn cứ vào điều kiện của nhà trường, nội dung kiến thức bài học tôi mạnh dạn thiết kế, tổ chức hoạt động “Dạy học định hướng STEM trong việc áp dụng định lí Py-ta-go vào bài toán thực tế” với mong muốn góp phần vào việc chuẩn bị tốt nhất hành trang cho giáo viên và học sinh trước những thay đổi căn bản toàn diện của chương trình giáo dục trong thời gian tới đây. II- MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT II.1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN 1. Tôi đã sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực: dạy học theo nhóm nhỏ, sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, phương pháp đàm thoại gợi mở, … khai thác kênh hình và kênh chữ sách giáo khoa, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin, chủ yếu là Powerpoint, sử dụng các video minh họa … để tăng tính trực quan, kích thích tư duy học sinh. Tuy nhiên, học sinh mới chỉ dừng lại ở quan sát và tư duy. 2. Trong các giờ học, tôi vẫn đóng vai trò là người truyền thụ kiến thức, là trung tâm của quá trình dạy học; học sinh chủ yếu lắng nghe, tiếp thu các kiến thức một cách thụ động được quy định sẵn, ít được thể hiện các năng lực của bản thân. Học sinh chỉ nắm được kiến thức lí thuyết, nội dung mở rộng, vận dụng, mang tính cập nhật, thời sự… nhiều học sinh chưa nắm được. 3. Học sinh chủ yếu được rèn luyện kĩ năng: nghe, quan sát, đọc chọn lọc ý từ sách giáo khoa, vận dụng kiến thức để tính toán, để chứng minh hình học… Học sinh chưa khám phá hết năng lực của bản thân, chưa chủ động trong việc 6 học tập, khả năng sáng tạo và vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế. 4. Trong c¸c tiÕt luyÖn tËp t«i th-êng khuyÕn khÝch häc sinh t×m hiểu, quan sát các vật, các hình khối xung quanh, dàn dựng các tình huống thực tiễn để có những liên hệ giữa nội dung bài học với thực tế cuộc sống. 5. Thay ®æi c¸c h×nh thøc tæ chøc häc tËp trong ®iÒu kiÖn cho phÐp, t¹o ®iÒu kiÖn vµ kh«ng khÝ thÝch hîp ®Ó häc sinh cã thÓ th¶o luËn víi nhau, víi gi¸o viªn, còng nh- tù ®¸nh gi¸ vµ ®¸nh gi¸ lÉn nhau vÒ kÕt qu¶ t×m tßi, ph¸t hiÖn. 6. Sau khi học định lí Py-ta-go, tôi đã cho học sinh giải các bài toán thực tế áp dụng định lí này trong sách giáo khoa: Bài 55 trang 131 SGK Bài 58 trang 132 SGK 7 Bài 62 trang 133 Nhưng do các bài tập này không nhiều và các tình huống thực tế được đưa ra chưa phong phú, nên đã thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm tòi định lí này. Qua đó nảy sinh các ý tưởng, các tình huống áp dụng định lí Py-ta-go trong thực tế. Tuy nhiªn, hiÖu qu¶ c«ng viÖc cßn phô thuéc vµo ph-¬ng ph¸p s- ph¹m cña tõng gi¸o viªn qua tõng bµi tËp cô thÓ II.2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN Các yếu tố STEM trong chuyên đề – S (Khoa học): +) Vật lý: mặt phẳng nghiêng, chuyển động của vật +) Sinh học: Khoảng cách xem tivi phù hợp, an toàn cho mắt – T (Công nghệ): Sử dụng phương tiện công nghệ (thước đo độ dài, máy tính), hình ảnh (bậc tam cấp di động đúng quy định), mô hình lều chữ A – E (Kỹ thuật): Kỹ thuật đo đạc, vẽ hình, quy trình dựng lều – M (Toán học): + Các kiến thức liên quan đến định lí Py-ta-go + Định lượng và định tính các số liệu 8 Xét các bài toán sau: Bài 1: Khi nói đến ti vi 21inch, ta hiểu rằng đường chéo màn hình của chiếc ti vi này dài 21 in-sơ (in-sơ (inch), kí hiệu “in” là đơn vị đo chiều dài theo hệ thống Anh, Mĩ, 1in 2,54 cm. Biết một ti vi màn hình phẳng có chiều dài, chiều rộng của màn hình lần lượt là 71cm và 42cm (hình 1). a) Hỏi chiếc ti vi đó thuộc loại ti vi bao nhiêu inch? b) Để không gây hại cho mắt em hãy xác định khoảng cách phù hợp để xem chiếc ti vi trên? (làm tròn kết quả đến chữ số thập phân thứ nhất) Hình 1 Dẫn dắt để học sinh giải quyết vấn đề – Để biết chiếc ti vi trên thuộc loại ti vi nào ta cần tính đường chéo của một tam giác vuông, biết độ dài hai cạnh của tam giác vuông đó là 71cm và 42 cm – Giáo viên giao việc cho học sinh (từ tiết học trước): Hãy tìm hiểu công thức tính khoảng cách xem ti vi phù hợp và an toàn cho mắt. Với việc sử dụng công thức học sinh đã tìm hiểu, học sinh dễ dàng trả lời được câu b. – Nội dung học sinh tìm hiểu được: Khoảng cách phù hợp, an toàn khi xem ti vi được tính bằng công thức sau: + Khoảng cách tối thiểu = kích thước màn hình (số inch) x 2,54 x 2 (đơn vị cm) 71cm 42cm 9 + Khoảng cách tối đa = kích thước màn hình (số inch) x 2,54 x 3 (đơn vị cm) Chứng minh: a) Ta có ∆ABC vuông tại A (gt) BC2= AB2+ AC2 (định lí Py-ta-go) Mà AB = 71cm (gt); AC= 42cm (gt) BC2 = 712 + 422 BC2= 5041 + 1764 BC2= 6805 (cm) BC= √ (cm) BC 32 inch Vậy chiếc ti vi đó thuộc loại ti vi 32 inch b) Khoảng cách tối thiểu để xem ti vi là là: 32. 2,54. 2 = 162,56 (cm) 1,6 (m) Khoảng cách tối đa để xem ti vi là là: 32. 2,54. 3 = 243,84 (cm) 2,4 (m) Vậy để không gây hại cho mắt, khoảng cách phù hợp để xem ti vi 32 inch là từ 1,6m đến 2,4m Mở rộng: Giao việc cho HS: Tương tự như trên, về nhà các con hãy lập một bảng ghi lại “Khoảng cách xem ti vi an toàn cho mắt” đối với các loại ti vi: 24 inch, 25 inch, 28 inch, 32 inch, 40 inch, 42 inch, 43 inch, 48 inch, 49 inch, 50 inch, 55 inch, 58 inch, 60 inch, 65 inch, 70 inch, 75 inch, 78 inch, 88 inch. 71cm 42cm A B C 10 Bài 2.1: Theo quy định của khu phố, mỗi nhà sử dụng bậc tam cấp di động để dắt xe vào nhà và không được lấn quá 80 cm ra vỉa hè. Cho biết nhà bạn An có nền nhà cao 50cm so với vỉa hè, bậc tam cấp có chiều dài của là 1m thì có phù hợp với quy định của khu phố không? (hình 2). Vì sao? Hình 2 Dẫn dắt để học sinh giải quyết vấn đề Ta đã biết chiều cao của nền nhà luôn vuông góc với mặt đất. Bậc tâm cấp di động này tạo với chiều cao của nền nhà và mặt đất một tam giác vuông (ta gọi tam giác đó là ABC vuông tại A). Chúng ta biết được những độ dài nào của ABC? Muốn biết bậc tam cấp di động nhà An có phù hợp với quy định của khu phố hay không ta làm như thế nào? Chứng minh: Ta có ABC vuông tại A BC2= AB2+ AC2 (định lí Py-ta-go) Mà BC = 1m = 100cm (gt); AB= 50cm (gt) 1002 = 502 + AC2 AC2= 10000 – 2500 = 7500 AC 86,6 (cm) 80cm Vậy bậc tam cấp nhà bạn An không phù hợp với quy định của khu phố 50 cm 11 Lưu ý: Khi thay các độ dài cần chú ý các độ dài đó phải có cùng đơn vị, trong trường hợp độ dài các cạnh của tam giác chưa có cùng đơn vị đo thì phải đổi ra cùng đơn vị đo rồi mới thay vào. Giáo dục ý thức, thái độ cho học sinh: Thực trạng hiện nay, để thuận tiện hơn trong việc dắt xe ra vào, người dân còn lắp đặt bậc tam cấp vươn dài hơn 2 mét, “cướp” trắng trợn vỉa hè.Vì thế, UBND phường và các tổ dân phố cũng đã có các biện pháp cưỡng chế, phá bỏ các bậc tam cấp không phù hợp với quy định. Như vậy, mỗi chúng ta phải luôn tuân thủ theo các quy định của nơi cư trú, pháp luật của nhà nước. Là người học sinh các em phải thực hiện tốt mọi nề nếp, nội quy của lớp, của trường, tham gia tích cực các buổi lao động, các hoạt động ngoại khóa, …. Liên hệ với các môn khoa học khác: Trong môn vật lý, các con đã biết bậc tam cấp di động ở trên là một mặt phẳng nghiêng. Mà mặt phẳng nghiêng càng dài thì dắt xe vào nhà càng dễ dàng hơn. Từ đó ta có bài toán sau: Bài 2.2: Hãy giúp bạn An tìm chiều dài lớn nhất của bậc tam cấp trên, để phù hợp với quy định của khu phố (làm tròn kết quả đến chữ số thập phân thứ 2) 50 cm 80 cm 12 Chứng minh: Ta có ABC vuông tại A BC2= AB2+ AC2 (định lí Py-ta-go) Mà AC = 80cm (gt); AB= 50cm (gt) BC2 = 502 + 802 BC2= 2500 + 6400= 8900 BC 94,34 (cm) Vậy để phù hợp với quy định của khu phố thì chiều dài lớn nhất của bậc tam cấp nhà bạn An là 94,34 cm Bài 3: Trong một lần đi trải nghiệm, nhóm bạn Tú đã thi trang trí một lều chữ A với các nhóm khác (hình 3). Cô giáo yêu cầu các nhóm trang trí trước cửa lều các dây kim tuyến được kéo căng từ B A, AC. Biết rằng ABC là tam giác cân tại A, chiều rộng của lều là 3m và chiều cao của lều là 2m. Hỏi nhóm bạn Tú cần chuẩn bị một dây kim tuyến có chiều dài ngắn nhất là bao nhiêu m? Hình 3 Phân tích: – Để lều chữ A được vững, người ta thường dựng ở giữa lều một cái cột thẳng đứng và vuông góc với mặt đất (AHBC tại H) – Muốn tính chiều dài ngắn nhất của dây kim tuyến ta cần tính tổng độ dài BA và AC, mà AB= AC (∆ABC cân tại A) nên ta chỉ cần tính AB hoặc AC bằng cách sử dụng định lý Py-ta-go trong ∆AHB vuông tại H hoặc ∆AHC vuông tại H 3m 2m 3m 13 – Trong tam giác AHB vuông tại H ta mới chỉ biết AH=2m, muốn tính AB ta cần biết thêm độ dài cạnh BH. Ta dễ dàng chứng minh được BH = Cần chứng minh: Giáo dục ý thức, thái độ cho HS: Nhờ việc tính toán từ trước nên nhóm bạn Tú đã biết cần phải chuẩn bị ít nhất bao nhiêu m dây kim tuyến, từ đó nhóm bạn chủ động trong công việc được giao. Cũng như vậy, trong các cuộc thi, các kì thi các con cần có sự tính toán, có ý thức trang bị cho mình đầy đủ các kiến thức để đạt được kết quả cao. Giao nhiệm vụ cho các nhóm HS (yêu cầu này được giáo viên giao cho HS trong tiết học trước): Các con hãy đưa ra một bài toán trong đó cần sử dụng định lí Py-ta-go để giải bài toán đó và thông qua bài toán các con hãy tuyên truyền về đại dịch Covid -19. Chẳng hạn, một nhóm HS có thể đưa ra bài toán sau để các nhóm còn lại giải: Bài 4.1a: Năm ngoái, mình có nghỉ ở nhà để phòng chống dịch Covid 19. Ở nhà mình luôn nhớ phải giữ gìn sức khỏe, ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, phải siêng năng tập thể dục và không quên tự học thông qua sự giúp đỡ của thầy, cô giáo. Hàng ngày, mình luôn đeo khẩu trang và chạy bộ ở công viên gần nhà. AB + AC HB = HC AB = AC; AB 2 = HB 2 +AH 2 AHB = AHC = BC:2=1,5cm (Cạnh huyền – cạnh góc vuông) 14 Và thật trùng hợp, quãng đường mình chạy tạo thành DEF vuông tại E (Hình 4). Biết rằng, mình chạy với vận tốc 200m/phút. Mình chạy hết quãng đường DF mất 5 phút, chạy hết quãng đường EF mất 4 phút. Đố các bạn biết, mỗi ngày mình chạy được bao nhiêu m? HS nêu bài toán thông qua vidieo học sinh tự quay (đường links video học sinh đã làm https://youtu.be/Kxd1JdkY8nE) Hình 4 Phân tích: Bài toán trên có chứa yếu tố chuyển động. Các đại lượng trong toán chuyển động liên hệ với nhau bởi công thức: s = v.t Trong đó: s: quãng đường (m) v: vận tốc (m/ph) t: thời gian (ph) Trong công thức trên, có 3 đại lượng nếu biết 2 trong 3 đại lượng ta tính được đại lượng còn lại Chứng minh: Quãng đường DF dài là: 200.5 = 1000 (m) Quãng đường EF dài là: 200.4 = 800 (m) Ta có EDF vuông tại E DF2= ED2+ EF2 (định lí Py-ta-go) Mà DF = 1000m (gt); EF= 800m (gt) 15 10002 = ED2 + 8002 ED2= 1000000 – 640000 ED2= 360000 ED = 600 (m) Mỗi ngày, bạn chạy quãng đường dài là: ED +DF +FE = 600 + 1000 + 800 = 2400 (m) Nhận xét: Cho các nhóm khác bổ sung câu hỏi vào bài toán trên. Chẳng hạn: Bài 4.1.b: Biết rằng khi chạy từ E đến D mình tăng vận tốc thêm 40 m/phút. Vậy mình tốn bao nhiêu thời gian để chạy hết một lộ trình D FED (đơn vị phút) Chứng minh: Vận tốc khi chạy từ E đến D là: 200 + 40 = 240 (m/ph) Thời gian chạy quãng đường ED là : 600 : 240 = 2,5 (phút) Thời gian để chạy hết một lộ trình D FED là: 2,5 +4 + 5 =11,5 (phút) Giáo dục thái độ cho HS: Thông qua bài toán này giáo viên tuyên truyền để học sinh có những hiểu biết đúng và có ý thức thực hiện các biện pháp an toàn để phòng chống dịch covid 19 bằng cách cho HS xem video tuyên truyền về dịch bệnh Covid–19 . Sau đó cho HS trả lời những câu hỏi sau: – Dịch Covid – 19 là dịch bệnh gì? Nó có phải là bệnh truyền nhiễm hay không? – Dịch bệnh này xuất hiện đầu tiên ở thành phố, tỉnh và quốc gia nào? – Virus gây bệnh Covid – 19 có thể tồn tại bao lâu trong môi trường tự nhiên? – Hậu qủa của dịch bệnh Covid – 19? – Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh (theo khuyến cáo của Bộ y tế)? – Những việc mà học sinh cần làm để phòng chống dịch bênh Covid-19: những việc cần làm khi ở nhà, khi đến trường, khi ở nơi công cộng, … 16 Các nhóm HS khác có thể đưa ra các bài toán tương tự: Bài 4.2: Do dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp nên bạn Hải được nghỉ ở nhà và tham gia học trực tuyến. Nhà Hải có một khung tranh hình chữ nhật, có chiều dài là 2,4 m; chiều rộng là 0,7 m. Để giữ khung tranh không bị lệch bố giao cho Hải đóng thêm thanh chéo nối 2 góc. Hãy tính độ dài thanh chéo đó Bài 4.3: Mấy ngày qua có một cơn mưa trái mùa kèm theo cơn gió thổi gãy một cành cây trong khu vườn nhà bạn Ngọc. Với tinh thần lạc quan và để kiểm tra kiến thức của Ngọc trong những ngày ở nhà chống dịch, mẹ bạn Ngọc đã thử thách bạn Ngọc hãy tính độ dài cành cây bị gãy mà không dùng đến thước. Các bạn hãy giúp bạn Ngọc nhé (làm tròn kết quả đến chữ số thập phân thứ 2) Bài 5: Một bạn học sinh thả diều ngoài công viên, cho biết đoạn dây diều từ tay bạn đến con diều dài 170m và bạn cách nơi diều được thả lên theo phương thẳng đứng là 80m. Tính độ cao của con diều so với mặt đất, biết tay bạn học sinh cách mặt đất là 2m. 1,4m 2m 17 Phân tích: Trước tiên học sinh cần thể hiện được nội dung bài toán thông qua hình vẽ – Ta cần tính AD = AB +BD Tổng kết: Định lí Py-ta-go được sử dụng rất rộng rãi, nó được áp dụng trong vô số các tình huống thực tế. Ta chỉ cần nhận biết tam giác vuông trong đời sống – bất cứ trường hợp nào mà hai vật hoặc hai đường thẳng giao nhau tại một góc vuông và vật hoặc đường thẳng thứ ba cắt chéo qua góc vuông đó thì ta đều có thể sử dụng Định lý Py-ta-go để tìm độ dài của một trong các cạnh khi biết độ dài của hai cạnh còn lại. A C B D AC 2 = AB 2 +BC 2 BD = 2m ∆ABC vuông tạ i B 18 * MỘT SỐ BÀI TẬP KHÁC. Bài 1: Một chiếc thang đang đứng dựa vào tòa nhà. Đáy thang cách chân tường 5m. Thang cao tới 20m của tòa nhà. Hỏi thang dài bao nhiêu m? Bài 2: Để mặt bàn được vững chắc và bền hơn, người thợ thường đóng thêm 2 thanh chéo ở mặt dưới. Tính độ dài một thanh chéo của mặt bàn hình chữ nhật dưới đây, biết chiều dài 10dm, chiều rộng 5dm. ( Làm tròn 1 chữ số thập phân ) Bài 3: Cho hình vẽ dưới đây. Tính độ dài sợi dây đu từ trên đỉnh lâu đài vào bờ ? ( Làm tròn đến hàng đơn vị ) Bài 4: Người cha đi đúng về hướng Đông bằng xe đạp với vận tốc 16 km/h. Người con đi đúng theo hướng Nam bằng xe đạp với vận tốc 20 km/h. Hỏi sau 4 giờ thì họ cách nhau bao nhiêu, nếu cả hai người xuất phát từ A vào cùng một thời gian (Làm tròn đến chữ số thập phân thứ nhất) 19 Bài 5: Cho hình vẽ dưới đây. Biết bạn Bảo đi xe đạp về đúng hướng Tây và tiếp tục đi lên về đúng hướng Bắc. Hỏi khoảng cách từ điểm khởi hành và điểm kết thúc là bao nhiêu km ? (Tỉ lệ bản đồ: 1:100000). Khoảng cách từ lúc khởi hành đến điểm kết thúc trong thực tế gọi là Đường chim bay III- HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI III.1. Hiệu quả kinh tế (giá trị làm lợi tính bằng tiền): Nhờ việc tính toán một cách chính xác sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được chi phí khi làm các công việc như: làm bậc tam cấp di động phù hợp với quy định; mua vật liệu trang trí lều trại chữ A; đóng một thanh chéo vào khung ảnh, vào mặt bàn hình chữ nhật và cả trong các công trình xây dựng trong tương lai, …. III.2. Hiệu quả về mặt xã hội (giá trị làm lợi không tính bằng tiền): a) Giá trị môi trường: b) Giá trị làm lợi cho an toàn lao động: Đảm bảo an toàn kĩ thuật khi kê thang, khi dựng tủ; đảm bảo khoảng cách xem ti vi phù hợp, an toàn cho mắt c) Giá trị làm lợi khác * Hiệu quả đối với giáo viên: – Giáo viên cần huy động kiến thức của nhiều môn học về khoa học, kĩ thuật, toán học và tin học. Giáo viên sẽ được học hỏi, tham vấn ý kiến chuyên môn của các bộ môn liên quan – Qua mỗi lần soạn bài như vậy kiến thức của giáo viên không chỉ được nâng lên mà các kĩ năng, phương pháp dạy học cũng được rèn luyện. 4cm 7cm 20 * Hiệu quả đối với học sinh: – Khi vận dụng phương pháp giáo dục này các em đã thấy một chỉnh thể của khoa học trong đó toán học không tách rời các bộ môn khoa học khác. Qua đó, các em có sự thay đổi phần nào cảm nhận về khoa học tự nhiên – những môn học thường bị coi rằng khô khan và khó học, nặng lý thuyết và không có liên hệ thực tế, nay trở thành một niềm hấp dẫn mới mẻ, khơi gợi cảm hứng, niềm yêu thích và say mê khoa học ở nhiêu em học sinh. – Ngoài những mục tiêu mà một tiết học mang lại là nội dung kiến thức, kĩ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Thuật ngữ “Học tập tích hợp ngôn ngữ và nội dung” (“Content and language Integarated learning”) đã trở thành từ khóa quan trọng trong giáo dục. Đó là quá trình học tập các môn học cụ thể (không phải là môn Ngoại ngữ) thông qua ngôn ngữ thứ 2. Bằng cách này người học sẽ tiếp thu được tri thức khoa học của môn học đồng thời phát triển được năng lực ngôn ngữ. Ngày 22/12/2017 thủ tướng chính phủ ra quyết định số 2080/QD-TTg phê duyệt điều chỉnh, bổ sung đề án “dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025” (Gọi tắt là đề án ngoại ngữ quốc gia), trong đó đẩy mạnh nội dung dạy học Toán và các môn khoa học môn chuyên ngành bằng tiếng Anh. Dạy Học toán bằng tiếng Anh là một trường hợp cụ thể của dạy học tích hợp ngôn ngữ và nội dung, nó có những ưu điểm như: Làm tăng tính hấp dẫn của bài học, thúc đẩy sự tò mò, giúp người học tập trung hơn trong học tập, phát triển đồng thời năng lực ngoại ngữ và năng lực toán học. Học toán bằng tiếng Anh không phải là học từ vựng toán bằng tiếng Anh, không phải là dịch một đề toán từ tiếng Anh sang tiếng Việt hay dịch một lời giải bằng tiếng Việt sang tiếng Anh. Mà học toán thông qua tiếng Anh để lĩnh hội một phương pháp học mới, giúp học sinh bước qua rào cản về phương pháp học để tiếp cận kho học liệu vô tận qua Internet tiếp cận môi trường học tập không biên giới, hình thành sự tự tin cho học sinh là một công dân trong cộng đồng thế giới. Với học sinh THCS học Toán bằng tiếng Anh để đạt mục tiêu ngắn hạn, giúp các em có động lực khi tham gia các kỳ thi HSG Toán quốc tế bằng tiếng Anh như các cuộc thi HOMC, TIMO, IKMC…; để duy trì niền hứng thú và theo đuổi mục tiêu dài hạn với những học sinh có dự định du học bậc THPT hoặc Đại học, việc tiếp cận môn Toán hay các môn khoa học khác bằng tiếng Anh càng sớm càng thuận lợi cho quá trình tìm kiếm học bổng và quá trình hòa nhập vào môi trường học tập ở nước ngoài. Hiện nay, học Toán bằng Tiếng Anh đang dần trở thành một nhu cầu tất yếu đối với sự phát triển toàn diện vềnăng lực và trí tuệ của các em học sinh. Trẻ em học Toán thông qua tiếng Anh để lĩnh hội một phương pháp học mới, bước qua rào cản ngôn ngữ để tiếp cận kho kiến thức vô tận, tiếp cận môi trường học tập không biên giới. Từ đó, các em hình thành thói quen học chủ động và ý thức mình như một học sinh trong môi trường học tập quốc tế. 5 Với mong muốn cho học sinh trường THCS Trần Đăng Ninh sớm đạt được mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Năm học 2020-2021 BGH nhà trường giao nhiệm vụ cho tổ toán tin thành lập câu lạc bộ Toán bằng tiếng Anh. Chúng tôi gồm 4 thành viên: Tô Thị Bình, Phan Thị Thơm, Nguyễn Thị Huế, Bùi Thị Nhung đã được tổ Toán Tin nhà trường giao nhiệm vụ triển khai kế hoạch; lên phương án cụ thể; tổ chức cho học sinh hai khối 6 và 7 tham gia đăng ký. Thông qua bài trắc nghiệm với 20 câu hỏi Toán bằng tiếng Anh chúng tôi đã lựa chọn được 75 con học sinh với vốn tiếng Anh tốt và có niềm yêu thích, giỏi về toán tham gia câu lạc bộ Toán Tiếng Anh . B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP I. Thực trạng trước khi tạo ra sáng kiến 1. Thuận lợi Các giáo viên tham gia phụ trách câu lạc bộ Toán-Tiếng Anh là những giáo viên có kiến thức Toán vững vàng, có trình độ Tiếng Anh giao tiếp cơ bản Tốt, có ý thức học hỏi và tìm tòi các bài Toán bằng Tiếng Anh qua các cuộc thi lớn. Học sinh trường THCS Trần Đăng Ninh được tuyển chọn tham gia câu lạc bộ đều là những em giỏi Toán và Giỏi Tiếng Anh. Các em nói tiếng Anh rất tốt, lưu loát và hơn hết các em có niềm yêu thích cả 2 môn học Toán và Tiếng Anh và các em mong muốn được tham gia các cuộc thi Toán bằng tiếng Anh cấp Tỉnh, cấp Quốc Gia và Quốc Tế. 2. Khó khăn Bản thân chúng tôi vừa thực hiện và cùng học hỏi lẫn nhau. Khi chuẩn bị nội dung cho buổi sinh hoạt chúng tôi cũng đều phải tìm tòi các nội dung phù hợp cho các đối tượng học sinh, có nhiều thuật ngữ chuyên ngành chúng tôi phải trao đổi với giáo viên tiếng Anh để phát âm sao cho chuẩn xác. Trong quá trình thực hiện nội dung chúng tôi phải cung cấp thêm thuật ngữ Toán Tiếng Anh cho học sinh vừa giúp các em đưa ra lời giải chuẩn xác cho bài toán với nhiều hướng khác nhau mà các em đưa ra bằng tiếng Anh. 6 3. Điều tra về sự yêu thích tham gia câu lạc bộ của học sinh
Đối tượng điều tra
Thích tham gia
Ngại tham gia
Khối
Số lượng
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ%
K6
244
115
47,13
129
52,87
K7
289
120
41,52
169
58,48
Tổng
533
235
44,09
298
55,91
Như vậy gần một nửa số học sinh khối 6 và 7 mong muốn tham gia vào câu lạc bộ Toán-Tiếng Anh. Đây là một con số khá ấn tượng do ngoài câu lạc bộ Toán-Tiếng Anh ra nhà trường còn có nhiều câu lạc bộ khác nữa. Do số lượng học sinh đăng kí khá đông nên nhà trường tổ chức cho các con làm bài sát hạch để kiểm tra trình độ Toán-Tiếng Anh của các con. 4. Kết quả kiểm tra bài sát hạch Toán – Tiếng Anh đầu năm Vào đầu năm học 2020 – 2021, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 235 học sinh tự nguyện tham gia về vốn từ vựng tiếng Anh và khả năng Toán học thông qua một bài sát hạch. Từ đó, Ban chủ nhiệm CLB chọn ra 80 em học sinh (bao gồm cả hai khối 6, 7) có kết quả tốt đẻ tham gia vào Câu lạc bộ. Do đặc thù các cuộc thi toán Quốc tế thường phân theo lứa tuổi nên học sinh khói 6, 7 sẽ tham gia sinh hoạt chung trong Câu lạc bộ. 7 Bài sát hạch của lớp 6 như sau: Name:……………………………………………………………… Class:……………………………………………………………… Tran Dang Ninh Secondary School TEST Grade : 6 Time: 25 minutes Circle the letter before the correct answer, questions 1 through 10 Question 1: Find the next number in the following sequence: 21; 24; 19; 26; 17; ?
A.18.
B.19.
C.27.
D.28.
E. None of the above.
Question 2: What is the greatest four – digit number that is divisible by 3 and
by 7? A.9990
D.9999
E. None of the above
B.9993
C.9996
Question 3: The first three stages of a pattern are shown in the picture. How many black diamonds do the figure in stage 6th have? A. 21. B. 26. C. 19. D. 28. E. 34. Question 4:An operator * acts on two numbers to give the following outcomes: 3 * 2 = 65; 5 * 3 = 158; 6 * 1 = 67; 9 * 4 = 3613. What is 7 * 5 equal to?
A. 122. Question 5:
B. 3512.
C. 355.
D. 352.
E. 212.
A. 30. B. 60. C. 40. D. 50. E. None of the above. 8 Question 6:Find the least whole number which when divided by 5 gives a remainder of 1 and when divided by 7 gives a remainder of 5. A. 42. B.52. C.26. D. 19. E. 84. Question 7:The sum of consecutive is 500. Among all five numbers, what is the smallest value? A. 95. B. 96. C. 97. D. 98. E. 99. Question 8:Each of Basitt’s friends added the number of the day and the number of the month of his birthday and obtained 35. Their birthdays are all difference. What is the maximum possible number of Basit’s friends ? A. 12. B.10. C. 9. D. 7. E. 8. Question 9:Brue is reading a story book. One of the stories take up two consecutive pages and the sum the page numbers is 345. On which page does this story begin?
A.114.
B. 115.
C. 171.
D. 172.
E. 173.
Question 10:How many zeros are there in the end of the product of × ×
× ? A. 1.
D. 5.
E. 6.
B. 2.
C. 4.
Fill in the correct results for questions 11 to 15 Question 11:Find the value of A = 3 + 6 + 9 – 12 + 15 + 18 + 21 – 24 + ⋯ + 51 + 54 + 57 – 60 + 63 + 66 + 69 – 72 Answer: A =……………… Question 12: In the correct addition below, each letter stands for a digit. What is the value of the sum A + 10B + C + D + E + F ? Answer: ……………… Question 13: Points P, Q, R are on a line. The lengths for PQ, QR and RS are 12 cm, 14 cm and 18 cm respectively. What is the shortest distance between P and S? Answer: A =……………… 9 Question 14:How many numbers from 1 to 2018 are divisible by 13? Answer: A =……………… Question 15:Find the ones digit in 1 2 3 4 5 6 7 8 5 9 13 17 21 21 29 25 Answer: A =……………… ANSWER
Question
1
2
3
4
5
6
7
Answer
D
C
B
B
B
C
D
Question
8
9
10
11
12
13
14
15
Answer
E
D
D
648
96
8
155
6
10 Bài sát hạch của lớp 7 như sau: Name: …………………………………………………… Class: ……………………………………………………… Tran Dang Ninh Secondary School TEST Grade : 7 Time: 25 minutes Question 1:What is the value of 2018 2 2020 3 0 .
A.16145. Question 2: A.x =66
B.-16145.
C.16143.
D.-16143.
E. None of the above.
B.9993.
C.9996.
D.9999.
E. None of the above.
Question 3:In a hexagon, first angle is 360. The second angle is 4 times as large as the first. The third angle is 960 more than the second. The fourth angle is 500. The ratio between the fifth and sixth angle is 4:1. What is the measure of the fifth angle, in degree ?
A.2000.
B.400.
C.1600.
D.500.
E. None of the above.
Question 4:An operator * acts on two numbers to give the following outcomes: 3 * 2 = 55; 5 * 3 = 148; 6 * 1 = 57; 9 * 4 = 3513. What is 8 * 7 equal to?
A.5615.
B.5515.
C.1555.
D.1556.
E. None of the above..
Question 5:In one of the following pictures exactly three quarters off all objects are hearts. Which one is it? A. E). B.D). C. A). D.B). E. C). Question 6:Find the least whole number which when divided by 5 gives a remainder of 1 and when divided by 7 gives a remainder of 5.
A. 42.
B.26.
C. 52.
D. 19.
E. 84.
Question 7:If = 5 × – 3 × , find b when 12 = 12.
A.48.
B.16.
C.72.
D. 24.
E. None of the above.
Question 8:The positive intergers a, b, c and d are such that: 1 1 1 1 a b c d 2013 2014 2015 2016 Which of the following orderings of these four numbers is correct? 11 A. b < d < a < c B. d < b < a < c C. d < a < b < c D. d < b < c < a E. b < d < c < a Question 9:The product of n and 847 a number n is square number. What is the smallest value of n?
A.5.
B.6.
C.7.
D.8.
E. None of the above.
Question 10:The sum of consecutive is 625. Among all five numbers, what is
the largest value?
A. 123.
B. 124.
C. 125.
D.126.
E. 127.
Question 11:Find the sum of the term in the 25th pair of prackets: (1; 2; 3); (4; 5; 6); (7; 8; 9); (10; 11; 12); … Answer: ……………… Question 12:Except for the fisrt term , each term in the following sequence is found by adding the same number to the previous term. Find the value of z ? 7; “; #; $; 19; … Answer:z =……………… Question 13: Find the missing numbers in the patterns below? Answer: x =…………; y = ……………… Question 14:If ® = ( + 1) + ( + 2) + ( + 3) + ⋯ + ( + ), find the value of m in: %®10 = 155 Answer:m =……………… Question 15: Answer: A =……………… 12 ANSWER
Question
1
2
3
4
5
6
7
Answer
B
C
A
B
B
C
B
Question
8
9
10
11
12
13
14
15
Answer
B
C
E
222
6
x = 66, y = 70
10
2018
Kết quả bài sát hạch như sau:
Khối
SL
Điểm từ 0 đến dưới 5
Điểm từ 5 đến dưới 6,5
Điểm từ 6,5 đến dưới 8
Điểm từ 8 đến dưới 9
Điểm từ 9 đến dưới 10
Điểm 10
SL
%
SL
%
S L
%
SL
%
S L
%
SL
%
Khối 6
115
75
65,22
18
15,65
12
10,43
7
6,09
3
2,61
0
0
Khối 7
120
80
66,67
12
10
16
13,33
10
8,33
2
1,67
0
0
Tổng
235
155
65,96
30
12,77
28
11,91
17
7,23
5
2,13
0
0
Thông qua bài sát hạch câu lạc bộ Toán-Tiếng Anh đã chọn ra được 80 học sinh có kết quả tốt nhất tham gia vào Câu lạc bộ Toán – Tiếng Anh (có danh sách kèm theo – Phần Phụ Lục). 13 II. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến 1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Câu lạc bộ là hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm rèn luyện cho học sinh các kĩ năng hoạt động như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng làm bài tự luận, trắc nghiệm, kỹ năng giao tiếp … Qua việc sinh hoạt câu lạc bộ Toán – Tiếng Anh giúp học sinh khám phá thêm về thế giới xung quanh, thêm yêu cuộc sống, yêu gia đình, bạn bè, thầy cô,… Giúp học sinh phát triển kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh, nắm được các từ vựng tiếng Anh chuyên ngành Toán, đồng thời nắm được kĩ năng làm các bài trắc nghiệm và tự luận Toán-Tiếng Anh. Từ những mục tiêu trên, chúng tôi đề ra sứ mệnh, mục đích, nội dung, nguyên tắc hoạt động, điều kiện thành viên của CLB Toán – Tiếng Anh như sau: – Sứ mệnh của CLB Toán – Tiếng Anh: CLB Toán – Tiếng Anh là một sân chơi để các em học sinh có thể trao đổi, học hỏi và thảo luận những kiến thức liên quan đến Toán Tiếng Anh. CLB Toán – Tiếng Anh là nơi các thành viên có thể vui chơi, giao lưu và kết bạn với những người có chung niềm yêu thích học Toán Tiếng Anh. Tham gia CLB Toán – Tiếng Anh không chỉ nâng cao kiến thức về Toán tiếng Anh mà các thành viên còn được nâng cao kiến thức về văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, và các lĩnh vực học thuật khác. – Mục đích của CLB Toán – Tiếng Anh: Giúp các em học sinh học tập, rèn luyện và nâng cao trình độ Toán Tiếng Anh và các lĩnh vực học thuật khác. Tạo cơ hội để các em học sinh nhận thức tầm quan trọng của Toán Tiếng Anh trong học tập và cuộc sống, từ đó giúp các em yêu thích học Toán Tiếng Anh. Phát triển khả năng tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, sự năng động, tự tin trong giao tiếp, trình bày ý kiến cá nhân. – Nội dung sinh hoạt: Mỗi buổi sinh hoạt đều gắn liền với một chủ đề. Chủ đề có thể do Ban Chủ Nhiệm CLB lựa chọn từ ý kiến đề xuất của các thành viên hoặc do Ban Chủ Nhiệm CLB đề xuất. CLB hoạt động theo hình thức làm việc nhóm là chính. 14 Tổ chức các cuộc thi giữa các thành viên trong CLB về các chủ đề đã thảo luận. Giới thiệu thông tin các kì thi Toán Tiếng Anh trong nước và quốc tế, thông tin các nguồn học bổng. Kinh phí hoạt động dựa trên khoản đóng góp của các thành viên tham gia CLB. Các khoản kinh phí này không nhằm mục đích lợi nhuận mà để chi trả cho các chi phí để tổ chức, duy trì và mở rộng CLB. – Nguyên tắc hoạt động của câu lạc bộ: CLB Toán Tiếng Anh hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện tham gia của các thành viên. CLB hoạt động theo sự tổ chức và điều hành của Ban chủ nhiệm CLB. Ban chủ nhiệm CLB chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của CLB. Các hoạt động của CLB phải được xây dựng theo kế hoạch. Thành viên CLB phải tuân thủ đúng Nguyên Tắc CLB và có trách nhiệm với CLB. Hoạt động của CLB được xây dựng dựa trên sự đóng góp nội dung hoạt động của các thành viên. Các chủ đề thảo luận của CLB được chọn lựa dựa trên một số tiêu chí: – Thành viên của CLB: Đóng phí thành viên theo quy định. Đoàn kết hợp tác với các thành viên khác trong CLB, sẵn sàng chia sẻ những kiến thức và kỹ năng góp phần thúc đẩy CLB phát triển ngày càng vững mạnh. – Khen thưởng và kỷ luật: Những thành viên, nhóm thành viên có đóng góp tích cực cho CLB được ghi nhận trong quá trình tham gia các hoạt động sẽ được khen thưởng. Những thành viên vi phạm quy chế, tuỳ theo mức độ sẽ bị kỷ luật từ khiển trách đển khai trừ ra khỏi CLB. Việc thực hiện quyết định khen thưởng và kỷ luật phải công khai đối với tất cả các thành viên của CLB. Nguyên tắc hoạt động của CLB có thể được điều chỉnh dựa trên tình hình thực tế hoạt động của CLB. 15 2. Nội dung và cách thức của giải pháp, biện pháp Câu lạc bộ Toán – Tiếng Anh trường THCS Trần Đăng Ninh là nơi tập hợp các học sinh có cùng sở thích, năng khiếu, đam mê với bộ môn Toán; học Toán và giải Toán bằng Tiếng Anh. Các em tự nguyện tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi giải trí của CLB một cách phù hợp với năng lực của bản thân. Tổ chức Câu lạc bộ Toán – Tiếng Anh chính là việc rèn kỹ năng đọc hiểu các bài Toán, các kiến thức Toán bằng Tiếng Anh; rèn kĩ năng giải toán, trình bày một bài toán bằng tiếng Anh; các em sẽ vận dụng và phát huy những khả năng của mình, tạo điều kiện thực hành những điều đã học nhằm ngày càng tự hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân. Câu lạc bộ Toán – Tiếng Anh là một trong những hình thức giáo dục sinh động, là công cụ để giáo dục tư tưởng, văn hoá, giáo dục truyền thống, thẩm mỹ và rèn luyện thể chất cho học sinh, là cầu nối đưa các em học sinh đến gần hơn với thế giới bên ngoài. Để câu lạc bộ được thành lập đầu tiên là cần sự ủng hộ, nhất trí và chỉ đạo của Ban giám hiệu Nhà trường, sự đầu tư của giáo viên bộ môn trong quá trình lên kế hoạch cũng như thực hiện. Bên cạnh những nội dung kiến thức thì hình thức tổ chức một buổi sinh hoạt câu lạc bộ có ý nghĩa rất quan trọng. Hình thức càng sinh động, càng lôi cuốn hấp dẫn học sinh, càng làm tăng hứng thú học tập. Hàng tuần, Ban chủ nhiệm Câu Lạc Bộ cùng các thành viên trong Câu Lạc Bộ luôn họp bàn, trên cơ sở các đề xuất của các thành viên; từ đó lựa chọn các hình thức tổ chức sinh hoạt phù hợp với nội dung kiến thức trọng tâm của buổi sinh hoạt. Đôi khi Ban chủ nhiệm CLB cũng lấy ý kiến đề xuất của thành viên học sinh về chủ đề các học sinh quan tâm và hình thức Học sinh cảm thấy hứng thú. 16 Một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ Toán – Tiếng Anh ở trường THCS Trần Đăng Ninh thường gồm các nội dung chính sau: Phần I. Khởi động Phần II. Nội dung II.1 Cá nhân tranh tài II.2 Từ vựng và các kiến thức trọng tâm II.3 Các nhóm cùng nhau tranh tài Phần III: Tổng kết buổi sinh hoạt Để tạo thêm nhiều hứng thú cho học sinh tham gia vào câu lạc bộ, giúp học sinh nhận thức rằng câu lạc bộ Toán Tiếng Anh thực sự là nơi lý tưởng nhất cho việc trau dồi kiến thức bộ môn Toán và Tiếng Anh; chia sẻ những kinh nghiệm trong việc học Toán bằng Tiếng Anh, rèn luyện kĩ năng nghe, nói, giải toán,trình bày Toán bằng Tiếng Anh và tham gia các hoạt văn thể bổ ích khác, Ban tổ chức câu lạc bộ ngoài việc củng cố và duy trì cơ cấu tổ chức nhất thiết phải có những cải tiến về nội dung và hình thức hoạt động của câu lạc bộ, đã hình thành và thực hiện các ý tưởng dưới đây. 17 2.1. Phần I: Khởi động Kết hợp các phân môn (Toán, Tiếng Anh, Nhạc..) giáo viên và học sinh cùng nhau tập hát, nhảy các bài hát tiếng Anh liên quan đến chủ đề Toán học, tìm hiểu các trò chơi có vừa có tính giải trí, vừa rèn luyện kĩ năng phán đoán, suy luận…. Mỗi tuần sẽ có một giáo viên phụ trách Câu Lạc Bộ kết hợp cùng với các học sinh của một lớp trong CLB sẽ chuẩn bị nội dung của phần Khởi động. Các em sẽ trực tiếp tổ chức cho các học sinh trong câu lạc bộ Khởi động Một số hình thức khởi động được Câu Lạc Bộ thực hiện như sau: 2.1.1. Hình thức 1: Hát và nhảy theo các bài hát có nội dung Toán bằng Tiếng Anh như: “3D Shapes With Santa! Christmas Math!” “Double Number Zoo – Teach Addition of Double Numbers”, “Fraction Song – Numerators”, “The Pi Song: Funny Song to help you memorize Pi”…. 2.1.2 . Hình thức 2: Trò chơi: Xì điện – Truyền điện – Mục đích: Giúp học sinh phản ứng nhanh, phản xạ tốt với các tình huống trong Toán học. – Thời gian chơi: 7 – 10 phút. – Luật chơi: Giáo viên hãy chia lớp thành 2 đội để thi đua. Bản chủ trò sẽ “châm ngòi” đầu tiên và đọc một phép tính chẳng hạn: ( 13) 5 (negative thirteen plus twenty five) rồi chỉ vào rồi chỉ vào một em thuộc một trong 2 đội, em đó phải bật ngay ra kết quả. Nếu kết quả đúng thì em đó có quyền “xì điện” một bạn thuộc đội đối phương. Em sẽ đọc bất kì phép tính nào, chẳng hạn như 50:( 10) và chỉ vào bạn vừa “xì điện” bạn đó lập tức phải có ngay kết quả là 5, rồi lại “xì điện” trả lại đội ban đầu.. Nếu trả lời sai bạn đó bị cả lớp “Xì” – “cho điện giật” Cứ như vậy, giáo viên cùng 2 thư ký ghi kết quả của mỗi đội. Hết thời gian chơi đội nào có nhiều bạn đọc kết quả đúng thì sẽ là đội chiến thắng. Lưu ý: Khi được quyền trả lời mà lúng túng không đọc ra ngay kết quả thì mất quyền trả lời và “xì điện”, chủ trò sẽ lại chỉ định một bạn khác bắt đầu. 2.1.3. Hình thức 3: Trò chơi: “Trái, Phải , Tiến, Lùi” -Mục đích: tạo không khí vui vẻ, thoải mái, rèn luyện trí nhớ, tính tập trung và phản xạ nhanh nhẹ, hoạt bát. – Thời gian chơi: 7 – 10 phút. – Luật chơi: quản trò hướng dẫn cho người chơi các động tác Khi quản trò nói “addition” thì người chơi bước sang trái một bước và vỗ tay. 18 Khi quản trò nói “subtraction” thì người chơi bước sang phải một bước và vỗ tay. Khi quản trò nói “multiplication” thì người chơi bước lên trên một bước và vỗ tay. Khi quản trò nói “division” thì người chơi bước lùi xuống một bước và vỗ tay. Lưu ý: quản trò có thể nói một kiểu, làm một kiểu khác để đánh lừa người chơi, Ai làm động tác không đúng như quy định là phạm luật. 2.1.4. Hình thức 4: Trò chơi: “Kết bạn” (Make friends) – Mục đích: Rèn luyện phản xạ, sự nhanh nhẹn và kĩ năng giao tiếp cho học sinh – Thời gian chơi: 7 – 10 phút. – Luật chơi:Tập hợp học sinh mặt hướng theo một vòng tròn lớn hoặc hai vòng tròn đồng tâm hay khác tâm. Học sinh chạy nhẹ nhàng hoặc vừa chạy vừa nhảy chân sáo theo vòng tròn, đọc “Kết bạn, kết bạn. Kết bạn là đoàn kết. Kết bạn là sức mạnh. Chúng ta cùng nhau kết bạn”. Đọc xong những câu trên, các em vẫn tiếp tục chạy theo vòng tròn, khi nghe thấy Quản trò hô “Kết 2!”, tất cả nhanh chóng kết thành từng nhóm 2 người, nếu đứng một mình hoặc nhóm nhiều hơn 2 là sai và phải chịu phạt một hình phạt nào đó. Tiếp theo, giáo viên cho học sinh tiếp tục chạy và đọc các câu quy định, sau đó giáo viên có thể hô “Kết 3!” (hoặc 4, 5, 6…) để học sinh kết thành nhóm 3 hoặc 4, 5, 6… Trò chơi tiếp tục như vậy, sau 1 – 2 lần chơi, giáo viên cho học sinh chạy đổi chiều so với chiều vừa chạy. Ngoài việc làm quen, trò chơi còn giúp trẻ phát triển nhiều kỹ năng quan trọng Lưu ý: – Nhắc học sinh không nên chạy nhanh quá khi kết bạn để tránh chạy xô vào nhau hoặc vấp ngã. – Quản trò nên thay đổi số lượng bạn trong nhóm khi kết bạn ko theo quy luật tăng hay giảm để người chơi khó đoán hơn. 2.1.5. Hình thức 5: Trò chơi: “Ai nhanh hơn?” – Mục đích: Ôn tập lại kiến thức đã học đồng thời giới thiệu bài mới. Luyện phản ứng nhanh, khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá chính xác, tiết kiệm thời gian. Rèn tính tự giác, thi đua giữa học sinh. 19 – Chuẩn bị: Giáo viên: chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp án. Học sinh: thẻ đúng, sai. – Cách tổ chức: Chia các thành viên trong Câu lạc bộ làm 4 đội chơi tương ứng với 4 tổ, cử 4 tổ trưởng làm trọng tài và theo dõi chéo, 1 thư ký ghi kết quả. Thời gian: 4 phút Luật chơi: Giáo viên lần lượt giới thiệu từng câu hỏi, yêu cầu để giáo viên đọc từng câu hỏi hoàn chỉnh thì học sinh mới được sử dụng thẻ (đúng hoặc sai) để trả lời. Em nào vi phạm luật là loại kết quả. Sau khi học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên đưa đáp án cho câu hỏi luôn để các em đối chiếu kết quả. Cách tính điểm: mỗi câu trả lời đúng được tính 10 điểm/học sinh, trả lời sai trừ 5 điểm/học sinh. Tổng điểm mỗi đội được ghi lên bảng luôn sau mỗi câu trả lời. Câu hỏi có thể liên quan đến nội dung sinh hoạt buổi trước đó, nhằm ôn lại bài cũ trước khi vào bài mới Ngoài các hình thức khởi động ở trên, Câu Lạc bộ còn tổ chức nhiều hình thức trò chơi phong phú khác nữa như: Trò chơi khởi động đầu buổi sinh hoạt: Bắn Tên – Gọi tên các kiến thức Toán học; Tiêu diệt “sâu có hại” trong Toán… Mỗi một hoạt động khởi động Câu lạc bộ tổ chức cho các em học sinh, ngoài những mục đích đã nêu ở trên nó còn nhằm giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến nội dung buổi sinh hoạt của hôm đó. Do đó, chỉ sau 7- 10 phút tham gia vào hoạt động này, các em như được tiếp thêm năng lượng, sẵn sàng khám phá kiến thức mới trong phần II. 20 2.2. Phần II. Nội dung chính 2.2.1. Cá nhân tranh tài Trong phần cá nhân tranh tài Giáo viên tổ chức cho Học sinh ôn tập, giải các bài Toán bằng Tiếng Anh dưới dạng câu hỏi ngắn, với nhiều hình thức khác nhau. Cá nhân sẽ tham gia trả lời và thành tích của các nhân sẽ được cộng vào thành tích của nhóm. Một số hình thức tổ chức trong phần “Cá nhân tranh tài” a) Trả lời câu hỏi trắc nghiệm theo thứ tự các câu đã được chuẩn bị sẵn – Mục đích: Rèn phản ứng nhanh, phản xạ tốt, nhẩm tính chính xác đáp án của bài toán. – Cách thức tổ chức: + Cách thức 1: Giáo viên chuẩn bị sẵn từ 5 đến 10 câu hỏi dạng trắc nghiệm với 4 đáp án A, B, C, D; trong đó chỉ có 1 đáp án đúng. Học sinh đọc câu hỏi và giơ tay nhanh để giành quyền trả lời. Nếu đúng được cộng điểm, nếu sai bị mất lượt và giành quyền trả lời cho bạn nhóm khác. + Cách thức 2: Giáo viên chuẩn bị sẵn từ 5 đến 10 câu hỏi dạng điền đáp số. Học sinh đọc câu hỏi và giơ tay nhanh để giành quyền trả lời. Nếu đúng được cộng điểm, nếu sai bị mất lượt và giành quyền trả lời cho bạn nhóm khác. 21 Dưới đây là ví dụ bộ câu hỏi phần “Cá nhân tranh tài” trong một buổi sinh hoạt câu lạc bộ: * Chủ đề: Làm quen với Toán bằng Tiếng Anh 22 23 24 * Chủ đề: ước chung, bội chung, ƯCLN, BCNN 25 26 b) Trả lời câu hỏi trắc nghiệm được chọn ngẫu nhiên -Mục đích: Rèn phản ứng nhanh, phản xạ tốt, nhẩm tính chính xác đáp án của bài toán, rèn sự mạnh dạn tự tin khi chọn câu hỏi. – Cách thức tổ chức: Giáo viên chuẩn bị sẵn từ 5 đến 10 câu hỏi dạng trắc nghiệm với 4 đáp án A, B, C, D; trong đó chỉ có 1 đáp án đúng hoặc câu hỏi trả lời nhanh. Các câu hỏi được đặt trong ô số bí mật. Học sinh chỉ được biết nội dung câu hỏi sau khi chọn câu hỏi. Học sinh đọc câu hỏi và trả lời câu hỏi vừa chọn. Nếu đúng được cộng điểm, nếu sai bị mất lượt và giành quyền trả lời cho bạn nhóm khác. Các câu hỏi có thể được ẩn trong các ô số với các hình thức khác nhau: Hái táo ngẫu nhiên, Hái hoa dân chủ, Ô số bí mật,….. Ô số bí mật Hái hoa dân chủ 27 Dưới dây là bộ câu hỏi phần “Cá nhân tranh tài” trong một buổi sinh hoạt câu lạc bộ nội dung Số nguyên tố, số chính phương với trò chơi: Hái táo ngẫu nhiên 28 29 c) Trả lời câu hỏi trên phiếu và chấm chéo theo đáp án – Mục đích: Rèn phản ứng nhanh, phản xạ tốt, tính chính xác đáp án của bài toán, đánh giá được năng lực của tất cả học sinh. -Cách thức tổ chức: Giáo viên chuẩn bị sẵn từ 5 đến 10 câu hỏi dạng trắc nghiệm với 4 đáp án A, B, C, D; trong đó chỉ có 1 đáp án đúng hoặc câu hỏi trả điền đáp án. Các câu hỏi được thiết kế trên 1 phiếu (giống phiếu học tâp). Tất cả các thành viên cùng làm trong thời gian quy định, sau đó đổi phiếu chấm theo đáp án. Điểm của các cá nhân sẽ được cộng vào nhóm của cá nhân đó. 30 *Mẫu phiếu học tập trong 1 buổi sinh hoạt CLB vơi chủ đề: Dãy số quy luật 31 32 *Chủ đề: số nguyên tố, số chính phương, hợp số, phép chia hết, phép chia có dư, thương, dấu hiệu chia hết và chữ số tận cùng. Question 1: The greatest common divisor of 36; 84 and 168 is….. Answer: 12 Question 2: The least common multiple of ; 24, 25 and 90 is….. Answer: 1800 Question 3: If both 234 –a and 156 +a is multiple of a then greatest value of a is….. Answer: 78 Question 4: I am a common multiple of 10 and 35 . I am between 500 and 700. My tens digit is odd. Who am I ? Answer: I am 630 Question 5: Minh had a rectangular cardboard with the dimensions of 75cm and 105cm. Minh wanted to cut the cardboard into equal small square pieces such that the cardboard was entirely cut off, not any leftover pieces. Determine the maximum length of square side (side measurement of the small square is a natural number with centimeter unit). Answer: 15 cm Question 6: Ha and Ngoc each bought some boxes of crayons for them team. Ha bought 28 crayons, Ngoc bought 32 crayons. The number of crayons in each box wasthe same and greater then 2 . How many boxes of crayons did Ha and Ngoc buy? Answer: 15 boxes Question 7: It is evenly if we put some book into bundles of 12, 15 or 20 books . Determine the number of books given that the number is about 450 up to 510. Answer: 480 books. 33 Không chỉ dừng lại ở việc giải Toán bằng Tiếng Anh, thông qua các bài toán, giáo viên còn dẫn dắt học sinh đến với các câu chuyện thú vị trong toán học, và Toán học gắn với đời sống. Ví dụ như Dãy số trong câu hỏi 3 ở trên chính là dãy số Fibonaxi.Từ đó, giáo viên dẫn dắt học sinh đến với câu chuyện: Dãy số Fibona và những bí aane trong tự nhiên với nội dung như sau:…. Fibonacci là dãy số kinh điển trong toán học được tìm thấy cách đây hơn 800 năm. Đến nay các nhà khoa học phát hiện nhiều trùng hợp thú vị về dãy số này trong tự nhiên. Dãy Fibonacci là dãy vô hạn các số tự nhiên bắt đầu bằng 1 và 1, sau đó các số tiếp theo sẽ bằng tổng của 2 số liền trước nó. Hầu hết các bông hoa có số cánh hoa là một trong các số: 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55 hoặc 89. Ví dụ: Hoa loa kèn có 3 cánh, hoa mao lương vàng có 5 cánh, hoa cải ô rô thường có 8 cánh, hoa cúc vạn thọ có 13 cánh, hoa cúc tây có 21 cánh, hoa cúc thường có 34, hoặc 55 hoặc 89 cánh… Hoa một cánh
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Trong nhà trường THCS có thể nói môn Toán là một trong những môn học giữ một vị trí hết sức quan trọng. Toán học là một bộ môn khoa học tự nhiên mang tính trừu tượng cao, tính logíc. Những tri thức và kỹ năng toán học cùng với những phương pháp làm việc trong toán học trở thành công cụ để học tập những môn khoa học khác và nó là cầu nối các ngành khoa học với nhau đồng thời nó có tính thực tiễn rất cao trong cuộc sống xã hội và với mỗi cá nhân. Môn toán có khả năng tư duy lôgic, phát huy tính linh hoạt, sáng tạo trong học tập và môn toán là một trong những môn học được coi khó đối với nhiều học sinh. Bài tập toán học có vai trò quan trọng trong môn toán, nó có vai trò đánh giá hoạt động của học sinh thông qua giải bài tập, học sinh phải thực hiện những hoạt động nhất định bao gồm cả nhận dạng và thể hiện định nghĩa, định lý, quy tắc, phương pháp, những hoạt động toán học phức hợp, những hoạt động trí tuệ phổ biến trong toán học, những hoạt động trí tuệ chung và những hoạt động ngôn ngữ. Vì vậy, rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh là một vấn đề quan trọng trong dạy học, nó phải được tiến hành có kế hoạch, thường xuyên, hệ thống, bền bỉ, liên tục qua tất cả các lớp. Việc giải một bài toán là một quá trình mò mẫm, tìm tòi dựa trên hiểu biết của người giải toán. Có người phải mò mẫm rất lâu, thử hết cách này đến cách khác, trong khi có người lại có thể tìm được cách giải rất nhanh. Vậy đâu là bí quyết cho kỹ năng giải toán nhanh gọn và chính xác? Cách rèn luyện chúng như thế nào? Những con đường mà người giải toán có thể trải qua để đi đến các lời giải thoả đáng là gì? Trong chương trình môn toán, đường tròn và những bài toán liên quan đến đường tròn chiếm một vị trí không nhỏ trong chương trình Toán 9, mặc dù là lớp cuối cấp THCS nhưng việc giải các bài toán chứng minh các em cũng đang gặp nhiều lúng túng. Từ các bài đơn giản đến các bài phức tạp, từ các bài tập mang tính chất củng cố kiến thức đơn lẻ đến các bài tập mang tính chất tổng 3 hợp các em thường gặp khó khăn trong việc tìm tòi lời giải. Định hướng, hướng dẫn cho các em tìm lời giải là việc làm cần thiết và quan trọng. Hơn nữa việc cung cấp cho các em phương pháp giải các dạng bài tập này lại càng quan trọng hơn. Song đưa ra một phương án duy nhất để tìm ra một hướng chuẩn mực, tối ưu cho các bài toán là điều không thể thực hiện. Mỗi một giáo viên đều có thế mạnh riêng của mình. Do đó tuỳ vào đối tượng học sinh và yêu cầu của bài toán mà giáo viên đưa ra những phương pháp phù hợp, đảm bảo tính khoa học, tính sáng tạo, tính sư phạm, tính thực tiễn để trang bị cho học sinh. Đặc biệt trong các đề thi môn Toán tuyển sinh vào lớp 10 THPT nhiều năm ta đều gặp rất nhiều các bài toán liên quan đến hai tiếp tuyến và một cát tuyến của một đường tròn cùng đi qua một điểm với các cách khai thác khác nhau rất đa dạng và độc đáo. Xuất phát từ quan điểm trên, vấn đề giúp học sinh có phương pháp và kỹ năng giải tốt các bài toán về hai tiếp tuyến và cát tuyến cùng đi qua một điểm của một đường tròn để từ đó xây dựng được một hệ thống bài tập từ cơ bản đến nâng cao các bài toán dạng này là một việc làm hết sức cần thiết với mỗi người giáo viên đang giảng dạy bộ môn Toán lớp 9. Do vậy tôi đã tìm tòi học hỏi đồng nghiệp, tham khảo tài liệu để viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh thông qua việc giải một số bài toán về đường tròn có hai tiếp tuyến và một cát tuyến kẻ từ một điểm ” Sáng kiến này xác định nội dung và phương pháp rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh trên cơ sở hướng dẫn học sinh giải một số bài toán về đường tròn có hai tiếp tuyến và một cát tuyến cùng cắt nhau tại một điểm, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn toán. – Làm rõ các khâu tìm lời giải và giải bài toán nhằm rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh. – Xây dựng các phương pháp giải bài tập hình học theo hướng rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh. 4 – Xây dựng các ví dụ và bài tập vận dụng nhằm rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh. Tôi nhận thấy nếu xây dựng được một hệ thống các phương pháp giải bài tập theo hướng rèn luyện kỹ năng giải toán và sử dụng có hiệu quả hệ thống các phương pháp đó thì có thể phát triển kỹ năng giải toán cho học sinh, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy và học toán ở trường phổ thông. B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN: 1. Cơ sở lí luận Trong trường phổ thông, việc đổi mới phương pháp dạy học trong đó có đổi mới dạy học môn toán đã và đang diễn ra rất sôi nổi. Dạy toán là dạy hoạt động tư duy toán học. Đối với học sinh có thể xem việc giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học. Quá trình giải toán đặc biệt là giải toán hình học là quá trình rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp tìm tòi và vận dụng kiến thức vào thực tế. Thông qua việc giải toán thực chất là hình thức để củng cố, khắc sâu kiến thức rèn luyện được những kĩ năng cơ bản trong môn toán. Quá trình học sinh nắm vững kiến thức không phải là tự phát mà là một quá trình có mục đích rõ rệt, có kế hoạch tổ chức chặt chẽ, một quá trình nỗ lực tư duy trong đó học sinh phát huy tính tích cực, tính tự giác của mình dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Trong quá trình ấy mức độ tự lực của học sinh càng cao thì việc nắm kiến thức càng sâu sắc, tư duy độc lập sáng tạo càng phát triển cao, kết quả học tập càng tốt.Trên thực tế quá trình dạy học là quá trình thống nhất bao gồm quá trình dạy và quá trình học, nó là một hệ thống tác động lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh, trong đó mỗi chủ thể tác động lẫn nhau có vai trò và chức năng của mình.Trong quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm, không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên mà trong đó vai trò của giáo viên quyết định đến quá trình nhận biết – học – dạy và đặc trưng cho việc định hướng giáo dục.Trong quá trình dạy học: Giáo viên đồng thời là người hướng dẫn, người cố 5 vấn, người mẫu mực cho học sinh, điều đó có nghĩa là hoạt động dạy là xây dựng những quy trình, các thao tác chỉ đạo hoạt động nhận thức của học sinh, hình thành cho học sinh nhu cầu thường xuyên học tập, tìm tòi kiến thức, kích thích năng lực sáng tạo, hình thành cho các em tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của mình, rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp suy nghĩ. Điều quan trọng là hình thành cho các em cách học có hiệu quả nhất, đáp ứng được nhu cầu kiến thức bộ môn. 2. Cơ sở thực tiễn Trong các môn học ở trường phổ thông, học sinh ngại học môn hình học. Nguyên nhân học sinh“ngại”môn hình học cũng có lý do của nó, bởi lẽ các em cho rằng hình học là môn học rất khó, trừu tượng cao đối với học sinh bậc THCS và bởi nó là môn học đòi hỏi độ chính xác cao, khả năng lập luận tốt. Ngoài ra, môn hình học còn đòi hỏi HS phải có trí tưởng tượng, óc suy xét và tư duy logic. Trước đây việc dạy học toán thường sa vào phương pháp đọc chép áp đặt kiến thức, học sinh lĩnh hội kiến thức một cách bị động, người giáo viên thường chú trọng đến số lượng bài tập. Nhiều học sinh chỉ hiểu bài thầy dạy mà không tự giải được bài tập. Việc phát triển bài toán ít được học sinh quan tâm đúng mức. Phần nhiều học sinh cảm thấy sợ môn hình học, giải bài tập hình học. Thực tiển dạy học cho thấy: HS khá – giỏi thường tự đúc kết những tri thức, phương pháp cần thiết cho mình bằng con đường kinh nghiệm, còn học sinh trung bình hoặc yếu, kém gặp nhiều khó khăn hoặc không thể nắm được bài. Để có kĩ năng giải bài tập hình học cần phải qua quá trình luyện tập. Tuy rằng, không phải cứ giải bài tập nhiều là có kĩ năng, việc luyện tập sẽ có hiệu quả, nếu như học sinh nắm chắc được lí thuyết và biết khéo léo khai thác từ một bài tập này sang một loại bài tập tương tự, nhằm vận dụng một tính chất nào đó, rèn luyện một phương pháp học tập nào đó cho mình.. Đa số học sinh kể cả là học sinh giỏi khi giải xong bài toán là đã bằng lòng với kết quả đó. Chính vì lý do đó nếu thay đổi một vài dữ kiện thì học sinh lúng túng. Trong thực tế nếu biết 6 khai thác và phát triển bài toán này thì ta thấy bài toán rất hay, kích thích được sự tìm tòi khám phá kiến thức của học sinh. Qua công tác giảng dạy môn toán nói chung và hình học lớp 9 nói riêng tôi thấy đa số học sinh: – Không nắm được phần lí thuyết cơ bản của bài học hoặc nắm nội dung bài học một cách thụ động, nên trong quá trình làm bài tập còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. – Không chịu đề cập bài toán theo nhiều hướng khác nhau, không sử dụng hết các dữ kiện của bài toán…. – Không biết vận dụng hoặc vận dụng chưa thành thạo các phương pháp suy luận trong giải toán, không biết sử dụng các bài toán giải mẫu hoặc áp dụng phương pháp giải một cách thụ động. – Không chịu suy nghĩ tìm các cách giải khác nhau cho một bài toán hay mở rộng lời giải tìm được cho các bài toán khác, do đó hạn chế trong việc rèn luyện năng lực giải toán hình học. – Kết quả điều tra thực trạng cho thấy: Thực tế, học sinh học phân môn hình học còn có nhiều hạn chế, tỉ lệ học sinh khá giỏi bộ môn toán hình trong trường còn ít, khả năng vẽ hình và tư duy sáng tạo, khai thác và phát triển bài toán của học sinh còn chưa tốt nên nhiều học sinh chưa yêu thích môn hình . Kết quả điều tra tháng 9/2018 đối với 42 học sinh lớp 9A7 trường THCS Trần Đăng Ninh cho thấy:
Điều tra 42 HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10
23,8
12
28,6
20
47,6
0
0
0
0
Kết quả điều tra qua đối với 42 học sinh lớp 9A7 trường THCS Trần Đăng Ninh đầu năm học về kĩ năng biết khai thác và phát triển bài toán môn hình học cho thấy: 7
Điều tra 42 HS
Thành thạo
Chưa thành thạo
Không làm được
SL
%
SL
%
SL
%
12
28,6
15
35,7
15
35,7
Kết quả điều tra qua 42 học sinh lớp 9A7 trường THCS Trần Đăng Ninh đầu năm học về thái độ đối với môn hình học cho thấy:
Điều tra 42 HS
Yêu thích môn học
Bình thường
Không thích học
SL
%
SL
%
SL
%
15
35,7
17
40,5
10
23,8
Từ thực trạng của học sinh lớp 9 như thế đã dẫn tới kết quả đa số các em cảm thấy học môn hình khô khan, khó hiểu, nên học sinh không có hứng thú cao đối với môn hình nói riêng và môn Toán nói chung, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập của các em. Chính vì thế mà tôi đã mạnh dạn áp dụng và lồng ghép vào trong từng tiết học một số phương pháp nhằm phát triển tư duy của các em, quán triệt quan điểm dạy học theo hướng “ Phát huy tính tích cực, tự giác, thói quen nghiên cứu khoa học cho học sinh” thì việc hường dẫn cho học sinh có thói quen khai thác, nhìn nhận một vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau sẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển tư duy logic, độc lập sáng tạo cho học sinh. Rèn luyện cho học sinh một số phương pháp khi giải toán hình học như: – Phương pháp phân tích tổng hợp – Phương pháp so sánh – Phương pháp tổng quát hóa… Điều đó đã đem lại kết quả khả quan. Đa số các em trong lớp mà tôi giảng dạy đã có sự chú ý và ham mê đối với môn hình học nhiều hơn dẫn đến kết quả, chất lượng môn Toán có sự chuyển biến tích cực hơn. Chính vì thế mà tôi đã quyết định nêu một số biện pháp của mình đã thử nghiệm và có kết quả tốt để các đồng nghiệp tham khảo và góp ý kiến. 8 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN: 1. Yêu cầu của việc rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh 1.1. Vấn đề rèn luyện kỹ năng giải toán * Theo tâm lý học thì kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức (Khái niệm, cách thức, phương pháp …) để giải quyết một nhiệm vụ mới. Thực chất của sự hình thành kỹ năng là hình thành cho học sinh nắm vững một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm làm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong bài tập, trong nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể. Muốn vậy, khi hình thành kỹ năng (chủ yếu là kỹ năng học tập) cho học sinh cần: – Giúp học sinh biết cách tìm tòi để tìm ra yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng. – Giúp học sinh hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các bài tập, các đối tượng cùng loại. – Xác lập được mối liên quan giữa bài tập mô hình khái quát và các kiến thức tương ứng. * Việc rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh bao gồm hai nội dung chủ yếu đó là: Rèn luyện việc tìm lời giải bài toán và rèn luyện việc giải bài toán. Trong quá trình rèn luyện, hai nội dung này có khi tiến hành đồng thời nhưng cũng có khi tách thành hai quá trình riêng biệt. Tuy vậy về mặt nhận thức cần phân biệt hai nội dung trên là hoàn toàn khác nhau, độc lập với nhau nhưng chúng có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi nội dung đảm nhận một yêu cầu riêng biệt trong công việc rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần làm cho học sinh nhận thức rõ ý nghĩa, tác dụng của mỗi nội dung và mối quan hệ giữa hai nội dung đó. 1.1.1. Vấn đề giải bài toán Đây là vấn đề quan trọng trong quá trình rèn luyện kỹ năng giải toán. Vì rằng, từ chỗ tìm ra được phương hướng giải bài toán đến việc giải hoàn chỉnh bài toán là cả một quá trình rèn luyện bao gồm nhiều khâu: Từ việc nắm vững 9 các kiến thức cơ bản về nội dung lý thuyết và các phương pháp thực hành đến việc luyện tập thành thạo các quy trình và thao tác có tính chất kỹ thuật. Nói một cách ngắn gọn lời giải phải đúng và tốt. Điều này đòi hỏi người giải toán phải học tập nghiêm túc, chăm chỉ và hiệu quả. Để phát huy tác dụng của việc giải bài toán trước hết cần nắm vững các yêu cầu của lời giải. Theo [6], tác giả Nguyễn Bá Kim, để thuận tiện cho việc thực hiện các yêu cầu của lời giải trong quá trình dạy học và đánh giá học sinh, có thể cụ thể hoá các yêu cầu sau: (i) Kết quả đúng, kể cả các bước trung gian; Kết quả cuối cùng phải là một đáp số đúng thoả mãn yêu cầu đề ra. Kết quả các bước trung gian cũng phải đúng. Như vậy, lời giải không thể chứa những sai lầm tính toán, suy luận, biến đổi biểu thức … (ii) Lập luận chặt chẽ; (iii) Lời giải đầy đủ; Yêu cầu này có nghĩa là lời giải không được bỏ sót một trường hợp nào, một khả năng, một chi tiết cần thiết nào. Cụ thể là giải phương trình không được thiếu nghiệm, phân chia trường hợp không được thiếu một khả năng nào … (iv) Ngôn ngữ chính xác; Đây là một yêu cầu về giáo dục tiếng mẹ đẻ đặt ra cho tất cả các bộ môn. Việc dạy học môn toán cũng phải tuân thủ yêu cầu này. (v) Trình bày rõ ràng, đảm bảo mỹ thuật; Yêu cầu này đặt ra đối với cả lời văn, chữ viết, hình vẽ, cách sắp xếp các yếu tố (chữ, số, hình, ký hiệu, …) trong lời giải. (vi) Tìm ra nhiều cách giải, chọn cách giải ngắn gọn, hợp lý nhất; Ngoài các yêu cầu (i) – (v), cần khuyến khích học sinh tìm ra nhiều cách giải cho cùng một bài toán, phân tích, so sánh những cách giải khác nhau để tìm ra lời giải ngắn gọn, hợp lý nhất trong số các lời giải đã tìm được hay nói cách khác là nhìn nhận bài toán dưới nhiều góc độ. 10 (vii) Nghiên cứu giải những bài toán tương tự, mở rộng hay lật ngược vấn đề. Bốn yêu cầu (i), (ii), (iii) và (iv) là các yêu cầu cơ bản, (v) là yêu cầu về mặt trình bày còn (vi) và (vii) là những yêu cầu đề cao. Quá trình phân tích trên chứng tỏ tính chất quan trọng trong việc rèn luỵện giải bài toán (khi đã có đường lối giải). Nhưng dù sao vẫn phải xem việc rèn luyện khả năng tìm lời giải các bài toán là khâu có tính chất quyết định trong toàn bộ công việc rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh. 1.1.2. Vấn đề rèn luyện khả năng tìm lời giải các bài toán Đây là khâu rất quan trọng có tính chất quyết định trong việc rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy học giải bài tập toán, giáo viên cần tổ chức cho học sinh tập luyện khâu này thật kỹ lưỡng, làm cho họ ý thức được vai trò đặc biệt quan trọng của khâu này, thể hiện ở chỗ: – Khi giải bài tập toán, dù có kỹ thuật cao, có thành thạo trong thực hiện các thao tác, các phép tính hay các phép biến đổi nhưng khi chưa có phương hướng giải hoặc chưa có phương hướng giải tốt thì chưa thể có lời giải hoặc lời giải tốt. – Khi đã có phương hướng giải thì việc thực hiện các thao tác khi trình bày lời giải có tính chất kỹ thuật, không thể có những sáng tạo, những phân tích quan trọng lớn như khi tìm phương hướng giải. – Mặt khác, ý thức được tầm quan trọng của khâu rèn luỵên phương pháp tìm lời giải của bài toán chính là cơ sở quan trọng cho việc rèn luyện khả năng làm việc độc lập sáng tạo, một khả năng không thể thiếu được đối với người giải toán. Như vậy, từ hai vấn đề đã nêu trên, ta có thể khẳng định: Trong quá trình rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh thì khâu giải bài toán tuy rất quan trọng nhưng quyết định vẫn là khâu tìm lời giải của các bài toán. 11 1.2. Phương pháp tìm lời giải các bài toán Chúng ta không thể có một thuật giải tổng quát để giải mọi bài toán. Ngay cả đối với những lớp bài toán riêng biệt cũng có trường hợp có, có trường hợp không có thuật giải. Tuy nhiên, trang bị những hướng dẫn chung, gợi ý cách suy nghĩ tìm tòi, phát hiện cách giải bài toán lại là có thể và cần thiết. Sau đây ta có thể nêu phương pháp chung để tìm lời giải các bài toán: Bước 1: Tìm hiểu nội dung đề bài, phân tích và nghiên cứu đề bài Với một bài toán công việc của người giải toán cần đặt ra là tìm hiểu nội dung bài toán: phân biệt cái đã cho bao gồm các giả thiết, các điều kiện cho trong bài toán để từ đó xác định được dạng bài toán, tìm được phương hướng giải bài toán và lựa chọn công cụ thích hợp. Bước 1 là một yêu cầu quan trọng và quyết định trong việc tìm lời giải bài toán. Năng lực của người giải toán thể hiện rõ ở bước này. Nhiều người khi giải toán, không tìm hiểu kỹ nội dung đề ra, không phân tích các giả thiết hay tìm ra mối liên hệ quan trọng trong bài toán mà cứ ghi chép, nháp lia lịa, mặc dù chưa biết mình giải quyết cái gì. Đó là cách tìm lời giải máy móc và không hiệu quả. Có thể nói bước này là thước đo năng lực của người giải toán, vì rằng không thể đánh giá kỹ năng giải toán tốt mà chỉ thể hiện ở khâu tiếp thu và vận dụng tốt. Bước 2: Tìm cách giải Tìm tòi, phát hiện cách giải nhờ những suy nghĩ có tính chất tìm đoán: Dựa vào việc phân tích các giả thiết, các điều kiện của bài toán hay liên hệ các giả thiết, các điều kiện đã cho với những tri thức đã biết, liên hệ bài toán cần giải với một bài toán cũ tương tự, một trường hợp riêng, một bài toán tổng quát hơn hay một bài toán nào đó có liên quan. Bước này nhằm rèn luyện những kỹ năng đi sâu vào mỗi bài toán: Việc phân tích các giả thiết, các điều kiện bài toán và cả kết quả của nó giúp cho người giải toán hiểu rõ quá trình xảy ra có tính quy luật của mọi bài toán. Nghĩa là, người giải toán sẽ biết được với các giả thiết, các điều kiện đã cho như vậy thì tất yếu kết quả phải diễn ra như thế nào? 12 Làm tốt bước này người giải toán có đủ lòng tin vào đường lối mình đã tiến hành và hy vọng ở tính đúng đắn của mọi thao tác, biến đổi. Ngoài ra, nó còn giúp ích nhiều cho người giải toán trong việc tìm kiếm các bài toán liên quan, sáng tạo ra các bài toán mới. Bước 3: Trình bày cách giải Từ cách giải đã được phát hiện, sắp xếp các việc phải làm thành một chương trình gồm các bước theo một trình tự nhất định và thực hiện các bước đó. Bước này nhằm rèn luyện cho người giải toán khả năng trình bày một lời giải chính xác, chặt chẽ, lôgic và thẩm mỹ. Bước 4: Nghiên cứu sâu lời giải Nghiên cứu khả năng ứng dụng kết quả của lời giải, nghiên cứu giải những bài toán tương tự, mở rộng hay lật ngược vấn đề, từ đó sáng tạo ra bài toán mới. Để làm tốt việc này trước hết người giải toán phải phân tích kỹ để nắm được đặc điểm và bản chất của bài toán, các yếu tố tạo nên bài toán đó. Như thế mới có thể thấy được mối liên hệ giữa các bài toán trong cùng một loại bài toán và giữa các loại bài toán khác nhau. 1.3. Các thức dạy học phương pháp tìm lời giải bài toán Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để học sinh hiểu được và vận dụng được phương pháp tìm lời giải bài toán vào việc giải những bài toán cụ thể mà họ gặp trong chương trình. Học phương pháp tìm lời giải không phải là học một thuật giải mà học những kinh nghiệm giải toán mang tính chất tìm tòi, phát hiện. Theo [6], tác giả Nguyễn Bá Kim, cách thức dạy học phương pháp để tìm lời giải bài toán như sau: – Thông qua việc giải những bài toán cụ thể, cần nhấn mạnh để học sinh nắm được phương pháp tìm lời giải các bài toán và có ý thức vận dụng 4 bước của phương pháp này trong quá trình giải toán. – Cũng thông qua việc giải những bài toán cụ thể, cần đặt cho học sinh những câu hỏi gợi ý đúng tình huống để học sinh dần dần biết sử dụng những 13 câu hỏi này như những phương tiện kích thích, tìm tòi, dự đoán, phát hiện để thực hiện từng bước của phương pháp tìm lời giải bài toán. Như vậy, quá trình học sinh học phương pháp tìm lời giải bài toán là một quá trình biến những tri thức phương pháp tổng quát thành kinh nghiệm giải toán của bản thân mình thông qua việc giải hàng loạt bài toán cụ thể. Từ phương pháp tìm lời giải bài toán đi tới cách giải một bài toán cụ thể còn là cả một chặng đường đòi hỏi lao động tích cực của người học sinh, trong đó có nhiều yếu tố sáng tạo. 2. Rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh thông qua việc giải các bài toán về đường tròn có hai tiếp tuyến và một cát tuyến kẻ từ một điểm. 2.1. Nhắc lại cho học sinh bài toán cơ bản cần nhớ: Bài toán 1: Cho tứ giác ABCD có hai đường chéo cắt nhau tại I, hai đường thẳng AB, CD cắt nhau tại S. Khi đó các điều sau là tương đương: i) Tứ giác ABCD nội tiếp. ii) SA. SB = SC. SD iii)IA. IC = IB. ID. Gợi ý: a) Chứng minh i) ⇔ ii) I B S C D A 14
* Chứng minh : từ i) ⇒ ii) Vì tứ giác ABCD nội tiếp nên SAD SCB = (cùng bù với BAD ). Xét ∆SAD và ∆SCB có : S$ chung và SAD SCB = (chứng minh trên) Suy ra ∆SAD ∆SCB (g – g)
* Chứng minh : từ ii) ⇒i). Vì SA SB SC SD . . SA SD = ⇒ = = Suy ra ∆SAD ∆SCB (c – g – c) do đó SAD SCB = . Xét tứ giác ABCD có SAD SCB = nên tứ giác ABCD nội tiếp (dấu hiệu nhận biết tứ giác nội tiếp)
do đó SA SD SA SB SC SD . . SC SB = ⇒ = SC SB Xét ∆SAD và ∆SCB có : S$ chung và SA SD SC SB b) Ta chứng minh cho ii) ⇔ iii)
Chứng minh ii) ⇒iii) Vì SA SB SC SD . . SA SD = ⇒ = Suy ra ∆SAD ∆SCB (c – g – c) do đó SAD SCB = . Xét tứ giác ABCD có SAD SCB = nên tứ giác ABCD nội tiếp (góc ngoài tại một đỉnh bằng góc trong của đỉnh đối diện) Vì tứ giác ABCD nội tiếp nên
DAC DBC = (góc nội tiếp cùng chắn
DC ) Xét ∆IAD và ∆IBC có AID CIB = (hai góc đối đỉnh)
DAC DBC = (chứng minh trên)
Chứng minh : từ iii) ⇒ii) Vì IA IC IB ID . . IA IB ID IC = ⇒ = nên dễ dàng chứng minh được ∆IAD ∆IBC (c-g-c) Suy ra DAC DBC = Suy ra tứ giác ABCD nội tiếp(dhnb tứ giác nội tiếp). Vì tứ giác ABCD nội tiếp nên SAD SCB = (cùng bù với BAD ). Xét ∆SAD và ∆SCB có : S$ chung và SAD SCB = (chứng minh trên) Suy ra ∆SAD ∆SCB (g – g)
SC SB Xét ∆SAD và ∆SCB có : S$ chung và SA SD SC SB = . do đó SA SD SA SB SC SD . . SC SB = ⇒ = 15
Do đó ∆IAD ∆IBC (g – g)
suy ra . . IA IB IA IC IB ID ID IC = ⇒ = c) Ta đi chứng minh iii) ⇔ i) :
Chứng minh iii) ⇒i) Thật vậy: Vì IA IC IB ID . . IA IB ID IC = ⇒ = nên dễ dàng chứng minh được ∆IAD ∆IBC (c-g-c) Suy ra DAC DBC = . Suy ra tứ giác ABCD nội tiếp(dhnb tứ giác nội tiếp).
Chứng minh i) ⇒iii) Vì tứ giác ABCD nội tiếp nên
DAC DBC = (góc nội tiếp chắn DC ) Xét ∆IAD và ∆IBC có AID CIB = (hai góc đối đỉnh)
DAC DBC = (chứng minh trên) Do đó ∆IAD ∆IBC (g – g)
suy ra . . IA IB IA IC IB ID ID IC = ⇒ = Bài toán 2 : Từ điểm K nằm ngoài đường tròn ta kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát
tuyến KCD thì
=
AC
BC
AD
BD
Gợi ý: A B C D K O Ta có: KAC = ADK ⇒ ∆KAC∽∆KAD
AC
KC
=
AD
KA
⇔ Tương tự ta cũng có:
BC
KC
=
BD
KB
mà KA = KB nên suy ra
AC
BC
=
AD
BD
16 Chú ý: Những tứ giác ABCD như trên có
AC
BC
=
AD
BD
hay AC.BD=AD.BC (tích các cạnh đối bằng nhau). Ta còn gọi tứ giác ABCD là tứ giác điều hòa. Bài toán 3 : Từ điểm S nằm ngoài đường tròn (O) kẻ hai tiếp tuyến SA, SB (A và B là các tiếp điểm) và cát tuyến SCD (SC < SD) sao cho A và O nằm khác phía với CD. Gọi H là trung điểm của CD. Chứng minh rằng : 1) SA SC SD 2 = . . 2) 5 điểm S, H, A, B, O cùng thuộc một đường tròn, chỉ rõ đường kính? H C S O A B D Gợi ý: 1) Xét ∆SAC và ∆SDA có : S$ chung và SAD SDC = (góc nội tiếp và góc tạo bởi tia tiếp tuyến chắn AC của (O)). Do đó ∆SAC ∆SDA (g -g) nên SA SD SA SC SD 2 . SC SA = ⇒ = (ĐPCM) 2) Ta dễ dàng chứng minh các điểm S, A, B, O, H cùng thuộc đường tròn đường kính SO. Nhận xét: Có thể thay bằng câu hỏi dẫn đến học sinh khó nhìn ra hướng, như: Chứng minh tứ giác AHOB nội tiếp. Dựa vào kết quả bài toán cơ bản ta có câu hỏi cần chứng minh sau: 3) Gọi M là giao điểm của SO và AB, ta cũng chứng minh SA2 = SM.SO 17 4) Tứ giác CMOD nội tiếp. 5) Gọi I là giao điểm của AB và CD. Chứng minh SI.SH = SM.SO. 2.2. Những bài toán tiêu biểu. Bài 1: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn ta kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi M là giao điểm OK và AB. Vẽ dây DI qua M. Chứng minh: a) KIOD là tứ giác nội tiếp b) KO là phân giác của góc IKD Gợi ý: I M O K D C B A a) Để chứng minh KIOD là tứ giác nội tiếp việc chỉ ra các góc là rất khó khăn. Ta phải dựa vào các tính chất của cát tuyến, tiếp tuyến. Ta có: AIBD là tứ giác nội tiếp và AB ∩ ID = M nên ta có: MA.MB = MI.MD Mặt khác KAOB là tứ giác nội tiếp nên MA.MB = MO.MK Từ đó suy ra MO.MK = MI.MD hay KIOD là tứ giác nội tiếp. b) Xét đường tròn ngoại tiếp tứ giác KIOD. Ta có IO = OD = R OKI = OKD ⇒ ⇒ KO là phân giác của góc IKD Nhận xét: – Để giải được phần a của bài tập trên HS nhận ra được tính chất 2 (chính là dựa vào các đoạn thẳng cắt nhau để suy luận ra cách chứng minh tứ giác nội tiếp). – Đối với phần b, nhiều học sinh sẽ loay hoay chứng minh hai góc bằng nhau để chứng minh phân giác mà quên mất tính chất quan trọng: 18 + Trong một đường tròn các góc nội tiếp chắn các cung bằng nhau thì bằng nhau. + Trong một đường tròn dây bằng nhau căng hai cung bằng nhau. Như vậy, ở bài tập trên với đối tượng học sinh trung bình ta có thể gợi ý chứng minh hoặc tách thành hai ý nhỏ: Chứng minh MO.MK = MI.MD và KIOD là tứ giác nội tiếp. Nếu hai cát tuyến cắt nhau bên ngoài, học sinh sẽ dễ nhìn ra hơn: GV chiếu hình vẽ của bài tập 2 trước khi nêu đề bài, học sinh nhìn và có thể tự nhìn và chứng minh được tứ giác CMOD nội tiếp. Bài 2: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi M là giao điểm OK và AB. Chứng minh: a) CMOD là tứ giác nội tiếp. b) Đường thẳng AB chứa phân giác của góc CMD. Gợi ý: h1 h2 O B A D C M K O K D C B A M a) Vì KB là tiếp tuyến nên ta có: KB = KC.KD = KO – R 2 2 2 Mặt khác tam giác KOB vuông tại B và BM ⊥ KO nên KB2 = KM.KO ⇒ KC. KD = KM.KO hay CMOD là tứ giác nội tiếp . b) CMOD là tứ giác nội tiếp nên KMC = ODC,OMD = OCD . Mặt khác ta có: ODC = OCD KMC = OMD ⇒ Trường hợp 1: Tia KD thuộc nửa mặt phẳng chứa A và bờ là KO (h1) 19 Hai góc AMC,AMD có 2 góc phụ với nó tương ứng là KMC,ODC mà
KMC = ODC nên AMC AMD = hay MA là tia phân giác của góc CMD . Trường hợp 2: Tia KD thuộc nửa mặt phẳng chứa B và bờ là KO (h2) thì tương tự ta cũng có MB là tia phân giác của góc CMD . Suy ra đường thẳng AB chứa phân giác của góc CMD . Bài 3: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi H là trung điểm CD . Vẽ dây AF đi qua H. Chứng minh: BF // CD. Gợi ý: F A B C D H K O Để chứng minh BF // CD ta chứng minh AHK = AFB Ta có AFB = AOB 1 2 (Tính chất góc nội tiếp chắn cung AB). Mặt khác KO là phân giác góc AOB nên AOK = BOK = AOB 1 2
⇒ AFB = AOK . Vì A, K, B, O, H cùng nằm trên đường tròn đường kính
KO nên AHK = AOK AFB = AHK ⇒
BF / /CD
⇔
.
Nhận xét: Ở bài tập này học sinh vận dụng 5 điểm cùng thuộc một đường tròn K, A, H, O và B và biết khéo léo vận dụng các góc trong đường tròn để chứng minh các góc bằng nhau để từ đó suy ra điều chứng minh. Bài 4: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi H là trung điểm CD. Đường thẳng qua H song song với BD cắt AB tại I . Chứng minh: CI ⊥ OB. 20 Gợi ý: I F A B C D H K O Ta có HI / /BD CHI = CDB ⇒ . Mặt khác CAB = CDB cùng chắn cung CB nên suy ra CHI = CAB hay AHIC là tứ giác nội tiếp.
Do đó IAH = ICH
BAH = ICH
⇔
. Mặt khác ta có A, K, B, O, H cùng
nằm trên đường tròn đường kính KO nên BAH = BKH Từ đó suy ra ICH = BKH CI / /KB ⇒ . Mà KB ⊥ OB ⇒ CI ⊥ OB Nhận xét: Mấu chốt bài toán nằm ở vấn đề OB ⊥ KB. Thay vì chứng minh CI ⊥ OB ta chứng minh CI // KB. Bài 5: Cho đường tròn (O) dây cung ADI. Gọi I là điểm đối xứng với A qua D. Kẻ tiếp tuyến IB với đường tròn (O). Tiếp tuyến của đường tròn (O) tại A cắt IB ở K. Gọi C là giao điểm thứ hai của KD với đường tròn (O). Chứng minh rằng: BC // AI. Gợi ý: I B A D C K O 21 Ta cần chứng minh: AIK = KBC Mặt khác ta có: KBC = CAB = CB 1 2 s® nên ta sẽ chứng minh
AIK = CAB hay ⇔ ∆BID∽∆BCA. Thật vậy theo chứng minh bài toán 2 (mục 2.2) trong tứ giác ABCD ta có:
CB
DB
=
mà
CA
DA
=
CB
DB
CA
DI
⇒ Tứ giác ACBD nội tiếp nên BCA = BDI ⇒ ∆BID ∽ ∆BCA ⇒
AIK = CAB Hay AIK = KBC BC / /AI ⇒ Bài 6: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi M là giao điểm OK và AB. Vẽ dây CF qua M. Chứng minh: DF // AB. Gợi ý: F 1 21 M A B C D H K O Kẻ OH ⊥ CD Ta chứng minh được: CMOD là tứ giác nội tiếp (bài toán 2) nên M = D 1 1 mà 0 0 M + M = 90 ;D + DOH = 90 M = DOH 1 2 1 2 ⇒ . Mặt khác ta có: CFD = COD,DOH = COD CFD = DOH 1 1 2 2 ⇒ . Từ đó suy ra M = CFD DF / /AB 2 ⇔ Chú ý: DF//AB ⇒ABFD là hình thang cân có hai đáy là AB, DF ⇒OMD = OMF Bài 7: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi M là giao điểm OK và AB. Kẻ OH vuông góc với CD cắt AB ở E. Chứng minh 22 a) CMOE là tứ giác nội tiếp. b) CE, DE là tiếp tuyến của đường tròn (O) . Gợi ý: a) Theo bài toán 2, ta có CMOD là tứ giác nội tiếp nên CMK = ODC = OCD . Do đó các góc phụ với chúng bằng nhau: CME = COE . Suy ra CMOE là tứ giác nội tiếp (theo cung chứa góc). b) Cũng theo bài toán 2, CMOD nội tiếp. Mặt khác CMOE là tứ giác nội tiếp nên E, C, M, O, D thuộc một đường tròn. Từ đó dễ chứng minh CE, DE là tiếp tuyến của đường tròn (O). Bài 8: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Vẽ đường kính AI. Các dây IC, ID cắt KO theo thứ tự ở G, N. Chứng minh rằng: OG = ON. Gợi ý: 1 1 1 I G M O N C D K A E M A B C D H K O 23 Ta vẽ trong hình trường hợp O và A nằm khác phía đối với CD. Các trường hợp khác chứng minh tương tự. Để chứng minh OG = ON, ta sẽ chứng minh ∆IOG = ∆AON. Ta đã có OI = OA, IOG = AON , cần chứng minh CIA = IAN , muốn vậy phải có AN // CI. Ta sẽ chứng minh AND = CID . Chú ý đến AI là đường kính, ta có ADI = 90 0 , do đó ta kẻ AM ⊥ OK. Ta có AMND là tứ giác nội tiếp, suy ra
AND = AMD (1) Sử dụng bài 2, ta có CMOD là tứ giác nội tiếp và 1 1 AMD = CMD = COD 2 2 (2) Từ (1) và (2) suy ra AND = COD 1 2 . Ta lại có CID = COD 1 2 nên 1 AND = CID 2 . HS tự giải tiếp. Bài 9: Từ điểm K nằm ngoài đường tròn tâm (O) kẻ các tiếp tuyến KA, KB cát tuyến KCD đến (O). Gọi M là trung điểm của AB. Chứng minh rằng
ADC = MDB. Gợi ý: K O H D C B E A M 24 Kẻ OH ⊥ CD, cắt AB ở E. Theo bài 7, EC là tiếp tuyến của đường tròn (O) suy ra CBD = ECD (1) EC là tiếp tuyến của đường tròn (O) ,theo bài 2, ta còn chứng minh được ECMD là tứ giác nội tiếp, suy ra EMD ECD = (2). Từ (1) và (2) suy ra CBD = EMD . Do đó hai góc bù với nhau chúng bằng nhau:
CAD = BMD ⇒∆ CAD∽∆BMD (g.g) nên ADC = MDB . Nhận xét: Như vậy thông qua khai thác tứ giác nội tiếp và kết hợp với kiến thức về đường tròn ta đã giải quyết các dạng toán: + Chứng minh tứ giác nội tiếp. + Chứng minh các góc bằng nhau. + Chứng minh quan hệ vuông góc, song song,… + Chứng minh các đoạn thẳng bằng nhau,…. Ngoài ra tôi còn khai thác, phát triển thêm các bài tập chứng minh các hệ thức hình học, chứng minh ba điểm thẳng hàng, ba đường thẳng đồng quy, một số bài tập về cực trị hình học,… để phát triển tư duy học sinh. 2.3. Khai thác, phát triển thêm các bài toán mới từ các bài toán căn bản trên. Bài 10: Cho tam giác nhọn ABC nội tiếp đường tròn (O). Tiếp tuyến tại A cắt BC ở K. Kẻ tiếp tuyến KD với đường tròn. Gọi E, G, F theo thứ tự là hình chiếu của D trên AB, BC, CA. Chứng minh rằng GE = GF. Gợi ý:
1
1 H F O
G
E D K C A B 25 ∆DEG có D nhọn nội tiếp đường tròn đường kính BD nên dễ dàng chứng minh được
EG BD sin EDG = mà EDG B = 1 nên EG = BD sin B 1 (1) Tương tự GF = CD sinC 1 (2)
Từ (1) và (2) suy ra
EG
BD sin B . CD sin C
=
GF
1 1 (3) Theo bổ đề 1 ta có
BD
AB
CD
AC
=
(4) Từ (3) và (4) suy ra
1 1
EG
AB sin B . AC sin C
AH
1 = (với AH là đường cao
=
=
GF
AH
của ∆ABC). Vậy EG = GF. Lưu ý: Ta có E, G, F thẳng hàng (đường thẳng Simson) nên còn suy ra G là trung điểm của EF. Bài 11: Cho đường tròn (O), tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD. Chứng minh rằng tứ giác ACBD có tích hai đường chéo bằng hai lần tích hai cạnh đối (được sử dụng định lí Ptô-lê-mê với tứ giác nội tiếp: tích hai đường chéo bằng tổng các tích hai cạnh đối). Gợi ý: C K O A B D Theo định lí Ptô-lê-mê: AB . CD = AC . BD + AD . BC (1) Tứ giác ABCD ta có AC . BD = AD . BC (2) Từ (1) và (2) suy ra: AB . CD = 2AC . BD = 2AD . BC 26 Bài 12: Cho đường tròn (O). Qua điểm K nằm ngoài đường tròn, kẻ tiếp tuyến KM, cát tuyến KAB đi qua O, cát tuyến KCD bất kì. Gọi I là giao điểm củ AD và BC, H là hình chiều của I trên AB. Chứng minh rằng: a) CHOD là tứ giác nội tiếp. b) Ba điểm I, H, M thẳng hàng. Gợi ý: 2 1 1 H I A C K O M D B a) Ta có C I 1 1 = (IHAC nội tiếp) = HBD (IHBD nội tiếp) = C2 (ABDC nội tiếp) ⇒ HCK 2C 2HBD = = 1 (1) ∆BOD cân tại O ⇒ HOD 2HBD = (2) Từ (1) và (2) suy ra HOD HCK = ⇒ CHOD là tứ giác nội tiếp. b) Ta có KM2 = KC . KD mà KC . KD = KH . KO (câu a) nên KM2 = KH . HO ⇒ KH KM KM KO = ⇒ ∆KHM ∽ ∆KMO (c.g.c) ⇒ KHM KMO 90 = = 0 HI và HM cùng vuông góc với KO nên I, H, M thẳng hàng. Bài 13: Cho đường tròn (O), tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD. Tiếp tuyến với đường tròn (O) tại D cắt AB ở E. Chứng minh rằng EC là tiếp tuyến của đường tròn (O). 27 Gợi ý: E M C K O A B D Gọi M là giao điểm của EB và KO. Theo bổ đề 3 ta có CMOD là tứ giác nội tiếp, mà EMOD là tứ giác nội tiếp nên E, C, M, O, D thuộc một đường tròn ⇒ OCE OME 90 = = 0 Vậy EC là tiếp tuyến của (O). Bài 14: Cho đường tròn (O), tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD. Gọi M là trung điểm của AB. Chứng minh rằng ADC BDM = . Gợi ý:
1 1 E M O
1 C K A B D Cách 1 . Kẻ AE ⊥ BD. Sẽ chứng minh ADC BDM = bằng cách chứng minh ∆ADK ∽ ∆EDM. ∆AEB vuông tại E, trung tuyến EM 28 ⇒ E B 1 1 = , mà B A 1 1 = nên A E DAK DEM 1 1 = ⇒ = (1) ADE KAM = ⇒ ∆ADE ∽ ∆KAM (g.g) ⇒ AD DE DE AK AM EM = = (2) Từ (1) và (2) suy ra ∆ADK ∽ ∆EDM (c.g.c) ⇒ ADK EDM = , tức là ADC BDM = 2 1 1 1 M C K O B D A E I Cách 2. Kẻ đường kính AE. Gọi I là giao điểm của DE và KO. Tứ giác AMID nội tiếp (vì AMI ADI 90 = = 0 ) ⇒ ADM I = 1 (1)
K A 1 1 = (cùng phụ với KAM ) = D 1 (góc nội tiếp) ⇒ KBID là tứ giác nội tiếp ⇒ KDB I = 2 (2) ∆IAB cân (vì đường cao IM là trung tuyến) ⇒ I I 1 2 = (3) Từ (1) (2), và (3) suy ra ADM KDB = Hai góc này cùng trừ đi KDM được ADC BDM = Cách 3. Sử dụng kết quả của bài 12. M C K O B D A 29 Theo bài toán 11, ta có AC . BD = 1 AB.CD 2 = MB . CD (vì MB = 1 AB 2 ) ⇒ AC MB CD BD = Kết hợp với ACD ABD = (góc nội tiếp) suy ra ∆ACD ∽ ∆MBD (c.g.c) ⇒ ADC MDB = Bài 15: Cho hai đường tròn (O) và (O’) tiếp xúc ngoài tại A. Kẻ dây AB của đường tròn (O’) không đi qua O’. Kẻ các tiếp tuyến BC, BD với đường tròn (O), C và D là các tiếp điểm. Gọi giao điểm thứ hai của CA, DA với đườngt ròn (O’) lần lượt là E, F. Tiếp tuyến chung của hai đừng tròn (O) và (O’) tại A cắt EF ở K. Chứng minh rằng: a) BF2 = AF . DF và BE2 = AE . CE b) BF AF BE AE = c) KB là tiếp tuyến của đường tròn (O’) Gợi ý: 2 1 1 1 1 B’ I B O A O’ C D E F K a) Gọi I là giao điểm của KA và BD. Ta có D A A B 1 1 2 1 = = = nên ∆FBA ∽ ∆FDB (g.g) ⇒ BF AF DF BF = ⇒ BF2 = AF . DF Tương tự BE2 = AE . CE 30 b) Từ câu a) suy ra 2 BF AF DF . BE AE CE = (1)
AEF A A C = = = 2 1 1 ⇒ EF // CD
⇒ AF AE
AD AC
AF AD AE AC
DF CE
+ = = = + (2) Từ (1) và (2) suy ra 2 2 BF AF
BE
AE
=
nên
=
(3)
BE
AE
BF
AF
c) Chứng minh bằng phản chứng. Giả sử KB cắt đường tròn (O’) tại B’ khác B, giả sử B’F BF B’BE BE < ⇒ > , suy ra B’F < BF, B’E > BE nên
B’F
BF
B’E
BE
<
(4) Xét các tiếp tuyến KA . KB’ và cát tuyến KFE, theo bổ đề 1 ta có
B’F
AF
B’E
AE
=
,
kết hợp với (3) có
B’F
BF
B’E
BE
=
, mâu thuẫn với (4). Vậy KB là tiếp tuyến của (O’).
Bài 16: Cho đường tròn (O), các tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD
(AC BC) > . Gọi I là trung điểm của CD. Đường tròn đi qua B, I, D cắt AB ở điểm thứ hai E. Chứng minh rằng AK // DE. Gợi ý: I
C
K O A B D E Tứ giác BIDE nội tiếp ⇒ E BIK = (1) A, K, B, I thuộc đường tròn đường kính KO ⇒ A BIK = (2) Từ (1) và (2) suy ra E A = , do đó AK // DE. 31 Bài 17: Cho đường tròn (O), các tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD. Kẻ dây AE song song với CD. Gọi M là giao điểm của BE và CD. Chứng minh rằng M là trung điểm của CD. Gợi ý: 1 M E C K O A B D
KMB E O = = 1 ⇒ K, O, M, B thuộc một đường tròn, mà OBK 90 = 0 nên OMK 90 = 0. Vậy MC = MD. Bài 18: Cho đường tròn (O), các tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD. Gọi M là trung điểm của CD. Kẻ dây BE đi qua M. Chứng minh rằng: a) AE // CD. b) AC là tiếp tuyến của đường tròn ngoại tiếp ∆BCM. Gợi ý: 2 1 1 M C K O A B D E a) K, O, M, B thuộc một đường tròn ⇒ KMB O E = = 1 ⇒ AE // CD 32 b) AE // CD (câu a) ⇒ B B 1 2 = ⇒ CBM ABD ACD = = ⇒ AC là tiếp tuyến của đường tròn (BMC) Bài 19: Cho tam giác nhọn ABC nội tiếp đường tròn (O), các đường cao BE và CF. Các tiếp tuyến tại B và C cắt nhau ở K. Gọi M là giao điểm của OK và BC. a) Chứng minh rằng BAK MAC = b) Gọi G là giao điểm của AM và EF, H là giao điểm của AK và BC. Chứng minh rằng GH // OM. Gợi ý: 2 1 G H M K E F C
O
A B a) Xét ví dụ 118 (cách 1) b) A A 1 2 = (câu a) và AEG ABH = nên ∆AEG ∽ ∆ABH (g.g) ⇒ AG AE
AH
AB
= (1) A A 1 2 = (câu a) và AEM ABK = (đã chứng minh trong cách giải câu a) nên ∆AEM ∽ ∆ABK (g.g) ⇒ AE AM AB AK = (2) Từ (1) và (2) suy ra
AG
AM
AH
AK
=
⇒
AG
AH
AM
AH
=
⇒ GH // MK
33 Bài 20: Cho tam giác nhọn ABC nội tiếp đường tròn (O), AC k AB = . Các tiếp tuyến tại B và tại C cắt nhau ở M. Gọi N là giao điểm của AM và BC. Chứng minh rằng NC k2 NB = Gợi ý: a a
2 1
1
H N M C A B E F Kẻ AE ⊥ MB, AF ⊥ MC. Đặt MB = MC = a Ta có
NCM
NCA
S
NBM NB S
NBA S
NCM
NCA
NBM S
NBA S
NC S + = = = = + =
2 1 a .AF 2 AF AC.sin C a AE AB.sin B .AE 2 = = (1) Kẻ AH ⊥ BC, ta có C ABC 2 = , B C 1 1 =
nên
1 sin C =
2 =
:
=
sin ABC AH AH AC
sin C
1 sin B
AB AC AB
Từ (1) và (2) suy ra
2
NC AC
2
k
=
=
(2) NB AB 34 Bài 21: Cho đường tròn (O), các tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD sao cho BD là đường kính của đường tròn (O). Gọi H là giao điểm của OK và AB. a) Tính góc ACH. b) Gọi M là giao điểm của AC và KH. Chứng minh rằng MH = MK. Gợi ý:
H O
1 1
1
1 C K A B D M a) BCD 90 = 0 , KCHB là tứ giác nội tiếp ⇒H BKC 1 = 0 ⇒ H A BKC D 90 1 1 + = + = ⇒ ACH 90 = 0 b) Xét ∆AHM vuông tại H, ta có MH2 = MA . MC (1)
K B KAC 1 1 = = ⇒ ∆KMC ∽ ∆AMK (g.g) ⇒ MK MC = ⇒ MK2 = MA . MC (2)
MA
MK
Từ (1) và (2) suy ra MH = MK. Bài 22: Cho đường tròn (O), các tiếp tuyến KA, KB và cát tuyến KCD. Gọi (O’) là một đường tròn đi qua C, D và chứa điểm B bên trong. Gọi E và F theo thứ tự là giao điểm thứ hai của AC và CB với đường tròn (O’). Gọi I là giao điểm của AB và EF. Chứng minh rằng: a) ADIE, BDFI là tứ giác nội tiếp. b) IE = IF. 35 Gợi ý: a) A C E 1 1 1 = = ⇒ ADIE là tứ giác nội tiếp ⇒ I CAD 1 = Ta lại có CAD B = 1 nên I B 1 1 = , suy ra BDFI là tứ giác nội tiếp b) IFD ACD = (CDFE nội tiếp)
và I CAD 1 = nên ∆IFD ∽ ∆ACD (g.g) ⇒
=
(1)
IF
AC
ID AD ∆EID ∽ ∆CBD (g.g) ⇒
IE
BC
ID
BD
=
(2)
Từ (1), (2) và bổ đề
AC
BC
AD
BD
=
suy ra IE = IF.
Bài 23: Cho đường tròn (O), các tiếp tuyến AB, AC. Kẻ đường kính BD. Đường vuông góc với AB tại A cắt OC ở E. Gọi F là trung điểm của OB. Chứng minh rằng EF ⊥ AD. Gợi ý: 36 2 1 H K C F A O B D E Gọi K là trung điểm của AO. Ta có KF là đường trung bình của ∆OAB nên KF // AB, từ đó KF ⊥ OB.
O O OAE 1 2 = = ⇒ ∆OAE cân và EK ⊥ OA ∆OFK ∽ ∆OKE (g.g)
⇒ KF
OF
OB
OD
KE
OK
OA
OA
= = = ⇒ ∆KEF ∽ ∆OAD (c.g.c) ⇒ KEF OAD = ⇒ AEHK là tứ giác nội tiếp (H là giao điểm của EF và AD) ⇒ AHE AKE 90 = = 0 BÀI TẬP TỔNG HỢP Bài 1: Cho điểm M nằm ngoài đường tròn (O). Đường thẳng MO cắt (O) tại E và F (ME < MF). Vẽ cát tuyến MAB và tiếp tuyến MC của (O) (C là tiếp điểm, A nằm giữa hai điểm M và B, A và C nằm khác phía đối với đường thẳng MO). a, Chứng minh rằng MA.MB = ME.MF b, Gọi H là hình chiếu vuông góc của điểm C lên đường thẳng MO. Chứng minh tứ giác AHOB nội tiếp. 37 c, Trên nửa mặt phẳng bờ OM có chứa điểm A, vẽ nửa đường tròn đường kính MF; nửa đường tròn này cắt tiếp tuyến tại E của (O) ở K. Gọi S là giao điểm của hai đường thẳng CO và KF. Chứng minh rằng đường thẳng MS vuông góc với đường thẳng KC. d, Gọi P và Q lần lượt là tâm đường tròn ngoại tiếp các tam giác EFS và ABS và T là trung điểm của KS. Chứng minh ba điểm P, Q, T thẳng hàng.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KẾN: Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ làm thay đổi tất cả các lĩnh vực, trong đó đặc biệt là khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,…dẫn đến sự chuyển biến nhanh chóng về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực của nhiều quốc gia. Điều này đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những thay đổi một cách căn bản và toàn diện, từ triết lí, mục tiêu đến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học,…nhằm phát triển cho người học hệ thống năng lực cần thiết để có thể tham gia hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và quốc tế. Luât Giáo dục 2005 của nước ta nhấn mạnh: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tinh tich cực chủ động sáng tạo của học sinh (HS), phu hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dương phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, ren luyện kĩ năng vân dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thu học tâp cho HS. Để thực hiện được chủ chương đó một trong những định hướng đổi mới căn bản toàn diện giáo dục là chuyển định hướng tiếp cân nội dung nghiêng về trang bị kiến thức khoa học sang định hướng phát triển năng lực cần thiết để học sinh sống và phát triển được trong xa hội hiện đại, đặc biệt là năng lực phát hiện giải quyết vấn đề liên quan đến thực tế đời sống, năng lực sáng tạo, năng lực làm việc nhóm… Đối với môn Hóa học là một môn khoa học vừa li thuyết vừa thực nghiệm, nếu HS được học tâp kết hợp chặt chẽ giữa li thuyết và thực nghiệm thì HS sẽ nhanh chóng hiểu bài hơn, học sâu hơn, đồng thời góp phần thuc đây đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục trong các trường trung học. Trong chương trình hóa học trung học cơ sở, kiến thức môn Hóa lớp có nội dung rất phong phu, đa dạng và gần gũi với thực tế. Đặc biệt là phần hóa học lớp 8 không chỉ sẽ giúp HS tìm hiểu những nội dung liên quan đến kiến thức sau này mà quan trọng hơn nó giup học sinh giải thich được nhiều hiện tượng sẽ gặp trong thực tế đời sống. Vì vây, việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề liên quan thực tiễn cho học sinh ở Trung học cơ sở là vấn đề mang tính cấp thiết, cần được quan tâm. Từ các lí do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn cho học sinh thông qua môn hóa học lớp 8 ” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. Môn học học lớp 8 là môn học các em được làm quen đầu tiên trong chương trình Trung học cơ sở (THCS). Vì vây trong thời gian đầu tôi nhân thấy đa số các em bơ ngơ, chưa tâp trung trong giờ học, chưa hoàn thành nội dung bài tâp về nhà đặc biệt là những học sinh lực học trung bình, yếu. Kết quả kiểm tra còn thấp, nhiều học sinh chưa biết giải thích các hiện tượng liên quan đến thực tế đời sống. Điều đó có thể do một số nguyên nhân sau: – Đây là môn học mới, với nhiều từ ngữ mới lạ dẫn đến các em cảm thấy khó hiểu và khó học. – Là môn học dạy ít giờ nên thời gian học chưa nhiều. – Thời gian để các em chơi, va chạm với các hiện tượng thực tế ít, nên nhiều kiến thức chưa biết giải thích và vân dụng trong cuộc sống. – Dụng cụ thí nghiệm và hóa chất chưa đầy đủ, chuân bị mất nhiều thời gian, nên đôi luc giáo viên chưa sử dụng các thí nghiệm thường xuyên vào các bài học có liên quan. – Bên cạnh đó đa số các giáo viên đa áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào bài dạy nhưng chưa thường xuyên. Chưa lên hệ sâu rộng kiến thức vào trong thực tế để giúp các em giải thích các hiện tượng đời sống các em đa gặp. – Học sinh chưa hình thành thói quen chủ động tiếp thu kiến thức, vẫn còn phụ thuộc vào giáo viên. Cho nên các em chưa mạnh dạn, tự tin để lĩnh hội kiến thức mới. Vì vây trong dạy học đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng chú trọng phát triển năng lực của học sinh(HS). Theo định hướng này sự đổi mới phương pháp dạy học không chỉ chú ý tích cực hóa HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú trọng rèn luyện, phát triển năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tâp trong nhóm, đổi mới quan hệ giữa giáo viên(GV) và HS theo hướng cộng tác nhằm phát triển năng lực xã hội cho HS. Từ đó giup các em mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, cũng như trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Ngoài việc học những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học cần bổ sung các chủ đề học tâp tích hợp liên quan đến các vấn đề thực tiễn. Điều 3 đó đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu qua sách giáo khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm…và sử dụng chung đề giải quyết các vấn đề đặt ra. Hóa học lớp 8 có vai trò rất quan trọng trong chương trình hóa học THCS. Nhiều kiến thức liên quan đến thực tế mà học sinh cần khai thác, khám phá. Trên cơ sở những định hướng về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học mà GV có thể thực hiện hoạt động dạy học theo các biện pháp khác nhau phù hợp với điều kiện, đối tượng HS của mình để đảm bảo tính hiệu quả của việc phát triển năng lực HS. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Để nâng cao hiệu quả trong mỗi tiết dạy, đặc biệt là phát triển năng lực và giải quyết các kiến thức liên quan đến thực tế, thì việc xác định và lựa chọn phương pháp phu hợp đóng vai trò vô cùng quan trọng. 2.1. Mục đích nghiên cứu. – Nghiên cứu tích hợp các nội dung hóa học với các vấn đề liên quan thực tiễn trong các bài giảng kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực, chủ động để kích thích hứng thu, đam mê hóa học cho HS. – Lựa chọn, tổng hợp, xây dựng các bài tâp có nội dung liên quan phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề liên quan thực tiễn cho HS. – Lựa chọn, tổng hợp các tư liệu có liên quan đến nội dung liên quan phát triển năng lực giải quyết vấn đề (NL GQVĐ) liên quan thực tiễn cho HS làm tài liệu tham khảo. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. – Nghiên cứu cơ sở lý luân có liên quan đến đề tài: Đổi mới phương pháp dạy học ( PPDH ), phát triển năng lực, năng lực giải quyết vấn đề có liên quan đến thực tế thông qua quá trình dạy học nói chung và thông qua dạy học Hóa học nói riêng. – Đánh giá thực trạng của việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề liên quan thực tiễn trong dạy học nói chung và dạy học Hóa lớp 8 nói riêng ở trường THCS. – Nghiên cứu cấu truc chương trình phần Hóa học lớp 8 làm cơ sở xây dựng nội dung cần tích hợp. – Đánh giá chất lượng, hiệu quả và tính khả thi của các tình huống liên quan đến thực tiễn đa biên soạn nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề có liên quan thực tiễn cho HS. 2.3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. 4 a. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Hóa lớp 8. b. Đối tượng nghiên cứu: Việc phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề liên quan thực tiễn cho HS thông qua môn Hóa học lớp 8. 2.4. Phạm vi nghiên cứu. – Nội dung: Hóa lớp 8 – Áp dụng cho học sinh đại trà khối 8 – Tại trường THCS xa Nghĩa Phong- Nghĩa Hưng- Nam Định. 2.5. Giả thuyết khoa học. Nếu thiết kế được các giáo án kết hợp bài tâp, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, kết hợp với phương pháp dạy học tích cực… có nội dung đến thực tế sẽ kich thich được hứng thú học tâp, giúp HS phát triển năng lực giải quyết vấn đề liên quan thực tiễn, nâng cao chất lượng dạy học, góp phần giáo dục toàn diện cho HS THCS. 2.6. Phương pháp nghiên cứu. – Nghiên cứu quá trình dạy học và định hướng đổi mới PPDH Hóa học. – Phân tích tổng hợp các tài liệu về lí luân dạy học, tâm lí học, giáo dục học và các tài liệu cơ bản có liên quan đến đề tài. – Nghiên cứu cấu truc chương trình Hóa học lớp 8 làm cơ sở xây dựng nội dung năng lực giải quyết vấn đề(NL GQVĐ ) liên quan thực tiễn, đánh giá NL GQVĐ liên quan thực tiễn của HS trong quá trình dạy học. – Thực trạng quá trình giảng dạy nhằm phát triển NL GQVĐ liên quan thực tiễn, cách sử dụng các bài tâp có nội dung liên quan đến thực tiễn. – Thăm dự các tiết dạy của đồng nghiệp.Trao đổi, rút kinh nghiệm, tham khảo ý kiến của các GV. – Xây dựng giáo án kết hợp bài tâp giải quyết vấn đề có nội dung liên quan đến thực tiễn. – Tâp hợp được nguồn tư liệu hỗ trợ GV trong giảng dạy các bài trong chương liên quan đến các vấn đề liên quan thực tiễn cho HS. – Thiết kế dụng cụ thí nghiệm để đánh giá phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề liên quan đến thực tế. – Thử nghiệm giáo án tích hợp đa xây dựng để dạy học tại lớp thực nghiệm. 2.7. Xử lý số liệu. 5 – Phương tiện đánh giá: + Ghi chép tiến trình giờ học và quan sát biểu hiện thái độ của HS trong giờ học. + Căn cứ vào khả năng vân dụng của học sinh khi trả lời câu hỏi của giáo viên hay làm bài tâp để xác định mức độ nhân thức của học sinh: Biết, hiểu và vân dụng. Phân tich, đánh giá các thông tin thu được. – Phân tích kết quả + Phân tich, đánh giá những dấu hiệu tích cực nhân thức của học sinh trong quá trình dạy học ở lớp thực nghiệm và đối chứng thông qua các tiêu chí: Không khí lớp học, thái độ của học sinh, sự tương tác giữa giáo viên và học sinh trong các hoạt động dạy học. + Sau thực nghiệm, tôi tiến hành kiểm tra, chấm điểm và xử lí số liệu tổng kết phần trăm khá, giỏi, yếu, kém. NÔI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN DẠY HÓA HOC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC PHÁT HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN 1. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học. Đổi mới PPDH theo định hướng chú trọng phát triển năng lực của học sinh. Theo định hướng này sự đổi mới phương pháp dạy học không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú trọng rèn luyện, phát triển năng lực giai quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tâp trong nhóm, đổi mới quan hệ giữa giáo viên và học sinh theo hướng cộng tác nhằm phát triển năng lực xã hội cho học sinh. Ngoài việc học những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học cần bổ sung các chủ đề học tâp tích hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề liên môn học. Trên cơ sở những định hướng về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học mà giáo viên có thể thực hiện hoạt động dạy học theo các biện pháp khác nhau phù hợp với điều kiện, đối tượng học sinh của mình để đảm bảo tính hiệu quả của việc phát triển năng lực học sinh. Như vây, đổi mới giáo dục phổ thông thực hiện theo định hướng phát triển năng lực người học nên sự đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá các môn học được thực hiện theo chuân đầu ra 6 về phâm chất, các năng lực chung, năng lực chuyên biệt trong các môn học của học sinh. 2. Năng lực và vấn đề phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học hóa học 8. 2.1. Khái niệm về năng lực: Khái niệm năng lực (NL) có nguồn gốc tiếng Latinh “ Competentia” có nghĩa là gặp gơ. Có thể hiểu: “NL là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tinh cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… NL của cá nhân được đánh giá qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết vấn đề (GQVĐ)của cuộc sống. ” Hai điểm phân biệt cơ bản của NL là: Tính vân dụng và tính có thể chuyển đổi, phát triển. Đó cũng chinh là mục tiêu mà việc dạy học cần đạt tới. 2.2. Một số năng lực cần phát triển cho học sinh. NL đặc thù môn Hóa học bao gồm các NL sau: NL sử dụng ngôn ngữ hoá học, NL thực hành thí nghiệm hoá học, NL tính toán hóa học, NL GQVĐ thông qua môn hoá học, NLvân dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi đi sâu về NL GQVĐ và NL vân dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn mà tôi gọi là NL GQVĐ liên quan thực tiễn trong môn Hóa học. 2.3. Năng lực giải quyết vấn đề. – Khái niệm năng lực giải quyết vấn đề: + NL GQVĐ là NL hoạt động trí tuệ của con người trước những vấn đề, những bài toán cụ thể, có mục tiêu và có tinh hướng đich cao đòi hỏi phải huy động khả năng tư duy tich cực và sáng tạo nhằm tìm ra lời giải cho vấn đề. + NL GQVĐ có thể được hiểu là khả năng của con người phát hiện ra vấn đề cần giải quyết và biết vân dụng những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân, sẵn sàng hành động để giải quyết tốt vấn đề đặt ra. NL GQVĐ là tổ hợp các NL thể hiện ở các kĩ năng (thao tác tư duy và hoạt động) trong hoạt động nhằm giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ của vấn đề. -Cấu trúc của năng lực giải quyết vấn đề: NL GQVĐ là sự tổng hòa của các NL sau: 7 + NL nhận thức, học tập bộ môn giúp HS nắm vững các khái niệm, quy luât, các mối quan hệ và các kỹ năng bộ môn. + NL tư duy độc lập giup HS có được các phương pháp nhân thức chung và năng lực nhân thức chuyên biệt, biết phân tích, thu thâp xử lí, đánh giá, trình bày thông tin. + NL hợp tác làm việc nhóm, giúp HS biết phân tích đánh giá, lựa chọn và thực hiện các phương pháp học tâp, giải pháp GQVĐ và từ đó học được cách ứng xử, quan hệ xã hội và tich lũy kinh nghiệm GQVĐ cho mình. + NL tự học giúp HS có khả năng tự học, tự trải nghiệm, tự đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch giải quyết vấn đề, vân dụng linh hoạt vào các tình huống khác nhau. + NL vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống, giúp HS có khả năng phân tích, tổng hợp kiến thức trong việc phát hiện vấn đề và vân dụng nó để GQVĐ học tâp có liên quan đến thực tiễn cuộc sống. Như vây, NL GQVĐ có cấu trúc chung là sự tổng hòa của các NL trên, đồng thời nó còn là sự bổ trợ của một số kĩ năng thuộc các NL chung và NL chuyên biệt khác. – Những biểu hiện của năng lực giải quyết vấn đề: + Tư duy toàn diện, xem xét vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong học tâp HS có khả năng tổng hợp kiến thức của các bài học, các chương và các kiến thức có được từ các nguồn khác, các kinh nghiệm cá nhân để có cái nhìn nhiều chiều về một vấn đề. + Thường xuyên so sánh các sự vât, hiện tượng xảy ra, dễ dàng phát hiện được sự khác biệt, tương tự giữa chúng. Trong học tâp HS gặp các tình huống học tâp khác nhau, những HS có kĩ năng GQVĐ thường dễ dàng phát hiện được các điểm mấu chốt trong câu hỏi, bài tâp cũng như những mâu thuẫn nhân thức khi hình thành kiến thức mới. + Tư duy sáng tạo: Là NL nhìn nhân vấn đề theo nhiều cách khác nhau. Điều này thể hiện ở việc nhìn vấn đề ở các cách khác mọi người hay làm, đưa ra các sáng kiến hoặc GQVĐ theo một cách khác độc đáo hơn. Người có tư duy sáng tạo có thể nhìn nhân sự vât hay tình huống theo các cách khác. + Suy nghĩ nhanh: thể hiện ở khả năng trả lời nhanh và đung các câu hỏi mở có nhiều đáp án. Đưa ra được nhiều ý kiến khác nhau cho một câu hỏi. + Phát biểu, suy nghĩ: Nêu được những suy nghĩ của mình một cách rõ ràng và mạnh dạn. 8 – Các biện pháp rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề: Để ren luyện và phát triển năng lực hát hiện và giải quyết vấn đề (NLPH &GQVĐ) cho HS cần chu ý các biện pháp sau: +Làm cho HS hiểu về NLPH & GQVĐ. +Hướng dẫn HS phương pháp chung để phát hiện và giải quyết vấn đề. + Ren luyện cho HS thái độ học tâp nghiêm tuc, nắm vững những nội dung đa học, liên tục luyện tâp các kĩ năng đa học được. Chuyển các kiến thức khoa học thành kiến thức của HS. + Tạo hứng thu cho HS thông qua các tình huống có vấn đề. + Tổ chức các hoạt động học tâp để HS ren luyện NLPH&GQVĐ thông qua các câu hỏi, bài tâp, thi nghiệm. + Luyện tâp cho HS suy luân, phỏng đoán và xây dựng giả thuyết: . Liên tưởng tới những khái niệm đa có . Liên tưởng tới những hiện tượng (vấn đề) tương tự . Liên tưởng tới các mối quan hệ . Mở rộng phạm vi sang các lĩnh vực khác + Giao cho HS làm các đề tài nghiên cứu nhỏ. + Kết hợp kiểm tra đánh giá, động viên và điều chỉnh HS kịp thời. 2.4.Năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn. – Khái niệm: “NL vân dụng kiến thức là khả năng của bản thân người học tự giải quyết những vấn đề đặt ra một cách nhanh chóng và hiệu quả bằng cách áp dụng các kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm đa có về hóa học vào các tình huống, hoạt động thực tiễn để tìm hiểu thế giới xung quanh và có khả năng biến đổi nó. NL vân dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn thể hiện phâm chất, nhân cách của con người trong quá trình hoạt động để thỏa mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức.” – Các mức độ biểu hiện của năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào trong thực tiễn: + Có NL hệ thống hóa kiến thức, phân loại kiến thức hóa học, hiểu rõ đặc điểm, nội dung, thuộc tính của loại kiến thức hóa học đó. Khi vân dụng kiến thức chính là việc lựa chọn kiến thức một cách phù hợp với mỗi hiện tượng, tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống, tự nhiên và xã hội. + Định hướng được các kiến thức hóa học một cách tổng hợp và khi vân 9 dụng kiến thức hóa học có ý thức rõ ràng về loại kiến thức hóa học đó được ứng dụng trong các lĩnh vực gì, ngành nghề gì, trong cuộc sống, tự nhiên và xã hội. + Phát hiện và hiểu rõ được các ứng dụng của hóa học trong các vấn đề thực phâm, sinh hoạt, y học, sức khỏe, khoa học thường thức, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. + Tìm mỗi liên hệ và giải thich được các hiện tượng trong tự nhiên và các ứng dụng của hóa học trong cuộc sống và trong các lĩnh vực đa nêu trên dựa vào các kiến thức hóa học và các kiến thức liên môn khác. + Chủ động sáng tạo lựa chon phương pháp, cách thức GQVĐ. Có NL hểu biết và tham gia thảo luân về các vấn đề hóa học liên quan đến cuộc sống thực tiễn và bước đầu biết tham gia nghiên cứu khoa học để GQVĐ đề đó. – Một số nguyên tắc rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức cho học sinh: Qua việc nghiên cứu, tham khảo tài liệu tôi nhân thấy một số nguyên tắc rèn luyện NL vân dụng kiến thức cho HS như sau: + Nguyên tắc 1: Phải đảm bảo rèn luyện NL vào việc giải quyết những vấn đề học tâp và thực tiễn cuộc sống liên quan tới bộ môn Hóa học kết hợp với việc rèn luyện một số NL khác như NL PH&GQVĐ, NL sáng tạo… + Nguyên tắc 2: Phải đảm bảo thực hiện được mục tiêu giáo dục phổ thông môn Hóa học, mục tiêu của chương trình theo chuân kiến thức, kỹ năng. + Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính khoa học chính xác của của các kiến thức, kỹ năng hóa học. + Nguyên tắc 4: Đảm bảo tinh sư phạm dựa trên các yếu tố cơ sở về tâm lý, cơ sở lý luân giáo dục, cơ sở lý luân dạy học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực. + Nguyên tắc 5: Chu ý khai thác đặc thù bộ môn Hóa học. – Biện pháp rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức: + GV phải nhân thức rõ, để rèn luyện và phát triển NL vân dụng kiến thức cho học sinh , GV không phải là người truyền thụ tri thức thụ động mà là người hướng dẫn, chỉ đạo trợ giup điều khiển cho qua trình học tâp tích cực, chủ động của HS. + Lựa chọn nội dung dạy học logic, khoa học, khi dạy hoc cần tích cực minh họa nội dung bằng các ví dụ điển hình, gần gũi với HS. 10 + Tạo động cơ hứng thú cho HS tham gia tích cực vào quá trình học tâp. Phương pháp dạy học, hình thức tố chức dạy của GV phải linh hoạt. Khuyến khich các hành vi đung của HS. Tạo ra các tình huống học tâp yêu cầu các mức độ vân dụng kiến thức từ thấp tới cao. Giup đơ các em khi gặp khó khăn trong việc giải quyết các nhiệm vụ học tâp. + Sử dụng phương tiện dạy học: tranh ảnh, mô hình, video, thí nghiệm…để trực quan hóa lý thuyết, khiến HS hào hứng hơn khi học tâp, HS nhân thấy được sự cần thiết của NL vân dụng kiến thức nên tích cực rèn luyện với mọi tình huống, mọi nhiệm vụ. + Thường xuyên kiểm tra, đánh giá quá trình ren luyện NL vân dụng kiến thức của HS để khen ngợi và điều chỉnh kịp thời. – Cách kiểm tra đánh giá năng lực vận dụng kiến thức: + Sử dụng phối hợp và thường xuyên các phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau như: Viết, vấn đáp, thi nghiệm, trắc nghiệm tự luân và trắc nghiệm khách quan… + Sử dụng các câu hỏi phải suy luân, bài tâp có yêu cầu tổng hợp, khái quát hóa, vân dụng lý thuyết vào thực tiễn. + Chú ý kiếm tra tính linh hoạt, tháo vát trong thực hành, thực nghiệm hóa học + Kiểm tra việc thực hiện những bài tâp vân dụng và vân dụng sáng tạo, tìm ra cách giải quyết đung nhất, khoa học nhất, gần gũi nhất. + Đánh giá cao những biểu hiện của vân dụng kiến thức, nhất là việc vân dụng kiến thức vào thực tiễn. + Đánh giá các biểu hiện NL vân dụng kiến thức của HS thông qua quá trình quan sát, quá trình tự đánh giá, đánh giá của bạn bè… 2.5. Đánh giá năng lực giải quyết vấn đề liên quan đến thực tiễn của học sinh trong quá trình dạy học ở trường THCS. – Đánh giá qua quan sát: Đánh giá qua quan sát là thông qua quan sát mà đánh giá các thao tác, động cơ, các hành vi, kỹ năng thực hành và kỹ năng nhân thức, như là cách GQVĐ trong một tình huống cụ thể. Để đánh giá qua quan sát, GV cần tiến hành các hoạt động: + Xây dựng mục tiêu, đối tượng, nội dung, phạm vi cần quan sát. + Đưa ra các tiêu chi cho từng nội dung quan sát (thông qua các biểu hiện của các năng lực cần đánh giá). 11 + Thiết lâp bảng kiểm phiếu quan sát. + Ghi chú những thông tin chính vào phiếu quan sát. + Quan sát và ghi chép đầy đủ những biểu hiện quan sát được vào phiếu quan sát và đánh giá. -Đánh giá qua hồ sơ học tập: + Hồ sơ học tâp là tài liệu minh chứng cho sự tiến bộ của HS, trong đó HS tự đánh giá về bản thân, nêu những điểm mạnh, điểm yếu, sở thích của mình, tự ghi kết quả học tâp, tự đánh giá đối chiếu với mục tiêu định ra để nhân ra sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ của mình, tìm nguyên nhân và cách khắc phục trong thời gian tới. Trong hồ sơ học tâp, HS cần lưu giữ những sản phâm để minh chứng cho kết quả học tâp của mình cùng với lời nhân xét của GV. + Hồ sơ học tâp có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi HS, giúp HS tìm hiểu về bản thân, khuyến khích hứng thú học tâp và hoạt động tự đánh giá. Từ đó thuc đây HS chú tâm và có trách nhiệm với nhiệm vụ học tâp của mình. Đồng thời hồ sơ học tâp còn là cầu nối giữa HS – GV, HS – HS, HS – GV- Phụ huynh học sinh. -Tự đánh giá: Tự đánh giá là một hình thức mà HS tự liên hệ phần nhiệm vụ đa thực hiện với các mục tiêu của quá trình học, HS sẽ học cách đánh giá các nỗ lực và tiến bộ cá nhân, nhìn lại quá trình và phát hiện những điều cần thay đổi để hoàn thiện bản thân. 2.6. Thực trạng phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề có liên quan đến thực tiễn. a. Mục đich điều tra: Trong quá trình dạy học nhằm phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề có liên quan đến thực tiễn tôi đa tiến hành khảo sát các em học sinh lớp 8A, 8B. Bên cạnh đó tôi còn trao đổi với giáo viên, đặc biệt là các đồng chí giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. *Về phía HS – Tìm hiểu thái độ, tình cảm, nhân thức, sự chuân bị của HS về việc học có sự tích hợp các kiến thức liên quan đến phát triển NL PH & GQVĐ liên quan đến thực tiễn vào trong môn học. – Tìm hiểu những khó khăn mà các em gặp phải khi nghiên cứu, tìm hiểu và học tâp theo phương pháp dạy học tich hợp. – Tìm hiểu nhân thức của HS về tự học, tự nghiên cứu. 12 – Tìm hiểu về vấn đề sử dụng thời gian và cách thức học tâp. – Tìm hiểu những khó khăn mà các em gặp phải khi học và các yếu tố tác động đến hiệu quả của việc tự học. * Về phía GV – Tìm hiểu về tình hình xây dựng nội dung dạy học tích hợp của GV. – Tìm hiểu cách nhìn nhân và suy nghĩ của GV về vai trò của dạy học tich hợp trong dạy học Hóa học. – Tìm hiểu tình hình dạy học Hóa học ở trường THCS: Mức độ thành công, những khó khăn gặp phải khi dạy học tich hợp. – Tìm hiểu về biện pháp xây dựng và sử dụng việc áp dụng phương pháp dạy học tich cực của bộ môn. b. Cách thức điều tra: Tôi đa tiến hành điều tra bằng phiếu tham khảo ý kiến 10 GV trong trường và gửi phiếu điều tra đến 86 em HS khối 8. c. Kết quả điều tra: – Phiếu điều tra cho HS Câu 1. Em vui lòng cho biết các vấn đề sau về bộ môn Hóa học
Có
Không
Em có hứng thú học môn Hóa học không?
60
26
Trong giờ Hóa học, em có chú ý nghe giảng không?
61
25
Em có thường xuyên phát biểu xây dựng bài không ?
45
41
Em có hiểu bài ngay trên lớp không?
55
40
Câu 2. Trong quá trình học tâp các em được thầy cô dạy về phát hiện các vấn đề liên quan đến thực tiễn như thế nào?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Rất thường xuyên trong các bài học trên lớp
0
0%
Thầy cô thường giao về nhà tìm hiểu
15
17,44%
Không được học bao giờ
0
0%
Thỉnh thoảng thầy cô có dạy qua trên lớp
71
82,56%
13 Câu 3. Khi gặp một vấn đề có bối cảnh từ thực tiễn cuộc sống, em cảm thấy?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Rất hứng thú
36
41,86%
Hứng thú
20
23,26%
Bình thường
25
29,07%
Chán nản
5
5,81%
Câu 4. Trong đời sống thực tiễn các em đa bao giờ phát hiện ra một vấn đề có liên quan đến hóa học và có thể dùng hiểu biết của mình để giải quyết vấn đề đó chưa?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Rất nhiều lần
5
5,81%
Nhiều lần
15
17,44%
Thỉnh thoảng
50
58,14%
Chưa bao giờ
16
18,61%
Câu 5. Trước một vấn đề thực tiễn liên quan đến môn Hóa học được đưa ra các em có thể sử dụng hiểu biết của mình để giải quyết được không?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Luôn luôn giải quyết được
0
0%
Thường xuyên giải quyết được
10
11,63%
Hiếm khi giải quyết được
61
70,93%
Không giải quyết được
15
17,44%
Câu 6. Khi gặp một vấn đề liên quan đến thực tiễn môn Hóa học, em sẽ: 14
Câu 7. Các em đa bao giờ làm chủ hay tham gia nghiên cứu một vấn đề khoa học liên quan đến thực tiễn chưa?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Đa tham gia nhiều
0
0%
Thỉnh thoảng
5
5,81%
Rất it
10
11,63%
Chưa bao giờ
71
82,56%
Câu 8. Cảm giác khi các em học môn Hoá học được các thầy cô đưa các vấn đề thực tiễn vào bài giảng để cùng thảo luân và giải quyết.
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Rất hứng thú
60
67,77%
Hứng thú
15
17,44%
Bình thường
11
12,79%
Chán nản
0
0%
– Phiếu điều tra đối với giáo viên Câu 1. Theo các thầy (cô), việc bồi dương nâng cao năng lực PH và GQVĐ cho học sinh có thể tiến hành trong những tiết học nào?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
15
Tiết dạy bài mới
3
30%
Tiết bài tâp
3
30%
Tiết thực hành
2
20%
Tiết tổng kết, ôn tâp
2
20%
Câu 2. Theo các thầy (cô), nếu bồi dương được cho học sinh năng lực PH và GQVĐ liên quan đến thực tiễn sẽ giúp ích những gì cho học sinh?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Nâng cao tính tích cực, tự lực, sáng tạo trong học tâp của HS
3
30%
Gây hứng thú học tâp cho HS
3
30%
HS có thể giải quyết những vấn đề tương tự không nằm trong nội dung chương trình học, từ đó có khả năng tự chiếm lĩnh kiến thức, tự giải quyết được các vấn đề gặp phải trong cuộc sống
4
40%
Những lợi ích khác
0
0%
Câu 3. Theo các quý thầy cô năng lực vân dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn của học sinh THCS được thể hiện như thế nào?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Các em nhân biết được hiện tượng thực tiễn nào có liên quan đến môn hóa và đưa ra giải thích
4
40%
Các em phát hiện các nội dung kiến thức hóa học được ứng dụng trong các vấn đề các lĩnh vực khác nhau
2
20%
Các em có thể phân tích tổng hợp các kiến thức hóa học vân dụng vào cuộc sống thực tiễn
4
40%
Ý kiến khác
0
0%
Câu 4. Khi dạy học nhằm phát triển năng lực vân dụng kiến thức hóa học vào thực tiễn thầy cô thường thông qua: 16
Số ý kiến
Tỉ lệ %
Các bài tâp thực tiễn
5
50%
Các nội dung kiến thức lý thuyết liên quan đến thực tiễn
4
40%
Các bài kiểm tra với nội dung mở
1
10%
Ý kiến khác
0
0%
Câu 5. Theo thầy (cô), việc sử dụng bài tâp phát triển năng lực GQVĐ cho học sinh hiện nay sẽ gặp những khó khăn gì?
Số ý kiến
Tỉ lệ %
GV chưa nắm rõ nội dung của việc sử dụng phương pháp dạy học PH và GQVĐ cho học sinh là làm những gì? Và làm như thế nào?
1
10%
Chưa có hệ thống bài tâp chuyên sâu về phát triển năng lực PH và GQVĐ liên quan đến thực tiễn
5
50%
Do quỹ thời gian không có
4
40%
HS không hứng thú với các bài tâp hàn lâm
6
60%
Qua điều tra cho thấy, việc dạy học phát triển NL PH & GQVĐ liên quan đến thực tiễn còn chưa được các GV áp dụng nhiều vào trong dạy học bộ môn, HS có quan tâm đến các vấn đề liên quan đến thực tiễn nhưng cũng không tìm hiểu cụ thể. Vì vây việc dạy học phát triển NL PH & GQVĐ liên quan đến thực tiễn là hết sức cần thiết giúp HS phát triển khả năng tư duy sáng tạo giải quyết được các vấn đề liên quan đến thực tiễn, yêu thich môn học. II. PHAT HIỆN VA GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TIỄN TRONG DẠY HOC HOA HOC LƠP 8 Ở TRƯƠNG THCS 17 1. Phân tích nội dung, cấu truc chương trinh hóa học 8 ở trường THCS. Chương 1. Chất – Nguyên tư – Phân tư: Chất; Bài thực hành 1; Nguyên tử; Nguyên tố hóa học; Đơn chất và hợp chất – Phân tử; Bài thực hành 2; Bài luyên tâp 1; Công thức hóa học; Hóa trị; Bài luyện tâp 2. Chương 2. Phản ứng hoa học: Sự biến đổi chất, Phản ứng hóa học, Bài thực hành 3; Định luât bảo toàn khối lượng; Phương trình hóa học; Bài luyện tâp 3. Chương 3. Mol va tinh toán hoa học: Mol; Chuyển đổi giữa khối lượng, thể tich và lượng chất; Tỉ khối của chất khi; Tinh theo công thức hóa học; Tinh theo phương trình hóa học; Bài luyện tâp 4. Chương 4. Oxi – Không khi: Tinh chất của oxi; Sự oxi hóa – Phản ứng hóa hợp -Ưng dụng của oxi; Oxit; Điều chế khi oxi-Phản ứng phân hủy; Không khi – Sự cháy; Bài luyện tâp 5; Bài thực hành 4. Chương 5. Hiđro – Nước: Tinh chất – Ưng dụng của Hiđro; Điều chế Hiđro- Phản ứng thế; Bài luyện tâp 6; Bài thực hành 5; Nước; Axit -Bazơ -Muối; Bài luyện tâp 7; Bài thực hành 6. Chương 6. Dung dich: Dung dịch; Độ tan của một chất trong nước; Nồng độ dung dịch; Pha chế dung dịch; Bài luyện tâp 8, Bài thực hành 7. * Về kiến thức: Chương trình Hóa học 8 cung cấp cho HS một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản, thiết thực đầu tiên về hóa học. Đó là: – Khái niệm về chất, mở đầu về cấu tạo chất, nguyên tử, nguyên tố hóa học, đơn chất, hợp chất, phản ứng hóa học và biến đổi của chất trong phản ứng hóa học. – Khái niệm về biểu diễn định tinh, định lượng của chất và phản ứng hóa học là công thức hóa học, phương trình hóa học, mol và thể tích mol của chất khí. 18 – Các kiến thức về thành phần khối lượng, hóa trị, định luât bảo toàn khối lượng. – Các tính chất của oxi, hiđro và hợp chất của chung đó là nước. – Khái niệm về dung dịch, nồng độ dung dịch, cách tính toán, pha chế. * Về kỹ năng: – HS có được một số kỹ năng cơ bản khi học tâp môn Hóa học: Làm việc với hóa chất, kỹ năng quan sát, thực nghiệm, phân loại, thu thâp thông tin, phân tích, tổng hợp, vân dụng kiến thức để giải quyết một số vấn đề đơn giản trong thực tiễn. – Biết cách tiến hành các thí nghiệm, kỹ năng sử dụng dụng cụ hóa chất phục vụ cho các thí nghiệm trong chương trình học. * Về thái độ, tình cảm: – HS có lòng ham thích môn Hóa học, có niềm tin vào sự tồn tại và biến đổi của vât chất và hóa học đa, đang và sẽ góp phần nâng cao cuộc sống. – HS có ý thức tuyên truyền và vân dụng những tiến bộ của khoa học nói chung và Hóa học nói riêng vào đời sống, sản xuất ở gia đình và địa phương. – HS có những sản phâm và thái độ khoa học cần thiết như cân thân, trung thực, kiên trì, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lý khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và xa hội để có thể hòa hợp với thiên nhiên và cộng đồng. 2. Phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề liên quan thực tiễn cho học sinh thông qua môn hóa lớp 8. – Sau khi phân tích cấu trúc nội dung chương trình SGK Hóa học 8 tôi lâp bảng về các mức độ dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề như sau: 19
Mức độ
Tổ chức và thực hiện hoạt động của GV và HS
Tạo tình huống
Phát hiện vấn đề
Tìm giải pháp
Th giảựi pháp c hiện
Kết luận, phát triển vấn đề
1
GV đặt vấn đề
GV nêu cách GQVĐ
HS thực hiện, GV hướngdẫn
GV đánh giá kết quả làm việc của HS
2
GV nêu vấn đề
GV gợi ý để HS tìm ra cách GQVĐ
HS thực hiện, GV giup đơ khi cần
GVvà HS cùng đánh giá
3
GV cung cấp thông tin tạo tình huống
HS phát hiện, nhân dạng, phát biểu vấn đề nảy sinh cần giải quyết.
HS tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn các giải pháp
HS thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề
GV và HS cùng đánh giá
4
HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc của cộng đồng
HS lựa chọn vấn đề giải quyết
HS tự đề xuất ra giả thuyết, xây dựng kế hoạch giải
HS thực hiện kế hoạch giải
HS tự đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc GQVĐ
– Trong quá trình dạy học tiết thực nghiệm ở lớp 8A, tôi thấy có nhiêu câu hỏi GV cung cấp thông tin tạo tình huống, có dạng câu hỏi GV nêu vấn đề, đặc biệt có những kiến thức HS tự phát hiện ra vấn đề. Từ đó GV có thể 20 gợi ý hoặc HS tự tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề. Sau một thời gian học, nhiều học sinh rất đam mê môn học và đặc biệt các em có thể tự tin giải quyết các vấn đề liên quan trong cuộc sống. – Sau đây tôi tiến hành phát triển NLPH&GQVĐ vào trong các bài học cụ thể:
Tên Chương, bài
Phát hiện vấn đề
Giải quyết vấn đề
Giải thích
Chương 1 Bài 2. Chất
-GV nêu vấn đề: Có 2 cốc nước và cồn đều là chất lỏng trong suốt, không màu. Làm thế nào để phân biệt 2 chất đó?
HS giải quyết vấn đề: Cách 1: Đốt Cách 2: Ngửi mui.
-HS : Cách 1: Cồn cháy được, nước thì không cháy được. Cách 2: Cồn có mui thơm đặc trưng. – Nước không có mui.
-GV: Những lốp xe bằng gỗ, sắt đi châm nhanh mòn.
– HS: Thay lốp gỗ, sắt bằng lốp cao su.
– HS: Cao su là chất không thấm nước lại có tinh chất đàn hồi, chịu mài mòn nên được dung chế tạo lốp xe.
-HS tự phát hiện vấn đề: Muối hạt mua ở chợ về thường lẫn cát bân. Chúng ta có thể làm sạch muối.
-HS: + Hòa tan hỗn hợp vào nước +Lọc qua phễu có giấy lọc + Đun sôi cô cạn nước lọc sẽ thu được muối nguyên chất.
HS:+ Muối ăn (NaCl) tan trong nước. + Cát, sỏi, chất hữu cơ bân…thì không tan trong nước bị giữ lại ở giấy lọc. + Do nước ở 100C thì bay hơi còn muối ăn có nhiệt độ sôi cao 1450C. .
Chương 1
-GV: Một số người mắc bệnh thiếu
-HS: Bổ sung sắt bằng cách uống viên sắt, ăn
GV: – Sắt là thành phần chinh của chất
21
Bài 5. Nguyên tố hóa học
máu, người cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt.
những thực phâm giàu sắt như: trứng, thịt, cá, quả chin, sữa có bổ sung sắt…
hêmôglôbin (huyết cầu tố). Nhờ chất này mà máu có màu đỏ, đặc biệt là khả năng chuyển vân khi oxi từ phổi đến các tế bào.
-GV: Một số người còi cọc mắc bệnh loang xương, mât độ canxi trong xương thấp…
-GV và HS: Bổ sung caxi cho cơ thể bằng cách uống sữa đâu nành, ngũ cốc kết hợp thuốc bổ sung canxi.
-GV và HS: Canxi đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xương, giup duy trì hoạt động của các cơ bắp.
Chương 2 Bài 12. Sự biến đổi chất
-HS phát hiện vấn đề: Làm thế nào để nước biến đổi từ thể rắn sang thể lỏng, từ thể lỏng sang thể hơi và ngược lại.
– HS: Nước đá để ra ngoài không khi thành nước lỏng, đun sôi nước chuyển thành hơi và ngược lại.
-GV: Nước có khả năng chuyển đổi từ dạng này sang dạng khác.
-GV: Làm thế nào để có keo đắng khi trong nhà hết.
-HS: Đun đường cho đến khi thành màu nâu.
-GV: Chưng “nước hàng” là phản ứng phân hủy đường nhờ tác động của nhiệt.
-GV: Nước Giaven để ngoài không khi một thời gian làm giảm tác dụng tây màu
-GV:Đựng nước Giaven trong lọ kin, tối màu và sử dụng trong thời gian ngắn.
-GV: Nước Giaven rất dễ bị phân hủy dưới tác dụng của ánh sáng.
Chương 2 Bài 13. Phản ứng hóa học
-HS phát hiện vấn đề:Các đồ vât bằng kim loại để ngoài môi trường một thời gian có hiện tượng gỉ gây hỏng hóc.
-HS: Sử dụng dầu mơ, sơn, mạ, tráng men… Rửa sạch, lau khô sau khi sử dụng…
-HS: Vì khi phủ lên bề mặt kim loại 1 lớp bền vững với môi trường như: sơn, mạ, tráng men…sẽ ngăn cho kim loại tiếp xuc với môi trường.
22
-GV: Làm thế nào để trứng chin không cần lửa, bóc trứng không cần đâp.
-GV:Bỏ quả trứng vào dung dịch axit clohiđric.
-GV: Axit clohiđric đa tác dụng với canxi cacbonat (chất có trong vỏ trứng) tạo ra caxi clorua, nước và khi cacbon đioxit thoát ra.
Chương 3 Bài 20 .Tỉ khối của chất khi
-GV: Vụ tai nạn do nga xuống giếng sâu không tử vong do chấn thương mà tử vong do nguyên nhân ngạt khi.
-GV:Trước khi xuống dưới giếng phải mang theo bình giữ khi O2 hoặc thông khi trước khi xuống.
-GV: Nguyên nhân tử vong do ngạt khi CO2, CO2 nặng hơn không khi nên thường dưới đáy giếng tâp chung nhiều.
-GV: Ơ những nơi như rạp chiếu phim, rạp hát…khi có đông người thì lượng khi cacbonic (CO2) thở ra lớn hơn bình thường. Làm cách nào để giảm lượng khi CO2?
-HS: Thiết kế cửa sổ ở phia dưới, gần với sàn nhà.
-GV: CO2 nặng hơn không khi nên thiết kế nhiều ở sát mặt đất thoát ra ngoài dễ dàng hơn.
Chương 3 Bài 24. Tinh chất của oxi
-GV: Cá tôm hô hấp qua mang lấy oxi trong nước. Chung thường sống ở đầm, hồ nuôi trong bể hoặc người bán hàng đựng trong châu, tui bóng…Cá thi thoảng ngoi lên mặt nước đớp không khi. Chung có thể chết nếu không có
-HS: Người buôn cá thường có động tác đâp tay vào thành châu.
-HS: Khi oxi it tan trong nước. Do đó cần phải cung cấp thêm oxi cho cá, tôm bằng cách sục khi vào, đâp tay vào thành châu, sử dụng những máy guồng, máy sục để oxi tan nhiều hơn trong nước. Do đó cá, tôm hô hấp tốt hơn.
-HS: Tui bóng đựng cá thường phồng to hơn do bơm thêm khi oxi.
-HS: Đầm nuôi tôm thường có những máy guồng oxi.
23
biện pháp tăng cường lượng O2 trong nước.
Chương 4 Bài 28. Không khi – Sự cháy
-GV: Đen cồn trong phòng thi nghiệm để lâu có hiện tượng cạn.
-HS: Đây nắp đen cồn. Đây nắp đen cồn.
-HS: Cồn dễ bị bay hơi, đây nắp để ngăn cản sự bay hơi của cồn.
Khi muốn tắt đen cồn phải làm thế nào?
– Để ngăn cách với oxi, nếu có oxi sẽ duy trì sự cháy.
-GV: Khi gặp đám cháy bằng cồn trong phòng thi nghiệm.
-HS: Dung khăn ướt dâp tắt đám cháy.
– HS: Để ngăn cách với oxi.
-GV: Khi gặp đám cháy bằng than, củi. Làm thế nào để dâp tắt chung
-HS: Ta vây nước hoặc phủ cát lên bề mặt vât bị cháy.
-HS: Để vât bị cháy không tiếp xuc với oxi của không khi và hạ nhiệt độ xuống dưới nhiệt độ cháy.
-GV: Khi đun nồi canh trên bếp than tổ ong khi cần sôi mạnh và khi nồi canh sôi người ta cần làm gì?
-GV và HS: Khi đun nồi canh trên bếp than tổ ong người ta đóng cửa bếp khi nồi canh sôi và khi cần đun sôi mạnh người ta lại mở cửa bếp ra.
-GV: Để tăng hoặc giảm nhiệt độ cháy của than, vì khi mở cửa bếp khí oxi trong không khí sẽ đi vào và duy trì sự cháy và ngược lại.
GV: Cách xác định trong không khi có oxi
-GV: Trong đời sống dung nến đang cháy cho vào bình hình trụ up ngược ở dưới là châu nước. – Mực nước trong ống
-HS: Không khi là một hỗn hợp khi trong đó khi oxi chiếm khoảng 1/5 thể tich, hoặc chiếm khoảng 20% thể tich không khi.
24
dâng lên 1/5 chứng tỏ oxi chiếm 1/5 thể tich không khi.
-GV:Cách xác định trong không khi có hơi nước.
-HS: Cốc nước lạnh để trong không khi có xuất hiện những giọt nước nhỏ trên mặt ngoài của thành cốc.
-GV: Do nhiệt độ của nước trong cốc thấp hơn ngoài cốc nên làm ngưng tụ hơi nước trong không khí bám vào thành cốc.
-GV: Cách xác định trong không khi có CO2.
-GV:Cốc nước vôi hay nước vôi ở hố tôi vôi để một thời gian có váng màu trắng.
-GV: Khi CO2 tạo thành váng màu trắng với nước vôi ở hố tôi vôi, chứng tỏ CO2 có sẵn trong không khi. CO2+Ca(OH)2→ CaCO3+H2O
-GV: Ngày nay gas được sử dụng phổ biến ở hộ gia đình nhưng do hạn chế về kiến thức mà rất nhiều vụ tai nạn do nổ bình gas xảy ra. Làm cách nào để nhân biết được bình gas bị rò rỉ khi gas và cách giải quyết cụ thể khi gặp tình huống này.
-HS: Vào bếp thấy mui gas nồng nặc chứng tỏ có hiện tượng rò rỉ gas – Trước tiên phải mở hết cánh cửa, kiểm tra và khóa van bình gas – Tuyệt đối không được bât lửa, hoặc bât các công tắc điện, đen pin… – Nhanh chóng thoát ra khỏi nhà và báo ngay cho nhà cung cấp gas để xử li.
-GV: Gas là hỗn hợp của các khi như butan, propan,.. – Nguyên li cháy nổ là do khi gas kết hợp với oxi trong không khi tạo thành hỗn hợp cháy và chỉ cần ở nhiệt độ cao phu hợp hoặc có tia lửa phát ra khi bât công tắc đen, điện thoại,.. thì rất dễ gây ra cháy nổ lớn.
25
-GV: Trong cuộc sống có những vụ hỏa hoạn do để than đá hay giẻ lau máy có dinh dầu mơ đa qua sử dụng thành một đống lớn.
-HS: Không để than đá hay giẻ lau máy đa qua sử dụng thành một đống lớn.
-GV: Vì phản ứng oxi hóa châm của than đá hay của paratin (giẻ lau máy) trong O2 không khi tỏa nhiệt rất mạnh, nhiệt độ tăng lên vượt quá nhiệt độ cháy có thể dẫn đến hỏa hoạn gây cháy công xưởng, rất nguy hiểm.
Chương 5 Bài 31. Tinh chất -Ưngdụng của hiđro
-HS: Dịp lễ, tết, khai trường,… Người ta thường thả bóng. Bóng đó có thể bay được lên trời Khi bóng xep bơm không khi vào quả bóng thì bóng không bay.
-GV và HS: Những quả bóng thường được bơm bằng khi hiđro.
-GV: Từ tỉ khối của hiđro so với không khí, ta thấy: khi hiđro nhe nhất xấp xỉ bằng 1/15 không khí nên bóng bay được. – Bơm không khi thì bóng không bay được vì không khí cộng với khối lượng quả bóng sẽ lớn hơn khối lượng không khí, nên bóng không được đây lên.
HS: Khi làm thi nghiệm đốt H2 trong không khí hay bị nổ, gây nguy hiểm tính mạng.
-GV: Phải thử độ tinh khiết của H2 trước khi làm.
-GV: Hỗn hợp khi H2 và khi O2 là hỗn hợp gây nổ khi cháy. Hỗn hợp khi này cháy rất nhanh và tỏa rất nhiều nhiệt. Nhiệt này làm cho thể tich hơi nước tạo thành sau phản ứng tăng lên đột ngột làm chấn động mạnh
26
không khi gây ra tiếng nổ.
-GV: Chum bóng bay bơm khi H2 khi gặp lửa như điếu thuốc lá gây nổ sát thương.
-HS: Không để quả bóng bay bơm khi H2 tiếp xuc với lửa.
– HS và GV: Trong bóng bay có khi H2 tiếp xuc với ngọn lửa đa xảy ra phản ứng 2H2 + O2 H2O. – Hỗn hợp này sẽ gây nổ nếu khi H2 với khi O2 tỉ lệ về thể tich là 2H2: 1O2.
Chương 5 Bài 36. Nước
-GV: Natri là kim loại rất hoạt động. Cách bảo quản Natri an toàn?
-GV: Bảo quản trong dầu hỏa.
– GV: Natri phản ứng dễ với nước mà trong không khi có hơi nước nên phải bảo quản trong dầu hỏa để Natri không tiếp xúc với không khi trong đó có oxi, hơi nước,CO2, Na2O hoặc NaOH tạo thành đều có thể tác dụng với CO2.
-GV: Khi cho Natri tác dụng với nước nên lấy lượng Na bằng nào?
-HS: Natri tác dụng với nước chỉ nên lấy lượng Natri nhỏ bằng hạt đâu xanh.
-GV: Đây là phản ứng tỏa rất nhiều nhiệt, để đảm bảo an toàn khi làm thi nghiệm chỉ nên lấy lượng Na bằng hạt đâu xanh. Nếu cho Na lượng lớn có thể gây hiện tượng cháy nổ.
-GV: Nguồn nước hiện nay đang bị ô nhiễm và một số nơi vẫn thiếu nước sạch để sử dụng.
-GV và HS: Thiết kế bộ dụng cụ lọc nước sạch đơn giản: Đây là 1 trong nhiều cách thiết kế bộ dụng cụ lọc nước đơn
-GV: Công dụng: + Hấp thụ kim loại nặng. + Khử mùi hôi tanh
⎯⎯→ to 27
Vây chúng ta có những biện pháp gì để giải quyết vấn đề trên.
giản: – Cắt bỏ phần đáy chai. Phia dưới miệng chai đặt 1 miếng vải. Tiếp theo là 1 lớp than hoạt tính ( than củi)nghiền nhỏ. Tiếp nữa đến lớp cát và trên cùng là lớp sỏi. Đổ nước vào lớp sỏi ta sẽ lọc được nước sạch.
của nước bân. + Làm trong nước. + Loại bỏ sinh vât có hại.
-GV: Cách tôi vôi hiệu quả để vôi không bị vón cục ảnh hưởng đến việc xây nhà.
-GV: Cho vôi vào nước chứ không làm ngược lại
-GV: Nếu cho nước vào vôi thì vôi sẽ nhiều nước sẽ it. Phản ứng này tỏa nhiều nhiệt do chênh lệch áp suất nên bên ngoài phản ứng, bên trong không phản ứng sẽ gây hiện tượng vôi vón cục. Nên chung ta cần phải cho vôi vào nước, nước nhiều hơn vôi sẽ tác dụng từ từ không có hiện tượng vôi vón cục.
28
Chương 5 Bài 37. Axit Bazơ Muối
-GV: Trước khi ăn rau sống để đảm bảo an toàn vệ sinh người ta thường làm gì?
-HS: Người ta thường ngâm chung trong dung dịch nước muối ăn (NaCl) từ 10-15 phut để sát trung.
-GV: Dung dịch muối ăn có nồng độ muối lớn hơn nồng độ muối trong các tế bào của vi khuân, nên do hiện tượng thâm thấu có quá trình chuyển ngược lại từ tế bào vi khuân ra ngoài làm cho nồng độ muối trong vi khuân tăng cao. Vi khuân mất nước nên bị tiêu diệt. Do tốc độ khuếch tán châm nên việc sát trung chỉ có hiệu quả khi ngâm rau sống trong nước muối từ 10-15 phut.
-HS: Khi luộc rau muốn rau xanh, nhanh chin làm bằng cách nào?
-HS: Cho thêm 1 it muối ăn NaCl.
-GV: Dưới áp suất khi quyển 1atm thì nước sôi ở 100C . Nếu cho thêm 1 it muối ăn vào nước thì nhiệt độ sẽ cao hơn 100C. Khi đó thời gian luộc rau sẽ mau mềm, xanh và nhanh chin. Thời gian rau chin nhanh nên it bị mất vitamin.
Chương 6 Bài 40. Dung dịch
-GV: Khi bị sốt nguời ta thường làm gì?
-HS: Uống dung dịch Oresol – GV: Nếu không có Oresol, có thể pha dung dịch thay thế gồm: 8 thìa nhỏ (thìa cà phê)
-GV: Dung dịch Oresol dung trong trường hợp cơ thể bị mất nước bu lại các chất điện giải. Phải pha đung theo đung hướng dẫn đa được ghi sau gói
29
đường, 1 thìa nhỏ muối pha trong 1 lit nước; hoặc 50 ml nước cháo gạo và một nhum (3.5g) muối hoặc nước dừa non có pha một nhum muối.
oresol. Nếu pha nhiều nước, dung dịch sẽ loang, hàm lượng chất điện giải sẽ không đủ; ngược lại nếu pha đặc quá, sẽ bị ngộ độc muối, thâm chi có thể gây nguy hiểm đến tinh mạng.
3. Các câu hỏi có nội dung liên quan đến phát hiện và giải quyết vấn đề liên quan đến thực tiễn. 3.1. Câu hỏi trăc nghiệm. Câu 1. Chiến sĩ chữa cháy dung bình đặc biệt chứa khi oxi để: A. Thở B. Tránh bị bỏng. C. Liên lạc với bên ngoài. D. Dâp tắt đám cháy. Câu 2. Tại sao khi cho Natri tác dụng với nước chỉ nên lấy lượng Natri nhỏ bằng hạt đâu xanh? A. Để tiết kiệm hóa chất B. Để Natri phản ứng vừa đủ với nước. C. Để đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm. D. Không cần thiết sử dụng Natri nhiều. Câu 3. Tại sao phải được bảo quản Natri trong dầu hỏa? A. Dầu hỏa có mùi khó chịu để tránh kiến và các loài động vât khác. B. Dầu hỏa bảo quản tốt hơn nước. C. Tránh Natri bị oxi hóa trong không khí và tác dụng với nước tạo ra bazơ. D. Không phản ứng mạnh với Natri. Câu 4. Vì sao phải tránh xa các hố vôi mới tôi?
A. Tránh bị bỏng. hiểm.
B. Hố vôi có nhiệt độ cao rất nguy
C. Có mùi khó chịu gây đau đầu. D. Cả A, B, C đều đung. Câu 5. Mưa axit là hiện tượng mưa mà trong nước mưa có lượng khí thải từ các quá trình phát triển sản xuất công nghiệp. Thành phần chính các khí gây nên hiện tượng mưa axit là: A. CO, CO2, NH3 B. SO2, NO2 C. SO2, N2, H2 D. H2S, N2, NO2 30 Câu 6. Cho các hành động sau: 1. Vứt rác thải bừa bãi ra ao, hồ, kênh, rạch. 2. Thường xuyên nạo vét kênh mương, khai thông dòng chảy… 3. Đổ trực tiếp nước thải sinh hoạt trên sông, hồ. 4. Xử li nước thải công nghiệp, sinh hoạt trước khi thải ra môi trường. 5. Tuyên truyền, phát động các phong trào bảo vệ nguồn nước 6. Sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vât tràn lan. Các hành động góp phần chống ô nhiễm nguồn nước là: A. 1, 2, 3 B. 4, 5, 6 C. 2, 3, 5 D. 2, 4, 5 Câu 7.Tác hại của mưa axit là gì? A. Mưa axit làm phá hủy các công trình xây dựng, cầu cống, nhà cửa, di tích lịch sử… B. Các dòng chảy do mưa axit đổ vào hồ, ao sẽ làm độ pH của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vât trong hồ, ao suy yếu hoặc chết hoàn toàn. C. Làm suy thoái đất, ảnh hưởng đến hệ thực vât làm năng suất thấp. D. Tất cả các đáp án đều đung. Câu 8. Hỗn hợp khí H2 và khí O2 khi cháy lại gây tiếng nổ vì: A. Hiđro cháy manh liệt trong oxi. B. Phản ứng này tỏa nhiều nhiệt. C.Thể tich nước mới tạo thành bị dãn nở đột ngột, gây ra chấn động không khi, đó là tiếng nổ mà ta nghe được. D. Hiđro và oxi là hai chất khí, nên khi cháy gây tiếng nổ. Câu 9. Các nguồn tự nhiên gây ô nhiễm không khí là: A. Hoạt động của núi lửa. B. Nạn cháy rừng. C. Hiện tượng hoang mạc, đất trống, đồi trọc. D. Tất cả. Câu 10. Trong thành phần khí thải công nghiệp có các khí SO2, NO, NO2, CO2, Cl2, CO, N2. Khí gây ra hiện tượng mưa axit chủ yếu là: A. SO2, CO, NO2. B. NO2, N2, CO2. C. NO, NO2, NH3, Cl2. D. SO2, CO2, NO2. Câu 11. Tại sao người ta cho vôi vào nước chứ không cho nước vào vôi A. Tránh hiện tượng vôi vón cục. B. Để tiết kiệm hóa chất. 31
C. Khử mui, loại bỏ tạp chất trong nước bân. nặng.
D. Hấp thụ các kim loại
Câu 12. Cho các chất sau:
1. Mảnh vải Giấy ăn
2. Lá cây
3. Cát vàng
4. Than hoa
5. Sỏi
6.
Thành phần thiết bị lọc nước gồm:
A.1, 2, 3, 4
B. 1, 3, 4, 5
C.3, 4, 5, 6
2, 3, 5, 6
Câu 13. Đâu là thứ tự đung để có thiết bị lọc nước sạch đạt hiệu quả cao nhất A.Nước cần lọc – sỏi nhỏ – cát – than hoạt tinh- mảnh vải. B.Sỏi nhỏ – than hoạt tinh – cát – nước cần lọc – mảnh vải. C. Mảnh vải – than hoạt tinh – nước cần lọc – sỏi nhỏ – cát D. Mảnh vải – nước cần lọc – than hoạt tinh – sỏi nhỏ – cát. Câu 14. Khăn bị bân dầu ăn. Người ta có thể loại bỏ vết bân bằng: A. Nước B. Muối C. Xăng D. NaOH Câu 15. Chuyển đổi từ một dung dịch NaCl bao hòa thành một dung dịch chưa bao hòa. A. Cho thêm nước. B. Cho thêm NaCl. C. Đun nóng dung dịch. D. Đun nóng dung dịch. Câu 16. Khi bị ốm sốt người ta thường uống dung dịch Oresol vì:
A. Uống bu nước. cơ thể
B. Bổ sung năng lượng vitamin trong
C. Uống bu chất điện giải. D. Tất cả các phương án trên. Câu 17. Khi bị ốm sốt cao người ta thường uống dung dịch Oresol. Nếu không có Oresol có thể pha dung dịch thay thế là: A. 8 thìa nhỏ đường, 1 thìa muối pha trong 1 lit nước. B. 1 thìa muối pha trong 1 lit nước. C. 8 thìa nhỏ đường pha trong 1 lit nước. D. 1 thìa nhỏ đường, 8 thìa muối pha trong 1 lit nước. Câu 18. Tại sao người ta lại bơm sục khí vào bể nuôi cá cảnh hoặc châu bể nuôi cá sống ở các cửa hàng bán cá? A. Để cung cấp thức ăn cho cá. B. Để cung cấp khí oxi cho sự hô hấp của cá. C. Để nước trong bể không bị bân. 32 D. Để trang trí cho bể cá thêm sinh động. Câu 19. Trong đời sống quá trình nào không sinh ra khí CO 2 ? A.Quá trình hô hấp của người và động vât. B.Quá trình hô hấp của thực vât. C.Quá trình đốt cháy nhiện liệu như xăng, dầu, ga, củi,… D.Cháy rừng. Câu 20. Ưng dụng quan trọng nhất của khí oxi là? A. Sự hô hấp. B. Sự đốt nhiên liệu.
C. Dâp tắt các đám cháy. 3.2. Câu hỏi tự luận
D. Cả A và B.
Câu 1. Các đồ vât bằng kim loại để ngoài môi trường một thời gian có hiện tượng gỉ gây hỏng hóc. Làm thế nào để tránh sự gỉ? HS tự giải quyết vấn đề: – Sử dụng dầu mơ, sơn, mạ, tráng men… – Rửa sạch, lau khô sau khi sử dụng… – Vì khi phủ lên bề mặt kim loại 1 lớp bền vững với môi trường như: sơn, mạ, tráng men…sẽ ngăn cho kim loại tiếp xuc với môi trường. Câu 2. Bằng kiến thức hóa học em hay giải thich tại sao xung quanh các lò vôi hoặc nhà máy sản xuất vôi cây cối thường bị chết, dân không cấy trồng được và các cụ già, em nhỏ thường mắc các bệnh về đường hô hấp GV hướng dẫn: Trong quá trình sản xuất vôi thì thoát ra một lượng lớn khi CO2, CO, SO2, NO2,..và một số khi khác. Cũng do hàm lượng khi CO2, CO, SO2 quá lớn làm cho bầu khi quyển bị ô nhiễm nghiêm trọng, hàm lượng khi thải là CO2, CO, SO2 vượt quá nhiều lần mức cho phép nên cây cối không thể sống nổi nên người dân cũng không thể cấy trồng được. Các cụ già và em nhỏ là những người dễ bị tổn thương nhất khi hit thở bầu không khi ô nhiễm như vây nên thường mắc các bệnh về đường hô hấp. Câu 3. Bằng kiến thức hóa học em hay cho biết vì sao trong vòng một trăm năm qua lượng khi thải CO2 do hoạt động công nghiệp thải ra rất lớn nhưng hàm lượng của khi này trong khi quyển tăng rất châm? Em hay cho biết hai nguyên nhân chinh của việc thiên nhiên có khả năng điều chỉnh hàm lượng CO2. GV hướng dẫn và HS trả lời: Mặc du các nhà máy, các khu công nghiệp mọc lên như nấm sau mỗi năm nhưng trong vòng một trăm năm qua hàm lượng khi thải CO2 gần như tăng rất châm. Hai nguyên nhân chính làm hàm 33 lượng khi CO2 tăng rất châm là: Nguyên nhân thứ nhất: Do cây xanh hút CO2 và thải ra khi O2 Nguyên nhân thứ hai: Do một cân bằng hóa học được thiết lâp từ phản ứng thuân nghịch: CaCO3 + CO2 + H2O ⎯⎯ ⎯⎯→ Ca(HCO3)2 phản ứng này xảy ra trong lòng biển và các đại dương nơi chiếm bốn phần năm diện tich bề mặt trái đất. Câu 4. Một số người mắc bệnh thiếu máu, người cảm thấy mệt mỏi, chóng mặt. Cách khắc phục là gì? Vì sao? GV hướng dẫn và HS tự giải quyết vấn đề: Bổ sung sắt bằng cách uống viên sắt, ăn những thực phâm giàu sắt như: trứng, thịt, cá, quả chin, sữa có bổ sung sắt… Sắt là thành phần chinh của chất hêmôglôbin (huyết cầu tố). Nhờ chất này mà máu có màu đỏ, đặc biệt là khả năng chuyển vân khi oxi từ phổi đến các tế bào. Câu 5. Làm thế nào để nước biến đổi từ thể rắn sang thể lỏng, từ thể lỏng sang thể hơi và ngược lại? HS tự giải quyết vấn đề: Nước đá để ra ngoài không khi thành nước lỏng, đun sôi nước chuyển thành hơi và ngược lại. Câu 6. Nước Giaven để ngoài không khi một thời gian làm giảm tác dụng tây màu. Cách khắc phục là gì? GV hướng dẫn: Đựng nước Giaven trong lọ kin, tối màu và sử dụng trong thời gian ngắn. Câu 7. Làm thế nào để trứng chin không cần lửa, bóc trứng không cần đâp? GV hướng dẫn giải: Bỏ quả trứng vào dung dịch axit clohiđric. Axit clohiđric đa tác dụng với canxi cacbonat (chất có trong vỏ trứng) tạo ra canxi clorua, nước và khi cacbon đioxit thoát ra. Câu 8. Làm thi nghiệm đốt H2 hay bị nổ. GV hướng dẫn: Thử độ tinh khiết của H2 trước khi làm. Hỗn hợp khi H2 và khi O2 là hỗn hợp gây nổ khi cháy. Hỗn hợp khi này cháy rất nhanh và tỏa rất nhiều nhiệt. Nhiệt này làm cho thể tich hơi nước tạo thành sau phản ứng tăng lên đột ngột làm chấn động mạnh không khi gây ra tiếng nổ. Câu 9. Em hay giải thich vì sao người buôn cá thường có động tác đâp tay vào thành châu? HS tự trả lời: Khi oxi it tan trong nước. Do đó cần phải cung cấp thêm oxi cho cá bằng cách đâp tay vào thành châu để oxi tan nhiều hơn trong nước nên cá hô 34 hấp tốt hơn. Câu 10. Tại sao trong thực tế sản xuất người ta không để than đá hay giẻ lau máy đa qua sử dụng thành một đống lớn? Hướng dẫn giải: Trong thực tế sản xuất người ta không để than đá hay giẻ lau máy đa qua sử dụng thành một đống lớn vì phản ứng oxi hóa châm của than đá hay của paratin (giẻ lau máy) trong O2 không khi tỏa nhiệt rất mạnh, nhiệt độ tăng lên vượt quá nhiệt độ cháy có thể dẫn đến hỏa hoạn gây cháy công xưởng,… rất nguy hiểm. Câu 11. Trong các dịp lễ hội, em thường thấy các trường thả bóng bay. Những quả bóng đó có thể được bơm bằng những khí gì? Em hãy giải thích tại sao khi bơm các khi đó thì quả bóng bay lên được, còn bơm không khi vào bóng thì bóng không bay được? HS giải: Trong các dịp lễ hội người ta thường thả bóng, những quả bóng thường được bơm bằng khi hiđro. Từ tỉ khối của hiđro so với không khí, ta thấy: khi hiđro nhe nhất xấp xỉ bằng 1/15 không khi nên bóng bay được. Bơm không khi thì bóng không bay được vì không khí cộng với khối lượng quả bóng sẽ lớn hơn khối lượng không khi, nên bóng không được đây lên. Câu 12. Đen cồn trong phòng thi nghiệm để lâu có hiện tượng cạn? Làm thế nào để hạn chế hiện tượng này? HS giải: Cồn dễ bay hơi đây nắp để ngăn cản sự bay hơi của cồn. Câu 13. Vân dụng kiến thức hóa học, em hay giải thich tại sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh hoặc hoa tươi trong nhà? HS giải: Do ban đêm không có ánh sáng cây không quang hợp, chỉ hô hấp nên hấp thụ khi O2 và thải khi CO2 làm cho phòng thiếu khi O2 và dư quá nhiều khi CO2. Kết quả làm cho chung ta bị mệt mỏi do phải ngủ trong căn phòng thiếu oxi vì có nhiều cây xanh. Ngược lại ban ngày do có ánh sáng mặt trời nên cây quang hợp, hấp thụ khi CO2 và giải phóng khi O2. Nên khi trời nắng ta tru nắng dưới các tán lá cây sẽ cảm thấy rất dễ chịu. Câu 14. Vụ tai nạn do nga xuống giếng sâu không tử vong do chấn thương mà tử vong do nguyên nhân khác. Đó là nguyên nhân nào? Để đảm bảo an toàn trước khi xuống giếng phải làm gì?
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO SÁNG KIẾN 1. Xuất phát từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Trong diễn đàn kinh tế thế giới tại Dovos tháng 1/2015, thủ tướng Đức Angela Merkel có nhắc đến cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực và nhiều quốc gia. Trong đó các phát minh về sự phát triển nhảy vọt trong các lĩnh vực như: internet vạn vật (IOT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tế ảo tăng cường (AR), mạng xã hội (social network), di động (mobile), phân tích dữ liệu lớn (analytics of big data) và điện toán đám mây (cloud computing) (viết tắt thành SMAC)… để chuyển hóa phần lớn thông tin thế giới thực thành thế giới số. Trong tương lai nhiều việc làm chân tay sẽ không còn nữa, được thay thế bằng robot, nhưng cũng sẽ có ngành nghề mới ra đời mà chúng ta vẫn chưa hình dung hết được, chẳng hạn như nghề bác sĩ cho robot, nghề quản lý các thiết bị bay không người lái, nghề quản trị và tư vấn dùng thuốc cho cá nhân qua thiết bị di động, nghề tư vấn sức khỏe và hành vi con người với các thiết bị điện tử…Trong đó, ngành công nghiệp chế tạo vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển kinh tế của toàn cầu. Hơn 90% các đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển nằm ở lĩnh vực chế tạo. Dự kiến 15 năm tới, mức tiêu thụ hàng hóa toàn cầu sẽ tăng gấp đôi, đạt 64 nghìn tỉ USD, dẫn đến nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ ngày càng cao. Xuất phát từ những thay đổi trong nền kinh tế, các kỹ năng của người lao động cũng đòi hỏi phải thay đổi để đáp ứng cho phù hợp. Trong xu hướng của cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn lao động chất lượng cao không chỉ cần có kiến thức chuyên ngành mà đòi hỏi có sự hiểu biết của liên ngành. Ngoài ra các kỹ năng sử dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, tạo sản phẩm sáng tạo và làm việc nhóm ngày càng được đề cao. Trong khi đó, ảnh hưởng của khoa học công nghệ, đặc biết công nghệ thông tin dần chiếm ưu thế trên mọi mặt của đời sống. Giáo dục STEM là một hướng tiếp cận mới giúp trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết cần thiết liên quan đến 4 lĩnh vực là khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán. Các kiến thức và kỹ năng này gọi 2 là năng lực STEM (STEM literacy). Điểm nổi bật của STEM là kết nối, liên hệ thông tin giữa các lĩnh vực vào trong cuộc sống. 2. Xuất phát từ chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo Theo chỉ thị số 16/CT-TTg 04/5/2017 của Thủ Tướng Chính Phủ, đã nêu rõ giải pháp thứ năm để Việt Nam bắt nhịp tốt với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4: “Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học, dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề, đào tạo đại học đối với một số ngành đặc thù. Biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế.” Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công văn số 3089/BGDĐT-GDTr ngày 14/8/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc triển khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học, đã nêu rõ: “Tăng cường áp dụng giáo dục STEM trong giáo dục trung học nhằm giúp phần thực hiện mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.” Là một giáo viên THCS, tôi tự nhận thấy mình cần phải thay đổi và tiếp nhận phương thức giáo dục tiên tiến mà nhiều nước phát triển đang áp dụng, giáo dục STEM. Chính vì vậy, trong tôi luôn thôi thúc tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng giáo dục STEM vào môn học của mình một cách hiệu quả nhất, để góp phần nhỏ bé của mình trong công cuộc Giáo dục của Nước nhà. 3. Xuất phát từ định hướng nghề nghiệp cấp THCS Hướng nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng là giúp học sinh tìm hiểu được các ngành nghề trong tương lai và thấy được đam mê cũng như năng lực mình phù hợp với ngành nghề đó. Do đó, hướng nghiệp là một quá trình lâu dài không thể tổ chức thành 1 buổi vào cuối cấp, mà phải gắn liền và xuyên suốt trong 3 chương trình học phổ thông, để học sinh có điều kiện tìm hiểu toàn diện và đa dạng các lĩnh vực, cũng như có được nhiều cơ hội hình thành sở thích và thể hiện được năng lực của bản thân. Học sinh có thể biết được mức lương hiện nay của một người làm trong ngành nghề đó là bao nhiêu, công việc đó đòi hỏi phải có những kỹ năng và kiến thức gì, để từ đó hình dung được ra nếu theo nghề nghiệp đó trong tương lai thì cần chuẩn bị gì. Sở dĩ hướng nghiệp nên được lồng ghép vào các bài học cụ thể là bởi vì thông qua các hoạt động thực hành, kiến thức được vận dụng, học sinh mới dễ dàng nhận thức và hình dung được công việc cụ thể của một nghề nào đó, thấy được đóng góp ngành nghề đó cho xã hội, thấy được các năng khiếu của bản thân và đam mê của mình trong đó. Ngoài ra, có những ngành nghề thực tế chưa xuất hiện trong thời điểm hiện tại, nhưng thông qua các hoạt động học thực hành STEM sáng tạo, học sinh có thể thấy bản thân có thể phát triển nên một hoạt động công việc gì đó mới trong tương lai. Giáo dục STEM chính là khơi gợi và truyền ngọn lửa đam mê nghề nghiệp cho trẻ thông qua các hoạt động thực hành, trải nghiệm. 4. Xuất phát từ thực tiễn nhu cầu việc làm Theo một dự báo từ Cục thống kê lao động Hoa Kỳ, lực lượng lao động STEM dự kiến sẽ tăng 23% trong vòng ba năm tới với nhiều ngành nghề STEM. Nhu cầu tuyển dụng các công việc liên quan đến STEM không chỉ tăng ở Hoa Kỳ mà còn ở rất nhiều nước trên thế giới như Vương quốc Anh… với sự thiếu hụt hang nghìn công nhân lĩnh vực STEM. Một thống kê ở Mỹ cho thấy từ năm 2004 đến năm 2014, việc làm liên quan đến khoa học và kỹ thuật tăng 26%, gấp hai lần so với tốc độ tăng trưởng trung bình của các ngành nghề khác. Trong khi đó, việc làm STEM có tốc độ tăng trưởng gấp 4 lần so với tốc độ tăng trưởng trung bình của các ngành khác nếu tính từ năm 1950 đến 2007. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu việc làm liên quan đến STEM ngày càng lớn, đòi hỏi ngành giáo dục cũng phải có những thay đổi để đáp 12 ứng nhu cầu của xã hội. Giáo dục STEM có thể tạo ra những con người đáp ứng được nhu cầu công việc của thế kỷ mới, có tác động lớn đến sự thay đổi nên kinh tế đổi mới. Trong một bài phát biểu trước 4 thượng nghị viện Mỹ, Bill Gates đã từng nói: “Chúng ta không thể duy trì được nền kinh tế dẫn đầu toàn cầu trừ khi chúng ta xây dựng được lực lượng lao động có kiến thức và kỹ năng để sáng tạo”. Bill Gates đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục trong việc xây dựng lực lượng lao động này. Ông nói tiếp: “Chúng ta cũng không thể duy trì được một nền kinh tế sáng tạo trừ phi chúng ta có những công dân được đào tạo tốt về toán học, khoa học và kỹ thuật”. Hiện tại, Giáo dục STEM đã được triển khai tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Úc, Phần Lan, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc… Như vậy, có thể thấy rằng gáo dục STEM trên thế giới đã trở thành trào lưu và đang phát triển mạnh mẽ tại nhiều nước trên thế giới, thậm chí tại Canada người lao động nhập cư có các kỹ năng STEM được hưởng các phúc lợi xã hội tốt hơn so với người dân lao động bản xứ. Chính phủ Canada xem người nhập cư có các kỹ năng STEM là nguồn lao động chính cho họ và rằng người nhập cư có kỹ năng STEM sẽ thúc đẩy các ngành nghề kinh tế của họ phát triển, đặc biệt làm tăng khả năng giao thương quốc tế. Theo xu hướng thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài sự thiếu hụt đó. Vì vậy, dạy học theo phương thức Giáo dục STEM trong giáo dục Việt Nam là vô cùng quan trọng và cần thiết. 5 5. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học cơ sở theo định hướng phát triển năng lực người học của Bộ GD-ĐT. Nghị quyết Hội nghị TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới nền giáo dục nước nhà. Theo Luật Giáo dục Việt Nam năm 2010, tại Điều 28 có chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; phù hợp với đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau: Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn… Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới… Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen… để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo. 6 Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi trường giao tiếp GV – HS và HS – HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung. Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót. Có thể thấy, việc đổi mới phương pháp dạy học các môn nói chung và với bộ môn Hóa học nói riêng trong tình hình hiện nay là vô cùng cấp thiết. Chỉ có đổi mới phương pháp dạy học mới tạo ra được những con người mới: chủ động, sáng tạo. 6. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích học tập của học sinh. Trong giai đoạn hiện nay, việc kiểm tra – đánh giá thành tích học tập của học sinh theo quan điểm phát triển năng lực. Cụ thể là, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng, thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa (Leen pil, 2011). Xét về bản chất, thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức kĩ năng. Bởi vì, để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó nghĩa là được giải quyết vấn đề trong tình huống thực tiễn. Khi đó, học sinh vừa phải vận dụng kiến thức, kĩ năng được học trong Nhà trường, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân thu được thông qua các 7 hoạt động trải nghiệm trong và ngoài Nhà trường. Như vậy, thông qua hoàn thành nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá nhận thức, kĩ năng cũng như năng lực học tập của học sinh. 7. Xuất phát từ đặc điểm môn Hóa học Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm. Các khái niệm, định nghĩa, tính chất hóa học, hiện tượng hóa học, … thật khô khan, trừu tượng và khó ghi nhớ. Vậy phải làm sao để những đơn vị kiến thức đó trở thành kiến thức của học sinh? Thật vậy, bộ môn hóa học mà tính thực nghiệm được gắn liền với các bài giảng hàng ngày thì việc định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng phải có sự khác biệt nhiều so với các môn học khác. Ngoài các phương pháp dạy học tích cực, Hóa học nói riêng và các môn học khác nói chung, cần tiếp cận một phương thức giáo dục mới gắn với thực tiễn, giải quyết vấn đề thực tiễn liên quan đến kiến thức Hóa học, đó là phương thức giáo dục STEM. Ở đây, HS được tự mình tham gia vào quá trình hình thành kiến thức, chủ động thực hành thí nghiệm, được trải nghiệm để tự mình lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề thực tiễn. 5. Xuất phát từ thực trạng phát triển năng lực học tập trong dạy và học môn Hóa học hiện nay Đối với giáo viên: việc dạy vẫn chủ yếu theo phương pháp truyền thống (thuyết trình) hoặc bán truyền thống (nêu và giải quyết vấn đề; trực quan; …). Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực của học sinh còn rất hạn chế. Đối với học sinh: việc học hiện nay chưa giúp các con phát triển được năng lực tiềm ẩn trong con người. Việc học chủ yếu dựa vào khả năng ghi nhớ và tái hiện kiến thức. Việc học theo thói quen này đã dần giết chết năng lực sáng tạo của các con. Đó là một vấn đề nguy hiểm cho nhận loại vì xã hội ngày càng phát triển, trong hoàn cảnh mới, rất cần sự sáng tạo vượt bậc. Bản thân tôi đang công tác tại trường THCS nhận thấy: cùng với một nội dung của bài học, nếu cho chính các con được tự mình hoạt động, thì việc tiếp 8 nhận kiến thức của các con rất nhanh, việc ghi nhớ rất lâu, tạo nhiều hứng thú và đặc biệt, thông qua đó, các trang kinh nghiệm của bản thân các con ngày một dày thêm, để khi gặp một vấn đề mới, một vấn đề thực tiễn, với sự tích lũy kinh nghiệm vốn có, các con vượt qua dễ dàng hơn. Chính vì vậy, niềm khao khát các con được học đi đôi với hành, được tự mình tìm ra tri thức và vận dung tri thức giải quyết vấn đề thực tiễn, của mình đã thôi thúc tôi chọn đề tài: “DẠY HỌC HÓA HỌC THCS VỚI GIÁO DỤC STEM” II. MÔ TẢ CÁC GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Giáo dục STEM trên thế giới Trên toàn thế giới, các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học đều nhấn mạnh vai trò của giáo dục STEM. Tổng thống Barack Obama phát biểu tại Hội chợ Khoa học Nhà Trắng hàng năm lần thứ ba, tháng 4 năm 2013: “Một trong những điều mà tôi tập trung khi làm Tổng thống là làm thế nào chúng ta tạo ra một phương pháp tiếp cận toàn diện cho khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM)… Chúng ta cần phải ưu tiên đào tạo đội ngũ giáo viên mới trong các lĩnh vực chủ đề này và để đảm bảo rằng tất cả chúng ta là một quốc gia ngày càng dành cho các giáo viên sự tôn trọng cao hơn mà họ xứng đáng.” Giáo sư 9 Steven Chu, người đoạt giải Nobel Vật lý, phát biểu tại đại học SUSTech, ngày 16 tháng 10 năm 2016.: “Giáo dục STEM là một loại hình giáo dục hướng dẫn bạn học cách tự học”, Giáo sư Chu đã chỉ ra lợi thế của giáo dục STEM, Tự học là rất quan trọng trong quá trình phát triển cá nhân. Và học STEM cho phép mọi người tự trang bị cho mình khả năng suy nghĩ hợp lý và khả năng rà soát và tìm kiếm xác nhận như học toán học và có kiến thức sâu rộng. Nó mang đến cho bạn sự tự tin để đi đầu trong lĩnh vực mà chúng ta đang làm, thậm chí nhảy vào một lĩnh vực mới mà chúng ta chưa bao giờ đặt chân vào trước đây. “Bạn sẽ không bao giờ nói rằng bạn không thể chỉ vì thiếu kiến thức đầy đủ, đó là điểm quan trọng nhất của giáo dục STEM”, Tháng 11/2016, Giáo sư Dan Shechtman, người đoạt giải Nobel về nghiên cứu hóa học và khoa học vật liệu, cho biết Israel phải làm nhiều hơn nữa để thúc đẩy nghiên cứu khoa học để đảm bảo giữ được công nghệ của mình. “Chính phủ phải khuyến khích các nghiên cứu khoa học và kỹ thuật ở độ tuổi trẻ”, Shechtman nói trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại vào tuần trước. “Tất cả trẻ em đều phải học chương trình cốt lõi và chính phủ phải nâng cao trình độ của một số giáo viên”. Tháng 9/2013, Thủ tướng Malaysia ông Datuk Seri Najib Razak phát biểu: Malaysia dự kiến 60% trẻ em và thanh thiếu niên tham gia chương trình giáo dục về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) và sự nghiệp cho một tương lai tốt đẹp hơn của đất nước. Najib cho biết trẻ em và thanh thiếu niên có thể bị cuốn hút bởi khoa học thông qua một phương pháp giảng dạy và học tập thú vị hơn. Đó là hãy cho họ tham gia vào các dự án thực tế và cung cấp cho họ một số dự án đầy thách thức để tìm giải pháp so với cách tiếp cận từ trên xuống mà ông cảm thấy khá là nhàm chán. Bên cạnh đó các nước đều đã và đang phát triển mạnh mẽ Giáo dục STEM. Rõ rang rằng thế giới đã và đang tiếp tục chuyển mình mạnh mẽ với giáo dục STEM. Giáo dục STEM tại Mỹ Tại Mỹ, giáo dục STEM được hình thành khá lâu và phát triển trong một thời gian dài. Đầu những năm 90, ở Mỹ, đã hình thành xu hướng giáo dục mới 10 gọi là giáo dục STEM. Trong chương trình giáo dục STEM, các môn học về khoa học công nghệ không giảng dạy độc lập mà tích hợp lại với nhau thành một môn học thông qua phương pháp giảng dạy bằng dự án, trải nghiệm, thực hành,…. Tại nhiều nước châu Âu và châu Mỹ, để phát huy tối đa sự sáng tạo của học sinh các cấp, các hội chợ khoa học (Science fair) được tổ chức thường xuyên từ cấp trường đến cấp quốc gia. Một ví dụ cho sự coi trọng giáo dục STEM là ngày hội khoa học toàn quốc tại Nhà Trắng lần thứ 5 vừa qua, 23/03/2015, tổng thống Mỹ đã dành cả ngày để trao đổi, trò chuyện với các nhà khoa học nhí, các sản phẩm sáng tạo của học sinh được trưng bày trong văn phòng Nhà Trắng. Nghiên cứu các nước có nền khoa học phát triển nói chung như Mỹ, Anh, Đức… cho thấy ngày hội khoa học không chỉ thu hút được sự quan tâm của đông đảo học sinh, phụ huynh mà còn thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của giới truyền thông, chính khách, bởi hơn ai hết họ hiểu tầm quan trọng của việc nuôi dưỡng, thổi bùng niềm đam mê khoa học trong giới trẻ là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Giáo dục STEM tại Úc Ở Úc, đã có rất nhiều chương trình và nỗ lực thiết lập cách tiếp cận quốc gia về giáo dục STEM. Trong năm 2009, chương trình iSTEM (Invigorating STEM) được thành lập như là một chương trình làm giàu tri thức cho học sinh trung học ở Sydney, Úc. Chương trình tập trung vào việc cung cấp các hoạt động cho sinh viên quan tâm và gia đình của họ trong STEM. Thành công của chương trình đã dẫn đến nhiều trường đại học và tổ chức khoa học hỗ trợ cho chương trình. Chương trình iSTEM (iSTEM.com.au) cũng tổ chức một chương trình làm giàu để đưa học sinh và giáo viên vào Chương trình Học viện Không gian Hoa Kỳ. (Spacecamp.com.au) Sự công nhận cấp quốc gia về chương trình iSTEM bao gồm giải thưởng NSW State Engineering and Science về Đổi mới trong giảng dạy Toán và Khoa học và Giải thưởng Nhân quyền Hàng năm của Tổ chức GoWest. Vào năm 2015, người 13 sáng lập và điều phối chương trình, tiến sĩ Ken Silburn, đã nhận được giải thưởng của Thủ tướng Chính phủ về Giảng dạy Khoa học Trung cấp. 11 Giáo dục STEM tại Canada Canada đứng thứ 12 trong số 16 nước ngang bằng về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp theo học các chương trình STEM, với 21,2%, cao hơn Hoa Kỳ, nhưng thấp hơn các nước như Pháp, Đức và Áo. Phần Lan, có hơn 30% sinh viên tốt nghiệp đại học đến từ các ngành khoa học, toán học, khoa học máy tính, và các chương trình kỹ thuật. Tổ chức hướng học sinh Canada đã áp dụng các biện pháp tương tự như đối tác Mỹ để thúc đẩy các lĩnh vực STEM cho thanh thiếu niên. Chương trình STEM của họ bắt đầu vào năm 2015. Học bổng Schulich Leader: Trong năm 2011, nhà doanh nghiệp và nhà hảo tâm Canada Seymour Schulich thành lập Học bổng Schulich Leader, học bổng trị giá 100.000.000 đô la với 60.000 đô la cho sinh viên bắt đầu học đại học trong một chương trình STEM tại 20 tổ chức trên khắp Canada. Mỗi năm 40 sinh viên Canada sẽ được lựa chọn để nhận giải thưởng, hai ở mỗi tổ chức, với mục tiêu thu hút thanh thiếu niên có năng khiếu vào các lĩnh vực STEM. Chương trình cũng cung cấp học bổng STEM cho năm trường đại học tham gia ở Israel. Giáo dục STEM tại Thổ Nhĩ Kỳ Nhóm công tác giáo dục STEM của Thổ Nhĩ Kỳ (hay FeTeMM-Fen Bilimleri, Teknoloji, Mühendislik ve Matematik) là một liên minh của các nhà khoa học và giáo viên, những người có nhiều nỗ lực để nâng cao chất lượng giáo dục trong các lĩnh vực STEM chứ không tập trung vào việc tăng số lượng sinh viên STEM. Giáo dục STEM tại Châu Phi Trên khắp thế giới, các sáng kiến giáo dục STEM khác nhau về phạm vi, quy mô, loại, nhóm dân số mục tiêu và nguồn tài trợ. Một danh sách các tổ chức hiện đang tham gia vào các hoạt động giáo dục STEM và tiếp cận rộng khắp Châu Phi cận Sahara đã nổi lên. Các tổ chức có quy mô, phạm vi, cơ chế tài trợ và tuyên bố sứ mệnh. Tuy nhiên, tất cả đều tập trung vào việc cải thiện giáo dục STEM ở lục địa. Giáo dục STEM tại Qatar Tại Qatar, AL-Bairaq là một chương trình tiếp cận học sinh trung học với 12 một chương trình tập trung vào STEM, do Trung tâm Vật liệu Tiên tiến (CAM) của Đại học Qatar điều hành. Mỗi năm khoảng 946 sinh viên, từ khoảng 40 trường trung học, tham gia các cuộc thi AL-Bairaq. AL-Bairaq vận dụng học tập theo dự án, khuyến khích sinh viên giải quyết các vấn đề đích thực và yêu cầu họ làm việc với nhau như một nhóm để xây dựng các giải pháp thực sự. Nghiên cứu cho đến nay cho thấy kết quả tích cực cho chương trình. Giáo dục STEM tại Việt Nam Khác với các nước phát triển trên thế giới như Mỹ, giáo dục STEM du nhập vào Việt Nam không phải bắt nguồn từ các nghiên cứu khoa học giáo dục hay từ chính sách vĩ mô về nguồn nhân lực mà bắt nguồn từ các cuộc thi Robot dành cho học sinh từ cấp tiểu học dến phổ thông trung học do các công ty công nghệ tại Việt Nam triển khai cùng với các tổ chức nước ngoài. Ví dụ cuộc thi Robotics make X 2019 của Công ty Cp robot Công nghệ cao STEAM Việt Nam hay một số cuộc thi robocon của các hãng như Lego và một số cuộc thi robocon của các hãng khác trong nước. Từ đó đến nay giáo dục STEM đã bắt đầu có sự lan toả với nhiều hình thức khác nhau, nhiều cách thức thực hiện khác nhau, nhiều tổ chức hỗ trợ khác nhau, ví dụ như Ngày hội STEM, câu lạc bộ STEM …. Thực trạng giáo dục địa phương ** Về phía giáo viên Để tìm hiểu về thực trạng của giáo viên sử dụng phương thức dạy học trong quá trình lên lớp, tôi tiến hành khảo sát đối với giáo viên ở một số trường THCS thông qua phiếu khảo sát sau: PHIẾU KHẢO SÁT Phần A: Thông tin cá nhân (Quý thầy cô có thể không cung cấp thông tin) Họ và tên: …………………………………………………………………. Dạy bộ môn: ……………………………………………………………… Trường:……………………………………………………………………. SĐT: ……………………………………………………………………… 13 Phần B: Nội dung B1. Hãy khoanh tròn vào sự lựa chọn của thầy cô: Trong các bài giảng của mình, thầy cô: A. Dạy học theo phương thức giáo dục thông thường. B. Dạy học theo phương thức giáo dục STEM. (Nếu chọn đáp án B , thầy cô xin vui lòng tiếp tục trả lời các câu hỏi từ B.2 đến B.7; Nếu chọn đáp án A, thầy cô xin vui lòng trả lời câu hỏi B.8) B.2. Hãy đánh dấu (×) vào mức độ biết và hiểu khi thầy cô sử dụng các phương thức dạy học đó. Thang mức độ biết: 1. Biết rất rõ; 2. Biết chút ít, 3. Không biết. Thang mức độ hiểu: 1. Hiểu rõ; 2. Hiểu chút ít, 3. Không hiểu.
Nội dung
Vấn đề
Mức độ
Biết
Hiểu
1
2
3
1
2
3
Nhận thức
Những định hướng chính trong phương thức dạy học ở THCS hiện nay
Dạy học thuyết trình
Dạy học theo bài
Dạy học theo chủ đề
Dạy học theo dự án
Dạy học theo trạm
Dạy học hợp đồng
Dạy học theo phương thức giáo dục STEM
Phương thức dạy học khác
B.3. Hãy đánh dấu (×) vào mức độ sử dụng khi thầy cô sử dụng các phương thức dạy học. Thang mức độ: 1. Rất ít; 2. Ít; 3. Nhiều; 4. Rất nhiều 14
Nội dung
Vấn đề
Mức độ
1
2
3
4
Thái độ
Trang bị cho HS nhiều kiến thức sau đó HS được củng cố kiến thức bằng việc giải bài tập liên quan
Gắn kiến thức với thực tiễn và HS lĩnh hội được kiến thức thông qua giải quyết vấn đề thực tiễn.
B.4. Hãy đánh dấu (×) vào mức độ cần thiết của những điều kiện sư phạm khi thầy cô sử dụng các phương thức dạy học. Thang mức độ: 1. Rất cần thiết; 2. Cần thiết; 3. Ít cần thiết; 4. Không cần thiết
Nội dung
Vấn đề
Mức độ
1
2
3
4
Thái độ
Tiếp cận, tìm tòi các kĩ thuật mới để thực hiện tốt các phương thức dạy học
Xây dựng kĩ thuật riêng nhằm phát huy điểm mạnh và hạn chế tối đa điểm yếu của bản thân
Hỗ trợ, hợp tác chuyên môn của BGH và đồng nghiệp
Các phương tiện dạy học để thực hiện tốt các phương thức dạy học
B.5. Hãy đánh dấu (×) vào mức độ thành thạo khi thầy cô sử dụng các PPDH. Thang mức độ: 1. Rất thành thạo, 2. Thành thạo; 3. Không thành thạo Thang tần suất sử dụng: 1. Rất thường xuyên; 2. Thường xuyên; 3. Thỉnh thoảng; 4. Rất ít khi; 5. Không sử dụng. 15
Nội dung
Vấn đề
Mức độ
Tần suất sử dụng
1
2
3
1
2
3
4
5
Các phương pháp, phương thức dạy học
PPDH truyền thống (đàm thoại, vấn đáp, thuyết trình, …)
PPDH theo nhóm
PPDH kiến tạo
PPDH trò chơi
PPDH động não
PPDH nêu và giải quyết vấn đề
PPDH đóng vai
PPDH điều tra
PPDH hợp đồng
PPDH theo dự án
PPDH trải nghiệm
PPDH bàn tay nặn bột
PPDH theo trạm
Phương thức giáo dục STEM
B.6. Khó khăn mà thầy cô hay gặp phải trong quá trình dạy học theo phương pháp, phương thức dạy học? Hãy đánh dấu (×) vào sự lựa chọn của thầy cô và đánh thứ tự mức độ quan trọng của các khó khăn đó.
Vấn đề
Lựa chọn
Thứ tự
Tài chính
Thời gian
Sức lực
Ý tưởng
16
Hiệu quả
Ý kiến khác: …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… B.7. Trong phương thức giáo dục STEM, quý thầy cô hãy cho biết quan điểm cá nhân về việc sử dụng phương thức dạy học này cho HS THCS. …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… B.8. Lý do thầy cô không áp dụng phương thức giáo dục STEM vào bài giảng của mình? Hãy đánh dấu (×) vào sự lựa chọn của thầy cô và đánh thứ tự mức độ quan trọng của các lý do đó.
Lý do
Lựa chọn
Thứ tự
Tốn nhiều thời gian
Ngại thay đổi
Tốn kém về tài chính
Tốn nhiều sức lực
Hiệu quả không cao
Khó gắn kiến thức với vấn đề thực tiễn
17
Chưa hiểu rõ về phương thức
Không cần thiết áp dụng
Ý kiến khác: …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô! Kính chúc quý thầy cô sức khỏe, công tác tốt! Qua kết quả khảo sát, tôi nhận thấy: Phần lớn GV mới chỉ dạy học theo bài, một số GV dạy học theo chủ đề, tuy nhiên lại chưa chú trọng vào việc gắn kiến thức với thực tiễn và giải quyết vấn đề thực tiễn. Cũng nhiều GV đã sử dụng những phương pháp dạy học tích cực có hiệu quả, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở mức độ gây hứng thú cho HS, khắc sâu kiến thức cho HS, mà chưa chú trọng vào giải quyết vẫn đề thực tiễn. Một trong số những lí do GV chưa tiếp cận với phương thức giáo dục STEM là chưa gắn kiến thức với thực tiễn, hoặc là gặp khó khăn với vấn đề đó vì GV luôn nghĩ rằng vấn đề thực tiễn ấy phải lớn lao hoặc rất lớn lao. Thực tế, tùy vào nội dung chủ đề mà vấn đề thực tiễn ấy có thể chỉ là rất đời thường. Với những phương pháp dạy học truyền thống tôi nhận thấy có một số ưu, nhược điểm sau: * Ưu điểm – Đảm bảo thời gian theo phân phối chương trình, nội dung của bài học. – Việc lập kế hoạch dạy học không mất quá nhiều thời gian, sử dụng các phương pháp dạy học quen thuộc như thuyết trình, vấn đáp, trực quan… – Cho phép truyền đạt những nội dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin học sinh tự mình không dễ dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc. 18 – Có thể truyền đạt một khối lượng tri thức khá lớn cho nhiều học sinh trong cùng một lúc. – Dễ thực hiện do quen thuộc, đã sử dụng từ lâu. * Nhược điểm và những tồn tại cần được khắc phục – Chưa phù hợp với những đổi mới trong giáo dục hiện nay: dạy học theo chủ đề tích hợp, tăng cường vận dụng các kiến thức để giải quyết các tình huống trong thực tiễn, tăng cường sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm mục đích hình thành và phát triển năng lực của học sinh, phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh, góp phần đào tạo ra những con người phát triển toàn diện phù hợp với cuộc sống trong thời đại mới. – Nếu giáo viên không sử dụng linh hoạt các phương pháp dễ làm cho học sinh thụ động, thiếu tính tích cực trong lĩnh hội tri thức, chỉ thường sử dụng chủ yếu thính giác cùng với tư duy tái hiện, do đó làm cho học sinh chóng mệt mỏi, chán nản. – Kiến thức học sinh nắm được thường không bền vững, ít có giá trị trong thực tiễn sau này của học sinh. – Học sinh hầu như chưa được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng lập kế hoạc hoạt động, kĩ năng khai thác, lựa chọn và sử dụng tài liệu trên mạng internet, kĩ năng sử dụng kiến thức vào thực tiễn, kĩ năng trình bày vấn đề và tư duy logic… ** Về phía học sinh HS hiện nay khá thụ động trong việc tiếp nhận kiến thức. GV truyền thụ kiến thức một chiều và HS tiếp nhận kiến thức đó một cách máy móc: học thuộc lòng, giải bài theo mẫu, học thuộc các bước giải của một bài toán … Bằng cách này hay cách kia, HS nhớ được kiến thức và làm được các bài tập lí thuyết, nhưng để vận dụng kiến thức đó vào việc giải các bài toán thực tế thì hầu như HS gặp bế tắc. Với cách học tập đó, HS vô hình chung biến mình thành rô-bốt. Mặt khác, HS chưa được chủ động lĩnh hội kiến thức của mình. Mỗi con người là một cá thể, mang cá tính khác nhau. 19 Đặc biệt, các năng lực như năng lực hành động, năng lực sáng tạo, năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp trong những tình huống thay đổi trong HS đã và đang bị ngủ quên. Theo tâm lí học giải phẫu, mỗi cá nhân đều có một hoặc nhiều năng lực tiềm ẩn. Trong điều kiện thuận lợi, chúng sẽ được phát hiện, nuôi dưỡng, trưởng thành và phát triển. Qua thực trạng của HS chúng tôi nhận thấy ưu, nhược điểm của HS khi học theo phương pháp cũ đó là: * Ưu điểm – Trong một khoảng thời gian ngắn, HS được tiếp thu một lượng kiến thức lớn. – Không tốn nhiều thời gian và công sức tìm hiểu kiến thức. – HS chỉ việc ghi nhớ và tái hiện kiến thức học được. * Nhược điểm – Tiếp nhận kiến thức thụ động theo một chiều. – HS không có cơ hội phát triển được các năng lực sẵn có và các năng lực tiềm năng như: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực thuyết trình trước đám đông. Vì thế HS rụt rè, thiếu tính chủ động và sáng tạo trong hoàn cảnh mới. – HS không được trải nghiệm, không giải quyết được hoặc gặp khó khăn trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến * Tính mới của giải pháp – Dạy học hóa học THCS với giáo dục STEM tại trường THCS Mỹ Hưng, Mỹ Lộc, Nam Định. – Vận dụng tối đa việc thực hành để HS được trải nghiệm, được chủ động tìm ra kiến thức và vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. – Thiết kế được một số kế hoạch dạy học mới trong chương trình theo phương thức giáo dục STEM. – Dạy học một số chủ đề theo phương thức giáo dục STEM và kết quả đạt được rất tích cực. 20 – Bước đầu hướng dẫn HS tham gia nghiên cứu khoa học kĩ thuật và STEM. GIẢI PHÁP 1: NGHIÊN CỨU CÁC TÀI LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN SÁNG KIẾN * Tìm hiểu STEM và các vấn đề liên quan đến STEM * Giáo dục STEM là gì? STEM là thuật ngữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học), thường được sử dụng khi bàn đến các chính sách phát triển về Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học của mỗi quốc gia. Thuật ngữ này lần đầu tiên được giới thiệu bởi Quỹ Khoa học Mỹ vào năm 2001. Giáo dục STEM là một phương thức giáo dục nhằm trang bị cho HS những kiến thức khoa học gắn liền với ứng dụng của chúng trong thực tiễn, qua đó phát triển cho HS năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cùng với những năng lực khác tương ứng, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. * Các hình thức tổ chức giáo dục STEM tại Việt Nam: Tùy thuộc vào đặc thù từng môn học và điều kiện cơ sở vật chất, các trường có thể áp dụng linh hoạt các hình thức tổ chức giáo dục STEM như sau: Một là, dạy học các môn khoa học theo bài học STEM: Đây là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà trường trung học. Giáo viên thiết kế các bài học STEM để triển khai trong quá trình dạy học các 21 môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận tích hợp nội môn hoặc tích hợp liên môn. Nội dung bài học STEM bám sát nội dung chương trình của các môn học nhằm thực hiện chương trình giáo dục phổ thông theo thời lượng quy định của các môn học trong chương trình. Học sinh thực hiện bài học STEM được chủ động nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu học tập để tiếp nhận và vận dung kiến thức thông qua các hoạt động: lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề; thực hành thiết kế, chế tạo, thử nghiệm mẫu thiết kế; chia sẻ, thảo luận, hoàn thiện hoặc điều chỉnh mẫu thiết kế dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hai là, tổ chức hoạt động trải nghiệm STEM: Hoạt động trải nghiệm STEM được tổ chức thông qua hình thức câu lạc bộ hoặc các hoạt động trải nghiệm thực tế; được tổ chức thực hiện theo sở thích, năng khiếu và lựa chọn của học sinh một cách tự nguyện. Nhà trường có thể tổ chức các không gian trải nghiệm STEM trong nhà trường; giới thiệu thư viện học liệu số, thí nghiệm ảo, mô phỏng, phần mềm học tập để học sinh tìm hiểu, khám phá các thí nghiệm, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong thực tiễn đời sống. Hoạt động trải nghiệm STEM được tổ chức theo kế hoạch giáo dục hàng năm của nhà trường; nội dung mỗi buổi trải nghiệm được thiết kế thành bài học cụ thể, mô tả rõ mục đích, yêu cầu, tiến trình trải nghiệm và dự kiến kết quả. Ưu tiên những hoạt động liên quan, hoạt động tiếp nối ở mức vận dụng (thiết kế, thử nghiệm, thảo luận và chỉnh sửa) của các hoạt động trong bài học STEM theo kế hoạch dạy học của nhà trường. Tăng cường sự hợp tác giữa trường trung học với các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp, hộ kinh doanh, các thành phần kinh tế – xã hội khác và gia đình để tổ chức có hiệu quả các hoạt động trải nghiệm STEM phù hợp với các quy định hiện hành. Ba là, tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật: Hoạt động này dành cho những học sinh có năng lực, sở thích và hứng thú với các hoạt động tìm tòi, khám phá khoa học, kỹ thuật giải quyết các vấn đề thực 22 tiễn; thông qua quá trình tổ chức dạy học các bài học STEM và hoạt động trải nghiệm STEM phát hiện các học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi học sinh tham gia nghiên cứu khoa học, kĩ thuật. Hoạt động nghiên cứu khoa học, kĩ thuật được thực hiện dưới dạng một đề tài/dự án nghiên cứu bởi một cá nhân hoặc nhóm hai thành viên, dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc nhà khoa học có chuyên môn phù hợp. Dựa trên tình hình thực tiễn, có thể định kỳ tổ chức ngày hội STEM hoặc cuộc thi khoa học, kỹ thuật tại đơn vị để đánh giá, biểu dương nỗ lực của giáo viên và học sinh trong việc tổ chức dạy và học, đồng thời lựa chọn các đề tài/dự án nghiên cứu gửi tham gia Cuộc thi khoa học, kỹ thuật cấp trên. * Ưu điểm của mô hình STEM: Giáo dục STEM hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn. Theo đó, học sinh sẽ phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra. Bên cạnh đó, giáo dục STEM khuyến khích phong cách học tập sáng tạo. Người học không chỉ tiếp thu các kiến thức nền tảng, nguyên lý mà sẽ tích hợp chúng vào trong thực tế. * Định hướng đầu ra của giáo dục STEM: Với kỹ năng khoa học, học sinh được trang bị kiến thức về các khái niệm, các nguyên lý, các định luật và các cơ sở lý thuyết của giáo dục khoa học. Từ đó học sinh có khả năng liên kết các kiến thức để thực hành và có tư duy sử dụng kiến thức vào thực tiễn để giải quyết vấn đề. Kỹ năng công nghệ giúp học sinh có khả năng sử dụng, quản lý và truy cập công nghệ từ những vật dụng đơn giản đến những hệ thống phức tạp. Kỹ năng kỹ thuật giúp học sinh có cái nhìn tổng quan và đưa ra được những giải pháp trong các vấn đề liên quan đến thiết kế, xây dựng quy trình. Và cuối cùng, kỹ năng toán học là khả năng nhìn nhận và nắm bắt được vai trò của toán học trong mọi khía cạnh tồn tại trên thế giới. 23 Giáo dục STEM không hướng đến mục tiêu đào tạo để học sinh trở thành những nhà toán học, nhà khoa học, kỹ sư hay những kỹ thuật viên mà chủ yếu là trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng để làm việc và phát triển trong thế giới công nghệ hiện đại ngày nay. Giáo dục STEM tạo ra những con người có thể đáp ứng được nhu cầu công việc của thế kỷ 21, đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia và có thể tác động tích cực đến sự thay đổi của nền kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa. * Quy trình xây dựng chủ đề giáo dục STEM được thực hiện theo 4 bước sau: Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học Căn cứ vào các năng lực cần đạt, các nội dung kiến thức trong chương trình môn học và các hiện tượng, quá trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; quy trình hoặc thiết bị công nghệ có sử dụng kiến thức đó trong thực tiễn… để lựa chọn chủ đề của bài học. Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết Sau khi chọn chủ đề của bài học, GV xác định vấn đề cần giải quyết để giao cho HS thực hiện. HS phải học được những kiến thức, kĩ năng cần dạy trong chương trình môn học đã được lựa chọn hoặc vận dụng kiến thức, kĩ năng đã biết để xây dựng bài học. Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/ giải pháp giải quyết vấn đề Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết/ sản phẩm cần chế tạo, cần xác định rõ tiêu chí của giải pháp/ sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng để đề xuất giả thuyết khoa học/ giải pháp giải quyết vấn đề/ thiết kế mẫu sản phẩm. Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học được thiết kế theo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Tiến trình bài học có thể tuân theo quy trình kĩ thuật bao gồm 8 bước (xác định vấn đề, nghiên cứu kiến thức nền, đề xuất giải pháp, lựa chọn giải pháp, chế tạo mô hình, thử nghiệm và đánh giá, chia sẻ và thảo luận, điều chỉnh thiết kế), chia thành 5 hoạt động sau: 24 * Quy trình thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động STEM được thực hiện theo 8 bước, chia thành 5 hoạt động: Hoạt động 1: Xác định vấn đề Trong hoạt động này, GV giao cho HS nhiệm vụ học tập chứa đựng vấn đề, trong đó HS phải hoàn thành một sản phẩm học tập cụ thể với các tiêu chí đòi hỏi HS phải sử dụng kiến thức mới trong bài học để đề xuất, xây dựng giải pháp và thiết kế nguyên mẫu của sản phẩm cần hoàn thành. Tiêu chí của sản phẩm là yêu cầu hết sức quan trọng, bởi đó chính là “tính mới” của sản phẩm, kể cả sản phẩm đó là quen thuộc với HS; đồng thời tiêu chí đó buộc HS phải nắm vững kiến thức mới thiết kế và giải thích được thiết kế cho sản phẩm cần làm. Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất giải pháp Trong hoạt động này, HS thực hiện hoạt động học tích cực, tự lực dưới sự hướng dẫn của GV. HS phải tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức để sử dụng vào việc đề xuất, thiết kế sản phẩm cần hoàn thành. Kết quả là, khi HS hoàn thành bản thiết kế thì đồng thời HS cũng đã học được kiến thức mới theo chương trình môn học tương ứng. Hoạt động 3: Lựa chọn giải pháp HS được tổ chức để trình bày, giải thích và bảo vệ bản thiết kế kèm theo thuyết minh (sử dụng kiến thức mới và kiến thức đã có); đó là sự thể hiện cụ thể của giải pháp giải quyết vấn đề. Dưới sự trao đổi, đóng góp ý kiến của các bạn và GV, HS tiếp tục hoàn thiện bản thiết kế trước khi tiến hành chế tạo, thử nghiệm. Hoạt động 4: Chế tạo mẫu, thử nghiệm và đánh giá HS tiến hành chế tạo mẫu theo bản thiết kế đã hoàn thiện; trong quá trình chế tạo đồng thời phải tiến hành thử nghiệm và đánh giá. Trong quá trình này, HS có thể phải điều chỉnh thiết kế ban đầu để đảm bảo mẫu chế tạo là khả thi. Hoạt động 5: Chia sẻ, thảo luận, điều chỉnh HS được tổ chức để trình bày sản phẩm học tập đã hoàn thành; trao đổi, thảo luận, đánh giá để tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện sản phẩm. 25 Mỗi hoạt động được thiết kế rõ ràng về mục đích, nội dung và sản phẩm học tập mà HS phải hoàn thành, cách thức tổ chức hoạt động. Các hoạt động đó có thể được tổ chức cả trong và ngoài lớp học (ở trường, ở nhà và cộng đồng). GIẢI PHÁP 2: TÍCH CỰC THAM GIA CÁC BUỔI TẬP HUẤN VỀ GIÁO DỤC STEM, THAM GIA CÁC KHÓA HỌC VỀ GIÁO DỤC STEM H1. Tập huấn STEM tại trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – Nam Định H2. Tham gia khóa học giáo dục STEM cùng các đồng nghiệp tại học viện sáng tạo Tốt-tô-chan Nam Định GIẢI PHÁP 3: TẬP HUẤN CHO HỌC SINH CÁC KĨ NĂNG CẦN THIẾT ĐỂ TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO HS HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ * Thường xuyên cho HS tham gia viết bài luận về một vấn đề nổi bật trên mạng xã hội, viết báo tường theo các chủ đề, trang trí bảng cho một chủ đề học tập 26 H3. HS tự thiết kế chủ đề trên bảng viết H4. HS tự thiết kế catalo 27 H5. HS trang trí báo tường và viết bài luận * Thường xuyên cho HS tự thu thập thông tin qua sách báo, mạng internet 28 29 H6. HS tự thu thập thông tin * Thường xuyên cho HS thuyết trình theo chủ đề bài học hoặc một vấn đề liên quan 30 31 H7. HS thường xuyên thuyết trình về các chủ đề học tập * Thường xuyên cho HS tham gia thực hành, tìm tòi thông qua tự làm, tự trải nghiệm 32 H8. HS thường xuyên hoạt động thực hành trong học tập * Khuyến khích HS tham gia nghiên cứu khoa học kĩ thuật và STEM H9. HS tích cực tham gia Ngày hội STEM 33 * Khuyến khích HS tham gia các dự án bảo vệ môi trường (hình ảnh) H10. HS tham gia dự án tái chế rác thải – bảo vệ môi trường * HS tích cực hoạt động trong Câu lạc bộ STEM của trường: H11. HS với hoạt động Câu lạc bộ STEM 34 GIẢI PHÁP 3: THIẾT KẾ KẾ HOẠCH DẠY HỌC THEO PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC STEM VÀ ÁP DỤNG GIẢNG DẠY TRÊN LỚP * Thiết kế kế hoạch dạy học chủ đề “tinh chế muối ăn” với phương thức giáo dục STEM: 1. Tên chủ đề: TINH CHẾ MUỐI ĂN 2. Mô tả chủ đề: Muối là một khoáng chất thiết yếu, không chỉ giúp bảo quản thực phẩm, giúp đồ ăn ngon hơn mà còn đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình sinh hóa của cơ thể. Vì vậy việc sử dụng muối đủ, đúng và sạch là một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Thông qua chủ đề TINH CHẾ MUỐI ĂN, học sinh tự tinh chế được muối ăn trong gia đình, nhận biết được đâu là muối sạch đã tinh chế và có thói quen sử dụng các sản phẩm an toàn cho sức khỏe của con người. Địa điểm tổ chức: phòng học, nhà máy sản xuất muối sạch (nếu có điều kiện). Môn học phụ trách chính: môn Hóa học 3. Mục tiêu a. Kiến thức – HS biết được khái niệm chất tinh khiết, hỗn hợp, chất tan, chất không tan, dung môi, dung dịch, dung dịch bão hòa, dung dịch chưa bão hòa. – HS biết được ảnh hưởng của nhiệt độ tới khả năng hòa tan của muối ăn trong nước. – HS biết cách nhận biết chất tan, chất không tan. – HS biết cách pha dung dịch chưa bão hòa, dung dịch bão hòa. – HS biết được một số cách tách chất ra khỏi hỗn hợp. – HS miêu tả và giải thích được quy trình tinh chế muối ăn. Từ đó nhận biết được muối ăn đã được tinh chế.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Hóa học là khoa học thực nghiệm nghiên cứu về chất,sự biến đổi về chất, những biến đổi vật chất trong tự nhiên. Kiến thức về hóa học là một xâu chuỗi có mối liên quan chặt chẽ với nhau, học sinh sẽ rất khó nhớ,khó thuộc đồng thời hóa học lại là môn học học sinh được tiếp cận muộn nhất so với các môn học khác. Ngày nay các nước trên thế giới rất coi trọng việc giảng dạy bộ môn hóa học. Môn hóa học trong trường phổ thông trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản để học sinh không bối rối trong các tình huống gặp phải trong tự nhiên,giải thích được các hiện tượng tự nhiên và có niềm tin vào khoa học.Môn hóa học giáo dục cho các em học sinh ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, biết bảo vệ môi trường sống trước những hiểm họa do con người gây ra . Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa, cần có những con người có tri thức và trí tuệ có khả năng nắm bắt khoa học kĩ thuật,có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại.Phát huy tiềm năng dân tộc và tính tích cực cá nhân làm chủ tri thức, có khả năng thực hành giỏi,có tư duy sáng tạo,có tác phong công nghiệp,có tính kỉ luật,sức khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.Để có những con người như thế chỉ có con đường giáo dục. Bậc trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông,trung học chuyên nghiệp,học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp nhận thức. Bộ môn hóa học là môn học được coi là môn khó đối với học sinh trung học cơ sở. Nếu tạo cho học sinh có được tính tích cực học tập thì việc học môn hóa học sẽ trở nên dễ dàng,dễ nhớ giúp học sinh có thể tiếp tục học tiếp ở cấp trung học phổ thông vì vậy việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn hóa học đóng vai trò quan trọng trong chất lượng giảng dạy. Dạy học theo định hướng mới gắn với STEM môn Hóa học đang là sự lựa 3 chọn của nhiều nước có nền giáo dục hiện đại. Ngành giáo dục nước ta đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học gắn với STEM nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học cũng như phát huy tính sáng tạo trong việc dạy và học đồng thời phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập của người học giúp học sinh vận dụng kiến thức liên môn trong việc giải quyết tình huống thực tiễn . Chính những điều đã nêu trên và những kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn hóa học là lí do tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “ Đổi mới phương pháp dạy học gắn với STEM môn Hóa học trong chủ đề Phản ứng hóa học ” với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về tính ưu việt, khả năng vận dụng phương pháp dạy học nhằm góp phần năng cao chất lượng dạy học theo định hướng STEM trong thời đại công nghệ 4.0 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT II.1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN – Một trong những định hướng đổi mới căn bản trong chương trình và sách giáo khoa là chuyển từ chương trình chú trọng cung cấp kiến thức và kĩ năng sang hướng hình thành năng lực cho học sinh. Về lí luận cũng như thực tiễn cho thấy dạy học theo định hướng STEM là phương án tốt để góp phần hình thành năng lực cho người học. Dạy học theo định hướng STEM là quá trình trong đó học sinh phải huy động kiến thức,kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết các vấn đề học tập thông qua đó hình thành và phát triển những kiến thức kĩ năng mới và rèn luyện được những năng lực cần thiết. Như vậy vai trò chủ đạo của giáo viên,toàn bộ các tác động giáo dục của nhà trường sẽ không có hiệu quả – thực chất nếu không tạo ra được sự kết hợp hài hòa hoạt động của thầy và hoạt động tích cực sáng tạo của học sinh. Thực tế từ những năm gần đây ngành giáo dục đã rất quan tâm tới việc dạy học theo định hướng STEM tuy nhiên đây là phương pháp mới nên khi áp dụng vào thực tế giáo dục đòi hỏi ở người giáo viên phải có trình độ sư phạm vững, hiểu sâu sắc đối tượng để chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng của học sinh . 4 Những tồn tại bản thân tôi gặp phải trong quá trình giảng dạy bộ môn Hóa THCS: Tôi đã sử dụng các phương pháp truyền thống kết hợp một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực: dạy học theo nhóm, kĩ thuật mảnh ghép, phương pháp đàm thoại gợi mở….kết hợp khai thác kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa , sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin ( Powerpoint), các video minh họa cùng với các thí nghiệm chứng minh…để kích thích khả năng tư duy, húng thú tìm hiểu kiến thức bộ môn. Tuy nhiên học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ quan sát, tư duy.Trong giờ học giáo viên vẫn đóng vai trò là người truyền thụ kiến thức, là trung tâm của quá trình dạy học, học sinh chủ động lắng nghe, tiếp thu các kiến thức một cách thụ động được qui định sẵn,ít được thể hiện các năng lực của bản thân, chưa chủ động trong việc học tập, khả năng sáng tạo và vận dụng kiến thức để giải quyết tình huống thực tế cuộc sống còn hạn chế. Với những yêu cầu nêu trên tôi đưa ra một số giải pháp minh họa để cụ thể hoá việc đổi mới dạy học môn Hóa học với một số nội dung hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. II.2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN Trong dạy học nói chung và dạy học hóa học nói riêng việc sử dụng các phương pháp truyền thống là cần thiết nhưng sẽ hấp dẫn hơn nếu chúng ta biết kết hợp thí nghiệm, quan sát hiện tượng thực tế và tài liệu tham khảo các môn khoa học khác. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với từng lớp học,từng môn học,bồi dưỡng phương pháp tự học,rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức thực tiễn tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Để có những tiết học đạt hiệu quả cao luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ, là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp nhưng không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên phải là người có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm vững vàng, thường xuyên nghiên cứu tài liệu tham khảo để xây dựng các câu hỏi cho tiết dạy và vận dụng linh hoạt các kiến thức liên môn để giải quyết nhiệm vụ nhận thức ở mỗi bài học. Có 5 nhiều biện pháp để tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh, trong khuôn khổ của một vài kinh nghiệm tôi xin trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình soạn giảng phù hợp với điều kiện dạy học ở trường tôi. Tôi đã đổi mới phương pháp dạy học môn Hóa học gắn với STEM cụ thể vào chủ đề “Phản ứn hóa học” của lớp 8, để phát huy tính chủ động, sáng tạo, đưa môn học vào thực tế cuộc sống. 1.Cơ sở lí luận 1.1. STEM là gì? – STEM là viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật), Maths (Toán học). + Science (Khoa học): gồm các kiến thức về Vật lí, Hóa học ,Sinh học và Khoa học trái đất nhằm giúp học sinh hiểu về thề giới tự nhiên và vận dụng kiến thức đó để giải quyết các vấn đề khoa học trong cuộc sống hàng ngày. + Technology (Công nghệ) :phát triển khả năng sử dụng, quản lí, hiểu và đánh giá công nghệ của học sinh, tạo cơ hội để học sinh hiểu về công nghệ được phát triển như thế nào, ảnh hưởng của công nghệ mới tới cuộc sống. + Engineering ( Kĩ thuật): phát triển sự hiểu biết ở học sinh về cách công nghệ đang phát triển thông qua quá trình thiết kế kĩ thuật, tạo cơ hội để tích hợp kiến thức của nhiều môn học. Kĩ thuật cũng cung cấp cho học sinh những kĩ năng để vận dụng sáng tạo cơ sở Khoa học và Toán học trong quá trình thiết kế các đối tượng, các hệ thống hay xây dựng các qui trình sản xuất. + Maths ( Toán học): phát triển ở học sinh khả năng phân tích, truyền đạt ý tưởng một cách hiệu quả thông qua việc tính toán, giải thích, các giải pháp giải quyết các vấn đề toán học trong các tình huống đặt ra. 1.2.Giáo dục STEM là gì? Giáo dục STEM về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học . Các kiến thức và kĩ năng này phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau, giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lí mà còn 6 có thể thực hành tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hàng ngày. Giáo dục STEM sẽ thu hẹp khoảng cách giữa hàn lâm và thực tiễn. Giáo dục STEM không phải là để học sinh trở thành những nhà toán học , khoa học, kĩ sư hay những kĩ thuật viên mà là phát triển cho học sinh những kĩ năng có thể được sử dụng để làm việc và phát triển trong thế giới công nghệ hiện đại ngày nay. 1.3. Môn học STEM là gì ? STEM là môn học mà học sinh được học các kiến thức về khoa học, công nghệ,kĩ thuật và toán học một cách tích hợp. Thông thường các môn học STEM được thiết kế dưới dạng chủ đề và học sinh được học kiến thức tích hợp dựa trên chủ đề này. Ví dụ khi học một chủ đề về “ Phân bón hóa học” học sinh không chỉ được nghiên cứu công thức hóa học, tính chất vật lí, tác dụng và những lưu ý khi sử dụng từng loại phân bón hóa học ( Hóa học) mà còn biết được nhờ vào rễ cây có thể lấy được phân bón từ đất, phân bón ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển của cây trồng, phân bón góp phần cân bằng hệ sinh thái đất (Sinh học). Học sinh biết vận dụng kiến thức toán học để tính thành phần phần trăm các nguyên tố trong phân bón . Biết cách làm ra phân bón sạch, sử dụng phân bón trong trồng trọt một cách hợp lí và an toàn,dùng phân bón gì cho loại đất nào ( Công nghệ) đồng thời có ý thức bảo vệ môi trường và xử lí tình huống liên quan đến bảo vệ môi trường, sức khỏe con người ( Sinh học+ hóa học+ công nghệ ). 1.4. Những đặc điểm chính của phƣơng pháp dạy học STEM – Mục đích trọng tâm là giáo dục tri thức – Chủ đề đặt ra phải có tính thách thức và gây hứng thú cho người học, phải liên hệ đến những vấn đề mang tính thực tiễn. – Người học là trung tâm của quá trình hoạt động. – Hoạt động nhóm là hình thức hoạt động chủ yếu. – Có sản phẩm cụ thể, có giá trị thực tiễn. – Rèn luyện nhiều kĩ năng sống tích cực : kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tính toán, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin… 1.5. Mục đích của phƣơng pháp dạy học STEM – Tạo ra được sản phẩm 7 -Thực hành nghiên cứu – Giải quyết vấn đề 1.6.Vai trò, ý nghĩa của giáo dục STEM – Đảo bảo giáo dục toàn diện: giáo dục STEM ở nhà trường bên cạnh các môn học được quan tâm như Toán, Khoa học, các lĩnh vực Công nghệ, Kỹ thuật cúng được quan tâm, đầu tư trên tất cả các phương diện về đội ngũ giáo viên, chương trình, cơ sở vật chất. – Hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh: dạy học theo định hướng STEM học sinh được hợp tác với nhau,chủ động và tự lực thực hiện các nhiệm vụ học tập, làm quen hoạt động có tính chất nghiên cứu khoa học. – Nâng cao hứng thú học tập :Dạy học theo dự án STEM hướng tới việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn, học sinh được hoạt động trải nghiệm và thấy được ý nghĩa của tri thức với cuộc sống nhờ đó nâng cao hứng thú học tập của học sinh. – Hướng nghiệp , phân luồng: Dạy học theo dự àn STEM ở trường phổ thông học sinh sẽ được trải nghiệm trong các lĩnh vực STEM, đánh giá được sự phù hợp, năng khiếu , sở thích của bản thân với nghề nghiệp thuộc lĩnh vực STEM . 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục tiêu: – Đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Đổi mới phƣơng pháp dạy học gắn với STEM môn Hóa học trong chủ đề Phản ứng hóa học” đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh giá tình hình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn Hóa học nói riêng. Phân tích mục đích, vai trò và hiệu quả đổi mới phương pháp giảng dạy đối với môn Hóa học. – Qua nội dung đề tài này, chúng tôi mong muốn phát huy năng lực tự học, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức môn học vào thực tiến cuộc sống, thu hẹp khoảng cách giữa lí thuyết và thực hành từ đó phát triển kĩ năng giải quyết tình huống thực tế của học sinh. 8 – Quá trình thực hiện đề tài học sinh không chỉ biết tích hợp các kiến thức Hóa học, Toán học,Sinh học, Công nghệ mà còn có thể thực hành tạo ra được sản phẩm. Sản phẩm thu được từ đề tài được nhân rộng và sử dụng phổ biến trong mỗi gia đình. – Mỗi học sinh tham gia dự án trở thành chuyên gia sản xuất đồng thời trực tiếp hướng dẫn người thân, hàng xóm và cả người kinh doanh bán hàng tạo ra nhứng sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: – Tìm hiểu cơ sở lí luận của một số phương pháp giảng dạy. – Đưa ra một số phương pháp giảng dạy minh họa cho môn Hóa học theo hướng đổi mới. 2.3. Đối tƣợng nghiên cứu: – Học sinh lơp 8 trường THCS Hàn Thuyên-TP Nam Định . 2.4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu: – Trong sáng kiến này tôi đề cập đến cách thức tổ chức dạy học theo định hướng STEM ở chủ đề “ Phản ứng hóa học” môn Hóa học 8. – Sáng kiến này với mong muốn được hoàn thiện và mở rộng đối với một số tiết học khác không chỉ môn Hóa học lớp 8,9 trường THCS mà còn ở các môn khoa học khác. 2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu: – Đọc và nghiên cứu tài liệu – Dạy học theo hướng vận dụng giáo dục STEM trong bộ môn Hóa học – Các năng lực học sinh cần đạt được thông qua dạy học STEM – Quan sát ,thăm lớp, dự giờ, trao đổi với giáo viên và học sinh tại trường THCS Hàn Thuyên. – Khảo sát tình hình dạy học theo hướng vận dụng giáo dục STEM hiện nay – Các phương pháp thống kê Toàn học sử dụng trong nghiên cứu khoa học Hóa học – Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn 9 2.6. Thời gian thực hiện: – Năm học 2020-2021 2.7.Ý tưởng của đề tài – Như chúng ta đã biết thực phẩm là một trong những nguồn cung cấp chính cho sự sống con người. Thực phẩm không chỉ tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động mà còn cung cấp chất dinh dưỡng( đạm, đường, chất béo, vitamin và khoáng chât…) là những vi chất có lợi cho sự phát triển toàn diện về thể chất lẫn tinh thần. Hiện nay với tốc độ phát triển xã hội ngày càng cao, nhu cầu của con người càng nhiều, nguồn thực phẩm cũng vì thế mà đa dạng hơn về chủng loại và nguồn gốc. Không ít những trường hợp nguồn thực phẩm bị nhiễm bẩn, nhiễm độc nhưng vẫn được sử dụng để chế biến. Thậm chí người ta còn cố tình sử dụng hóa chất độc hại nhằm tăng lợi nhuận mà không để tâm đến hậu quả khôn lường. Trước thực tế đó,khi học sinh đã được học những kiến thức trong chủ đề này sẽ giúp mọi người chăm chỉ chế biến thức ăn tại nhà( sữa chua, rượu nếp…) nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để bảo vệ người dân khỏi một số nguy hiểm sức khỏe không mong muốn. 3. Mục tiêu cụ thể 3.1. Kiến thức – HS biết: + Phản ứng hóa học là quá trình làm biến đổi từ chất này thành chất khác + Bản chất của phản ứng là sự thay đổi liên kết giữa các nguyên tử, làm cho phân tử này biến đổi thành phân tử khác + Phản ứng hóa học xảy ra khi các chất tác dụng tiếp xúc vói nhau, có trường hợp cần đun nóng, có mặt chất xúc tác + Biết cách nhận biết phản ứng hóa học, dựa vào dấu hiệu có chất mới tạo ra có tính chất khác so với chất ban đầu. Biết nhiệt và ánh sáng cũng có thể là dấu hiệu của phản ứng hóa học. – HS vận dụng kiến thức của các môn học để tìm hiểu về 1 số phản ứng có lợi và có hại trong cuộc sống 10 + Vận dụng kiến thức Hóa học để viết đúng phương trình chữ của phản ứng hóa học. + Vận dụng kiến thức thực tế từ sách, báo, Internet: đề xuất giải pháp hạn chế những phản ứng có hại và ứng dụng phản ứng có lợi trong cuộc sống. – Qua việc tích hợp kiến thức liên môn trong dự án, học sinh có được những hiểu biết cơ bản về phản ứng hóa học để vận dụng vào thực tế cuộc sống như thế nào cho phù hợp và đem lại hiệu quả tốt nhất( qui trình làm sữa chua, cách sử dụng,và bảo quản sữa chua) 3.2. Kỹ năng – Rèn luyện kĩ năng quan sát tư duy logic và suy luận vấn đề,kĩ năng thực hành hóa học,làm việc với hóa chất,với dụng cụ thí nghiệm. – Quan sát được một số phản ứng cụ thể rút ra nhận xét về dấu hiệu của phản ứng hóa học. – Kĩ năng vận dụng các kiên thức đã học trong môn sinh học, công nghệ,…để giải thích về phản ứng hóa học và đề xuất giải pháp hạn chế những phản ứng có hại và ứng dụng phản ứng có lợi trong cuộc sống( qui trình làm sữa chua…) – Kĩ năng tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập. 3.3. Thái độ – Nghiêm túc, cẩn thận và an toàn trong tiến hành thực hành thí nghiệm, tích cực trong học tập, hợp tác nhóm – Có ý thức thực hiện tuyên truyền vận động mọi người biết hạn chế những phản ứng có hại và ứng dụng phản ứng có lợi trong cuộc sống. 3.4. Định hướng phát triển năng lực – Năng lực tự học – Năng lực giải quyết vấn đề – Năng lực giao tiếp – Năng lực hợp tác – Năng lực sử dụng ngôn ngữ hóa học – Năng lực thực hành hóa học – Năng lực sử dụng công nghệ thông tin 11 – Năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống 3.5. Về phẩm chất – Giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, yêu môi trường thiên nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên. – Sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. – Tự tin, tự chủ, có trách nhiệm trong công việc được giao. 4. Phƣơng pháp dạy học: – Phương pháp thảo luận nhóm – Phương pháp thực hành, trực quan – Phương pháp vấn đáp – Phương pháp giải quyết vấn đề – Phương pháp liên hệ thực tế và tự liên hệ – Phương pháp dùng phiếu học tập, bài tập thảo luận – Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy – Phương pháp vận dụng kiến thức liên môn. 5. Ý nghĩa của đề tài 5.1. Ý nghĩa của đề tài đối với thực tiễn dạy học – Qua việc dạy học theo đề tài này thì học sinh đã có tư duy, vận dụng được kiến thức của nhiều môn học khác nhau để giải quyết một số vấn đề thường gặp trong cuộc sống. – Với việc tổ chức dạy học đổi mới phương pháp theo định hướng STEM còn tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau, phát triển kĩ năng đánh giá và tự đánh giá. 5.2. Ý nghĩa của đề tài đối với thực tiễn đời sống – Học sinh có được những kiến thức để vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, chủ động tạo ra sản phẩm , sản phẩm thu được từ dự án được nhân rộng. – Biết cách ứng dụng phản ứng có lợi trong cuộc sống và cách bảo vệ đồ dùng ,thức ăn… do phản ứng có hại gây ra. – Rèn luyện các kỷ năng sống có trách nhiệm trong cộng đồng. 6. Thiết bị dạy học, học liệu 6.1. Thiết bị, đồ dùng dạy học 12 – Dụng cụ: Khay nhựa, ống nghiệm ,kẹp gỗ,bật lửa, đế sứ, ống hút,thìa lấy hóa chất, bếp ga( bếp từ),xoong,muôi cốc thủy tinh( cốc nhựa), máy ủ sữa chua, .- Hóa chất: + Zn, dd HCL,nến. + Sữa ông thọ, sữa tươi, nước, sữa chua cái để làm sữa chua. -Tranh vẽ: sơ đồ tượng trưng cho phản ứng giữa H2 và O2. 6.2. Học liệu sử dụng trong dạy học – Hóa học 8, nhà xuất bản giáo dục. – Sinh học 8, nhà xuất bản Giáo dục. – Hóa học cơ bản và nâng cao lớp 8. – Công nghệ 6. 6.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học – Sử dụng máy chụp ảnh. – Máy tính và máy chiếu. – Các phần mềm để dựng phim. – Mạng internet. 7. Tổ chức các hoạt động học tập Tôi đổi mới phương pháp dạy học gắn với STEM cụ thể vào chủ đề “ Phản ứng hóa học” Hóa lớp 8 nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh đồng thời đưa môn học vào thực tế cuộc sống . 7.1. Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh – Nghiên cứu kiến thức trọng tâm – Xây dựng qui trình làm sữa chua – Lập kế hoạch trình bày 7.2. Học sinh thực hiện theo nhóm – Tự đọc và nghiên cứu sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo,tìm kiếm thông tin trên Internet… – Đề xuất và thảo luận các ý tưởng ban đầu, thống nhất một phương án thiết kế tốt nhất – Xây dựng và hoàn thiện kế hoạch làm sữa chua – Lựa chọn hình thức và chuẩn bị nội dung báo cáo 13 7.3. Bộ câu hỏi * Câu hỏi khái quát : Sữa chua đem lại những lợi ích gì? * Câu hỏi bài học: – Sử dụng những nguyên liệu nào để làm sữa chua? Vì sao nhóm em lại lựa chọn những nguyên liệu đó? Tỉ lệ các nguyên liệu đó? – Tiến hành làm sữa chua theo qui trình nào? – Cách sử dụng và bảo quản sữa chua đó? – Giá thành của sữa chua này so với các loại sữa chua hiện có trên thị trường. 7.4. Tổ chức dạy học theo dự án STEM
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt đƣợc
* Tổ chức tình huống học tập Gv yêu cầu 1 HS lên làm bài tập ? Ghi lại phương trình chữ của PƯHH trong các hiện tượng sau: – Kẽm tác dụng với axit clohdric tạo thành kẽm clorua và khí hidro – Đường bị nhiệt phân hủy thành than và nước – Bari clorua tác dụng với natri sunfat tạo thành Bari sunfat và natri clorua. Gv nêu tình huống: ? Nếu không đun nóng đường thì phản ứng có xảy ra hay không. ? Khi đun nóng đường làm thế nào mà em biết được phản ứng đã xảy ra. GV: Chúng ta cùng đi tìm hiểu chủ đề Phản ứng hóa học (tiếp theo)
Hoạt động 1:Vận dụng kiến liên môn để tìm hiểu khi nào phản ứng hóa học xảy ra? Phương pháp: thực hành,trực quan,vận dụng kiến thức liên môn,liên hệ thực tế.
III.Khi nào phản ứng hóa học xảy ra?
14
Hình thức dạy học: Hoạt động nhóm – Giáo viên đưa nội dung cách tiến hành thí nghiệm. + TN1:Cho viên kẽm vào ống nghiệm và nhỏ 2-3 ml dd axit clohidric vào + TN2:Cho vụn kẽm vào ống nghiệm và nhỏ 2-3 ml dd axit clohdric vào + TN3:Để cây nến trong không khí + TN4: Đốt cháy cây nến trong không khí – Yêu cầu các nhóm làm thí nghiệm rồi ghi lại hiện tượng quan sát được vào phiếu học tập. Hình ảnh các nhóm học sinh làm thí nghiệm GV chọn một bảng nhóm bất kì dán lên bảng để cùng với HS hoàn thiện kiến thức. GV cho điểm các nhóm. Gv yêu cầu HS trả lời câu hỏi: ? Hiện tượng gì xảy ra trong TN1-2 nếu để riêng kẽm và axit clohidric? ? Tại sao trong TN2 khí thoát ra nhanh hơn trong TN1? ? Để phản ứng xaỷ ra nhất thiết cần điều kiện gì? ? Ở TN4 để cây nến cháy ta làm thế nào? ? Gv yêu cầu HS nhớ lại TN bài trước khi cho đường vào ống
– Các chất phản ứng phải tiếp xúc nhau. Bề mặt tiếp xúc càng lớn thì phản ứng xảy ra càng dễ.
15
nghiệm và đun nóng,hãy nêu hiện tượng? ? Điều kiện cần thiết để nến cháy và đường bị phân hủy thành than và nước? Vận dụng kiến thức thực tế và ứng dụng công nghệ thông tin:Giáo viên nhận báo cáo của các nhóm về qui trình làm sữa chua ở nhà và có quay video gửi qua mail cho giáo viên. Giáo viên lấy video đại diện 1 nhóm đã quay ở nhà về qui trình làm sữa chua chiếu cho cả lớp cùng theo dõi.
– Cần đun nóng đến một nhiệt độ thích hợp(tùy từng phản ứng). – Có những phản ứng cần có mặt của chất xúc .
16
Hình ảnh học sinh thực hiện qui trình làm sữa chua *Lợi ích của sữa chua: Sữa chua không chỉ là loại thức ăn số 1 dùng để giải nhiệt trong những ngày hè nóng bức mà còn là loại thực phẩm vừa coa lợi cho sức khỏe lại vừa có lợi ch làn da. Có rất nhiều công thức hướng dẫn về cách làm sữa chua nhìn chùn đều khá đơn giản nhưng nếu như không cẩn thận thì các bạn sẽ không thể nào thành công với món ăn này. * Cách làm sữa chua + Nguyên liệu, dụng cụ: 1 hộp sữa đặc có đường 1 lit sữa tươi có đường hoặc không đường 1 hũ sữa chua cái Hũ/ lọ đã tiệt trùng, xoong, bếp từ ( bếp ga), máy ủ( nồi cơm điện) + Qui trình làm sữa chua – Bước 1: Làm hỗn hợp sữa Cho sữa tươi và sữa đặc vào cùng trong xoong khuấy đều cho tan sữa. Đun hỗn hợp trên bếp cho đến khi sôi lăn tăn rồi tắt bếp, để hỗn hợp cho nguội bớt. – Bước 2: Làm sữa cái
17
Múc 1 cốc hỗn hợp sữa ấm, hòa cùng sữa cái khuấy đều Sau khi nồi sữa đã nguội bớt, đổ hỗn hợp sữa chua cái vaò khuấy đều tay. – Bước 3:Ủ sữa chua (Có nhiều cách ủ ta có thể dùng nồi cơm điện, máy chuyên dụng) + Ủ bằng nồi cơm điện:Đổ sữa chua còn đang ấm vào từng hũ hoặc lọ. Đổ nước nóng theo tỷ lệ 2 nóng ,1 nguội ngập 2/3 hũ hoặc lọ, đậy nắp nồi cơm điện lại và ủ trong khoảng 7-8 tiếng. + Ủ bằng máy chuyên dụng: đặt từng hũ vào vào máy ủ, bật chế độ ủ tùy chọn, nếu mùa hè ủ 4-6 tiếng, mùa đông ủ 5-8 tiếng. Ủ xong, sữa chua có độ sánh mịn và mùi thơm dễ chịu. – Bước 4: Bảo quản( làm lạnh sữa chua sau khi ủ): lấy sữa chua ra bảo quản trong ngăn mát hoặc trong ngăn đông tủ lạnh tùy thích. + Kết quả: Học sinh giới thiệu sản phẩm của nhóm mình cho các bạn và giáo viên cùng thưởng thức. Hình ảnh các nhóm học sinh thưởng thức sản phẩm sữa chua
18
Hình ảnh học sinh xin ý kiến của các thầy cô giáo dự giờ – Học sinh nhóm khác nêu các câu hỏi liên quan đến qui trình làm sữa chua để học sinh được tự vấn đáp, giải thích nhằm hiểu sâu hơn cơ chế tạo ra sản phẩm nhờ sự lên men của vi khuẩn lactic. ? Tại sao phải đun hỗn hợp sữa rồi để nguội? ? Hãy tính toán giá thành trên 1 hộp sữa chua thành phẩm ? Học sinh vận dụng kiến thức toán học: + 1 lit sữa tươi: 29 K + 1 lon sữa đặc: 21K Tổng chi 55K + 1 hũ sữa chua cái: 5K với nguyên liệu trên nhóm làm ra 16 hũ sữa chua thành phẩm vì vậy 1 hũ có giá thành 3,5K rẻ hơn so với các loại sữa chua khác mà lại đảm bảo an toàn thực phẩm. Giáo viên cho các nhóm đánh giá sản phẩm của nhóm bạn. Sau đó giáo viên đánh giá qui trình thực hiện dự án và đánh giá sản phẩm của nhóm. ? Quá trình chuyển hóa đường lactose trong sữa thành axit lactic và tạo thành sữa chua cần phải có chất gì để cho quá trình chuyển
19
hóa xảy ra nhanh hơn? ? Nếu không có hũ men phản ứng trên có xảy ra không? ? Lấy ví dụ trong thực tế cuộc sống PƯHH xảy ra cần có chất xúc tác Vận dụng kiến thức thực tế: Nêu cách làm rượu nếp , làm giấm Đại diện 1 nhóm trình bày cách làm rƣợu nếp Vận dụng kiến thức sinh học: Giải thích vì sao khi ta nhai cơm
20
lâu trong miệng thấy có cảm giác ngọt? Gv liên hệ thực tế: trong các nhà máy sản xuất phân đạm người ta thường dùng sắt làm chất xúc tác để đẩy nhanh PƯHH xảy ra giữa nito và hidro để tạo ra amoniac. Vận dụng kiến thức sinh học: GV đưa hình ảnh quang hợp của cây xanh yêu cầu nhắc lại khái niệm quang hợp…..> PƯ xảy ra có ích cho con người: không khí được trong lành do chất có hại được giảm đi, chất cần thiết cho sự hô hấp tăng lên. Vận dụng kiến thức liên hệ thực tế: Nêu những PƯ có hại mà em biết ?(cháy rừng, khí nổ trog các hầm mỏ, kim loại bị gỉ, TĂ bị ôi thiu..)…> Để phòng tránh sự han gỉ của kim loại ta làm thế nào? Qua hoạt động 1, GV đã hình thành và phát triển các năng lực sau cho HS:năng lực thực hành, hợp tác, giao tiếp, vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống. Hoạt động 2:Vận dụng kiến thức liên môn kết hợp kiến thức thực tế tìm hiểu cách nhận biết có phản ứng hóa học xảy ra? Phương pháp: Thực hành,trực quan,liên hệ thực tế. Hình thức dạy học: Hoạt động nhóm,cá nhân.
V.Làm thế nào nhận biết có phản ứng hóa học xảy ra?
21
Vận dụng kiến thức vật lí: Cho biết trạng thái của các chất trước và sau phản ứng ở TN1,2? Gv yêu cầu HS dựa vào TN1,2…> Cho biết dấu hiệu nào để nhận biết có PƯHH xảy ra? ? Chất mới được tạo ra có tính chất khác với chất phản ứng mà ta dễ nhận ra là gì? Vận dụng kiến thức vật lí: cho biết màu sắc của đường trước phản ứng và màu sắc của chất sau phản ứng? ? Khi đun nóng đường dựa vào dấu hiệu nào để nhận biết có PƯHH xảy ra? – GV yêu cầu 1 HS lên làm TN: Nhỏ vài giọt dd Bari clorua vào ống nghiệm có sẵn 1 ml dd natri sunfat. ? Quan sát- nhận xét hiện tượng? ? Hiện tượng trên chứng tỏ điều gì? ? Ở TN này chất kết tủa xuất hiện có tính chất khác với chất phản ứng là gì? ? Dấu hiệu để nhận biết có PƯHH xảy ra? ? Ở TN 4 dựa vào dấu hiệu nào để nhận biết khi đốt nến là có PƯHH xảy ra? Gv chốt kiến thức. Gv yêu cầu 1 HS làm TN của bài tập 5 trong SGK: Bỏ quả trứng vào dd axit clohidric thấy sủi bọt ở vỏ quả trứng. Biết rằng axit clohidric đã tác dụng với canxi cacbonat tạo ra canxi clorua, nước và khí cacbonic thoát ra. Hãy chỉ ra dấu hiệu để nhận biết có phản ứng xảy ra. Ghi lại phương trình chữ của phản ứng. Hs quan sát bạn làm TN để hoàn thành bài tập. Qua hoạt động 2: GV đã hình thành và phát triển các năng lực sau cho HS:năng lực thực hành, hợp tác, giao tiếp.
– Dựa vào dấu hiệu có chất mới tạo thành, có tính chất khác với chất phản ứng: màu sắc, trạng thái, tính tan – Ngoài ra sự tỏa nhiệt và phát sáng cũng có thể là dấu hiệu có PƯHH xảy ra.
Hoạt động 3: Vận dụng kiến thức thực tế từ internet,đài ,báo và kiến thức sinh học ,công nghệ… tìm hiểu một số phản ứng hóa học có lợi và có hại trong đời sống Phương pháp: vấn đáp – thuyết trình, thu thập và xử lí thông tin
22
Hình thức dạy học: Hoạt động cá nhân và nhóm Qua hình ảnh quan sát, – GV dùng phương pháp vấn đáp trao đổi kiến thức thực tế một số phản ứng có hại,có ích trong cuộc sống. ? Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ taọ thành gỉ sắt và dần dần đồ vật không dùng được. – Trong không khí có khí oxi,hơi nước và các chất khác. Do tác dụng nhiệt độ cao của ánh nắng mặt trời,hơi nước,oxi và nước mưa có phản ứng với sắt tạo thành một số hợp chất của sắt gọi là gỉ sắt. Gỉ sắt không còn tính cứng, ánh kim, dẻo của sắt mà xốp, giòn nên làm đồ vật bị hỏng. ? Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt,nước như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của con người? – Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxihidroxit. Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả những hạt Ca(OH)2 rất nhiều tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt độ hố vôi cao do đó ta cần tránh xa hố vôi để tránh gây nguy hiểm đến tính mạng. ? Tại sao khi quét vôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại? – Vôi là canxi hidroxit là chất ít tan trong nước nên khi cho nước vào tạo thành dung dịch trắng đục, khi quét lên tường thì Ca(OH)2 nhanh chóng khô và cứng lại vì tác dụng với cacbon điôxit trong không khí tạo ra canxi cacbonat .
23
? Tại sao thức ăn để lâu ngày bị ôi thiu? – Thức ăn của con người là nguồn chất hữu cơ cũng là nguồn thức ăn của các vi sinh vật. Trong không khí có sẵn rất nhiều vi sinh vật( vi khuẩn, nấm). Nếu để thức ăn bên ngoài ở điều kiện bình thường, các vi sinh vật sẽ xâm nhập và phân hủy thức ăn tạo thành các chất đơn giản và có thải ra các khí H2S, CH4…. gây mùi hôi, thối. ? Vì sao khi đun bếp than trong phòng kín thường gây ra hiện tượng ngạt thở? – Do trong phòng kín nên không khí khó lưu thông với bên ngoài, thậm chí không lưu thông với bên ngoài. Khi đun bếp than thì lượng oxi đã tham gia vào phản ứng cháy đồng thời tạo ra các khí cacbon oxit và cacbon dioxit.Hàm lượng oxi giảm đi, lượng cacbon oxit và cacbon dioxit tăng. Huyết sắc tố (Hb) kết hợp với cacbon oxit tạo ra một hợp chất bền(HbCO2) có âm phân tách do đó máu thiếu Hb tự do chuyên vận chuyển oxi dẫn đến cơ thể bị thiếu oxi nên ngạt thở. ? Vì sao quá trình quang hợp của cây xanh có vai trò quyết định đối với sự sống trên trái đất? – Quá trình quang hợp của thực vật giúp cân bằng khí oxi và cacbonic trong không khí, cung cấp oxi cho con người và các sinh vật khác và quá trình hô hấp của cây xanh. Là nguồn khởi nguyên cung cấp thức ăn, năng lượng cho mọi sự sống trên trái đất và là nguồn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, dược liệu cho con người. ? Ông bà ta xưa nay luôn nhắc nhở con cháu câu: “nhai kĩ no lâu” . Tại sao khi ăn cơm nhai kĩ sẽ thấy vị ngọt và no lâu? – Cơm chứa 1 lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các men . Khi nhai kĩ cơm trong nước bọt sẽ xảy ra sự thủy phân 1 phần tinh bột thành mantozo và glucozo nên có vị ngọt. Qua hoạt động 3: GV đã hình thành và phát triển các năng lực sau cho HS:năng lực hợp tác, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông Hoạt động 4: Vận dụng kiến thức thực tế từ báo, đài, Internet và kiến thức sinh học, công nghệ… giáo dục HS ý thức biết ứng dụng phản ứng có lợi trong cuộc sống và cách bảo vệ đồ dùng ,thức ăn… do phản ứng có hại gây ra. Phương pháp: thực hành, thu thập và xử lý thông tin
24
Hình thức dạy học: Hoạt động cá nhân và nhóm GV: Bằng hiểu biết cá nhân về ảnh hưởng của phản ứng hóa học đối với cuộc sống của chúng ta, các em có những việc làm thiết thực gì góp phần hạn chế phản ứng có hại và vận dụng phản ứng có lợi trong cuộc sống? HS nhóm 1: Trồng cây quanh khu nhà ở và trong nhà trƣờng để không khí trong lành do chất có hại đƣợc giảm đi, chất cần thiết cho sự hô hấp tăng lên giảm thiểu ô nhiễm môi trƣờng. Hình ảnh HS trƣờng Hàn Thuyên trồng cây để không khí trong lành – Qua tìm hiểu các đồ dùng bằng kim loại xung quanh ta hay bị gỉ không dùng được và thức ăn để lâu ngày hay bị ôi thiu. Học sinh nhóm 2 nêu cách bảo vệ đồ vật bằng kim loai không bị gỉ và cách bảo quản thực phẩm hàng ngày tránh ôi thiu. * Cách bảo vệ đồ vật bằng kim loại không bị gỉ – Để đồ vật ở khô ráo, thường xuyên lau chùi sạch sẽ sau khi sử dụng như dao, kéo…, rửa sạch sẽ dụng cụ lao động và tra dầu mỡ sẽ làm cho kim loại bị ăn mòn chậm hơn.. – Sơn, mạ, bôi dầu mỡ… lên bề mặt kim loại. Các chất này bền, bám chắc vào bề mặt kim loại, ngăn không cho kim loại tiếp xúc với môi trường.
25
* Cách bảo quản thực phẩm hàng ngày tránh ôi thiu Bảo quản thực phẩm là quá trình xử lý thức ăn nhằm ngăn chặn hoặc làm chậm việc thức ăn bị hư hỏng nhờ đó thực phẩm giữ được lâu hơn. Có các cách bảo quản: – Phơi khô hoặc sấy khô: là phương pháp bảo quản cổ xưa nhất. Nó làm giảm hoạt độ nước đủ để ngăn chặn hoặc trì hoãn sự phát triển của vi khuẩn.( sấy khô bằng phơi nóng,sấy khô bằng luồng không khí nóng 90-1500C….). – Làm lạnh: Giúp bảo quản thức ăn bằng cách làn chậm sự phát triển và sinh sôi của vi sinh vật cũng như các phản ứng của enzim gây thối rữa thực phẩm. – Làm đông: Là phương pháp bảo quản thực phẩm bằng cách hạ nhiệt độ nhằm biến nước trong thực phẩm thành đá do đó ngăn cản sự phát triển của vi sinh vật dẫn đến sự phân hủy của thực phẩm diễn ra chậm. – Ướp muối: Là phương pháp bảo quản và chế biến thức ăn bằng cách trộn chúng với muối
26
ăn nhờ vào khả năng ức chế vi sinh vật gây thối của muối ăn. Muối ăn cũng có tác dụng làm giảm các ảnh hưởng của các enzim gây hư hỏng. – Ngoài ra còn có các cách bảo quản khác: muối chua, đóng hộp….
27
Từ cách bảo quản thực phẩm do nhóm 2 vừa nêu giáo viên vận dụng kiến thức văn học nêu tình huống:Tục ngữ có câu: “ Cá không ăn muối cá ươn Con cãi cha mẹ trăm đường con hư” Em hãy giải thích câu tục ngữ trên? – Trước hết ta hiểu cá khi ươn là do sự phân hủy của protein xảy ra dưới sự hoạt động và tác động trực tiếp của các loài vi sinh vật do đó để cá không ươn buộc những vi sinh vật ấy phải không còn tồn tại.Ta đã biết muối từ lâu là 1 loại nguyên liệu có tính sát trùng cao vì vậy nếu dùng muối để ướp cá thì cá sẽ tươi lâu hơn, các vi sinh vật có hại chết đi, thịt cá sẽ săn chắc, khi chế biến thành món ăn hương vị sẽ đậm đà. Bằng cách so sánh hiện tượng cá bị ươn khi không được ướp muối, câu tục ngữ còn khẳng định con cái không nghe lời dạy bảo của cha mẹ sẽ hư hỏng, không trở thành người tốt. – HS nhóm 3 tuyên truyền mọi người cần đun than ở nơi thoáng gió tuyệt đối không dùng bếp than để sưởi và ủ bếp trong phòng kín.
28
– Hs nhóm 4 hướng dẫn mọi người qui trình làm sữa chua để đảm bảo an toàn thực phẩm Hình ảnh HS trường Hàn Thuyên hướng dẫn người thân qui trình làm sữa chua
29
Hình ảnh HS trường Hàn Thuyên tuyên truyền cho người dân sống xung quanh qui trình làm sữa chua Hình ảnh HS trường Hàn Thuyên tuyên truyền cho các bạn học trường khác qui trình làm sữa chua
30
Hình ảnh HS cùng mọi ngƣời thƣởng thức sản phẩm sữa chua Qua hoạt động 4, GV đã hình thành và phát triển các năng lực sau cho HS: năng lực tự học, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống. Mọi thứ xung quanh chúng ta luôn không ngừng biến đổi. Các vật chất cũ tương tác với nhau hình thành nên vật chất mới gọi là phản ứng hóa học. Những phản ứng hóa học này tồn tại xung quanh chúng ta,hàng ngày hàng giờ thậm chí trong từng phút từng giây ở bất cứ nơi nào ngay cả trong cơ thể chúng ta tạo ra những sản phẩm hóa học khác nhau . Bài tập vận dụng: Câu 1: Điền đầy đủ các từ hoặc cụm từ thích hợp vào chỗ trống trong câu sau: “…………là quá trình làm biến đổi chất này thành chất khác. Chất biến đổi trong phản ứng gọi là……….., còn………….mới sinh ra là……….. Trong quá trình phản ứng……..giảm dần,………….tăng dần” Câu 2: Khi than cháy trong không khí xảy ra phản ứng hoá học giữa than và khí oxi. a)Hãy giải thích vì sao cần đập vừa nhỏ than trước khi đưa vào bếp lò sau đó dùng que lửa châm rồi quạt mạnh đến khi than bén cháy thì thôi. b)Ghi lại phương trình chữ của phản ứng, biết rằng sản phẩm là khí cácbonđiôxit. c) Giải tích vì sao than chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy? Câu 3: Tại sao dùng đồ dùng bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
31
HS các nhóm thảo luận trả lời câu hỏi, tự đánh giá và cho điểm giữa các nhóm dưới sự uốn nắn của GV Đáp án Câu Đáp án Điểm1 Các từ và cụm từ cấn điền: Phản ứng hóa học,chất phản ứng,chất,sản phẩm,lượng chất phản ứng,lượng sản phẩm3,0 đ2 a.- Đập vừa nhỏ than để tăng bề mặt tiếp xúc của than với khí oxi. – Dùng que lửa châm để nâng nhiệt độ của than. – Quạt mạnh để thêm đủ khí oxi. Khi than bén cháy là đã có PƯHH xáy ra. b. -Phương trình chữ Than + Khí oxi -> Khí cacbon đioxit c. -Do than tác dụng với oxi trong không khí tạo ra khí cacbonic, phản ứng này tỏa nhiệt. – Nếu than chất thành đống lớn phản ứng này diễn ra nhiều nhiệt tỏa ra được tích góp dần khi đạt tới nhiệt độ cháy của than thì than sẽ tự bốc cháy.1,5đ 1đ 1đ 1đ3- Khi bạc gặp nước sẽ có 1 lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion. – Ion bạc có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lit nước cũng đủ diệt các vi khuẩn nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi.1 đ 1,,5đ*. Tiêu chí đánh giá kết quả học tập của học sinh – Học sinh làm bài kiểm tra mức độ đạt trên 65% khá giỏi, tức là học sinh đã nắm được những kiến thức cơ bản – Vận dụng được kiến thức của nhiều môn học khác nhau để giải quyết những vấn đề thực tiễn đời sống
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến Nghị quyết 29 – NQ/TW hội nghị lần thứ VIII ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích năng lực tự học, sáng tạo của học sinh…Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Đây chính là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết của ngành Giáo dục và đào tạo nói chung, các nhà trường phổ thông nói riêng. Nói cách khác, mục tiêu dạy học hiện nay trong nhà trường là phát huy được phẩm chất, năng lực của người học, giúp học sinh vận dụng có hiệu quả các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Và việc dạy môn sinh học trong nhà trường cũng không nằm ngoài định hướng đó. Môn sinh học trong nhà trường là môn học có sứ mệnh đặc biệt. Đây là môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh năng lực, kiến thức sinh học, năng lực tìm tòi, khám phá thế giới sống, năng lực vận dụng, ứng dụng kiến thức sinh học, những tiến bộ trong công nghệ sinh học vào thực tiễn cuộc sống. Khi dạy học môn sinh học, giáo viên không chỉ giúp học sinh hiểu được kiến thức sinh học mà quan trọng hơn là giúp các em nhận thức được kiến thức đó có vai trò quan trọng như thế nào với bản thân, với cộng đồng, xã hội. Để rồi từ việc chiếm lĩnh kiến thức sinh học đó học sinh biết vận dụng vào cuộc sống, vào thực tiễn của bản thân, của mọi người, của cộng đồng. Một trong nhiều kiến thức quan trọng mà giáo viên cần giáo dục cho học sinh là kiến thức sinh sản. Kiến thức sinh sản là kiến thức vô cùng quan trọng và cần thiết đối với tất cả mọi người trong đời sống.Kiến thức đó được giáo dục ở mọi lứa tuổi theo từng giai đoạn phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý của con người. Giáo dục kiến thức sinh sản đang là thách thức lớn, là vấn đề nóng bỏng đối với nhóm dân số đặc thù: Vị thành niên, bởi đây là nguồn nhân lực đặc biệt quan trọng, nguồn nhân lực kế cận trong xã hội. Nếu không có kiến thức về sức khỏe sinh sản thì trẻ vị thành niên sẽ có những hành vi lệch lạc so với chuẩn mực văn hóa, thậm chí vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tương lai giống nòi. Vì thế giáo dục sức khỏe sinh sản cho trẻ vị thành niên nói chung, học sinh nói riêng cần có sự chung tay của mỗi gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Muốn thực hiện được điều đó thì việc phổ biến các kiến thức chuyên môn về cơ thể học, sinh lí học, tâm lí học và các quan điểm về đời sống tình dục phải được trình bày một cách công khai, và kết hợp một cách nhuần nhuyễn, chuẩn mực, hài hòa. Như vậy: Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản hiện nay đã trở thành một nhu cầu cấp bách của xã hội. Nhưng trong nhà trường hiện nay việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản chỉ dừng ở mức lồng ghép vào một số tiết cuả một số môn học, chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho học sinh những thông tin cơ bản về đặc điểm các cơ quan sinh dục, các biện pháp tình dục an toàn để tránh có thai ngoài ý muốn và tránh các bệnh lây qua đường sinh dục. Còn ngoài xã hội, các cơ sở tôn giáo, trong các câu lạc bộ hôn nhân và gia đình chỉ đề cập một cách chung chung, chưa giám trình bày một cách rõ ràng, khoa học. Theo tôi đó không phải là giáo dục kiến thức sinh sản một cách đích thực. Muốn giáo dục kiến thức sinh sản một cách đích thực thì bản thân người dạy và người học phải có nhu cầu tìm hiểu và mong muốn. Vì thế, trong các môn học trong trường trung học cơ sở môn sinh học lớp 8 là môn học được xây dựng dạy cho học sinh kiến thức về sinh sản. Về cơ bản, phần kiến thức này trong môn sinh học lớp 8 có thể giúp các em có hiểu biết về sự phát triển cơ thể đồng thời có ý thức vệ sinh bảo vệ cơ thể, sống lành mạnh, có phẩm chất đạo đức cao đẹp, có kĩ năng sống tốt đẹp. Tuy nhiên, trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách quan ( do những yêu cầu mới của xã hội), có nguyên nhân chủ quan (do nhận thức, quan niệm còn lệch lạc) việc dạy và việc học môn sinh học ở các cấp học hiện nay, đặc biệt là cấp THCS còn gặp nhiều khó khăn, việc giáo dục giới tính và kiến thức sinh sản ở cấp này cũng còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục ? Hơn nữa vấn đề giới tính, vấn đề về sức khỏe sinh sảnvẫn được coi là vấn đề “nhạy cảm”, “khó nói” của nhiều học sinh. Nhiều em thu mình lại, né tránh. Một số em lại học để làm theo người khác mà không biết đúng hay sai. Các em cũng không dám tâm sự những băn khoăn, thắc mắc của mình với ai. Một phần vì e dè, ngại ngùng, phần khác các em cũng khó khăn trong tìm được người tin cậy để chia sẻ… Vậy làm thế nào để giáo dục cho học sinh kiến thức sinh sản đạt hiệu quả ? Làm thế nào giúp các em hiểu, vận dụng đúng đắn kiến thức sinh sản đã được học vào trong đời sống mà phát huy được tốt nhất phẩm chất và năng lực của mỗi cá nhân ? Làm thế nào để các em tự tin chia sẻ những hiểu biết của mình về sức khỏe sinh sản vừa để giúp bảo vệ bản thân, vừa giúp cho bạn bè cùng trang lứa tránh khỏi những nguy hại với bản thân ? Đó là câu hỏi cần phải có lời giải đáp, cũng là những trăn trở của tôi trong nhiều năm qua khi dạy môn sinh học tại trường THCS Thịnh Long. Từ những lý do trên tôi đã đầu tư thời gian nghiên cứu và có sáng kiến: “Giáo dục kiến thức sinh sản theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh lớp 8 ở trường THCS”. II. Mô tả giải pháp 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Trước khi có sáng kiến tôi đã đi sâu nghiên cứu thực trạng về vấn đề giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh THCS nói chung, học sinh lớp 8 ở trường THCS nói riêng. Theo tổ chức Y tế thế giới WHO: Sức khỏe sinh sản là trạng thái khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và hòa hợp xã hội về tất cả các phương diện liên quan đến hệ thống sinh sản trong các giai đoạn của cuộc đời. Sức khỏe sinh sản là vấn đề mà tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm và coi trọng. Với nhiều quốc gia phát triển, đặc biệt là các nước phương Tây, họ có quan niệm phóng khoáng về tình yêu, về quan hệ tình dục… cả hai phía nam và nữ đều chủ động trong mối quan hệ của mình. Vì vậy, bản thân họ có kiến thức đầy đủ, sâu sắc hơn, có kĩ năng cần thiết để bảo vệ bản thân và sức khỏe sinh sản cá nhân. Ở các nước Phương Đông và ở Việt Nam quan niệm về tình yêu, về quan hệ tình dục có điểm khác biệt: Tình yêu là cơ sở quan trọng của hôn nhân, hôn nhân là kết quả của tình yêu, còn tình dục là sản phẩm của tình yêu. Quan hệ tình dục khi yêu và trước hôn nhân bị coi là hành động sai trái…Vì vậy nói đến sức khỏe sinh sản, tình dục họ thường dè dặt, thiếu tự tin nên dẫn tới thiếu kiến thức, thiếu kĩ năng để bảo vệ bản thân. Thực tiễn cho thấy: Thanh niên Việt Nam lập gia đình ở độ tuổi muộn hơn và gia tăng quan hệ tình dục trước hôn nhân. Tỷ lệ lây nhiễm qua đường tình dục tăng lên 10 lần trong thập kỷ qua. Thách thức lớn nhất trong vấn đề sức khỏe sinh sản chính là việc nạo phá thai, vấn đề mang thai ngoài ý muốn ở độ tuổi vị thành niên, trong đó có học sinh THCS. Vị thành niên Việt Nam, trong đó nhóm dân số từ 10-14 tuổi theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới chiếm khoảng 22% dân số. Đây là độ tuổi của học sinh đang học tại các trường THCS. Mặc dù đã nỗ lực tuyên truyền giáo dục song tình trạng quan hệ sớm, xâm hại tình dục, quan hệ tình dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và phá thai không an toàn, nguy cơ lây nhiễm bệnh tình dục, nhiễm HIV nhóm dân số này đang có xu hướng tăng. Chính vì thế đã từ rất lâu, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm tuyên truyền giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên. Đảng ta đã xác định: Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên vì tương lai giống nòi. Đây chính là chủ đề của tháng hành động quốc gia về dân số và ngày dân số Việt Nam năm 2018 được Bộ Y tế phát động.Vấn đề sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên cũng được Bộ Y tế xác định là nội dung ưu tiên trong chiến lược dân số- sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020.Bởi vì vị thành niênlà yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực và tương lai của giống nòi. Việc dạy kiến thức sinh sản cho nhóm dân số nói trên cũng được Bộ Giáo Dục quan tâm chỉ đạo trong các nhà trường, từ việc chỉ đạo dạy kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản trong chương trình dạy học bắt buộc của môn sinh học đến việc tích hợp trong các môn học khác như: môn Giáo dục thể chất, Giáo dục công dân… đến chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp…Tuy nhiên khi triển khai dạy học một số nhà trường chưa quan tâm một cách đúng mực, giáo viên còn lúng túng trong lựa chọn phương pháp giảng dạy, việc dạy lồng ghép và ngoại khóa nhiều khi cũng mang tính hình thức. Việc triển khai dạy học còn mang nặng tính lý thuyết hàn lâm.Bởi vậy hiệu quả giáo dục kiến thức sinh sản còn rất nhiều hạn chế. Qua 10 năm công tác và giảng daỵ môn sinh học lớp 8 tại trường trung học cơ sở Thịnh Long tôi nhận thấy rằng: Trường THCS Thịnh Long có truyền thống dạy tốt, học tốt. Đội ngũ giáo viên trong nhà trường có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình trách nhiệm trong công tác. Cơ sở vật chất nhà trường khá đầy đủ và đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học các môn học, đặc biệt là các môn có thời gian thực hành cao và được bố trí dạy học tại phòng bộ môn như môn sinh học. Bản thân tôi và các giáo viên dạy bộ môn sinh học luôn có ý thức tự giác, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng giảng dạy có tinh thần trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy vậy kết quả dạy và học bộ môn đôi lúc còn hạn chế.Việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh cũng đạt hiệu quả chưa cao. Học sinh trường THCS Thịnh Long phần lớn đều ngoan, có ý thức học tập tốt. Học sinh lớp 8 của nhà trường đang trong độ tuổi 13-14, tuổi vị thành niên, đang bước vào tuổi dậy thì có sự thay đổi về cơ thể, tâm lý, sinh lí. Nhiều học sinh dậy thì sớm, thể chất phát triển, chiều cao trung bình của học sinh khối 8 nhà trường nữ là 158 cm; nam 160cm; cân nặng trung bình: nữ là 49 kg, nam là 53 kg nhưng lại chưa có đầy đủ kiến thức về sự phát triển thể chất của bản thân, nhất là vấn đề sức khỏe sinh sản, thậm chí có thể nói là còn thiếu kiến thức. Để nghiên cứu của mình mang tính thực tiễn, tôi tiến hành các khảo sát lấy ý kiến của giáo viên và học sinh. Dưới đây là một vài khảo sát về kiến thức giới tính và kiến thức sinh sản, về nhận thức và kĩ năng ứng phó của các em học sinh trường THCS Thịnh Long. PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 1(Phiếu khảo sát dành cho học sinh) – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu hiểu biết của học sinh về tuổi dậy thì, về sự phát triển thể chất của bản thân – Đối tượng khảo sát: Học sinh khối 8 trường THCS Thịnh Long – Số lượng khảo sát: 240 học sinh – Thời gian khảo sát: Tháng 9 năm học 2019- 2020 – Phương pháp khảo sát + Phương pháp quan sát khoa học: Thu nhận thông tin về học sinh bằng tri giác trực tiếp và các nhân tố khác có liên quan đến học sinh. Trên cơ sở đó để xây dựng lý thuyết và kiểm tra lý luận bằng thực tiễn. + Phương pháp điều tra bảng hỏi:Tham khảo tài liệu, từ đó xây dựng bảng hỏi để điều tra thực trạng hiểu biết về kiến thức sinh sản. + Phương pháp xử lý số liệu, phân tích, tổng hợp: Thông qua những số liệu thu thập được cùng với các kết quả đánh giá, đưa ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn, tìm được nguyên nhân, nghiên cứu giải pháp thực tiễn áp dụng để tìm ra giải pháp thích hợp. – Thang đo: tính tỉ lệ % theo số lượng khảo sát Phiếu khảo sát dành cho học sinh nữ Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến ( Biết/ không biết) để thể hiện sự hiểu biết của bản thân về tuổi dậy thì.
TT
Những thay đổi về thể chất ở tuổi dậy thì
Ý kiến
Biết
Không biết
1
Thay đổi về chiều cao, cân nặng
2
Tuyến vú phát triển( Ngực to ra)
3
Khung chậu phát triển (Mông to ra)
4
Đùi thon
5
Bộ phận sinh dục phát triển ( Âm hộ, âm đạo to ra…)
6
Có kinh nguyệt
Phiếu khảo sát dành cho học sinh nam Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến ( Biết/ không biết) để thể hiện sự hiểu biết của bản thân về tuổi dậy thì.
TT
Những thay đổi về thể chất ở tuổi dậy thì
Ý kiến (%)
Biết
Không biết
1
Thay đổi về chiều cao, cân nặng
2
Lông mu
3
Giọng nói thay đổi
4
Tuyến bã, tuyến mồ hôi phát triển
5
Ngực và hai vai phát triển
6
Các cơ rắn chắc
7
Lông trên cơ thể phát triển
8
Dương vật và tinh hoàn phát triển
9
Bắt đầu xuất tinh
Kết quả đạt được như sau: – Kết quả khảo sát ý kiến đối với học sinh nữ ( Tính theo tỉ lệ %)
TT
Những thay đổi về thể chất ở tuổi dậy thì
Ý kiến (%)
Biết
Không biết
1
Thay đổi về chiều cao, cân nặng
95
5
2
Tuyến vú phát triển( Ngực to ra)
90
10
3
Khung chậu phát triển (Mông to ra)
80
20
4
Đùi thon
55
45
5
Bộ phận sinh dục phát triển ( Âm hộ, âm đạo to ra…)
65
35
6
Có kinh nguyệt
95
5
Kết quả khảo sát hiểu biết của học sinh nam ( Tính theo tỉ lệ %)
TT
Những thay đổi về thể chất ở tuổi dậy thì
Ý kiến (%)
Biết
Không biết
1
Thay đổi về chiều cao, cân nặng
95
5
2
Lông mu
85
15
3
Giọng nói thay đổi
80
20
4
Tuyến bã, tuyến mồ hôi phát triển
73
27
5
Ngực và hai vai phát triển
71
29
6
Các cơ rắn chắc
63
37
7
Lông trên cơ thể phát triển
62
38
8
Dương vật và tinh hoàn phát triển
63,5
36,5
9
Bắt đầu xuất tinh
22
78
Như vậy có thể nhận thấy: Đa số học sinh biết được những thay đổi về thể chất, rõ nhất là “thay đổi về chiều cao và cân nặng” với tỷ lệ 95 % đối với cả học sinh nam và học sinh nữ. Tuy nhiên do đặc điểm về giới nên học sinh nam quan tâm đến sự thay đổi về chất thấp hơn học sinh nữ. Học sinh nam nhận ra dấu hiệu “ Bắt đầu xuất tinhcó tỉ lệ hiểu biết thấp chỉ chiếm 22 % . PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 2 (Phiếu khảo sát dành cho học sinh) Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến (có/ không) để thể hiện sự hiểu biết của bản thân về sự thay đổi tâm lý, sinh lý ở tuổi dậy thì.
TT
Những thay đổi về tâm lý, sinh lý ở tuổi dậy thì
Ý kiến
Có
Không
1
Cố gắng làm được những điều mình mong muốn
2
Thường đặt ra câu hỏi: Tôi là ai ? Tôi có thể làm gì ?
3
Cảm thấy mình không còn là trẻ con
4
Muốn được đối xử như người lớn
5
Muốn thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, thầy cô
6
Có tình cảm với người khác giới
Kết quả thu được sau khảo sát về hiểu biết của học sinh về sự thay đổi tâm sinh lý của bản thân ( Tính theo tỷ lệ %)
TT
Những thay đổi về tâm lý, sinh lý ở tuổi dậy thì
Ý kiến (%)
Có
Không
1
Cố gắng làm được những điều mình mong muốn
65
35
2
Thường đặt ra câu hỏi: Tôi là ai ? Tôi có thể làm gì ?
42
58
3
Cảm thấy mình không còn là trẻ con
85
15
4
Muốn được đối xử như người lớn
85
15
5
Muốn thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, thầy cô
87
13
6
Có tình cảm với người khác giới
87
13
Từ bảng kết quả trên ta cũng thấy được phần lớn học sinh biết được cùng với sự thay đổi về thể chất là sự thay sinh lí và tâm lí khi bước vào tuổi dậy thì.85% học sinh cho rằng mình không còn là trẻ con, muốn mình được đối xử như người lớn. 87 % học sinh muốn tìm sự tự do cho bản thân mà không có sự ràng buộc của người lớn. Cũng 87 % học sinh được hỏi ý kiến có tình cảm với người khác giới, nhiều học sinh ngộ nhận đó là tình yêu. Tóm lại, học sinh có sự thay đổi lớn về tâm lý và sinh lý. PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 3(Phiếu khảo sát dành cho học sinh) Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến (Nên/ không nên) để thể hiện nhận thức của bản thân về tình yêu và sức khỏe sinh sản.
TT
Hành vi
Ý kiến
Nên
Không nên
1
Yêu ở độ tuổi vị thành niên
2
Quan hệ tình dục khi yêu
3
Mang thai ở tuổi vị thành niên
Kết quả đạt được (Tính theo tỷ lệ %)
TT
Hành vi
Ý kiến (%)
Nên
Không nên
1
Yêu ở độ tuổi vị thành niên
85
15
2
Quan hệ tình dục khi yêu
55
45
3
Mang thai ở tuổi vị thành niên
20
80
Trong 240 học sinh được khảo sát ý kiến cho thấy: Khi muốn làm người lớn học sinh cũng có mong muốn yêu ở tuổi vị thành niên với tỷ lệ cao là 85 %. 55% cho rằng nên quan hệ tình dục khi yêu ở tuổi vị thành niên mà đáng lẽ ra phải nhận thức được là không nên. Vẫn còn 20 % cho là mang thai ở tuổi vị thành niên là không sao mà không hiểu hết được tác hại của việc đó. Từ kết quả khảo sát về nhận thức của học sinh về hành vi và sức khỏe sinh sản, tôi tiếp tục tiến hành khảo sát nhận thức của học sinh về hậu quả của quan hệ tình dục tuổi vị thành niên. PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 4(Phiếu khảo sát dành cho học sinh) Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến (Đồng ý/ không đồng ý) để thể hiện sự hiểu biết của bản thân về hậu quả của việc quan hệ tình dục tuổi vị thành niên
TT
Hậu quả của việc quan hệ tình dục tuổi vị thành niên
Ý kiến
Đồng ý
Không đồng ý
1
Mang thai ngoài ý muốn
2
Dễ bị sảy thai, đẻ non, tăng nguy cơ tử vong ở người mẹ
3
Sinh con phải phấu thuật do khung xương chậu chưa phát triển
4
Trẻ sinh thiếu cân, suy dinh dưỡng
5
Phá thai, gặp tai biến dẫn đến vô sinh
6
Mắc các bệnh lây qua đường tình dục
7
Bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai
8
Bị bỏ rơi
9
Gia đình phải gánh chịu định kiến của xã hội
10
Dễ bị dụ đỗ bởi các chất kích thích
Kết quả đạt được: ( Tính theo tỉ lệ %)
TT
Hậu quả của việc quan hệ tình dục tuổi vị thành niên
Ý kiến (%)
Biết
Không biết
1
Mang thai ngoài ý muốn
55
45
2
Dễ bị sảy thai, đẻ non, tăng nguy cơ tử vong ở người mẹ
31
69
3
Sinh con phải phẫu thuật do khung xương chậu chưa phát triển
22,5
77,5
4
Trẻ sinh thiếu cân, suy dinh dưỡng
32
68
5
Phá thai, gặp tai biến dẫn đến vô sinh
40
60
6
Mắc các bệnh lây qua đường tình dục
20
80
7
Bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai
55
45
8
Bị bỏ rơi
12
88
9
Gia đình phải gánh chịu định kiến của xã hội
18
82
10
Dễ bị dụ đỗ bởi các chất kích thích
20
80
Từ kết quả khảo sát trên cho ta thấy được nhận thức của học sinh về hậu quả của việc quan hệ tình dục tuổi vị thành niên còn nhiều hạn chế. Phần lớn học sinh không nhận biết được hậu quả của việc quan hệ tình dục tuổi vị thành niên.Nếu không nhận biết được những hậu quả đó sẽ vô cùng nguy hại cho sức khỏe, cuộc sống, tương lai của chính các em. Vậy các em làm thế nào để bảo vệ bản thân mình trước mọi cám dỗ của cuộc sống ? Tôi tiếp tục khảo sát về kĩ năng chăm sóc bản thân của học sinh. PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 5 (Phiếu khảo sát dành cho học sinh nữ) Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến (Biết/ không biết) để thể hiện sự hiểu biết của bản thân về việc chăm sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên.
TT
Chăm sóc sức khỏe sinh sản
Ý kiến
Biết
Không biết
1
Vệ sinh cá nhân, vệ sinh kinh nguyệt
2
Uống bổ sung viên sắt
3
Chủ động tìm hiểu kiến thức sinh sản qua cha mẹ, thầy cô, người thân, bạn bè…
4
Phân biệt tình yêu và tình bạn khác giới
5
Tránh xa sách báo, phim ảnh đồi trụy, thuốc lá, rượu bia, ma túy…
6
Không quan hệ tình dục trước tuổi trưởng thành
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 5 (Phiếu khảo sát dành cho học sinh nam) Em hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến (Biết/ không biết) để thể hiện sự hiểu biết của bản thân về việc chăm sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên
TT
Chăm sóc sức khỏe sinh sản
Ý kiến
Biết
Không biết
1
Vệ sinh cá nhân, phát hiện những bất thường ở cơ quan sinh dục
2
Không mặc quần lót bó quá sát
3
Chủ động tìm hiểu kiến thức sinh sản qua cha mẹ, thầy cô, người thân, bạn bè…
4
Phân biệt tình yêu và tình bạn khác giới
5
Tránh xa sách báo, phim ảnh đồi trụy, thuốc lá, rượu bia, ma túy…
6
Không quan hệ tình dục trước tuổi trưởng thành
Kết quả khảo sát: + Kết quả khảo sát dành cho học sinh nữ ( Tính theo tỷ lệ %)
TT
Chăm sóc sức khỏe sinh sản
Ý kiến
Biết
Không biết
1
Vệ sinh cá nhân, vệ sinh kinh nguyệt
60
40
2
Uống bổ sung viên sắt
6
94
3
Chủ động tìm hiểu kiến thức sinh sản qua cha mẹ, thầy cô, người thân, bạn bè…
21
79
4
Phân biệt tình yêu và tình bạn khác giới
22
88
5
Tránh xa sách báo, phim ảnh đồi trụy, thuốc lá, rượu bia, ma túy…
32
68
6
Không quan hệ tình dục trước tuổi trưởng thành
52
48
+ Kết quả khảo sát dành cho học sinh nam ( Tính theo tỷ lệ %)
TT
Chăm sóc sức khỏe sinh sản
Ý kiến
Biết
Không biết
1
Vệ sinh cá nhân, phát hiện những bất thường ở cơ quan sinh dục
50
50
2
Không nên mặc quần lót bó quá sát
21
79
3
Chủ động tìm hiểu kiến thức sinh sản qua cha mẹ, thầy cô, người thân, bạn bè…
20
80
4
Phân biệt tình yêu và tình bạn khác giới
20
80
5
Tránh xa sách báo, phim ảnh đồi trụy, thuốc lá, rượu bia, ma túy…
51
49
6
Không quan hệ tình dục trước tuổi trưởng thành
55
45
Qua kết quả khảo sát về kĩ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản tuổi vị thành niên của học sinh khối 8 tôi nhận ra: học sinh biết phải vệ sinh cá nhân nhưng việc vệ sinh cơ quan sinh dục khi có kinh nguyệt (với nữ): 40 % , không phát hiện ra những bất thường ở cơ quan sinh dục (với nam): 50 %. Các em cũng e dè, ngại ngùng, không dám chủ động, thậm chí dấu diếm người khác. Các em không dám hỏi ý kiến của cha mẹ, thầy cô, người thân, bạn bè. 80% học sinh không phân biệt được tình yêu và tình bạn khác giới.Một nửa số học sinh được hỏi ý kiến không thấy được tác hại của phim ảnh, sách báo đồi trụy hay là tác hại của các chất kích thích. Học sinh cũng có những lệch lạc trong nhận thức về hành vi có liên quan đến sức khỏe sinh sản, thiếu kĩ năng bảo vệ bản thân, thiếu kĩ năng ứng phó với thực tiễn và những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Chính vì vậy, cần trang bị cho các em những kiến thức sinh sản cụ thể, kĩ năng cụ thể để bảo vệ bản thân, xây dựng một tương lai tốt đẹp. Nhưng nếu cứ để cho học sinh tự tìm hiểu và loay hoay với những thắc mắc của mình về giới tính, về sức khỏe sinh sản thì vấn đề về tương lai giống nòi sẽ như thế nào ?Vấn đề đặt ra là phải có người dẫn đường để các em đúng hướng.Đây là nhiệm vụ của giáo viên, đặc biệt là giáo viên dạy bộ môn sinh học.Vậy người dạy nhận thức về vấn đề này ra sao. Dưới đây là khảo sát ý kiến của đồng nghiệp. PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 6 (Phiếu khảo sát dành cho giáo viên) – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu quan niệm của giáo viên về việc giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh lớp 8 nói riêng, học sinh THCS nói chung. – Đối tượng khảo sát: GV dạy môn sinh học trường THCS Thịnh Long – Số lượng khảo sát: 5giáo viên – Thời gian khảo sát: Tháng 9 năm học 2019- 2020 – Phương pháp khảo sát + Phương pháp quan sát khoa học: Thu nhận thông tin về giáo viên bằng tri giác trực tiếp và các nhân tố khác có liên quan. Trên cơ sở đó để xây dựng lý thuyết và kiểm tra lý luận bằng thực tiễn. + Phương pháp điều tra bảng hỏi:Tham khảo tài liệu, từ đó xây dựng bảng hỏi để điều tra thực trạng quan niệm về giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh. + Phương pháp xử lý số liệu, phân tích, tổng hợp: Thông qua những số liệu thu thập được cùng với các kết quả đánh giá, đưa ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn, tìm được nguyên nhân, nghiên cứu giải pháp thực tiễn áp dụng để tìm ra giải pháp thích hợp cho việc giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh. – Thang đo: tính tỉ lệ % theo số lượng khảo sát Đồng chí hãy cho biết ý kiến của bản thân bằng cách tích dấu x vào ô ý kiến (Cần/ không cần) về việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh.
TT
Kiến thức giáo viên cần có
Ý kiến
Cần
Không cần
1
Kiến thức về sức khỏe sinh sản
2
Nắm chắc tâm lí học sinh
3
Phân loại được đối tượng học sinh
4
Phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
5
Các tài liệu tham khảo
6
Sử dụng phương tiện thiết bị dạy học
7
Sử dụng công nghệ thông tin
8
Kĩ năng kiểm tra, đánh giá học sinh
Kết quả khảo sát( tính theo tỷ lệ %)
TT
Giáo viên cần có
Ý kiến
Cần
Không cần
1
Kiến thức về sức khỏe sinh sản
100
0
2
Nắm chắc tâm lí học sinh
80
20
3
Phân loại được đối tượng học sinh
60
40
4
Phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
100
0
5
Các tài liệu tham khảo
80
20
6
Sử dụng phương tiện thiết bị dạy học
80
20
7
Sử dụng công nghệ thông tin
80
20
8
Kĩ năng kiểm tra, đánh giá học sinh
60
40
Qua kết quả khảo sát cho 100 % giáo viên được hỏi ý kiến cho rằng: Muốn giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh giáo viên cần có kiến thức về sức khỏe sinh sản, có phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực và phù hợp. 80 % giáo viên quan niệm để làm tốt việc giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh thì cần nắm vững tâm lí học sinh, sử dụng phương tiện, thiết bị dạy học hợp lý, biết vận dụng công nghệ thông tin và các tài liệu phục vụ cho việc giáo dục kiến thức sinh sản của học sinh. Các tiêu chí về phân loại đối tượng học sinh, phương pháp, kiểm tra đánh giá chỉ có 60 % giáo viên được hỏi cho là cần thiết. Từ kết quả khảo sát trên tôi tiếp tục tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên là: * Về phía học sinh: -Thiếu kiến thức về giới tính, thiếu kiến thức sinh sản, sức khỏe sinh sản. – Nhận thức chưa đầy đủ về sinh sản, sức khỏe sinh sản – Chưa được quan tâm giáo dục kiến thức sinh sản một cách đúng mức – Thiếu định hướng đúng đắn – Do đặc điểm lứa tuổi: tò mò, ham hiểu biết, thích tìm tòi cái mới, muốn khẳng định mình nên dễ mắc sai lầm. – Đối với học sinh lớp 8 bắt đầu giai đoạn tâm sinh lí thay đổi nên thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt, các em chưa hề mạnh dạn trong vấn đề tìm hiểu tiếp thu những kiến thức về giới tính và sinh sản. – Không có kỹ năng tự bảo vệ chính mình. * Về phía gia đình: – Một bộ phận cha mẹ học sinh thiếu quan tâm đến con cái, phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường. – Một số phụ huynh lại nuông chiều con cái thái quá hoặc quản lý con quá khắt khe mà thiếu phương pháp giáo dục con một cách phù hợp. – Một bộ phận cha mẹ học sinh còn ngại hay lảng tránh khi con hỏi tới vấn đề về giới tính và vấn đề sinh sản – Một số phụ huynh quan niệm sai lầm: Con còn nhỏ, chưa cần quan tâm đến vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản – Có nhiều học sinh cha mẹ đi làm ăn xa ở với ông bà nên chưa được hướng dẫn chỉ bảo kịp thời khi gặp những khúc mắc trong cuộc sống giới tính. – Cha mẹ học sinh chưa tích cực phối hợp với nhà trường trong giáo dục học sinh. – Áp đặt con cái * Về phía nhà trường: – Chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh – Chưa làm tốt công tác tuyên truyền về giới tính và sức khỏe sinh sản. Các hoạt động của nhà trường chỉ dừng lại ở một số buổi nói chuyện với các chuyên gia về một số vấn đề sức khỏe giới tính, phòng chống HIV/AIDS. – Công tác tư vấn tâm lý học đường chưa hiệu quả. – Việc phối hợp giữa nhà trường và các môi trường giáo dục khác trong giáo dục sức khỏe sinh sản chưa hiệu quả. – Cơ sở vật chất nhà trường hạn hẹp, thiếu động bộ nên ảnh hưởng đến việc tạo điều kiện dạy và học của giáo viên và học sinh trong nhà trường. * Về xã hội – Ảnh hưởng của Internet, của phim ảnh hiện nay có nhiều nội dung không mang tính định hướng rõ ràng là nguyên nhân khơi dậy, đánh động bản năng tình yêu, tình dục ở học sinh. Nhiều clip, video không hay làm cho học sinh tò mò thích khám phá, làm theo, trong đó có cả những phim ảnh sách báo không lành mạnh.- Do ảnh hưởng của trào lưu giới trẻ hiện nay, yêu sớm, sống thử… ảnh hưởng không nhỏ tới học sinh. – Chạy theo quan niệm cứ thích là quan hệ tình dục, sống buông thả. – Thị trấn Thịnh Long kinh tế du lịch phát triển cũng ảnh hưởng rất lớn đến học sinh. * Đặc điểm môn học: – Sinh học là môn khoa học thực nghiệm. Sinh học 8 lại đề cập đến kiến thức về con người trong đó có kiến thức sinh sản cần đáng quan tâm. Ở độ tuổi này, cơ thể các em đang thay đổi mạnh mẽ về tâm sinh lí là vấn đề kích thích nhu cầu tìm hiểu về bản thân nên chú tâm học hỏi về kiến thức sinh sản hơn. * Về phía giáo viên: – Giáo viên lúng túng trong việc lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn. Chưa lựa chọn được phương pháp tối ưu để giáo dục kiến thức sinh sản theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh. – Khi dạy học sinh học môn sinh lớp 8 ở trường THCS, giáo viên thường sử dụng phương pháp trực quan, phương pháp thực hành đi theo con đường tìm tòi, nghiên cứu, tỏ ra có nhiều ưu thế trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh ở lứa tuổi này (13- 14 tuổi). Hơn nữa trong các tiết dạy sinh học 8 học về cấu tạo sinh lí của các cơ quan bộ phận con người nhưng giáo viên chỉ đơn thuần cung cấp kiến thức trọng tâm trong sách giáo khoa một cách cứng nhắc làm cho tiết học nặng nề, không gây hứng thú, học sinh chán nản, không tập trung chú ý nghe giảng và kết quả học sinh không tiếp thu được kiên thức bài học . – Việc dạy lồng ghép kĩ năng sống, hay giáo dục kiến thức giới tính, kiến thức sinh sản chưa hiệu quả. – Thiếu đội ngũ giáo viên chuyên trách về những vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản. – Bản thân giáo viên chưa tự tin để làm tốt công tác giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh. Thậm chí còn ngại ngùng. – Chưa xác định đúng đắn vị trí của môn sinh học trong nhà trường. – Chưa xác định đúng vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh. Từ việc khảo sát thực trạng giáo viên, học sinh và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng đó tôi đưa ra những giải pháp mới để giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh lớp 8 nói riêng, học sinh THCS Thịnh Long nói chung đạt kết quả cao. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Giải pháp thứ nhất: Cung cấp đầy đủ, hệ thống, chính xác, toàn diện kiến thức sinh sản cho học sinh lớp 8 ở trường trung học cơ sở. Dạy và học môn sinh học như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất ? Dạy thế nào để học sinh thực sự hứng thú say mê học tập và có những kĩ năng bổ ích trong cuộc sống ? Đặc biệt là những kiến thức về giới tính, sinh sản ? Trước hết giáo viên cung cấp đầy đủ, chính xác kiến thức sinh qua chủ đề “Sinh sản” trong môn sinh học lớp 8. Chủ đề “Sinh sản” Gồm 6 bài dạy trong 6 tiết Bài 60 – Tiết 63 – Cơ quan sinh dục nam Bài 61 – Tiết 64 – Cơ quan sinh dục nữ Bài 62 – Tiết 65 – Thụ tinh, thụ thai và phát triển của thai Bài 63 – Tiết 66- Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai Bài 64 – Tiết 67- Các bệnh lây qua đường sinh dục Bài 65 – Tiết 68 – Đại dịch AIDS – Thảm họa của loài người Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, bản thân giáo viên cần có kiến thức về sức khỏe sinh sản, nắm chắc tâm lí của học sinh, khi dạy phân loại được đối tượng học sinh, vận dụng hợp lý các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, các phương tiện, thiết bị dạy học, thường xuyên cập nhật, bổ sung kiến thức từ các nguồn tài liệu tham khảo, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin, đổi mới việc kiểm tra, đánh giá học sinh. Vì thế khi dạy chủ đề “Sinh sản” tôi xác định rõ là phải cung cấp kiến thức sinh sản cho học sinh đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng. Đó là: – Giúp học sinh nắm được các bộ phận của cơ quan sinh sản ở nam, nữ; nắm được những thay đổi ở tuổi dậy thì: + Ở nam: (+) Sự sinh tinh (+) Có khả năng có con + Ở nữ: (+) Sự rụng trứng, hiện tượng kinh nguyệt. (+) Có khả năng mang thai và có con. (+) Dấu hiệu có khả năng mang thai. (+) Biết cách vệ sinh thân thể đặc biệt là nữ ở tuổi dậy vào những ngày có kinh nguyệt. – Giúp học sinh hiểu, nắm được điều kiện để trứng được thụ tinh và phát triển thành thai. Cụ thể là: + Trứng gặp được tinh trùng + Trứng đã thụ tinh bám và làm tổ trong niêm mạc tử cung. – Giúp học sinh hiểu được các biện pháp tránh thai và giải thích cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai: + Ngăn ngừa trứng chín và rụng. + Ngăn không cho tinh trùng gặp trứng. + Ngăn không cho trứng đã thụ tinh làm tổ. – Giúp học sinh hiểu rõ các dụng cụ và phương tiện tránh thai phù hợp – Học sinh thấy rõ nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên. Hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên. + Ảnh hưởng tới sức khỏe + Ảnh hưởng tới tinh thần + Ảnh hưởng tới vị thế xã hội + Ảnh hưởng tới tương lai giống nòi. – Giúp học sinh tự ý thức về cách sống, các quan hệ; Đề phòng tránh những nguy cơ cho bản thân: + Tránh quan hệ tình dục ở lứa tuổi học sinh + Đảm bảo tình dục an toàn – Giúp học sinh hiểu được các bệnh lây qua đường sinh dục và ảnh hưởng của chúng tới sức khỏe sinh sản vị thành niên, mở rộng và liên hệ thực tế những kiến thức sinh sản cho học sinh: + Kiến thức về tâm lí: Học sinh ở tuổi vị thành niên có những thay đổi về tâm lí : (+) Tính cách, hành vi: thay đổi, tính độc lập. (+) Nhân cách: cố gắng khẳng định mình, hành vi bắt chước người lớn. (+) Tình cảm: có tình cảm với bạn khác giới, dễ rung động, xao xuyến… + Kiến thức về sinh lí: (+) Tò mò về giới tính. (+) Nhu cầu tình dục bắt đầu nảy nở Vừa giúp các em hiểu rõ về sự phát triển của bản thân và sự thay đổi về hình thái tâm sinh lí ở tuổi dậy thì vừa lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh ở tuổi vị thành niên để đảm bảo cho học sinh lĩnh hội đầy đủ kiến thức, kĩ năng, phẩm chất một cách hiệu quả nhất. Cụ thể, để dạy tốt chủ đề tôi đã tiến hành như sau: 1. Xây dựng kế hoạch dạy chủ đề: “ Sinh sản” theo kế hoạch môn học; Định hướng nội dung bài học, kiên thức nội môn, liên môn; những kiến thức có liên quan đến sự phát triển cơ thể ở tuổi dậy thì, sức khỏe giới tính, sinh sản, các bệnh lây qua đường sinh dục, các trường hợp có thai ngoài ý muốn. 2. Xây dựng Kế hoạch bài học cụ thể, chi tiết, chuẩn bị tư liệu, phương tiện, thiết bị dạy học, bài giảng trình chiếu một cách khoa học, phù hợp. Xây dựng phương pháp, kĩ thuật dạy học hợp lý. Dự kiến hình thức tổ chức dạy học phù hợp với nội dung bài học. 3. Hướng dẫn học sinh nghiên cứu bài học trong SGK, chuẩn bị những kiến thức, đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho việc học tập chủ đề: sưu tầm tư liệu liên quan đến sinh sản, chuẩn bị bài theo yêu cầu của giáo viên. 4. Lên lớp theo kế hoạch: Tiến hành giảng dạy ở từng lớp theo thời khóa biểu. Sau từng tiết dạy tôi tự rút kinh nghiệm, tham khảo ý kiến đồng nghiệp, thực hiện khảo sát học sinh, đánh giá kết quả sau khảo sát. Cụ thể khi dạy chủ đề “ Sinh sản” tôi đã thấy được: – Học sinh nắm chắc các kiến thức của chủ đề: cơ quan sinh dục nam, cơ quan sinh dục nữ, những thay đổi về hình thái, tâm sinh lí cơ thể trong tuổi dậy thì. Biết được những điều kiện cần để trứng được thụ tinh và phát triển thành thai, nêu rõ cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai, nêu sơ lược các bệnh lây qua đường sinh dục và ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản vị thành niên. – Học sinh có nhận thức đúng đắn về giới tính và sức khỏe sinh sản, bước đầu biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tự xây dựng được cho bản thân kĩ năng tự bảo vệ bản thân. – Tôi đã sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực: Dạy học nhóm, dạy học theo dự án; kĩ thuật trình bày 1 phút, kĩ thuật hỏi chuyên gia, giải quyết vấn đề, kĩ thuật động não, kĩ thuật đóng vai, kĩ thuật phòng tranh… Ví dụ minh họa khi dạy phần II. Những nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên trong bài “ Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai” Với phần này tôi đã tiến hành như sau: + Tôi chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ (4- 6hs); Yêu cầu các nhóm cử nhóm trưởng, thư kí của nhóm. + Giao cho học sinh chuẩn bị bài theo nhóm, tìm hiểu các thông tin trong sách giáo khoa, từ các nguồn tư liệu khác các kiến thức về nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên theo gợi ý từ SGK. + Yêu cầu nhóm trưởng phân công các cá nhân trong nhóm thực hiện nhiệm vụ, hoàn thành sản phẩm học tập? + Tôi gợi ý thêm để học sinh chuẩn bị: Nêu rõ những ảnh hưởng của có thai sớm ngoài ý muốn của tuổi vị thành niên ? Phải làm gì để điều đó không xảy ra ? Những hậu quả có thể xảy ra ? Phải xử lý đối với việc mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên như thế nào? Làm thế nào để tránh được ? Trong tiết học, tôi tổ chức cho học sinh trình bày sản phẩm học tập của nhóm, các nhóm khác cử đại diện nhận xét, bổ sung; Giáo viên nhận xét, bổ sung, chốt kiến thức, hoàn thiện, mở rộng kiến thức. Ảnh minh họa hoạt động nhóm của học sinh Sau mỗi bài và khi học xong cả chương tôi yêu cầu học sinh hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư duy. Đây là một biện pháp giúp học sinh nhớ kiến thức bài học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Dưới đây là sơ đồ tư duy gợi ý của giáo viên cho các bài học của chủ đề. Lưu ý, đây chỉ là gợi ý, học sinh có thể vẽ theo tư duy và sáng tạo của cá nhân, miễn là đảm bảo kiến thức bài học. Sơ đồ tư duy bài 60 – Tiết 63: Cơ quan sinh dục nam Sơ đồ tư duy bài 61 – Tiết 64: Cơ quan sinh dục nữ Sơ đồ tư duy bài 62 – Tiết 65: Thụ tinh, thụ thai và sự phát triển của thai Sơ đồ tư duy bài 63 – Tiết 66: Cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai Sơ đồ tư duy bài 64 – Tiết 67: Các bệnh lây qua đường sinh dục Sơ đồ tư duy bài 65 – Tiết 68: Đại dịch AIDS, thảm học của loài người Sơ đồ tư duy chủ đề: Sinh sản Qua gợi ý của giáo viên, học sinh đã thực hành vẽ được sơ đồ tư duy bài học. Điều đó cho thấy học sinh đã nắm chắc kiến thức của chủ đề một cách chính xác, khoa học và có hệ thống. Sau khi học sinh học xong toàn bộ kiến thức của chủ đề tôi tiếp tục tổ chức khảo sát việc nắm kiến thức về sức khỏe sinh sản qua việc dạy chủ đềở tất cả học sinh khối lớp 8 (Năm học 2020-2021) Bài khảo sát thứ nhất: Trắc nghiệm khách quan với 10 câu hỏi: Câu 1: Vị thành niên gồm các giai đoạn nào sau đây ? A. Từ khi sinh ra đến tuổi dây thì. B. 3 giai đoạn: từ 10 – 13 tuổi; từ 14 – 16 tuổi; từ 17 – 19 tuổi C.Từ 20 tuổi trở lên D.Từ bắt đầu tuổi dạy thì Câu 2: dấu hiệu quan trọng ở tuổi dạy thì nam và nữ: A. Cơ thể trưởng thành, con gái hầu hết có kinh; con trai “chín về sinh dục”. B. Lớn nhanh. C.Hình thành các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp; có kinh( ở nữ), sinh tinh (ở nam). D. Cơ thể thay đổi về chiều cao, cần nặng. Câu 3: Nếu quan hệ tình dục có giao hợp ở tuổi vị thành niên sẽ: A. Không gây hậu quả vì cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ. B. Có thai vì ở nữ trứng đã chín và rụng; ở nam đã hình thành tinh trùng. C. Không có thai vì trứng chưa chín D. Cả 3 trường hợp trên Câu 4: Tình yêu là gì? A. Là tình bạn thân thiết giữa một người nam và một người nữ. B. Là tình thương mến sâu sắc, sự hòa hợp giữa hai người khác giới. C. Là tình cảm giữa hai người không phân biệt giới tính. Câu 5: Điểm khác biệt giữa tình bạn cùng giới và khác giới là: A. Tình bạn giữa bạn nam và bạn nữ. B. Có sự chân thành tin cậy, đồng cảm sâu sắc. C. Có một khoảng cách tế nhị, không dễ biểu lộ thân mật gần gũi, Câu 6: Thế nào là tình dục an toàn? A. Thỏa mãn nhu cầu sinh lý. B. Đảm bảo không nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình dục, không gây tổn thương cơ quan sinh dục. C. Cả hai đều đúng. Câu 7: Chu kỳ kinh nguyệt của một người phụ nữ: A. Thay đổi từ 21 đến 35 ngày. B. Chính xác 28 ngày C. Có một chu kỳ. Câu 8: Bạn hãy cho biết, HIV không lây qua con đường nào sau đây? A. Đường tình dục. B. Giao tiếp thông thường ( ôm hôn, bắt tay…). C. Lây từ mẹ nhiễm HIV sang con. Câu 9: Bạn hãy cho biết, ở nước ta hiện nay tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất nằm trong độ tuổi nào? A. Dưới 20 tuổi. B. Từ 20- 29 tuổi. C. Từ 30- 39 tuổi Câu 10: Tác hại của việc mang thai ở tuổi vị thành niên: A. Ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm sinh lí B. Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội, tương lai của bản thân. C. Cả 2 ý trên đều đúng. * Kết quả thu được 🙁 tính theo tỉ lệ %):
Lớp
Kết quả đúng
Câu1
Câu 2
Câu 3
Câu 4
Câu 5
Câu 6
Câu 7
Câu 8
Câu 9
Câu 10
8A1
85,6
87,2
92,8
90
88,9
94,2
89,2
97,4
92,1
89,5
8A2
83,2
85,7
90
89
85,5
92,2
89
95
90
87,5
8C
80
82,5
85,5
82,7
86,2
87,6
85,8
90,2
87,4
86,2
8D
82,2
83,3
82,2
80,3
82,6
84,5
82,7
89,5
83,7
86,5
8E
80,2
82,5
85,6
83,7
85,3
87,5
81,5
88,5
85,5
85
8G
81,5
86,6
80
82,5
88,2
86
85,5
89
88
83
Qua kết quả bảng khảo sát ta thấy học sinh đã nắm vững được những kiến thức sinh sản theo chuẩn kiến thức kĩ năng và đã biết vận dụng kiến thức trong cuộc sống. Cụ thể là có 80-85,6% học sinh đã nắm chắc kiến thức về giai đoạn tuổi vị thành niên; 82,5-87,5% học sinh hiểu rõ dấu hiệu dậy thì ở nam và nữ: có 82,2 -92,8% học sinh hiểu được hậu quả của việc quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên; 80,3–90% học sinh hiểu rõ thế nào là tình yêu; 82,6- 88,9 % học sinh biết phân biết tình bạn cùng giới và khác giới; 84,5 – 94,2% học sinh nắm được quan hệ tình dục an toàn; 81,5 – 89,2% học sinh hiểu rõ chu kỳ kinh nguyệt ở nữ; 88,5 – 97,4% học sinh hiểu được bệnh HIV lây qua đường tình dục;83,7- 92,1% học sinh nắm được tỉ lệ số người mắc HIV ở Việt Nam; 85-89,5% học sinh nắm được tác hại của mang thai ở tuổi vị thành niên. Tuy nhiên ở mỗi đơn vị kiến thức vẫn còn 10 – 20% học sinh chưa nắm rõ. Những học sinh này tôi dành thời gian tìm hiểu, trao đổi, bồi dưỡng thêm để giúp các em nâng cao hiểu biết của bản thân về những điều đã học. 2.2. Giải pháp thứ hai: Tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức và hình thành kĩ năng mới về vấn đề sinh sản Sau khi học sinh hiểu đầy đủ, chính xác, hệ thống các kiến thức về sinh sản qua chủ đề sinh sản tôi giúp học sinh nhận thức đúng vấn đề sinh sản và có kĩ năng bảo vệ mình, gia đình và tuyên truyền cho mọi người cùng hành động. Việc đổi mới phương pháp dạy học gắn với định hướng phát triển năng lực học sinh là lựa chọn phù hợp, cần thiết giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, năng lực tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức và hình thành kĩ năng mới về vấn đề sinhsản. Các kỹ năng học sinh cần có là: – Giao tiếp, ứng xử phù hợp trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên, kĩ năng ứng xử với cha mẹ, anh em trong gia đình. – Hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm. – Kĩ năng tôn trọng, tự trọng: bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh, biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở. – Kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói “không” trước cám dỗ củabản năng ở độ tuổi phát dục. Trong xã hội hiện đại, với điều kiện dinh dưỡng ngày càng tốt hơn cộng với các tác động của nhiều yếu tố xã hội mà trẻ em dậy thì sớm ngày càng tăng lên.Điều đó đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần phải giáo dục kiến thức sinh sản cho học sinh để các em có thể hiểu rõ hơn về giới tính của mình, các phát triển tâm sinh lí của cơ thể cũng như biết cách chăm sóc, bảo vệ cơ thể khi các em bước vào tuổi dậy thì.Mục tiêu của giáo dục kiến thức sinh sản là giúp các em sống đúng với giới tính của mình, đặc biệt là giáo dục các em biết trân trọng giá trị của bản thân từ đó biết quý trọng người khác. Giúp học sinh hiểu rõ bản thân, giới tính của mình mới biết bảo vệ mình khỏi những cám dỗ, xâm hại bên ngoài cũng như tôn trọng thân thể người khác. Đó chính là quá trình giúp các em hoàn thiện nhân cách ( kĩ năng sống) và hiểu sâu sắc về kiến thức sinh sản vận dụng cho chính bản thân ở hiện tại và tương lai. Với mong muốn giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, để các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân. Việc đưa giáo dục kiến thức sinh sản vào trường học là điều đã được thừa nhận và đặc biệt là môn sinh học 8 đã có riêng chủ đề: “Sinh sản”.Nhưng giáo viên một phần còn thiếu kiến thức chuyên môn, một phần do sử dụng phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, nhiều khi chỉ thiên về lý thuyết còn thực hành thì bỏ ngỏ, về giáo cụ trực quan thì không có, giáo viên không được tập huấn kĩ càng về vấn đề kiến thức sinh sản.Giáo viên đôi khi tự biên tự diễn không có hướng dẫn cụ thể. Hậu quả của việc này dẫn đến học sinh thu nhận một lượng kiến thức rời rạc, chắp vá. Bởi vậy bài toán giáo dục giới tính trong trường THCS chưa có lời giải đáp thích đáng. Được phân công giảng dạy sinh học lớp 8, tôi thấy rằng học sinh vẫn còn rất e dè khi tiếp thu kiến thức phần sinh sản mà như chúng ta đã biết sinh học lớp 8 học về con người nên chúng ta cần phải học không những lí thuyết mà cần kĩ năng thực hành vận dụng để đi vào thực tiễn cuộc sống hơn. Kiến thức sinh sản không những bên ta mà còn đi cùng ta suốt cuộc đời nên mỗi học sinh cần phải nắm rõ, chắc, sâu sắc. nếu không hiểu hết bản thân dễ sa ngã và không biết tự bảo vệ mình khi gặp khó khăn, mà có xu hướng đua đòi với các trào lưu xã hội như yêu sớm, quan hệ tình dục sớm…dẫn đến hậu quả khó lường làm mất nhân phẩm tốt đẹp của con người nên kiến thức về giới tinh sinh sản là cần thiết. Thực tiễn đã chứng minh không ai có thể bảo vệ mình nếu chính bản thân chúng ta không có kĩ năng để chăm sóc bảo vệcơ thể. Muốn có được điều ấy, chúng ta cần tăng cường giáo dục thẩm mỹ, giáo dục sự hiểu biết kĩ năng trong thế hệ trẻ. Phương thức giáo dục từ xưa đến nay là gắn lý thuyết với thực hành, gắn nhà trường với địa phương.Hiện nay, nội dung các môn học đều đề cập đến giáo dục giá trị đạo đức, phẩm chất, nhân cách ( kĩ năng sống), năng lực của học sinh. Thông qua chủ đề : “Sinh sản” trong môn sinh học lớp 8 tôi muốngíúp các em học sinh học tập hứng thú hơn, có những kiến thức rộng hơn, sâu hơn về giới tính, sinh sản, tự tin giao tiếp góp phần nâng cao ý thức cho học sinh bảo vệ bản thân và gia đình. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả giáo dục kiến thức sinh sản giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học hiện đại. Ở đây tôi lựa chọn phương pháp dạy học dự án nhằm hình thành ở học sinh phẩm chất, kỹ năng, hành vi tích cực, đặc biệt là năng lực giải quyết vấn đề có liên quan đến kiến thức sinh sản giúp học sinh hiểu biết sâu rộng kiến thức các vấn đề về bản thân và xã hội. Dưới đây là vídụ dạy mở rộng kiến thức phần II. Những nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên trong bài : “Cơ sở khoa học của cac biện pháp tránh thai” của chủ đề: “sinh sản” Ta đã biết:Dạy học dự án là một hình thức dạy học, trong đó học sinh dưới sự điều khiển và giúp đỡ của giáo viên tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được. Đặc trưng cơ bản của dạy học dự án là: Người học là trung tâm của quá trình dạy học Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn Dự án được định hướng theo bộ câu hỏi khung chương trình Dự án đòi hỏi các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên Dự án có tính liên hệ với thực tế. Người học thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua sản phẩm và quá trình thực hiện Công nghệ hiện đại hỗ trợ và thúc đẩy việc học của người học Kĩ năng tư duy là yếu tố không thể thiếu trong phương pháp dạy học dự án Quy trình tổ chức dạy học theo dự án có bốn giai đoạn. Đó là: *Giai đoạn chuẩn bị: – Công việc của giáo viên: + Xây dựng bộ câu hỏi định hướng: xuất phát từ nội dung học và mục tiêu cần đạt được. + Thiết kế dự án: xác định lĩnh vực thực tiễn ứng dụng nội dung học, ai cần, ý tưởng và tên dự án. + Thiết kế các nhiệm vụ cho học sinh: làm thế nào để học sinh thực hiện xong thì bộ câu hỏi được giải quyết và các mục tiêu đồng thời cũng đạt được. + Chuẩn bị các tài liệu hỗ trợ giáo viên và học sinh cũng như các điều kiện thực hiện dự án trong thực tế. – Công việc của học sinh: + Cùng giáo viên thống nhất các tiêu chí đánh giá + Làm việc nhóm để xây dựng dự án + Xây dựng kế hoạch dự án: xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm. + Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án. * Giai đoạn thực hiện – Công việc của giáo viên: + Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá học sinh trong quá trình thực hiện dự án + Liên hệ các cơ sở, khách mời cần thiết cho học sinh. + Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho các em thực hiện dự án. – Công việc của học sinh: + Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm thực hiện dự án theo đúng kế hoạch + Tiến hành thu thập, xử lý thông tin thu được. + Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo cáo. + Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi cần. + Thường xuyên phản hồi, thông báo thông tin cho giáo viên và các nhóm khác qua các buổi thảo luận hoặc qua trang mạng xã hội. * Giai đoạn tổng hợp – Công việc của giáo viên + Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá học sinh giai đoạn cuối dự án + Bước đầu thông qua sản phẩm cuối của các nhóm HS. – Công việc của học sinh: + Hoàn tất sản phẩm của nhóm. + Chuẩn bị tiến hành giới thiệu sản phẩm. * Giai đoạn đánh giá – Công việc của giáo viên: + Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án. + Theo dõi, đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm. – Công việc của học sinh: + Tiến hành giới thiệu sản phẩm. + Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm. + Đánh giá sản phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra. *Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học dự án Vai trò của học sinh Học sinh là người quyết định cách tiếp cận vấn đề cũng như phương pháp và các hoạt động cần phải tiến hành để giải quyết vấn đề đó. Học sinh tập giải quyết các vấn đề của cuộc sống thực tế bằng các kĩ năng của người lớn thông qua làm việc theo nhóm. Chính học sinh là người lựa chọn các nguồn dữ liệu, thu thập dữ liệu từ những nguồn khác nhau đó, rồi tổng hợp, phân tích và tích lũy kiến thức từ quá trình làm việc của chính các em. Học sinh hoàn thành việc học với các sản phẩm cụ thể (dự án) và có thể trình bày, bảo vệ sản phẩm đó. Học sinh cũng là người trình bày kiến thức mới mà các em đã tích lũy thông qua dự án. Cuối cùng, bản thân học sinh là người đánh giá và được đánh giá dựa trên những gì đã thu thập được, dựa trên tính khúc chiết, tính hợp lý trong cách thức trình bày của các em theo những tiêu chí đã xây dựng trước đó. Vai trò của giáo viên Trong dạy học dự án, giáo viên là chỉ là người hướng dẫn và tham vấn chứ không phải là “cầm tay chỉ việc” cho học sinh của mình. Theo đó,từ nội dung giáo viên nhìn ra sự liên quan của nó tới các vấn đề của cuộc sống, hình thành ý tưởng về một dự án liên quan đến nội dung học, tạo vai trò cho học sinh trong dự án, làm cho vai trò của học sinh gắn với nội dung cần học. Như vậy, giáo viên không còn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học mà trở thành người hướng dẫn, người giúp đỡ học sinh, tạo môi trường thuận lợi nhất cho các em trên con đường thực hiện dự án. Để giúp đỡ học sinh triển khai các nội dung học tập, tôi có tham khảo ý kiến của các đồng chí giáo viên có kinh nghiệm trong nhóm chuyên môn sinh học và thu được rất nhiều ý kiến hay, bổ ích. * Một số hình ảnh hoạt động của nhóm giáo viên sinh học trường THCS Thịnh Long chuẩn bị cho việc dạy học theo dự án:
Đánh giá dự án Đánh giá dự án không chỉ đơn thuần là đánh giá sản phẩm của dự án mà còn phải đánh giá mức độ hiểu, khả năng nhận thức và kĩ năng của học sinh đồng thời theo dõi sự tiến bộ ở các em. Một số công cụ đánh giá: – Bài kiểm tra viết và kiếm tra nói. Các bài kiểm tra có thể đưa ra được chứng cứ trực tiếp về khả năng tiếp thu kiến thức và hiểu kiến thức của học sinh. – Sổ ghi chép. Sổ ghi chép là những phản ảnh về việc học và những hồi đáp với những gợi ý ở dạng viết.Ngoài những phản hồi, các gợi ý giúp thể hiện rõ các kỹ năng tư duy cụ thể ở những phần quan trọng của dự án. -Phỏng vấn và quan sát dựa trên kế hoạch đã chuẩn bị. Các cuộc phỏng vấn miệng chính thức, được lên lịch với các thành viên trong nhóm để thăm dò sự hiểu bài của học sinh. Thể thức câu hỏi phỏng vấn là yêu cầu học sinh giải thích và đưa ra lý do về cách hiểu vấn đề. Các quan sát cũng được tiến hành tương tự nhưng dùng cho việc đánh giá kỹ năng, tiến trình và sự thể hiện năng lực và cũng có thể được thực hiện bởi học sinh. – Sự thể hiện: là những bài trình bày, các sản phẩm và các sự kiện mà học sinh thiết kế và thực hiện để thể hiện quá trình học tập của các em. – Kế hoạch dự án: Kế hoạch dự án giúp học sinh tự chủ trong học tập. Học sinh xác định mục tiêu, thiết kế chiến lượcđể đạt mục tiêu, đặt thời gian biểu và xác định các tiêu chí để đánh giá. – Phản hồi qua bạn học. Phản hồi của bạn học giúp cho học sinh tiếp thu được đặc điểm về chất lượng học tập qua đánh giá việc học của bạn học. – Quan sát các nhóm làm việc để hỗ trợ đánh giá kỹ năng cộng tác. Vận dụng phương pháp dạy học dự án trong phần II. Những nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên trong bài : “Cơ sở khoa học của cac biện pháp tránh thai” của chủ đề: “sinh sản” môn Sinh học lớp 8. Mục tiêu: Giúp học sinh: – Nêu được nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên – Trình bày được tác hại của việc mang thai ngoài ý muốn – Nêu được các biện pháp tránh thai. – Nêu được các biện pháp phòng, tránh nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên – Rèn kĩ năng sưu tầm tài liệu, tư duy sáng tạo, thuyết trình, xử lí tình huống, làm việc nhóm, phỏng vấn, quay phim, chụp ảnh, thiết kế mô hình… – Hình thành ý thức và thói quen tốt để chăm sóc sức khỏe. Hoạt động 1: Xây dựng ý tưởng dự án – GV khai thác những hiểu biết sơ bộ của học sinh về các kiến thức có liên quan đến nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niênbằng kĩ thuật KWL. PHIẾU KHẢO SÁT KIẾN THỨC HỌC SINH
Những kiến thức nào đã được học trong chương trình có liên quan nguy có có thai ở tuổi vị thành niên ? Hoặc em đã biết gì nguy có có thai ở tuổi vị thành niên?
Em muốn biết thêm điều gì nguy có có thai ở tuổi vị thành niên. (Đặt câu hỏi)
Những điều em đã học được sau dự án này.
– Giáo viên đặt vấn đề: Hiện nay việc quan hệ tình dục không an toàn, có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong thanh thiếu niên. Đây đang là nỗi lo ngại của cộng đồng. Vậy chúng ta cần phải làm gì để bảo đảm an toàn cho bản thân, cho cộng đồng ? – GV giới thiệu dự án: lí do thực hiện dự án, mục tiêu, nhiệm vụ và sản phẩm cụ thể của HS, tiêu chí chấm điểm, kênh thông tin liên lạc trên Facebook, zalo Hoạt động 2: Lập kế hoạch thực hiện dự án GV chia lớp thành 4 nhóm: 2 nhóm trong vai nhà khoa học, 1 nhóm trong vai chuyên viên tư vấn; 1 nhóm trong vai bác sĩ sản khoa GV phát bộ câu hỏi định hướng cho các vai. BỘ CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG Nhà khoa học Câu 1: Dấu hiệu nào chứng tỏ nữ có khả năng mang thai ? Câu 2: Nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên là gì? Câu 3: Khi có hiện tượng này chúng ta cần giữ vệ sinh như thế nào?Tại sao? Chuyên viên tư vấn Câu 4: Hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên ? Câu 5: Nêu tác hại của việc nạo phá thaiở tuổi vị thành niên? Câu 6: Theo em, hiện trạng nạo phá thai ở Việt Nam hiện nay tăng hay giảm? Là học sinh nhất là nữ em cần phải làm để bảo vệ mình? Bác sĩ sản khoa Câu 7: Ở tuổi vị thành niên có nên quan hệ tình dục không ?Vì sao ? Câu 8: Nếu quan hệ tình dục nên dùng các biện pháp tránh thai nào? Câu 9: Biện pháp phòng tránh các bệnh lây qua đường tình dục? BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ DỰ KIẾN SẢN PHẨM DỰ ÁN TÌM HIỂU VỀ NGUY CƠ CÓ THAI Ở TUỔI VỊ THÀNH NIÊN Thời gian hoàn thành nhiệm vụ học tập là: 06 tháng 05 năm 2020
Phân vai
Nhiệm vụ
Sản phẩm
Nhà khoa học
– Nghiên cứu tài liệu về một số vấn đề tuổi vị thành niên hay vướng phải, yêu cầu giải quyết các vấn đề đó. – Tìm hiểu nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên – Giải thích được một số biểu hiện liên quan đến những nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên
– Tiết mục chào hỏi – 1’ – Sơ đồ khái quát – Bài thuyết trình về mô hình: 3’
Chuyên viên tư vấn về sức khỏe sinh sản
– Tìm hiểu về hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên ? Tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên ? Thựctrạng nạo phá thai ở Việt Nam hiện nay ? Học sinh nhất là học sinh nữ em cần phải làm để bảo vệ mình? – Phỏng vấn các chuyên viên tư vấn hậu quả của việc có thai ở tuổi vị
– Tiết mục chào hỏi- 1’ – Sơ đồ khái quát hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên ? Tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên
thành niên ? Tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên? Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. – Thiết kế 1 bài tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên.
– Bài thuyết trình về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. 5’ – Bài tuyên truyền về sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Bác sĩ sản khoa
– Tìm hiểu khái quát về nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên – Thiết kế poster hoặc video tuyên truyền hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên, tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên. – Phỏng vấn các bác sĩ sản khoa và các bệnh nhân để thu thập thông tin về các hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên, tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên, cách phòng tránh mang thai ở tuổi vị thành niên. – Tìm hiểu một số cách phòng bệnh lây qua đường tình dục.
– Tiết mục chào hỏi- 1’ – Sơ đồ khái quát nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên, hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên, tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên. – Bài thuyết trình về nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên và cách phòng, tránh mang thai ở tuổi vị thành niên. 5’ – Poster hoặc video tuyên truyền về phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Hoạt động 3: Thực hiện dự án (thực hiện ngoài giờ lên lớp)
Nội dung
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
– Thu thập thông tin – Phỏng vấn
– Theo dõi, cung cấp tài liệu, kênh thông tin tham khảo cho học sinh. – Hướng dẫn học sinh xây dựng câu hỏi phỏng vấn, cách thu thập thông tin, phỏng vấn. – Hướng dẫn học sinh làm việc nhóm,
Thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch
– Thảo luận nhóm để xử lí thông tin, lên ý tưởng cho báo cáo. -Hoàn thành báo cáo
Theo dõi, giúp đỡ các nhóm: xử lí thông tin và cách báo cáo
– Các nhóm chủ động sắp xếp lịch hoạt động để tổng hợp thông tin, xử lí thông tin bằng nội dung các sản phẩm theo yêu cầu của dự án. – Xây dựng báo cáo nhóm
Hoạt động 4: Trình bày sản phẩm và đánh giá CUỘC THI: TÔI LÀ NHÀ KHOA HỌC
Thứ tự
Nội dung
Thời gian
1
Khai mạc
3 phút
2
Chào hỏi
7 phút
3
Trò chơi 1: Mật mã tri thức
20 phút
4
Trò chơi 2: Dành cho khán giả
10 phút
5
Sáng tạo
40 phút
6
Tổng kết, trao thưởng
10 phút
Tiết 1: Tổ chức hoạt động trò chơi để tìm hiểu nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên 1. Khai mạc: Giáo viên giới thiệu chủ đề (chương, bài, dự án), giới thiệu đại biểu 2. Chào hỏi Mỗi nhóm sẽ có 1 phút để giới thiệu nhóm và thông điệp của nhóm. 3. Trò chơi: Mật mã tri thức * Về nội dung: Các đội chơi sẽ giải một bảng mã về nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên bằng cách trả lời 10 câu hỏi gợi ý. * Luật chơi: – Mỗi nhóm chọn 5 người tham gia trò chơi. – Có 10 câu hỏi cho 4 đội thi. Mỗi câu hỏi có 10 giây suy nghĩ. – Trả lời đúng được 10 điểm và 1 mật mã. – Nếu may mắn, bạn sẽ nhận được 1 mật mã có hình ngôi sao xanh. Khi đó, bạn sẽ được giáo viên trợ giúp để xác định vị trí điền mật mã đó trong bảng mã. – Sau 10 câu hỏi, các đội sẽ thảo luận nhóm trong 3 phút để hoàn thành bảng mã dựa vào các mật mã đã có hoặc tự suy luận. Giải đúng mỗi ô trống trong bảng mã được 5 điểm. Lưu ý: Các đội được sử dụng tài liệu là sách giáo khoa, bài sưu tầm nhóm đã làm. GV chốt kiến thức về nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên * Trò chơi dành cho khán giả Có 5 từ khóa liên quan đến nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên. Trả lời đúng được cộng 5 điểm cho nhóm mình tham gia và 1 phần quà. GV chốt những nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên Nhà khoa học: 200 điểm 2 nhóm nhà khoa học có 3 phút để giới thiệu về mô hình của nhóm. HS đặt câu hỏi và cho đánh giá mô hình của nhóm bạn GV lồng ghép củng cố kiến thức về nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên Dưới đây là một vài hình ảnh minh họa cho hoạt động học tập của học sinh:
Kết thúc tiết 1. Tiết 2: Tiếp tục phần thi sáng tạo với chủ đề: Hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên, tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên?Các biện pháp tránh thai ? Phòng tránh các bệnh lây qua đường tình dục? Nhóm chuyên viên tư vấn: Hậu quả của việc có thai ở tuổi vị thành niên, tác hại của việc nạo phá thai ở tuổi vị thành niên? Là học sinh nhất là nữ em cần phải làm để bảo vệ mình? Nhóm bác sĩ sản khoa: Các biện pháp tránh thai ? Phòng tránh các bệnh lây qua đường tình dục? HS đặt câu hỏi và cho đánh giá Tổng kết, trao thưởng GV chốt kiến thức cơ bản về nguy có thai tuổi vị thành niên. GV hoàn thành bảng đánh giá các nhóm và các nhóm thảo luận để hoàn thành bảng đánh giá chéo nhóm. Tổng hợp kết quả và trao thưởng. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ DỰ KIẾN (DÙNG ĐỂ ĐÁNH GIÁ CẢ NHÓM) (Tổng điểm: 500 điểm) Nhóm nhà khoa học * Đánh giá sơ đồ kiến thức về nguy cơ có thai tuổi vị thành niên: 100 điểm – Đầy đủ kiến thức cơ bản: 80 điểm – Trình bày sáng tạo, khoa học, ấn tượng: 20 điểm *Đánh giá phần chào hỏi: 50 điểm Giới thiệu được tên nhóm và thông điệp phù hợp với vai trò nhóm đảm nhận. Thời gian: 1 phút *Trò chơi: 150 điểm Các đội chơi sẽ giải một bảng mã nguy cơ có thai tuổi vị thành niên bằng cách trả lời 10 câu hỏi gợi ý. Luật chơi: – Mỗi nhóm chọn 5 người tham gia trò chơi. – Có 10 câu hỏi cho 4 đội thi. Mỗi câu hỏi có 10 giây suy nghĩ. – Trả lời đúng được 10 điểm và 1 mật mã. Mật mã này sẽ giúp các bạn hoàn thành bảng giải mã về nguy cơ có thai tuổi vị thành niên. – Nếu may mắn, bạn sẽ nhận được 1 mật mã có hình ngôi sao xanh. Khi đó, bạn sẽ được giáo viên trợ giúp để xác định vị trí điền mật mã đó trong bảng mã. – Sau 10 câu hỏi, các đội sẽ thảo luận nhóm trong 3 phút để hoàn thành bảng mã dựa vào các mật mã đã có hoặc tự suy luận. Giải đúng mỗi ô trống trong bảng mã đượ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN. Trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; sau khi Quốc hội thông qua đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, Bộ GD-ĐT tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng mục tiêu đổi mới, trong đó tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề cần ưu tiên. Thế nào là dạy học “tích hợp, liên môn”? Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. “Tích hợp” là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt động dạy học còn “liên môn” là đề cập tới nội dung dạy học. Đã dạy học “tích hợp” thì chắc chắn phải dạy kiến thức “liên môn” và ngược lại, để đảm bảo hiệu quả của dạy liên môn thì phải bằng cách và hướng tới mục tiêu tích hợp. Ở mức độ thấp thì dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông… Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên quan với nhau, bảo đảm cho học sinh vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội. Ví dụ: Kiến thức Vật lí và Công nghệ trong động cơ, máy phát điện; kiến thức Vật lí và Hóa học trong nguồn điện hóa học; kiến thức Lịch sử và Địa lí trong chủ quyền 3 biển, đảo; kiến thức Ngữ văn và Giáo dục Công dân trong giáo dục đạo đức, lối sống… Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn như bạn hỏi. Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông… Còn dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan. Sự khác nhau giữa chủ đề “đơn môn” và chủ đề “liên môn”? Chủ đề đơn môn đề cập đến kiến thức thuộc về một môn học nào đó còn chủ đề liên môn đề cập đến kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thì không có gì khác biệt. Đối với một chủ đề, dù đơn môn hay liên môn, thì vẫn phải chú trọng việc ứng dụng kiến thức của chủ đề ấy, bao gồm ứng dụng vào thực tiễn cũng như ứng dụng trong các môn học khác. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp 4 phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm. Công nghệ là môn học mang tính thực tiễn và tính thời sự cao. Vì vậy, mục tiêu nội dung môn học phải xuất phát từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn và được vận dụng, thực hành, kiểm nghiệm trong thực tiễn, đồng thời phải đảm bảo đáp ứng được những đòi hỏi yêu cầu của thực tiễn sản xuất và đời sống. Trong quá trình dạy học, phải luôn gắn lý thuyết với thực hành, gắn hoạt động học tập ở lớp với hoạt động trải nghiệm, vận dụng ở gia đình và cộng đồng, thường xuyên cập nhật những thành tựu mới của khoa học ứng dụng. Môn Công nghệ giúp học sinh làm quen với một số quy trình công nghệ chủ yếu, một số ngành, nghề phổ biến của đất nước, để góp phần định hướng nghề nghiệp một cách đúng đắn, phù hợp với nhu cầu nhân lực của xã hội cũng như với năng lực, sở trường và hoàn cảnh của cá nhân. Mặt khác nó còn góp phần sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường hợp lí, góp phần tích cực vào việc xây dựng kinh tế xã hội của một đất nước. Điều này khẳng định môn học Công Nghệ có nhiều cơ hội để tích hợp liên môn và tích hợp giáo dục nhiều nội dung như Vật lý, Hóa học, Toán học, Sinh học, giáo dục bảo vệ môi trường, kĩ năng sống, sử dụng năng lượng hiệu quả tiết kiệm,… Hơn nữa, trong những năm gần đây với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ cùng với sự bùng nổ thông tin, lượng tri thức của nhân loại phát minh ngày càng nhiều, kiến thức giữa các lĩnh vực có liên quan mật thiết với nhau. Đồng thời do yêu cầu của xã hội, do nhu cầu thực tế đang đòi hỏi con người phải giải quyết rất nhiều tình huống trong cuộc sống khi giải quyết vấn đề đó, kiến thức của một lĩnh vực chuyên môn sẽ không thực hiện một cách triệt để được mà cần phải vận dụng kiến thức liên ngành một cách sáng tạo. Từ thực tế cho thấy vấn đề dạy học tích hợp nói chung và việc dạy học tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề nào đó trong bộ môn Công nghệ là hết sức cần thiết. 5 Xuất phát từ ý tưởng, làm thế nào để dạy – học bộ môn Công nghệ thêm hứng thú, làm thế nào để học sinh có thể vận dụng những hiểu biết trong các môn học trên lớp của mình để giải quyết vấn đề trong thực tiễn có hiệu quả tốt nhất. Từ lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn và mạnh dạn tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG MÔN CÔNG NGHỆ Ở BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ ”. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT. II.1 Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi tạo ra sáng kiến. Trong trường học hiện nay đa số các em học sinh ít quan tâm đến môn Công Nghệ vì các em nghĩ đây là môn học phụ, thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên nhưng lại là môn học thuộc lòng nên dẫn đến học sinh ngại học. Điều đó làm cho học sinh không có hứng thú trong học tập, ngại trau dồi kiến thức về Công Nghệ. Việc học môn Công Nghệ chỉ là đối phó, miễn cưỡng, học sinh chỉ tiếp thu được lượng kiến thức rất ít, không bản chất, vì thế dễ quên. Kết quả là điểm kiểm tra thấp, hiệu quả học tập chưa cao. Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy trong chương trình Công Nghệ 6, 7, 8, 9 có rất nhiều nội dung để vận dụng kiến thức liên môn và giáo viên cũng đã tích hợp các kiến thức của các môn học trong nội dung bài học dưới nhiều hình thức khác nhau như liên hệ, lồng ghép, tích hợp một phần hoặc toàn bài tùy theo nội dung của bài học nhằm trang bị cho học sinh các kiến thức về may mặc, trang trí nhà ở, nấu ăn, thu chi trong gia đình, trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, vẽ kỹ thuật, cơ khí, kỹ thuật điện, thực hành lắp đặt các mạch điện đơn giản…mối quan hệ giữa việc sản xuất, ý thức của con người (sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích trong trồng trọt; vệ sinh nơi thực hành; chất thải, rác thải của các làng nghề…) với môi trường và nhu cầu sử dụng năng lượng dẫn đến nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên. Thông qua các phương pháp và kĩ thuật dạy học nhằm hình thành cho học sinh các kĩ năng sống, ý thức bảo vệ môi trường, ý thức tiết kiệm năng lượng… 6 Trong thực tế giảng dạy những năm qua, giáo viên chỉ chú trọng việc cung cấp những kiến thức mới, những phần trọng tâm của bài học chứ chưa chú trọng lồng ghép những kiến thức cần thiết phải tích hợp. Khi tham gia dự giờ học tập đồng nghiệp ở các bộ môn đặc biệt là môn Công Nghệ tôi nhận thấy: Có nhiều bài học có đơn vị kiến thức có thể tích hợp liên môn nhưng giáo viên lại bỏ qua, có giờ học giáo viên không xác định được nội dung nào tích hợp là hợp lí nhất mà ôm đồm quá nhiều nội dung cũng như môn học liên quan, dẫn đến không truyền thụ hết kiến thức của bộ môn theo mục tiêu bài học và khai thác bài học không có tính hệ thống thiếu khoa học. Mặt khác nhiều giờ học giáo viên vận dụng kiến thức liên môn một cách gượng gạo, gò ép không tự nhiên. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học. II.2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến. Giảng dạy bộ môn Công nghệ trong nhà trường không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức lí thuyết mà còn phải rèn luyện cho học sinh kĩ năng cơ bản cần thiết để nắm chắc nội dung kiến thức cơ bản, có kĩ năng thực hành, vận dụng vào các trường hợp cụ thể không những trong thời gian ở nhà trường mà còn tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng tham gia vào cuộc sống lao động sản xuất và kĩ thuật hiện đại sau này. Tích hợp liên môn trong dạy học môn Công nghệ là sự vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng của các phân môn của Công nghệ 6, 7, 8 ,9 vào việc nghiên cứu tổng hợp về các lĩnh vực sản xuất, các ngành nghề trong nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế gia đình. Mặt khác vận dụng kiến thức liên môn cũng còn là việc sử dụng các kiến thức kỹ năng, của các môn học khác có liên quan như Vật lí, Hóa học, Toán học, Sinh học, Văn học, Giáo dục công dân …vào dạy học môn Công nghệ, giúp học sinh hiểu và nắm vững các nội dung học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Các môn học tuy là các phân môn riêng biệt song cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau như: Cách đo độ dài, đo thể tích, nhiệt độ nóng chảy, khối lượng riêng, tính chất vật lý, tính chất hóa học của vật liệu, khối đa diện, khối tròn xoay, độ pH, thành phần và tính chất của đất trồng, sâu bệnh hại cây trồng, sinh trưởng và phát dục của vật nuôi, vai trò của thực vật, vai trò của 7 môi trường sống, vị trí địa lý, các vùng tài nguyên khoáng sản, đoạn mạch nối tiếp, đoạn mạch song song, điện trở của dây dẫn, các hiện tượng hóa học… Vì vậy chúng có liên quan mật thiết với những bài học, lĩnh vực Công Nghệ nhất định, cho nên trong khi dạy và học môn Công Nghệ có nhiều cơ hội để liên hệ với các kiến thức Vật lý, Hóa học, Toán học, Sinh học, Địa lý… và ngược lại. Các tác phẩm âm nhạc, thơ, tục ngữ ca dao…. luôn gắn liền những quy luật thiên nhiên với sản xuất, các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên với đất nước con người, sử dụng kiến thức văn học như những câu tục ngữ, ca dao lồng ghép trong nội dung bài giảng bước đầu đã có những biểu hiện tích cực trong thái độ học tập của học sinh, tạo niềm thích thú, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học môn Công Nghệ. Về mặt phương pháp dạy học thì không có phân biệt giữa dạy học một chủ đề đơn môn hay dạy học một chủ đề liên môn, tích hợp. Điều quan trọng là dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, mà các hoạt động ấy phải được tổ chức ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường, ở nhà và cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Đối với học sinh, trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do: Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có 8 liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó; Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Việc tích hợp kiến thức liên môn chủ yếu được tiến hành trong các hoạt động vận dụng giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống. Giáo viên có thể vận dụng kiến thức liên môn trong kiểm tra và truyền thụ kiến thức mới Việc dạy học môn Công Nghệ nói chung cần đảm bảo các nguyên tắc giáo dục, đây là những quy định, yêu cầu cơ bản mà người giáo viên cần phải tuân thủ để mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học: – Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức đối với học sinh. – Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và liên hệ thực tiễn. – Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục, đảm bảo đặc thù của bộ môn. – Nguyên tắc đảm bảo tính tự lực và phát triển tư duy cho học sinh. – Quá trình tích hợp phải tự nhiên, không miễn cưỡng gò ép. Qua thực tiễn giảng dạy tôi thấy rằng, việc vận dung kiến thức liên môn trong giảng dạy môn Công Nghệ đều phải đảm bảo các nguyên tắc trên, đặc biệt là nguyên tắc bảo đảm tính tự lực và phát triển tư duy cho học sinh. Để thực hiện nâng cao chất lượng dạy học tích hợp liên môn trong môn Công nghệ, tôi đã tiến hành một số giải pháp cụ thể như sau: 1. Xây dựng các chủ đề dạy học tích hợp liên môn. 1.1. Xác định nội dung dạy học tích hợp liên môn. Tuy có mối liên hệ với nhau nhưng chương trình các môn học trong chương trình giáo dục trung học phổ thông hiện hành có tính độc lập tương đối, được thiết kế theo mạch kiến thức môn học trên nguyên tắc kiến thức được học 9 trước là cơ sở của những kiến thức được học sau. Vì thế, một số nội dung kiến thức có liên quan đến nhiều môn học đều được đưa vào chương trình của các môn học đó gây ra sự chồng chéo, quá tải. Không những thế, thời điểm dạy học các kiến thức đó ở các môn học khác nhau là khác nhau, đôi khi thuật ngữ được dùng cũng khác nhau, gây khó khăn cho học sinh. Để khắc phục những khó khăn đó, trong khi chưa có chương trình mới, cần phải rà soát chương trình các môn học có liên quan với nhau trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, tìm ra những kiến thức chung để xây dựng thành các chủ đề dạy học tích hợp liên môn. Trong chương trình các môn Công nghệ, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Địa lí,.. có các nội dung kiến thức chung về ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Rà soát chương trình các môn học này, có thể xác định được một số kiến thức liên môn. Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn đề cập đến nội dung dạy học, đến hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, đến nội dung và phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Chương trình giáo dục nào cũng tồn tại những nội dung kiến thức liên môn, vì vậy việc dạy học tích hợp liên môn tôi thực hiện ngay trong chương trình hiện hành, mặc dù việc thiết kế, sắp xếp các nội dung dạy học trong chương trình, trong sách giáo khoa chưa thật sự tạo nhiều thuận lợi cho mục tiêu đó. Việc lựa chọn nội dung dạy học để xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn phù hợp nhằm khắc phục những khó khăn đó. 1.2. Xây dựng các chủ đề dạy học tích hợp liên môn. Bộ Giáo dục và Đào tạo, sở GD – ĐT Nam Định đã giao quyền tự chủ xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục, phát huy vai trò sáng tạo của nhà trường và giáo viên; theo chỉ đạo chuyên môn của cấp trên tôi phối hợp cùng các giáo viên trong trường tham gia sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn chủ động, linh hoạt trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh phù hợp với điều kiện thực tế địa phương, khả năng của học sinh, phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường theo tinh thần các văn bản chỉ đạo của Bộ GDĐT: Công văn số 3535/BGDĐT-GDTrH ngày 27 tháng 5 năm 2013 về việc Hướng dẫn triển khai thực hiện phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy học tích cực khác; Công văn số 791/HD-BGDĐT ngày 25 tháng 6 năm 2013 về 10 việc hướng dẫn thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông; Công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08 tháng 10 năm 2014 về việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục thường xuyên qua mạng; các công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học hằng năm. Theo đó, thay cho việc dạy học đang được thực hiện theo từng bài/tiết trong sách giáo khoa như hiện nay, các tổ/nhóm chuyên môn căn cứ vào chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn nội dung để xây dựng các chủ đề dạy học trong mỗi môn học và các chủ đề tích hợp liên môn phù hợp với việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực tế của nhà trường. Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chuyên đề đã xây dựng. Các kiến thức liên môn có thể nằm ở chương trình của các lớp khác nhau và đều có thể được lựa chọn để xây dựng thành các chủ đề dạy học tích hợp liên môn. Tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể có thể xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn phù hợp. Trong thời gian đầu, để tránh sự xáo trộn nhiều gây khó khăn cho việc thực hiện kế hoạch giáo dục chung, chúng ta có thể chọn các nội dung kiến thức liên môn nằm trong chương trình của một lớp để xây dựng chủ đề dạy học tích hợp liên môn, đảm bảo hoàn thành chương trình môn học của khối đó trong năm học. Trong những năm học tiếp theo, trên cơ sở các chủ đề tích hợp liên môn đã được xây dựng và thực hiện, chúng ta tiếp tục mở rộng xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn trong toàn bộ kế hoạch giáo dục nhà trường. 1.3. Nội dung trình bày một chủ đề tích hợp liên môn. * Tên chủ đề: Căn cứ vào nội dung kiến thức và các ứng dụng của chúng trong thực tiễn để xác định tên chủ đề sao cho phù hợp, thể hiện được nội dung tích hợp liên môn. * Nội dung trong chương trình các môn học được tích hợp trong chủ đề: – Nghiên cứu kỹ trong tất cả các đơn vị chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình môn Công Nghệ, trong từng bài, từng chủ đề để xác đinh mức độ 11 tích hợp trong từng bài, từng chủ đề (những chủ đề nào có thể tiến hành dạy học tích hợp, dạy học liên môn, xác định địa chỉ và các môn học có liên quan đến vấn đề cần tích hợp). – Căn cứ vào thời lượng của bài học mà xác định hình thức tích hợp toàn phần hay mức độ một bộ phận, hoặc chỉ dừng lại ở mức liên hệ. – Trình bày về nội dung kiến thức thuộc chương trình các môn học được dạy học tích hợp trong chủ đề; nêu rõ yêu cầu cần đạt; tên bài (tiết), thời lượng phân phối chương trình hiện hành và thời điểm dạy học theo chương trình hiện hành. – Phương án/kế hoạch dạy học môn học sau khi đã tách riêng phần nội dung kiến thức được dạy học theo chủ đề đã xây dựng; – Trình bày nội dung dạy học trong chủ đề; phân tích về thời lượng và thời điểm thực hiện chủ đề trong mối liên hệ phù hợp với chương trình dạy học các môn học liên quan. – Trình bày ý tưởng/câu hỏi của chủ đề nhằm giải quyết một vấn đề nào đó để qua đó học sinh học được nội dung kiến thức liên môn và các kĩ năng tương ứng đã được tách ra từ chương trình các môn học nói trên, có thể là vấn đề theo nội dung dạy học hoặc vấn đề cần giải quyết trong thực tiễn; – Ý nghĩa của việc thực hiện chủ đề trong dạy họccác môn học liên quan/hoạt động trải nghiệm sáng tạo đối với việc hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. * Mục tiêu của chủ đề: – Kiến thức: Trình bày về nội dung kiến thức mà học sinh sẽ học được thông qua chủ đề (chỉ trình bày những kiến thức sẽ được đánh giá). – Kĩ năng: Trình bày về những kĩ năng của học sinh được hình thành thông qua thực hiện các hoạt động học theo chủ đề (chỉ trình bày những kĩ năng sẽ được đánh giá). Sử dụng động từ hành động để ghi các loại kĩ năng và năng lực mà học sinh được phát triển qua thực hiện chủ đề. – Thái độ: Trình bày về những tác động của việc thực hiện các hoạt động học theo chủ đề đối với nhận thức, giá trị sống và định hướng hành vi của HS. 12 – Định hướng phát triển năng lực (NL): NL tự học; NL giải quyết vấn đề; NL giao tiếp; NL hợp tác; NL tính toán; NL sử dụng ngôn ngữ kỹ thuật; NL lựa chọn và đánh giá công nghệ; NL sử dụng CNTT và truyền thông (ICT) để tìm hiểu thông tin, sưu tầm tài tiêu, học tập kinh nghiệm, khởi nghiệp… Học sinh được học thông qua thực hành, sáng tạo và tạo ra sản phẩm học tập có ý nghĩa cho bản thân; có thể thiết kế, xây dựng, sáng tạo ra một sản phẩm hoặc thực hiện một việc nào đó. Các năng lực cá nhân từ đó được bộc lộ, rèn luyện và phát triển trong quá trình tạo ra sản phẩm học tập. * Sản phẩm cuối cùng của chủ đề: Mô tả rõ sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành về nội dung và hình thức thể hiện (bài báo báo, bài trình chiếu, tập tranh ảnh, video, mô hình, vật thật, dụng cụ thí nghiệm, phần mềm.); nêu rõ tên và yêu cầu của sản phẩm cùng với tiêu chí đánh giá sản phẩm. 2. Tổ chức dạy học các chủ đề tích hợp liên môn. 2.1. Xây dựng kế hoạch dạy học. Trong chương trình hiện nay, những nội dung kiến thức được đề cập đến ở hai hay nhiều môn học được điều chỉnh theo hai hướng: chỉ dạy kiến thức đó trong một môn học và bổ sung thêm những kiến thức liên quan đến các môn còn lại đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế, không dạy lại ở các môn khác; tách những kiến thức có liên quan ra khỏi các môn học, xây dựng thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan. Xây dựng kế hoạch dạy học của các bộ môn có liên quan sau khi đã tách một số kiến thức ra để xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn. Kế hoạch dạy học của môn học cần phải tính đến thời điểm dạy học các chủ đề tích hợp liên môn đã được xây dựng, đảm bảo sự phù hợp và hài hòa giữa các môn học. Trong trường hợp cần thiết, có thể phải hy sinh một phần lôgic hình thành kiến thức để tăng cơ hội vận dụng kiến thức cho học sinh. Trong một số trường hợp, có thể phần kiến thức chung được tách ra để xây dựng các chủ đề tích hợp liên môn không nằm trọn vẹn trong một bài học của chương trình môn học hiện hành. Khi đó, phần kiến thức còn lại 13 của bài học cần được bố trí để dạy học sao cho hợp lý theo hướng lồng ghép vào các bài học khác, có thể là các bài học liền kề trước hoặc sau. Lựa chọn thời điểm tổ chức dạy học các chủ đề tích hợp liên môn phù hợp với kế hoạch dạy học của các môn học liên quan. Căn cứ vào nội dung kiến thức và thời lượng dạy học được lấy ra từ các môn học tương ứng, các tổ/nhóm chuyên môn cùng thống nhất các thời điểm trong năm học để tổ chức dạy học các chủ đề tích hợp liên môn 2.2. Thiết kế tiến trình dạy học. Dạy học theo các chủ đề, dù đơn môn hay liên môn, đều phải chú trọng việc ứng dụng kiến thức của chủ đề ấy, bao gồm ứng dụng vào thực tiễn cũng như ứng dụng trong các môn học khác. Do vậy, về mặt phương pháp dạy học thì không có phân biệt giữa dạy học một chủ đề đơn môn hay dạy học một chủ đề liên môn, tích hợp. Điều quan trọng là dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, mà các hoạt động ấy phải được tổ chức ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường, ở nhà và cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn không phải là một bản đề cương kiến thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh, mà là một bản thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn. Đó là bản thiết kế gồm hai phần hợp thành hữu cơ: Một là, hệ thống các tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài dạy, phù hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hai là, một hệ thống các hoạt động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do giáo viên sắp xếp, tổ chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài học một cách tích cực và sáng tạo. Thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải bám chặt vào những kiến thức các bộ môn có liên quan. Thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải bảo đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra 14 những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học sinh , trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học. Nội dung dạy học của thiết kế giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải làm rõ những tri thức và kĩ năng cần hình thành, tích luỹ cho HS qua phân tích, chiếm lĩnh bài văn; mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri thức bộ môn mình dạy với các bộ môn khác. Vận dụng kiến thức liên môn theo quan điểm tích hợp phải chú trọng thiết kế các tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức hợp để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các tình huống đặt ra, qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng riêng rẽ của từng phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng lực tích hợp. Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, việc thiết kế tiến trình dạy học các chủ đề tích hợp liên môn phải đảm bảo các yêu cầu sau: 2.2.1. Về phương pháp dạy học. – Dạy học theo dự án. – Phương pháp trực quan. – Phương pháp thực địa. – Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề Tiến trình dạy học phải thể hiện chuỗi hoạt động học của học sinh phù hợp với phương pháp dạy học tích cực được vận dụng. Tùy theo đặc thù bộ môn và nội dung dạy học của chủ đề, giáo viên có thể lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học tích cực nói chung đều dựa trên quan điểm dạy học giải quyết vấn đề có tiến trình sư phạm tương tự nhau: Trong các phương pháp trên, tôi thường sử dụng phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề kết hợp các phương pháp khác: Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học xuất phát từ một sự kiện/hiện tượng/tình huống/nhiệm vụ giáo viên làm xuất hiện vấn đề cần giải quyết, điều khiển HS phát hiện vấn đề, tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để lựa chọn giải pháp/xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề; thực hiện giải pháp/kế hoạch để giải quyết vấn đề; đánh giá kết quả giải quyết vấn đề. Thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ 15 bản của phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn là “tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”. Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi ra cho HS những khó khăn về lý thuyết hay thực tiễn mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một thực giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều khiển kiến thức sẵn có. Đây chính là một trong những hình thức dạy học vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài học. Vì vậy, nhìn chung tiến trình dạy học một chủ đề tích hợp liên môn theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề như sau: * Đề xuất vấn đề. Để đề xuất vấn đề, giáo viên giao cho học sinh một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề. Nhiệm vụ giao cho học sinh có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: giải thích một sự kiện/hiện tượng trong tự nhiên hay xã hội; giải quyết một tình huống trong học tập hay trong thực tiễn; tiến hành một thí nghiệm mở đầu… Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện thực hiện nhiệm vụ. Từ nhiệm vụ cần giải quyết, học sinh huy động kiến thức, kĩ năng đã biết và nảy sinh nhu cầu về kiến thức, kĩ năng còn chưa biết, nhưng hi vọng có thể tìm tòi, xây dựng được; diễn đạt nhu cầu đó thành câu hỏi. Lúc này vấn đề đối với học sinh xuất hiện, dưới sự hướng dẫn của giáo viên vấn đề đó được chính thức diễn đạt. Nhiệm vụ giao cho học sinh cần đảm bảo rằng học sinh không thể giải quyết trọn vẹn với kiến thức, kĩ năng đã có mà cần phải học thêm kiến thức mới để vận dụng vào quá trình giải quyết vấn đề. * Giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề. Sau khi đã phát biểu vấn đề, học sinh độc lập hoạt động, xoay trở để vượt qua khó khăn, tìm các giải pháp để giải quyết vấn đề. Trong quá trình đó, khi cần phải có sự định hướng của giáo viên để học sinh có thể đưa ra các giải pháp theo suy nghĩ của học sinh. Thông qua trao đổi, thảo luận dưới sự định hướng của giáo viên, học sinh xác định được các giải pháp khả thi, bao gồm cả việc học kiến thức 16 mới phục vụ cho việc giải quyết vấn đề đặt ra, đồng thời xây dựng kế hoạch hành động nhằm giải quyết vấn đề đó. * Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề. – Trong quá trình thực hiện giải pháp và kế hoạch giải quyết vấn đề, học sinh diễn đạt, trao đổi với người khác trong nhóm về kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh lý, hoàn thiện tiếp. Trường hợp học sinh cần phải hình thành kiến thức mới nhằm giải quyết vấn đề, giáo viên sẽ giúp học sinh xây dựng kiến thức mới của bản thân trên cơ sở đối chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/sắp xếp kiến thức cũ và kiến thức mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/ khái niệm/ công thức mới… Trong quá trình đó, học sinh cần phải học lí thuyết hoặc/và thiết kế phương án thực nghiệm, tiến hành thực nghiệm, thu lượm các dữ liệu cần thiết và xem xét, rút ra kết luận. Kiến thức, kĩ năng mới được hình thành giúp cho việc giải quyết được câu hỏi/vấn đề đặt ra. – Trong quá trình hoạt động giải quyết vấn đề, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, hành động của học sinh được định hướng phù hợp với tiến trình nhận thức khoa học. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng mới học để giải quyết các tình huống có liên quan trong học tập và cuộc sống hàng ngày; tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến thức thông qua các nguồn tư liệu, học liệu, khác nhau; tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau. Qua quá trình dạy học, cùng với sự phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh, sự định hướng của giáo viên tiệm cận dần đến định hướng tìm tòi sáng tạo, nghĩa là giáo viên chỉ đưa ra cho học sinh những gợi ý sao cho học sinh có thể tự tìm tòi, huy động hoặc xây dựng những kiến thức và cách thức hoạt động thích hợp để giải quyết nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Nghĩa là dần dần bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự xác định hành động thích hợp trong những tình huống không phải là quen thuộc đối với học sinh. * Trình bày, đánh giá kết quả. Sau khi đã hoàn thành hoạt động giải quyết vấn đề, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh trình bày, tranh luận, bảo vệ kết quả thu được. Giáo viên 17 chính xác hoá, bổ sung, xác nhận, phê duyệt kết quả, bao gồm những kiến thức mới mà học sinh đã học được thông qua hoạt động giải quyết vấn đề. Học sinh ghi nhận kiến thức mới và vận dụng trong thực tiễn cũng như trong các bài học tiếp theo. 2.2.2. Về kĩ thuật dạy học. Tiến trình dạy học nói trên được thể hiện cụ thể thành chuỗi hoạt động học của học sinh. Mỗi hoạt động học của học sinh phải thể hiện rõ mục đích, nội dung, phương thức và sản phẩm học tập mà học sinh phải hoàn thành. Phương thức hoạt động của học sinh thể hiện thông qua kĩ thuật học tích cực được sử dụng. Có nhiều kĩ thuật học tích cực khác nhau, mỗi kĩ thuật có mục tiêu rèn luyện các kĩ năng khác nhau cho học sinh. Tuy nhiên, dù sử dụng kĩ thuật học tích cực nào thì việc tổ chức mỗi hoạt động học của học sinh đều phải thực hiện theo các bước sau: * Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập được giao cho học sinh phải rõ ràng và phù hợp với khả năng của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. * Thực hiện nhiệm vụ học tập: học sinh được khuyến khích hợp tác với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập; giáo viên cần phát hiện kịp thời những khó khăn của học sinh và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không để xảy ra tình trạng học sinh bị “bỏ quên” trong quá trình dạy học. * Báo cáo kết quả và thảo luận: yêu cầu về hình thức báo cáo phải phù hợp với nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; giáo viên cần khuyến khích cho học sinh trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm nảy sinh một cách hợp lí. * Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày, thảo luận về kết quả thực hiện nhiệm vụ; nhận xét về quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa các kiến thức mà học sinh đã học được thông qua hoạt động. 18 Mỗi chủ đề được thực hiện ở nhiều tiết học nên một nhiệm vụ học tập có thể được thực hiện ở trong và ngoài lớp học. Vì thế, trong một tiết học có thể chỉ thực hiện một số bước trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. Khi dự một giờ dạy, giáo viên cần phải đặt nó trong toàn bộ tiến trình dạy học của chủ đề đã thiết kế. Cần tổ chức ghi hình các giờ dạy để sử dụng khi phân tích bài học. 2.2.3. Về thiết bị dạy học và học liệu. Thiết bị dạy học và học liệu được sử dụng trong dạy học mỗi chủ đề phải đảm bảo sự phù hợp với từng hoạt động học đã thiết kế. Việc sử dụng các thiết bị dạy học và học liệu đó được thể hiện rõ trong phương thức hoạt động học và sản phẩm học tập tương ứng mà học sinh phải hoàn thành trong mỗi hoạt động học 3. Tổ chức giờ học vận dụng kiến thức liên môn trên lớp. Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hữu cơ hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học, trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Ví dụ trong văn học, ta phải chuyển tác phẩm của nhà văn vào trong tư duy, cảm xúc của mình, biến tác phẩm thành thế giới tinh thần, tình cảm của riêng mình để tự nhận thức, tự giáo dục và phát triển theo mục đích định hướng giáo dục của giáo viên. Tổ chức hoạt động vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo viên phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi đây là mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo viên phải từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho học sinh, còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc, rồi sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy, khả năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo của học sinh. Quan điểm dạy học vận dụng kiến thức liên môn hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử 19 lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm lực cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý và khắc phục khuynh hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, coi nhẹ kiến thức, nhất là kiến thức phương pháp. Với việc tổ chức tiến trình dạy học như trên, có thể hình dung mỗi chủ đề dạy học bao gồm một số nhiệm vụ học tập được thiết kế thành các hoạt động kế tiếp nhau. Lớp học có thể được chia thành từng nhóm nhỏ. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Các kĩ thuật dạy học tích cực như: khăn trải bàn, các mảnh ghép, động não, bản đồ tư duy, XYZ, ổ bi… sẽ được sử dụng trong tốt chức hoạt động nhóm trên lớp để thực hiện các nhiệm vụ nhỏ nhằm đạt mục tiêu dạy học. Trong mỗi hoạt động, giáo viên có thể sử dụng một kĩ thuật nào đó để giao cho học sinh giải quyết một nhiệm vụ học tập được giao. Kết quả hoạt động của các nhóm học sinh được đưa ra thảo luận, từ đó nảy sinh vấn đề cần giải quyết và đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề đó. Hoạt động giải quyết vấn đề của học sinh có thể được thực hiện ngay trong giờ học trên lớp nhưng thường thì phải thực hiện ở nhà, giữa hai giờ lên lớp kế tiếp nhau mới đạt được hiệu quả cao. Giai đoạn này, các phương pháp quan sát, ôn tập, nghiên cứu độc lập cần được hướng dẫn cho học sinh sử dụng. Các kĩ thuật dạy học tích cực sẽ được tiếp tục sử dụng trên lớp trong giờ học sau đó để tổ chức các hoạt động trao đổi, tranh luận của học sinh về vấn đề đang giải quyết nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học như trên, vấn 20 đề đánh giá của giáo viên và đánh giá của học sinh về kết quả hoạt động (bao gồm tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng) được quan tâm thực hiện. Trong toàn bộ tiến trình tổ chức hoạt động dạy học như trên, các phương pháp truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, trực quan, thực hành… vẫn còn nguyên giá trị của chúng và cần phải được khai thác sử dụng một cách hợp lí, đúng lúc, đúng chỗ để đạt được hiệu quả cao nhất. Tổ chức hoạt động vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo viên phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi đây là mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo viên phải từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho học sinh, còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc, rồi sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy, khả năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo của học sinh. Quan điểm dạy học vận dụng kiến thức liên môn hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho học sinh. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm lực cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý. “Quan điểm dạy học vận dụng kiến thức liên môn cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ môn học; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình, tích hợp trong sách giáo khoa, tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” đòi hỏi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho học sinh thì các em mới tự tin và học tốt được. 4. Xây dựng phương án kiểm tra, đánh giá, đối với phần kiến thức, kỹ năng đã tiến hành dạy học tích hợp liên môn. 21 Phương án kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học phải đảm bảo sự đồng bộ với phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng. Cần tăng cường đánh giá về sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh thông qua quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, thông qua các sản phẩm học tập mà học sinh đã hoàn thành; tăng cường hoạt động tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng của học sinh. Để thực hiện được điều đó, đối với mỗi hoạt động học trong cả tiến trình dạy học, cần mô tả cụ thể các sản phẩm học tập mà học sinh phải hoàn thành cùng với các tiêu chí đánh giá cụ thể. Xây dựng phương án kiểm tra, đánh giá phù hợp, hiệu quả đối với phần kiến thức, kỹ năng đã tiến hành dạy học tích hợp liên môn giúp học sinh có cơ hội phát triển năng lực vận dụng kiến thức tổng hợp, kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày, gắn việc học ở nhà trường với nhu cầu phát triển của học sinh ở địa phương và cộng đồng. Phương án đánh giá kết quả hoạt động học của học sinh đã được thể hiện trong kế hoạch dạy học mỗi chủ đề (đánh giá bằng quan sát, nhận xét; cách biên soạn câu hỏi/bài tập/nhiệm vụ học tập; cách đánh giá sản phẩm học tập của học sinh; xây dựng bảng tự đánh giá (rubric); cách tổ chức cho học sinh tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng; cách ghi nhật kí dạy học…); tham khảo them các phương án đánh giá khác có thể sử dụng. 5. Tăng cường các hoạt động trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm: Tăng cường các hoạt động trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm với đồng nghiệp thông qua các tiết dự giờ, hội nghị, hội thảo, học tập, giao lưu giữa nhà trường với các cơ sở giáo dục triển khai mô hình trường học mới và các cơ sở giáo dục khác. Tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn trên mạng, trên trang “Trường học kết nối”. Trên đây là một số vấn đề về lý luận của việc dạy học liên môn để hiểu rõ hơn những vấn đề đã nêu, tôi đã tôi áp dụng vào xây dựng các bài dạy tích hợp liên môn trong giảng dạy trên lớp bộ môn Công Nghệ tại trường THCS Hoàng Văn Thụ cụ thể đó là: 22 * VÍ DỤ 1: CÔNG NGHỆ 8 – KẾ HOẠCH BÀI DẠY CHỦ ĐỀ: AN TOÀN ĐIỆN I. Mục tiêu: Sau bài học, giáo viên làm cho học sinh: * Kiến thức – Hiểu được nguyên nhân gây tai nạn điện, sự nguy hiểm của dòng điện đối với cơ thể người. – Phân tích được hiện trạng một số vấn đề về an toàn điện. – Hiểu được các giải pháp an toàn điện trong sản xuất và đời sống. * Kỹ năng: – Phân tích được bảng số liệu, tranh ảnh về an toàn điện. – Biết cách tìm hiểu vấn đề an toàn điện ở địa phương. * Thái độ – Nâng cao ý thức trách nhiệm sử dụng điện an toàn, hợp lý sẵn sàng tuyên truyền giáo dục mọi người trong việc sử dụng điện an toàn vì điện năng rất có ích cho cuộc sống nhưng tai nạn do điện xảy ra rất nhanh và vô cùng nguy hiểm nó có thể gây hỏa hoạn, làm bị thương hoặc chết người. * Định hướng năng lực được hình thành: – Năng lực chung: Tự học, tự giải quyết vấn đề, hợp tác, giao tiếp, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. – Năng lực chuyên biệt: sử dụng ngôn ngữ kỹ thuật, tư duy tổng hợp, sử dụng tranh ảnh, số liệu thống kê. II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
Công nghệ – Phần cứng: Gồm các thiết bị:
– Máy tính có kết nối Internet – Máy ảnh kỹ thuật số – Máy in
– Máy chiếu đa năng – Màn chiếu – Loa
Công nghệ – Phần mềm ( Một số phần mềm cần thiết)
– Phần mềm thư điện tử – Trình duyệt Web – Phần mềm thiết kế PowerPoint
SGK; SGVphiếu học tập; các bức tranh, ảnh về nguyên nhân gây tai nạn điện; các bức tranh, ảnh thực hiện tốt an toàn điện ở địa phương; cẩm nang an toàn điện của EVNNPC, tư liệu tham khảo… Giấy A0, bảng để dán các sản phẩm quảng cáo cho dự án. Bài trình chiếu Power Point, bài word Dụng cụ bảo vệ an toàn điện, phim tư liệu. Các sản phẩm mẫu của học sinh.
Yêu cầu khác
Thông báo với Nhà trường và phụ huynh về chương trình này.
* Vận dụng kiến thức liên môn. Cụ thể: – Môn Công nghệ: + Lớp 8 – Bài 34: Thực hành dụng cụ bảo vệ an toàn điện Bài 35: Cứu người bị tai nạn điện + Lớp 9 – Bài 1: An toàn lao động trong nghề điện dân dụng Bài 12: Kiểm tra an toàn mạng điện trong nhà – Môn Vật lý: + Lớp 7 – Bài 23: Tác dụng từ, tác dụng hóa học và td sinh lí của dòng điện. Bài 29: An toàn khi sử dụng điện + Lớp 9 – Bài 21: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện – Địa lý 9 – Bài 6: Sự phát triển nền kinh tế Việt Nam – Công dân 9 – Tiết 28: Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân. Tuyên truyền và hướng dẫn những người xung quanh sử dụng điện an toàn -> Từ đó hình thành một thế hệ trẻ có lối sống văn minh hiện đại, góp phần cùng thực hiện “AN TOÀN ĐIỆN VÌ LỢI ÍCH CỘNG ĐỒNG” III. Tiến trình dạy học 1. Ổn định tổ chức (1 phút) 24 2. Kiểm tra: Sự chuẩn bị của học sinh(1 phút) 3. Bài mới * Hoạt động 1: Đặt vấn đề vào bài mới (3 phút ) Trong các hình ảnh sau: Hình ảnh nào nêu lên lợi ích của điện năng? Hình ảnh nào chỉ ra tác hại của dòng điện? Hình 1 Hình 2 Hình 3 Hình 4 Hình 5 Hình 6 Xem ti vi giải trí Học sinh học bài 25 Học sinh trả lời, học sinh khác nhận xét… Giáo viên nhận xét, giải thích thêm thông tin: Từ xa xưa, khi chưa có điện, con người đã bị chết do dòng điện sét. Ngày nay khi có con người sản xuất ra điện, dòng điện cũng có thể gây nguy hiểm cho con người. Với mạng điện hạ áp, con người có thể bị nguy hiểm bởi tia hồ quang điện hay do điện giật. Với mạng điện cao áp, ngoài những nguy hiểm trên, con người còn có thể bị phóng điện qua không khí, khi đến quá gần các bộ phận mang điện cao áp gây ra bỏng, làm chết người. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tai nạn điện phần nhiều xảy ra ở mạng điện hạ áp 220V vì người dùng điện dễ xem thường, không thực hiện các biện pháp an toàn điện khi sử dụng và sửa chữa điện. Bài học hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu một số biện pháp an toàn điện trong sản xuất và đời sống. * Tổ chức dạy học: (35 phút)
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung
Hoạt động 2: Tìm hiểu vì sao xảy ra tai nạn điện(18 phút) *Nội dung: I.Tìm hiểu các nguyên nhân xảy ra tai nạn điện. 1. Do chạm trực tiếp vào vật mang điện 2. Do vi phạm khoảng cách an toàn đối với lưới điện cao áp và trạm biến áp 3. Do đến gần dây dẫn có điện bị đứt rơi xuống đất. * Hình thức tổ chức học tập: Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ – Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm: giao nhiệm vụ cho các nhóm: Dựa vào vốn hiểu biết, sách giao khoa, tài liệu, hình ảnh bảng số liệu…. hoàn thành phiếu học tập
I. Vì sao xảy ra tai nạn điện
26
trong thời gian 15 phút. Sau đó, các nhóm đảo phiếu học tập để nhận xét và bổ sung bằng mực đỏ – Giáo viên cung cấp thêm thông tin bằng hình ảnh Bước 2: Thực hiện nhiệm – Các nhóm tự phân công nhiệm vụ cho các thành viên – Học sinh làm việc theo nhóm và hoàn thành phiếu học tập. – Các nhóm đảo phiếu học tập cho nhau nhận xét bổ sung bằng mực đỏ. – Các nhóm nhận lại phiếu học tập và hoàn thiện. Bước 3: Báo cáo kết quả và thảo luận – Giáo viên yêu cầu 1 nhóm cử đại diện báo cáo kết quả. – Các nhóm khác nhận xét, bổ sung – Giáo viên chuẩn kiến thức Bước 4: Đánh giá kết quả Giáo viên nhận xét; đánh giá về thái độ quá trình làm việc và kết quả hoạt động của nhóm Giáo viên dẫn dắt: Qua các phương tiện thông tin, qua thực tế sử dụng. Em hãy kể một số nguyên nhân gây tai nạn điện? Giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên gọi lần lượt 3 học sinh trả lời, 3 học sinh nhận xét. Học sinh trả lời: – Do chạm trực tiếp vào mạng điện – Do vi phạm khoảng cách an toàn điện lưới điện cao áp và trạm biến áp. – Do đến gần dây dẫn có điện bị đứt rơi xuống đất. Học sinh nhận xét… Giáo viên nhận xét, tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm để tìm hiểu nguyên nhân gây tai nạn điện
27
Hoạt động: Tìm hiểu nguyên nhân do chạm trực tiếp vào vật mang điện Em hãy kể tên một số thiết bị điện, đồ dùng điện trong gia đình em? HS kể: Một số thiết bị điện, đồ dùng điện trong gia đình em như: bàn là, nồi cơm, quạt điện, ổ cắm, dây dẫn điện… GV trình chiếu hình 33.1 yêu cầu học sinh quan sát Hình a Hình b Hình c
1. Do chạm trực tiếp vào vật mang điện.
28
?Quan sát các hình ảnh trên em hãy cho biết những hình ảnh đó nói lên điều gì. Học sinh trả lời: Hình a: Sửa chữa điện Hình b: Bàn là rò điện ra vỏ Hình c: Dây dẫn điện bị hở cách điện Học sinh khác nhận xét, giáo viên nhận xét. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thông tin phần 1, trang 116 SGK -> giáo viên trình chiếu bài tập. Quan sát hình 3.1, em hãy điền chữ a, b, c vào chỗ trống (….) cho thích hợp – Chạm trực tiếp vào dây dẫn điện trần không bọc cách điện hoặc dây dẫn hở cách điện ( h. 33.1..) – Sử dụng các đồ dùng điện bị rò điện ra vỏ (vỏ kim loại) (h.33.1…) -Sửa chữa điện không cắt nguồn điện, không sử dụng dụng cụ bảo vệ an toàn điện (h.33.1…) Học sinh các nhóm làm bài tập, giáo viên quan sát học sinh làm việc. Đại diện học sinh trả lời, học sinh khác nhận xét. Giáo viên nhận xét và chốt kiến thức về nguyên nhân do chạm trực tiếp vào vật mang điện:
– Chạm trực tiếp vào dây dẫn trần hoặc dây dẫn hở cách điện. – Sử dụng đồ dùng điện bị rò điện ra vỏ kim loại. – Sửa chữa điện không cắt nguồn điện.
29
Hoạt động: Do vi phạm khoảng cách an toàn đối với lưới điện cao áp và trạm biến áp Giáo viên cho học sinh xem video thả diều gần lưới điện cao áp. Em có suy nghi gì khi xem đoạn video trên? Học sinh nêu suy nghĩ của mình. Giáo viên nhận xét. Giáo viên liên hệ sự hiểu biết của học sinh trong thực tế: Giáo viên trình chiếu các bức tranh, ảnh về nguyên nhân gây tai nạn điện ở địa phương của các nhóm sưu tầm từ nhà trên máy chiếu vật thể. Các nhóm quan sát các bức tranh, ảnh nhận xét chéo nhau, GV nhận xét và giải đáp những thắc mắc của HS. GV trình chiếu Nghị định của chính phủ số 54/1999/NĐ- CP đã quy định về khoảng cách bảo vệ an toàn lưới điện cao áp về chiều rộng và chiều sâu. Học sinh đọc thông tin bảng 33.1 trang 117- SGK. Đến gần lưới điện cao áp và trạm biến áp nguy hiểm như thế nào? HS trả lời: Có thể bị phát điện từ dây điện cao áp, thanh cái máy biến áp qua không khí đến người, gây chết người. Học sinh nhận xét… Giáo viên nhận xét, chốt kiến thức: Giáo viên trình chiếu thông tin giải thích sự nguy hiểm do vi phạm khoảng cách an toàn điện lưới, điện cao áp: Sống gần các đường dây cao thế rất nguy hiểm, người sống gần các đường dây cao thế thường bị suy giảm trí nhớ, bị nhiễm điện do hưởng ứng. Mặc dù các đường dây tải điện ngày càng được nâng cấp nhưng các sự cố
2. Do vi phạm khoảng cách an toàn đối với lưới điện cao áp và trạm biến áp. – Điện phóng qua
không khí, qua người. 30
lưới điện vẫn xảy ra như chạm chập, rò điện, nổ sứ, đứt đường dây, cháy nổ trạm biến áp… để lại những hậu quả nghiêm trọng -> cần di dời các hộ dân sống gần các đường dây tải điện cao áp và tuân thủ các quy tắc an toàn khi sử dụng điện. Giáo viên: Tích hợp kiến thức môn Toán học: Em đo khoảng cách bảo vệ an toàn điện cao áp tới nhà mình ở hoặc tới khu dân cư. * Hoạt động: Tìm hiểu do đến gần dây dẫn điện bị đứt rơi xuống đất giáo viên trình chiếu hình Giáo viên trình chiếu hình ảnh lưới điện nông thôn. Hình ảnh lưới điện nông thôn (Nguồn Internet) ? Qua việc quan sát các bức ảnh trên, em hãy cho biết những hình ảnh đó nói lên điều gì? Học sinh nhận xét. Giáo viên nhận xét: Những cột điện tạm bợ, xiêu vẹo, dây điện kéo ngang, dọc chẳng khác nào mạng nhện,..là những hình ảnh không khó để chúng ta bắt gặp ở nhiều
3. Do đến gần dây dẫn điện bị đứt rơi xuống đất
31
vùng nông thôn nhiều đường dây nghiêng ngả nằm sát bụi cây, gần nhà dân, tiềm ẩn nguy cơ người dân bị điện giật rất cao. Vì vậy để đảm bảo an toàn lưới điện nông thôn, người sử dụng cần nâng cao nhận thức, chấp hành đúng quy định của ngành điện. Em sẽ làm gì khi nhìn thấy dây điện đứt rơi xuống đất? HS: Khi em nhìn thấy dây tải điện bị đứt xuống đất, cây cối đổ vào đường dây, cột điện bị đổ… em không lại gần chỗ dây điện bị đứt chạm mặt đất, rất nguy hiểm em sẽ báo cho trạm quản lý điện. Giáo viên nhận xét, chốt kiến thức: Giáo viên cung cấp thêm thông tin về điện áp bước, Tổng đài chăm sóc khách hàng, sửa chữa sự cố điện EVNNPC 19006769 – cskh.npc.com.vn Giáo viên liên hệ sự hiểu biết của học sinh trong thực tế Tích hợp môn Vật lý 7 – Bài 23: Tác dụng từ, tác dụng hóa học và tác dụng sinh lí của dòng điện. Em hãy nêu tác động của dòng điện khi đi qua cơ thể người? Tích hợp môn Vật lý 7 – Bài 23: Học sinh trả lời: Dòng
– Mưa bão to, dòng điện đứt, không đến gần chỗ dây điện đứt chạm xuống đất.
32
điện có thể gây nguy hiểm tới tính mạng con người như: các cơ co giật, có thể làm tim ngừng đập, tê liệt thần kinh, gây chấn thương do phóng điện hồ quang, người bị ngã va vào vật cứng… Phải hết sức thận trọng khi dùng điện, nhất là với mạng điện gia đình. Tuy vậy, trong y học người ta có thể ứng dụng tác dụng sinh lí của dòng điện thích hợp để chữa bệnh, kỹ thuật đó gọi là châm cứu điện. ? Em hãy kể tên 1 số việc làm ở địa phương em sử dụng điện mất an toàn, các việc làm như thế mang lại hiệu quả gì ? Học sinh thảo luận, trả lời: Một số việc làm ở địa phương em sử dụng điện mất an toàn là: – Sử dụng điện thoại, máy tính xách tay trong lúc đang cắm sạc pin. – Dùng điện sinh hoạt để đánh bắt cá – Dùng điện sinh hoạt để chống chộm và bẫy chuột. – Dải dây điện qua ruộng nước khi bơm nước lúa. – Chưa có thói quen nối đất các thiết bị điện và kiểm tra các dây dẫn, cách điện của mạng điện, của các dụng cụ điện, thiết bị điện trong mạch điện. – Trước khi vận hành các máy móc như: máy trộn bê tông, máy xay xát gạo, máy tời vật liệu xây dựng,.. không kiểm tra an toàn điện. – Hậu quả: + Gây tai nạn điện + Gây hỏa hoạn làm thiệt hại kinh tế và môi trường. Học sinh khác nhận xét Giáo viên nhận xét các câu trả lời của học sinh về sự hiểu biết trong thực tế.
33
Giáo viên cung cấp hình ảnh minh họa. (Sử dụng điện để diệt chuột) Giáo viên giải thích: Cơ thể người là vật dẫn điện, dòng điện rất nguy hiểm nhưng nhiều người vẫn cố tình sử dụng điện để đánh bắt cá, điều này nguy hiểm cho bản thân và môi trường sống. Tại một số địa phương, thay vì diệt chuột phá hoại mùa màng bằng biện pháp truyền thống thì người dân lại chọn cách giăng điện để bẫy chuột. Việc dùng điện để bắt chuột rất nguy hiểm, chỉ cần sơ suất nhỏ có thể dẫn đến tử vong. Theo nguồn tin của Evnnpc Dong Thap: Mới đây(ngày 03/10/2015) người dân ở ấp Khánh Mỹ xã Tân Khánh Trung, huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp không khỏi bàng hoàng khi phát hiện thi thể người đàn ông tử vong trên cánh đồng. Nguyên nhân được lực lượng chức năng xác định, nạn nhân chết do bị điện giật. Quá trình điều tra, công an huyện Lấp Vò đã xác định được thủ phạm giăng bẫy chuột bằng cách dùng dây chì giăng trên ruộng lúa nối với cục sạc câu vào bình ắc quy để bẫy chuột, sau khi qua sạc dòng điện lên rất cao trên 300V, nên khi nạn nhân chạm vào dây thì chết tại chỗ.
34
–>Việc đặt bẫy điện để diệt chuột có thể gây nguy hiểm cho cả người bẫy chuột và người đi làm vườn, làm đồng vô ý chạm vào sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng. Không những thế, việc giăng bẫy điện bắt chuột còn vi phạm pháp luật. Giáo viên trình chiếu, giải thích cho học sinh: Nghị định 134/2013/NĐ-CP ngày 17/10/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện, sử dụng năng lựơng tiết kiệm và hiệu quả, tại điểm đ, khoản 4, điều 15 có quy định hành vi “Sử dụng điện để bẫy đánh bắt động vật hoặc làm phương tiện bảo vệ trực tiếp trái quy định của pháp luật” sẽ bị phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng”. Tại điều 98 của Bộ luật hình sự hành vi còn bị đưa vào tội vô ý làm chết người có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm phạm tội làm chết nhiều người thì bị phạt từ 3 đến 10 năm. Giáo viên hỏi: Ở địa phương em có những việc làm mất an toàn điện, em phải làm gì? Học sinh tích hợp môn Địa lý 9 – Bài 6: Sự phát triển nền kinh tế Việt Nam, trả lời: Em được biết: Trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước đã đạt được nhiều thành tựu tạo đà thuận lợi trong những năm tới. Khi sử dụng điện an toàn, hợp lí chúng ta sẽ không phải tốn tiền chi phí sửa chữa hệ thống truyền tải điện, thiết bị điện, chi phí chữa các bệnh về tai nạn điện-> góp phần vào công cuộc đổi mới kinh tế đất nước. Học sinh tích hợp môn Giáo dục công dân 9 – Bài 11: Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp
35
hóa – Hiện đại hóa đất nước, trả lời: Em phải rèn luyện phẩm chất tốt, ra sức học tập tốt, chiếm lĩnh đỉnh cao văn hóa – khoa học, tham gia tốt các hoạt động tập thể và xã hội, em đem sự hiểu biết của mình tuyên truyền cho mọi người trong khu dân cư, sự nguy hiểm của những việc làm đó, mọi người cùng thực hiện “An toàn điện là bảo vệ chính mình”. Hoạt động 3: Tìm hiểu một số biện pháp an toàn điện( 17 phút) GV giải thích: Đảm bảo an toàn điện là nguyên tắc cần phải tuân thủ mỗi khi sử dụng hoặc chữa điện. Việc tuân thủ những nguyên tắc này sẽ giúp các em hình thành thói quen an toàn trong cuộc sống và sản xuất. Tích hợp kiến thức môn Vật lý 7 – bài 29: Em hãy nhắc lại quy tắc an toàn khi sử dụng điện? HS tích hợp kiến thức môn Vật lý 7 – bài 29 trả lời: – Chỉ làm thí nghiệm với các nguồn điện có hiệu điện thế dưới 40V – Phải sử dụng các dây dẫn có vỏ bọc cách điện – Không được tự mình chạm vào mạng điện dân dụng và các thiết bị điện nếu chưa biết rõ cách xử lý. *Hình thức tổ chức học tập: Cặp đôi. – Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh, kết hợp thông tin sách giáo khoa (Tích hợp kiến thức môn Vật lý 9 – Bài 19: Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện, Môn Công nghệ 8 – Bài 34: Thực hành dụng cụ bảo vệ an toàn điện, Môn Công nghệ lớp 9 – Bài 1: An toàn lao động trong nghề điện dân dụng, Bài 12: Kiểm tra an toàn mạng điện trong nhà), vốn hiểu biết của mình, thảo luận và trả lời câu hỏi theo phiếu học
II. Một số biện pháp an toàn điện
36
tập ( phụ lục 2) H33.4. Một số nguyên tắc an toàn khi sử dụng điện Hình a Hình b Hình c Hình d Hình e Hình g Hình 33.5. Một số dụng cụ an toàn điện.
37
– Bước 2: Học sinh thảo luận và điền thông tin vào phiếu học tập theo cặp. – Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh báo cáo, các cặp khác nhận xét bổ xung. Giáo viên cung cấp thông tin phản hồi. – Bước 4: Đánh giá kết quả Giáo viên nhận xét; đánh giá về thái độ quá trình làm việc và kết quả hoạt động của nhóm; tinh thần hợp tác của nhóm. Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 33.4, em hãy điền chữ a, b, c, vào chỗ trống (….) cho đúng -Thực hiện tốt cách điện dây dẫn điện (h.33.4…) – Kiểm tra cách điện của đồ dùng điện (h.33.4…) – Thực hiện nối đất các thiết bị, đồ dùng điện (h.33.4…) – Không vi phạm khoảng cách an toàn đối với lưới điện cao áp và trạm biến áp (h.33.4…) Khi sử dụng và sửa chữa điện cần thực hiện những nguyên tắc an toàn điện gì? Học sinh trả lời, học sinh khác nhận xét, giáo viên chốt kiến thức:
1. Thực hiện nguyên tắc an toàn điện khi sử dụng điện. 2. Thực hiện một số nguyên tắc an toàn trong khi sửa chữa điện. – Cắt nguồn điện + Rút phích cắm điện + Rút cầu chì + Cắt cầu dao
38
Em hãy liên hệ ở gia đình và trường học em đã thực hiện nguyên tắc an toàn khi sử dụng và sửa chữa điện? Học sinh trả lời: Khi sử dụng xong thì phải cắt nguồn điện. Nếu sử dụng qua đêm thì phải có biển cảnh báo nguy hiểm, tuyệt đối không sử dụng điện vào mục đích mà pháp luật cấm như: Bẫy chuột, đánh bắt cá bằng sạc điện, chống trộm,… Khi phát hiện người bị điện giật, nếu là mạch điện cao áp, dây tải điện bị đứt, cây cối đổ vào đường dây, tram điện bị ngập nước, cần báo ngay cho Công ty điện lực Hà Nam( Tổng đài chăm sóc khách hàng 19006769) đơn vị quản lý, phải nhanh chóng cách ly nguồn điện bằng dụng cụ cách điện, áp dụng biện pháp cứu chữa như: Hô hấp nhân tạo, đưa ngay người bị nạn đến cơ sở cấp cứu gần nhất để hạn chế thương tích cho nạn nhân, nhất là người bị bỏng do
– Sử dụng các dụng cụ bảo vệ an toàn điện cho mỗi công việc trong khi sửa chữa để tránh bị điện giật và tai nạn khác + Sử dụng vật lót cách điện + Sử dụng các dụng cụ lao động cách điện + Sử dụng các dụng cụ kiểm tra.
39
điện.(Tích hợp kiến thức môn Công nghệ 8 – Bài 35: Cứu người bị tai nạn điện) Giáo viên áp dụng kỹ thuật dạy học Trình bày một phút: Yêu cầu học sinh suy nghĩ trả lời các câu hỏi: Ghi lại những gì em biết về “Sử dụng An toàn điện ở địa phương”. Sau đó viết ra những câu hỏi ngắn cho những điều em muốn biết. Khi hoàn thành bài học, hãy ghi lại những gì em đã học được và hành động em sẽ làm sau bài học? Mỗi học sinh trình bày trước lớp trong thời gian một phút về những điều em đã học và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tìm hiểu thêm. Giáo viên giới thiệu một số biển báo an toàn điện (TCVN 2572-78): Học sinh đọc các biển báo, nhận xét các biển báo có điện không được đến gần.
40
Giáo viên đưa ra một số thiết bị điện: cầu chì, aptomat, cầu dao chống rò rỉ điện có bộ phận chống giật bảo vệ mạch điện. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu hiểu biết của mình về các thiết bị bảo vệ này. Giáo viên giải thích thêm về cầu dao chống rò rỉ điện có bộ phận chống giật(Loại cầu dao này không giống như những loại cầu dao thông thường, nó có chức năng phát hiện và tự động ngắt ngay khi có hiện tượng rò điện). Mỗi gia đình cần có bút thử điện để kiểm tra an toàn mạng điện hoặc đồ dùng điện có bị rò điện ra vỏ hay không, bình chữa cháy mini phòng chống cháy nổ. Ngoài ra cần tìm hiểu thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng để có thể sử dụng đúng cách các thiết bị điện trong gia đình, sẽ cùng chung tay với ngành điện thực hiện sử dụng điện “Đúng lúc – Đúng chỗ – Đúng cách – Đúng nhu cầu”, vì sự phát triển bền vững của đất nước.
4. Củng cố ( 5 phút) – Giáo viên cho học sinh xem vi deo Hướng dẫn an toàn sử dụng điện. Em có suy nghĩ gì khi xem đoạn video trên? Học sinh nêu suy nghĩ của mình. Giáo viên nhận xét: Khi xem đoạn video trên, các em hiểu được mục đích và ý nghĩa của việc biết cách sử dụng điện an toàn, hiệu quả. Đó là tiền đề quan trọng trong việc thay đổi nhận thức, thói quen sử dụng điện tới tất cả các bạn học sinh, từ đó lan tỏa ra cộng đồng giúp mọi người nhận thức được mối nguy hiểm về điện “Sử dụng điện an toàn – Hành động văn minh”. – Giáo viên yêu cầu học sinh đọc phần ghi nhớ sách giáo khoa. 41 – Giáo viên cho học sinh nghe ca khúc “Điều đó tùy thuộc hành động của bạn” nhạc và lời Vũ Kim Dung. “Tổ quốc Việt Nam xanh ngát Có sạch đẹp mãi được không Điều đó tùy thuộc hành động của bạn Chỉ thuộc vào bạn mà thôi Điều đó tùy thuộc hành động của bạn Chỉ thuộc vào bạn mà thôi” Em hãy nêu cảm nhận của em qua ca khúc trên? Học sinh nêu cảm nhận. Giáo viên nhận xét.
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Trong những năm gần đây, thuật ngữ “Giáo dục STEM”, “Dạy học vận dụng giáo dục STEM” không còn xa lạ đối với các nhà giáo dục nói chung và giáo viên (GV) phổ thông nói riêng, đặc biệt là đội ngũ GV dạy các môn học thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên. Là một trong sáu điểm mới của Chương trình GDPT 2018 (theo Tài liệu tập huấn GV phổ thông cốt cán Mô đun 1 của Bộ GD&ĐT, 10/2019), giáo dục STEM đã từng bước được vận dụng vào quá trình dạy – học ở các mức độ khác nhau. Công văn số 3089/BGDĐT-GDTrH V/v triển khai thực hiện giáo dục STEM trong giáo dục trung học ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Bộ GD&ĐT cũng nhấn mạnh: “Dạy học các môn khoa học theo bài học STEM là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà trường trung học. GV thiết kế các bài học STEM để triển khai trong quá trình dạy học các môn học thuộc chương trình GDPT theo hướng tiếp cận tích hợp nội môn hoặc tích hợp liên môn”. Tuy nhiên qua thực tế tìm hiểu, nghiên cứu về thực tiễn dạy học vận dụng giáo dục STEM ở một số trường trung học cơ sở (THCS) trên địa bàn tỉnh Nam Định cũng như tiến hành bồi dưỡng GV THCS về dạy học định hướng giáo dục STEM ở tỉnh Hưng Yên; qua tiếp xúc trao đổi với nhiều nhà giáo trong các đợt tham gia hội thảo quốc gia, quốc tế về STEM và giáo dục STEM; chúng tôi nhận thấy một bộ phận không nhỏ GV phổ thông còn chưa hiểu rõ về giáo dục STEM nên gặp rất nhiều khó khăn khi vận dụng mô hình này vào quá trình dạy học, hoặc vận dụng không đúng với tiêu chí của bài học STEM; do đó đội ngũ cán bộ quản lý và GV của nhiều trường THCS đã bày tỏ nhu cầu được tập huấn, dự giờ và trao đổi kinh nghiệm về việc thiết kế và tổ chức một bài học STEM cụ thể, từ đó giúp họ có thể hiểu đúng và thiết kế được các chủ đề dạy học theo sát các tiêu chí của bài học STEM đối với các môn học thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên hiện hành, cũng như chuẩn bị cho dạy học môn Khoa học tự nhiên theo Chương trình GDPT mới. 4
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu: “Thiết kế và tổ chức dạy học chủ đề Tiệc sinh nhật diệu kỳ theo định hướng giáo dục STEM ở môn Khoa học Tự nhiên lớp 8” nhằm hỗ trợ các GV THCS và những người quan tâm tới nghiên cứu này trong việc vận dụng giáo dục STEM vào dạy học.
Phần II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Chương trình GDPT 2018 với mục tiêu giáo dục được chuyển đổi từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận phẩm chất, năng lực người học đã đề ra yêu cầu đổi mới không chỉ nội dung giáo dục mà còn nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng: Áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó. Ở cấp THCS, môn Khoa học tự nhiên được tích hợp từ các phân môn của chương trình giáo dục THCS hiện hành: Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất, thể hiện rõ quan điểm đổi mới giáo dục theo định hướng: Cơ bản, thiết thực, hiện đại, hài hòa đức – trí – thể – mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống, tích hợp cao ở các lớp học dưới. Giáo dục STEM với mục tiêu giúp người học áp dụng những kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, qua đó phát triển năng lực người học, trở nên rất phù hợp với chương trình GDPT mới. Để chuẩn bị cho việc triển khai dạy học theo chương trình GDPT mới, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo và hướng dẫn các cơ sở giáo dục phổ thông trên cả nước thực hiện nhiệm vụ trọng tâm theo lộ trình từng năm học, trong đó Công văn số 3089/BGDĐT-GDTrH ban hành tháng 8/2020 nêu rõ yêu cầu đẩy mạnh việc triển khai thực hiện giáo dục STEM đối với các trường trung học ở mức độ vận dụng vào dạy học môn học. Điều đó đặt mỗi giáo viên nói chung và giáo viên 5 THCS nói riêng trước nhiệm vụ phải biết cách vận dụng giáo dục STEM vào việc xây dựng chủ đề bài học theo môn học và tổ chức dạy học với chủ đề đó. Tuy nhiên từ quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi nhận thấy dù đã được tập huấn về giáo dục STEM nhưng khi bắt tay áp dụng vào thiết kế và tổ chức dạy học một chủ đề cụ thể trong môn học, không ít giáo viên còn gặp rất nhiều khó khăn và có nhiều khúc mắc muốn được giải đáp. Nhiều giờ dạy của giáo viên ở các trường THCS chúng tôi tham dự còn thể hiện những quan niệm chưa đúng về bản chất của giáo dục STEM, trong đó phổ biến là: – Bài học nhất thiết phải hướng tới việc tạo ra một sản phẩm vật chất theo yêu cầu cho trước, thậm chí là sản phẩm đồng nhất giữa các nhóm HS. – Sản phẩm phải được hoàn thiện ngay trong buổi học. – Mục tiêu của bài học là làm được sản phẩm, việc đánh giá chủ yếu là thông qua sản phẩm cuối cùng chứ không phải quá trình đi tới cái đích cần đạt. Từ đó dẫn tới hệ quả: – Các chủ đề bài học đều được xây dựng theo Quy trình kỹ thuật (sử dụng kiến thức vào việc thiết kế và thực hiện giải pháp). – GV thường can thiệp vào quá trình HS chế tạo sản phẩm vì lo lắng các em không biết cách tự làm, không làm đúng theo yêu cầu GV đưa ra, không kịp hoàn thiện sản phẩm trong buổi học… – Nếu sản phẩm không hoàn thiện → giờ dạy không đạt yêu cầu → phải có sự hướng dẫn trước cho HS để bài dạy tròn trịa, HS không sai sót, tuân thủ theo đúng kịch bản GV đề ra. Như vậy, từ hệ thống kiến thức lý thuyết được trang bị về giáo dục STEM, dạy học vận dụng giáo dục STEM tới việc áp dụng vào xây dựng một chủ đề dạy học cụ thể vẫn còn là bước trở ngại với hầu hết giáo viên các trường THCS mà chúng tôi tiếp cận. Từ đó chúng tôi nhận thấy cần có sự phối kết hợp giữa giảng viên trường CĐSP Nam Định (với vai trò đã tham gia nghiên cứu, biên soạn, thực nghiệm, tập huấn, bồi dưỡng giáo viên, tổng kết thành các báo cáo khoa học trao đổi trong các Hội thảo, hội nghị các cấp về giáo dục STEM) với các nhà trường phổ thông trong việc triển khai dạy thực nghiệm, tập huấn 6 cho đội ngũ GV để hỗ trợ họ hiểu và vận dụng tốt giáo dục STEM vào dạy học môn học theo yêu cầu đặt ra của chương trình GDPT mới. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Một số vấn đề cơ bản về giáo dục STEM và dạy học vận dụng giáo dục STEM trong môn Khoa học tự nhiên của Chương trình GDPT 2018 * STEM là thuật ngữ viết tắt của các từ Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học), thường được sử dụng khi bàn đến các chính sách phát triển về Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học của mỗi quốc gia. Sự phát triển về Khoa học, Công nghệ, Kĩ thuật và Toán học được mô tả bởi chu trình STEM, trong đó Science là quy trình sáng tạo ra kiến thức khoa học; Engineering là quy trình sử dụng kiến thức khoa học để thiết kế công nghệ mới nhằm giải quyết các vấn đề; Toán là công cụ được sử dụng để thu nhận kết quả và chia sẻ kết quả đó với những người khác. * Giáo dục STEM là mô hình giáo dục dựa trên cách tiếp cận liên môn, giúp HS áp dụng các kiến thức khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh cụ thể. (Bộ GD&ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông, Chương trình tổng thể). Mỗi bài học STEM sẽ đề cập và giao cho HS giải quyết một vấn đề tương đối trọn vẹn, đòi hỏi HS phải huy động kiến thức đã có và tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức mới để sử dụng. Quá trình đó đòi hỏi HS phải thực hiện theo “Quy trình khoa học” (để chiếm lĩnh kiến thức mới) và “Quy trình kĩ thuật” để sử dụng kiến thức đó vào việc thiết kế và thực hiện giải pháp (“công nghệ” mới) để giải quyết vấn đề. Đây chính là sự tiếp cận liên môn trong giáo dục STEM, dù cho kiến thức mới mà HS cần phải học để sử dụng trong một bài học STEM cụ thể có thể chỉ thuộc một môn học. Các mức độ áp dụng giáo dục STEM trong GDPT: – Dạy học các môn khoa học theo chủ đề STEM – Tổ chức các hoạt động trải nghiệm STEM – Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, kỹ thuật 7 Trong đó, dạy học các môn khoa học theo chủ đề STEM đã được Bộ GD&ĐT nhấn mạnh là hình thức tổ chức giáo dục STEM chủ yếu trong nhà trường. Các bài học, các hoạt động giáo dục STEM được triển khai ngay trong quá trình dạy học các môn học STEM theo hướng tiếp cận liên môn và bám sát chương trình của môn học thành phần. Hình thức giáo dục STEM này không làm phát sinh thêm thời gian học tập. Mỗi bài học STEM cần phải được xây dựng theo 6 tiêu chí sau: – Tiêu chí 1: Chủ đề STEM tập trung vào các vấn đề của thực tiễn – Tiêu chí 2: Cấu trúc chủ đề STEM theo quy trình thiết kế kĩ thuật – Tiêu chí 3: Phương pháp dạy học chủ đề STEM đưa HS vào hoạt động tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm. – Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức chủ đề STEM lôi cuốn HS vào hoạt động nhóm kiến tạo. – Tiêu chí 5: Nội dung chủ đề STEM áp dụng chủ yếu từ nội dung khoa học và toán mà HS đã và đang học. – Tiêu chí 6: Tiến trình chủ đề STEM tính đến có nhiều đáp án đúng và coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập. * Một trong những điểm mới ở cấp THCS của Chương trình GDPT 2018 là tích hợp các môn: Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất thành môn Khoa học tự nhiên; dựa trên nền tảng Khoa học tự nhiên là một lĩnh vực thống nhất và ở cấp THCS, HS cần được trang bị các năng lực nhận thức, vận dụng thực tiễn dựa trên sự thống nhất đó. Chương trình GDPT 2018 chỉ rõ nền tảng vận dụng giáo dục STEM cụ thể trong từng phân môn của môn Khoa học tự nhiên. Cụ thể với môn Hóa học là: Các kiến thức trong Hóa học đều có mối quan hệ hữu cơ với các môn học khác như: Toán học, Vật lý, Sinh học. Ví dụ: Cấu tạo nguyên tử, phương trình hóa học, điều chế, thu khí, tính chất vật lý của các chất… có mối quan hệ đến kiến thức Toán học, Vật lý; các kiến thức về quang hợp, hô hấp, acid, lipit, gluxit, protein… gắn liền với kiến thức Sinh học. Do đó, việc dạy học Hóa học bằng phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn là cần thiết. 8 Bên cạnh đó, các kiến thức về phân bón hóa học, ứng dụng của các chất… đều gắn kết với công nghệ; các bài học có tích hợp giáo dục môi trường như chống ô nhiễm môi trường nước, hiệu ứng nhà kính, mưa acid, dầu mỏ, nhiên liệu… đều liên quan đến việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, kinh tế – xã hội. Thông qua mô hình STEM, HS được học Hóa học trong một chỉnh thể có tích hợp với Toán học, Công nghệ, Kỹ thuật và các môn khoa học khác; không những thế HS còn được trải nghiệm, được tương tác với xã hội, với các doanh nghiệp. Từ đó kích thích được hứng thú, tự tin, chủ động trong học tập của HS; hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù học tập; tạo ra sản phẩm giáo dục đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực hiện đại. 2.1.2. Thực trạng nhận thức của GV về giáo dục STEM và dạy học các môn học thuộc lĩnh vực STEM ở một số trường THCS tại thành phố Nam Định Để tìm hiểu nhận thức về giáo dục STEM của GV THCS và thực tiễn vận dụng giáo dục STEM trong dạy học ở THCS, chúng tôi đã sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra nhanh kết hợp phỏng vấn trực tiếp các cán bộ quản lí và GV tại một số trường THCS ở thành phố Nam Định. Thời gian điều tra từ tháng 3/2019 đến tháng 11/2019. Kết quả điều tra cho thấy: – Các GV đều đã được tập huấn, tìm hiểu về STEM nhưng chưa hiểu rõ bản chất, mức độ áp dụng, quy trình xây dựng và tổ chức dạy học STEM. Vẫn có GV cho rằng STEM là phải tạo ra được sản phẩm tái chế hoặc thiết kế robot, lập trình. Vì vậy, dù một số GV khá hứng thú và mong muốn được thử nghiệm dạy học STEM trong môn học song vẫn lúng túng chưa biết cần biên soạn, tổ chức bài học STEM như thế nào cho đúng chuẩn. – Nhiều GV dù đã thấy được vai trò, ý nghĩa của giáo dục STEM trong nhà trường song vẫn cho rằng việc vận dụng giáo dục STEM vào dạy học bộ môn trong chương trình là không khả thi do phải đòi hỏi nhiều điều kiện đi kèm như cơ sở vật chất hiện đại, chỉ tổ chức được cho nhóm nhỏ HS và là HS khá giỏi, cần nhiều thời gian tiến hành và chuẩn bị công phu, chưa đồng bộ với việc đánh giá trong các kì thi. 9 – Đặc biệt, do chưa được tập huấn đầy đủ, chi tiết về STEM và thực nghiệm cách thức biên soạn, tổ chức bài học STEM nên GV vẫn còn một số ngộ nhận chưa đúng về giáo dục STEM. Từ các kết luận rút ra, với vai trò là các giảng viên Hóa học, Sinh học của trường CĐSP Nam Định, chúng tôi nhận thấy việc thiết kế và tổ chức dạy thực nghiệm chủ đề định hướng giáo dục STEM theo môn Khoa học tự nhiên nói chung và Hóa học nói riêng ở trường THCS rất cần thiết trong việc hỗ trợ GV nhận thức đủ, đúng về giáo dục STEM và có thể vận dụng trong dạy học môn học hiện hành cũng như môn Khoa học tự nhiên theo Chương trình mới. 2.2. Đề xuất giải pháp thực hiện 2.2.1. Thiết kế chủ đề dạy học “Tiệc sinh nhật diệu kỳ” theo mô hình dạy học STEM a. Quy trình thiết kế chủ đề Hiện nay, có rất nhiều tài liệu tham khảo đề xuất các bước xây dựng chủ đề giáo dục STEM và các chủ đề giáo dục STEM minh họa như tài liệu [1], [2], [3], [6]… Bằng việc tham khảo các tài liệu và thực tế vận dụng, thực nghiệm tại một số trường THCS trên địa bàn tỉnh Nam Định, chúng tôi đã tiến hành xây dựng các chủ đề STEM trong môn KHTN theo quy trình các bước như sau: Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học Việc lựa chọn chủ đề bài học cần xác định các yếu tố sau: Đối tượng: Chủ đề được xây dựng cần đảm bảo phù hợp với đối tượng người học và theo sát nội dung, chương trình môn học. Thời gian: Cần bố trí phù hợp với điều kiện thực tiễn (tránh thời điểm HS thi hoặc nhà trường có nhiều hoạt động khác; thời lượng phù hợp theo tiết học hoạc theo buổi, theo tuần…) Địa điểm: Có thể tổ chức trong giờ học chính khóa (tại lớp học, các phòng thực hành thí nghiệm, phòng STEM… của nhà trường) hoặc ngoại khóa (tại các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các trường đào tạo nghề). Ngoài ra chủ đề lựa chọn cần dựa trên các căn cứ về: – Các năng lực cần đạt; 10 – Nội dung kiến thức trong chương trình môn học và các hiện tượng, quá trình gắn với các kiến thức đó trong tự nhiên; – Quy trình hoặc thiết bị công nghệ có sử dụng kiến thức đó trong thực tiễn… phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường. Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết Dựa trên chủ đề bài học đã chọn, GV xác định vấn đề cần giải quyết để giao cho HS thực hiện. HS phải được trang bị những kiến thức, kĩ năng trong chương trình môn học đã được lựa chọn hoặc vận dụng kiến thức, kĩ năng đã biết để xây dựng bài học. Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/ giải pháp giải quyết vấn đề Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết hoặc sản phẩm cần chế tạo, cần xác định rõ tiêu chí của giải pháp hoặc sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng để đề xuất giả thuyết khoa học hoặc giải pháp giải quyết vấn đề/thiết kế mẫu sản phẩm. Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học có thể được thiết kế theo quy trình 5E (hoặc mở rộng lên 6E, 7E). Với mô hình dạy học 5E (là mô hình được chúng tôi áp dụng với chủ đề đã nghiên cứu) có 5 giai đoạn với những đặc điểm chính như sau: – Engagement (Gắn kết): Trong giai đoạn đầu của chu kỳ học tập, GV tìm hiểu nhanh về các kiến thức sẵn có của HS và xác định bất kỳ khoảng trống kiến thức nào liên quan đến chủ đề bài học. Điều quan trọng là khuyến khích HS quan tâm đến các khái niệm sắp tới để HS có thể sẵn sàng tìm hiểu. GV có thể gợi ý HS đặt câu hỏi mở hoặc ghi lại những gì họ đã biết về chủ đề. Thông qua các hoạt động đa dạng, GV thu hút sự chú ý và quan tâm của HS, tạo không khí trong lớp học, HS cảm thấy có sự liên hệ và kết nối với những kiến thức hoặc trải nghiệm trước đó. Giai đoạn này cho phép HS gắn kết, liên hệ lại với các trải nghiệm và quan sát thực tế mà các em đã có. Trong bước này, các khái niệm mới cũng sẽ được giới thiệu cho các em. 11 Ví dụ: Cho các HS chơi trò chơi ô chữ, đoán hình, tổ chức trò chơi vận động, xem một trích đoạn phim ngắn hoặc nghe một bản nhạc có liên quan đến chủ đề bài học. – Khảo sát (Exploration): Trong giai đoạn này, HS chủ động khám phá các khái niệm mới thông qua các trải nghiệm học tập cụ thể. GV cung cấp những kiến thức hoặc những trải nghiệm mang tính cơ bản, nền tảng, dựa vào đó các kiến thức mới có thể được bắt đầu. HS sẽ trực tiếp khám phá và thao tác trên các vật liệu hoặc học cụ đã được chuẩn bị sẵn. GV có thể yêu cầu HS thực hiện các hoạt động như quan sát, làm thí nghiệm, thiết kế, thu số liệu. Ví dụ: Cho HS làm thí nghiệm với những vật liệu và dụng cụ có sẵn, HS làm theo hướng dẫn, hoặc HS được đi thực địa để khảo sát/quan sát về một chủ đề nào đó. – Giải thích (Explanation): Ở giai đoạn này, GV sẽ hướng dẫn HS tổng hợp kiến thức mới và đặt câu hỏi nếu họ cần làm rõ thêm. GV tạo điều kiện cho HS được trình bày, miêu tả, phân tích các trải nghiệm hoặc quan sát thu nhận được ở bước khảo sát. GV có thể giới thiệu các thuật ngữ mới, khái niệm mới, công thức mới, giúp HS kết nối và thấy được sự liên hệ với trải nghiệm trước đó. Để giai đoạn này hiệu quả, GV nên yêu cầu HS chia sẻ những gì các em đã học được trong giai đoạn khảo sát trước khi giới thiệu thông tin chi tiết một cách trực tiếp hơn. Ví dụ: GV hỏi các nhóm sau khi tiến hành thí nghiệm thấy có hiện tượng gì xảy ra hoặc thí nghiệm đó có thể trả lời được câu hỏi ban đầu không, hoặc GV có thể giới thiệu các công thức, khái niệm, sơ đồ mới để hệ thống hóa lại các kiến thức mà các HS đã khám phá ra ở bước trước đó. – Củng cố (Elaborate): Giai đoạn này tập trung vào việc tạo cho HS có được không gian áp dụng những gì đã học được. GV giúp HS thực hành và vận dụng các kiến thức đã học, giúp HS đào sâu hơn các hiểu biết, khéo léo hơn các kỹ năng, có thể áp dụng trong những tình huống và hoàn cảnh đa dạng khác nhau. Điều này giúp các kiến thức trở nên sâu sắc hơn. GV có thể yêu cầu HS trình bày chi tiết hoặc tiến hành khảo sát bổ sung để củng cố các kỹ năng mới. 12 Giai đoạn này cũng nhằm giúp HS củng cố kiến thức trước khi được đánh giá qua các bài kiểm tra. Ví dụ: GV ra bài tập tìm điểm giống và khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, chơi trò chơi thử thách giúp HS vận dụng ngay các kiến thức. – Đánh giá (Evaluation): Mô hình 5E cho phép đánh giá chính thức (dưới dạng các bài kiểm tra) và phi chính thức (dưới dạng những câu hỏi nhanh). GV có thể quan sát HS thông qua các hoạt động nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn để xem sự tương tác trong quá trình học. Cần lưu ý là HS tiếp cận các vấn đề theo một cách khác dựa trên những gì họ học được. Các yếu tố hữu ích khác của giai đoạn đánh giá bao gồm tự đánh giá, bài tập viết và bài tập trắc nghiệm, hoặc các sản phẩm. Ở đây, GV sẽ linh hoạt sử dụng các kỹ thuật đánh giá đa dạng để nhận biết quá trình nhận thức và khả năng của từng HS, từ đó đưa ra các phương hướng điều chỉnh và hỗ trợ HS phù hợp, giúp HS đạt được các mục tiêu học tập như đã đề ra. Ví dụ: GV có thể cho HS làm bài trắc nghiệm nhanh với các thẻ từ khoá hoặc bài viết tự luận. Hình 1: Mô hình 5E và mở rộng thành mô hình 7E theo Eisenkraft (2003) 13 b. Thiết kế chủ đề “Tiệc sinh nhật diệu kỳ” Bước 1: Lựa chọn chủ đề Chủ đề được biên soạn trong dạy học môn Hóa học lớp 8, tổ chức từ 45 – 60 phút tại lớp học. Chủ đề tập trung phát triển các năng lực: Năng lực nhận thức khoa học tự nhiên, năng lực tìm hiểu tự nhiên, năng lực thực hành, năng lực hợp tác. Chủ đề được thiết kế dựa trên 3 yêu cầu cần đạt của môn Khoa học Tự nhiên, thuộc chủ đề khoa học “Chất và sự biến đổi của chất”, nội dung “Chuyển hóa hóa học”, loại nội dung kiến thức “Khái niệm, thuyết và định luật Khoa học tự nhiên cơ bản”. Ngoài ra chủ đề cũng tích hợp các kiến thức Sinh học về tác động của enzim trong hệ tiêu hóa nhằm giúp HS hiểu sâu sắc hơn kiến thức về sự biến đổi hóa học, sinh học của chất trong những hoạt động thân thuộc xảy ra xung quanh cuộc sống mà cụ thể là trong bữa tiệc sinh nhật. Ngoài ra khi tham chiếu sang chương trình hiện hành, chủ đề cũng đáp ứng mục tiêu của môn Hóa học 8 (Bài 12- Sự biến đổi chất) và môn Sinh học 8 (Bài 25 – Tiêu hóa ở khoang miệng). * Bảng ma trận của chủ đề
Yêu cầu cần đạt
Thành phần NL KHTN
Phương pháp dạy học
KT dạy học
Nêu được khái niệm sự biến đổi vật lí và biến đổi hóa học
Nhận thức khoa học tự nhiên
– Dạy học giải quyết vấn đề – Dạy học trực quan: sử dụng mẫu vật thật, video – Vấn đáp: gợi mở, giải thích minh họa, tìm tòi – phát hiện
Tia chớp
Phân biệt được sự biến đổi vật lí, sự biến đổi hóa học Đưa ra được ví dụ về sự biến đổi vật lí, biến đổi hóa học
Nhận thức khoa học tự nhiên
– Dạy học giải quyết vấn đề – Dạy học trực quan: sử dụng mẫu vật thật – Vấn đáp: gợi mở, giải thích minh họa, tìm tòi – phát hiện
Tia chớp, công não
14
Tiến hành một số thí nghiệm về biến đổi vật lí, hóa học
Tìm hiểu tự nhiên
– Sử dụng thí nghiệm: làm thí nghiệm về sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa học – Vấn đáp gợi mở
Hỏi đáp
* Yếu tố STEM trong chủ đề – S (Khoa học): Các khái niệm hóa học: sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa học – T (Công nghệ): Sử dụng dao, kéo, ống nghiệm, đế sứ, đèn cồn, giá thí nghiệm, kẹp gỗ, bật lửa, giấy ghi nhãn, nến sinh nhật, bánh kem, bánh mỳ Balan, thìa inox, cốc nhựa, chai nước. – E (Kĩ thuật): Thao tác lấy chất, cô cạn, nung nóng chất – M (Toán học): Tính toán lượng chất làm thí nghiệm, thao tác thí nghiệm sao cho đạt được kết quả mong muốn. Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết Phân biệt được sự biến đổi vật lí (biến đổi về trạng thái, màu sắc, hình dạng) với sự biến đổi hóa học (biến đổi từ chất này thành chất khác) thông qua một bữa tiệc sinh nhật. Bước 3: Xác định tiêu chí của thiết bị/ giải pháp giải quyết vấn đề Sau khi xác định được vấn đề cần giải quyết GV sẽ thống nhất với HS tiêu chí đánh giá sản phẩm. Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức dạy học Chủ đề được thiết kế theo 5 hoạt động, có thể thực hiện ngay trên lớp học. Với HS lớp 8 do kĩ năng làm thí nghiệm chưa được thành thục nên khi xây dựng chủ đề GV cần lựa chọn kiến thức phù hợp với đối tượng HS. Tiến trình gồm chuỗi các hoạt động sau: Hoạt động 1: Xác định vấn đề, yêu cầu (Gắn kết) * Mục đích: HS xác định được nhiệm vụ cần phải hoàn thành là: xác định rõ sự biến đổi vật lí, sự biến đổi hóa học từ những hiện tượng biến đổi chất trong thực tế cuộc sống. 15 * Nội dung: – Tổ chức tiệc sinh nhật cho các bạn sinh vào tháng 11 (tháng dự kiến dạy học chủ đề) – Xác định vấn đề của bài học: Phân biệt được sự biến đổi vật lí và hóa học trong một số hiện tượng của thực tiễn đời sống. * Dự kiến sản phẩm của HS: Bản liệt kê các hoạt động xảy ra trong tiệc sinh nhật. * Cách thức tổ chức hoạt động: GV tổ chức tiệc sinh nhật cho các bạn trong lớp có sinh nhật vào tháng 11, phát nhạc bài hát Happy Birthday: https://tinyurl.com/y66dqfx6 – GV cùng cán bộ lớp chuẩn bị trước 1 chiếc bánh kem nhỏ, nến, diêm, dao/kéo cắt bánh, bánh mỳ (loại ít đường). Các HS sinh nhật trong tháng 11 lên thực hiện nghi thức sinh nhật như thắp nến, ước, cắt bánh, ăn bánh… – GV gợi vấn đề: Theo các em buổi học của chúng ta hôm nay có liên quan đến nội dung gì? – GV sử dụng kĩ thuật tia chớp, yêu cầu HS trong vòng 1 phút liệt kê tất cả các hoạt động xảy ra trong quá trình tổ chức tiệc sinh nhật, GV ghi nhanh ra bảng có chọn lọc 1 số hoạt động thể hiện rõ sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa học: đốt nến, cắt bánh, ăn bánh, bật lửa… – GV giới thiệu: Trong các hoạt động trên có xảy ra 2 loại biến đổi là biến đổi vật lí và biến đổi hóa học. Trong thực tế cuộc sống xung quanh ta cũng xảy ra rất nhiều 2 loại biến đổi này. Vậy: + Thế nào là sự biến đổi vật lí? + Thế nào là sự biến đổi hóa học? + Làm thế nào phân biệt được 2 sự biến đổi này trong bữa tiệc sinh nhật nói riêng và trong cuộc sống nói chung? 16 Hình 2: Tổ chức sinh nhật cho những HS có sinh nhật trong tháng 11 Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền và đề xuất vấn đề cần giải quyết (Khảo sát) * Mục đích: – HS hình thành được kiến thức nền: Khái niệm sự biến đổi vật lí, sự biến đổi hóa học, phân biệt được 2 khái niệm thông qua làm thí nghiệm nghiên cứu. – Rèn kĩ năng thực hành thí nghiệm * Nội dung: HS tìm hiểu về các kiến thức nền liên quan đến sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa học thông qua làm thí nghiệm nghiên cứu theo nhóm. * Dự kiến sản phẩm của HS: – Hoàn thành phiếu học tập 1, 2 – Tiêu chí đánh giá HS trên phần mềm Class Dojo * Cách thức tổ chức hoạt động: – GV chia nhóm HS làm thí nghiệm nghiên cứu về sự biến đổi vật lí và sự biến đổi hóa học trên phần mềm Class Dojo và thốn
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education